You are on page 1of 122

Giáo án bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh về

Nhà nước Việt Nam


Chương I: Cơ sở, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước kiểu mới
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới

Nội dung Triển khai ý Mở rộng


Truyền - Truyền thống yêu nước. - Trong lịch sử hàng nghìn năm
thống văn + Là dòng chủ lưu xuyên dựng nước và giữ nước, cha ông ta
hóa tốt đẹp suốt trường kỳ lịch sử. đã tích lũy được biết bao kinh
của dân tộc + Nâng tầm lên chủ nghĩa nghiệm quý báu về xây dựng nhà
yêu nước: nước, được phản ánh trong các bộ
 Tình cảm yêu nước. sử lớn của dân tộc như Đại Việt sử
 Ý chí giữ nước. ký toàn thư, Lịch triều hiến
 Trí tuệ cứu nước. chương loại chí... Kinh nghiệm
+ Đến Hồ Chí Minh: làm luật, trị nước cũng được ghi
Chuyển hóa từ yêu nước lại trong các bộ luật nỗi tiếng như
truyền thống lên yêu nước Hình ?hư (đời Lý), Quốc triều
mới – yêu nước gắn liền với hình luật (đời Trần), bộ luật Hồng
thương dân, yêu nước kết Đức (đời Lê)... mà giá trị của nó
hợp với yêu chủ nghĩa xã có thể sánh ngang với các bộ luật
hội. nổi tiếng ở phương Đông, trong đó
- Truyền thống đoàn kết dân có những tư tưởng còn được đề
tộc. cập đến sớm hơn cả phương Tây,
+ Hình thành cùng với như vấn đề bình đẳng với phụ nữ:
truyền thống yêu nước, tạo cho phép ly hôn, có quyền thừa kế
nên sức mạnh vô địch. tài sản, công nhận công lao chung
+ Đến Hồ Chí Minh: của vợ chồng trong vấn đề tài sản,
 Mở rộng lực lượng cho phép nhận con nuôi...
đoàn kết (Trong xã hội - Những yếu tố tích cực của nhà
phong kiến chủ yếu là nước thân dân thời kỳ phong kiến
giai cấp nông dân). hưng thịnh trong lịch sử dân tộc
 Thành lập các mặt trận cùng với hình ảnh lý tưởng về nhà
dân tộc thống nhất. nước “vua Nghiêu Thuấn, dân
 Khối đại đoàn kết toàn Nghiêu Thuấn”... là những hành
trang đầu tiên Hồ Chí Minh mang
dân phải đặt dưới sự theo trên con đường cứu nước và
lãnh đạo của Đảng tìm kiếm một mô hình nhà nước
Cộng sản. tiến bộ cho đất nước sau khi giành
- Tư tưởng thương dân, trọng được độc lập.
dân của cha ông.
+ Trần Hưng Đạo: Khoan
thư sức dân làm kế sâu rễ
bền gốc.
+ Nguyễn Trãi: Chở thuyền
là dân, lật thuyền cũng là
dân.
+ Thời Lê – Trịnh, TS
Nguyễn Duy Thì cho rằng:
Dân là gốc của nước, đạo trị
nước cốt ở yên dân. Trời với
dân đều là một lẽ, lòng dân
vui thì thuận ý trời nên
người giỏi trị nước phải yêu
dân như cha mẹ yêu con.
+ Hạn chế:
 Dân trong xã hội
phong kiến mới chỉ là
động lực chứ chưa là
mục tiêu của cách
mạng.
 Dân chưa trở thành
chủ thể quyền lực của
nhà nước, cách mạng.
- Kinh nghiệm tổ chức, xây
dựng Nhà nước và pháp luật
của các triều đại phong kiến
Việt Nam:
+ Luật hình thư thời Lý.
+ Quốc triều hình luật thời
Trần.
+ Luật Hồng Đức thời Lê.
Tinh hoa * Phương Đông: - Tinh hoa văn hóa nhân loại, cả
văn hóa - Nho giáo: phương Đông và phương Tây về
nhân loại + Quan điểm về dân: nhà nước, pháp luật... Đó là hình
ảnh lý tưởng về nhà nước “Vua
 Dân là gốc của nước, Nghiêu, vua Thuấn”, “Nước lấy
gốc vững thì nước dân làm gốc” của Nho giáo... Tư
yên. tưởng nhà nước pháp quyền của
 Dân vi quý, xã tắc thứ G.Rút-xô, Môngtenxki-ơ, Tuyên
chi, quân vi khinh. ngôn độc lập của Mỹ (1776);
+ Tư tưởng chính danh. Tuyên ngôn nhân quyền, dân
+ Tư tưởng về đạo của quyền của Pháp (1791) về nhà
người quân tử. nước Pháp quyền xã hội công
- Phật giáo: dân...
+ Tư tưởng bình đẳng, - Trên con đường học hỏi, Hồ Chí
chống phân biệt đẳng cấp. Minh đã biết làm giàu vốn tri thức
+ Từ bi, bác ái, yêu thương của mình bằng những di sản quý
con người. báu của văn hóa nhân loại. Người
- Mặc gia: Tư tưởng kiêm ái đã kế thừa các học thuyết đó một
trong công cuộc trị nước, cách có phê phán, không sao chép
nhà cầm quyền phải yêu máy móc, cũng không phủ định
thương nhân dân. một cách đơn giản, mà có sự phân
- Pháp gia: Đề cao vai trò tích một cách sâu sắc, tìm ra
của pháp luật trong đời sống. những yếu tố tích cực, hợp lý để
- Chủ nghĩa tam dân của Tôn phục vụ cho sự nghiệp cách mạng
Trung Sơn: Dân tộc độc lập, giải phóng dân tộc. Với Nho giáo,
dân quyền tự do, dân sinh khi tiếp thu tư tưởng chính danh,
hạnh phúc. Hồ Chí Minh đã loại bỏ tính chất
* Phương Tây: duy tâm thiên mệnh, khôi phục lại
- Khẩu hiệu Tự do – Bình quan hệ bình đẳng hai chiều tự
Đẳng – Bác ái. nhiên trong quan hệ người với
- Ở Mỹ, Người đến thăm người. Người dạy rằng, dù là Chủ
tượng Nữ thần tự do và đọc tịch nước, Bộ trưởng, công nhân,
Tuyên ngôn độc lập 1776. nông dân, bộ đội hay người phục
- Ở Pháp, Người tiếp xúc với vụ nấu ăn, quyét rác... đều là
tư tưởng nhân văn thời Phục người tồi nếu không hoàn thành
hưng và đọc tuyên ngôn được nhiệm vụ của mình, còn nếu
nhân quyền và dân quyền làm tốt hơn người khác thì đều là
1789. anh hùng, chiến sĩ thi đua, là
- Tìm hiểu các lý thuyết, học những “thánh nhân”.
thuyết bàn về nhà nước và - Tư tưởng thân dân trong học
pháp luật của Mông-téc-xki- thuyết chính trị của Nho giáo cũng
ơ, Vôn-te, Rút-xô, C.Mác, được Người vận dụng nhuần
Lênin... (Nhà nước và cách nhuyễn. Khổng Tử đã nhìn nhận
mạng).... thấy “dân là gốc của nước”. Mạnh
- Tìm hiểu thực tiễn tổ chức Tử cho rằng trong nước, dân là
nhà nước ở các quốc gia quý nhất, tiếp theo là xã tắc, vua là
phương Tây – nhà nước Tư nhẹ, nên ai được lòng dân chúng
Sản: thì được làm thiên tử. Việc đề cao
+ Chính thể cộng hòa tổng dân trong. tư tưởng của Nho gia
thống ở Mỹ -> chế định Chủ không chỉ nói lên mục đích vì dân
tịch nước trong Hiến pháp của hoạt động nhà nước mà còn
1946 của Việt Nam có một nói lên vai trò to lớn của dân
vài điểm giống với chế định chúng, sức mạnh của dân chúng
Tổng thống trong Hiến pháp trong việc thực hiện các chính
Mỹ. sách quản lý của nhà nước. Điều
này được Hồ Chí Minh tiếp thu
trong việc xây dựng một nhà nước
của dân, do dân, vì dân:
“Gốc có vững cây mới bền,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân
dân”!
Tư tưởng của Nho giáo về đạo của
người quân tử với tư cách là người
cầm quyền cũng được Hồ Chí
Minh nhận thức và phát triển với
những nội dung mới. Các giá tri
củ ời quân tử mà Nho giáo đê ra
như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng,
liêm, trung,... được Hồ Chí Minh
vận dụng trong quá trình rèn luyện
đạo đức cách mạng của người cầm
quyền, thậm chí là phát triển thêm
cho phù hợp với yêu cầu của cách
mạng. Chẳng hạn, chữ "trung"
trong Nho giáo chỉ có ý nghĩa là
cá nhân, trung với vua. Chủ tịch
Hồ Chí Minh dùng chữ "trung"
với nước, trung với Đảng, tức là
trung với cả tập thể.
- Tư tưởng chính trị của Mặc gia
chủ trương chính sách kiêm ái
trong công cuộc cai trị, tức nhà
cầm quyền phải yêu thương nhân
dân, tận tụy vì những lợi ích của
nhân dân. Thuyết kiêm ái hạn chế
ở tính duy tâm và tính phi giai
cấp. Hồ Chí Minh đã loại bỏ
những hạn chế đó, tiếp thu tỉnh
thần “làm đầy tớ" cho nhân dân
của Mặc Tử.
- Các lý thuyết về tổ chức nhà
nước và thực tiễn tổ chức nhà
nước ở các quốc gia tư bản như
Mỹ, Pháp có ảnh hưởng nhất định
đến quá trình Chủ tịch Hồ Chí
Minh tìm kiếm một mô hình tổ
chức nhà nước phù hợp cho Việt
Nam. Học thuyết của các nhà tư
tưởng cách mạng tư sản về tổ chức
quyền lực nhà nước, chính thể
cộng hòa tổng thống ở Mỹ, chính
thể cộng hòa đại nghị ở Pháp đã
ảnh hưởng đến quá trình Hồ Chí
Minh tìm kiếm một mô hình nhà
nước hợp lý cho cách mạng Việt
Nam. Cụ thể là chế định Chủ tịch
nước trong Hiến pháp năm 1946
có một số điểm giống với chế định
Tổng thống trong Hiến pháp Mỹ.
- Tìm hiểu cách mạng Tân Hợi và
tư tưởng của Tôn Trung Sơn,
Nguyễn Ái Quốc đã thấy chủ
nghĩa tam dân mới và chính sách
“thân Nga, liên Cộng, phù trợ
công nông” có những tư tưởng
tiến bộ, có thể vận dụng vào cách
mạng Việt Nam. Khâu hiệu “Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc” mà
Người đề ra năm 1945 có phần
vận dụng từ chủ nghĩa tam dân,
kinh nghiệm cách mạng Trung
Quốc và tư tưởng “Tự do - Bình
đẳng - Bác ái” của cách mạng tư
sản Pháp, nhưng đã được Người
phát triển lên một trình độ mới
mang tính giai cấp, tính nhân dân,
tính dân tộc và cách mạng triệt để
của một cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong tiến trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa - Nguồn gốc lý luận chủ yếu Ngoài truyền thống văn hóa dân
Marx-Lenin quyết định sự hình thành tư tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại,
tưởng Hồ Chí Minh về nhà trong nguồn gốc hình thành tư
nước kiểu mới ở Việt Nam là tưởng Hồ Chí minh nói chung và
chủ nghĩa Marx-Lenin về tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nhà nước, nhà nước chuyên nước nói riêng không thể không
chính vô sản, nhà nước xã kể đến chủ nghĩa Marx - Lenin -
hội chủ nghĩa. nguồn gốc lý luận quan trọng và
- Chủ nghĩa Marx-Lenin đã quyết định nhất. Chính thế giới
chỉ cho Hồ Chí Minh con quan và phương pháp luận Marx -
đường giải phóng dân tộc Lenin đã giúp Hồ Chí Minh tổng
đúng đắn là con đường cách kết kiến thức và kinh nghiệm thực
mạng vô sản. tiễn của loài người để tìm ra con
- Phương thức giải quyết vấn đường đi đúng đắn. Lý luận mác
đề chính quyền nhà nước, xít về nhà nước cách mạng vô sản
hiểu biết thấu đáo bản chất là cơ sở để Người đánh giá, phê
nhà nước, cách thức xây phán các học thuyết về tổ chức
dựng nhà nước. nhà nước cũng như thực tiễn tổ
- Khẳng định vai trò của chức nhà nước của các nước tư
quần chúng nhân dân: là bản. Mô hình nhà nước Xô viết
người sáng tạo ra lịch sử, mà Lênin tổng kết là một mô hình
cách mạng là sự nghiệp của nhà nước mà Hồ Chí Minh mong
quần chúng. muốn thiết lập ở Việt Nam. Chính
- Ảnh hưởng, bài học thành phủ công - nông - binh mà Người
công của cách mạng tháng đặt vấn đề phải xây dựng ở Việt
mười Nga. Nam trong Chánh cương vắn tắt là
biểu hiện của mô hình nhà nước
Xô viết. Lênin đã khái quát chỉ ra
một số nguyên tắc xây dựng nhà
nước mới. Mại là, bảo đảm
nguyên tắc toàn bộ quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân; hai là,
quyền lực nhà nước là thống nhất,
không phân chia; ba là, Đảng
Công sản lãnh đạo nhà nước xã
hội chủ nghĩa; bốn là, nhà nước xã
hội chủ nghĩa là nhà nước pháp
quyền ; năm là, nhà nước thực
hiện theo nguyên tắc tập trung dân
chủ. Tắt cả những nguyên tắc
trong xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa mà Lênin đưa ra được
Người tiếp thu và phát triển sáng
tạo để xây dựng một nhà nước thật
sự của dân, đo dân, vì dân ở Việt
Nam.
Trí tuệ và - Tình yêu đất nước, khát - Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
phẩm chất vọng giải phóng dân tộc. nước của dân, do dân, vì dân được
chính trị - Thông minh, bản lĩnh tự hình thành và phát triển trong suốt
của Hồ Chí học. cuộc đời đấu tranh và hoạt động
Minh - Tư duy độc lập, tự chủ, cách mạng của Người, trong đó cơ
sáng tạo, đổi mới. sở lý luận và thực tiễn phong phú
- Bản lĩnh, nghị lực phi của Hồ Chí Minh là một trong
thường. những cơ sở đặc biệt quan trọng
- Luôn gần dân, kính dân, để hình thành tư tưởng về nhà
lắng nghe ý kiến, tâm tư của nước của dân, do dân, vì dân.
nhân dân. - Hồ Chí Minh là người Việt Nam
yêu nước, thương dân và là một
thiên tài của dân tộc Việt Nam.
Nhân cách đó, phẩm chất đó đã
làm nên một anh hùng giải phóng
dân tộc, một danh nhân văn hóa
kiệt xuất của dân tộc Việt Nam.
Xuất phát từ khát vọng yêu nước,
thương dân chuyển thành khát
vọng muốn cứu dân, cứu nước, ra
đi tìm đường cứu nước, xây dựng
lực lượng cách mạng, đoàn kết
dân tộc giành thắng lợi xây dựng
mô hình nhà nước kiểu mới ở Việt
Nam.
- Mục đích và lý tưởng của Hồ
Chí Minh là độc lập cho đất nước,
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Người là mẫu mực về đạo đức
cách mạng, có tác phong bình dị,
chân tình nên có sức cảm hoá lớn
đối với mọi người. Chính vì vậy,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, vì dân thể
hiện sự lựa chọn mô hình nhà
nước đem lại quyền dân chủ thật
sự cho nhân dân. Nhờ đó, Người
đã khơi dậy được trong nhân dân ý
thức dân tộc, tỉnh thần yêu nước
và biến ý thức, tỉnh thần đó thành
sức mạnh đoàn kết toàn dân đánh
giặc, toàn dân xây dựng đất nước.
- Hồ Chí Minh luôn gần gũi và
quan tâm đến đời sống của nhân
dân, luôn động viên thăm hỏi từng
đối tượng, từ cụ già đến trẻ thơ.
Người đã cảm hoá, cuốn hút, tập
hợp và lôi cuốn nhân dân bằng cả
tắm lòng, tận trung với nước, tận
hiếu với dân, bằng cuộc đời người
cách mạng Cần, Kiệm, Liêm,
Chính, chí công vô tư để giải
phóng dân tộc, xây dựng đất nước.
- Là một người yêu nước nhiệt
thành, chân chính, đức độ, lại
được thế giới quan Mác - Lênin
soi sáng đã giúp cho Hồ Chí Minh
nhìn nhận thấu suốt nỗi đau khổ
của nhân dân ta dưới sự thống trị
của thực dân Pháp, thông cảm sâu
sắc nỗi đau của những người dân
mất nước, những người lao động
bị áp bức, bóc lột trên khắp thế
giới. Trên cơ sở đó, giúp cho Hồ
Chí Minh dần dần hình thành
những quan điểm về nhà nước của
dân, do dân, vì dân, gắn kết chặt
chẽ cuộc đấu tranh của nhân dân
ta với cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới, giải quyết đúng
đắn môi quan hệ giữa lợi ích của
nhân dân ta, của cách mạng nước
ta với nhân dân thế giới, cách
mạng thế giới...
- Là một nhà hoạt động thực tiễn
năng động, sáng tạo, ham học hỏi
chịu khó suy nghĩ, tìm tồi và với
một nghị lực phi thường đã giúp
cho Hồ Chí Minh đúc rút được
nhiều kinh nghiệm thực tiễn
phong phú, khái quát; nâng cao
xác lập nhiều luận điểm quan
trọng về đường lối, chủ trương,
chiến lược, sách lược, phương
pháp xây dựng nhà nước của dân,
do dân, vì dân, đưa đến những
thắng lợi quan trọng, to lớn của
cách mạng Việt Nam.
- Sự thống nhất hài hòa giữa tư
tưởng, hành động và đạo đức Hồ
Chí Minh đã làm cho nhà nước
của dân, do dân, vì dân không phải
chỉ là tư tưởng, khẩu hiệu mà thực
sự trở thành động lực, thành sức
mạnh quy tụ toàn dân tộc dưới
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
Thực tiễn - Thực tiễn hoạt động: - Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho
hoạt động + Trong nước: 1890-1911, rằng, thực tiễn hoạt động cách
cách mạng 1941-1969. mạng của Hồ Chí Minh là một cơ
của Hồ Chí + Nước ngoài: 1911-1941 sở có ý nghĩa quyết định đối với
Minh (có cả thời gian bị bắt bớ, tù sự hình thành, phát triển và hoàn
đày). thiện tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh đi nhiều nơi, - Trước khi ra đi tìm đường cứu
làm nhiều nghề, phụ trách nước, Nguyễn Tất Thành đã từng
nhiều cương vị. tận mắt chứng kiến cảnh sống
- Người miệt mài học tập và cùng cực của nhân dân Việt Nam.
nghiên cứu. Điều kiện lịch
- Thực tế đó mang lại cho sử trong nước cuối thế kỷ XIX đầu
Hồ Chí Minh: thế kỷ XX đã giúp cho Người có
+ Rút ngắn quá trình nhận điều kiện tìm hiểu về Nhà nước
thức. phong kiến quân chủ chuyên chế
+ Bạn – thù. và Nhà nước thuộc địa nửa phong
+ Phương pháp giải phóng. kiến.
+ Lựa chọn mô hình nhà - Nhà nước phong kiến là nhà
nước. nước của giai cấp phong kiến địa
+ Tích lũy những hiểu biết chủ, nó nằm trong tay của một số
về chính trường thế giới và ít người. Trong nhà nước đó tồn
những nghi thức của văn tại hai giai cắp chủ yếu: địa chủ
minh chính trị. phong kiến và nông dân. Nhưng
+ Có được tinh thần khoan do chế độ bóc lột của giai cấp địa
dung. chủ phong kiến đối với nông dân
+ Rèn luyện bản lĩnh cách nên mâu thuẫn giữa hai giai cấp
mạng. này rất gay gắt, và đây là mâu
thuẫn chủ yếu trong xã hội.
- Trong xã hội mặc dù cũng có
nhiêu người yêu nước thương dân,
trong đó có cả những ông vua
phong kiến nhưng vẫn còn rất hạn
chế, chưa trở thành một xã hội thật
sự thân dân vì chế độ của xã hội
phong kiến không cho. phép tính
triệt để, giai cấp thống trị không từ
bỏ địa vị thống trị của mình.
“Thân dân” mới chỉ dừng lại ở tư
tưởng chứ chưa trở thành hiện
thực, nó giống như sự ban ơn của
kẻ bề trên đối với bề dưới, chứ
không phải là quyết tâm tận tụy
phục vụ, vì lợi ích của nhân dân.
- Đặc biệt, từ sau khi thực dân
Pháp xâm lược mới thấy rõ sự nhu
nhược của chế độ phong kiến,
đồng thời xuất hiện những mâu
thuẫn đối kháng không thể điều
hòa được. Vì vậy, nếu thực dân
Pháp không xâm lược Việt Nam
thì nhà nước phong kiến cũng
không tồn tại được. Mặc dù cũng
có một số ưu điểm nhưng do bản
chất nên nhà nước đó đã lỗi thời,
lạc hậu, không thể là sự lựa chọn
của nhân dân Việt Nam trong con
đường đi tiếp của lịch sử. Nhà
nước thuộc địa nửa phong kiến là
nhà nước xấu xa, tàn bạo cả về
kinh tế, chính trị, văn hóa, tư
tưởng. Năm 1858, thực dân Pháp
nổ súng xâm lược và xóa tên Việt
Nam trên bản đồ thế giới vào năm
1884 sau khi ký hiệp ước Patonốt.
Nguyễn Tất Thành đã được chứng
kiến chính sách thuộc địa ở Đông
Dương mà thực dân Pháp đang
tiến hành. Đó là chính sách
chuyên chế về chính trị: cắm mọi
quyền tự do, dân chủ của nhân
dân, sự bắt bình đẳng về xã hội,
phân biệt màu đa, thực hiện chính
sách chia để trị...; là chính sách
độc quyền về kinh tế: không cho
nhân dân làm kinh tế, nắm quyền
phân phối lưu thông hàng hóa và
tiền tệ, bóc lột trong công nghiệp,
nông nghiệp...; là chính sách nô
dịch về văn hóa: thực hiện chính
sách ngu dân chia để trị, bán rượu,
bán thuốc phiện nhằm làm cho
nhân dân ta suy kiệt... Đây thực sự
là một chế độ thối nát, tồi tệ hơn
cả chế độ phong kiến, là một chế
độ phản động.
- Đây cũng là thời kỳ mà Nguyễn
Tất Thành chứng kiến sự thất bại
trong việc tìm ra mô hình nhà
nước mới cho cách mạng Việt
Nam. Đó là sự thất bại của phong
trào Cần Vương, phong trào nông
dân Yên Thế với hy vọng, quay lại
xây dựng nhà nước phong kiến
trong khi bản thân nó đã không
đáp ứng được yêu cầu của lịch sử.
Đó là Phan Bội Châu với mô hình
Nhà nước quân chủ lập hiến hoặc
Cộng hòa dân chủ kiểu phương
Tây, Phan Chu Trinh với hy vọng
xây dựng một nền cộng hòa ở Việt
Nam, Việt Nam quốc dân Đảng
với chủ trương đoàn kết trăm họ
để xây dựng nhà nước cộng hòa...
Thời kỳ này được lịch sử đánh giá
là ở trong đêm tối, dường như
không có đường ra, cho thấy sự bế
tắc của các nhà hoạt động cách
mạng trong việc tìm ra con đường
cứu nước nói chung và tìm ra mô
hình nhà nước phù hợp cho Việt
Nam nói riêng.
- Sống dưới chế độ thuộc địa nửa
phong kiến, nhân dân ta phải chịu
cảnh “một cổ hai tròng”: bị bóc lột
dưới họng súng của thực dân Pháp
và dưới thanh gươm của triều đình
phong kiến nhà Nguyễn. Do vậy,
trong xã hội nảy sinh hai mâu
thuẫn: mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với đế quốc và
mâu thuẫn giữa nhân dân (chủ yếu
là nông dân) với địa chủ phong
kiến. Trong đó mâu thuẫn thứ nhất
là mâu thuẫn chủ yếu, đòi hỏi phải
được giải quyết ngay. Chính từ
thực tiễn đó đã thôi thúc Hồ Chí
Minh ra đi tìm đường cứu nước,
tìm một mô hình nhà nước mới
phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
- Hồ Chí Minh đã đến các nước tư
bản Anh, Pháp, Mỹ, đã đến nhiều
nước thuộc địa và phụ thuộc ở
khắp các châu lục. Ở đâu, Người
cũng sống và lao động thực sự như
một người công nhân để xem xét
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội
của các tầng lớp nhân dân; nghiên
cứu các cách thức tổ chức xã hội
và nhà nước, chế độ chính trị hiện
thời; xem xét đời sống, nguyện
vọng, hoạt động đấu tranh của các
dân tộc. Người cũng đã sống và
chứng kiến hai cuộc chiến tranh
thế giới với những tổn thất nặng
nề, những hy sinh to lớn và những
hậu quả thật lâu dài về mọi mặt
của nó; đồng thời qua đó cũng
thấy được sức mạnh quật khởi của
các dân tộc bị áp bức trong cuộc
đấu tranh giải phóng.
- Người đã đi nhiều nơi, làm nhiều
công việc, nghiên cứu, học tập
kinh nghiệm của các nước và phụ
trách nhiều cương vị trong những
điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.
Sau này, Người đào tạo, tổ chức
Đảng Cộng sản Việt Nam, thành
lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa - nhà nước công nông đầu tiên
ở Đông Nam Á; Người đứng đầu
Đảng và Nhà nước ta, lãnh đạo
nhân dân ta đánh thắng hai đế
quốc lớn và xây dựng xã hội mới.
Đó là cơ sở thực tiễn đầy sức sống
cho tư tưởng Hồ Chí Minh hình
thành, phát triển ngày càng phong
phú, toàn diện, nhất là những vấn
đề về chính trị, về Đảng, về Nhà
nước. Nó là kết quả của sự tác
động biện chứng giữa nhận thức
và hành động, lý luận và thực tiễn,
vì vậy mà Người ngày càng tiếp
cận với chân lý của thời đại.
- Từ thực tiễn hoạt động cách
mạng sôi nỗi, phong phú, Hồ Chí
Minh đã tìm ra những quy luật,
đúc kết thành lý luận. Trong
những năm bôn ba ở những nước
tư bản phát triển, Hồ Chí Minh đã
nghiên cứu cách tổ chức nhà nước
ở đó, phê phán những mặt tiêu
cực, tiếp thu những hạt nhân hợp
lý trong quá trình xây dựng mô
hình Nhà nước cách mạng Việt
Nam. Cũng chính xuất phát từ
thực tiễn hoạt động cách mạng mà
Người đã có những bước phát
triển lớn trong tư tưởng về hình
thức nhà nước trong con đường
cách mạng Việt Nam. Đó là sự
chuyển biến trong tư tưởng của
Người từ một nhà nước quyền lực
thuộc về số đông đến Nhà nước
công - nông - binh và cuối cùng là
Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân
dân.

2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
kiểu mới

Nội dung Triển khai ý Mở rộng


Trước lúc * Tiếp thu các giá trị văn Cùng với việc tiếp thu được truyền
Người ra đi hóa dân tộc trong tổ chức, thống yêu nước và lòng nhân ái từ
tìm đường quản lý nhà nước gia đình, quê hương và đất nước,
cứu nước - Truyền thống yêu nước, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
(trước đoàn kết dân tộc và lấy dân truyền thống dân tộc về tổ chức
1911) làm gốc. nhà nước.
- Kinh nghiệm tổ chức, xây Văn Lang là tên nước đầu tiên của
dựng nhà nước và pháp luật dân tộc Việt Nam. Đó là thành quả
của các triều đại phong kiếncủa sự nỗ lực, cố gắng, tập hợp và
Việt Nam. thống nhất lực lượng để giải quyết
* Tiếp thu các giá trị về nhu cầu trị thủy, chống xâm lăng,
xây dựng nhà nước của trao đổi kinh tế, văn hóa ngày một
phương Đông gia tăng giữa các bộ lạc sống gần
* Phê phán nhà nước nhau. Nhà nước Văn Lang – Âu
phong kiến và nhà nước Lạc tuy còn sơ khai, vẫn là sự mở
thuộc địa nửa phong kiến đầu truyền thống dân tộc về tổ
- Nhà nước phong kiến: chức nhà nước. Nó khẳng định một
+ Có 2 giai cắp chủ yếu. thành quả, một công lao to lớn của
+ “Thân dân” mới chỉ dừng dân tộc. Nhà nước ra đời sớm là cơ
lại ở tư tưởng chứ chưa trở sở, nền tảng vững bền cho quá
thành hiện thực. trình sinh tồn và phát triển về sau
+ Thể hiện sự bát lực trước của quốc gia - dân tộc Việt Nam.
sự xâm lược của thực dân Với nước Văn Lang - Âu Lạc,
Pháp. người Việt đã có một lãnh thổ
- Nhà nước thuộc địa nửa chung, một tiếng nói chung, một cơ
phong kiến: xấu xa, tàn sở kinh tế - xã hội gắn bó trong
bạo, bóc lột. một thể chế nhà nước sơ khai, một
+ Không có một bộ luật công lối sống mang sắc thái riêng, biểu
bằng. thị trong một nền văn minh văn hóa
+ Chuyên chế về chính trị. chung, đã tự khẳng định sự tồn tại
+ Độc quyền về kinh tế. của mình như một quốc gia văn
+ Nô dịch về văn hóa. minh có đủ điều kiện và đủ khả
* Chứng kiến sự thất bại năng vững vàng tiến lên vượt qua
trong việc tìm ra mô hình mọi thử thách của lịch sử.
nhà nước mới cho cách Nhà nước từ thời kỳ đấu tranh
mạng Việt Nam. giành độc lập dân tộc (từ 179 trước
- Phan Bội Châu: mô hình CN đến đầu thế kỷ X) đến thời độc
nhà nước quân chủ lập hiến lập tự chủ (từ thế kỷ X đến giữa thế
hoặc cộng hòa dân chủ kiểu kỷ XIX) về căn bản đó là tổ chức
phương Tây. nhà nước được thiết lập sau khi
đánh bại quân xâm lược. Tùy theo
- Phan Châu Trinh: xây dựng hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của
một nền cộng hoà ở Việt mỗi giai đoạn lịch sử mà việc xây
Nam. dựng chính quyền có những hình
- Việt Nam quốc dân Đảng: thái tổ chức, tính chất và mục tiêu
xây dựng NN cộng hoà. nhà nước khác nhau. Chính quyền
tự chủ thời Hai Bà Trưng mới chỉ
là mầm mống đầu tiên của một
chính quyền độc lập (từ năm 40
đến năm 43). Đến chính quyền tự
chủ họ Khúc (905-938) đã là một
chính quyền độc lập Trung ương
đến cấp xã, mà đường lối chính trị
chung của Khúc Hạo là “Chính sự
cốt chuộng khoan dung, giản dị,
nhân dân đều được yên vui”. Chính
quyền trung ương độc lập thời Ngô
Quyền, theo nhận xét của Ngô Sĩ
Liên thì “có thể thấy được quy mô
của đế vương”. Đến Đinh Bộ Lĩnh,
“bắt đầu định giai phẩm cho các
quan văn võ và tăng đạo”. Là sản
phẩm của cuộc đấu tranh chống
Bắc thuộc, nhà nước độc lập tự chủ
từ họ Khúc đến tiền Lê, có tiếp thu
ít nhiều tổ chức chính quyền đô hộ
phương Bắc. Nhưng nét trội, xuyên
suốt, trước sau nhất quán là các
vương triều luôn luôn vươn lên tự
khẳng định ở mức độ cao hơn chủ
quyền quốc gia đối với nạn ngoại
xâm và củng cố thêm sức mạnh của
nhà nước tập quyền trên cơ sở cố
kết các cộng đồng công xã nông
thôn vào cộng đồng quốc gia dân
tộc.
Thời nhà Lý với việc dời đô từ Hoa
Lư về Đại La đổi tên là thành
Thăng Long với ý đồ “mưu toan
việc lớn, tính kế lâu dài cho con
cháu đời sau”, phản ánh niềm tự
hào, lòng tin, quyết tâm của cả một
dân tộc giữ vững nền độc lập dân
tộc của Tổ quốc. Nước Đại Việt
phản ánh ý thức cao trong quan hệ
bình đẳng với các nước lúc bấy
giờ. Chế độ trung ương tập quyền
thời Lý dựa trên chế độ sở hữu nhà
nước về ruộng đất, có những bước
phát triển toàn diện, đặt nền tảng
vững chắc cho sự phát triển bền
vững, liên tục sau này của dân tộc.
Cũng như thời nhà Lý, Đinh, trong
khi củng cố quốc gia thống nhất,
nhà Trần đặt các chức quan tôn
giáo như quốc sư, tăng thống, tăng
lục, tăng chính. Từ lúc nhà Lý mở
khoa thi để tuyển chọn nhân tài
(1075) đến nhà Trần, việc tuyển
dụng quan lại bằng khoa cử phát
triển hơn. Dưới thời nhà Trần, văn
hóa dân tộc phát triển rực rỡ. Chữ
Nôm bắt đầu được phổ biến và sử
dụng trong sáng tác văn học.
Thế kỷ XV, nhà nước ta bước vào
một thời kỳ mới, thời kỳ phát triển
nhà nước phong kiến trung ương
tập quyền. Đó là một bộ máy nhà
nước quan liêu, nặng nề, các chế độ
cai trị được thể chế hóa một cách
cụ thể. Quá trình tổ chức, hoạt
động của bộ máy nhà nước có sự
giám sát lẫn nhau của một số cơ
quan nhà nước. Nhìn chung, nước
Đại Việt thế kỷ XV là một quốc gia
hùng mạnh, vừa bảo vệ được toàn
vẹn lãnh thổ, vừa đánh bại mọi âm
mưu xâm lược từ bên ngoài.
Thời kỳ nội chiến Đàng Trong -
Đàng Ngoài là một giai đoạn lịch
sử đặc biệt của Việt Nam. Bộ máy
nhà nước mang nặng tính chất quan
liêu, chuyên chế, cồng kềnh, phức
tạp, nặng về quân sự. Nhân dân bị
đè nén nặng nề, đời sống cực khổ.
Nạn tham nhũng trở nên phổ biến.
Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay
gắt. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn là
tiêu biểu nhất dẫn tới việc thiết lập
vương; triều Quang Trung, một
vương triều vừa nặng tính chất
quan liêu như các triều đại phong
kiến trước đó, vừa thể hiện ý thức
độc lập và tự cường dân tộc, mà
biểu hiện rõ nét là chăm lo đến việc
khôi phục kinh tế và phát triển văn
hóa.
Thế kỷ XVIII khép lại với việc
chấm dứt vương triều Tây Sơn,
nhường chỗ cho triều đại phong
kiến cuối cùng ở Việt Nam với một
nhà nước quân chủ chuyên chế tập
trung cao độ - triều Nguyễn. So với
việc tăng cường xây
dựng, phát triển các nhà nước trước
khi xuất hiện triều Nguyễn, việc
củng cố chế độ phong kiến triều
Nguyễn là việc làm đi ngược lại
quy luật khách quan, không phù
hợp với xu thế phát triển của thế
giới ở thế kỷ XIX, khi mà phương
thức sản xuất phong kiến đã trở nên
lỗi thời. Vì vậy, vấn đề nhà nước
thời Nguyễn, với nhiều hạn chế và
tiêu cực của nó, là một trong những
nguyên nhân dẫn tới sự suy vong
không thể tránh khỏi. Nhà nước
chìm vào một thời kỳ khủng hoảng
triền miên, trầm trọng, dẫn tới sự
thất bại trước những nhiệm vụ lịch
sử trọng đại giữa thế kỷ XIX.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi
thực dân Pháp đã đặt được ách đô
hộ hoàn toàn vào nước ta. Chúng
đã thiết lập được bộ máy cai trị
thực dân phong kiến trên toàn cõi
Đông Dương. Hơn hai mươi năm
sống, học tập trong môi trường văn
hóa gia đình, quê hương, dân tộc,
Hồ Chí Minh được tiếp xúc, học
tập với các thầy giáo và những sĩ
phu yêu nước đầy nhiệt huyết, mà
trước hết là người cha thân yêu, rồi
Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý,
Hoàng Phan Quỳnh... Ngoài những
trang sách Nho giáo như Tam
Thiên Tự, Tam Tự Kinh, Ngũ Tự
Kinh, Kinh Thư..., Người còn đọc
nhiều sách về lịch sử Việt Nam.
Nguồn tri thức phong phú trong các
sách lịch sử đã giúp Hồ Chí Minh
hiểu biết về truyền thống đoàn kết
chống địch họa, thiên tai trong quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ
nước lâu dài, gian khổ của dân tộc.
Những kiến thức lịch sử và truyền
thống dựng nước của dân tộc đã in
đậm trong các trang sách của
Người. Hồ Chí Minh thường nhắc
nhở “dân ta phải biết sử ta”. Sử ta
dạy cho ta am tường gốc tích nước
nhà Việt Nam; hiểu biết và nòi
giống “con Rồng cháu Tiên”.
Người coi đó là nền tảng tinh thần
vững chắc để khôi phục nước nhà
tổ tông, giành lấy chủ quyền nhằm
mục đích vì nước vì nhà; vì tên
Nam Việt rạng danh Lạc Hồng.
Rõ ràng là dân tộc ta có một truyền
thống vẻ vang về dụng nước và tổ
chức nhà nước. Truyền thống đó có
sự tác động theo nhiều hướng khác
nhau tới tuổi trẻ Hồ Chí Minh, mà
ảnh hưởng sâu sắc nhất, in đậm
nhất trong suy tư của Người là tinh
thần hòa thuận, tạo công sức dựng
nước cùng ý thức, ý chí quật cường
khôi phục và giữ vững chính quyền
của thế hệ đi trước. Tinh thần dựng
nước và giữ nước của người xưa
truyền cho Hồ Chí Minh niềm tin,
sức mạnh và quyết tâm giành độc
lập, tự do. Từ đó Người muốn đi ra
nước ngoài, xem các nước làm như
thế nào rồi trở về giúp đồng bào trở
thành suy nghĩ thường trực, nỗi day
dứt lớn đối với Hồ Chí Minh.

Khảo sát * Sự tìm tòi mô hình nhà Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh khảo
các kiểu nước cả trong lý luận và thực sát các mô hình nhà nước trên thế
nhà nước tiễn. giới, và cùng với quá trình nhận
trên thế - Học thuyết, lý luận bàn về thức, Người dần dần hình thành tư
giới (1911- nhà nước. tưởng về nhà nước với những tên
1940) - Kinh nghiệm xây dựng nhà gọi, những đặc trưng khác nhau.
nước kiểu mới của Ra đi từ bến cảng Nhà Rồng, trong
Công xã Pari. quá trình bôn ba khắp các châu lục,
- Đánh giá 2 cuộc cách mạng đại dương, Nguyễn Ái Quốc đã bắt
tư sản và nhà nước tay vào tìm tòi mô hình nhà nước
tư sản: cả trong lý luận và trong thực tiễn.
+ Nhà nước của số ít người. Trong các học thuyết, lý thuyết bàn
+ Nền dân chủ thực hiện ko về nhà nước và pháp luật, các tác
đến nơi, ko triệt để. phẩm của Môngtexkiơ, Vônte,
+ Đa số nhân dân vẫn rất cực Rútxô, Tôn Dật Tiên, các tác phẩm
khổ. của Mác, nhất là cuốn Nhà nước và
- Khảo sát nhà nước Xô viết cách mạng của Lênin... có chứa
- Nga: đựng nhiều tư tưởng tiến bộ về nhà
+ Nhà nước của số đông. nước pháp quyền sau này được
+ Thực hiện nền dân chủ Người kế thừa và phát triển. Trước
triệt để. đó, khi còn ở trong nước, Người
+ Làm nghĩa vụ quốc tế chân cũng đã biết đến những điểm tiến
chính. bộ trong tư tưởng thân dân của Nho
-> Mô hình nhà nước này đã giáo, của nhà nước phong kiến Việt
gợi ý cho Người về 1 kiểu Nam.
nhà nước được xây dựng Bằng thực tiễn sinh động, với cách
trong tương lai. Mô hình đó nhìn sáng suốt, Người đã khảo sát,
lần đầu tiên Người nêu ra đánh giá chính xác ba cuộc cách
trong Chánh cương vắn tắt, mạng và ba kiểu nhà nước của Mỹ,
Sách lược văn tắt của Đảng. Pháp, Nga. Người cho rằng nhà
* Dần dẫn hình thành nước tư sản Mỹ, Pháp là sản phẩm
TTHCM về nhà nước: của “những cuộc cách mệnh không
- Tư tưởng về NN coi trọng đến nơi” vì chính quyền vẫn nằm
vai trò của PL trong tay một số ít người. Xã hội
Yêu sách 8 điểm của nhân bất bình đẳng, nghèo đói, nạn phân
dân An Nam. biệt chủng tộc và biết bao sự bạo
- Tư tưởng về nhà nước của tàn bất công khác khiến cho đời
số đông người sống của đa số nhân dân, nhất là
Bản án chế độ thực dân nhân dân lao động vẫn rất cực khổ.
Pháp, Đường kách mệnh. Về cách mạng Mỹ, Người viết:
- Tư tưởng về nhà nước công “Trong lời tuyên ngôn của Mỹ" có
- nông – binh câu rằng: “Giời sinh ra ai cũng có
Cương lĩnh chính trị đầu tiên quyền tự do, quyền giữ tính mệnh
của Đảng. của mình, quyền làm ăn cho sung
sướng... Hễ chính phủ nào mà có
hại cho dân chúng, thì dân chúng
phải đạp đổ Chính phủ ấy đi, và
gây lên chính phủ khác... Nhưng
bây giờ chính phủ Mỹ lại không
muốn cho ai nói đến cách mệnh, ai
đụng đến Chính phủ!”. Cách mạng
Pháp thì cũng không hơn gì: “Tư
bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng,
Đồng bảo để lừa dân, xúi dân đánh
đổ phong kiến. Khi dân đánh đổ
phong kiến rồi, thì nó lại thay
phong kiến mà áp bức dân. Cách
mệnh Pháp cũng như cách mệnh
Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản,
cách mệnh không đến nơi, tiếng là
cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong
thì nó tước lục công nông, ngoài thì
nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã
4 lần rồi, mà nay công nông Pháp
hẵng còn phải mưu cách mệnh lần
nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp
bức". Rõ ràng đây không phải là
nhà nước của dân vì đa số nhân
dân, nhất là nhân dân lao động vẫn
rất cực khổ nên Người không lựa
chọn mô hình nhà nước tư sản,
không đi theo cách mạng tư sản,
xây dựng nhà nước dân chủ tư sản.
Khác với nhà nước Mỹ, Pháp là
nhà nước Xô viết Nga. Đây là nhà
nước ra đời từ cách mạng Tháng
Mười Nga 1917: “Trong thế giới
bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã
thành công, và thành công đến nơi,
nghĩa là dân chúng được hưởng cái
hạnh phúc tự do, bình đẳng thật,
không phải tự do bình đẳng giả dối
như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe
khoang bên An Nam. Cách mệnh
Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa
chủ rồi, lại ra sức cho công, nông
các nước và dân bị áp bức các
thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ
tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản
trong thế giới”. Người đã tìm thấy
ở đó một mô hình nhà nước kiểu
mới: “… phát ruộng đất cho dân
cày, giao công xưởng cho thợ
thuyền... ra sức tổ chức kinh tế
mới, để thực hành chủ nghĩa thế
giới đại đồng” và Người quyết định
lựa chọn kiểu nhà nước theo chủ
nghĩa Mác-Lênin, tức là phải lật đổ
chính quyền thực dân phong kiến,
lập nên Nhà nước kiểu mới của
mình - nhà nước mang bản chất của
giai cấp công nhân, của dân tộc
Việt Nam.
Cùng với quá trình nhận thức đó,
Hồ Chí Minh đã dần hình thành tư
tưởng của mình về nhà nước.
Trước tiên, đó là tư tưởng về nhà
nước coi trọng vai trò của pháp
luật. Năm 1919, nhân danh một
nhóm người Việt Nam yêu nước tại
Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi đến
Hội nghị Vécxây Bản yêu sách của
nhân dân An Nam đòi quyền tự do
tối thiểu cho dân tộc mình. Người
đề xuất tư tưởng về một nhà nước
dân chủ, gắn với việc thủ tiêu nhà
nước thuộc địa, phong kiến, thực
hiện các quyền tự do dân chủ, các
quyền con người. Và vượt trội hơn
là tư tưởng về nhà nước pháp
quyền đã được hình thành trong
giai đoạn này:
“Hai xin phép luật sửa sang,
Người Tây người Việt hai phương
cùng đồng”
… “Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp
quyền”
Sau khi gửi Bản yêu sách của nhân
dân An Nam đến Hội nghị Vecxây
vào giữa năm 1919, Nguyễn Ái
Quốc đã soạn ra bài diễn ca với tựa
đề Việt Nam yêu cầu ca (1922)
bằng lối thơ để dễ phổ biến. Và ở
đó ta thấy một triết lý chính trị
được Người nêu ra: hiến pháp là
tiền đề của pháp quyền, có hiến
pháp mới có pháp quyền. Do đó,
yêu cầu về hiến pháp cũng có nghĩa
là yêu cầu về pháp quyền. Pháp
quyền vốn là một lý thuyết của
phương Tây, pháp quyền thực chất
là một mô thức tổ chức xã hội mà
trong đó nhà nước cũng như mọi
chủ thể khác trong xã hội phải chịu
sự cương tỏa của quyền lực của
pháp luật. Và theo Nguyễn Ái
Quốc, “thần linh” làm cho pháp
luật có quyền lực ràng buộc mọi
chủ thể trong xã hội. Dẫn chiếu đến
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí
Minh, nhà nghiên cứu Nguyễn Sĩ
Dũng cho rằng “thần linh” ở đây
chính là “pháp luật của tạo hóa”
(còn được gọi là pháp luật tự
nhiên). Pháp quyền gắn với pháp
luật của tạo hóa là nguyên nhân sâu
xa dẫn đến cái gọi là “thần linh
pháp quyền”. Điều đáng nói thêm
là Nguyễn Ái Quốc yêu cầu pháp
quyền đối với “trăm điều”, tức là
mọi thứ, toàn xã hội chứ không
phải chỉ có nhà nước. Pháp quyền
không đơn thuần chỉ là mô thức tổ
chức nhà nước mà còn là mô thức
tổ chức xã hội.
Từ năm 1925 - 1927, tác phẩm Bản
án chế độ thực dân Pháp và Đường
cách mệnh được xuất bản. Trên
phương diện nhà nước, Người đã
đề cập đến quan niệm về một nhà
nước của số đông, thực hiện một
nền dân chủ cho đa số theo mô
hình kiểu nhà nước Xô viết:
“chúng ta đã hy sinh làm cách
mệnh, thì nên làm cho đến nơi,
nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì
quyền giao cho dân chúng số
nhiều, chớ để trong tay một bọn ít
người”. Trong tác phẩm Bản án chế
độ thực dân Pháp, từ sự phủ nhận
chính quyền của thực dân Pháp ở
Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã
không chấp nhận một chính quyền
bất hợp hiến trên đất nước ta -
chính quyền thuộc địa cai trị theo
một lề lối tùy tiện, độc đoán. Người
vạch trần cái gọi là “Khai hóa văn
minh” của chế độ cai trị thực dân
Pháp: “Đối với dân bản xứ, thì phải
giữ họ Vĩnh viễn trong cảnh nô lệ”,
“Nhà tù nhiều hơn trường học, lúc
nào cũng mở cửa và chật ních
người”, “một nghìn năm trăm ty
rượu và thuốc phiện cho một nghìn
làng trong khi chỉ có mười trường
học cũng cho bấy nhiêu làng”...
Người còn chỉ ra âm mưu và thủ
đoạn che giấu tội ác của chúng “để
che đậy sự xấu xa của chế độ bóc
lột giết người, chủ nghĩa tư bản
thực dân luôn luôn điểm trang cho
cái huy chương mục nát của nó
bằng những châm ngôn lý tưởng:
Bác ái, Bình đẳng...” Lúc này,
trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc,
Việt Nam phải được độc lập và có
chủ quyền, mô hình tổ chức nhà
nước Việt Nam trong tương lai
phải là một mô hình chính diện đối
lập với mô hình phản diện của
chính quyền thuộc địa.
Nhà nước số đông ở trên được
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng (2/1930) do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo cụ thể hóa dưới hình thức
nhà nước công nông binh kiểu mô
hình Xô viết ở Nga. Và trên thực tế
mô hình chính quyền công nông
binh đã được hiện thực hóa trong
phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh
1930 - 1931 và tỏ ra không phù
hợp với điều kiện thực tiễn Việt
Nam.
Như vậy, mặc dù vẫn còn rất sơ
khai nhưng Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh lúc này đã dần định hình
trong đầu mô hình một nhà nước
kiểu mới với những tên gọi khác
nhau như: nhà nước coi trọng vai
trò pháp luật, nhà nước của số đông
người, nhà nước công nông binh.
Cùng với quá trình hoạt động cách
mạng, tư tưởng này của Người sẽ
dần được phát triển và hoàn thiện.
Có thể nói, từ mô hình nhà nước
công nông binh chuyển sang mô
hình nhà nước đại biểu cho khối
đoàn kết của toàn thể quốc dân là
một bước chuyển sáng suốt của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh,
phản ánh được nét đặc thù của thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
Thời kỳ * 1941-1945: Tư tưởng Hồ
hình thành Chí Minh về mô hình nhà - Thời kỳ 1941-1945: Tư tưởng
và xây nước dân chủ nhân dân cơ Hồ Chí Minh về mô hình nhà
dựng nhà bản được hình thành. nước dân chủ nhân dân cơ bản
nước dân + Triển khai thực hiện được hình thành.
chủ nhân những hình thức tiền thân
+ Giai đoạn từ năm 1941 đến
dân (1941- của nhà nước kiểu mới ở
trước Cách mạng Tháng Tám 1945:
1969) Việt Nam.
đây là giai đoạn Nguyễn Ái Quốc
+ Mô hình nhà nước công
triển khai thực hiện những hình
nông binh chuyển sang mô
thức tiền thân của nhà nước kiểu
hình nhà nước dân chủ nhân
mới ở Việt Nam. Mặt trận Việt
dân.
Minh, các Ủy ban nhân dân cách
+ Năm 1945, phong trào
mạng tỉnh, liên tỉnh và Chương
phát triển mạnh, khu giải
trình Việt Minh chính là những
phóng là hình ảnh “nước
hình thức tiền thân của Nhà nước
Việt Nam mới phôi thai”.
và pháp luật kiểu mới ở Việt Nam.
* 1945-1954: xây dựng nhà
nước hợp pháp, hợp hiến, + Hội nghị lần thứ 8 (5/1941) của
vừa kháng chiến vừa kiến do Người chủ trì đã quyết định thay
quốc. đổi chiến lược cách mạng tư sản
- 2/9/45, Người đọc Tuyên dân quyền thành cách mạng giải
ngôn độc lập, khai sinh ra phóng dân tộc. Người đã quyết
nước Việt Nam mới.
- Lập ra bộ máy nhà nước
+ Tổng tuyển cử 6/1/46: bầu định thành lập Mặt trận Việt Minh
Quốc hội, chính phủ và sẽ thành lập một nước Việt Nam
liên hiệp chính thức. dân chủ mới theo tinh thần dân
+ 2/3/46, Quốc hội họp chủ. Chương trình Việt Minh công
phiên đầu tiên. bố ngày 25/10/1941, ghi rõ : “Sau
- Xây dựng, thực hiện hiền khi đánh đổ được bọn đế quốc phát
pháp và pháp luật. xít Nhật, Pháp, sẽ lập nên Chính
+ Ban hành Hiến pháp phủ cách mạng của nước Việt Nam
11/46. Dân chủ Cộng hoà, theo tinh thần
+ Ban hành nhiều luật, sắc dân chủ, lấy cờ đỏ giữa có ngôi
lệnh liên quan đến tổ chức sao vàng năm cánh làm cờ chung
bộ máy nhà nước. của nước. Chính phủ của nước
-> Tuyên ngôn độc lập tạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, do
điều kiện cho sự ra đời của Quốc dân đại hội cử ra”.
Hiến pháp, Hiến pháp lại ghi
+ Trong Thư gửi đồng bào toàn
nhận những giá trị độc lập
quốc (tháng 10/1944) Hồ Chí Minh
mà Tuyên ngôn đã ghi nhận.
cũng nói rõ: Trước hết cần có một
* 54-69: tư tưởng về nhà
Chính phủ đại biểu cho sự chân
nước xã hội chủ nghĩa
thành đoàn kết và hành động nhất
của dân, do dân, vì dân.
trí của toàn thể quốc dân, gồm tất
- Chăm lo kiện toàn, tổ chức
cả các đảng phái cách mệnh, các
bộ máy nhà nước.
đoàn thể ái quốc trong nước cử ra.
- Thực hiện pháp luật
“Một cơ cấu như thế mới đủ lực
nghiêm minh.
lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo
Vai trò của Hồ Chí Minh
công việc cứu quốc, kiến quốc,
trong tổ chức và hoạt động
ngoài thì giao thiệp với các hữu
của nhà nước Việt Nam
bang”. Như vậy, từ mô hình nhà
được thể hiện:
nước công nông binh chuyển sang
+ Là người sáng lập nhà
mô hình nhà nước dân chủ nhân
nước, đứng đầu nhà nước
dân- đại biểu cho khối đoàn kết của
trong 24 năm, để lại dấu ấn
toàn thể quốc dân là một bước
sâu sắc về phong cách lãnh
chuyển sáng suốt của Hồ Chí
đạo, trở thành chuẩn mực.
Minh, của Ban Chấp hành Trung
+ Xác lập cơ sở, nền móng
ương Đảng, phản ánh được nét đặc
pháp lý, tổ chức hoạt động
thù của thực tiễn dân tộc, phù hợp
của nhà nước.
với sự chuyển hướng chiến lược và
+ Khơi nguồn cho truyền
sách lược của Cách mạng Việt
thống dân chủ hiện đại ở
Nam.
Việt Nam.
+ Năm 1945, phong trào phát triển
mạnh, căn cứ địa cách mạng được
mở rộng, hình thành một vùng rộng
lớn gồm sáu tỉnh : Cao - Bắc -
Lạng - Hà - Tuyên - Thái và một số
vùng ngoại vi,...Trước tình hình đó,
Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Khu
giải phóng, cử ra Uỷ ban chỉ huy
lâm thời, thực hiện chức năng của
chính quyền cách mạng. Tại các
địa phương trong khu giải phóng,
các Uỷ ban nhân dân cách mạng
cũng được thành lập. Khu giải
phóng (với Tân Trào là Thủ đô) là
hình ảnh “nước Việt Nam mới phôi
thai”.

+ Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn


quốc của Đảng họp tại Tân Trào đã
đi đến quyết định lịch sử: phát
động Tổng khởi nghĩa giành lấy
chính quyền trong toàn quốc, thành
lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt
Nam, ra mắt Quốc dân đại hội,
thực hiện chức năng của Chính phủ
lâm thời ngay sau Cách mạng
tháng Tám thắng lợi.

+ Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam


dân chủ cộng hoà - Nhà nước dân
chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam
Á ra đời. Trong buổi ra mắt quốc
dân của Chính phủ lâm thời, trên
cương vị là Chủ tịch đầu tiên của
nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh
đã có công đầu tiên trong việc đặt
nền móng xây dựng một nhà nước
kiểu mới trong lịch sử dân tộc :
Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Thời kỳ 1945-1954: Tư tưởng
về Nhà nước thực sự của dân, do
dân và vì dân thực sự được hình
thành và phát triển.

+ Sau khi nước Việt Nam ra đời,


đứng trước giặc đói, giặc dốt, giặc
ngoại xâm và nhiều khó khăn, thử
thách, vận mệnh dân tộc bị đe dọa,
chính quyền cách mạng như ngàn
cân treo sợi tóc.

+ “Giữ vững chính quyền cách


mạng” là nhiệm vụ trọng tâm mà
Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác
định trong thời kỳ 1945-1946.
Chính quyền là vấn đề cơ bản của
mọi cuộc cách mạng, có chính
quyền là có tất cả.

+ Ngày 6-1-1946 cuộc Tổng tuyển


cử trong phạm vi cả nước đã diễn
ra trong bối cảnh bộn bề khó khăn,
nhiều cán bộ và nhân dân đã hy
sinh song cuộc Tổng tuyển cử đã
giành thắng lợi to lớn, nhân dâm ta
đã bầu ra Quốc hội đầu tiên của
mình, Quốc hội khoá I đã bầu ra
Chính phủ chính thức do Hồ Chí
Minh đứng đầu và cử Hồ Chí Minh
làm trưởng ban soạn thảo Hiến
pháp. Cuối năm 1946 Quốc hội đã
thông qua Hiến pháp đầu tiên của
nước ta.

 Cùng với Tuyên ngôn độc


lập, Hiến pháp 1946 là văn
bản pháp lý khẳng định độc
lập chủ quyền của nước Việt
Nam mới, nhà nước dân chủ
nhân dân ở Việt Nam. Đồng
thời là cơ sở cho việc xây
dựng nhà nước dân chủ nhân
dân - nhà nước mang bản
chất của giai cấp công nhân
trên phạm vi cả nước trong
cuộc kháng chiến, kiến quốc.

+ Ngày 19-12-1946 Hồ Chí Minh


ra lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến với quyết tâm “Thà hy sinh
tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ” để giữ vững độc lập
thống nhất và chủ quyền của dân
tộc, giữ vững chế độ dân chủ nhân
dân, mở đầu công cuộc kháng
chiến - kiến quốc của nhân dân ta.

+ Kháng chiến để bảo vệ đất nước,


bảo vệ công cuộc kiến thiết đất
nước, kiến quốc để phục vụ kháng
chiến thắng lợi và xây dựng tiền đề
cho xây dựng chủ nghĩa xã hội về
sau.

+ Vai trò của nhà nước càng quan


trọng và cấp thiết Hồ Chí Minh và
Đảng ta luôn quan tâm xây dựng
nhà nước dân chủ nhân dân về mọi
mặt, trên phạm vi cả nước để điều
hành cuộc kháng chiến - kiến quốc
đó.

- Thời kỳ 1954-1969: Tư tưởng


về xây dựng Nhà nước xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân

+ Trong giai đoạn 1954-1969, tư


tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
kiểu mới có nhiều vấn đề đã tiếp
tục được bổ sung và phát triển, hợp
thành một hệ thống những quan
điểm:
+ Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng
đắn vấn đề đó là chính quyền là
phải do nhân dân lao động lãnh
đạo, và đó là điểm để phân biệt nhà
nước kiểu mới ở Việt Nam và nhà
nước kiểu cũ của thực dân phong
kiến và giai cấp tư sản.
+ Cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc theo cách mạng vô sản chúng ta
sẽ phải có một nhà nước của mọi
tầng lớp giai cấp và do nhân dân
lao động lãnh đạo.
+ Khẳng định vai trò to lớn của Hồ
Chí Minh trong việc sáng lập nhà
nước, phong cách lãnh đạo, hiến
pháp, pháp luật làm cơ sở pháp lý
nền tảng tư tưởng nhà nước việc
xây dựng hoàn thiện nhà nước.

Chương II: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới

Nội dung Triển khai ý Mở rộng


Nhà Nhà nước mới mà Thực chất khái niệm nhà nước
nước của Hồ Chí Minh chủ trương “của dân, do dân, vì dân” không phải
dân, do xây dựng phải là nhà nước do Hồ Chí Minh là người đầu tiên nêu
dân, vì của dân tộc, tiêu biểu cho ra. Người đầu tiên nêu ra là Tổng thống
dân khối đại đoàn kết toàn dân, Mỹ Lincôn - người đã tiến hành cuộc
tập hợp được đội ngũ cán chiến tranh ly khai nhằm xóa bỏ chế độ
bộ, công chức có đủ đạo nô lệ ở Mỹ. Ông từng tuyên bố: “Chế
đức và tài năng tham gia độ dân chủ là chính quyền của dân, do
vào công cuộc xây dựng dân và vì dân. Một chính quyền như
nhà nước. Đây phải là nhà vậy sẽ không tàn lụi khỏi trái đất này”.
nước thật sự “của dân, do Khái niệm “Nhà nước của dân,
dân, vì dân”. do dân, vì dân” được Hồ Chí Minh
1. Nhà nước của dân dùng lần đầu tiên năm 1927 khi ở
- Thứ nhất, mọi quyền lực Quảng Châu, Người nêu lên ý tưởng
thuộc về nhân dân. của nhà cách mạng Tôn Trung Sơn
- Thứ hai, dân có quyền muốn: “thành lập ở Trung Quốc một
dân chủ, có quyền làm bất chính phủ của dân, do dân và vì dân
cứ điều gì pháp luật không theo 3 nguyên tắc lớn của Người sáng
cấm và có nghĩa vụ tuân lập Quốc dân đảng”. Về sau, trong bài
theo pháp luật. Dân vận đăng trên báo Sự thật số 120
- Thứ ba, dân có quyền ngày 15/10/1949, Hồ Chí Minh viết:
kiểm soát, giám sát mọi “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN
hoạt động của nhà nước và CHỦ
có quyền bãi miễn đại biểu Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Quốc hội và đại biểu Hội Bao nhiêu quyền hạn đều của
đồng nhân dân các cấp. dân.
2. Nhà nước do dân Công việc đổi mới, xây dựng là
- Thứ nhất, nhà nước do trách nhiệm của dân.
dân lập ra. Sự nghiệp kháng chiến, kiến
- Thứ hai, dân bầu ra đại quốc là công việc của dân.
biểu thay mặt dân vào cơ Chính quyền từ xã đến Chính
quan nhà nước thông qua phủ trung ương do dân cử ra.
chế độ bầu cử phổ thông Đoàn thể từ Trung ương đến xã
đầu phiếu, dân chủ trực do dân tổ chức nên.
tiếp. Nói tóm lại, quyền hành và lực
- Thứ ba, dân có trách lượng đều ở nơi dân”.
nhiệm, nghĩa vụ đối với 1. Nhà nước của dân
nhà nước. Thứ nhất, mọi quyền lực thuộc
3. Nhà nước vì dân về nhân dân.
- Thứ nhất, nhà nước phục Theo Hồ Chí Minh, nhà nước
vụ nhân dân. của dân nghĩa trước tiên là quyền lực
- Thứ hai, cán bộ nhà nước thuộc về nhân dân. Điều này được Hiến
là “công bộc” của nhân pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh làm
dân. trưởng ban soạn thảo đã xác định rõ:
“Điều thứ 1. Nước Việt Nam là
một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả
quyền bính trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam, không phân biệt
giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo”.
“Điều 32. Những việc quan hệ
đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân
dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng
số nghị viên đồng ý”. Thực chất đó là
chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức
dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở
nước ta.
Quan điểm này nhất quán trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ
Chí Minh. Các Hiến pháp năm 1946,
1959 đều thể hiện tinh thần đó. Chủ thể
của quyền lực xã hội, quyền lực nhà
nước là nhân dân thì các đại diện của
dân, do dân cử ra chỉ là thừa ủy quyền
của dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhân dân với tư cách là chủ thể quyền
lực nhà nước được hiểu là toàn thể
nhân dân chỉ trừ bọn phản quốc. Đồng
thời, xuất phát từ lòng yêu thương, quý
trọng nhân dân, Người thấy rõ nguồn
gốc sức mạnh vô tận của nhân dân. Chỉ
có nhân dân mới có đủ sức mạnh để
giành, giữ và thực thi quyền lực của
mình, trong đó có quyền lực nhà nước.
Vì vậy, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải thực
hiện cho được khối đại đoàn kết toàn
dân tộc để phát huy cao độ sức mạnh
của nhân dân.
Thứ hai, dân có quyền dân chủ,
có quyền làm bất cứ việc gì pháp luật
không cấm và có nghĩa vụ tuân theo
pháp luật.
Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí
Minh được hiểu theo hai nghĩa: dân là
chủ - chỉ vị thế, tư cách xã hội của dân
và dân làm chủ - chỉ trách nhiệm, năng
lực của dân. Trong tư duy và trong hoạt
động thực tiễn, Hồ Chí Minh đặc biệt
chú ý đến sự khác biệt, đến khoảng
cách nhiều khi rất lớn này giữa tư cách
“dân là chủ” với trạng thái “dân làm
chủ”, giữa chủ trên thực tế và chủ trên
danh nghĩa. Hồ Chí Minh luôn đặt lên
hàng đầu yêu cầu nhà nước ta phải làm
sao cho “dân biết hưởng quyền dân
chủ”. Để làm được điều đó, nhân dân
không những phải có quyền mà điều
cũng rất quan trọng là nhân dân phải có
khả năng, năng lực làm chủ. Người nói:
“Muốn làm chủ được tốt, phải có năng
lực làm chủ”. Ngay sau khi cách mạng
Tháng Tám thành công, mối quan tâm
đó theo suốt Người trong cả ¼ thế kỷ
về sau và lời Người nói với những xã
viên hợp tác xã Tảo Dương, xã Hồng
Dương, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây
trong dịp Người về thăm và chúc Tết
ngày mồng hai tết Đinh Mùi
(10/2/1967) phải được xem như một lời
di chúc: “Làm sao cho nhân dân biết
hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền
dân chủ của mình, dám nói , dám làm”.
Theo Hồ Chí Minh, để rèn luyện
và nâng cao năng lực làm chủ của nhân
dân thì phải ra sức bồi dưỡng sức dân.
Trong Chương trình hành động của
Chính phủ lâm thời được Người trình
bày ngay sau khi đọc Tuyên ngôn độc
lập có nêu ra sáu nhiệm vụ cấp bách và
sáu nhiệm vụ đó xét theo tính chất, nội
dung đều mang tính cấp thiết, đồng
thời trực tiếp hoặc gián tiếp đều có tác
dụng bồi dưỡng sức dân, nâng cao dân
trí, nuôi dưỡng dân khí, khơi dậy ở mỗi
người dân và ở tất cả các tầng lớp nhân
dân ý thức, tinh thần làm chủ nước nhà,
ý thức trách nhiệm trước vận mệnh,
tiền đồ của Tổ quốc Việt Nam vừa
giành được quyền độc lập, tự do.
Nói đến quyền dân chủ của nhân
dân, Hồ Chí Minh luôn đi kèm với nó
là tính từ “thực sự”, “thật sự”, “đầy
đủ... để gián tiếp đối lập nó với một thứ
dân chủ chung chung, hình thức, chưa
thực sự hoặc không thực sự. Theo
Người, “thực sự”, “thật sự” phải là một
thuộc tính, một dấu hiệu không thể
thiếu của nền dân chủ của xã hội ta:
“Nước ta phải đi đến dân chủ thực sự”.
Trong xã hội ta, “thực sự dân chủ” phải
trở thành một điều kiện, một thứ thước
đo thực chất của chính quyền. Đồng
thời, việc thực sự phát huy dân chủ có
tác dụng như một chiếc chìa khóa vạn
năng để giải quyết mọi vấn đề: “Nhà
nước ta phát huy dân chủ đến cao độ
đó là do tính chất Nhà nước ta là nhà
nước của nhân dân. Có phát huy dân
chủ đến cao độ thì mới động viên được
tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách
mạng tiến lên”.
Như vậy, dù là trong lý luận hay
hành động thực tiễn, dân chủ, thực
hành dân chủ, phát huy quyền làm chủ
và năng lực làm chủ của nhân dân đã
trở thành mục tiêu hoạt động của Hồ
Chí Minh nói chung và nhà nước kiểu
mới do Người xây dựng nói riêng. Bởi
những đặc trưng đó mà Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập
sau cách mạng Tháng Tám 1945 thực
sự xứng đáng là một nhà nước của dân.
Thứ ba, dân có quyền kiểm soát,
giám sát mọi hoạt động của nhà nước
và có quyền bãi miễn đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
một nhà nước của dân còn được thể
hiện ở việc nhân dân có quyền bãi miễn
các đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp, kiểm soát, giám sát
hoạt động của họ. Ngay từ những năm
20 của thế kỷ XX, Người đã rất đề cao
một giá trị có ý nghĩa toàn nhân loại
của cách mạng Mỹ 1776: “Giời sinh ra
ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính
mệnh của mình, quyền làm ăn cho sung
sướng... Hễ Chính phủ nào mà có hại
cho dân chúng, thì dân chúng phải đập
đổ Chính phủ ấy đi, và gây lên Chính
phủ khác…”. Sau cách mạng Tháng
Tám năm 1945, Hồ Chí Minh nhắc lại
nguyên tắc này nhưng với tinh thần
mới, xây dựng nhà nước pháp quyền
dân chủ kiểu mới của nhân dân, do
nhân dân làm chủ: “Nếu Chính phủ làm
hại dân thì dân có quyền đuổi Chính
phủ”.
Cơ chế bãi miễn dân chủ này
nhằm làm cho Quốc hội bảo đảm được
sự trong sạch, giữ được phẩm chất,
năng lực hoạt động. Hồ Chí Minh nêu
rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra
không xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân”. Và tất nhiên là không có
trường hợp ngoại lệ: “Từ chủ tịch nước
đến giao thông viên cũng vậy nếu
không làm được việc cho dân, thì dân
không cần đến nữa”. Hồ Chí Minh ý
thức sâu sắc rằng đây là nội dung làm
chủ rất khó nhưng thể hiện rất rõ tư
cách làm chủ nhà nước và năng lực
thực hành dân chủ của quần chúng lao
động.
Với vai trò làm chủ nhà nước,
thực hiện sự ủy quyền của nhân dân,
các đại biểu được bầu ra phải có trách
nhiệm gần gũi, sâu sát để hiểu dân,
lắng nghe ý kiến của nhân dân, với tinh
thần trách nhiệm bàn và giải quyết
những vấn đề thiết thực cho quốc kế
dân sinh. Theo quan điểm Hồ Chí
Minh, để thể hiện nhân dân lao động
làm chủ nhà nước thì đại biểu do dân
bầu ra phải có mối liên hệ thường
xuyên với nhân dân, thoát ly khỏi mối
liên hệ này, nhà nước rất dễ rơi vào
quan liêu, trì trệ, đứng trên đầu nhân
dân, trái với bản chất dân chủ đích thực
vốn có của nhà nước kiểu mới.
Thông qua Tổng tuyển cử, bầu
và có thể bãi miễn đại biểu do mình
bầu ra, quyền chính trị cơ bản của nhân
dân được đảm bảo, nhân dân thực hiện
vai trò làm chủ nhà nước. Với việc
thực hiện chức năng kiểm soát nhà
nước, nhận dân được đặt ở vị trí tối
thượng, có quyền được bảo đảm trên
thực tế chứ không chỉ trên danh nghĩa,
lời nói. Đúng như Hồ Chí Minh đã
viết: “Chính phủ ta là chính phủ của
nhân dân, chỉ có một mục đích là ra
sức phụng sự lợi ích của nhân dân.
Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ,
đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm
tròn nhiệm vụ của mình là: người đày
tớ trung thành tận tụy của nhân dân”.
2. Nhà nước do dân
Thứ nhất, nhà nước do dân lập
ra.
Điều này đã được lịch sử Việt
Nam chứng minh. Trong Tuyên ngôn
độc lập, sau khi khái quát một cách
ngắn gọn lịch sử Việt Nam từ khi thực
dân Pháp nổ súng xâm lược đến việc
Nhật đảo chính Pháp, rồi Nhật đầu
hàng Đồng minh, nhân dân cả nước nổi
dậy giành chính quyền, Hồ Chí Minh
kết luận: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua
Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ
các xiềng xích thực dân gần 100 năm
nay để gây dựng nên nước Việt Nam
độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân
chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế
độ Dân chủ Cộng hòa”. Người tiếp tục
khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc
chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm
nay, một dân tộc đã gan góc đúng về
phe Đồng minh chống phát xít mấy
năm nay, dân tộc đó phải được tự do!
Dân tộc đó phải được độc lập!”. Điều
đó muốn khẳng định với nhân dân thế
giới và toàn thể quốc dân Việt Nam
rằng, nền độc lập của nước Việt Nam
có được là thành quả hy sinh đấu tranh
của biết bao người con yêu nước, biết
bao xương máu của nhân dân. Và nhà
nước ra đời từ nền độc lập ấy thì thực
sự là sản phẩm của quần chúng nhân
dân tạo nên, chứ không phải xuất phát
từ nguyện vọng của một số ít người.
Thứ hai, dân bầu ra đại biểu
thay mặt dân vào cơ quan nhà nước
thông qua chế độ bầu cử phổ thông đầu
phiếu, dân chủ trực tiếp. Phiên họp đầu
tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời
ngày 3/9/1945 đã xác định một trong
sáu nhiệm vụ cấp bách của nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc này là
nhiệm vụ tiến hành Tổng tuyển cử bầu
Quốc hội (chế độ bầu cử phổ thông
trực tiếp, bình đẳng và bỏ phiếu kín),
xây dựng hiến pháp. Hồ Chí Minh
nhận thức Tổng tuyển cử là một quyền
chính trị mà nhân dân giành được qua
đấu tranh cách mạng, là hình thức dân
chủ, thể hiện năng lực thực hành dân
chủ của nhân dân. “Tổng tuyển cử là
một dịp cho toàn thể quốc dân tự do
lựa chọn những người có tài, có đức, để
gánh vác công việc nước nhà. Trong
cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người
muốn lo việc nước thì đều có quyền ra
ứng cử, hễ là công dân thì đều có
quyền đi bầu cử... Do Tổng tuyển cử
mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội
sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật
là Chính phủ của toàn dân”. Cuộc bầu
cử Quốc hội khóa I diễn ra vào ngày
6/1/946 trong điều kiện hiểm nghèo
nhưng đã thành công trong cả nước,
bầu được 333 đại biểu, trong đó trí thức
chiếm 61%, công kỹ nghệ chiếm 6%,
buôn bán chiếm 5%, thợ thuyền chiếm
6%, nông dân chiếm 22%. Đánh giá về
thắng lợi của cuộc bầu cử Quốc hội
khóa I, chính Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Cuộc Quốc dân đại biểu đại hội
này là lần đầu tiên trong lịch sử của
nước Việt Nam ta. Nó là một kết quả
của cuộc Tổng tuyển cử ngày 6 tháng 1
năm 1946, mà cuộc Tổng tuyển cử lại
là cái kết quả của sự đoàn kết anh dũng
phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt
Nam ta, sự đoàn kết của toàn thể đồng
bào không kể già trẻ, lớn bé, gồm tất cả
các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ
cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành
một khối hy sinh không sợ nguy hiểm
tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc”.
Thứ ba, dân có trách nhiệm,
nghĩa vụ đối với nhà nước.
Là người làm chủ nhà nước,
nhân dân có quyền thông qua cơ chế
dân chủ thực thi quyền lực của mình,
nhưng đồng thời nhân dân phải có
nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ nhà nước,
làm cho nhà nước ngày càng hoàn
thiện, trong sạch, vững mạnh. Hồ Chí
Minh đề cập đến mặt thứ hai này của
quyền dân chủ với tinh thần nhất quán
và triệt để cách mạng. Người cho rằng:
“Chế độ của ta là chế độ dân
chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày
tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền
đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính
phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục
đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì
vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ
Chính phủ, theo đúng kỷ luật của
Chính phủ và làm đúng chính sách của
Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận
sự mà nhân dân đã giao phó cho”.
Nét độc đáo, đặc sắc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ
nhà nước của nhân dân là ở chỗ quan
niệm nghĩa vụ công dân không những
trên tinh thần luật pháp mà cả trên bình
diện đạo đức, nhân cách người công
dân. Người chỉ rõ:
“Nước ta là nước dân chủ, nghĩa
là nước nhà do nhân dân làm chủ.
Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì
phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận
công dân, giữ đúng đạo đức công dân,
tức là:
- Tuân theo pháp luật nhà nước
- Tuân theo kỷ luật lao động
- Giữ gìn trật tự chung
- Đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ,
đúng số để xây dựng lợi ích chung
- Hãng hái tham gia công việc
chung
- Bảo vệ tài sản công cộng
- Bảo vệ Tổ quốc”.
Ý thức làm chủ, thực hiện nghĩa
vụ làm chủ phải trở thành hành động tự
giác, thấm sâu vào mỗi con người,
trong từng công việc cụ thể, hàng ngày.
Hồ Chí Minh lưu ý rằng: “Đã là người
chủ thì phải biết tự mình lo toan, gánh
vác, không ỷ lại, không ngồi chờ. Mỗi
người phải ra sức góp công, góp của để
xây dựng nước nhà. Chớ nên “ăn cỗ đi
trước, lội nước đi sau”.
Khi nói về ý thức làm chủ nhà
nước của công dân, Hồ Chí Minh
không nói đến ý thức làm chủ nói
chung mà phân biệt rạch ròi ý thức làm
chủ nhà nước và quyền làm chủ nhà
nước. Về mặt này, quan niệm của
Người có ý nghĩa phương pháp luận và
ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn sâu sắc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, làm chủ
không bao giờ chỉ là một quyền, mà đó
còn là một nghĩa vụ, một trách nhiệm
đạo đức, một nghĩa vụ pháp lý, vì nó
gắn liền với khái niệm “công dân”. Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Trong chế độ ta, lợi
ích của Nhà nước, của tập thể cùng lợi
ích của cá nhân căn bản là nhất trí. Cho
nên trong khi được hưởng những quyền
lợi do Nhà nước và tập thể mang lại
cho mình thì mọi người công dân phải
tự giác làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà
nước, đối với tập thể”. Trong trường
hợp này nhà nước chỉ đóng vai trò là
người điều phối, tổ chức, quản lý, phân
phối lại. Trong mối quan hệ với dân,
nhà nước không bao giờ là người ban
ơn, làm phước. Đây cũng là một nét
đặc trưng tiêu biểu trong cuộc đấu
tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội của nhân dân các nước thuộc địa.
Tư tưởng tự lực cánh sinh, “dựa vào
sức mình là chính” là một trong những
quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng nhà nước, xây
dựng xã hội mới, trở thành tư tưởng cơ
bản chỉ đạo, chế định quyền lợi và
nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các
Hiến pháp nước ta, là nguyên tắc chỉ
đạo việc giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa nhà nước, cán bộ nhà nước và
công dân, các cá nhân trong xã hội.
3. Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là nhà nước
phục vụ lợi ích và nguyện vọng của
nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi,
thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. Điều đó được
biểu hiện:
Thứ nhất, nhà nước phục vụ
nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, một nhà
nước thật sự của dân, do dân mới có
thể là một nhà nước vì dân. Nhà nước
vì dân là nhà nước chỉ duy nhất có một
mục đích trong toàn bộ hoạt động của
mình là phục vụ nhân dân, lấy lợi ích
của nhân dân làm khuôn thước hoạt
động, không ngừng cải thiện và nâng
cao đời sống của nhân dân. Nhà nước
phục vụ nhân dân có nghĩa là:
“Việc gì lợi cho dân, ta phải hết
sức làm
Việc gì hại đến dân, ta phải hết
sức tránh”
Trong nhà nước dân chủ, con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự nghiệp cách mạng, của sự phát
triển xã hội. Bản chất dân chủ của nhà
nước trước hết ở chỗ quản lý xã hội, lo
cho dân, chứ không phải đè đầu, cưỡi
cổ dân. Đây là một quan điểm được
xây dựng trên một triết lý phát triển
mang đầy bản chất nhân văn.
Hồ Chí Minh xem việc phục vụ
nhân dân là một vinh dự cao quý, bởi
“trong bầu trời không gì quý bằng nhân
dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”,
“trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ
vang bằng phục vụ lợi ích của nhân
dân” . Khái niệm “phục vụ nhân dân”,
“vì dân” theo Hồ Chí Minh có nghĩa là
công việc Chính phủ, nhân viên nhà
nước đảm trách là mang lại lợi ích cho
nhân dân, vì lợi ích của nhân dân.
Hồ Chí Minh lấy việc đáp ứng
và thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của nhân
dân làm tiêu chí số một để đánh giá
hiệu quả, năng lực hoạt động của nhà
nước. Vì vậy, Người yêu cầu chính
quyền phải ra sức phụng sự nhân dân,
chịu trách nhiệm trước nhân dân, phục
vụ quyền lợi của nhân dân. Người luôn
căn dặn cán bộ:
“Muốn cho dân yêu, muốn được
lòng dân... phải chú ý giải quyết hết các
vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng,
những vấn đề quan hệ tới đời sống của
dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho
dân mỗi khi người ta đem tới. Phải
chăm lo cứu tế nạn nhân cho chu đáo,
phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói
tóm lại, hết thảy những việc có thể
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân phải được ta đặc biệt chú
ý”.
Về vai trò của nhà nước ta trong
việc chăm lo đời sống của nhân dân
được Hồ Chí Minh đề cập đến trên mọi
phương diện, trong các mối quan hệ
chủ yếu nhất. Người viết: “Tục ngữ có
câu: “Dân dĩ thực vi thiên”, nghĩa là
dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn là
không có trời. Lại có câu: “Có thực
mới vực được đạo”, nghĩa là không có
ăn thì chẳng làm được việc gì cả. Vì
vậy chính sách của Đảng và Chính phủ
là phải hết sức chăm nom đến đời sống
của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và
Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng
và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm
là Đảng và Chính phủ có lỗi... Nếu dân
đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta
dù có hay mấy cũng không thực hiện
được”.
Trong bài Trò xiếc tuyển cử
Tổng thống Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ ra
thực chất bản chất của nhà nước Mỹ.
Người viết: “Tuy nói rằng Tổng thống
là người cầm đầu Chính phủ, bảo vệ lợi
ích của nhân dân. Nhưng sự thật thì thế
nào? Mồ ma Tổng thống Uynxơn
(1856 - 1924) đã trả lời như sau: “Bọn
tài phiệt và chủ công nghiệp là người
chủ của Chính phủ Mỹ. Chính phủ Mỹ
là con nuôi của lợi quyền đặc biệt Mỹ.
Chính phủ Mỹ không được phép có ý
kiến của mình...” Ở Mỹ có hai chính
đảng lớn là Đảng Dân chủ và Đảng
Cộng hòa, thuộc hai phe tư bản độc
quyền. Khi thì người đảng này, khi thì
người đảng kia được bầu làm Tổng
thống”.
Theo đó thì rõ ràng nhà nước Mỹ
không phải là nhà nước của đa số
người lao động mà thực chất là nhà
nước của số ít, của bọn giàu có về kinh
tế và là công cụ thống trị xã hội của
chúng.
Nghiên cứu cách mạng Tháng
Mười Nga và nhà nước Xô viết, Hồ
Chí Minh nhận thấy cuộc cách mạng
của giai cấp vô sản ở Nga do Lênin
lãnh đạo là cuộc cách mạng triệt để, vĩ
đại, cách mạng đến nơi và sản phẩm
của cuộc cách mạng này là nhà nước
Xô viết với bản chất khác về căn bản
so với các nhà nước trước đó. Điều đó
được thể hiện rõ qua những việc làm
trên thực tế: phát ruộng đất cho dân
cày, giao công xưởng cho thợ thuyền,
ra sức tổ chức kinh tế mới…
Như vậy, trong nhà nước tư sản,
vấn đề quyền lực nhà nước cũng được
đặt ra với ý nghĩa: quyền lực nhà nước
là của dân, dân là chủ tối thượng tuyệt
đối và duy nhất của quyền lực nhà
nước, nhưng nó mới chỉ dừng lại ở ý
tưởng. Nói nhà nước là của dân, là của
đa số nhưng trên thực tế vẫn là do thiểu
số thao túng, nói cai trị bằng pháp luật
nhưng tiền của những thế lực giàu có
vẫn chi phối tất cả. Nhà nước bị tha
hóa thành cái đối nghịch, đứng trên
dân. Theo Hồ Chí Minh, nhà nước chỉ
đúng là nhà nước của dân, do dân, vì
dân trong điều kiện chủ nghĩa xã hội.
Trong chủ nghĩa xã hội, nhà nước mới
là công cụ của nhân dân.
Nhà nước phục vụ nhân dân còn
bao hàm cả việc nhà nước biết điều
chỉnh, kết hợp được các loại lợi ích của
dân, mọi giai cấp, tầng lớp xã hội để
đảm bảo sự thống nhất, hài hòa, công
bằng. Đó là lợi ích trước mắt và lợi ích
lâu dài, lợi ích cá nhân và lợi ích tập
thể, lợi ích Trung ương và lợi ích địa
phương. Người dân, nhất là nông dân,
do địa vị, tầm hạn chế của mình chỉ
thấy được lợi ích cục bộ, trước mắt,
không thể nhìn xa trông rộng. Nhà
nước phải hướng dẫn, giải thích cho
dân hiểu để họ từng bước thực hiện
đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội. Đồng thời,
Người cũng chỉ rõ trong quan hệ hữu
cơ giữa nhà nước với nhân dân, không
chấp nhận việc cơ quan nhà nước, nhân
viên nhà nước bao biện, làm thay nhân
dân và thật không ai có thể làm thay
nhân dân, vì theo Hồ Chí Minh “quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Thứ hai, cán bộ nhà nước là
“công bộc” của nhân dân.
Trong nhà nước vì dân, Hồ Chí
Minh quan niệm nhân viên nhà nước,
cán bộ nhà nước chính là những “đầy
tớ”, “công bộc” của dân. Trong chế độ
dân chủ, Người xác định: “Dân làm
chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng,
ủy viên này khác là làm gì? Làm đày
tớ. Làm đày tớ cho nhân dân chứ
không phải làm quan cách mạng”. Nói
như vậy, quan hệ giữa cơ quan nhà
nước, nhân viên nhà nước với nhân dân
trở thành quan hệ giữa người phục vụ
và người được phục vụ nhưng không
phải là mối quan hệ chủ - tớ theo nghĩa
thông thường, càng không nên hiểu
nhân dân trở thành một loại ông chủ
chỉ biết sai khiến. Hồ Chí Minh rất
quan tâm đến việc đề cao tinh thần
trách nhiệm, tinh thần phụ trách của
cán bộ, nhân viên nhà nước trước dân;
nhân dân là người chủ xã hội nhưng
quyền làm chủ đó lại được nhân dân
trao lại và thực hiện chủ yếu thông qua
bộ máy nhà nước. Vấn đề đặt ra ở chỗ,
người được trao quyền phải sử dụng
quyền cho đúng quyền hành được trao,
sử dụng có hiệu quả và có hiệu lực, hết
lòng hết sức phục vụ nhân dân. Mặt
khác, phải luôn đề phòng khả năng
người được trao quyền sẽ lạm dụng
hoặc sử dụng tắc trách quyền đó, và
điều rất tệ hại là biến nhân dân thành
người chủ trên danh nghĩa, còn trên
thực tế là người bị o ép, bị bó tay bó
chân, chỉ để bị sai khiến và phục vụ các
“ông quan cách mạng”.
Hồ Chí Minh yêu cầu “cán bộ và
đảng viên càng phải nâng cao tinh thần
phụ trách, nêu gương “cần kiệm liêm
chính”, không xâm phạm một đồng xu,
hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân;
phải chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh
là nguồn gốc sinh ra tham ô, lãng phí”!.
Tinh thần phụ trách trước dân phải
được thể chế hóa thành chế độ, trách
nhiệm của nhân viên nhà nước, của cơ
quan nhà nước, chế độ kỷ luật, quy chế
công chức, công vụ...
Hồ Chí Minh còn chỉ ra một căn
bệnh thường mắc phải là huy động và
sử dụng phung phí sức dân, dùng sức
dân vào những công việc không mang
lại lợi ích thiết thực, huy động và sử
dụng sức dân vô tội vạ hoặc sai mục
đích. Người phê phán mạnh mẽ hiện
tượng không tiết kiệm đồng tiền, bát
gạo là mồ hôi, nước mắt của nhân dân.
Tại Hội nghị bàn về cuộc vận động
chỉnh huấn mùa xuân năm 1961, Hồ
Chí Minh phát biểu:
“Mỗi thứ của cải chúng ta làm ra
phải tốn bao nhiêu mồ hôi và sức lao
động. Chúng ta chỉ có thể xây dựng
chủ nghĩa xã hội bằng cách tăng gia
sản xuất và thực hành tiết kiệm. Sản
xuất mà không tiết kiệm thì khác nào
gió vào nhà trống. Cho nên phải biết
giữ gìn của công. Tham ô, lãng phí tài
sản của nhà nước, của tập thể, của nhân
dân là hành động trộm cắp mà ai cũng
phải thù ghét, phải trừ bỏ. Phải biết quý
trọng sức người là vốn quý nhất của ta.
Chúng ta cần chăm sóc sức khỏe và sử
dụng hợp lý sức lao động của nhân dân
ta”.
Một yêu cầu có tính chuẩn mực
đạo đức đối với viên chức nhà nước
trong quan hệ với dân được Hồ Chí
Minh thường xuyên nhấn mạnh là phải
làm mực thước cho nhân dân bắt
chước. Nhân viên nhà nước là người
phụ trách, gánh vác một phần trách
nhiệm của nhà nước trước nhân dân,
trước xã hội. Họ có sứ mệnh cao cả là
người hướng dẫn, người nêu gương.
Hồ Chí Minh xác định: “Quần chúng
chỉ quý mến những người có tư cách,
đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân,
mình phải làm mực thước cho người ta
bắt chước”.
Trong một nhà nước vì dân,
nhân dân là người chủ, địa vị cao nhất
trong xã hội thuộc về dân thì mối quan
hệ giữa nhân viên nhà nước và nhân
dân được xây dựng trên sự tin cậy, yêu
quý nhau. Vì vậy, Hồ Chí Minh thường
xuyên giáo dục, rèn luyện nhân viên
nhà nước tinh thần, thái độ phục vụ
nhân dân vô điều kiện, hình thành ý
thức về mối quan hệ với dân trên cơ sở
của sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau.
Mặt khác, Người đòi hỏi một thái độ
chủ động, đi trước từ phía các cơ quan
nhà nước, nhân viên nhà nước: “Chúng
ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới
yêu ta, kính ta”. Điều này hoàn toàn dễ
hiểu vì trong bao nhiêu năm, nhất là
dưới chế độ cũ, quần chúng nhân dân
phải chịu mọi bất công, áp bức, hà
khắc, thái độ vô trách nhiệm, tắc trách
của nhân viên nhà nước - những người
nắm quyền lực trong xã hội. Do đó họ
có thái độ nghi ngại, ngờ vực đối với
nhân viên nhà nước. Muốn xóa bỏ
thành kiến đó thì đòi hỏi phía nhà nước
và các cán bộ, công chức phải thay đổi
trong thái độ và cách ứng xử với dân.
Những nguyên tắc của một nhà
nước vì dân thể hiện trong quá trình
lãnh đạo cách mạng của Hồ Chí Minh
hết sức thuyết phục. Ngay cả với chức
vụ Chủ tịch nước, Người cũng có quan
niệm rất rõ ràng là do nhân dân ủy thác
cho. Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một
mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ
quốc, và hạnh phúc của quốc dân.
Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non,
hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự
hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến
lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được
chính quyền, ủy thác cho tôi gánh vác
việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày,
nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích
đó”. Đó là một vị Chủ tịch hoàn toàn vì
dân, tư tưởng vì dân thống nhất từ suy
nghĩ, lời nói đến hành động, việc làm.
Như vậy, tư tưởng về Nhà nước
của dân, do dân, vì dân của Hồ Chí
Minh là nhất quán trong mọi hoàn
cảnh, trong suốt cuộc đời của Người.
Trong những năm đầu của cách mạng,
Hồ Chí Minh đã chỉ ra nhiệm vụ của
Nhà nước ở Việt Nam trong tương lai
là: Về mặt kinh tế, mở mang công
nghiệp và nông nghiệp, quản lý cơ sở
sản xuất, thực hành chính sách thuế
quan phù hợp, chia ruộng đất cho dân
cày nghèo, nâng cao đời sống nhân
dân. Về mặt văn hóa - xã hội, dân
chúng được tự do dân chủ, nam nữ
bình quyền, thực hành giáo dục toàn
dân, xây dựng nền văn hóa mới. Về
mặt chính trị, dựng ra chính phủ công
nông binh, tổ chức quân đội công
nông…
Khi miền Bắc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có quan
niệm rất thiết thực về mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội. Đó là một xã hội không
có người bóc lột người, nhân dân thoát
nạn bần cùng, mọi người có công ăn
việc làm, đủ ăn, đủ mặc, ai nấy được
học hành, được bình đẳng, sống sung
sướng, tự do, tóm lại là dân giàu, nước
mạnh - một xã hội mà ở đó con người
được hưởng tự do, hạnh phúc thực sự.
Bản chất Nhà nước nói chung 1. Nhà nước của dân, do dân, vì dân
giai cấp bao giờ cũng gắn liền với mang bản chất giai cấp công nhân
của nhà một giai cấp nhất định. Bản Giai cấp, đấu tranh giai cấp, nhà
nước chất giai cấp của Nhà nước nước là những vấn đề lý luận cơ bản,
có những hình thức biểu được đặt ra từ rất sớm trong lịch sử
hiện khác nhau trong phát triển của tư tưởng nhân loại. Thế
những điều kiện lịch sử nhưng tất cả các quan điểm trước đó về
khác nhau và việc lý giải giai cấp, nhà nước hoặc được giải thích
nó cũng không phải không trên một cơ sở triết học duy tâm, hoặc
có sự khác biệt, thậm chí máy móc siêu hình. Nhiều nhà tư
có nhiều người còn phủ tưởng, nhà triết học đã thấy rất rõ vai
nhận bản chất giai cấp của trò, sức mạnh của nhà nước trong đời
Nhà nước. Hồ Chí Minh, sống xã hội, nhưng lại đi tìm nguồn
trên cơ sở tiếp thu chủ gốc sức mạnh đó ở bên ngoài xã hội,
nghĩa Mác - Lênin, thừa coi sức mạnh của nhà nước có tính chất
nhận bản chất giai cấp siêu nhiên, thần bí đứng trên xã hội để
công nhân của Nhà nước điều khiển cuộc sống trần tục của con
Việt Nam Dân chủ Cộng người.
hòa của dân, do dân, vì Với sự ra đời của chủ nghĩa
dân, phát triển một cách Mác, đặc biệt là với sự hình thành quan
sáng tạo, độc đáo và giải niệm duy vật về lịch sử, vấn đề nhà
quyết thành công vấn đề về nước, giai cấp, bản chất giai cấp của
sự thống nhất giữa bản chất nhà nước mới được đặt trên một cơ sở
giai cấp công nhân với tính khoa học vững chắc, giải quyết triệt để
nhân dân và tính dân tộc và cung cấp chìa khóa để mở toang
của Nhà nước Việt Nam. cánh cửa thần bí về sự phân hóa, bóc
1. Nhà nước của dân, do lột, thống trị giai cấp trong xã hội có
dân, vì dân mang bản chất giai cấp. Khi nói về sự kế tục vấn đề
giai cấp công nhân giai cấp, nhà nước trong dòng chảy tư
- Khi nói về sự kế tục vấn tưởng nhân loại, chính C.Mác cũng
đề giai cấp, nhà nước trong thừa nhận. “Còn về bản thân tôi thì tôi
dòng chảy tư tưởng nhân không có cái công lao là đã phát hiện ra
loại, chính C.Mác cũng sự tồn tại của các giai cấp trong xã hội
thừa nhận. “Còn về bản hiện đại, cũng như cuộc đấu tranh giữa
thân tôi thì tôi không có cái các giai cấp ấy với nhau. Các sử gia tư
công lao là đã phát hiện ra bản trước tôi rất lâu đã trình bày sự
sự tồn tại của các giai cấp phát triển lịch sử của cuộc đấu tranh
trong xã hội hiện đại, cũng giai cấp ấy, còn các nhà kinh tế học tư
như cuộc đấu tranh giữa sản thì đã trình bày giải phẫu kinh tế
các giai cấp ấy với nhau. của các giai cấp ấy. Cái mới mà tôi đã
Các sử gia tư bản trước tôi làm là chứng minh rằng:
rất lâu đã trình bày sự phát 1. Sự tồn tại của các giai cấp chỉ
triển lịch sử của cuộc đấu gắn liền với những giai đoạn phát triển
tranh giai cấp ấy, còn các lịch sử nhất định của sản xuất;
nhà kinh tế học tư sản thì 2. Cuộc đấu tranh giai cấp nhất
đã trình bày giải phẫu kinh thiết sẽ dẫn tới chuyên chính vô sản;
tế của các giai cấp ấy. 3. Bản thân nền chuyên chính
- Sự ra đời giai cấp, cơ cấu này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu
giai cấp có nguồn gốc tất cả mọi giai cấp và tiến tới một xã
trong phát triển sản xuất. hội không giai cấp”
- Nhà nước là sản phẩm Như vậy, sự ra đời giai cấp, cơ
của một xã hội đã phát cấu giai cấp có nguồn gốc trong phát
triển tới một giai đoạn nhất triển sản xuất. Cũng như giai cấp, sự
định; nó là sự thú nhận xã xuất hiện nhà nước là một tất yếu kinh
hội đó bị lúng túng trong tế - chính trị. Nhà nước là sản phẩm và
một mối mâu thuẫn với bản biểu hiện của những mâu thuẫn giai
thân mà không sao giải cấp không thể điều hòa được. Bất kỳ ở
quyết được, rằng xã hội đó đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về
đã bị phân thành những mặt khách quan, những mâu thuẫn giai
mặt đối lập không thể điều cấp không thể điều hòa được, thì nhà
hòa mà xã hội đó bất lực nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn tại
không sao loại bỏ được. của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu
- Đến Hồ Chí Minh, khi thuẫn giai cấp là không thể điều hòa
Người nói: nhà nước dân được. Tổng kết sự phân tích quá trình
chủ mới của ta là Nhà nước vận động của lịch sử, Ph. Ăngghen đã
của dân, do dân, vì dân, chỉ rõ nguồn gốc giai cấp của nhà
không có nghĩa đó là nhà nước.
nước phi giai cấp hay siêu Theo Ông: “Nhà nước quyết
giai cấp. không phải là một lực lượng được áp
+ Nhà nước do Đảng của đặt từ bên ngoài vào xã hội. Nhà nước
giai cấp công nhân lãnh cũng không phải là cái “hiện thực của ý
đạo, định hướng đi lên chủ niệm đạo đức”, không phải là “hình
nghĩa xã hội. ảnh và hiện thực của lý trí” như
+ Bản chất giai cấp công Hêghen khẳng định.
nhân của nhà nước ta còn Đúng ra, nhà nước là sản phẩm
thể hiện ở tính định hướng của một xã hội đã phát triển tới một
đưa đất nước quá độ đi lên giai đoạn nhất định; nó là sự thú nhận
chủ nghĩa xã hội và cuối xã hội đó bị lúng túng trong một mối
cùng là chủ nghĩa cộng sản. mâu thuẫn với bản thân mà không sao
+ Tổ chức và hoạt động giải quyết được, rằng xã hội đó đã bị
của Nhà nước Việt Nam phân thành những mặt đối lập không
theo các nguyên tắc phổ thể điều hòa mà xã hội đó bất lực
biến của chủ nghĩa Mác - không sao loại bỏ được. Nhưng muốn
Lênin về nhà nước chuyên cho những mặt đối lập đó, những giai
chính vô sản, nhà nước xã cấp có quyền lực kinh tế mâu thuẫn
hội chủ nghĩa là tập trung nhau đó, không đi đến chỗ tiêu diệt
dân chủ. nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội. Trong
+ Cơ sở xã hội của nhà một cuộc đấu tranh vô ích, thì cần phải
nước là dựa trên khối liên có một lực lượng cần thiết, một lực
minh công nông trí thức do lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có
giai cấp công nhân lãnh nhiệm vụ xoa dịu bớt sự xung đột và
đạo. giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng
+ Quyền lực nhà nước là “trật tự”; và lực lượng đó, nảy sinh ra
thống nhất nhưng có sự từ xã hội, nhưng lại đứng lên trên xã
phân công, phân cấp, phối hội và ngày càng xa rời xã hội, chính là
hợp rõ ràng. nhà nước”.
Sự hình thành, tồn tại và phát
+ Nhà nước điều hành, triển của giai cấp, nhà nước là một tất
quản lý xã hội bằng hiến yếu lịch sử khách quan, có nguồn gốc
pháp và pháp luật nhưng sâu xa trong sự vận động và phát triển
pháp luật đó phải đại diện kinh tế. Vì thế quan hệ giữa giai cấp
cho ý chí và nguyện vọng cầm quyền với các giai cấp khác, quan
của các tầng lớp nhân dân. hệ giữa nhà nước và các giai cấp cũng
là tất yếu khách quan. Tính tất yếu này
2. Sự thống nhất giữa bản thể hiện ở chỗ, trong lịch sử phát triển
chất giai cấp công nhân với xã hội đã phân thành giai cấp và tổ
tính nhân dân, tính dân tộc chức thành nhà nước, quan hệ giữa nhà
của nhà nước nước và các giai cấp là một loại quan
- Thứ nhất, nhà nước dân hệ có tính quy luật phổ biến đối với tất
chủ mới của ta ra đời là kết cả các chế độ xã hội, ở tất cả các trình
quả của cuộc đấu tranh lâu độ phát triển khác nhau.
dài, gian khổ với sự hy sinh Bản chất giai cấp của nhà nước
xương máu của biết bao thế quyết định mối quan hệ giữa nhà nước
hệ cách mạng, bao giai cấp, với các giai cấp và thái độ của các giai
tầng lớp trong xã hội Việt cấp đối với nhà nước. Giới hạn và sắc
Nam chứ không chỉ có giai thái lịch sử của quan hệ này là không
cấp công nhân. thể phủ nhận. Quan hệ nhà nước - các
giai cấp khác là một loại quan hệ lâu
- Thứ hai, nhà nước ta vừa đời mang tính thời đại - xã hội. Từ chế
mang bản chất giai cấp độ nô lệ đã hình thành quan hệ giữa
công nhân vừa có tính nhân nhà nước và các giai cấp, nó trải dài và
dân và tính dân tộc vì nó thăng trầm qua các chế độ khác nhau:
bảo vệ lợi ích của nhân phong kiến, tư bản (kể cả chế độ thực
dân, lấy lợi ích của dân tộc dân) và chế độ XHCN. Chỉ riêng trong
làm nền tảng. chế độ phong kiến tồn tại quan hệ giữa
- Thứ ba, nhà nước mới nhà nước với nông dân với tư cách như
của ta vừa ra đời đã phải là một giai cấp cơ bản của xã hội. Vấn
đảm nhiệm nhiệm vụ lịch đề bản chất của nhà nước đã được các
sử là tổ chức cuộc kháng nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học
chiến toàn dân, toàn diện đề cập từ rất sớm và rất sâu sắc.
của dân tộc để bảo vệ thành C.Mác, Ăngghen, Lênin đã khẳng định:
quả cách mạng. nhà nước là một phạm trù lịch sử, nhà
nước không xuất hiện đồng thời với sự
xuất hiện của con người; nhà nước xuất
hiện gắn liền với sự ra đời của chế độ
tư hữu, sự phân chia và đấu tranh giai
cấp; nhà nước là ý chí và sự cai trị của
một giai cấp nhất định trong xã hội.
Nhìn lại lịch sử, xã hội loài
người đã trải qua năm hình thái kinh tế
- xã hội, bắt đầu từ cộng sản nguyên
thủy đến chiếm hữu nô lệ, đến phong
kiến, đến tư bản chủ nghĩa và cuối
cùng là cộng sản chủ nghĩa. Theo các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin thì lịch sử phát triển của nhân
loại là sự thay thế của các hình thái
kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản nguyên thủy chưa có chế
độ tư hữu, chưa có giai cấp nên chưa
có nhà nước.
Từ khi chế độ tư hữu xuất hiện,
dẫn tới sự phân chia giai cấp trong xã
hội. Từ đó nảy sinh mâu thuẫn và đấu
tranh giai cấp. Khi đó nhà nước ra đời.
Nhà nước là công cụ của một giai cấp
này dùng để trấn áp giai cấp khác. Nhà
nước ra đời cùng với chế độ chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và
đến xã hội cộng sản chủ nghĩa thì
không còn nhà nước bởi không có giai
cấp nữa, nhưng giai đoạn đầu - giai
đoạn chủ nghĩa xã hội thì nhà nước vẫn
tồn tại.
Như vậy, nhà nước bao giờ cũng
mang bản chất giai cấp, nó luôn thuộc
về một giai cấp nhất định trong xã hội,
không có nhà nước siêu giai cấp hay
phi giai cấp.
Đến Hồ Chí Minh, khi Người
nói: nhà nước dân chủ mới của ta là
Nhà nước của dân, do dân, vì dân,
không có nghĩa đó là nhà nước phi giai
cấp hay siêu giai cấp. Người khẳng
định: “Tính chất nhà nước là vấn đề cơ
bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội
dung giai cấp của chính quyền. Chính
quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi
của ai? Điều đó quyết định toàn bộ nội
dung của Hiến pháp... Nhà nước của ta
là Nhà nước dân chủ của nhân dân dựa
trên nền tảng liên minh công nông, do
giai cấp công nhân lãnh đạo”. Như vậy,
Người luôn nhất quán khẳng định: Nhà
nước ta mang bản chất của giai cấp
công nhân. Điều đó được thể hiện:
Thứ nhất, nhà nước do Đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo, định
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Cách
mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay
là do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, dù còn hoạt động bí mật hay khi
đã ra công khai, dù chưa có chính
quyền hay sau khi đã giành được chính
quyền, lúc nào Đảng ta cũng giữ vai trò
lãnh đạo của mình đối với cách mạng
Việt Nam, trong đó có nhà nước. Ở
Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo nhân dân giành lấy chính
quyền và trở thành đảng cầm quyền.
Đảng cầm quyền không có nghĩa là
Đảng làm thay chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước mà chính là Đảng lãnh
đạo xây dựng Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố quyết định đảm bảo Nhà nước
ta là công cụ do nhân dân làm chủ,
phục vụ lợi ích của nhân dân. Phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước là thông qua đường lối, chủ
trương, chính sách, thông qua tổ chức
của Đảng trong Quốc hội, Chính phủ,
các ngành, các cấp của nhà nước. Đảng
thể chế hóa quan điểm, đường lối, nghị
quyết, biến nó thành pháp luật, chính
sách của nhà nước. Nhà nước cai trị xã
hội bằng pháp luật, Đảng không bao
biện, làm thay nhà nước. Giai đoạn
trước năm 1986, trong một thời gian
dài, Đảng đã bao biện, làm thay Nhà
nước dẫn tới không phát huy hiệu quả
của Nhà nước và một tất yếu là cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối thập
niên 80 của thế kỷ XX. Đây là minh
chứng thiết thực cho thấy công tác lãnh
đạo của Đảng phải đảm bảo đúng
những nguyên tắc và phương thức mà
Hồ Chí Minh đã nêu ra. Ngoài ra, Đảng
còn lãnh đạo Nhà nước thông qua công
tác cán bộ, tổ chức của Đảng trong nhà
nước; thông qua công tác kiểm tra,
giám sát và định hướng công tác tư
tưởng. Để Đảng lãnh đạo Nhà nước có
hiệu quả thì Đảng phải có lý luận tiên
phong dẫn đường, phải có năng lực trí
tuệ để định ra đường lối, quyết sách
chiến lược đúng đắn, và phải có một tổ
chức thật trong sạch, vững mạnh đủ
sức chèo lái con thuyền cách mạng
vượt qua mọi thác ghềnh, hiểm trở.
Thứ hai, bản chất giai cấp công
nhân của nhà nước ta còn thể hiện ở
tính định hướng đưa đất nước quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là
chủ nghĩa cộng sản bằng cách “phát
triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân
theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế
lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa với công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật
tiên tiến”. Điều này thể hiện tính chất
nhất quán, xuyên suốt từ Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng cho đến tác
phẩm Di chúc. Ngay từ những năm
1930, Nguyễn Ái Quốc đã xác định con
đường đi cho cách mạng Việt Nam là
“làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”.
Và đến tác phẩm Di chúc, mong
muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp - xã
hội xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở
lời căn dặn cuối cùng của Người trước
lúc đi xa: “Toàn Đảng, toàn dân ta
đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng
thế giới.
Thứ ba, tổ chức và hoạt động
của Nhà nước Việt Nam theo các
nguyên tắc phổ biến của chủ nghĩa Mác
- Lênin về nhà nước chuyên chính vô
sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa là tập
trung dân chủ. Nền tảng tư tưởng của
nhà nước là học thuyết Mác - Lênin, xa
rời nguyên lý này là nhà nước sẽ biến
mất, trở thành nhà nước của giai cấp
khác và quyền lợi của nhân dân không
được đảm bảo. Nguyên tắc tổ chức của
nhà nước là theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Trong đó phải tránh hai
khuynh hướng tiêu cực: dân chủ hình
thức, quá trớn hoặc tập trung chuyên
quyền, độc đoán. Nguyên tắc này đảm
bảo sự lãnh đạo thống nhất từ phía một
cơ quan, một tổ chức nhưng vẫn phát
huy được tính tích cực sáng tạo dân
chủ của các cơ quan cấp dưới. Đây là
hình thức tổ chức nhà nước tương đối
phổ biến của các nước xã hội chủ nghĩa
trên thế giới: tập trung trên cơ sở dân
chủ, dân chủ phải đi đến tập trung.
Điều 4 Hiến pháp 1959 có ghi: “Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các
cơ quan nhà nước đều thực hành
nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nguyên
tắc này thể hiện “từ Hội đồng nhân dân
và Ủy ban hành chính kháng chiến xã
đến Quốc hội và Chính phủ Trung
ương, số ít phải phục tùng số nhiều,
cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa
phương phải phục tùng trung ương”.
Trong hoạt động của nhà nước cần kết
hợp hài hòa hai yếu tố dân chủ và tập
trung, không được tuyệt đối hóa vai trò
của bất kỳ yếu tố nào.
Mặt khác, trong hoạt động của
nhà nước, dân chủ bao hàm chuyên
chính. Phải chuyên chính mới có dân
chủ thực sự. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chế
độ nào cũng có chuyên chính. Vấn đề
là ai chuyên chính với ai?... Như cái
hòm đựng của cải thì phải có cái khóa.
Nhà thì phải có cửa... Dân chủ là của
quý báu nhất của nhân dân, chuyên
chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng
kẻ phá hoại... Thế thì dân chủ cũng cần
phải có chuyên chính để giữ gìn lấy
dân chủ”
Thứ tư, cơ sở xã hội của nhà
nước là dựa trên khối liên minh công
nông trí thức do giai cấp công nhân
lãnh đạo. Liên minh công nông trong
cách mạng vô sản là một vấn đề mang
tính nguyên tắc trong học thuyết giải
phóng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ
Chí Minh khẳng định: Liên minh công
nông trí là nền tảng của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Sự nghiệp cách
mạng nói chung và sự nghiệp xây dựng
nhà nước kiểu mới nói riêng có thắng
lợi hay không phụ thuộc rất lớn vào
khối liên minh này. Hồ Chí Minh từng
ví sự nghiệp cách mạng như “một cuộc
đấu tranh cách mạng phức tạp, gian
khổ và lâu dài. Nhân dân ta hãy đoàn
kết chặt chẽ dựa trên nền tảng liên
minh công nông, bền bỉ phấn đấu dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ thì
chúng ta nhất định thắng lợi”.
Trong khối liên minh đó, giai
cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo.
Công nhân thông qua chính đảng của
mình đề ra đường lối cách mạng,
những chủ trương lớn nhằm thực hiện
cách mạng giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng để thực
hiện đường lối đúng cần có lực lượng.
Bằng hành động và chính sách thực
tiễn, giai cấp công nhân lôi kéo mọi
tầng lớp lao động, trước hết là nông
dân và trí thức về phía mình, cùng với
họ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây
cũng là điều kiện để giai cấp công nhân
củng cố vai trò chính trị tiên phong của
mình. Về phía nông dân, do địa vị kinh
tế - xã hội và bản chất giai cấp của
mình, tự nguyện tìm đến với giai cấp
công nhân và nếu không liên kết với
công nhân, trí thức thì dễ bị giai cấp tư
sản lợi dụng, lôi kéo trở lại cuộc sống
nô lệ, bóc lột, áp bức. Sự tiến bộ của
nông dân ngày càng gắn bó hơn với
công nhân và trí thức. Để đẩy nhanh
sản xuất nông sản hàng hóa, làm cho
nông nghiệp phát triển bền vững, nông
dân rất cần tới sự hỗ trợ của công
nghiệp và những tri thức khoa học kỹ
thuật. Công nghiệp và khoa học góp
phần đắc lực vào quá trình giải phóng
người nông dân, giúp họ thoát khỏi
những khoảng không chật hẹp, tiếp xúc
với nền văn minh nhân loại hiện đại và
đồng thời có dịp để tỏa sáng các giá trị
văn hóa được tích tụ ngàn đời trong
nông thôn. Về phía tầng lớp trí thức, là
một tầng lớp xã hội đặc biệt có đặc
trưng nổi bật là lao động trí óc sáng
tạo, không thể tồn tại biệt lập trong
cộng đồng xã hội. Địa vị kinh tế - xã
hội không bao giờ đặt trí thức vào vị trí
lãnh đạo xã hội. Trong kháng chiến,
xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nhân,
nông dân rất cần trí thức như là các đại
biểu kết tinh của trí tuệ và các giá trị
văn hóa tinh thần; đến lượt mình, trí
thức cũng chỉ khẳng định được vị trí
của mình trong mối quan hệ trực tiếp
với công nhân và nông dân. Công nhân
và nông dân tạo nên những cơ sở vật
chất, những điều kiện sinh hoạt và làm
việc cần thiết, đặt ra các nhu cầu làm
động lực cho sự tìm tòi sáng tạo của
hoạt động nghiên cứu khoa học, còn
các lĩnh vực hoạt động của công nhân
và nông dân sẽ là môi trường để tri
thức đem khoa học kỹ thuật vào cuộc
sống, phục vụ con người. Như vậy,
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh
công - nông - trí thức là sự cố kết của
công nhân, nông dân, trí thức trong một
chỉnh thể, mỗi yếu tố có một vị trí, vai
trò đặc thù , không thể thay thế và đổi
chỗ cho nhau. Trong mối quan hệ và sự
tác động đa chiều đó, sức mạnh và chất
lượng của khối liên minh phụ thuộc
vào chất lượng của từng thành tố,
ngược lại chất lượng của khối liên
minh sẽ nhân lên sức mạnh cho cả
công nhân, nông dân, trí thức.
Thứ năm, quyền lực nhà nước là
thống nhất nhưng có sự phân công,
phân cấp, phối hợp rõ ràng. Chủ thể
quyền lực nhà nước là thống nhất,
thuộc về nhân dân, do giai cấp công
nhân lãnh đạo. Quyền lực thống nhất
này không thể phân chia. Điều này
khác xa với mô hình nhà nước kiểu tam
quyền phân lập của nhà nước tư sản:
lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập
với nhau, có tác dụng chế ước lẫn
nhau. Song, theo Hồ Chí Minh sự
thống nhất quyền lực này không loại
trừ sự phân công, phân cấp rõ ràng để
hoạt động nhà nước đạt hiệu quả hơn.
Thứ sáu, nhà nước điều hành,
quản lý xã hội bằng hiến pháp và pháp
luật nhưng pháp luật đó phải đại diện
cho ý chí và nguyện vọng của các tầng
lớp nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng,
giống như đạo đức thì pháp luật cũng là
phương thức điều chỉnh hành vi xã hội
phù hợp với những giá trị chuẩn mực
xã hội nhưng nó mang tính cưỡng chế
cao. Và pháp luật cũng mang bản chất
giai cấp. Sự khác nhau cơ bản giữa
pháp luật của nhà nước Việt Nam mới
với pháp luật cũ là ở chỗ luật pháp của
chúng ta hiện nay là ý chí của giai cấp
công nhân lãnh đạo cách mạng... Luật
pháp của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi
cho hàng trăm triệu người lao động.
Pháp luật của ta lúc này, trong điều
kiện hiện nay, chưa tước bỏ quyền tư
hữu, nhưng không ai được lợi dụng
quyền tư hữu để bóc lột thậm tệ nhân
dân lao động. Pháp luật của ta là pháp
luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ
quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân
dân lao động.
Nhân dân ta hiện nay có tự do
dân chủ trong kỷ luật... Không thể có
tự do cho bọn Việt gian, bọn phản
động, bọn phá hoại tự do nhân dân.
Thực hiện được sáu nguyên tắc
nêu trên sẽ duy trì, đảm bảo bản chất
giai cấp công nhân của nhà nước. Chỉ
cần một trong sáu nguyên tắc này bị vi
phạm thì sẽ làm biến dạng bản chất của
nhà nước. Và ngày nay đây vẫn là
những nguyên tắc chỉ đạo xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2. Sự thống nhất giữa bản chất giai
cấp công nhân với tính nhân dân,
tính dân tộc của nhà nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
khi nói về bản chất của nhà nước,
Người luôn khẳng định: bản chất giai
cấp công nhân bao giờ cũng thống nhất
chặt chẽ với tính nhân dân và tính dân
tộc sâu sắc. Nói như vậy không có
nghĩa Người đã xóa nhòa bản chất giai
cấp của nhà nước. Bản chất giai cấp
công nhân của nhà nước không làm
triệt tiêu tính nhân dân, tính dân tộc mà
trái lại, nó thống nhất, hài hòa trong
nhà nước đại đoàn kết dân tộc. Bởi vì,
như Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói,
giai cấp công nhân không có lợi ích
nào khác ngoài lợi ích của dân tộc và
chỉ có giải phóng dân tộc mới giải
phóng được giai cấp công nhân một
cách triệt để. Sự thống nhất giữa bản
chất giai cấp công nhân của Nhà nước
ta với tính nhân dân và tính dân tộc
được thể hiện ở:
Thứ nhất, nhà nước dân chủ mới
của ta ra đời là kết quả của cuộc đấu
tranh lâu dài, gian khổ với sự hy sinh
xương máu của biết bao thế hệ cách
mạng, bao giai cấp, tầng lớp trong xã
hội Việt Nam chứ không chỉ có giai
cấp công nhân. Từ các phong trào Văn
Thân, Cần Vương, Đông Du, Duy Tân
đến cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh và bao
cuộc khởi nghĩa yêu nước khác: Yên
Bái, Nam Kỳ, Bắc Sơn, Thái Nguyên...
cùng với sự tham gia của nông dân, trí
thức, binh lính, sĩ phu, học sinh, sinh
viên... như Hồ Chí Minh đã nói, nó là
hoa, là quả của bao nhiêu máu đã đổ và
bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của
những người con anh dũng của Việt
Nam trong nhà tù, trong trại tập trung,
trong những hải đảo xa xôi, trên máy
chém, trên chiến trường.
Thứ hai, nhà nước ta vừa mang
bản chất giai cấp công nhân vừa có tính
nhân dân và tính dân tộc vì nó bảo vệ
lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của
dân tộc làm nền tảng. Chính phủ do Hồ
Chí Minh đứng đầu luôn là Chính phủ
đại đoàn kết dân tộc. Sau thắng lợi của
cách mạng Tháng Tám, từ Tân Trào về
Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã họp
với Thường vụ Trung ương Đảng, đưa
ra nhận xét: “Chính phủ lâm thời của
các chú còn đỏ quá” và yêu cầu rút bớt
các thành viên cộng sản ra. Trong cuộc
họp với Ủy ban dân tộc giải phóng,
Người đề nghị thi hành chính sách
đoàn kết rộng rãi, thành lập Chính phủ
thống nhất quốc gia, bao gồm đại biểu
của các đảng phái yêu nước và những
nhân sĩ không đảng phái. Đề nghị của
Người được mọi người tán thành, nhiều
ủy viên là đại biểu của Việt Minh đã tự
nguyện rút lui, nhường chỗ cho người
thuộc các đảng phái khác và không
đảng phái. Đến cuối năm 1945, để có
sự hợp tác chặt chẽ giữa các đảng phái
nhằm tranh thủ hoàn toàn nền độc lập,
Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở rộng
Chính phủ lâm thời thành chính phủ
liên hiệp lâm thời, cử Nguyễn Hải
Thần làm Phó Chủ tịch Chính phủ và
nhường thêm hai chức Bộ trưởng cho
Việt Nam Quốc dân Đảng. Việc Chủ
tịch Hồ Chí Minh chấp nhận 70 ghế
cho người của Việt Nam Cách mệnh
đồng minh hội và Việt Nam Quốc dân
Đảng vào Quốc hội không qua bầu cử
là một sách lược mềm dẻo, cũng như
việc Người dung nạp nhiều nhân sĩ trí
thức, quan lại cao cấp của chế độ cũ
tham gia Chính phủ, cử Vĩnh Thụy, Lê
Hữu Từ, Hồ Ngọc Cẩn... tham gia đoàn
Cố vấn tối cao... là biểu hiện rõ rệt của
tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Sau khi
quân đội Tưởng rút về nước, một số đại
biểu các đảng phái trốn ra nước ngoài,
Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội
ủy nhiệm thành lập Chính phủ mới.
Trong lời tuyên bố sau khi thành lập,
Người nói:
“Theo ý Quốc hội, Chính phủ
mới phải tỏ rõ cái tinh thần đại đoàn
kết, không phân đảng phái... Tôi có thể
tuyên bố trước Quốc hội rằng, Chính
phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ
nhân tài Trung, Nam, Bắc tham gia”.
Thứ ba, nhà nước mới của ta
vừa ra đời đã phải đảm nhiệm nhiệm
vụ lịch sử là tổ chức cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo
vệ thành quả cách mạng. Nhờ biết phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết
dân tộc, trên cơ sở liên minh công
nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà
nước do Hồ Chí Minh đứng đầu đã
hoàn thành được sứ mệnh vẻ vang là
lãnh đạo cả dân tộc tiến hành thắng lợi
hai cuộc kháng chiến vĩ đại trong lịch
sử, bảo vệ được độc lập, thống nhất của
Tổ quốc và bắt tay vào xây dựng đất
nước theo con đường của chủ nghĩa xã
hội.
Như vậy, sự thống nhất lợi ích
cơ bản của giai cấp công nhân với nhân
dân lao động, với toàn thể dân tộc tạo
nên cơ sở khách quan quy định sự
thống nhất bản chất giai cấp công nhân
với tính nhân dân và tính dân tộc. Nhà
nước pháp quyền dân chủ nhân dân
mang bản chất giai cấp công nhân trở
thành nhà nước của dân, do dân và vì
dân là theo nghĩa đó.
Xây Nhà nước pháp 1. Nhà nước pháp quyền trước hết là
dựng quyền là nhà nước quản lý nhà nước hợp pháp, hợp hiến
nhà nước xã hội bằng pháp luật và đề Trước khi cách mạng Tháng
pháp cao quyền con người, Tám giành thắng lợi Trung ương Đảng
quyền quyền của công dân. Nói đã tổ chức Đại hội quốc dân Tân Trào,
cách khác, nhà nước pháp gồm có cả đại biểu của ba miền đại
quyền là hệ thống các tư diện cho các tôn giáo, đảng phái tham
tưởng, quan điểm đề cao dự từ ngày 16-17/8/1945. Tại Đại hội
pháp luật, pháp chế trong đã thông qua danh sách chính phủ lâm
tổ chức, hoạt động của bộ thời, quốc kỳ, quốc ca và một số chính
máy nhà nước và trong đời sách... Việc chính phủ lâm thời ra đời
sống xã hội. Nhà nước trước khi có chính quyền mới chính
pháp quyền không phải là thức đã đáp ứng được yêu cầu khách
một hình thức nhà nước mà quan của lịch sử. Đây có thể coi là một
là một phương thức quản lý bước tập dượt để đảm bảo sau khi cách
điều hành xã hội bằng pháp mạng thắng lợi thì chính phủ lâm thời
luật. Cho đến nay đã có hai sẽ đứng ra đảm nhiệm chức năng của
kiểu nhà nước pháp quyền: chính phủ mới, tránh bị gián đoạn
nhà nước pháp quyền xã trước khi có chính quyền chính thức.
hội chủ nghĩa và nhà nước Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
pháp quyền tư sản. Hai đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc
kiểu nhà nước này đều thừa bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với
nhận phương thức tổ chức, quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra
xây dựng và vận hành bộ đời của nước Việt Nam mới, đồng thời
máy nhà nước do pháp luật thể hiện địa vị hợp pháp của chính phủ
quy định. Tuy nhiên, bản lâm thời do Người đứng đầu. Tuyên
chất và nội dung pháp luật ngôn độc lập là văn kiện chính trị đặc
về tổ chức, xây dựng và biệt, khẳng định rằng: dân tộc Việt
vận hành bộ máy của hai Nam bằng sức mạnh kỳ diệu của mình
nhà nước đó có nhiều điểm đã giành được độc lập tự do và kiên
khác rất cơ bản. Rõ nhất là quyết bảo vệ quyền tự do và độc lập
sự khác nhau trong các quy ấy. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
phạm của hiến pháp và ra đời là hợp hiến, hợp pháp. Nhờ đó
pháp luật, về tổ chức, cơ Chính phủ lâm thời do cuộc cách mạng
cấu nhân sự và việc xây của nhân dân lập nên có địa vị hợp
dựng, vận hành của bộ máy pháp, hợp công lý và Việt Nam có vinh
quyền lực như: Quốc hội dự là một trong rất ít quốc gia sau cách
và Nghị viện, Tổng thống mạng có được một bản Tuyên ngôn nổi
và Chủ tịch nước, Tòa án... tiếng về quyền của các dân tộc, có giá
Pháp luật trong nhà nước trị đóng góp vào sự phát triển nền pháp
xã hội chủ nghĩa thừa nhận lý tiến bộ của loài người.
tất cả quyền lực nhà nước Tại phiên họp đầu tiên của Chính
thuộc về nhân dân, do nhân phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
dân bầu ra các cơ quan ngày 3/9/1945, Hồ Chí Minh đã chỉ ra
quyền lực (Quốc hội, những nhiệm vụ cấp bách cần làm,
Chính phủ...) và chỉ có trong đó có nhiệm vụ tổ chức tổng
nhân dân trực tiếp hoặc tuyển cử càng sớm càng tốt để bầu ra
thông qua các đại biểu của Quốc hội theo chế độ phổ thông đầu
mình là chủ thể duy nhất có phiếu. Ngày 17/10/1945, Hồ Chủ tịch
quyền tuyên bố chấm dứt ký sắc lệnh số 51-SL quy định những
hoạt động của Quốc hội, nguyên tắc cơ bản về Tổng tuyển cử,
Chính phủ hoặc tổ chức ra chẳng hạn, điều 2 quy định: công dân
Quốc hội và Chính phủ Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không
nhiệm kỳ mới. Trong khi phân biệt nam, nữ đều có quyền bầu cử
đó, hiến pháp và pháp luật và ứng cử, trừ những người điên, người
tư sản lại thừa nhận quyền hành khất chuyên môn, người bị can
lực của cá nhân Tổng án. Đến ngày 6/1/1946, Tổng tuyển cử
thống hoặc cá nhân Thủ đã diễn ra thành công trong cả nước,
tướng có quyền giải tán bầu được 333 đại biểu đại diện cho ý
Nghị viện (Quốc hội) hoặc chí và nguyện vọng của nhân dân. Do
Chính phủ. tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc
Trong nhà nước hội, Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Đây
pháp quyền xã hội chủ là lần đầu tiên trong lịch sử nước ta
nghĩa, nhà nước và công người dân mất nước được cầm lá phiếu
dân đều phải thừa nhận trực tiếp bầu cử người có đức có tài đại
tính tối cao của pháp luật, diện cho mình trong chính quyền cách
vì pháp luật xã hội chủ mạng. Trong cuộc Tổng tuyển cử còn
nghĩa thể hiện ý chí và có một sự kiện đáng lưu ý là, một số
nguyện vọng của toàn thể nơi (Hà Nội, Nghệ An và một số địa
nhân dân. Trong nhà nước phương khác) suy tôn cụ Hồ làm Chủ
pháp quyền tư sản, nhà tịch vĩnh viễn. Và Người đã viết thư trả
nước và công dân cũng lời: Tôi rất cảm động được đồng bào
phải thừa nhận tính tối cao quá yêu mà đề nghị: Tôi không phải ra
của pháp luật, nhưng pháp ứng cử, đồng bào các nơi khác cử tôi
luật tư sản không phải là vào Quốc hội! Nhưng tôi là một công
pháp luật của toàn dân, nó dân của nước Việt Nam dân chủ cộng
thể hiện ý chí, nguyện vọng hòa, nên tôi không thể vượt khỏi thể lệ
của một bộ phận nhân dân, tổng tuyển cử đã định. Tôi ra ứng cử ở
đó là những người giàu, là Hà Nội, nên cũng không thể ra ứng cử
giai cấp tư sản. Nói cách ở nơi nào khác nữa! Và thực tế, Người
khác, luật pháp của nhà đã trúng cử với tỷ lệ phiếu bầu cao
nước pháp quyền tư sản chỉ (98,4%). Thắng lợi của cuộc Tổng
bảo vệ lợi ích của giai cấp tuyển cử đầu tiên này là một minh
tư sản và gạt ra ngoài lề lợi chứng hùng hồn về giá trị sáng tạo và
ích của người lao động - tính thực tiễn của tư tưởng nhà nước
những người bị áp bức bóc pháp quyền của dân, do dân, vì dân của
lột. Đây là một nội dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là một
khác biệt cơ bản nhất giữa cuộc phổ thông đầu phiếu nhanh nhất,
nhà nước pháp quyền xã diễn ra sớm nhất, một kỷ lục chưa từng
hội chủ nghĩa và nhà nước có quốc gia nào đạt được kể từ khi lật
pháp quyền tư sản. đổ ách thống trị của thực dân, đưa nhân
Nhà nước pháp dân lên nắm quyền lực nhà nước.
quyền tư sản coi thuyết Ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I
“tam quyền phân lập” là đã họp phiên đầu tiên lập ra các tổ
học thuyết cơ bản trong chức, bộ máy và các chức vụ chính
việc thực hiện quyền lực thức của nhà nước. Quốc hội bầu Hồ
nhà nước, các cơ quan lập Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ liên
pháp, hành pháp, tư pháp hiệp kháng chiến. Đây là chính phủ
hoàn toàn độc lập với nhau hợp hiến đầu tiên do nhân dân bầu ra
trong việc thực hiện ba có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong giải
quyền đó. Nhà nước pháp quyết mọi vấn đề đối nội, đối ngoại của
quyền xã hội chủ nghĩa nước Việt Nam mới. Vì vậy quân đội
không thừa nhận việc phân Tưởng và Đồng minh khi vào Việt
chia quyền lực mà coi Nam đã phải làm việc với chính phủ
quyền lực nhà nước là Việt Nam. Sự kiện này đã đánh dấu
thống nhất và thuộc về một mốc son lịch sử về sự hoàn thiện
nhân dân, trong đó có sự và thống nhất giữa tính hiện thực cách
phân công, phối hợp để mạng và tính pháp quyền của Chính
thực hiện các quyền lập phủ, cơ quan hành chính cao nhất của
pháp, hành pháp và tư pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa -
nhằm bảo đảm cho quyền một Chính phủ chính thức, hợp pháp,
lực nhà nước thống nhất, hợp hiến, có đầy đủ uy tín và hiệu lực
được thực hiện với hiệu để điều hành đất nước về cả nhiệm vụ
quả cao nhất. đối nội và đối ngoại, thực hiện kháng
Hồ Chí Minh từ rất chiến và kiến quốc, giữ vững quyền
sớm đã nhận thức được vai độc lập tự do.
trò của pháp luật trong việc Một việc làm rất quan trọng để
duy trì, điều hành trật tự xã đảm bảo nhà nước ta có đầy đủ tính
hội. Người xem pháp luật hợp pháp, hợp hiến đó là ban hành
như một phương tiện để Hiến pháp. Từ ngày 20/9/1945, Chính
củng cố nhà nước. Giữa phủ lâm thời đã ra sắc lệnh thành lập
pháp luật và nhà nước có Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người do
mối quan hệ hữu cơ với Hồ Chủ tịch làm trưởng ban. Cuối năm
nhau. Nhà nước phải dựa 1945, dự thảo Hiến pháp sơ bộ được
vào pháp luật, thông qua công bố trên báo chí để trưng cầu ý
pháp luật để điều hành xã kiến nhân dân. Tại kỳ họp đầu tiên của
hội. Pháp luật đúng đắn sẽ Quốc hội (tháng 3/1946), sau khi nghe
tạo nên sự ổn định của nhà Ủy ban dự thảo Hiến pháp thuyết trình,
nước, làm cho bộ máy nhà Quốc hội khóa I đã thảo luận và thông
nước vận hành đúng quỹ qua Hiến pháp vào ngày 9/11/1946.
đạo. Đồng thời, Người Phát biểu tại phiên họp bế mạc kỳ họp
cũng sớm khẳng định nhà Quốc hội khóa I, Hồ Chí Minh nói:
nước ta phải là nhà nước “Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới
pháp quyền xã hội chủ nước Việt Nam đã độc lập... Hiến pháp
nghĩa. đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc
1. Nhà nước pháp quyền Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do”.
trước hết là nhà nước hợp Trong lời nói đầu Hiến pháp
pháp, hợp hiến. 1946 đã khẳng định thành quả của cách
2. Nhà nước quản lý, điều mạng Tháng Tám: giành lại chủ quyền
hành xã hội bằng pháp luật cho đất nước, tự do cho nhân dân và
2.1. Tầm quan trọng của lập ra nền dân chủ cộng hòa cũng như
pháp luật phương hướng của cách mạng Việt
- Thứ nhất, pháp luật là cơ Nam trong giai đoạn mới: bảo toàn
sở để thực hiện các quyền lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và
tự do dân chủ. kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân
- Thứ hai, pháp luật là cơ chủ.
sở quyền làm chủ nhà nước Mặc dù là Hiến pháp đầu tiên
của nhân dân. trong lịch sử dân tộc Việt Nam nhưng
- Thứ ba, pháp luật có tác nội dung cơ bản của nó đã đảm bảo
dụng ngăn chặn tình trạng được các vấn đề quan trọng: về chính
lạm dụng quyền lực của thể (chính thể dân chủ cộng hòa - chế
các cơ quan nhà nước và độ chính trị tiến bộ trong lịch sử, đối
các cá nhân được nhà nước lập và khác hẳn với chế độ thực dân
giao quyền. phong kiến trước đây ở Việt Nam), về
- Thứ tư, pháp luật tạo cho quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
xã hội có trật tự, kỷ cương (Tất cả công dân Việt Nam đều ngang
theo đường lối của giai cấp quyền về mọi phương diện: chính trị,
cầm quyền. kinh tế, văn hóa - Điều 6; Tất cả công
- Thứ năm, pháp luật ngăn dân Việt Nam đều bình đẳng trước
chặn tình trạng công dân pháp luật, đều được tham gia chính
xâm phạm quyền và lợi ích quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo
của nhau. tài năng và đức hạnh - Điều 7; Đàn bà
2.2. Chăm lo xây dựng hệ ngang quyền với đàn ông - Điều 9;
thống pháp luật Công dân Việt Nam có quyền tự do
3. Kết hợp “pháp trị với ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ
đức trị” chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự
do cư trú, đi lại trong nước và ra nước
ngoài - Điều 10; Quyền tư hữu tài sản
của công dân Việt Nam được đảm bảo
- Điều 12...), về tổ chức bộ máy nhà
nước (Nghị viện nhân dân là cơ quan
có quyền cao nhất của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa - Điều 22; Cơ quan
hành chính cao nhất của toàn quốc là
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa
- Điều 43...)
Tuy Hiến pháp năm 1946 không
được chính thức công bố do điều kiện
kháng chiến chống Pháp bùng nổ, song
nó đã được Chính phủ cùng Ban
Thường vụ Quốc hội dựa vào để
điều hành hoạt động của Nhà nước và
xã hội. Nó thể hiện và khẳng định quan
điểm của Hồ Chí Minh về tính hợp
pháp, hợp hiến của nhà nước Việt
Nam.
2. Nhà nước quản lý, điều
hành xã hội bằng pháp luật
2.1. Tầm quan trọng của pháp
luật
Theo lý luận chung về nhà nước
và pháp luật thì pháp luật có vai trò là
cơ sở thiết lập và củng cố quyền lực
nhà nước; là phương tiện để nhà nước
quản lý kinh tế, bảo đảm trật tự xã hội;
tạo dựng các quan hệ mới và mở rộng
quan hệ quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặt rất cao vị trí của pháp luật trong
việc xây dựng nhà nước kiểu mới, xã
hội kiểu mới.
Thứ nhất, pháp luật là cơ sở để
thực hiện các quyền tự do dân chủ. Đây
là điều được Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh nhận thức từ rất sớm. Ngay từ
năm 1919, trong bản Yêu sách đòi
quyền tự do, dân chủ cho nhân dân
Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đòi
thực dân Pháp phải cải cách nền pháp
lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế độ
cai trị bằng các đạo luật. Bản Yêu sách
gồm 8 điều, trong đó có 4 điều liên
quan tới vấn đề pháp quyền:
Điều 1: Yêu cầu ân xá đối với tất
cả chính trị phạm.
Điều 2: Đòi cải cách nền công lý
ở Đông Dương nhằm đảm bảo cho
người bản xứ được hưởng những
đảm bảo về mặt pháp luật như người
châu Âu.
Điều 7: Đòi thay thế chế độ ra
sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
Điều 8: Đòi có đoàn đại biểu
thường trực của người bản xứ cử ra tại
Nghị viện Pháp.
Có thể thấy, mặc dù ngôn từ
Người sử dụng còn rất hạn chế song đã
thể hiện được quan điểm toàn diện cả
về mục tiêu tự do, dân chủ cả về
phương tiện để đạt được tự do dân chủ
- đó chính là pháp luật. Pháp luật là cơ
sở của tự do dân chủ.
Tư tưởng này được cụ thể hóa
một cách rõ nét trong Hiến pháp năm
1946 - bản hiến pháp do đích thân
Người làm trưởng ban soạn thảo.
Trong đó chứa đựng đầy đủ các nội
dung về tự do dân chủ ở các điều 6 đến
điều 10.
Bên cạnh đó, nhiều quyền mới
cũng được đề cập như quyền học tập,
quyền tư hữu tài sản (Điều 12). Hiến
pháp cũng ghi rõ việc bầu cử là phổ
thông, tự do, trực tiếp và kín (Điều 17).
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, dân chủ và pháp luật luôn luôn
đi đôi với nhau. Mọi quyền dân chủ
của người dân phải được thể chế bằng
Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm quyền
tự do dân chủ của nhân dân trong thực
tế, bảo vệ họ trong trường hợp các
quyền này bị xâm phạm.
Thứ hai, pháp luật là cơ sở
quyền làm chủ nhà nước của nhân dân.
Vấn đề nhà nước là vấn đề vốn hết sức
phức tạp. Nói dân chủ đã khó mà thực
thi dân chủ còn khó hơn. Thực tế mỗi
nước có quan điểm và có cơ chế tạo
quyền làm chủ nhà nước cho nhân dân
khác nhau. Dân có khi chỉ là những nhà
quý tộc, những người có tiền, dân có
thể là đại cử tri hoặc chỉ là một bộ phận
nam giới... và khi những người làm ra
luật chỉ là đại diện cho các thế lực tư
bản khác nhau thì luật sẽ quy định
những điều có lợi cho bộ phận nhân
dân theo quan niệm của họ.
Với Hồ Chí Minh thì khác, nhờ
đánh giá đúng vai trò của nhân dân, sức
mạnh của nhân dân nên Người luôn tin
tưởng ở dân. Người quan tâm đưa dân
vào trực tiếp xây dựng nên bộ máy nhà
nước, dân tham gia giúp đỡ nhà nước
làm việc, giám sát nhà nước và cũng có
quyền phế bỏ nhà nước khi nhà nước
không làm tròn bổn phận của mình.
Những điều đó không chỉ nằm trong ý
tưởng, trong khẩu hiệu mà còn được
luật hóa và phải biến thành thực tiễn
cuộc sống.
Những tư tưởng trên của Hồ Chí
Minh đã được thể chế hóa trong việc
thiết kế bộ máy nhà nước, trong Hiến
pháp năm 1946, năm 1959 và nhiều
văn bản pháp luật khác. Ở đó, pháp luật
không chỉ quy định trình tự, thủ tục
hình thành cơ quan nhà nước mà còn
có cả các chế định về giám sát, phán
quyết về các vấn đề lớn của đất nước.
Đó cũng là điều mà hiện nay chúng ta
đang tiếp tục với việc thực hiện quy
chế dân chủ ở các cấp nhằm góp phần
thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Thứ ba, pháp luật có tác dụng
ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền
lực của các cơ quan nhà nước và các cá
nhân được nhà nước giao quyền.
Khi chưa có chính quyền thì phải
đấu tranh giành chính quyền. Khi đã
nắm quyền rồi thì phải sử dụng quyền
thế nào cho đúng. Hồ Chí Minh ý thức
rất rõ điều này và theo Người, muốn
tránh lạm quyền thì quyền lực phải bị
khống chế bởi hai yếu tố: vừa hợp lý,
vừa hợp pháp. Ngay từ Yêu sách 8
điểm, Người đã đòi hỏi thay thế chế độ
ban hành sắc luật bằng chế độ ban hành
pháp luật. Bởi lẽ sắc luật là ý chí cá
nhân, nó dễ phiến diện và sẽ rất nguy
hiểm nếu ý chí đó không hợp lý.
Ngược lại, pháp luật là ý chí chung, nó
lại được xây dựng theo trình tự thủ tục
nhất định nên nó toàn diện và khách
quan hơn.
Nhà nước quản lý bằng pháp luật
thì không chỉ dùng pháp luật để quản lý
xã hội mà chính các cơ quan nhà nước
cũng phải làm theo pháp luật, mọi vi
phạm pháp luật của các cơ quan nhà
nước, các cá nhân được nhà nước trao
quyền đều bị xử lý bằng pháp luật.
Thứ tư, pháp luật tạo cho xã hội
có trật tự, kỷ cương theo đường lối của
giai cấp cầm quyền.
Pháp luật thời nào cũng nhằm để
điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo ra
trật tự xã hội. Sự khác nhau giữa kiểu
pháp luật này với kiểu pháp luật khác
là ở chỗ sự điều chỉnh đó, trật tự xã hội
đó có lợi cho ai?
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu
bật ranh giới giữa pháp luật của nhà
nước ta và pháp luật của nhà nước tư
sản. Người viết: Luật pháp là vũ khí
của một giai cấp thống trị dùng để
trừng trị giai cấp chống lại mình. Luật
pháp cũ là ý chí của thực dân Pháp,
không phải là ý chí chung của toàn thể
nhân dân ta.
Luật pháp cũ đặt ra để giữ gìn
trật tự xã hội thật nhưng trật tự xã hội
đó chỉ có lợi cho thực dân, phong kiến,
không có lợi cho toàn thể nhân dân.
Luật pháp đặt ra trước hết là để trừng
trị, áp bức. Phong kiến đặt ra pháp luật
để trị nông dân. Tư bản đặt ra pháp luật
để trị công nhân và nhân dân lao động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định
luật pháp của nước ta là ý chí của giai
cấp công nhân, nó bảo vệ quyền lợi của
hàng triệu nhân dân lao động. Nó đấu
tranh loại trừ áp bức, bất công, thiết lập
công bằng trên cơ sở một trật tự xã hội.
Chính vì vậy mà Người nói rõ quan
điểm của mình về cơ sở tư tưởng để
định ra pháp luật là phải dựa hẳn vào
lực lượng nhân dân, lực lượng lao động
làm nền tảng để xây dựng nhà nước,
xây dựng xã hội. Vấn đề đó quyết định
nội dung pháp luật. Đó là việc thiết lập
trật tự của chế độ dân chủ cộng hòa; tổ
chức quân đội cách mạng; thiết lập bộ
máy kinh tế trong đó tư liệu sản xuất
thuộc quyền sở hữu của nhân dân. Nội
dung này quyết định việc nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật, có tác
dụng thúc đẩy mọi hoạt động của đất
nước phát triển để đạt mục tiêu dân
giàu, nước mạnh.
Thứ năm, pháp luật ngăn chặn
tình trạng công dân xâm phạm quyền
và lợi ích của nhau.
Xã hội càng phát triển thì các
quan hệ xã hội càng phong phú. Để các
quan hệ xã hội phát triển ổn định, lành
mạnh thì nhà nước ban hành pháp luật
tạo ra các quyền và nghĩa vụ pháp luật
cho các bên tham gia các quan hệ xã
hội.
Nhận thức rõ vai trò của pháp
luật, Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm
mở rộng tự do dân chủ cho nhân dân
mà còn quan tâm đến cơ chế thực hiện
và cơ chế đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của mọi người dân. Người hiểu
rõ, tự do có nghĩa là không làm hại
người khác. Người khẳng định: nhân
dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ
luật. Mỗi người có tự do của mình
nhưng phải tôn trọng tự do của người
khác; người nào sử dụng quyền tự do
của mình quá mức mà phạm đến tự do
của người khác là phạm pháp.
Hiến pháp và nhiều văn bản luật
khác đều quy định quyền công dân
luôn đi đôi với nghĩa vụ của công dân.
Các quy định này là khuôn mẫu cho
hành động của mỗi người, làm cơ sở
cho mọi người tự bảo vệ mình và làm
cơ sở cho các cơ quan pháp luật phán
xử khi có tranh chấp giữa các công
dân.
2.2. Chăm lo xây dựng hệ thống pháp
luật
Thấy được tầm quan trọng của
pháp luật trong đời sống cũng như
trong quản lý, điều hành của nhà nước,
Hồ Chí Minh từ rất sớm đã chăm lo
xây dựng hệ thống pháp luật. Theo
Người, nhà nước pháp quyền phải có
hệ thống pháp luật đúng và ngày càng
được hoàn chỉnh đầy đủ. Pháp luật
đúng là pháp luật không cao hơn, cũng
không thấp hơn xã hội. Pháp luật đủ là
pháp luật không bỏ sót quan hệ xã hội
quan trọng nào. Làm được điều này là
rất khó, song nếu không có ý thức về
điều này thì sẽ rơi vào tình trạng tiện
đâu làm đấy và nhiều văn bản pháp luật
ra đời mà rất kém hiệu quả.
Trong phiên họp đầu tiên của
Hội đồng Chính phủ lâm thời ngày
3/9/1945, Hồ Chí Minh phát biểu:
“Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ
chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực
dân không kém phần chuyên chế, nên
nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân
ta không được hưởng quyền tự do dân
chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp
dân chủ”. Hồ Chí Minh luôn tâm niệm:
một xã hội không thể sống một ngày
không có pháp luật. Do đó, để đáp ứng
được yêu cầu trước mắt, Người đã ký
một loạt các sắc lệnh cấp bách về bảo
đảm tự do cá nhân, bãi bỏ thuế thân,
tịch thu tài sản của thực dân và Việt
gian, tổ chức tòa án và ban hành một
loạt các sắc lệnh cần thiết khác. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chính là người Việt
Nam đầu tiên đặt nền móng cho một
nhà nước kiểu mới - nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân ở nước ta.
Ngay sau khi Tổng tuyển cử
thành công, Quốc hội đầu tiên của
nước ta ra đời, Hồ Chí Minh đã bắt tay
ngay vào việc xây dựng hệ thống pháp
luật của nhà nước ta. Theo Người, hệ
thống pháp luật đó trước hết phải đúng,
nghĩa là phải phản ánh một cách trung
thành bản chất của các quan hệ xã hội
khách quan, phù hợp với nguyện vọng
và lợi ích của nhân dân, đồng thời phải
có tính đồng bộ, bao quát được các
mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong đó chủ yếu là phải thể chế
được một cách đúng đắn các quyền và
nghĩa vụ của công dân. Hiến pháp là
luật cơ bản của một quốc gia nhưng đó
cũng là sản phẩm của con người phản
ánh tư tưởng, hoài bão của con người
trong một bối cảnh kinh tế - xã hội nhất
định. Hiến pháp không nên thay đổi
liên tục, phải cố định nhưng không có
nghĩa là hiến pháp bất biến. Việc sửa
đổi Hiến pháp cho phù hợp với từng
hoàn cảnh cụ thể là việc bình thường
trong các nền lập hiến. Hệ thống pháp
luật phải ngày càng hoàn chỉnh và đầy
đủ nghĩa là hệ thống luật pháp không
phải được xây dựng một lần là xong,
mà phải thường xuyên được sửa đổi và
bổ sung để phù hợp với quyền và nghĩa
vụ của công dân, ngày càng chi tiết, mở
rộng. Nói theo Hồ Chí Minh là phải
“sửa sang pháp luật”. Theo Người, sau
khi xây dựng Hiến pháp và các đạo luật
thì phải sửa sang pháp luật vì có sửa
sang pháp luật thì mới có cái để quản
lý xã hội ngày càng phát triển. Người
luôn nhắc nhở các cơ quan lập pháp
phải chú ý lo việc sửa đổi, bổ sung các
đạo luật cho ngày càng hoàn chỉnh.
Trong Hội nghị học tập của cán bộ
ngành tư pháp năm 1959, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nói: Chúng ta cũng thấy
luật pháp của ta hiện nay chưa đầy đủ.
Chính các chú có trách nhiệm góp phần
làm cho pháp luật của ta ngày càng tốt
hơn, ngày càng phong phú hơn. Phải cố
gắng làm cho luật pháp dân chủ ngày
càng nhiều hơn tốt hơn.
Năm 1954, nhân dân Việt Nam
đã tiến hành thắng lợi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, đất nước bị
chia cắt làm hai miền với hai nhiệm vụ
cách mạng: tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc và hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam. Trong điều kiện mới của
cách mạng, Hiến pháp năm 1946 đã
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “so với
tình hình mới và nhiệm vụ cách mạng
mới hiện nay thì nó không thích hợp
nữa. Vì vậy mà chúng ta phải sửa đổi
Hiến pháp ấy”. Và Hiến pháp năm
1959 ra đời như là một tất yếu - là sản
phẩm của sự thay đổi hoàn cảnh lịch sử
lúc bấy giờ.
Theo Tổng mục lục luật lệ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm
1945 đến năm 1961 thì trong giai đoạn
1946 - 1954 nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa đã ban hành 493 văn bản
pháp luật, trong đó lĩnh vực an ninh
chính trị có 145 văn bản, lĩnh vực kinh
tế có 149 văn bản, lĩnh vực văn hóa -
xã hội có 199 văn bản, còn giai đoạn từ
1954 - 1960 đã ban hành thêm 145 văn
bản ở các lĩnh vực trước đây chưa từng
có cùng hàng trăm văn bản khác.
Riêng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trực tiếp chỉ đạo xây dựng 2 bản Hiến
pháp, trực tiếp chỉ đạo soạn thảo 16
đạo luật, 613 sắc lệnh trong đó có 243
sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước
và pháp luật.
3. Kết hợp “pháp trị với đức trị”
Bản chất dân chủ và tính nhân
văn trong hệ thống luật pháp của nhà
nước ta được thể hiện trong quan điểm
của Hồ Chí Minh về kết hợp giữa tăng
cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh
giáo dục đạo đức trong điều hành, quản
lý xã hội. Trong chỉ đạo hoạt động của
Đảng và nhà nước, Người bao giờ cũng
nhấn mạnh đến hai yếu tố “có lý có
tình”. Hai yếu tố này gắn chặt với nhau
trong các ứng xử của tổ chức, của từng
con người và được thể hiện trong việc
xây dựng cũng như quá trình thực hiện
hiến pháp và pháp luật.
Đức trị nhằm khuyên người ta
những việc nên làm, là trị nước bằng
tình, bằng những tiêu chuẩn đạo đức
của xã hội. Pháp trị bắt buộc những ta
những việc nên tránh, trị nước bằng các
đạo luật. Giữa đạo đức và pháp luật có
những điểm thống nhất với nhau. Một
số nhà tư tưởng cổ đại cho pháp luật và
đạo đức là một, xét dưới góc độ chuẩn
mực xã hội thì pháp luật là đạo đức tối
thiểu còn đạo đức là pháp luật tối đa.
Pháp luật là đạo đức mang tính hình
thức pháp lý, là phương tiện thực hiện
ý tưởng nhân đạo của xã hội. Ngược
dòng lịch sử chúng ta thấy, mặc dù
đường lối pháp trị của Hàn Phi Tử và
đức trị của Khổng Tử là đối lập nhau,
nhưng cả hai đều có chung mục đích
duy trì xã hội phong kiến có trật tự, kỷ
cương, thái bình thịnh trị. Chính Khổng
Tử từng nói: người quân tử quan tâm
đến đức, còn kẻ tiểu nhân quan tâm đến
đất cát; người quân tử quan tâm đến
pháp độ, còn kẻ tiểu nhân thì quan tâm
đến ân huệ. Còn Phan Huy Chú nói rõ:
“Hình là cái giúp cho công việc trị
nước, tuy trong đạo chính trị nó không
phải là cái đi trước, nhưng pháp luật để
cấm dân làm bậy thì thánh nhân có bao
giờ bỏ đâu, vì vậy, công cụ trị nước tất
phải có hình để răn điều gian dối và
nghiêm sự cấm ngăn”.
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu sâu
sắc những bài học lịch sử quý báu
trong kho tàng văn hóa trị nước của
nhân loại và đã khéo vận dụng một
cách nhuần nhuyễn, sáng tạo. Người là
một mẫu mực của sự kết hợp hài hòa
và hợp lý pháp luật và đạo đức, đề cao
pháp luật nhưng coi trọng giáo dục đạo
đức.
Người sử dụng đức để cảm hóa,
ngăn cản những thói hư tật xấu, hạn
chế thấp nhất “cái ác” nảy sinh ở mỗi
con người. Song nếu ai đó phạm tội thì
phải nghiêm trị theo pháp luật.
Quan điểm đề cao pháp luật của
Hồ Chí Minh thể hiện trước hết ở chỗ
Người rất quan tâm sửa sang pháp chế.
Vì vậy, Người luôn nhắc nhở cơ quan
lập pháp phải chú ý lo việc sửa đổi, bổ
sung các đạo luật cho ngày càng hoàn
chỉnh. Mặt khác, khi thực thi luật pháp,
Người lưu ý phải thật bình đẳng, “xử
theo luật” chứ không thể “xử theo lệ”.
Bình đẳng phải đi đôi với công khai. Ai
có tội cứ đem ra xử trước tòa. Tội
phạm chiếu theo luật pháp mà định
mức án.
Làm như vậy người có tội sẽ
không thấy nỗi oan ức, mà người vô tội
cũng sẽ hài lòng. Người nói “không
dùng xử phạt là không đúng” song chút
gì cũng dùng đến xử phạt là không
nên” và “thưởng phạt phải nghiêm
minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng
chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới
thành công”. Tư tưởng này được thể
hiện rất rõ trong quốc lệnh do Chủ tịch
Hồ Chí Minh ban hành ngày
26/1/1946. Trong đó, Người đưa ra 10
điều thưởng (nhà nào có ba con tòng
quân, ai lập được quân công, ai vì nước
hy sinh, ai ra trận can đảm phi thường,
ai làm việc công một cách trong sạch
ngay thẳng... sẽ được thưởng), 10 điều
phạt (thông với giặc phản quốc, tự ý
phá hoại giao thông, để cho bộ đội hại
dân, trộm cắp của công... sẽ bị xử tử).
Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ
cũng xử đúng theo luật pháp. Khi xem
xét về nguyên nhân hành vi phạm
pháp, Người thường nêu quan điểm
lịch sử cụ thể, quan điểm khách quan.
Người cho rằng, bản chất chung nhất
của con người không phải ác. Song sở
dĩ nảy sinh cái ác là do không kiềm chế
được dục vọng trước những lợi ích cá
nhân. Quan điểm của Người rất rõ
ràng: lợi ích riêng phù hợp với lợi ích
chung thì xã hội chấp nhận, khi lợi ích
riêng đi ngược với lợi ích chung là
phạm pháp. Người nói: “cho nên lợi
ích cá nhân là nằm trong lợi ích tập thể,
là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi
ích chung của tập thể được bảo đảm thì
lợi ích riêng của cá nhân mới có điều
kiện để được thỏa mãn”. Vì vậy, xây
dựng một hệ thống lý luận luật pháp
dựa trên quyền lợi của nhân dân là tư
tưởng vững chắc của Hồ Chí Minh, nó
khác hẳn với lý thuyết pháp luật dựa
trên quyền lợi của chế độ quân chủ và
chế độ thực dân.
Mặt khác, khi nói về quản lý,
điều hành xã hội bằng pháp luật, Hồ
Chí Minh cho rằng, biện pháp phòng
ngừa phạm pháp luôn nằm trong sự
mong muốn của chúng ta. Phải nhìn sự
việc từ khi nó mới mầm mống để có
biện pháp phòng ngừa. Muốn vậy, phải
làm tốt công tác giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật, đồng thời phải tổ chức
tốt trật tự xã hội. Một xã hội có trật tự
kỷ cương là một xã hội ổn định.
Quan điểm coi trọng giáo dục
đạo đức của Hồ Chí Minh thể hiện tập
trung nhất trong quan niệm về tư cách
người lãnh đạo, bao gồm năm điều: trí,
tín, nhân, dũng, liêm. Người chỉ rõ: “Vì
muốn giải phóng cho dân tộc, giải
phóng cho loài người là một công việc
to tát, mà tự mình không có đạo đức,
không có căn bản, tự mình đã hủ hóa,
xấu xa thì còn làm nổi việc gì”. Một
trong những nguyên tắc mà Hồ Chí
Minh nêu ra là: điều mà mình không
muốn thì mình đừng làm cho người
khác.
Trong thực tế, Người đã kết hợp
chặt chẽ việc quản lý, điều hành xã hội
bằng pháp luật với việc tuyên truyền,
giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao
bản lĩnh công dân, giác ngộ lý tưởng
cách mạng cho cán bộ và nhân dân.
Pháp luật và đạo đức đều dùng
để điều chỉnh hành vi của con người,
nâng con người lên, hướng con người
tới cái Chân - Thiện - Mỹ. Trong quan
niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức là cơ
sở để xây dựng, thực hiện pháp luật
nên pháp luật của ta là nền pháp luật
hợp đạo đức, nhân văn. Điều này được
Người lý giải rất rõ: Nghĩ cho cùng,
vấn đề tư pháp, cũng như những vấn đề
khác, trong lúc này, là ở đời và làm
người. Ở đời và làm người là phải
thương nước, thương dân, thương nhân
loại đau khổ bị áp bức. Phải làm sao
đóng góp vào việc làm cho nước độc
lập, dân được tự do, hạnh phúc, nhân
loại khỏi đau khổ.
Với Hồ Chí Minh, pháp luật
không phải là công cụ để trừng trị con
người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện
lợi ích của con người; thực hành
nghiêm chỉnh pháp luật là ta đã đạt đến
trình độ cao của thực hành đạo đức.
Sự thống nhất giữa đạo đức và
pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh
còn thể hiện ở quan điểm xử lý các
hành vi phạm pháp. Nguyên tắc có lý,
có tình chi phối mọi hành vi ứng xử
của Người. Tôn trọng cái lý, đề cao cái
tình, tùy từng trường hợp và tình huống
cụ thể mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt
này hay mặt khác. Xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật phải kịp thời, nghiêm
túc, nghiêm minh. Pháp luật không loại
trừ một ai, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi cái
ác, cái xấu; khuyến khích, nâng đỡ,
phát huy cái tốt, cái thiện vốn có trong
mỗi con người, chứ không đơn thuần là
trừng phạt, răn đe. Trong việc thực thi
pháp luật cũng phải đảm bảo tính hài
hòa giữa các mặt tưởng chừng như đối
lập nhau. Phương châm của Hồ Chí
Minh là: không xử phạt là không đúng,
song cái gì cũng trừng phạt cũng là
không đúng, tránh lạm dụng pháp luật.
Hồ Chí Minh có tấm lòng độ lượng,
bao dung nhưng không bao che mà
luôn nghiêm khắc, đấu tranh một cách
chân thành, thẳng thắn với những
khuyết điểm, sai lầm, những hành vi
phạm pháp.
Xây Tư tưởng Hồ chí minh là 1. Một số Khái niệm
dựng một tài sản vô cùng to lớn - Xây dựng là tạo ra một sản phẩm, mô
nhà nước mà Đảng và Nhà nước ta hình hay thành quả có giá trị, được tổ
trong luôn tích cực học tập, làm chức một cách chặt chẽ, vững chắc,
sạch, theo. Trong đó, những khoa học.
vững quan điểm của Người về - Xây dựng nhà nước trong sạch, vững
mạnh, xây dựng nhà nước trong mạnh là kiến thiết, tạo nên một tổ chức
hiệu quả sạch, vững mạnh là nội chính trị thực sự của dân, vì dân; với
dung vô cùng quan trọng, bộ máy lãnh đạo có năng lực lãnh đạo
có giá trị định hướng với nhân dân; có đạo đức cách mạng, hết
công tác của Đảng hiện lòng phục vụ dân; đưa xã hội, đất nước
nay. phát triển phồn thịnh.
1. Một số khái niệm 2. Nội dung QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ
- Xây dựng. MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
- Xây dựng nhà nước. TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH,
2. Nội dung quan điểm Hồ HIỆU QUẢ
Chí Minh về xây dựng nhà 2.1. Xây dựng bộ máy nhà nước
nước trong sạch, vững * Phương châm:
mạnh, hiệu quả - Theo Hồ Chí Minh bộ máy nhà nước
2.1. Xây dựng bộ máy nhà là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận
nước gắn chặt, liên kết, ràng buộc và thúc
* Phương châm xây dựng đẩy lẫn nhau hoạt động nhưng mỗi bộ
- Khái niệm bộ máy nhà phận trong đó lại có vị trí riêng, cụ thể.
nước. - Bộ máy nhà nước trong TTHCM phải
- Điều kiện để xây dựng bộ đáp ứng đủ các điều kiện:
máy nhà nước. + là bộ máy mạnh mẽ, sáng suốt, hoạt
* Nguyên tắc xây dựng động vì lợi ích của nhân dân
- Thứ nhất, xây dựng Quốc + là bộ máy gọn nhẹ, hiện đại, có hiệu
hội thành cơ quan quyền quả và phải xuất phát từ yêu cầu khách
lực cao nhất, đại diện cho ý quan của cách mạng.
chí, nguyện vọng của toàn * Nguyên tắc xây dựng bộ máy nhà
dân, toàn cả nước nước:
- Thứ hai, xây dựng Chính - Thứ nhất, xây dựng Quốc hội thành
phủ thành cơ quan hành cơ quan quyền lực cao nhất, đại diện
pháp cao nhất, thật sự cho ý chí, nguyện vọng của toàn dân,
mạnh mẽ, sáng suốt của toàn cả nước
nhân dân - Thứ hai, xây dựng Chính phủ thành
- Thứ ba, xây dựng một bộ cơ quan hành pháp cao nhất, thật sự
máy tư pháp có tính độc mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân
lập tương đối, dân chủ, - Thứ ba, xây dựng một bộ máy tư
hiện đại, xét xử công bằng pháp có tính độc lập tương đối, dân
theo pháp luật. chủ, hiện đại, xét xử công bằng theo
* Ý nghĩa pháp luật.
- Về lý luận. Các nguyên tắc này được thể hiện khá
- Về thực tiễn. rõ nét quan Hiếp pháp năm 1946, được
2.2. Xây dựng đội ngũ cán xem là một bản Hiến pháp mang đậm
bộ, công chức nhà nước dấu ấn của tư tưởng Hồ Chí Minh “một
* Phương châm xây dựng bản Hiến pháp cô đúc, khúc chiết,
2.2.1. Tiêu chuẩn của cán mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi
bộ, công chức nhà nước: người.”.
- Một là, tuyệt đối trung Với mỗi thành tố cơ bản trong bộ máy
thành với cách mạng. nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều
- Hai là, hăng hái, thành có những chỉ dẫn khá cụ thể, bảo đảm
thạo công việc, giỏi chuyên các thành tố đó thể hiện được bản chất
môn, nghiệp vụ. của dân, do dân và vì dân. Theo đó,
- Ba là, thường xuyên liên Quốc hội (mà Hiến pháp năm 1946 gọi
hệ mật thiết với nhân dân. là Nghị viện nhân dân) được hiến định
- Bốn là, dám nghĩ, dám là “cơ quan có quyền cao nhất của
làm, dám chịu trách nhiệm nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”
nhất là khi gặp tình huống (Điều thứ 22), giải quyết mọi vấn đề
khó khăn “thắng không chung cho toàn quốc; Chính phủ là
kiêu, bạn không nản”. “Cơ quan hành chính cao nhất của
- Năm là, “biết việc, biết toàn quốc” (Điều thứ 43); Tòa án:
người, không hẹp hỏi đố kí, “Trong khi xét xử, các viên thẩm phán
bao dung chứ không bao chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan
che, không giấu giếm khác không được can thiệp” (Điều thứ
khuyết điểm, thành khẩn, 69). Với chính quyền địa phương,
trung thực, có chí tiến thủ. Người đã quan tâm thiết kế mô hình
2.2.2. Thi tuyển cán bộ chính quyền địa phương có tính tới đặc
công chức điểm khác biệt của nông thôn và đô thị.
2.2.3. Đào tạo đội ngũ cán *Ý nghĩa: tư tưởng Hồ Chí Minh về
bộ công chức nhà nước xây dựng bộ máy nhà nước có ý nghĩa
2.2.4. Kiên quyết chống 3 vô cùng to lớn
thứ giặc (tham ô, lãng phí, - Về lý luận:
quan liêu) + Đóng góp lớn vào việc phát triển lý
* Tác hại luận Mác-Lênin, về chính quyền nhà
2.3. Pháp luật phải được nước, về công cuộc xây dựng và bảo vệ
tuyên truyền, giáo dục, nhà nước trong hoàn cảnh một nước
phải thực hành nghiêm thuộc địa vừa giành chính quyền.
chỉnh => Đó là: lý luận về xây dựng nhà
- Tuyên truyền pháp luật nước của dân, do dân, vì dân;
cho nhân dân, cán bộ và lý luận về xây dựng hiến
công chức nhà nước. pháp, pháp luật-cơ sở tư tưởng và nền
- Phải đảm bảo tính nghiêm móng cho một nhà nước pháp quyền
minh khách quan công Việt Nam vững mạnh;
bằng bình đẳng trong pháp lý luận về mối quan hệ giữa
luật bảo vệ và xây dựng nhà nước-vừa
3. Liên hệ, vận dụng với kháng chiến vừa kiến quốc.
sinh viên hiện nay - Về thực tiễn:
Đối với sinh viên hiện nay, + Trở thành ngọn cờ soi đường cho
việc học tập và tiếp thu nhân dân trong bảo vệ và xây dựng
những quan điểm của Hồ vững chắc nhà nước dân chủ nhân dân
Chí Minh về xây dựng nhà + Là nền tảng, lời chỉ dẫn xác đáng để
nước trong sạch vững chúng ta hành động vì mục tiêu xây
mạnh có vai trò quan trọng. dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Vnam nhằm xây dựng xã hội dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
2.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước
*Phương châm:
- Người đưa ra những quan niệm hiện
đại về cán bộ, công chức và về các
ngạch, bậc trong toàn bộ nền hành
chính quốc gia. Người ban hành một số
sắc lệnh cụ thể quy định vị thế xã hội,
chức năng, nhiệm vụ của cán bộ công
chức nhà nước; Người chỉ rõ: “Công
chức Việt Nam là những công dân giữ
một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước
của chính quyền nhân dân dưới sự
lãnh đạo tối cao của Chính phủ”
- Người cho rằng vị trí, vai trò của cán
bộ nói chung và cán bộ công chức nhà
nước nói riêng là vô cùng quan trọng:
“là gốc của mọi công việc”; “là tiền
vốn của đoàn thể”; là “dây chuyền của
bộ máy” => Người quan tâm xác định
tiêu chuẩn. thi tuyển và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ sớm
2.2.1. Tiêu chuẩn của cán bộ, công
chức nhà nước:
- Một là, tuyệt đối trung thành với
cách mạng. Đây là điều kiện tiên
quyết, là yêu cầu đầu tiên cần có đồi
với đội ngũ này. Cán bộ công chức
phải là những người kiên cường bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Nhà
nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lòng
trung thành đó phải được thể hiện hàng
ngày, hàng giờ trong mọi lĩnh vực công
tác.
- Hai là, hăng hái, thành thạo công
việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. Yêu
cầu tối thiểu là đội ngũ cán bộ này phải
hiểu biết công việc của mình, biết quản
lý tốt công việc của nhà nước. Do vậy
đội ngũ ngày cần phải được đào tạo và
tự mình phải luôn luôn học hỏi.
- Ba là, thường xuyên liên hệ mật
thiết với nhân dân. Hồ Chí Minh luôn
luôn chủ trương xây dựng mối quan hệ
bền chặt giữa đội ngũ cán bộ, công
chức với nhân dân. Hồ Chí Minh nhắc
nhở mọi cán bộ, công chức không được
lãng phí của công, phải pục vụ sẵn sàng
hy sinh quyền lợi cá nhân mình cho Tổ
Quốc, lấy phục vụ cho quyền lợi chính
đáng của nhân dân làm mục tiêu cho
hoạt động của mình. Họ phải luôn luôn
gần dân, hiểu dân và vì dân.
- Bốn là, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm nhất là khi gặp tình
huống khó khăn “thắng không kiêu,
bạn không nản”. Đó là những người
có ý thức sẵn sàng làm “công bộc” làm
“đày tớ” của dân, những người cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm
việc với tinh thần đầy sáng tạo. Hồ Chí
Minh đòi hỏi cán bộ, công chức luôn
học tập để nâng cao trình độ về mọi
mặt, học ở trường học, ở trong cuộc
sống, trong công tác, phải thường
xuyên tự phê bình và phê bình.
- Năm là, “biết việc, biết người, không
hẹp hỏi đố kí, bao dung chứ không
bao che, không giấu giếm khuyết
điểm, thành khẩn, trung thực, có chí
tiến thủ.
=> trong xây dựng tiêu chuẩn cán bộ
công chức nhà nước, Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm cán bộ tư pháp vì họ là
nòng cốt trong xây dựng pháp luật.
2.2.2. Thi tuyển cán bộ công chức
- Cán bộ công chức nhà nước phải nắm
chắc và am hiểu pháp luật và vận dụng
nhuần nhuyễn trong lĩnh vực hoạt động
của mình.
- Đặc biệt lưu ý trong nội dung các
môn thi, bên cạnh việc đòi hỏi năng
lực, yêu cầu cao ý thức phẩm chất đạo
đức cách mạnh, nâng cao giác ngộ lí
tưởng để phục vụ tổ quốc
- Chế độ thi tuyển cán hộ: phải thể hiện
rõ nét tư tưởng xây dựng chế độ công
chức chính quy, hiện đại, dân chủ,
công bằng và công khai.
2.2.3. Đào tạo đội ngũ cán bộ công
chức nhà nước
- Thứ nhất, huấn luyện nghề nghiệp:
làm việc gì học việc nấy chuyên môn
thì thạo việc chuyên môn đấy.
- Thứ hai, huấn luyện chính trị: có 2
hình thức chính trị (đường lối chính
sách của Đảng và nhà nước, thời sự
(tình hình trong nước và thế giới)
- Thứ ba, huấn luyện văn hoá: phải dạy
những thường thức lịch sử, địa KHTN
&KHXH và chính trị, cách viết báo cáo
và quyền lợi công dân.
- Thứ tư, huấn luyện lí luận theo
nguyên tắc kinh nghiệm và thực tế đi
kèm với nhau.
2.2.4. Kiên quyết chống 3 thứ giặc
(tham ô, lãng phí, quan liêu)
- Đây là 3 căn bệnh dẫn đến nguy cơ
suy thoái đổ vỡ không lường hết trước
được.
- Đây là giặc nội xâm, nó còn nguy
hiểm hơn ngoại xâm bởi: nó là kẻ thù
trong lòng và đấu tranh vs chính bản
thân mình, dám thừa nhận cái sai của
mình là điều khó khăn nhất.
*Nguyên nhân:
+) Do cơ quan lãnh đạo từ trên không
sát công việc thực tế không theo dõi và
giáo dục cán bộ, không gần gũi quần
chúng.
+) Chỉ biết khai hội biết chỉ thị xem
báo cáo trên giấy không kiểm tra đến
nơi đến chốn, dung túng che chở cho
nạn tham ô.
*Tác hại:
+) Đánh mất chính quyền như nhà
nước Liên Xô
+) Làm hỏng tinh thần trong sạch và ý
chí khắc khổ của cán bộ ta
+) Phá hoại đạo đức cách mạng
Vì vây để có 1 nhà nước trong sạch
vững mạnh hiệu quả cần đẩy mạnh đấu
tranh, chặn đứng, tiêu diệt tận gốc tham
ô lãng phí quan liêu. Phải thực hành
nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình
và coi đó như việc rửa mặt hằng ngày.
2.3. Pháp luật phải được tuyên
truyền, giáo dục, phải thực hành
nghiêm chỉnh
-Tuyên truyền pháp luật cho nhân dân,
cán bộ và công chức nhà nước.
+Vì pháp luật:
. Bảo vệ đa số nhân dân lao động
. Có ý nghĩ quan trọng trong việc xây
dựng dân chủ đích thực theo kỷ cương
phép nước
. tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật
đc thi hành cơ chế kiểm tra, giám sát
việc thi hành pháp luật
+Đi đôi với công tác giáo dục, tuyên
truyền pháp luật là nâng cao dân trí, bồi
dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn
hoá chính trị và tính tích cực của công
dân, khuyến khích công dân tham gia
vào công việc nhà nước
-Phải đảm bảo tính nghiêm minh khách
quan công bằng bình đẳng trong pháp
luật
+Để đảm bảo tính nghiêm minh khách
quan, công bằng bình đăng trong pháp
luật yêu cầu tất cả mọi tổ chức, mọi cá
nhân không ai đứng ngoài pháp luật
+Người cán bộ có nhiệm vụ gương
mẫu cháp hành pháp luật của nhà nước,
luật kỉ của đoàn thể cách mà mình
tham gia
3. Liên hệ, vận dụng với sinh viên
hiện nay
- Đối với sinh viên hiện nay, việc học
tập và tiếp thu những quan điểm của
Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
trong sạch vững mạnh có vai trò quan
trọng:
+ Thứ nhất là nội dung kiến thức có giá
trị to lớn, giúp sinh viên có cách nhìn
sâu sắc hơn về nhà nước ta cũng như
việc làm thế nào để xây dụng nhà nước
trong sạch hơn
+ Thứ hai, tạo động lực để sinh viên nỗ
lực học tập, rèn luyện về tài, đức để trở
thành công dân tốt, để góp công vào
dựng xây đất nước tiến bộ, tốt đẹp hơn.
Chương III: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Nội dung Triển khai ý Mở rộng


Bối cảnh - Cách mạng khoa học và Bước vào giai đoạn mới, tình
lịch sử công nghệ đang có những hình thế giới cũng như Việt Nam có
hiện nay bước tiến nhảy vọt => nhiều thay đổi diễn ra nhanh chóng.
Nhân loại bước sang nền Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
văn minh trí tuệ. đang có những bước tiến nhảy vọt, đưa
- Tri thức đóng vai trò to nhân loại bước sang nền văn minh mới -
lớn. văn minh trí tuệ. Tri thức ngày càng
- Toàn cầu hóa kinh tế đóng vai trò to lớn trong những yếu tố
ngày càng lớn mạnh. tạo nên tăng trưởng, tạo nền kinh tế tri
- Những mâu thuẫn cơ bản thức. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế
trên thế giới vẫn tồn tại và khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều
phát triển, có mặt sâu sắc nước tham gia. Xu thế này đang bị các
hơn. nước phát triển và tập đoàn kinh tế tư
- Chủ nghĩa xã hội trên thế bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng
giới có điều kiện và khả nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực
năng tạo ra những bước vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa
phát triển mới. có đấu tranh. Các mâu thuẫn cơ bản trên
- Chiến tranh lạnh đã kết thế giới biểu hiện dưới những hình thức
thúc, nhưng chiến tranh và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát
cục bộ, xung đột dân tộc, triển, có mặt sâu sắc hơn. Lịch sử thế
tôn giáo, chạy đua vũ giới đã, đang và sẽ còn trải qua những
trang, hoạt động can thiệp bước quanh co.
lật đổ, khủng bố còn xảy Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ
ra ở nhiều nơi với tính những bài học thành công và thất bại
chất phức tạp và ngày cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh
càng tăng. của các dân tộc, có điều kiện và khả
- Hòa bình, hợp tác và năng tạo ra bước phát triển mới. Sự
phát triển là xu thế lớn của khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội mô
các quốc gia, dân tộc. hình Xô viết dẫn đến sự sụp đổ của các
- Việt Nam có đầy đủ cơ nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên
hội, cũng như thách thức Xô làm thay đổi căn bản cục diện thế
và nguy cơ phải đối mặt. giới. Chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào
thoái trào, song như Đảng ta đã nhận
định: tương lai của loài người là tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
Chiến tranh lạnh đã kết thúc,
nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ
trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy
đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ,
khủng bố còn xảy ra ở nhiều nơi với
tính chất phức tạp ngày càng tăng.
Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và
phát triển là xu thế lớn, phản ánh đòi
hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc.
Cuộc đấu tranh của các dân tộc cho hòa
bình và phát triển, vì độc lập dân tộc,
dân chủ, dân sinh, tiến bộ và công bằng
xã hội sẽ có những bước tiến mới.
Trước tình hình thế giới thay đổi
như vậy, Việt Nam có đầy đủ cơ hội
cũng như những thách thức và nguy cơ
phải đối mặt. Chúng ta có những cơ hội
lớn, bởi thế và lực, đặc biệt là thế của
chúng ta bây giờ mạnh hơn nhiều so với
thời kỳ đầu đổi mới. Cơ sở vật chất - kỹ
thuật của nền kinh tế được tăng cường.
Đất nước giàu tiềm năng, nhất là tiềm
năng về tinh thần, trí tuệ của con người
Việt Nam, nếu có giải pháp đúng để
phát huy thì có khả năng tiếp cận nền
kinh tế tri thức của thế giới để “đi tắt
đón đầu”. Những truyền thống tốt đẹp
của nhân dân ta mà hàng đầu là tinh
thần yêu nước vẫn được giữ vững và
phát huy trong hoàn cảnh mới. Về cơ
bản, chúng ta là một đất nước có nền
chính trị ổn định. Mặt khác, chúng ta
đang sống trong môi trường hòa bình,
hợp tác quốc tế. Đó là những điều kiện
thuận lợi để chúng ta tiếp tục phát huy
nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ
ngoại lực như vốn, công nghệ mới, kinh
nghiệm quản lý, mở rộng thị trường
nhằm phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đồng thời, đất nước ta phải đối
mặt với nhiều thách thức và nguy cơ.
Bốn nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ ra đó
là: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn
tham nhũng, tệ quan liêu, “diễn biến
hòa bình” do các thế lực thù địch gây ra
- đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức
tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không
thể xem nhẹ nguy cơ nào. Trong khi đó,
nước ta vẫn còn là nước đang phát triển,
mức sống nhân dân còn thấp, cuộc cạnh
tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nếu
chúng ta không nhanh chóng vươn lên
thì sẽ càng tụt hậu xa hơn về kinh tế.
Sau đại thắng 1975 giang sơn đất
nước thu về một mối, cả nước ta bước
vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Thời kỳ mới
và sứ mệnh của Đảng và Nhà nước ta là
vô cùng to lớn. Để thực hiện định
hướng, cương lĩnh, đường lối của Đảng,
Nhà nước - với ý nghĩa là bộ máy cai
trị, thống trị xã hội, tức là quá trình tổ
chức, sắp xếp, bố trí thực hiện định
hướng của lãnh đạo, bước đi kế tiếp của
lãnh đạo, yếu tố thực hiện sự lãnh đạo -
phải không ngừng hoàn thiện, tiếp tục
cải cách để có một nhà nước thực sự
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu quả, đưa đất nước vượt qua nguy
cơ, thách thức, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập dân
tộc, xây dựng đất nước theo con đường
xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình đổi mới, Đảng và
Nhà nước ta lãnh đạo nhân dân giành
được nhiều thắng lợi to lớn trên các lĩnh
vực, mặt trận an ninh, chính trị, an toàn
xã hội và hợp tác quốc tế. Nhưng bên
cạnh đó cũng còn tồn tại không ít hạn
chế đòi hỏi phải được khắc phục sớm.

Thực 1. Thành tựu 1. Thành tựu


trạng - Tình hình chính trị ổn - Tình hình chính trị ổn định, Việt
công định. Nam được đánh giá là điểm đến an toàn
cuộc xây - Dân chủ được nâng cao. của thế giới, kinh tế xã hội phát triển
dựng và - Bộ máy nhà nước ngày (Việt Nam hiện nay đã ra khỏi tình
hoàn càng hoàn thiện. trạng kém phát triển trở thành một nước
thiện nhà - Hợp tác quốc tế được mở đang phát triển).
nước rộng. - Quyền làm chủ của nhân dân
hiện nay 2. Hạn chế không ngừng được đảm bảo.
- Hệ thống pháp luật còn - Bộ máy nhà nước hoạt động có
chưa rõ ràng. hiệu quả, phù hợp với xu thế phát triển
- Vẫn còn tình trạng quan chung của thời đại.
liêu. - Sự giao lưu, hợp tác quốc tế
- Hoạt động xây dựng được mở rộng, uy tín của Việt Nam trên
pháp luật còn nhiều sơ hở. trường quốc tế ngày được nâng cao.
- Vẫn còn xảy ra hiện Cho đến nay, sau khi tiến hành
tượng mất dân chủ. đổi mới, nước ta đã có quan hệ ngoại
- Chậm cải cách thủ tục giao đầy đủ với 169 nước, trong đó có
hành chính và tư pháp. tất cả các nước láng giềng và các nước
- Bộ máy hành chính cồng lớn, có quan hệ thương mại với trên 180
kềnh, chưa tinh giảm gọn nước và vùng lãnh thổ, là thành viên
nhẹ, thủ tục hành chính chính thức của hầu hết các tổ chức quốc
còn gây nhiều phiền hà tế lớn. Vai trò của Việt Nam trong Liên
cho nhân dân. hợp quốc và phong trào Không liên kết
3. Quan điểm của Đảng về được đề cao. Chúng ta đã tổ chức tốt
xây dựng và hoàn thiện nhiều Hội nghị cấp cao lớn như Hội
Nhà nước nghị cấp cao Á - Âu, Hội nghị thượng
- Qua mỗi kỳ đại hội, đinh Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á -
trong những nghị quyết, Thái Bình Dương APEC14 Có thể nói
văn kiện, Đảng ta luôn công cuộc đổi mới đã làm cho vị thế
đưa ra những quan điểm nước ta trên trường quốc tế không
cụ thể về xây dựng và ngừng được nâng cao và đưa nước ta trở
hoàn thiện Nhà nước. thành một người bạn và là một đối tác
+ Văn kiện Đại hội IV có tin cậy của nhân dân tất cả các nước.
nêu rõ chủ trương xây 2. Yếu kém, khuyết điểm
dựng Nhà nước sau khi Bên cạnh những thành tựu đã đạt
nước nhà đã thống nhất. được trong xây dựng và hoàn thiện nhà
+ Đến Đại hội V, Đảng ta nước, thực trạng nhà nước ta hiện nay
vừa nêu ra chủ trương vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, khuyết
chung vừa xác định những điểm đòi hỏi phải được sửa chữa kịp
giải pháp cụ thể. thời.
+ Đại hội Đảng lần VI - Còn có sự chồng chéo giữa các
được coi là đại hội của đổi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
mới, chấm dứt thời kỳ + Trên thực tế còn có sự chồng
khủng hoảng kinh tế - chéo giữa các quyền lập pháp, hành
chính trị kéo dài, mở ra pháp và tư pháp. Lĩnh vực ban hành
một thời kỳ phát triển mới luật, pháp lệnh, nghị định hoặc điều
gắn liền với mở cửa, phát chỉnh giữa luật và pháp lệnh cũng chưa
triển kinh tế. rõ.
+ Đến Đại hội VII, Đảng + Mối quan hệ giữa lập pháp và
ta tiếp tục khẳng định mục tư pháp, giữa hành chính và tư pháp,
tiêu, động lực của công giữa toà án và viện kiểm sát cũng có
cuộc đổi mới là thực hiện tình trạng tương tự.
dân chủ chủ nghĩa xã hội. - Còn tình trạng tập trung quan
+ Đến Đại hội X và Đại liêu từ trung ương và cục bộ từ địa
hội XI, Đảng ta liên tục phương.
khẳng định: Dân chủ xã Nhiều vấn đề trong việc xây dựng
hội là bản chất của chế độ dự án, phân bổ ngân sách, chủ trương
ta, vừa là mục tiêu, vừa là đầu tư, thực thi dự án... còn kém hiệu
động lực của công cuộc quả vì nhiều lý do, trong đó có sự yếu
đổi mới, xây dựng và bảo kém trong giải quyết mối quan hệ giữa
vệ Tổ quốc. trung ương và địa phương.
- Hoạt động xây dựng pháp luật
còn có nhiều hạn chế, nhiều sơ hở, gây
thiệt hại lớn.
Hậu quả những sơ hở của pháp
luật là mảnh đất màu mỡ cho những
người am hiểu pháp luật, nắm quyền và
nắm tài sản nhà nước lợi dụng, luồn
lách.
- Hiện tượng mất dân chủ còn
diễn ra phổ biến, nhiều quyền của người
dân bị vi phạm.
Lý do chủ yếu là một số người có
chức, có quyền quản lý theo kiểu quan
liêu, có ý thức trục lợi, vi phạm pháp
luật, coi thường kỷ cương phép nước.
Tình trạng trục lợi, sách nhiễu,
nhũng nhiễu nhân dân diễn ra một cách
phổ biến “Một bộ phận cán bộ, đảng
viên kể cả một số cán bộ chủ chốt các
cấp yếu kém về phẩm chất, năng lực và
tinh thần trách nhiệm, vừa thiếu tính
tiên phong gương mẫu, vừa không đủ
trình độ năng lực hoàn thành nhiệm vụ”
- Chậm cải cách thủ tục hành
chính và tư pháp.
Chức năng kiểm kê kiểm soát của
các cơ quan trong bộ máy nhà nước và
vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân
đối với hoạt động của bộ máy nhà nước
còn nhiều hạn chế. Nguy hại nhất là một
bộ phận cán bộ, công chức nhà nước
thoái hoá, biến chất, chạy chức, chạy
quyền, tham nhũng, hối lộ, làm mất
lòng tin của nhân dân...
- Bộ máy hành chính cồng kềnh,
chưa tinh giảm gọn nhẹ, thủ tục hành
chính còn gây phiền hà cho nhân dân
Sự phiền hà của các thủ tục hành
chính có thể thấy rõ trong một ví dụ đơn
cử: thành phố Hồ Chí Minh dự kiến sẽ
cắt bỏ ít nhất 800 thủ tục hành chính
không cần thiết trong tổng số 2491 thủ
tục hành chính.
Có những tồn tại, hạn chế trên là
do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên
nhân chủ quan là chủ yếu: chậm đổi
mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế;
chậm xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa,
chính sách và giải pháp chưa đủ
mạnh để huy động và sử dụng tối đa các
nguồn
lực vào phát triển kinh tế - xã hội;
cải cách hành chính còn chậm và kém
hiệu quả,
công tác tổ chức cán bộ chậm đổi
mới, chưa đáp ứng yêu cầu, chỉ đạo và
tổ chức
thực hiện còn nhiều hạn chế.
3. Quan điểm của Đảng về xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước
Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
quan tâm xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước để Nhà nước thực sự đảm đương
được sứ mệnh lịch sử của mình. Qua
mỗi kỳ đại hội, trong những nghị quyết,
văn kiện, Đảng ta luôn đưa ra những
quan điểm cụ thể.
Văn kiện Đại hội IV có nêu rõ
chủ trương xây dựng Nhà nước sau khi
nước nhà đã thống nhất: “... Để thực
hiện quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động phải kiện toàn Nhà nước
xã hội chủ nghĩa của cả nước, tăng
cường hiệu lực của nhà nước về mặt tổ
chức và quản lý kinh tế, văn hóa xã hội,
nhanh chóng xây dựng và kiện toàn bộ
máy chính quyền Nhà nước các cấp ở
miền Nam, tiếp tục hoàn thiện bộ máy
chính quyền Nhà nước các cấp ở miền
Bắc. Nhà nước chuyên chính vô sản của
ta phải là Nhà nước của dân, do dân và
vì dân, một tổ chức đủ năng lực tiến
hành ba cuộc cách mạng, xây dựng chế
độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa
mới và con người mới, bảo vệ lợi ích
của tập thể và lợi ích chính đáng của cá
nhân, đủ sức giữ vững an ninh chính trị
và trật tự xã hội, bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa và những thành quả của cách
mạng”.
Đến Đại hội V, Đảng ta vừa nêu
ra chủ trương chung vừa xác định
những giải pháp cụ thể: “... Nhân dân
lao động thực hiện quyền làm chủ tập
thể của mình chủ yếu bằng Nhà nước
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước
ấy là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, nhà nước chuyên chính
vô sản. Vì vậy tăng cường Nhà nước là
vấn đề cấp bách hiện nay. Phải tăng
cường Nhà nước để phát huy quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động và
thể hiện đầy đủ sự lãnh đạo của Đảng
trong việc tiến hành ba cuộc cách mạng,
xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới,
nền văn hóa mới, con người mới, trong
việc giữ vững an ninh chính trị và trật
tự, an toàn xã hội, bảo vệ những thành
quả của cách mạng, bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ hạnh
phúc của nhân dân.
… Phải phấn đấu làm cho Quốc
hội, cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất, thực sự phát huy vai trò của mình
trong việc xây dựng pháp luật, quyết
định những vấn đề lớn của nhà nước và
giám sát hoạt động của các cơ quan
chính quyền cấp Trung ương; làm cho
Hội đông nhân dân các cấp hoạt động
đúng với vị trí là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, quyết định những
vấn đề quan trọng trong việc xây dựng
địa phương. Các đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng nhân dân cần phát
huy đầy đủ trách nhiệm và quyền hạn đã
được quy định, cần giữ mối liên hệ chặt
chẽ và đều đặn với cử tri, phản ánh kịp
thời những ý kiến và nguyện vọng của
nhân dân cho các cơ quan nhà nước,
làm cho những ý kiến xác đáng của
nhân dân nhanh chóng được tiếp thu và
thực hiện.
... Tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa là một yêu cầu cấp thiết để
nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước,
bảo đảm quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động. Để tăng cường quản
lý xã hội theo pháp luật, Nhà nước ta
phải khẩn trương cụ thể hóa Hiến pháp
mới bằng hệ thống pháp luật; chú trọng
từng bước xây dựng hệ thống pháp luật
kinh tế và các luật về an ninh xã hội.
Tăng cường các cơ quan làm công tác
pháp luật, gấp rút tăng cường đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ hành chính nhà nước
các cấp và cán bộ pháp lý.
... Cơ quan quản lý của nhà nước
phải cải tiến phương pháp hoạt động,
đổi mới phong cách làm việc, làm cho
hoạt động quản lý có tính chiến đấu, sắc
bén, dứt khoát và thiết thực; phải chỉ
đạo từng công việc một cách chặt chẽ,
đến nơi, đến chốn, chống bệnh giấy tờ,
hội họp quá nhiều.
Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, cải tiến phương
pháp lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối
với chính quyền là điều kiện quyết định
để phát huy vai trò và hiệu lực của nhà
nước”.
Đại hội Đảng lần VI được coi là
đại hội của đổi mới, chấm dứt thời kỳ
khủng hoảng kinh tế - chính trị kéo dài
trong cả nước, mở ra một thời kỳ phát
triển mới gắn liền với mở cửa, hội nhập
kinh tế. Nghị quyết của Đại hội cũng
bàn nhiều đến vấn đề Nhà nước với
những quan điểm tích cực: “... Chúng
tamđã xác định mối quan hệ Đảng lãnh
đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản
lý thành cơ chế chung trong quản lý
toàn bộ xã hội.
…Quyền làm chủ của nhân dân
cần được thể chế hóa bằng pháp luật và
tổ chức. Dân chủ đi đôi với kỷ luật,
quyền hạn và lợi ích đi đôi với trách
nhiệm và nghĩa vụ. Mỗi người dân phải
làm chủ lao động của mình, làm việc có
kỷ luật, với năng suất và hiệu quả cao,
đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây
dựng đất nước. Mọi công dân phải tham
gia giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã
hội, chống địch phá hoại, bảo vệ Tổ
quốc, coi đó là nghĩa vụ thiêng liêng và
quyền cao quý của mình.
… Trong công tác quản lý của
các cơ quan quản lý Nhà nước, dù là
quản lý hành chính hay quản lý sản
xuất, kinh doanh, quản lý trật tự trị an,
đều cần có sự tham gia của quần
chúng... Xóa bỏ nhận thức sai lầm coi
công tác quần chúng chỉ là biện pháp để
tổ chức, động viên nhân dân thực hiện
các chủ trương, chính sách. Đối với
những chủ trương có quan hệ trực tiếp
tới đời sống nhân dân trên phạm vi cả
nước cũng như ở các địa phương và các
đơn vị cơ sở, cấp ủy Đảng hoặc cơ quan
chính quyền phải trưng cầu ý kiến nhân
dân trước khi quyết định. Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó là nền
nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện
chế độ nhân dân lao động tự quản lý
Nhà nước của mình.
... Cùng với việc chăm lo đời
sống nhân dân, các cơ quan Nhà nước
phải tôn trọng và bảo đảm những quyền
công dân mà Hiến pháp đã quy định...
Chỉnh đốn tổ chức, thi hành những biện
pháp có hiệu lực trừ diệt các tệ hối lộ,
cửa quyền, loại bỏ và nghiêm trị những
phần tử biến chất lợi dụng danh nghĩa
Đảng và chính quyền để đục khoét nhân
dân, áp bức quần chúng. Các cơ quan
tòa án, kiểm sát, thanh tra, an ninh...
dựa vào nhân dân để phát hiện và xử lý
kịp thời những vụ vi phạm quyền công
dân”
Đến Đại hội lần VII, Đảng ta tiếp
tục khẳng định: “Thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi
mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
công cuộc đổi mới.
Điều kiện quan trọng để phát huy
dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ dân trí,
trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức
tuân thủ pháp luật của nhân dân…
Chống tệ quan liêu và những hành vi
xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân;
ngăn chặn và khắc phục dân chủ hình
thức, dân chủ cực đoan, dân chủ tư sản.
Nghiêm trị những hoạt động phá hoại,
gây rối, thù địch.
Tiếp tục cải cách bộ máy Nhà
nước theo phương hướng: Nhà nước
thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức
và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực
nhưng phân công, phân cấp rành mạch;
bộ máy tinh giản, gọn nhẹ và hoạt động
có chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng
các thành tựu khoa học, kỹ thuật, quản
lý.
Cần tập trung làm tốt một số việc:
- Sửa đổi Hiến pháp, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Cải tiến tổ chức và hoạt động
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân để
làm đúng chức năng quy định.
- Sửa đổi cơ cấu tổ chức và
phương thức hoạt động của Chính phủ.
- Xác định lại chức năng, nhiệm
vụ của cấp tỉnh, huyện, xã để sắp xếp lại
tổ chức của mỗi cấp.
- Tăng cường hiệu lực của các cơ
quan bảo vệ pháp luật.
- Kiên quyết sắp xếp lại tổ chức
và tinh giản biên chế các cơ quan hành
chính sự nghiệp.
- Tiếp tục tiến hành kiên quyết và
thường xuyên cuộc đấu tranh chống tệ
tham nhũng”
Trong chủ trương “tiếp tục cải
cách bộ máy nhà nước, xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” của Đại hội VIII
có yêu cầu phải quán triệt các quan
điểm cơ bản sau:
“ - Xây dựng Nhà nước xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy
liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
chuyên chính với mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân
dân.
- Quyền lực Nhà nước là thống
nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
nhà nước.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp
luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng
cao đạo đức.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước.
Đại hội nêu ra bốn nhiệm vụ cũng
chính là bốn giải pháp để xây dựng,
kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh,
trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả: đổi
mới, nâng cao chất lượng công tác lập
pháp và giám sát tối cao của Quốc hội
đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước; cải cách nền hành chính nhà
nước; cải cách tổ chức và hoạt động tư
pháp; đẩy mạnh đấu tranh chống tham
nhũng.
Đến Đại hội X và Đại hội XI,
Đảng ta liên tục khẳng định: Dân chủ xã
hội là bản chất của chế độ ta, vừa là
mục tiêu vừa là động lực của công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội X nhấn mạnh việc phải tích cực
phòng ngừa và kiên quyết chống tham
nhũng, lãng phí, cho rằng đó là đòi hỏi
bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính
trị của Đảng nhằm khắc phục một trong
những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn
của chế độ ta. Đại hội XI thì tập trung
vào ba nội dung lớn: tiếp tục đổi mới tổ
chức, hoạt động của bộ máy nhà nước;
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu
của tình hình mới; tích cực phòng ngừa
và kiên quyết đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết
kiệm.
Như vậy, vấn đề nhà nước và
nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu quả hoạt
động của Nhà nước luôn là vấn đề được
Đảng ta quan tâm qua mỗi kỳ Đại hội,
từ Đại hội đầu tiên khi đất nước được
hòa bình (Đại hội IV), đến đại hội đổi
mới (Đại hội VI) và gần đây nhất là Đại
hội XI. Điều đó không chỉ thể hiện ở
những chủ trương, quan điểm chung mà
còn gắn với những giải pháp cụ thể.
Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy Đảng ta
luôn khẳng định và nêu cao bản chất
dân chủ của Nhà nước, đi đôi với đó là
việc tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Gắn với mỗi hoàn cảnh lịch sử
thì có sự bổ sung, điều chỉnh khác nhau
nhưng bản chất đó không hề thay đổi và
luôn luôn thống nhất. Các giải pháp
được nêu ra là nhằm cụ thể hóa và hiện
thực hóa bản chất đó trong cuộc sống
nhân dân mà thôi.

Một số 1. Phát huy dân chủ, giữ 1. Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ
giải pháp vững kỷ luật, kỷ cương, luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế
xây dựng tăng cường pháp chế Chính quyền là vấn đề cơ bản của
và hoàn - Phát huy dân chủ. mọi cuộc cách mạng. Giành chính
thiện nhà + Tăng cường quyền làm quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó
nước chủ của nhân dân. hơn. Cái khó của việc giữ chính quyền
pháp + Thực hiện chế độ dân là làm sao phát huy được dân chủ, tăng
quyền xã chủ trên thực tế, nói đi đôi cường pháp chế.
hội chủ với làm. Thứ nhất, phát huy dân chủ
nghĩa + Mở rộng và thực hiện Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản
Việt chế độ dân chủ trực tiếp chất của chế độ xã hội ta, vừa là mục
Nam một cách thiết thực, hiệu tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
hiện nay quả. đất nước. Để tiếp tục xây dựng và hoàn
+ Tăng cường và phát huy thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
dân chủ nhưng trong xây đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
dựng và hoàn thiện bộ nhân dân thì cần thực hiện tốt các nội
máy nhà nước luôn phải dung sau:
quán triệt nguyên tắc tập Tăng cường quyền làm chủ của
trung dân chủ. nhân dân
- Dân chủ bao giờ cũng đi Để vượt lên tình trạng thấp kém
liền với pháp chế, kỷ luật, của nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách
kỷ cương. về trình độ phát triển giữa nước ta với
+ Coi trọng công tác nhiều nước trên thế giới, trong điều kiện
tuyên truyền, giáo dục, cạnh tranh quốc tế quyết liệt hiện nay,
nâng cao ý thức pháp luật ta không có con đường nào là phải “phát
cho người dân. huy cao độ nội lực của dân tộc” mà một
+ Mọi công dân đều bình trong những nhân tố cơ bản làm nên nội
đẳng trước pháp luật. lực đó là phát huy dân chủ. Chính khát
+ Phải đấu tranh, phê vọng dân chủ đã tạo nên sức mạnh kiên
phán những hành vi thiếu cường đấu tranh cho độc lập tự do.
ý thức tổ chức kỷ luật. Giành được chính quyền về tay nhân
2. Cải cách thể chế và dân rồi thì quyền làm chủ thật sự của
phương thức hoạt động người dân là nội dung đích thực của độc
của nhà nước lập, tự do. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí
- Thay đổi phương thức Minh đã nói: “Nếu nước độc lập mà dân
tác động của nhà nước đến không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
quá trình kinh tế - xã hội. lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
- Kiện toàn tổ chức, đổi Một xã hội hỗn độn, ai cũng hành
mới phương thức và nâng động theo ý mình thì không thể có tự do
cao hiệu quả hoạt động cho cả cộng đồng cũng như cho mỗi
của Quốc hội. người. Như trong Báo cáo chính trị tại
+ Tăng cường và nâng Đại hội X đã đề ra: Nhà nước cần có
cao chất lượng hoạt động Luật trưng cầu ý dân nhằm từng bước
lập pháp. hoàn thiện cơ chế lấy ý kiến nhân dân
+ Tăng cường chức năng về những vấn đề quan trọng cho lãnh
giám sát của Quốc hội đối đạo và quản lý nhà nước, nhằm tăng
với toàn bộ hoạt động của cường quyền làm chủ của nhân dân
nhà nước. trong việc giám sát, góp ý vào hoạt
+ Khẩn trương nghiên động của nhà nước
cứu, sớm sửa đổi, bổ xung + Quyền làm chủ của nhân dân
một số điều của Hiến pháp được hoàn thiện và nâng cao trong quá
1992 để phù hợp với thực trình phát triển kinh tế xã hội, nâng cao
tiễn. dân trí. Một xã hội có nền kinh tế ở
- Cải cách, xây dựng một trình độ thấp, dân trí kém thì không thể
nền hành chính nhà nước có một nền dân chủ phát triển.
dân chủ, trong sạch, vững + Quyền làm chủ của nhân dân
mạnh, từng bước hiện đại phải được thể chế hóa bằng pháp luật,
hóa. bằng những quy định cụ thể có tính luật
- Cải cách và nâng cao pháp thì mới có cơ sở thực thi và buộc
hiệu lực hoạt động của toàn xã hội thực hiện thống nhất.
ngành tư pháp trong quan Bất cứ công dân nào hoặc công
hệ với cơ quan lập pháp, chức nhà nước nào vi phạm pháp luật,
hành pháp. làm tổn hại đến quyền làm chủ của dân
- Tăng cường sự lãnh đạo đều phải được phê phán, uốn nắn, ngăn
của Đảng đối với Nhà ngừa; những hành động độc đoán,
nước: gắn liền xây dựng, chuyên quyền ức hiếp dân phải được
chỉnh đốn Đảng với cải nghiêm trị theo pháp luật.
cách bộ máy hành chính. + Quyền làm chủ của nhân dân
3. Xây dựng đội ngũ cán còn phải được bảo đảm bằng pháp luật
bộ, công chức trong sạch, và bằng các cơ quan bảo vệ pháp luật
có năng lực đáp ứng yêu - Thực hiện chế độ dân chủ trên
cầu của tình hình mới thực tế, nói đi đôi với làm Dân chủ
- Theo Hồ Chí Minh, cán trong chế độ mới mà nhân dân ta xây
bộ có vai trò rất quan dựng được thể hiện bằng nhiều hình
trọng, là “cái gốc của mọi thức, trên tất cả các lĩnh vực và được
công việc”, “công việc pháp luật bảo đảm. Đó là chế độ dân
thành công hoặc thất bại chủ trên thực tế, nói đi đôi với làm.
đều do cán bộ tốt hay Nhân dân ta đã và đang thực hiện quyền
kém”. làm chủ của mình vừa bằng hình thức
- Nghị quyết Đại hội XI đã trực tiếp vừa bằng hình thức gián tiếp
nêu rõ: phải phân định thông qua những đại biểu do mình bầu
chức năng, nhiệm vụ, ra.
trách nhiệm và quyền hạn Điều cần chú ý là trong tư duy Hồ
của mỗi cán bộ... Chí Minh về dân chủ thì dân chủ của ta
4. Tích cực phòng ngừa và phải là “dân chủ thực sự”. Người viết:
kiên quyết đấu tranh “Nước ta phải đi đến dân chủ thực sự”.
phòng, chống tham nhũng, “Chúng ta phải ra sức thực hiện những
lãng phí, thực hành tiết cải cách xã hội, để nâng cao đời sống
kiệm của nhân dân, thực hiện dân chủ thực
- Hồ Chí Minh chỉ ra căn sự. Nhiều lần Người nhắc đi nhắc lại hai
bệnh tham ô, lãng phí, chữ “thực sự”, “thật sự” như một thuộc
tham quan... là “kẻ thù khá tính cơ bản không thể thiếu của nền dân
nguy hiểm, vì nó không chủ của chế độ ta, nó vốn xa lạ với thứ
mang gươm mang súng, dân chủ trừu tượng, dân chủ hình thức
mà nó nằm trong các tổ mà người ta dễ dàng nghĩ tới là dân chủ
chức của ta, để làm hỏng trong xã hội tư sản.
cônng việc của ta”. - Điều quan trọng hàng đầu hiện
- Nghị quyết Trung ương nay là nâng cao chất lượng dân chủ đại
4 khóa XI “Về những vấn diện bằng cách:
đề cấp bách trong xây + Đề cao tiêu chuẩn chất lượng
dựng Đảng hiện nay” đã của các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
hết sức quan tâm đến đấu đồng nhân dân để người đại diện cho
tranh chống tệ tham nhũng dân có đủ đức và tài, thực sự có khả
vì nó đang là một nguy cơ năng đại diện cho ý chí nguyện vọng và
trực tiếp quan hệ đến sự lợi ích của nhân dân.
tồn vong của hệ thống + Hoàn thiện những quy định về
chính trị. bầu cử, ứng cử về tiêu chuẩn, cơ cấu đại
- Đại hội XI nêu ra biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân
phương hướng và giải trên cơ sở phát huy dân chủ bảo đảm
pháp phải quán triệt và cho nhân dân có đủ thông tin, dân chủ
thực hiện trong thời gian trong tuyển chọn và bầu được người
tới: Cần phải tiếp tục hoàn xứng đáng đại diện cho mình, thực thi
thiện thể chế và đẩy mạnh quyền làm chủ của mình bằng nhà nước,
cải cách hành chính phục thông qua nhà nước.
vụ phòng, chống tham - Mở rộng và thực hiện chế độ
nhũng, lãng phí; xử lý dân chủ trực tiếp một cách thiết thực,
đúng pháp luật... hiệu quả để bảo đảm cho nhân dân trực
tiếp tham gia quản lý xã hội, thảo luận
và quyết định những vấn đề lớn.
Điều 53 Hiến pháp 1992 ghi rõ:
“Công dân có quyền tham gia quản lý
nhà nước và xã hội, thảo luận các vấn
đề chung của cả nước và địa phương,
kiến nghị với các cơ quan nhà nước,
biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng
cầu ý dân”.
- Tăng cường và phát huy dân
chủ nhưng trong xây dựng và hoàn thiện
bộ máy nhà nước phải luôn quán triệt
nguyên tắc tập trung dân chủ
+ Tập trung phải trên nền tảng
dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo tập
trung, cấp dưới phải phục tùng cấp trên,
số ít phục tùng số nhiều, cá nhân phục
tùng tổ chức. Tránh hai khuynh hướng
sai lầm: chuyên quyền, độc đoán hoặc
dân chủ quá trớn.
+ Nguyên tắc này góp phần khắc
phục sự cục bộ, phân tán, “phép vua
thua lệ làng”. Nó cung cấp nguồn sinh
lực cho bộ máy nhà nước và đảm bảo
cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu
quả và hiệu lực, sự điều hành được tập
trung, thống nhất và thông suốt từ
Chính phủ đến chính quyền địa phương.
Thứ hai, dân chủ bao giờ cũng đi
liền với pháp chế, kỷ luật, kỷ cương.
Đó là những khuôn khổ quy định
trình độ, mức độ, phạm vi thực thi các
quyền dân chủ.
- Trong quá trình thực hiện, một
mặt phải coi trọng công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức pháp luật cho người dân, làm cho
mọi người hiểu rõ và thực hiện. Gắn
quyền hạn với trách nhiệm, lợi ích với
nghĩa vụ của công dân.
- Mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, mọi tổ chức Đảng, cơ
quan nhà nước, đoàn thể... đều hoạt
động theo Hiến pháp, pháp luật.
- Phải đấu tranh, phê phán những
hành vi thiếu ý thức tổ chức kỷ luật.
Nghiêm trị những hoạt động phá hoại,
gây rối, thù địch.
- Yêu cầu này đòi hỏi các cán bộ
chính quyền trước hết phải nắm vững
pháp luật và vận dụng nhuần nhuyễn
luật pháp để giải quyết các công việc
hàng ngày của mình. Nếu không nắm
vững pháp luật, người cán bộ đó sẽ rơi
vào hoặc là tội lỗi mù quáng, hoặc là
quan liêu.
2. Cải cách thể chế và phương thức
hoạt động của nhà nước
Thứ nhất, thay đổi phương thức
tác động của nhà nước đến quá trình
kinh tế - xã hội.
Trong thời kỳ chiến tranh và
trong cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, tác động của Nhà nước đến quá
trình phát triển kinh tế - xã hội thường
là can thiệp trực tiếp mang tính chất tập
trung. Điều đó có tác dụng nhất định
trong hoàn cảnh trước đây, nhưng cũng
đã bộc lộ những hạn chế và là một trong
những nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Những hạn chế
nổi bật là gò bó các chủ thể hoạt động,
can thiệp và bao cấp đối với các chủ thể
xã hội hoạt động, hoặc thường dội từ
trên xuống đã hạn chế tính chủ động,
sáng tạo, quyền dân chủ của địa phương
và cơ sở, làm triệt tiêu những động lực
phát triển.
Khi đất nước chuyển sang nền
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường đòi hỏi nhà nước phải
thay đổi hình thức hoạt động và phương
thức tác động đến kinh tế - xã hội. Tức
là nhà nước phải đổi mới cả về vai trò,
chức năng, phương thức tác động và tổ
chức quản lý. Không có tác động của
nhà nước thì nền kinh tế sẽ rối loạn và
không thể thành công; hoặc nhà nước
can thiệp như cũ nghĩa là tập trung, bao
cấp thì cũng không thể đáp ứng yêu cầu
của nền kinh tế và công cuộc đổi mới.
Nhưng ở đây cũng không phải là giảm
vai trò của bộ máy nhà nước trong hoạt
động quản lý nền kinh tế thị trường mà
vấn đề ở chỗ tác động của bộ máy nhà
nước đối với quá trình phát triển kinh tế
- xã hội là phải phù hợp với năng lực
của mình và phải nâng cao năng lực ấy
để đáp ứng được những nhu cầu của xã
hội đang đòi hỏi. Đó là một kinh
nghiệm của sự đổi mới, hoàn thiện và
phát triển chức năng của nhà nước trong
nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập
đang chuyển đổi mau lẹ, sinh động.
Nhà nước không chỉ thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng,
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh, trật tự
xã hội mà quan trọng hơn là phải tạo
môi trường pháp lý cho xã hội phát triển
năng động, định hướng nền kinh tế - xã
hội bằng pháp luật, có những chương
trình phát triển, hỗ trợ, khuyến khích
các thành phần kinh tế phát huy năng
lực của mình. Nhà nước tập trung nắm
và quản lý những khâu, những lĩnh vực
then chốt mà mình có thể quản lý có
hiệu quả và có ý nghĩa quyết định đối
với vận mệnh của quốc gia, của chế độ;
đồng thời phải thực hiện phương thức
xã hội hóa trong quản lý theo phương
châm “nhà nước và nhân dân cùng
làm”, phát huy cao độ quyền làm chủ
của nhân dân, khả năng tự quản của các
cá nhân và cộng đồng xã hội. Trong
quan hệ với các nước, các tổ chức quốc
tế, nhà nước cần có sự chuyển hướng
sang trọng tâm về lĩnh vực kinh tế - xã
hội, bằng phương thức hợp tác cùng có
lợi, đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ, các hình thức hợp tác với các
chế độ xã hội, với các đối tác khác
nhau...
Nói chung, trong thời kỳ mới, vai
trò, chức năng, phương thức hoạt động
của Nhà nước phải thật sự đổi mới và
hoàn thiện theo nguyên tắc làm cho
kinh tế - xã hội phát triển nhanh, bền
vững, nhân dân thực hiện tốt nhất quyền
lực của mình, dân chủ xã hội được phát
huy; tác động của nhà nước phải phù
hợp với khả năng, năng lực của mình,
không được làm thay nhưng không
được buông lỏng vai trò của mình trên
lĩnh vực này. Chính quyền nhà nước ở
tất cả các cấp đều phải tự kiểm tra mình
để có sự điều chỉnh, phát triển hợp lý,
phù hợp với những yêu cầu, nhiệm vụ
và tình hình mới.
Thứ hai, kiện toàn tổ chức, đổi
mới phương thức và nâng cao hiệu quả
hoạt động của Quốc hội.
- Tăng cường và nâng cao chất
lượng hoạt động lập pháp nhằm nâng
cao chất lượng các đạo luật, tăng cường
ban hành luật, tiến tới hoàn thiện hệ
thống pháp luật trên cơ sở quá triệt quan
điểm, đường lối của Đảng phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và pháp luật quốc tế,
có tính khả thi cao. Do vậy, phải xây
dựng chương trình làm luật, đổi mới
quy trình ban hành và hướng dẫn thực
thi pháp luật.
Từ sau Đại hội VI đến nay, Đảng
và Nhà nước ta đã làm được nhiều việc
quan trọng, khối lượng và chất lượng
pháp luật được nâng lên rõ rệt, đã góp
phần vào việc tạo môi trường, tạo khung
pháp lý cho các hoạt động kinh tế - xã
hội năng động, tự chủ và có kết quả
hơn; đồng thời qua đó nhân dân cũng
thực hiện tốt hơn quyền dân chủ của
mình, hiệu lực của Nhà nước được nâng
cao một bước. Tất nhiên, đó mới chỉ là
bước đầu, cần phải được tiếp tục đổi
mới, hoàn chỉnh nhiều hơn nữa hệ thống
pháp luật để đáp ứng được nhu cầu xã
hội có dân chủ, có kỷ cương ngày càng
phát triển.
Để nâng cao năng lực quản lý của
Nhà nước thì việc khắc phục bệnh tình
cảm chủ nghĩa, coi thường pháp luật,
đồng thời phải tôn trọng vai trò “thần
linh pháp quyền”, có như vậy mới đảm
bảo được tính công bằng, tính dân chủ,
tính công khai. Thông qua pháp luật,
mỗi công dân có trách nhiệm đối với
nhà nước và nhà nước có trách nhiệm
đối với từng công dân, có như thế mới
dân chủ và mới đúng tính chất là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Tăng cường chức năng giám sát
của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động
của nhà nước.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực
cao nhất ở nước ta. Để phát huy vai trò,
vị trí của cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất, Quốc hội phải được kiện toàn
tổ chức, đổi mới phương thức và nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
mình.
- Khẩn trương nghiên cứu, sớm
sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến
pháp 1992 để phù hợp với thực tiễn.
Thứ ba, cải cách, xây dựng một
nền hành chính nhà nước dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại
hóa.
Cải cách hành chính để có một
nền hành chính dân chủ, trong sạch,
phục vụ đắc lực nhân dân, giữ vững trật
tự, kỷ cương xã hội theo pháp luật. Nó
phải phục vụ tận tụy, công tâm, đáp ứng
yêu cầu hàng ngày về quyền lực hợp
pháp của nhân dân. Phải phấn đấu để
xóa bỏ ấn tượng hiện nay trong nhân
dân: hành chính là hành dân là chính!
Trong công cuộc cải cách hành
chính, cải cách thể chế hành chính là
khâu đầu tiên cần vì có thể tiến hành
ngay, không chậm trễ. Cải cách thể chế
hành chính gồm việc thực hiện cải cách
cơ bản các thủ tục hành chính, cả về thể
chế và tổ chức thực hiện... Cần phải loại
bỏ ngay những khâu bất hợp lý, giảm
phiền hà, ngăn chặn tệ cửa quyền, tham
nhũng, hối lộ vi phạm pháp luật.
Cải cách và kiện toàn bộ máy
hành chính là một quá trình, phải tiến
hành đồng bộ trên nhiều mặt. Căn bệnh
nặng nề, phức tạp, có căn nguyên xã hội
- lịch sử, nên không thể chữa trị trong
một thời gian ngắn.
Những vấn đề bức xúc nổi lên
hiện nay thường biểu hiện tập trung ở
các cơ quan hành chính hàng ngày có
quan hệ tiếp xúc trực tiếp với nhân dân.
Cần phải làm cho đội ngũ cán bộ, công
chức quán triệt nhận thức: nhà nước là
một tổ chức công quyền thể hiện quyền
lực của nhân dân, nhân viên nhà nước là
công bộc của nhân dân.
Thủ tục hành chính cũng như bất
cứ một quy định nào khác của pháp luật
phải đảm bảo được hai mục tiêu: một là,
tăng cường quản lý nhà nước; hai là,
phải tạo điều kiện cho công dân thực
hiện được các quyền cơ bản của mình.
Quản lý phải tạo điều kiện, làm tiền đề
cho sự phát triển. Tính thống nhất, tính
hợp lý, tính năng động là những nhân tố
quan trọng cho một nền hành chính có
hiệu quả, hiệu lực. Đảng ta đặc biệt
nhấn mạnh: Làm cho bộ máy tinh gọn,
bảo đảm sự điều hành tập trung, thống
nhất, thông suốt có hiệu lực từ Chính
phủ đến chính quyền địa phương, cơ sở;
đồng thời phát huy tính chủ động, năng
động của địa phương, cơ sở.
Bên cạnh chức năng quản lý nhà
nước, các cơ quan hành chính còn có
chức năng dịch vụ công. Để nêu cao
tinh thần phục vụ nhân dân, cần thiết
phải:
+Cải cách thủ tục hành chính, ban
hành và hoàn thiện chế độ công vụ.
+ Đề cao trách nhiệm giải quyết
khiếu kiện của nhân dân, sao cho thủ
tục khiếu kiện đơn giản, nhanh chóng,
đúng pháp luật, không để nhân dân phải
tốn quá nhiều thời giờ, công sức đi lại,
do tình trạng đùn đẩy, “kính chuyển”
vòng vo.
+ Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ công
chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn,
thực hiện tinh giản biên chế; xử lý
nghiêm minh, kịp thời những người vi
phạm pháp luật (tham nhũng, đặc quyền
đặc lợi...)
Thứ tư, cải cách và nâng cao hiệu
lực hoạt động của ngành tư pháp trong
quan hệ với cơ quan lập pháp và hành
pháp.
Trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, việc phân công giữa các
quyền lực trong hệ thống nhà nước (lập
pháp, hành pháp, tư pháp) vừa phải rành
mạch, rõ ràng, thể hiện tính độc lập
tương đối về quyền lực của từng tổ
chức, có như thế mới phát huy được
tính chủ động và năng lực của mỗi tổ
chức; vừa phải đảm bảo sự phối hợp
đồng bộ, nhịp nhàng giữa các quyền ấy
trong sự thống nhất quyền lực duy nhất
thuộc về nhân dân, mới phát huy tốt
nhất hiệu lực, năng lực của hệ thống nhà
nước. Chúng ta không tổ chức theo kiểu
đối trọng quyền lực, nhưng phải chú ý
tôn trọng hơn nữa vai trò, quyền hạn
của từng tổ chức, trên cơ sở đó mà có sự
phối hợp một cách ăn khớp, nhịp nhàng,
tránh lấn át nhau hoặc đùn đẩy trách
nhiệm lẫn nhau.
Trong cải cách tổ chức và hoạt
động tư pháp phải tăng cường đấu tranh
chống tội phạm, bảo vệ công lý, bảo
đảm nguyên tắc mọi vi phạm pháp luật
phải bị xử lý, mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật, đảm bảo nghiêm
chỉnh việc thi hành án. Phải giải quyết
cho được nạn quá tải ở các tòa án cấp
tỉnh và thành phố, nhất là ở các thành
phố lớn, tăng cường biện pháp phòng
ngừa tội phạm, đề cao trật tự, kỷ cương
xã hội, tăng cường công tác hòa giải ở
cơ sở... để phấn đấu hạ thấp số vụ án
thụ lý ở tòa án; thành lập các tổ chức bổ
trợ tư pháp để giúp các tòa án xét xử
được nhanh chóng hơn và thuận lợi hơn.
Do đó, yêu cầu cải cách tư pháp hiện
nay cũng đang đặt ra một cách bức thiết.
Thứ năm, tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước: gắn
liền xây dựng, chỉnh đốn Đảng với cải
cách bộ máy hành chính.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, sự
lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà
nước ta đã hoàn thành được nhiệm vụ
lịch sử vẻ vang trong hai cuộc kháng
chiến vĩ đại của dân tộc. Bước vào thời
kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương: trước
hết tập trung đổi mới về kinh tế đồng
thời từng bước đổi mới về chính trị, nhờ
đó mà đất nước ổn định, từng bước tiến
lên đạt những thành tựu quan trọng sau
những năm đổi mới.
Tuy nhiên, yêu cầu của cuộc đấu
tranh chống tham nhũng, quan liêu, cửa
quyền, trù dập, ức hiếp nhân dân,...
đang đòi hỏi ở Đảng ta một sự lãnh đạo
tập trung hơn nữa, quyết tâm cao hơn
nữa, kế hoạch và biện pháp triệt để hơn
nữa, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
thị: “Cuộc vận động này là một cuộc
cách mạng nội bộ, một cuộc đấu tranh
gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và
cái mới, giữa đạo đức cách mạng là cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và kẻ
địch là tệ nạn tham ô, lãng phí, quan
liêu. Chúng ta đã thấy rõ kẻ thù, Đảng
đã định ra chiến lược sách lược đúng
đắn. Chúng ta phải đồng tâm nhất trí,
mạnh bạo xung phong”.
Cuộc đấu tranh để khắc phục
những khuyết tật của bộ máy nhà nước
không thể tách rời cuộc vận động, xây
dựng chỉnh đốn Đảng. Đảng mạnh thì
Nhà nước mạnh. Không thể có một
Đảng mạnh mà Nhà nước và hệ thống
hành chính của nó lại yếu kém. Vì vậy,
chỉ có sự lãnh đạo của một Đảng trong
sạch, vững mạnh mới đưa cải cách bộ
máy nhà nước đi đến thành công.
Bước sang kinh tế thị trường, có
quan niệm ở một số người cho rằng
Đảng không nên lãnh đạo kinh tế, đòi
tách Đảng ra khỏi Nhà nước. Những
quan niệm trên là cực đoan và sai lầm,
cần phải được khắc phục trong quá trình
cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước,
trong quá trình đổi mới và chỉnh đốn
Đảng. Vấn đề ở chỗ không phải là Đảng
từ bỏ sự lãnh đạo của mình hoặc hạn
chế sự lãnh đạo của mình, mà cần đổi
mới phương thức lãnh đạo, cùng với
nhà nước chăm lo sự nghiệp bảo vệ và
xây dựng chế độ mới.
Đảng có những quyết định không
những tinh giản bộ máy nhà nước, nâng
cao năng lực quản lý của nhà nước... mà
còn tinh giản bộ máy của Đảng, tăng
cường hơn nữa sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng đối với nhà nước và xã hội,
khắc phục cho kỳ được những yếu kém,
phát huy nội lực, bồi bổ thêm những
sinh lực mới. Đảng quan tâm đến việc
xây dựng hệ thống nhà nước, đồng thời
nhà nước cũng phải bằng hành động của
mình xây dựng Đảng vững mạnh. Bởi
vì, nhà nước ta vừa thực hiện ý chí của
dân, vừa là thực hiện lãnh đạo của
Đảng. Cùng với sự nghiệp đổi mới, sự
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
cũng được đổi mới. Nhà nước mạnh,
nhà nước sáng suốt, đủ trí tuệ và lương
tâm trong hoạt động quản lý nhà nước
của mình, không chỉ thể hiện sức mạnh
của nhân dân, quyền lực và ý chí của
nhân dân mà còn thể hiện sức mạnh, trí
tuệ và đạo đức của Đảng. Chính vì vậy,
Đảng và mọi đảng viên đều hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật,
chịu trách nhiệm về các hoạt động của
mình.
Để giải quyết tốt mối quan hệ
giữa Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của hai tổ chức này
cần chú ý một số điểm:
- Đảng phải khẳng định được vai
trò lãnh đạo của mình thông qua việc
định ra đường lối chính trị, chính sách,
những chủ trương cụ thể của Đảng
trong từng giai đoạn. Đảng phải lãnh
đạo các cơ quan nhà nước kịp thời thể
chế hóa đường lối, chính sách của Đảng
thành pháp luật, nhất là chủ trương về
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội.
- Đảng phải xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên thực sự trong sạch, vững
mạnh, xứng đáng vừa là người lãnh đạo
vừa là người đầy tớ trung thành với
nhân dân. Đảng phải tăng cường kiểm
tra tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên
trong các doanh nghiệp, các tổ chức sự
nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước...
đối với việc thực hiện các nghị quyết
của Đảng, các quy định của Nhà nước
về quản lý kinh tế, tài chính, thu chi
ngân sách, việc sử dụng, bảo quản vốn
và tài sản của Nhà nước.
- Phải củng cố và nâng cao chất
lượng hoạt động của các tổ chức Đảng
trong các cơ quan Nhà nước.
- Đảng phải kiểm tra hoạt động
của bộ máy Nhà nước thông qua tổ chức
Đảng, đảng viên và phương thức kiểm
tra của Đảng. Công tác kiểm tra không
phải chỉ để khẳng định vai trò lãnh đạo
của Đảng nói chung vì lãnh đạo mà
không có kiểm tra coi như chưa có lãnh
đạo. Điều quan trọng ở chỗ kiểm tra để
thấy đúng, sai, cái gì được, cái gì chưa
được, thiếu sót, sai lầm ở đâu.... từ đó
kịp thời bổ sung, điều chỉnh, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng cũng
như các vấn đề cụ thể trong hoạt động
của các cơ quan nhà nước như Quốc
hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp
nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng
và Nhà nước để thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức trong sạch, có năng lực đáp ứng
yêu cầu của tình hình mới.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ có vai
trò rất quan trọng, là “cái gốc của mọi
công việc”, “công việc thành công hoặc
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, cho
nên công tác cán bộ nói chung và công
tác xây dựng đội ngũ công chức nói
riêng có vai trò rất quan trọng đối với
hoạt động và năng lực của nhà nước.
Phải khẳng định rằng với các nghị quyết
chuyên đề, Đảng ta có những đánh giá
đúng và trúng thực trạng đội ngũ cán bộ
và công tác cán bộ, nêu ra được những
quan điểm đúng đắn và xây dựng đội
ngũ cán bộ, xác định tiêu chuẩn chung
và tiêu chuẩn cụ thể một số loại cán bộ
trong thời kỳ mới, các nhiệm vụ và giải
pháp lớn về xây dựng quy hoạch và đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, xây dựng các
quy chế công tác cán bộ và đổi mới,
hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ.
Nhưng rõ ràng trong công tác cán bộ
vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra. Việc trọng
dụng những người có đức, có tài hiện
nay đang nổi lên như là một vấn đề
đáng quan tâm. Nhưng có vẻ như vẫn
chưa có một cơ chế đủ mạnh, những
giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề
này. Vì vậy, vẫn còn khá phổ biến tình
trạng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
ra cách đây hơn năm mươi năm: “Dìm
người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng
của mình là đạo vị”. Tình trạng cán bộ
không dám chịu trách nhiệm, thiếu tinh
thần phụ trách trước nhân dân và chúng
ta chưa có cơ chế xử lý đúng mức vẫn
đang hiện hữu. Đọc suy nghĩ của Người
dân thấy trong họ có những bất bình vì
những cán bộ thiếu trách nhiệm, thiếu
tinh thần phụ trách mà không được xử
lý.
Chúng ta phải ghi tạc vào đầu
chân lý mà Hồ Chí Minh nêu ra: “Phải
đào tạo một mớ cán bộ phụ trách, có
gan làm việc, ham làm việc. Có thế
Đảng mới thành công. Nếu đào tạo một
mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập đi hò
đúng”, không dám phụ trách. Như thế là
một việc thất bại cho Đảng”.
Để đáp ứng được yêu cầu trên,
trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức phải thực hiện theo tinh thần của
Nghị quyết Đại hội XI đã nêu: phải
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách
nhiệm và quyền hạn của mỗi cán bộ,
công chức, tăng cường tính công khai,
minh bạch, trách nhiệm của hoạt động
công vụ. Phải nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực
công tác; có chính sách đãi ngộ, động
viên, khuyến khích cán bộ, công chức
hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại
bỏ, bãi miễn những người không hoàn
thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy
tín với dân. Đây là một định hướng
đúng và nếu làm tốt được điều này,
chúng ta sẽ có được một đội ngũ có cả
năng lực và đạo đức.
4. Tích cực phòng ngừa và kiên quyết
đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, thực hành tiết kiệm
Ngay từ những ngày cách mạng
Tháng Tám mới thành công, Hồ Chí
Minh đã thấy trước nguy cơ và vạch ra
những tệ nạn tham ô, lãng phí, quan liêu
và đặc biệt là cảnh cáo cán bộ “tham ô,
lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của
nhân dân, của bộ đội và của Chính
phủ”. Nó là “kẻ thù khá nguy hiểm, vì
nó không mang gươm mang súng, mà
nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm
hỏng công việc của ta”. Đó là một trong
những nguyên nhân làm cho Đảng mất
uy tín, làm cho nhà nước bị tiêu vong.
Các Đại hội của Đảng, và đặc biệt
vừa qua có Nghị quyết Trung ương 4
khóa XI “Về những vấn đề cấp bách
trong xây dựng Đảng hiện nay” đã hết
sức quan tâm đến đấu tranh chống tệ
tham nhũng vì nó đang là một nguy cơ
trực tiếp quan hệ đến sự tồn vong của hệ
thống chính trị. Đây vẫn là một cuộc
đấu tranh quyết liệt, gay go, phức tạp,
đang là một thách thức lớn đối với Đảng
và Nhà nước ta. Để góp phần đấu tranh
chống lại quốc nạn này cần có một hệ
thống biện pháp tích cực, được tiến
hành một cách kiên quyết, thường
xuyên trong các ngành, các cấp từ trên
xuống dưới, từ Trung ương đến cơ sở.
Phải kết hợp những biện pháp cấp
bách với những giải pháp có tầm chiến
lược nhằm hoàn thiện cơ chế, chính
sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công
tác quản lý, khắc phục sơ hở, xử lý
nghiêm và kịp thời mọi vi phạm, tội
phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ
mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngăn
chặn, đẩy lùi và loại trừ tham nhũng. Đề
cao trách nhiệm và sự gương mẫu của
thủ trưởng cơ quan, đơn vị, cán bộ chủ
chốt các cấp. Đấu tranh chống tham
nhũng phải gắn với đấu tranh chống
buôn lậu, lãng phí, quan liêu, cậy
quyền, hối lộ, nhận hối lộ và các hành
vi sai trái khác với ý đồ chiếm đoạt, làm
thất thoát tài sản của nhà nước.
Đại hội XI nêu ra phương hướng
và giải pháp phải quán triệt và thực hiện
trong thời gian tới: Cần phải tiếp tục
hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách
hành chính phục vụ phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, tập trung vào các lĩnh
vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí;
thực hiện chế độ công khai, minh bạch
về kinh tế, tài chính trong các cơ quan
hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ
công, doanh nghiệp nhà nước, các dự án
đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ
ngân sách nhà nước, quản lý, sử dụng
đất đai, tài sản công; thực hiện có hiệu
quả việc kê khai và công khai tài sản,
thu nhập của cán bộ, công chức theo
quy định; xác định rõ trách nhiệm người
đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị xảy ra
tham nhũng, lãng phí; xử lý đúng pháp
luật, kịp thời cán bộ tham nhũng, tịch
thu sung công tài sản tham nhũng và có
nguồn gốc từ tham nhũng. Đồng thời
phải có cơ chế khuyến khích và bảo vệ
người đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực; tổng kết, đánh giá cơ
chế, mô hình tổ chức cơ quan phòng,
chống tham nhũng để có chủ trương,
giải pháp phù hợp. Chúng ta hy vọng,
với nhà nước mạnh, cơ chế quản lý
đúng, kỷ cương phép nước nghiêm, đạo
đức xã hội được nâng cao, nhất định sẽ
đẩy lùi được nạn tham nhũng và các tệ
nạn có liên quan khác.

You might also like