Professional Documents
Culture Documents
Chưng cất là quá trình dùng để tách các cấu tử của hỗn hợp lỏng cũng như hỗn
hợp khí lỏng thành các cấu tử riêng biệt dựa vào độ bay hơi khác nhau của các cấu
tử trong hỗn hợp ( nghĩa là khi ở cùng nhiệt độ, áp suất hơi bão hoà của các cấu tử
khác nhau) bằng cách lặp lại nhiều lần quá trình bay hơi – ngưng tụ.
Khi chưng cất ta thu được nhiều cấu tử và thường thì bao nhiêu cấu tử sẽ thu được
bấy nhiêu sản phẩm.
Trong hệ đơn giản chỉ có 2 cấu tử, ta thu được 2 sản phẩm : Sản phẩm đỉnh chủ
yếu gồm cấu tử có độ bay hơi lớn (nhiệt độ sôi thấp) Sản phẩm đáy chủ yếu gồm
cấu tử có độ bay hơi nhỏ (nhiệt độ sôi cao). Đối với hệ cloroforme –
tetrachloromethane. Sản phẩm đỉnh chủ yếu gồm cloroforme và một ít
tetrachloromethane.Sản phẩm đáy chủ yếu là tetrachloromethane và một ít
cloroforme.
1.2. Phương pháp chưng cất : Trong thực tế thường sử dụng các phương pháp
chưng cất sau đây:
- Chưng cất đơn giản : Được sử dụng trong các trường hợp sau: khi nhiệt độ sôi
của các cấu tử khác xa nhau, không đòi hỏi sản phẩm có độ tinh khiết cao, tách
hỗn hợp lỏng ra khỏi tạp chất không bay hơi, tách sơ bộ hỗn hợp nhiều cấu tử.
- Chưng cất phân đoạn: Dùng để tách các chất bay hơi ra khỏi một hỗn hợp dựa
vào sự chênh lệch nhiệt độ sôi không nhiều của các chất trong hỗn hợp. Sự
phân tách các cấu tử trải qua nhiều lần bay hơi ngưng tụ theo nhiệt độ của từng
tỉ lệ thành phần của các cấu tử trong hỗn hợp.
- Chưng bằng hơi nước trực tiếp: Dùng để tách các hỗn hợp gồm các chất khó
bay hơi và tạp chất không bay hơi, thường được ứng dụng trong trường hợp
chất được tách không tan vào nước. Ưu điểm của phương pháp này là hạ được
nhiệt độ sôi của chất ( do sử dụng hơi nước) và sản phẩm ít bị biến tính.
- Chưng cất lôi cuốn theo hơi nước: Dựa trên sự khuếch tán và lôi cuốn theo hơi
nước của những hợp chất hữu cơ khi tiếp xúc với hơi nước ở nhiệt độ cao. Hơi
quá nhiệt sẽ đi trực tiếp vào trong nguyên liệu và lôi cuốn tinh dầu trong
nguyên liệu đi theo. Phương pháp chưng cất này cần nồi hơi riêng hoặc bộ
phận hóa hơi riêng nên tốn kém chi phí.
1.3. Nguyên tắc làm việc
- Pha lỏng đi từ trên xuống theo các cạnh của đĩa hay theo ống chảy chuyền (tùy
thuộc vào loại đĩa) có nồng độ cấu tử dễ ngưng tụ tăng dần.
- Pha khí đi từ dưới lên qua các lỗ của đĩa có nồng độ cấu tử dễ bay hơi tăng
dần.
- Trên mỗi đĩa sẽ xảy ra các quá trình truyền nhiệt và truyền khối: Pha lỏng đi từ
trên xuống trao đổi nhiệt với pha hơi đi từ dưới lên. Cấu tử dễ bay hơi di
chuyển từ pha lỏng sang pha hơi đi lên trên. Cấu tử dễ ngưng tụ di chuyển từ
pha hơi sang pha lỏng chảy xuống dưới. Quá trình bay hơi, ngưng tụ lặp lại
nhiều lần. Sản phẩm đỉnh thu được từ cấu tử dễ bay hơi với độ tinh khiết nhất
có thể và tương tự ở đáy tháp ta thu được cấu tử khó bay hơi tinh khiết nhất có
thể.
- Nồng độ các cấu tử thay đổi theo chiều cao của tháp, nhiệt độ sôi cũng thay đổi
tương ứng với sự thay đổi nồng độ.
1.4. Các loại thiết bị chưng cất
Trong sản xuất thường sử dụng rất nhiều loại tháp nhưng chúng đều có một yêu
cầu chung cơ bản là diện tích bề mặt tiếp xúc pha phải lớn, điều này phụ thuộc vào
độ phân tán của lưu chất này vào lưu chất kia.
Tháp chưng cất rất phong phú về kích cỡ và ứng dụng, các tháp lớn nhất thường
được sử dụng trong công nghiệp lọc dầu.
Kích thước, đường kính và chiều cao tháp tùy thuộc suất lượng pha lỏng, pha hơi
đi vào trong tháp và độ tinh khiết của sản phẩm. Trong công nghiệp hóa chất nói
chung người ta sử dụng hai loại tháp chưng cất là tháp mâm và tháp đệm (tháp
chêm).
Tháp mâm: thân tháp hình trụ, thẳng đứng, phía trong gắn các mâm có
cấu tạo khác nhau để chia thân tháp thành những đoạn bằng nhau, pha
lỏng và pha hơi tiếp xúc với nhau trên bề mặt mâm và tại đây xảy ra quá
trình truyền khối, tùy theo cấu tạo của mâm ta có:
o Tháp mâm chóp: trên mâm bố trí các chóp dạng tròn, xupap...
o Tháp mâm xuyên lỗ: trên mâm có nhiều lỗ hay rãnh
Tháp đệm (tháp chêm): thân hình trụ, gồm nhiều bậc nối với nhau
bằng mặt bích hay hàn. Vật đệm được cho vào tháp bằng một trong hai
phương pháp sau: xếp ngẫu nhiên hay được sắp xếp một cách thứ tự, vật
đệm có cấu tạo đa dạng: đệm vòng rasiga, đệm hình yên ngựa, đệm
vòng sứ...
Bảng 1.1 Bảng so sánh ưu nhược điểm của các thiết bị chưng cất
Nhận xét: Qua phân tích trên,, ta sử dụng tháp mâm chóp để chưng cất hệ
cloroforme – tetrachloromethane vì tháp mâm chóp thích hợp cho thiết bị hoạt
động dài lâu và độ ổn định cao.
Clorofom, hay còn gọi là tricloromethan và methyl trichcloride, và một hợp chất
hoá học thuộc nhóm trihalomethan có công thức CHCl3. Nó không cháy trong
không khí, trừ khi tạo thành hỗn hợp với các chất dễ bắt cháy hơn. Người ta sử
dụng clorofom làm chất phản ứng và dung môi. Clorofom còn là một chất độc với
môi trường.
- Tỷ trọng : 1,48g/cm3
b) Ứng dụng
Ngày nay ứng dụng chính của Chloroform là làm dung môi. Nhờ đặc tính trơ, ít
phản ứng trộn hợp với hầu hết các chất lỏng hữu cơ và dễ dàng bay hơi, nên
Chloroform được dùng làm dung môi để giúp sản xuất thuốc nhuộm và thuốc trừ
sâu.
2.2. Tetrachloromethane:
Tetrahloromethane hay tetraclorua cacbon là một hợp chất hóa học có công thức
hóa học CCl4. Người ta sử dụng chủ yếu hợp chất này làm chất phản ứng trong
tổng
hợp hữu cơ. Trước đây nó còn làm chất dập lửa và làm chất làm lạnh. Đây là một
chất lỏng không màu có mùi "thơm".Theo danh pháp IUPAC, hợp chất này có hai
tên gồm cacbon tetraclorua và tetraclomêtan. Người ta còn gọi nó một cách thông
- Tỷ trọng: 1,58g/cm3(lỏng)
b) Ứng dụng
Nó được dùng làm dung môi trong nghiên cứu hóa tổng hợp, nhưng do các tác
động xấu tới sức khỏe nên nó không còn được sử dụng rộng rãi nữa và các nhà hóa
học nói chung cố gắng thay thế nó bằng các dung môi khác. Đôi khi nó hữu ích để
làm dung môi cho phổ hồng ngoại học do không có các dải hấp thụ đáng kể (>
1.600 cm−1). Do carbon tetrachloride không chứa bất kỳ nguyên tử hydro nào, nên
trong quá khứ nó được dùng trong phổ NMR proton. Tuy nhiên, carbon
tetrachloride là độc hại và khả năng hòa tan của nó là thấp. Nó đã bị thay thế phần
lớn bởi các dung môi đơteri hóa, thường là có các thuộc tính hòa tan tốt hơn và
cho phép phổ kế giữ đơteri.
Bảng 2.1 Thành phần cân bằng lỏng-hơi và nhiệt độ sôi của hỗn hợp
x (%
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
mol)
y(% 95.
0.0 13.5 26.5 39.5 52.0 63.5 72.5 81.0 88.5 100.0
mol) 0
61.
t (oC) 76.8 74.7 72.6 70.6 68.6 66.9 65.3 63.9 62.6 60.8
5
100
90
Thành phần cấu tử dễ bay hơi trong pha hơi, %
80
70
60
50
40
30
20
10
0
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
90
80
70
60
Nhiệt độ (oC)
50
40
30
20
10
0
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
Hình 2.2 Giản đồ tỷ lệ lỏng – hơi của hệ Clorofom – Tetrahloromethane theo nhiệt độ
CHƯƠNG 3: CÂN BẰNG VẬT CHẤT
Khi chưng luyện hỗn hợp Cloroform- Tetrahloromethane thì cấu tử dễ bay hơi là
Cloroform.
Kí hiệu:
F: suất lượng nhập liệu (kmol/h)
xF: phần mol nhập liệu (mol cloroform/mol hỗn hợp)
D: suất lượng sản phẩm đỉnh (kmol/h)
xD: phần mol đỉnh (mol Cloroform/mol hỗn hợp)
W: suất lượng sản phẩm đáy (kmol/h)
xW: phần mol đáy (mol Cloroform /mol hỗn hợp)
x F : Phân khối lượng cloroform trong dòng nhập liệu.
x D : Phân khối lượng cloroform trong sản phẩm đỉnh.
x W : Phân khối lượng cloroform trong sản phẩm đáy.
xF 0 ,3
MC 119 , 5
xF = = 0,3558 = 35,58% phân mol
x F 1− x F 0 , 3 1−0 , 3 =
+ +
M C MT 119 ,5 154
xD 0 , 95
MC 119 ,5
xD = = 0,9608 = 96,08% phân mol
x D 1− x D 0 , 95 1−0 , 95 =
+ +
MC MT 119 ,5 154
xW 0 , 02
MC 119 , 5
xW = = 0,0256 = 2,56% phân mol
xW 1− xW 0 , 02 1−0 , 02 =
+ +
MC MT 119 ,5 154
x F −x W 0 , 3−0 ,02
G D=G F . =4000. =1204,301 kg /h
x D−x W 0 , 95−0 ,02
G D 1204,301
D= = =9,965 kmol/h
M D 120,852
GW 2795,699
W= = =18,259 kmol /h
M W 153,117
Phương pháp xác định: Dựa vào đồ thị cân bằng lỏng hơi
¿
Trong đó: y F là nồng độ cấu tử dễ bay hơi trong pha hơi cân bằng với nồng độ
trong pha lỏng xF của hỗn hợp ban đầu.
Vậy
¿
x − y F 0,9608−0,465
Rmin = D¿ = =4,519
y F−x F 0,465−0,3558
Tỷ số hoàn lưu càng lớn thì lượng nhiệt được tiêu thụ ở đáy tháp càng nhiều, vì
phải làm bay hơi lượng hoàn lưu này. Mặt khác số đĩa lý thuyết của tháp giảm
cùng với sự tăng của chỉ số hoàn lưu. Nếu giảm tỷ số hoàn lưu thì sẽ làm tăng chi
phí chế tạo tháp mặc dù có giảm chi phí làm việc. Vì vậy, cần xác định giá trị thích
hợp của tỷ số hoàn lưu.
Để tính gần đúng ta lấy tỷ số hoàn lưu thích hợp theo công thức:
R = 1,3 Rmin +0 , 3
Trong đó bao gồm 26 mâm chưng, 10 mâm cất, mâm nhập liệu là mâm số 10
Số mâm thực tế tính theo hiệu suất trung bình: Ntt = Nlt/tb
Trong đó: Nt – số đĩa thực tế, Nlt - số đĩa lý thuyết, tb – hiệu suất trung bình
của thiết bị
Trong đó ni - hiệu suất của các bậc thay đổi nồng độ, n - số vị trí tính hiệu suất
n D +n F +nW
n tb =
3
Với n D n F nW - lần lượt là hiệu suất ở đĩa trên cùng, hiệu suất ở đĩa nhập liệu và
hiệu suất ở đĩa dưới cùng