Professional Documents
Culture Documents
LÝ THUYẾT
Chương 1.
1. Hệ thống sản xuất
- Khái niệm: HTSX là hệ thống biến đổi các đầu vào thành các đầu ra
hiệu quả.
- Ví dụ: HTSX của trường Đại học Kinh Tế Đà Nẵng
Đầu vào: Các học sinh trung học phổ thông đạt tiêu chuẩn để
Quá trình biến đổi: Bước vào trường gọi là sinh viên hoàn thành các
khóa học, các yêu cầu tích lũy về tín chỉ, chuẩn đầu ra, ..
Đầu ra: là cử nhân kinh tế
b) Loại hình sản xuất hàng loạt: Sản xuất hàng loạt là loại hình sản xuất chế tạo
đồng thời hoặc liên tiếp 1 lượng xác định sản phẩm như nhau hay giống nhau.
Ví dụ: Henry Ford, người sáng lập Ford Motor Company, đã phát triển kỹ thuật dây
chuyền lắp ráp sản xuất hàng loạt. Năm 1913, ông đi tiên phong trong dây chuyền lắp
ráp chuyển động để sản xuất ô tô Ford Model T. Thời gian sản xuất các bộ phận giảm
cho phép công ty áp dụng phương pháp tương tự để lắp ráp khung gầm và giảm đáng
kể thời gian chế tạo ô tô Model T.
sản xuất trong ngành cơ khí, dệt may, điện dân dụng, đồ gỗ nội thất, sản phẩm cơ
khí,điện tử chuyên dùng...
Ưu điểm:
Giảm nguy cơ tập trung vào 1 sản phẩm, cho phép linh hoạt.
Có độ chính xác cao vì máy móc trong dây chuyền sx có các thông số cài đặt trước.
Sản xuất hàng loạt cũng dẫn đến chi phí thấp hơn vì quy trình sản xuất dây chuyền
lắp ráp tự động đòi hỏi ít công nhân hơn.
Tạo ra mức hiệu quả cao hơn vì các mặt hàng sản xuất hàng loạt có thể được lắp ráp
với tốc độ nhanh hơn thông qua tự động hóa.
Việc lắp ráp nhanh chóng hỗ trợ việc phân phối và tiếp thị nhanh chóng các sản phẩm
của tổ chức, do đó, có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh và lợi nhuận cao hơn cho một
công ty.
Nhược điểm:
Việc thiết lập một dây chuyền lắp ráp tự động tốn nhiều vốn và đòi hỏi sự đầu tư
trước đáng kể về thời gian và nguồn lực. Nếu có sai sót trong thiết kế sản xuất, có thể
cần đầu tư nhiều thời gian và tiền bạc để thiết kế lại và xây dựng lại các quy trình sản
xuất hàng loạt.
Mặc dù lợi thế của sản xuất hàng loạt là có thể giảm chi phí lao động, nhưng những
nhân viên vẫn thuộc dây chuyền lắp ráp có thể thiếu động lực vì nhiệm vụ của họ lặp
đi lặp lại. Sự nhàm chán do công việc lặp đi lặp lại có thể dẫn đến tinh thần của nhân
viên thấp và mức độ tăng doanh thu.
c) Loại hình sản xuất đơn chiếc: là loại hình sản xuất thuộc sản xuất gián đoạn.
Trong sản xuất đơn chiếc, các nơi làm việc thực hiện chế biến nhiều loại chi tiết khác
nhau, nhiều bước công việc khác nhau trong quá trình công nghệ sản xuất sản phẩm.
Mỗi loại chi tiết được chế biến với khối lượng rất ít, thậm chí có khi chỉ một chiếc.
Ví dụ: Đóng tàu thuyền, xây dựng cầu, các công trình kiến trúc, thời trang, khuôn
dập...
Ưu điểm:
Tính linh hoạt rất cao, khả năng thích ứng với thay đổi môi trường tốt.
Nhược điểm:
Thời gian gián đoạn lớn.
Số lượng ít.
Tiêu chuẩn hóa sản phẩm kém.
Năng suất chất lượng thấp
d) Sản xuất dự án: là một loại sản xuất gián đoạn, nhưng các nơi làm việc tồn tại
trong khoảng thời gian ngắn theo quá trình công nghệ sản xuất của một loại sản phẩm
hay đơn hàng nào đó.
Tổ chức theo cơ cấu ma trận để nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức.
Ví dụ:
Ưu điểm:
Nhược điểm:
Hiệu quả sử dụng máy, thiết bị thấp.
Công nhân, máy móc thiết bị thường phần tán cho các dự án khác.
Các loại hình của quản trị sản xuất dịch vụ:
a. Dịch vụ chuyên nghiệp
Dịch vụ chuyên môn được xác định rõ trong các tổ chức có mức độ tương tác với
khách hàng cao, nơi mà khách hàng dành một thời gian đáng kể để tham gia vào một
quá trình dịch vụ nhất định và nhiều khi không có mặt của khách hàng thì việc cung
cấp dịch vụ sẽ không thể thực hiện được. Các dịch vụ này cung cấp mức độ tùy biến
hướng tới nhu cầu của khách hàng rất cao, quá trình dịch vụ có khả năng thích ứng
cao để đáp ứng các nhu cầu riêng biệt của từng khách hàng. Phần lớn thời gian nhân
viên làm việc trong các văn phòng giao dịch và nhân viên này sẽ đưa ra các quyết
định chủ yếu trong quá trình phục vụ và tương tác với khách hàng.
Dịch vụ chuyên môn chú trọng sử dụng con người hơn là dựa trên máy móc thiết bị,
cùng với việc nhấn mạnh vào quá trình là làm thế nào các dịch vụ được cung cấp cho
khách hàng chứ không phải là “sản phẩm” (những gì được cung cấp). Dịch vụ
chuyên môn bao gồm các chuyên gia tư vấn quản trị, bác sĩ phẫu thuật, luật sư, kiểm
toán, tài chính, thanh tra y tế và an toàn và một số hoạt động dịch vụ lĩnh vực tin
học…
Cửa hàng dịch vụ được đặc trưng bởi các mức độ tiếp xúc khách hàng, tùy biến
hướng tới nhu cầu của khách hàng, số lượng khách hàng, và các quyết định đưa ra
của nhân viên, vị trí của cửa hàng dịch vụ là dạng trung gian giữa dịch vụ chuyên
môn và dịch vụ đại chúng. Dịch vụ được cung cấp theo hướng hỗn hợp của các hoạt
động tiếp xúc (tiền sảnh – front office) và hậu cần (hậu đường – back office). Cửa
hàng dịch vụ điển hình là các ngân hàng, bệnh viện, các công ty khai thác các tour du
lịch, công ty cho thuê xe, hầu hết các nhà hàng, khách sạn và đại lý du lịch… Ví dụ,
việc tổ chức cho thuê hay bán một thiết bị thì có thể cần có một số sản phẩm trưng
bày trong các cửa hàng, trong khi các hoạt động của bộ phận hành chính văn phòng
giải quyết các công việc như mua hàng và hậu cần cho công ty, thì các nhân viên giao
dịch tiếp xúc trực tiếp với khách hàng cần có những kỹ năng đào tạo về mặt kỹ thuật
và có thể đưa ra những lời khuyên và tư vấn cho khách hàng trong quá trình bán sản
phẩm. Về cơ bản khách hàng sẽ mua một sản phẩm được tiêu chuẩn hóa cụ thể
nhưng sẽ bị ảnh hưởng bởi quá trình bán hàng, mà quá trình này được phục vụ theo
những nhu cầu cá nhân của khách hàng.
c. Dịch vụ khối lượng lớn (dịch vụ đại chúng)
Dịch vụ khối lượng lớn thực hiện một lượng lớn các giao dịch với khách hàng nên bị
hạn chế về thời gian tương tác và có mức độ tùy biến thấp. Đa phần những dịch vụ
này hoạt động trên nền tảng ‘phương tiện’ và định hướng vào ‘sản phẩm’, với đa số
giá trị được tạo nên từ văn phòng phía sau và công việc nhân viên ở văn phòng phía
trước thực hiện tương đối ít. Đội ngũ nhân viên gần như được phân chia chặt chẽ vào
các phòng ban với chức năng xác định và phải tuân thủ nghiêm ngặt các phương thức
đề ra.
Một trong những loại hình dịch vụ đại chúng phổ biến nhất là các trung tâm dịch vụ
cuộc gọi khách hàng (call centres) được sử dụng bởi hầu hết các công ty mà các công
ty này cần phải giải quyết trực tiếp các vấn đề với khách hàng. Việc đối phó với một
số lượng rất lớn các đòi hỏi, truy vấn và yêu cầu từ phía khách hàng cần có một số
dạng cấu trúc của quá trình giao tiếp với khách hàng. Điều này thường được thực
hiện bằng cách sử dụng một quy trình trả lời truy vấn đã được thiết kế một cách cẩn
thận (đôi khi được biết đến như một kịch bản đã định trước).