You are on page 1of 21

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ VÀ NHÂN VĂN

TIỂU LUẬN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI: “LÝ LUẬN VỀ HÀNG HOÁ VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG ĐIỀU TIẾT GIÁ CẢ HÀNG HOÁ”

Họ tên: Kiều Quang Vinh - STT: 98


Mã sinh viên: 2312650031
Lớp: TRIH115(2324-2)1.11

Hà Nội – 2024
MỤC LỤC

CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU………………………………………………………...3
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÍ LUẬN HÀNG HOÁ………………………………..5
2.1 Một số khái niệm liên quan về “Hàng hoá”………………………………5
2.2 Thuộc tính hàng hoá……………………………………………………….6
2.3 Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá…………………………..8
2.4 Các yếu tố tác động lên giá cả……………………………………………..8
CHƯƠNG 3. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐIỀU TIẾT…………9
3.1 Khái quát nền kinh tế thị trường tại Việt Nam………………………….9
3.2 Hoạt động nhà nước điều tiết giá cả hàng hoá hiện nay……………….10
3.3 Vai trò của nhà nước trong hoạt động điều tiết giá cả…………………15
CHƯƠNG 4. ĐỀ XUẤT 1 SỐ GIẢI PHÁP…………………………………17
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN……………………………………………………20
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………..21

2
CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự ra đời của hàng hóa gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người.
Đánh dấu sự ra đời của hàng hóa là sự hình thành các bộ lạc. Con người không
thể tự sản xuất tất cả mọi thứ để đáp ứng nhu cầu của mình và họ bắt đầu trao
đổi với nhau để đảm bảo sự sinh tồn. Chỉnh bởi tính cấp thiết của hàng hóa
trong xã hội, từ trước Mác, đến Mác và sau Mác đã có rất nhiều lý luận ra đời
nhằm nghiên cứu cho loại vật chất mang tên “hàng hoá”.
Hoạt động trao đổi, mua bán sản phẩm hàng hoá vật chất trong nền kinh
tế tạo ra tiền đề và cơ hội cho sự hình thành và phát triển của một lĩnh vực kinh
doanh: kinh doanh thương mại. Kinh doanh thương mại là sự đầu tư tiền của,
công sức của một cá nhân hay một tổ chức vào việc mua bán hàng hoá để bán
lại hàng hoá đó nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Một trong những vấn đề quan trọng
trong lĩnh vực thương mại đó là giá cả , dó đó nhà nước có những chính sách
phù hợp để điều chỉnh về vấn đề này.
Vì vậy mà em đã chọn đề tài: “Lý luận về hàng hoá và vai trò của Nhà
nước trong điều tiết giá cả hàng hoá” để thực hiện nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu và tìm hiểu về hàng hoá và vai trò của Nhà nước
trong điều tiết giá cả hàng hoá nhằm đưa ra vai trò của hàng hoá và giá trị của
hàng hoá. Đồng thời nêu lên vai trò của Nhà nước trong quả lý và điều tiết giá
cả hàng hoá.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số khái niệm về hàng hoá.
- Trình bày và đánh giá vai trò của Nhà nước trong điều tiết giá cả hàng hoá.
- Đưa ra một số giải pháp tăng hiệu quả quản lý của Nhà nước trong điều tiết giá
cả hàng hoá.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu chủ yếu nội dung:
- Cơ sở lý thuyết về hàng hoá
- Trình bày và đánh giá vai trò của Nhà nước trong điều tiết giá cả hàng hoá.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Về cơ sở lý thuyết về hàng hoá và các vai trò của Nhà
nước trong điều tiết giá cả hàng hoá.
- Phạm vi về không gian: Vai trò của Nhà nước trong điều tiết giá cả của hàng
hoá.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, trong đề tài này tôi sử
dụng chủ yếu phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu, thu thập tài liệu: Thực hiện tìm hiểu về sơ sở lí
luận của hàng hoá, thu thập các khái niệm về hàng hoá qua các nguồn tài liệu.
Phương pháp tổng hợp: Thực hiện tổng hợp các thông tin thu thập được và
đặc biệt là tổng hợp các hoạt động, vai trò của Nhà nước trong điều tiết giá cả
hàng hoá.
Phương pháp logic: Qua những tìm hiểu và nghiên cứu nhằm đưa ra đánh giá
về vai trò của Nhà nước trong điều tiết giá cả hàng hoá.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Về cơ sở lí luận về hàng hoá và vai trò của Nhà nước trong
điều tiết giá cả hàng hoá.
- Ý nghĩa thực tiễn: Trình bày những đánh giá và vai trò của Nhà nước trong
điều tiết giá cả hàng hoá. Đưa ra một số gaiir pháp nhằm giải quyết những hạn
chế tồn tại và những giải pháp mang tính lâu dài để đem lại sự bền vững trong
quản lý.

4
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HÀNG HOÁ

2.1 Một số khái niệm liên quan về “Hàng hoá”

2.1.1 Khái niệm “Hàng hoá”

Theo định nghĩa của Karl Marx, hàng hóa là sản phẩm của lao động, thông qua
trao đổi, mua bán có thể thỏa mãn một số nhu cầu nhất định của con người.
Hàng hóa có thể đáp ứng nhu cầu cá nhân hoặc nhu cầu sản xuất. Hàng hóa có
thể tồn tại dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể. Từ khái niệm này, ta có thể rút ra
kết luận một đồ vật muốn trở thành hàng hóa cần phải thỏa mãn 3 yếu tố: Hàng
hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con
người và thông qua trao đổi, mua bán.

2.1.2 Khái niệm “Giá”

Khái niệm giá được hiểu cơ bản chính là giá trị số tiền đó được xem là chi phí
ước tính của một cái gì hoặc một vật cụ thể nào đó trên thị trường, cho dù đó là
một sản phẩm, hay nó là một dịch vụ cụ thể.
Giá thông thường sẽ được đo bằng đơn vị cụ thể là tiền tệ, các giá mà đã được
gán một giá trị cụ thể khác nhau giữa các quốc gia và giá được sử dụng cho việc
mua và bán các loại hàng hóa.
Với ý nghĩa cụ thể này, ta thấy rằng giá cả sẽ giúp phản ánh mối quan hệ trao
đổi giữa các mặt hàng hóa, dịch vụ hiện đang có trên thị trường, vì vậy giá cả
cần phải được tuân theo một quy luật cung cầu, trong một số trường hợp, giá cả
cần được điều tiết bởi các cơ quan chức năng. Tùy thuộc vào nhu cầu cụ thể đối
với sản phẩm, giá của những sản phẩm sẽ được phân bổ cho chính nó có thể
giảm hoặc tăng phần giá trị. Chính vì vậy, giá cả được xem là một chỉ tiêu kinh
tế dựa trên hiệu suất sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đó, giúp đảm bảo thu nhập
của một cá nhân hoặc một tổ chức. Điều này được hiểu là sự cân bằng giữa
cung và cầu trên thị trường.

2.1.3 Khái niệm “Nền kinh tế”

5
Kinh tế được hiểu là một lĩnh vực nghiên cứu sản xuất, phân phối và tiêu thụ
hàng hóa, dịch vụ trong xã hội. Mục tiêu chính của kinh tế là đề ra các biện
pháp tối đa hóa nguồn tài nguyên và nguồn lực hiệu quả nhất. Từ đó, kết quả
giao thương được đảm bảo thuận lợi và có giá trị bền vững.
Vậy nền kinh tế là gì? đó là một hệ thống phức tạp diễn ra các hoạt động kinh
tế như sản xuất, tiêu dùng và trao đổi liên quan đến nhau. Những hoạt động này
quyết định cách thức phân bố nguồn lực lao động.

2.2 Thuộc tính của hàng hoá


Hai thuộc tính của hàng hóa: giá trị sử dụng và giá trị.

2.2.1 Giá trị sử dụng

Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa có thể thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người, không kể nhu cầu đó được thỏa mãn trực
tiếp hay gián tiếp.

Đặc trưng giá trị sử dụng của hàng hóa:


Hàng hóa có thể có một hay nhiều giá trị sử dụng hay công dụng khác nhau. Số
lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát hiện ra được
hết, mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học - kỹ
thuật.
- Giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn vì giá trị sử dụng hay công
dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết
định.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu
dùng (tiêu dùng cho sản xuất, tiêu dùng cho cá nhân), nó là nội dung vật
chất của của cải, không kể hình thức xã hội của của cải đó như thế nào.
Hàng hóa ngày càng phong phú, đa dạng, hiện đại thì giá trị sử dụng càng
cao.
Giá trị hàng hóa:

6
Một vật, khi đã là hàng hoá thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng
không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá. Như vậy, một
vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất
ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi. Trong
kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi. Muốn hiểu được
giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi:
Khái niệm: Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó
những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
Hai vật thể khác nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có cơ
sở chung nào đó. Vì các hàng hóa khác nhau về giá trị sử dụng nên không thể
lấy giá trị sử dụng để đo lường các hàng hóa. Các hàng hóa khác nhau chỉ có
một thuộc tính chung làm cho chúng có thể so sánh được với nhau trong khi
trao đổi: các hàng hóa đều là sản phẩm của lao động, sản phẩm của lao động là
do lao động xã hội hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó. Thực chất các chủ thể
khi trao đổi hàng hóa với nhau là trao đổi lao động chứa đựng trong hàng hóa.
Như vậy, hao phí để sản xuất ra hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi gọi là giá
trị hàng hóa.

2.2.2 Giá trị hàng hoá

Khái niệm: Giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh
trong hàng hoá.
Đặc trưng của giá trị hàng hóa:
- Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
- Giá trị là một phạm trù lịch sử, nghĩa là nó chỉ tồn tại ở những phương
thức sản xuất có sản xuất và trao đổi hàng hóa.
- Giá trị hàng hóa biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội, tức là quan hệ kinh tế
giữa những người sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế dựa trên chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ kinh tế giữa người với người biểu hiện

7
thành quan hệ giữa vật với vật. Hiện tượng vật thống trị mgười gọi là sự
sùng bái hàng hóa, khi tiền tệ xuất hiện thì đỉnh cao của sự sùng bái hàng
hóa là sự sùng bái tiền tệ.
- Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị; giá trị là nội dung, là
cơ sở của giá trị trao đổi. Giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi
theo.
2.3 Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc
tính trên đều do cùng một lao động sản xuất ra hàng hóa.
Hai thuộc tính của hàng hóa là sự thống nhất của các mặt đối lập. Sự đối lập và
mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: người làm ra hàng hóa
đem bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình làm ra, nếu họ có chú ý đến
giá trị sử dụng cũng chính là để có được giá trị. Ngược lại, người mua hàng hóa
lại chỉ chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hóa, nhưng muốn tiêu dùng giá trị sử
dụng đó người mua phải trả giá trị của nó cho người bán. Nghĩa là quá trình
thực hiện giá trị tách rời quá trình thực hiện giá trị sử dụng: giá trị được thực
hiện trước, sau đó giá trị sử dụng mới được thực hiện.
2.4 Các yếu tố tác động lên giá cả hàng hoá
Giá cả của một mặt hàng phụ thuộc vào:
- Giá trị của bản thân hàng hoá đó: tức là số lao động (thời gian lao động
và công sức lao động) làm ra nó.
- Giá trị của đồng tiền: Nó tỷ lệ nghịch với giá nguyên liệu. Khi giá
tiền tăng thì một đơn vị tiền mua được ít hàng hóa hơn và ngược lại.
- Cung và cầu của hàng hóa: Sự cân nhắc giữa cung cầu là yếu tố chủ yếu
ảnh hưởng đến giá cả. Nếu cung cầu vượt quá nhu cầu, giá cả có xu
hướng giảm xuống do sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. Ngược lại,
nếu nhu cầu vượt quá cung ứng, giá cả có thể tăng do sự khan hiếm của
sản phẩm hoặc dịch vụ.

8
- Chi phí sản xuất: Chi phí sản xuất bao gồm các yếu tố như nguyên liệu,
lao động, máy móc và công nghệ. Nếu chi phí sản xuất tăng lên, nhà sản
xuất có thể chuyển chi phí này lên giá bán của sản phẩm hoặc dịch vụ.
- Mức độ cạnh tranh hàng hóa: Mức độ cạnh tranh trong ngành công
nghiệp có thể ảnh hưởng đến giá cả. Trong một thị trường cạnh tranh cao,
các nhà cung cấp có thể cố gắng giảm giá để thu hút khách hàng. Trong
khi đó, trong một thị trường ít cạnh tranh, các nhà cung cấp có thể có khả
năng đặt giá cao hơn.
- Chi phí vận chuyển: Chi phí vận chuyển và phân phối có thể ảnh hưởng
đến giá cả của sản phẩm. Nếu chi phí vận chuyển hoặc phân phối tăng
lên, nhà cung cấp có thể chuyển phần chi phí này lên giá bán.
- Xu hướng người tiêu dùng: Xu hướng người tiêu dùng có thể ảnh hưởng
đến giá cả thông qua tác động đến cầu và nguồn cung, sự thay đổi trong
sở thích tiêu dùng, tiến độ kỳ vọng, tác động đám đông và ảnh hưởng của
quảng cáo và truyền thông. Các yếu tố này cùng tác động và tương tác
với nhau để tạo ra sự biến động trong giá cả trong nền kinh tế.

CHƯƠNG 3. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐIỀU


TIẾT GIÁ CẢ HÀNG HOÁ

3.1 Khái quát nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt
Nam
3.1.1 Định nghĩa “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy

9
luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của chủ nghĩa xã hội.

3.1.2 Sự tác động của hàng hoá đến nền kinh tế thị trường

Nền kinh tế thị trường dựa trên một thị trường hiệu quả để bán hàng hóa và dịch
vụ. Đó là nơi mà tất cả người mua và người bán đều có quyền truy cập bình
đẳng vào cùng một thông tin. Sự thay đổi giá cả là sự phản ánh thuần túy quy
luật cung - cầu.
Có 5 yếu tố quyết định cầu: Giá sản phẩm, thu nhập của người mua, giá cả của
hàng hóa liên quan, thị hiếu tiêu dùng, kỳ vọng của người mua.

3.2 Hoạt động Nhà nước điều tiết giá cả của hàng hoá hiện nay
Hoạt động điều tiết giá của Nhà nước là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
sử dụng các biện pháp cần thiết để “cân bằng” giá cả, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, của người tiêu dùng và lợi
ích của Nhà nước.
Mọi nhà nước chấp nhận cơ chế thị trường và muốn phát triển nền kinh tế nước
mình vận động theo cơ chế thị trường đều phải thực hiện sự điều tiết vĩ mô đối
với nền kinh tế. Điều tiết giá cả của nhà nước là một trong những khâu chính
trong hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mô tổng thể của nhà nước vì giá cả là phạm
trù tổng hợp có ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của hầu hết các tham số kinh tế vĩ
mô. Ngày nay, sự điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước theo cơ chế thị trường là
một tất yếu khách quan nhằm hạn chế bớt những tác động tiêu cực, sự điều tiết
giá cả do đó cũng không thể thiếu được. Điều tiết giá cả là một trong những đòn
bẩy, công cụ có tính quyết định đảm bảo sự thành công của các hoạt động điều
tiết khác và của hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mô nói chung của nhà nước.
Điều tiết giá cả của nhà nước là một trong những khâu chính trong hoạt động
điều tiết kinh tế vĩ mô tổng thể của nhà nước vì giá cả là phạm trù tổng hợp có

10
ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của hầu hết các tham số kinh tế vĩ mô. Điều tiết
giá cả là đóng vai trò là đòn bẩy, và cũng là công cụ có tính quyết định đảm bảo
sự thành công của các hoạt động điều tiết khác. Bên cạnh đó, điều tiết giá cả của
nhà nước được thực hiện nhằm mục đích khắc phục những hạn chế của thị
trường từ đó góp phần khai thác tốt các nguồn lực quốc gia bằng giá cả.
Điều tiết giá điều tiết giá cả của nhà nước đối với việc thực hiện các mục tiêu
kinh tế vĩ mô, trong đó đặc biệt là mục tiêu sản lượng. Mục tiêu sản lượng là
mục tiêu tổng hợp, đây là thước đo thành tựu kinh tế, do việc đạt được các mục
tiêu khác được phản ánh trong mục tiêu sản lượng. Sự điều tiết giá cả của nhà
nước có tác dụng to lớn đối với việc thực hiện các mục tiêu xã hội trong đó, là
mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội.
Hoạt động điều tiết giá giúp lập lại công bằng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội, do
giá cả là biểu hiện của quan hệ trao đổi của cải vật chất giữa người mua- người
bản, giữa người sản xuất- người sử dụng rộng hơn nữa là giữa các nhóm dân cư,
tầng lớp xã hội khác nhau.

Bình ổn giá

Tại Khoản 10 Điều 4 Luật giá 2012 quy định: “Bình ổn giá là việc Nhà nước áp
dụng biện pháp thích hợp về điều hòa cung cầu bất hợp lý”
Khoản 2 Điều 15 Luật giá 2012 quy định các hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình
ổn giá là hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho sản xuất, đời sống bao gồm: Xăng, dầu
thành phẩm; Điện; Khí dầu mỏ hóa lỏng; Vac-xin phòng bệnh cho gia súc, gia
cầm; Sữa dành cho trẻ em dưới 06 tuổi; Thóc, gạo tẻ thường; Thuốc phòng
bệnh.
Cũng tại Điều 17 quy định các biện pháp bình ổn giá như: Điều hòa cung cầu
hàng hoá sản xuất trong nước và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; hàng hoá giữa
các vùng, các địa phương trong nước thông qua việc tổ chức lưu thông hàng
hóa; mua vào hoặc bán ra hàng dự trữ quốc gia, hàng dự trữ lưu thông.

11
Thẩm quyền và trách nhiệm quyết định áp dụng biện pháp bình ổn giá được quy
định tại Điều 18 Luật Giá 2012. Theo đó, Chính phủ quyết định bình ổn giá trên
phạm vi cả nước; Bộ trưởng Bộ Tài chính, thủ trưởng các Bộ, cơ quan ngang Bộ
quyết định các biện pháp bình ổn giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm
quyền quản lý; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định các biện pháp thực hiện
bình ổn giá tại địa phương.
Vấn đề bình ổn giá xăng dầu được xem là vấn đề có mối quan tâm hàng đầu bởi
nó gắn liền với nhu cầu thiết yếu hằng ngày của mỗi người dân. Nhóm xin dẫn
chứng một biện pháp cụ thể:
Điều chỉnh mức thuế suất nhập khẩu xăng dầu: Xét về mặt lý thuyết và theo
báo cáo của Bộ Tài chính thì việc sử dụng thuế nhập khẩu như một công cụ để
bình ổn giá đã có những tác dụng nhất định trong từng thời điểm. Tuy vậy, trên
thực tế việc quá lạm dụng công cụ này để thực hiện chính sách an sinh xã hội đã
tạo ra không ít bất cập cho việc quản lý xã hội như nạn buôn lậu xăng dầu qua
biên giới, hoặc vấn nạn đầu cơ tích trữ xăng dầu tại các thời điểm tăng hoặc
giảm giá.
Tại Biểu 2, Bộ Tài chính đã thông báo việc sử dụng mức thuế suất nhập khẩu
xăng dầu để điều chỉnh giá trong từng thời điểm. Căn cứ vào số liệu tại Biểu 1
cho thấy, Bộ Tài chính đã 4 lần trong năm 2010, 4 lần trong năm 2011 và có 9
lần trong năm 2012 sử dụng việc tăng giảm mức thuế suất nhập khẩu xăng dầu
để điều chỉnh giá bán lẻ. Nhưng điều đáng nói ở đây là việc điều chỉnh này dựa
trên tiêu thức nào thì không ai có thể hiểu được, cụ thể là khi giá dầu thô là
77,07 đôla/thùng thì mức thuế suất nhập khẩu là 20% (bằng với mức barem tại
Biểu 1) nhưng khi giá xăng tăng tới 89,57 đôla/thùng (tăng 12,3%) thì mức
thuế suất bằng 0% (thấp hơn so với barem 20%).
Trên cơ sở phân tích các số liệu như đã nói ở trên cho thấy việc sử dụng thuế
nhập khẩu như một công cụ điều tiết giá bán lẻ xăng dầu không theo một chuẩn
mực nào, hay nói một cách khác, việc điều chỉnh mức thuế suất trong những
năm qua mang đầy tính “linh hoạt” của các cơ quan chức năng, tạo ra nhiều bức

12
xúc lớn trong xã hội như các phương tiện thông tin đại chúng đã đưa tin. Thiết
nghĩ việc tăng hay giảm mức thuế suất phải được tiến hành theo một chính sách
nhất quán. Biện pháp sử dụng quỹ bình ổn giá xăng dầu và cắt giảm lợi nhuận
định mức cũng được sử dụng nhằm mục đích bình ổn giá xăng dầu – một vấn đề
cần thiết hiện nay.

Định giá

Tại Khoản 5 Điều 4 Luật giá 2012 quy định: “Định giá là việc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quy định giá cho
hàng hóa, dịch vụ”.
Nhà nước ta định dựa trên giá thành toàn bộ, chất lượng của hàng hoá, dịch vụ
tại thời điểm định giá; mức lợi nhuận dự kiến; quan hệ cung cầu của hàng hóa,
dịch vụ và sức mua của đồng tiền; khả năng thanh toán của người tiêu dùng; giá
thị trường trong nước, thế giới và khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ tại
thời điểm định giá.
Việc định giá này do Bộ tài chính quy định và Các bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì,
phối hợp với Bộ Tài chính hướng dẫn phương pháp định giá đối với hàng hóa,
dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá của mình.
Những hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá (khoản 1 Điều 19 Luật giá
2012): “Hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước sản xuất, kinh
doanh; Tài nguyên quan trọng; Hàng dự trữ quốc gia; sản phẩm, dịch vụ công
ích và dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước.” Một số hình thức
định giá của nhà nước đưa ra và cũng gắn với từng hàng hóa, dịch vụ cụ thể,
như sau:
Tại Điểm a Khoản 3 Điều 19 Luật Giá 2012 có quy định: Định mức giá cụ thể
đối với hàng hóa, dịch vụ cụ thể: “Các dịch vụ hàng không, bao gồm: dịch vụ
cất cánh, hạ cánh; điều hành bay đi, đến; giá truyền tải điện; giá dịch vụ phụ trợ
hệ thống điện”. Định khung giá đối với: giá phát điện; giá bán buôn điện; mức

13
giá bán lẻ điện bình quân; dịch vụ vận chuyển hàng không nội địa tuyến độc
quyền.
Năm 2012 giá điện có 2 lần điều chỉnh, mức tăng 10% (đó là 1/7 và 22/12). Giá
điện bình quân tăng từ 1369 đồng/kWh lên 1.437 đồng/kWh – tương đương
7USCen/kWh (kể cả thuế VAT). Đến năm 2013 thì giá điện một lần nữa lại
được điều chỉnh, theo Thông tư số 19/2013/TT-BCT quy định về giá bán điện
và hướng dẫn thực hiện do Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành thì giá điện
bình quân là 1.508,85 đồng/kWh (chưa bao gồm thuế VAT).
- Định khung giá và mức giá cụ thể tại Điểm c Khoản 3 Điều 19 Luật Giá
2012.
- Định giá tối đa hoặc giá tối thiểu đối với một số hàng hóa được quy định
tại Điểm d Khoản 3 Điều 19 Luật Giá 2012.

Hiệp thương giá

Khoản 7 Điều 4 Luật giá 2012 có quy định: “Hiệp thương giá là việc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền tổ chức thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh).”
Luật Giá quy định cụ thể điều kiện đối với hàng hóa, dịch vụ thực hiện hiệp
thương giá, thẩm quyền và trách nhiệm tổ chức hiệp thương giá. Đồng thời,
Luật cũng quy định về kết quả hiệp thương giá không còn là một quyết định
hành chính như trước mà chỉ là thông báo bằng văn bản về mức giá được thỏa
thuận cho các bên sau khi hiệp thương. Đối với trường hợp cơ quan tổ chức hiệp
thương phải quyết định giá tạm thời thì Luật quy định quyết định này có hiệu
lực thi hành tối đa là 06 tháng. Trong thời gian thi hành quyết định giá tạm thời,
các bên tiếp tục thương thảo về giá.

Kiểm tra các yếu tố hình thành giá

14
Yếu tố hình thành giá là giá thành toàn bộ thực tế hợp lý tương ứng với chất
lượng hàng hóa, dịch vụ, lợi nhuận (nếu có), các nghiệp vụ tài chính theo quy
định của pháp luật.
Cụ thể các trường hợp áp dụng kiểm tra yếu tố hình thành giá được quy định tại
Điều 26, Khoản 2 quy định cụ thể các loại hàng hóa phải kiểm tra yếu tố hình
thành giá. Thẩm quyền và trách nhiệm kiểm tra yếu tố hình thành giá Điều
27 Luật Giá 2012.
Như vậy có thể thấy rằng để đảm bảo cho chính sách và cơ chế quản lý giá mới
thực sự đi vào cuộc sống và phát huy tính tích cực đối với nền kinh tế quốc dân,
cần phải hoàn thiện và nâng cao quyền lực của bộ máy tổ chức quản lý giá.
Đồng thời, chức năng và nhiệm vụ của bộ máy đó cũng cần thiết phải thay đổi
theo hướng giảm việc định giá trực tiếp, tăng cường thanh tra, kiểm tra giá, tư
vấn, hướng dẫn và thông tin giá cả và thị trường.

3.3 Vai trò của Nhà nước trong hoạt động điều tiết giá cả của hàng hoá
Sự điều tiết giá cả của nhà nước là sự cần thiết khách quan và có rất nhiều tác
dụng, vai trò khác nhau. Đáng lưu ý nhất là vai trò trong việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế vĩ mô, trước hết là mục tiêu sản lượng trong việc thực hiện công
bằng xã hội.
Trước hết là vai trò điều tiết giá cả của nhà nước đối với việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế vĩ mô, trong đó đặc biệt là mục tiêu sản lượng. Để tác động vào nền
kinh tế có hiệu quả, chính phủ phải đề ra hệ thống các mục tiêu, mà trên cơ sở
đó xây dựng các chiến lược và chính sách cụ thể. Hiện nay, chính phủ các nước
theo cơ chế kinh tế thị trường thường hướng tới các mục tiêu lớn là: sản lượng,
công ăn việc làm và giá cả. Các mục tiêu này không tách rời nhau mà gắn bó
chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại với nhau. Trong số này, sản lượng là mục tiêu
tổng hợp, là thước đo thành tựu kinh tế vì mức đạt được các mục tiêu khác phản
ánh trong mục tiêu sản lượng. Chẳng hạn, công ăn việc làm nhiều, ổn định là

15
nhân tố tăng nhanh sản lượng. Ngược lại, lạm phát quá cao phản ánh tình trạng
khủng hoảng của nền kinh tế.
Sự điều tiết giá cả của nhà nước không chỉ có vai trò quan trọng trong việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế, mà nó còn có tác dụng to lớn đối với việc thực hiện
các mục tiêu xã hội, cụ thể là tiến bộ và công bằng xã hội. Sở dĩ như vậy vì giá
cả, ngoài các chức năng khác, còn có chức năng phân phối.
Bên cạnh đó, giá cả còn là quan hệ trao đổi của cải vật chất giữa những người
sản xuất, giữa các tổ chức kinh tế xã hội, và nói rộng ra, giữa các nhóm dân cư,
thậm chí giữa các tầng lớp, giai cấp. Do đó, sự thay đổi giá cả tương đối sẽ làm
cho thu nhập của hai bên thay đổi. Nhà nước có thể căn cứ vào tình trạng bất
công bằng xã hội để điều chỉnh giá cả, từ đó lập lại công bằng xã hội, thúc đẩy
tiến bộ xã hội.
Thực hiện công bằng xã hội không đối lập với các mục tiêu kinh tế mà ngược
lại, gắn bó chặt chẽ với nó. Thực hiện công bằng xã hội, trước hết đó là sự phát
huy nhân tố con người ở tầm vĩ mô. Điều này sẽ góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế trong tương lai, về lâu dài. Tuy vậy, chính phát triển mục tiêu kinh tế lại
là cơ sở, tiền đề thực hiện các mục tiêu xã hội. Đó cũng là biện chứng giữa vai
trò thực hiện mục tiêu kinh tế và mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội của sự
điều tiết giá cả của nhà nước.

16
CHƯƠNG 4. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TIẾT GIÁ CẢ HÀNG
HOÁ CỦA NHÀ NƯỚC
4.1 Một số nhiệm vụ đối với Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung Ương

- Chủ động tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố phương án
chuẩn bị nguồn hàng, dự trữ hàng hóa thiết yếu phục vụ tiêu dùng của
người dân trong trường hợp dịch bệnh bùng phát, thực hiện các biện pháp
bình ổn thị trường theo quy định của pháp luật; phối hợp với Ngân hàng
Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố hỗ trợ, kết nối các doanh nghiệp sản
xuất, phân phối hàng thiết yếu với các tổ chức tín dụng trên địa bàn để
tiếp cận được nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi, dự trữ hàng hóa bình ổn
thị trường trong tình hình hiện nay.
- Theo dõi sát diễn biến tình hình thị trường, chỉ đạo, phối hợp với các
doanh nghiệp triển khai ngay các biện pháp để hỗ trợ, bảo đảm đủ nguồn
cung các mặt hàng thiết yếu; đánh giá nguồn cung, nhu cầu các mặt hàng
thiết yếu phục vụ đời sống dân sinh, có phương án bảo đảm nguồn cung
các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của địa phương theo
trường hợp, có phương án về phối hợp hỗ trợ cung ứng hàng hóa cho các
địa phương khác khi cần thiết.
- Đôn đốc các doanh nghiệp triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại
nội địa, các chương trình kích cầu tiêu dùng, chương trình hỗ trợ doanh
nghiệp phục hồi sau dịch bệnh; có cơ chế ưu tiên và tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp tham gia Chương trình bình ổn mở rộng mạng lưới phân
phối hàng hóa đến khu vực đông dân cư, khu công nghiệp, các huyện
ngoại thành, vùng sâu, vùng xa, biển đảo... nhằm tăng khả năng tiếp cận

17
hàng bình ổn cho các đối tượng khó khăn, các đối tượng có thu nhập
trung bình và thấp.
- Chủ trì phối hợp với các Sở, ban, ngành liên quan, tổ chức các hoạt động
kết nối giữa các doanh nghiệp phân phối và các nhà cung cấp lương thực,
thực phẩm thiết yếu, tạo nguồn hàng bình ổn thị trường; phối hợp với các
địa phương khác trên cả nước tổ chức hoặc tham gia các Chương trình kết
nối cung cầu nhằm giới thiệu các sản phẩm lương thực, thực phẩm an
toàn, đặc sản vùng, miền, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm địa phương, tạo nguồn
hàng sẵn sàng phục vụ nhân dân.
- Phối hợp với Cục Quản lý thị trường tại địa phương, tăng cường hoạt
động kiểm tra, giám sát thị trường đối với các lĩnh vực về giá, chất lượng
sản phẩm, các quy định về an toàn thực phẩm, các hành vi đầu cơ, găm
hàng, tăng giá trái pháp luật trên địa bàn. Nơi nào để xảy ra các hành vi vi
phạm trên thì Sở Công Thương và Cục Quản lý thị trường ở địa phương
đó chịu trách nhiệm.
- Phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các đơn vị chức
năng theo dõi sát tình hình sản xuất, diễn biến dịch bệnh, thời tiết, đánh
giá năng lực cung ứng nguồn hàng lương thực, thực phẩm cho thị trường,
chủ động có phương án hoặc đề xuất phương án để bảo đảm nguồn cung,
ổn định thị trường các mặt hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu, bảo
đảm sản xuất theo đúng quy hoạch và theo khuyến cáo của các Bộ, ngành
hữu quan, tránh tình trạng dư thừa hoặc thiếu hụt cục bộ, ảnh hưởng tiêu
cực đến thị trường hàng hóa trong nước nói chung và thị trường lương
thực, thực phẩm nói riêng; thực hiện các giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ các
mặt hàng nông sản có sản lượng lớn, đã vào vụ thu hoạch, ưu tiên hoạt
động sơ chế, chế biến, bảo quản, dự trữ nông sản đảm bảo an toàn thực
phẩm và phòng chống dịch bệnh.
- Phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông, các cơ quan thông tin đại
chúng trên địa bàn thông tin đầy đủ và kịp thời về thị trường, giá cả, các

18
chính sách bình ổn thị trường, quản lý an toàn thực phẩm của nhà nước,
thông tin các điểm bán hàng bình ổn và thực phẩm an toàn cho người dân
địa phương; kiểm soát các thông tin thất thiệt có thể gây bất ổn thị
trường.
4.2 Nâng cao hoạt động kiểm tra, giám sát thị trường của Tổng cục quản
lý thị trường
Tổng cục Quản lý thị trường triển khai các kế hoạch kiểm tra, giám sát thị
trường, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về giá,
các hành vi đầu cơ, găm hàng để thu lợi bất chính; kinh doanh hàng hóa nhập
lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, không bảo đảm an toàn thực phẩm, an toàn
dịch bệnh và các hành vi vi phạm trên thương mại điện tử. Chú trọng các mặt
hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm, trang thiết bị y tế.
4.3 Nâng cao hoạt động theo dõi giá cả
Theo dõi sát giá cả các mặt hàng thiết yếu; phối hợp với các bộ, ngành, địa
phương đánh giá cung cầu hàng hóa, nhất là các mặt hàng thực phẩm thiết yếu,
vật tư nông nghiệp, năng lượng. Từ đó, chủ động các biện pháp bảo đảm cung
ứng đủ nguồn hàng, bình ổn giá, đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống,
không để xảy ra tình trạng thiếu hàng, sốt giá.
Vụ Thị trường trong nước cũng cần phối hợp với các bộ, ngành, địa phương
trong công tác điều hành giá các hàng hóa, dịch vụ do nhà nước quản lý. Sử
dụng linh hoạt các công cụ, các biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu
kiềm chế lạm phát, hỗ trợ cho sản xuất và đời sống của người dân, doanh
nghiệp. Phối hợp với các đơn vị liên quan của Bộ Tài chính đề xuất việc điều
hành giá xăng dầu linh hoạt, tính toán, sử dụng quỹ bình ổn giá hợp lý.

19
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN

Điều tiết giá cả của nhà nước là một trong những khâu chính trong hoạt động
điều tiết kinh tế vĩ mô tổng thể của nhà nước vì giá cả là phạm trù tổng hợp có
ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của hầu hết các tham số kinh tế vĩ mô. Ngày nay,
sự điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước theo cơ chế thị trường là một tất yếu
khách quan nhằm hạn chế bớt những tác động tiêu cực, sự điều tiết giá cả do đó
cũng không thể thiếu được. Điều tiết giá cả là một trong những đòn bẩy, công
cụ có tính quyết định đảm bảo sự thành công của các hoạt động điều tiết khác và
của hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mô nói chung của nhà nước.
Hoạt động điều tiết giá cả của nhà nước là hoạt động không thể thiếu được
nhằm khắc phục khuyết tật của thị trường trong lĩnh vực thị trường và góp phần
khai thác tốt các nguồn lực quốc gia bằng giá cả. Đây là một trong những lý do
khách quan đòi hỏi nhà nước thực hiện sự điều tiết giá cả. Trong điều kiện ngày
nay, chế độ định giá tự do mặc dù còn có vai trò tích cực, thậm chí là quyết định
nhưng nó cũng dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực. Tình trạng dùng các thủ đoạn
trong định giá, độc quyền là những hiện tượng đã gây không ít thiệt hại cho các
nền kinh tế. Thực tiễn ở các nước kinh tế thị trường cho thấy, nếu để cho thị
trường tự do quá nhiều quyền định đoạt giá thì có nguy cơ dẫn đến suy thoái và
khủng hoảng. Những khuyết tật của thị trường tự do, các cuộc suy thoái đã làm
lung lay nền tảng của nhà nước, buộc nhà nước phải tìm cách đối phó bằng con
đường kinh tế. Nhà nước không chỉ tìm cách khắc phục những khuyết tật của
chế độ định giá tự do mà còn cần tác dụng vào giá cả nhằm khai thác hết những
tiềm năng của nền kinh tế.

20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Bộ giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Kinh tế Chính trị
Mác – Lênin.
2. Nguồn:https://luatminhkhue.vn/khai-niem-co-ban-ve-gia-tri--gia-
tri-su-dung--gia-tri-trao-doi-va-gia-ca-cua-hang-hoa.aspx
3. Nguồn:https://10namrog.com/gia-ca-hang-hoa-la-gi-cac-yeu-to-
anh-huong-toi-gia-ca-hang-hoa/
4. Nguồn:https://luatduonggia.vn/hoat-dong-dieu-tiet-gia-cua-nha-
nuoc/

21

You might also like