Professional Documents
Culture Documents
TTHCM VỀ NN
TTHCM VỀ NN
Chủ nghĩa - Nguồn gốc lý luận chủ yếu Ngoài truyền thống văn hóa dân
Marx-Lenin quyết định sự hình thành tư tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại,
tưởng Hồ Chí Minh về nhà trong nguồn gốc hình thành tư
nước kiểu mới ở Việt Nam là tưởng Hồ Chí minh nói chung và
chủ nghĩa Marx-Lenin về tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nhà nước, nhà nước chuyên nước nói riêng không thể không
chính vô sản, nhà nước xã kể đến chủ nghĩa Marx - Lenin -
hội chủ nghĩa. nguồn gốc lý luận quan trọng và
- Chủ nghĩa Marx-Lenin đã quyết định nhất. Chính thế giới
chỉ cho Hồ Chí Minh con quan và phương pháp luận Marx -
đường giải phóng dân tộc Lenin đã giúp Hồ Chí Minh tổng
đúng đắn là con đường cách kết kiến thức và kinh nghiệm thực
mạng vô sản. tiễn của loài người để tìm ra con
- Phương thức giải quyết vấn đường đi đúng đắn. Lý luận mác
đề chính quyền nhà nước, xít về nhà nước cách mạng vô sản
hiểu biết thấu đáo bản chất là cơ sở để Người đánh giá, phê
nhà nước, cách thức xây phán các học thuyết về tổ chức
dựng nhà nước. nhà nước cũng như thực tiễn tổ
- Khẳng định vai trò của chức nhà nước của các nước tư
quần chúng nhân dân: là bản. Mô hình nhà nước Xô viết
người sáng tạo ra lịch sử, mà Lênin tổng kết là một mô hình
cách mạng là sự nghiệp của nhà nước mà Hồ Chí Minh mong
quần chúng. muốn thiết lập ở Việt Nam. Chính
- Ảnh hưởng, bài học thành phủ công - nông - binh mà Người
công của cách mạng tháng đặt vấn đề phải xây dựng ở Việt
mười Nga. Nam trong Chánh cương vắn tắt là
biểu hiện của mô hình nhà nước
Xô viết. Lênin đã khái quát chỉ ra
một số nguyên tắc xây dựng nhà
nước mới. Mại là, bảo đảm
nguyên tắc toàn bộ quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân; hai là,
quyền lực nhà nước là thống nhất,
không phân chia; ba là, Đảng
Công sản lãnh đạo nhà nước xã
hội chủ nghĩa; bốn là, nhà nước xã
hội chủ nghĩa là nhà nước pháp
quyền ; năm là, nhà nước thực
hiện theo nguyên tắc tập trung dân
chủ. Tắt cả những nguyên tắc
trong xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa mà Lênin đưa ra được
Người tiếp thu và phát triển sáng
tạo để xây dựng một nhà nước thật
sự của dân, đo dân, vì dân ở Việt
Nam.
Trí tuệ và - Tình yêu đất nước, khát - Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
phẩm chất vọng giải phóng dân tộc. nước của dân, do dân, vì dân được
chính trị - Thông minh, bản lĩnh tự hình thành và phát triển trong suốt
của Hồ Chí học. cuộc đời đấu tranh và hoạt động
Minh - Tư duy độc lập, tự chủ, cách mạng của Người, trong đó cơ
sáng tạo, đổi mới. sở lý luận và thực tiễn phong phú
- Bản lĩnh, nghị lực phi của Hồ Chí Minh là một trong
thường. những cơ sở đặc biệt quan trọng
- Luôn gần dân, kính dân, để hình thành tư tưởng về nhà
lắng nghe ý kiến, tâm tư của nước của dân, do dân, vì dân.
nhân dân. - Hồ Chí Minh là người Việt Nam
yêu nước, thương dân và là một
thiên tài của dân tộc Việt Nam.
Nhân cách đó, phẩm chất đó đã
làm nên một anh hùng giải phóng
dân tộc, một danh nhân văn hóa
kiệt xuất của dân tộc Việt Nam.
Xuất phát từ khát vọng yêu nước,
thương dân chuyển thành khát
vọng muốn cứu dân, cứu nước, ra
đi tìm đường cứu nước, xây dựng
lực lượng cách mạng, đoàn kết
dân tộc giành thắng lợi xây dựng
mô hình nhà nước kiểu mới ở Việt
Nam.
- Mục đích và lý tưởng của Hồ
Chí Minh là độc lập cho đất nước,
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Người là mẫu mực về đạo đức
cách mạng, có tác phong bình dị,
chân tình nên có sức cảm hoá lớn
đối với mọi người. Chính vì vậy,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, vì dân thể
hiện sự lựa chọn mô hình nhà
nước đem lại quyền dân chủ thật
sự cho nhân dân. Nhờ đó, Người
đã khơi dậy được trong nhân dân ý
thức dân tộc, tỉnh thần yêu nước
và biến ý thức, tỉnh thần đó thành
sức mạnh đoàn kết toàn dân đánh
giặc, toàn dân xây dựng đất nước.
- Hồ Chí Minh luôn gần gũi và
quan tâm đến đời sống của nhân
dân, luôn động viên thăm hỏi từng
đối tượng, từ cụ già đến trẻ thơ.
Người đã cảm hoá, cuốn hút, tập
hợp và lôi cuốn nhân dân bằng cả
tắm lòng, tận trung với nước, tận
hiếu với dân, bằng cuộc đời người
cách mạng Cần, Kiệm, Liêm,
Chính, chí công vô tư để giải
phóng dân tộc, xây dựng đất nước.
- Là một người yêu nước nhiệt
thành, chân chính, đức độ, lại
được thế giới quan Mác - Lênin
soi sáng đã giúp cho Hồ Chí Minh
nhìn nhận thấu suốt nỗi đau khổ
của nhân dân ta dưới sự thống trị
của thực dân Pháp, thông cảm sâu
sắc nỗi đau của những người dân
mất nước, những người lao động
bị áp bức, bóc lột trên khắp thế
giới. Trên cơ sở đó, giúp cho Hồ
Chí Minh dần dần hình thành
những quan điểm về nhà nước của
dân, do dân, vì dân, gắn kết chặt
chẽ cuộc đấu tranh của nhân dân
ta với cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới, giải quyết đúng
đắn môi quan hệ giữa lợi ích của
nhân dân ta, của cách mạng nước
ta với nhân dân thế giới, cách
mạng thế giới...
- Là một nhà hoạt động thực tiễn
năng động, sáng tạo, ham học hỏi
chịu khó suy nghĩ, tìm tồi và với
một nghị lực phi thường đã giúp
cho Hồ Chí Minh đúc rút được
nhiều kinh nghiệm thực tiễn
phong phú, khái quát; nâng cao
xác lập nhiều luận điểm quan
trọng về đường lối, chủ trương,
chiến lược, sách lược, phương
pháp xây dựng nhà nước của dân,
do dân, vì dân, đưa đến những
thắng lợi quan trọng, to lớn của
cách mạng Việt Nam.
- Sự thống nhất hài hòa giữa tư
tưởng, hành động và đạo đức Hồ
Chí Minh đã làm cho nhà nước
của dân, do dân, vì dân không phải
chỉ là tư tưởng, khẩu hiệu mà thực
sự trở thành động lực, thành sức
mạnh quy tụ toàn dân tộc dưới
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
Thực tiễn - Thực tiễn hoạt động: - Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho
hoạt động + Trong nước: 1890-1911, rằng, thực tiễn hoạt động cách
cách mạng 1941-1969. mạng của Hồ Chí Minh là một cơ
của Hồ Chí + Nước ngoài: 1911-1941 sở có ý nghĩa quyết định đối với
Minh (có cả thời gian bị bắt bớ, tù sự hình thành, phát triển và hoàn
đày). thiện tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh đi nhiều nơi, - Trước khi ra đi tìm đường cứu
làm nhiều nghề, phụ trách nước, Nguyễn Tất Thành đã từng
nhiều cương vị. tận mắt chứng kiến cảnh sống
- Người miệt mài học tập và cùng cực của nhân dân Việt Nam.
nghiên cứu. Điều kiện lịch
- Thực tế đó mang lại cho sử trong nước cuối thế kỷ XIX đầu
Hồ Chí Minh: thế kỷ XX đã giúp cho Người có
+ Rút ngắn quá trình nhận điều kiện tìm hiểu về Nhà nước
thức. phong kiến quân chủ chuyên chế
+ Bạn – thù. và Nhà nước thuộc địa nửa phong
+ Phương pháp giải phóng. kiến.
+ Lựa chọn mô hình nhà - Nhà nước phong kiến là nhà
nước. nước của giai cấp phong kiến địa
+ Tích lũy những hiểu biết chủ, nó nằm trong tay của một số
về chính trường thế giới và ít người. Trong nhà nước đó tồn
những nghi thức của văn tại hai giai cắp chủ yếu: địa chủ
minh chính trị. phong kiến và nông dân. Nhưng
+ Có được tinh thần khoan do chế độ bóc lột của giai cấp địa
dung. chủ phong kiến đối với nông dân
+ Rèn luyện bản lĩnh cách nên mâu thuẫn giữa hai giai cấp
mạng. này rất gay gắt, và đây là mâu
thuẫn chủ yếu trong xã hội.
- Trong xã hội mặc dù cũng có
nhiêu người yêu nước thương dân,
trong đó có cả những ông vua
phong kiến nhưng vẫn còn rất hạn
chế, chưa trở thành một xã hội thật
sự thân dân vì chế độ của xã hội
phong kiến không cho. phép tính
triệt để, giai cấp thống trị không từ
bỏ địa vị thống trị của mình.
“Thân dân” mới chỉ dừng lại ở tư
tưởng chứ chưa trở thành hiện
thực, nó giống như sự ban ơn của
kẻ bề trên đối với bề dưới, chứ
không phải là quyết tâm tận tụy
phục vụ, vì lợi ích của nhân dân.
- Đặc biệt, từ sau khi thực dân
Pháp xâm lược mới thấy rõ sự nhu
nhược của chế độ phong kiến,
đồng thời xuất hiện những mâu
thuẫn đối kháng không thể điều
hòa được. Vì vậy, nếu thực dân
Pháp không xâm lược Việt Nam
thì nhà nước phong kiến cũng
không tồn tại được. Mặc dù cũng
có một số ưu điểm nhưng do bản
chất nên nhà nước đó đã lỗi thời,
lạc hậu, không thể là sự lựa chọn
của nhân dân Việt Nam trong con
đường đi tiếp của lịch sử. Nhà
nước thuộc địa nửa phong kiến là
nhà nước xấu xa, tàn bạo cả về
kinh tế, chính trị, văn hóa, tư
tưởng. Năm 1858, thực dân Pháp
nổ súng xâm lược và xóa tên Việt
Nam trên bản đồ thế giới vào năm
1884 sau khi ký hiệp ước Patonốt.
Nguyễn Tất Thành đã được chứng
kiến chính sách thuộc địa ở Đông
Dương mà thực dân Pháp đang
tiến hành. Đó là chính sách
chuyên chế về chính trị: cắm mọi
quyền tự do, dân chủ của nhân
dân, sự bắt bình đẳng về xã hội,
phân biệt màu đa, thực hiện chính
sách chia để trị...; là chính sách
độc quyền về kinh tế: không cho
nhân dân làm kinh tế, nắm quyền
phân phối lưu thông hàng hóa và
tiền tệ, bóc lột trong công nghiệp,
nông nghiệp...; là chính sách nô
dịch về văn hóa: thực hiện chính
sách ngu dân chia để trị, bán rượu,
bán thuốc phiện nhằm làm cho
nhân dân ta suy kiệt... Đây thực sự
là một chế độ thối nát, tồi tệ hơn
cả chế độ phong kiến, là một chế
độ phản động.
- Đây cũng là thời kỳ mà Nguyễn
Tất Thành chứng kiến sự thất bại
trong việc tìm ra mô hình nhà
nước mới cho cách mạng Việt
Nam. Đó là sự thất bại của phong
trào Cần Vương, phong trào nông
dân Yên Thế với hy vọng, quay lại
xây dựng nhà nước phong kiến
trong khi bản thân nó đã không
đáp ứng được yêu cầu của lịch sử.
Đó là Phan Bội Châu với mô hình
Nhà nước quân chủ lập hiến hoặc
Cộng hòa dân chủ kiểu phương
Tây, Phan Chu Trinh với hy vọng
xây dựng một nền cộng hòa ở Việt
Nam, Việt Nam quốc dân Đảng
với chủ trương đoàn kết trăm họ
để xây dựng nhà nước cộng hòa...
Thời kỳ này được lịch sử đánh giá
là ở trong đêm tối, dường như
không có đường ra, cho thấy sự bế
tắc của các nhà hoạt động cách
mạng trong việc tìm ra con đường
cứu nước nói chung và tìm ra mô
hình nhà nước phù hợp cho Việt
Nam nói riêng.
- Sống dưới chế độ thuộc địa nửa
phong kiến, nhân dân ta phải chịu
cảnh “một cổ hai tròng”: bị bóc lột
dưới họng súng của thực dân Pháp
và dưới thanh gươm của triều đình
phong kiến nhà Nguyễn. Do vậy,
trong xã hội nảy sinh hai mâu
thuẫn: mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với đế quốc và
mâu thuẫn giữa nhân dân (chủ yếu
là nông dân) với địa chủ phong
kiến. Trong đó mâu thuẫn thứ nhất
là mâu thuẫn chủ yếu, đòi hỏi phải
được giải quyết ngay. Chính từ
thực tiễn đó đã thôi thúc Hồ Chí
Minh ra đi tìm đường cứu nước,
tìm một mô hình nhà nước mới
phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
- Hồ Chí Minh đã đến các nước tư
bản Anh, Pháp, Mỹ, đã đến nhiều
nước thuộc địa và phụ thuộc ở
khắp các châu lục. Ở đâu, Người
cũng sống và lao động thực sự như
một người công nhân để xem xét
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội
của các tầng lớp nhân dân; nghiên
cứu các cách thức tổ chức xã hội
và nhà nước, chế độ chính trị hiện
thời; xem xét đời sống, nguyện
vọng, hoạt động đấu tranh của các
dân tộc. Người cũng đã sống và
chứng kiến hai cuộc chiến tranh
thế giới với những tổn thất nặng
nề, những hy sinh to lớn và những
hậu quả thật lâu dài về mọi mặt
của nó; đồng thời qua đó cũng
thấy được sức mạnh quật khởi của
các dân tộc bị áp bức trong cuộc
đấu tranh giải phóng.
- Người đã đi nhiều nơi, làm nhiều
công việc, nghiên cứu, học tập
kinh nghiệm của các nước và phụ
trách nhiều cương vị trong những
điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.
Sau này, Người đào tạo, tổ chức
Đảng Cộng sản Việt Nam, thành
lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa - nhà nước công nông đầu tiên
ở Đông Nam Á; Người đứng đầu
Đảng và Nhà nước ta, lãnh đạo
nhân dân ta đánh thắng hai đế
quốc lớn và xây dựng xã hội mới.
Đó là cơ sở thực tiễn đầy sức sống
cho tư tưởng Hồ Chí Minh hình
thành, phát triển ngày càng phong
phú, toàn diện, nhất là những vấn
đề về chính trị, về Đảng, về Nhà
nước. Nó là kết quả của sự tác
động biện chứng giữa nhận thức
và hành động, lý luận và thực tiễn,
vì vậy mà Người ngày càng tiếp
cận với chân lý của thời đại.
- Từ thực tiễn hoạt động cách
mạng sôi nỗi, phong phú, Hồ Chí
Minh đã tìm ra những quy luật,
đúc kết thành lý luận. Trong
những năm bôn ba ở những nước
tư bản phát triển, Hồ Chí Minh đã
nghiên cứu cách tổ chức nhà nước
ở đó, phê phán những mặt tiêu
cực, tiếp thu những hạt nhân hợp
lý trong quá trình xây dựng mô
hình Nhà nước cách mạng Việt
Nam. Cũng chính xuất phát từ
thực tiễn hoạt động cách mạng mà
Người đã có những bước phát
triển lớn trong tư tưởng về hình
thức nhà nước trong con đường
cách mạng Việt Nam. Đó là sự
chuyển biến trong tư tưởng của
Người từ một nhà nước quyền lực
thuộc về số đông đến Nhà nước
công - nông - binh và cuối cùng là
Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân
dân.
2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
kiểu mới
Khảo sát * Sự tìm tòi mô hình nhà Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh khảo
các kiểu nước cả trong lý luận và thực sát các mô hình nhà nước trên thế
nhà nước tiễn. giới, và cùng với quá trình nhận
trên thế - Học thuyết, lý luận bàn về thức, Người dần dần hình thành tư
giới (1911- nhà nước. tưởng về nhà nước với những tên
1940) - Kinh nghiệm xây dựng nhà gọi, những đặc trưng khác nhau.
nước kiểu mới của Ra đi từ bến cảng Nhà Rồng, trong
Công xã Pari. quá trình bôn ba khắp các châu lục,
- Đánh giá 2 cuộc cách mạng đại dương, Nguyễn Ái Quốc đã bắt
tư sản và nhà nước tay vào tìm tòi mô hình nhà nước
tư sản: cả trong lý luận và trong thực tiễn.
+ Nhà nước của số ít người. Trong các học thuyết, lý thuyết bàn
+ Nền dân chủ thực hiện ko về nhà nước và pháp luật, các tác
đến nơi, ko triệt để. phẩm của Môngtexkiơ, Vônte,
+ Đa số nhân dân vẫn rất cực Rútxô, Tôn Dật Tiên, các tác phẩm
khổ. của Mác, nhất là cuốn Nhà nước và
- Khảo sát nhà nước Xô viết cách mạng của Lênin... có chứa
- Nga: đựng nhiều tư tưởng tiến bộ về nhà
+ Nhà nước của số đông. nước pháp quyền sau này được
+ Thực hiện nền dân chủ Người kế thừa và phát triển. Trước
triệt để. đó, khi còn ở trong nước, Người
+ Làm nghĩa vụ quốc tế chân cũng đã biết đến những điểm tiến
chính. bộ trong tư tưởng thân dân của Nho
-> Mô hình nhà nước này đã giáo, của nhà nước phong kiến Việt
gợi ý cho Người về 1 kiểu Nam.
nhà nước được xây dựng Bằng thực tiễn sinh động, với cách
trong tương lai. Mô hình đó nhìn sáng suốt, Người đã khảo sát,
lần đầu tiên Người nêu ra đánh giá chính xác ba cuộc cách
trong Chánh cương vắn tắt, mạng và ba kiểu nhà nước của Mỹ,
Sách lược văn tắt của Đảng. Pháp, Nga. Người cho rằng nhà
* Dần dẫn hình thành nước tư sản Mỹ, Pháp là sản phẩm
TTHCM về nhà nước: của “những cuộc cách mệnh không
- Tư tưởng về NN coi trọng đến nơi” vì chính quyền vẫn nằm
vai trò của PL trong tay một số ít người. Xã hội
Yêu sách 8 điểm của nhân bất bình đẳng, nghèo đói, nạn phân
dân An Nam. biệt chủng tộc và biết bao sự bạo
- Tư tưởng về nhà nước của tàn bất công khác khiến cho đời
số đông người sống của đa số nhân dân, nhất là
Bản án chế độ thực dân nhân dân lao động vẫn rất cực khổ.
Pháp, Đường kách mệnh. Về cách mạng Mỹ, Người viết:
- Tư tưởng về nhà nước công “Trong lời tuyên ngôn của Mỹ" có
- nông – binh câu rằng: “Giời sinh ra ai cũng có
Cương lĩnh chính trị đầu tiên quyền tự do, quyền giữ tính mệnh
của Đảng. của mình, quyền làm ăn cho sung
sướng... Hễ chính phủ nào mà có
hại cho dân chúng, thì dân chúng
phải đạp đổ Chính phủ ấy đi, và
gây lên chính phủ khác... Nhưng
bây giờ chính phủ Mỹ lại không
muốn cho ai nói đến cách mệnh, ai
đụng đến Chính phủ!”. Cách mạng
Pháp thì cũng không hơn gì: “Tư
bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng,
Đồng bảo để lừa dân, xúi dân đánh
đổ phong kiến. Khi dân đánh đổ
phong kiến rồi, thì nó lại thay
phong kiến mà áp bức dân. Cách
mệnh Pháp cũng như cách mệnh
Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản,
cách mệnh không đến nơi, tiếng là
cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong
thì nó tước lục công nông, ngoài thì
nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã
4 lần rồi, mà nay công nông Pháp
hẵng còn phải mưu cách mệnh lần
nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp
bức". Rõ ràng đây không phải là
nhà nước của dân vì đa số nhân
dân, nhất là nhân dân lao động vẫn
rất cực khổ nên Người không lựa
chọn mô hình nhà nước tư sản,
không đi theo cách mạng tư sản,
xây dựng nhà nước dân chủ tư sản.
Khác với nhà nước Mỹ, Pháp là
nhà nước Xô viết Nga. Đây là nhà
nước ra đời từ cách mạng Tháng
Mười Nga 1917: “Trong thế giới
bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã
thành công, và thành công đến nơi,
nghĩa là dân chúng được hưởng cái
hạnh phúc tự do, bình đẳng thật,
không phải tự do bình đẳng giả dối
như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe
khoang bên An Nam. Cách mệnh
Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa
chủ rồi, lại ra sức cho công, nông
các nước và dân bị áp bức các
thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ
tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản
trong thế giới”. Người đã tìm thấy
ở đó một mô hình nhà nước kiểu
mới: “… phát ruộng đất cho dân
cày, giao công xưởng cho thợ
thuyền... ra sức tổ chức kinh tế
mới, để thực hành chủ nghĩa thế
giới đại đồng” và Người quyết định
lựa chọn kiểu nhà nước theo chủ
nghĩa Mác-Lênin, tức là phải lật đổ
chính quyền thực dân phong kiến,
lập nên Nhà nước kiểu mới của
mình - nhà nước mang bản chất của
giai cấp công nhân, của dân tộc
Việt Nam.
Cùng với quá trình nhận thức đó,
Hồ Chí Minh đã dần hình thành tư
tưởng của mình về nhà nước.
Trước tiên, đó là tư tưởng về nhà
nước coi trọng vai trò của pháp
luật. Năm 1919, nhân danh một
nhóm người Việt Nam yêu nước tại
Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi đến
Hội nghị Vécxây Bản yêu sách của
nhân dân An Nam đòi quyền tự do
tối thiểu cho dân tộc mình. Người
đề xuất tư tưởng về một nhà nước
dân chủ, gắn với việc thủ tiêu nhà
nước thuộc địa, phong kiến, thực
hiện các quyền tự do dân chủ, các
quyền con người. Và vượt trội hơn
là tư tưởng về nhà nước pháp
quyền đã được hình thành trong
giai đoạn này:
“Hai xin phép luật sửa sang,
Người Tây người Việt hai phương
cùng đồng”
… “Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp
quyền”
Sau khi gửi Bản yêu sách của nhân
dân An Nam đến Hội nghị Vecxây
vào giữa năm 1919, Nguyễn Ái
Quốc đã soạn ra bài diễn ca với tựa
đề Việt Nam yêu cầu ca (1922)
bằng lối thơ để dễ phổ biến. Và ở
đó ta thấy một triết lý chính trị
được Người nêu ra: hiến pháp là
tiền đề của pháp quyền, có hiến
pháp mới có pháp quyền. Do đó,
yêu cầu về hiến pháp cũng có nghĩa
là yêu cầu về pháp quyền. Pháp
quyền vốn là một lý thuyết của
phương Tây, pháp quyền thực chất
là một mô thức tổ chức xã hội mà
trong đó nhà nước cũng như mọi
chủ thể khác trong xã hội phải chịu
sự cương tỏa của quyền lực của
pháp luật. Và theo Nguyễn Ái
Quốc, “thần linh” làm cho pháp
luật có quyền lực ràng buộc mọi
chủ thể trong xã hội. Dẫn chiếu đến
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí
Minh, nhà nghiên cứu Nguyễn Sĩ
Dũng cho rằng “thần linh” ở đây
chính là “pháp luật của tạo hóa”
(còn được gọi là pháp luật tự
nhiên). Pháp quyền gắn với pháp
luật của tạo hóa là nguyên nhân sâu
xa dẫn đến cái gọi là “thần linh
pháp quyền”. Điều đáng nói thêm
là Nguyễn Ái Quốc yêu cầu pháp
quyền đối với “trăm điều”, tức là
mọi thứ, toàn xã hội chứ không
phải chỉ có nhà nước. Pháp quyền
không đơn thuần chỉ là mô thức tổ
chức nhà nước mà còn là mô thức
tổ chức xã hội.
Từ năm 1925 - 1927, tác phẩm Bản
án chế độ thực dân Pháp và Đường
cách mệnh được xuất bản. Trên
phương diện nhà nước, Người đã
đề cập đến quan niệm về một nhà
nước của số đông, thực hiện một
nền dân chủ cho đa số theo mô
hình kiểu nhà nước Xô viết:
“chúng ta đã hy sinh làm cách
mệnh, thì nên làm cho đến nơi,
nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì
quyền giao cho dân chúng số
nhiều, chớ để trong tay một bọn ít
người”. Trong tác phẩm Bản án chế
độ thực dân Pháp, từ sự phủ nhận
chính quyền của thực dân Pháp ở
Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã
không chấp nhận một chính quyền
bất hợp hiến trên đất nước ta -
chính quyền thuộc địa cai trị theo
một lề lối tùy tiện, độc đoán. Người
vạch trần cái gọi là “Khai hóa văn
minh” của chế độ cai trị thực dân
Pháp: “Đối với dân bản xứ, thì phải
giữ họ Vĩnh viễn trong cảnh nô lệ”,
“Nhà tù nhiều hơn trường học, lúc
nào cũng mở cửa và chật ních
người”, “một nghìn năm trăm ty
rượu và thuốc phiện cho một nghìn
làng trong khi chỉ có mười trường
học cũng cho bấy nhiêu làng”...
Người còn chỉ ra âm mưu và thủ
đoạn che giấu tội ác của chúng “để
che đậy sự xấu xa của chế độ bóc
lột giết người, chủ nghĩa tư bản
thực dân luôn luôn điểm trang cho
cái huy chương mục nát của nó
bằng những châm ngôn lý tưởng:
Bác ái, Bình đẳng...” Lúc này,
trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc,
Việt Nam phải được độc lập và có
chủ quyền, mô hình tổ chức nhà
nước Việt Nam trong tương lai
phải là một mô hình chính diện đối
lập với mô hình phản diện của
chính quyền thuộc địa.
Nhà nước số đông ở trên được
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng (2/1930) do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo cụ thể hóa dưới hình thức
nhà nước công nông binh kiểu mô
hình Xô viết ở Nga. Và trên thực tế
mô hình chính quyền công nông
binh đã được hiện thực hóa trong
phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh
1930 - 1931 và tỏ ra không phù
hợp với điều kiện thực tiễn Việt
Nam.
Như vậy, mặc dù vẫn còn rất sơ
khai nhưng Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh lúc này đã dần định hình
trong đầu mô hình một nhà nước
kiểu mới với những tên gọi khác
nhau như: nhà nước coi trọng vai
trò pháp luật, nhà nước của số đông
người, nhà nước công nông binh.
Cùng với quá trình hoạt động cách
mạng, tư tưởng này của Người sẽ
dần được phát triển và hoàn thiện.
Có thể nói, từ mô hình nhà nước
công nông binh chuyển sang mô
hình nhà nước đại biểu cho khối
đoàn kết của toàn thể quốc dân là
một bước chuyển sáng suốt của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh,
phản ánh được nét đặc thù của thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
Thời kỳ * 1941-1945: Tư tưởng Hồ
hình thành Chí Minh về mô hình nhà - Thời kỳ 1941-1945: Tư tưởng
và xây nước dân chủ nhân dân cơ Hồ Chí Minh về mô hình nhà
dựng nhà bản được hình thành. nước dân chủ nhân dân cơ bản
nước dân + Triển khai thực hiện được hình thành.
chủ nhân những hình thức tiền thân
+ Giai đoạn từ năm 1941 đến
dân (1941- của nhà nước kiểu mới ở
trước Cách mạng Tháng Tám 1945:
1969) Việt Nam.
đây là giai đoạn Nguyễn Ái Quốc
+ Mô hình nhà nước công
triển khai thực hiện những hình
nông binh chuyển sang mô
thức tiền thân của nhà nước kiểu
hình nhà nước dân chủ nhân
mới ở Việt Nam. Mặt trận Việt
dân.
Minh, các Ủy ban nhân dân cách
+ Năm 1945, phong trào
mạng tỉnh, liên tỉnh và Chương
phát triển mạnh, khu giải
trình Việt Minh chính là những
phóng là hình ảnh “nước
hình thức tiền thân của Nhà nước
Việt Nam mới phôi thai”.
và pháp luật kiểu mới ở Việt Nam.
* 1945-1954: xây dựng nhà
nước hợp pháp, hợp hiến, + Hội nghị lần thứ 8 (5/1941) của
vừa kháng chiến vừa kiến do Người chủ trì đã quyết định thay
quốc. đổi chiến lược cách mạng tư sản
- 2/9/45, Người đọc Tuyên dân quyền thành cách mạng giải
ngôn độc lập, khai sinh ra phóng dân tộc. Người đã quyết
nước Việt Nam mới.
- Lập ra bộ máy nhà nước
+ Tổng tuyển cử 6/1/46: bầu định thành lập Mặt trận Việt Minh
Quốc hội, chính phủ và sẽ thành lập một nước Việt Nam
liên hiệp chính thức. dân chủ mới theo tinh thần dân
+ 2/3/46, Quốc hội họp chủ. Chương trình Việt Minh công
phiên đầu tiên. bố ngày 25/10/1941, ghi rõ : “Sau
- Xây dựng, thực hiện hiền khi đánh đổ được bọn đế quốc phát
pháp và pháp luật. xít Nhật, Pháp, sẽ lập nên Chính
+ Ban hành Hiến pháp phủ cách mạng của nước Việt Nam
11/46. Dân chủ Cộng hoà, theo tinh thần
+ Ban hành nhiều luật, sắc dân chủ, lấy cờ đỏ giữa có ngôi
lệnh liên quan đến tổ chức sao vàng năm cánh làm cờ chung
bộ máy nhà nước. của nước. Chính phủ của nước
-> Tuyên ngôn độc lập tạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, do
điều kiện cho sự ra đời của Quốc dân đại hội cử ra”.
Hiến pháp, Hiến pháp lại ghi
+ Trong Thư gửi đồng bào toàn
nhận những giá trị độc lập
quốc (tháng 10/1944) Hồ Chí Minh
mà Tuyên ngôn đã ghi nhận.
cũng nói rõ: Trước hết cần có một
* 54-69: tư tưởng về nhà
Chính phủ đại biểu cho sự chân
nước xã hội chủ nghĩa
thành đoàn kết và hành động nhất
của dân, do dân, vì dân.
trí của toàn thể quốc dân, gồm tất
- Chăm lo kiện toàn, tổ chức
cả các đảng phái cách mệnh, các
bộ máy nhà nước.
đoàn thể ái quốc trong nước cử ra.
- Thực hiện pháp luật
“Một cơ cấu như thế mới đủ lực
nghiêm minh.
lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo
Vai trò của Hồ Chí Minh
công việc cứu quốc, kiến quốc,
trong tổ chức và hoạt động
ngoài thì giao thiệp với các hữu
của nhà nước Việt Nam
bang”. Như vậy, từ mô hình nhà
được thể hiện:
nước công nông binh chuyển sang
+ Là người sáng lập nhà
mô hình nhà nước dân chủ nhân
nước, đứng đầu nhà nước
dân- đại biểu cho khối đoàn kết của
trong 24 năm, để lại dấu ấn
toàn thể quốc dân là một bước
sâu sắc về phong cách lãnh
chuyển sáng suốt của Hồ Chí
đạo, trở thành chuẩn mực.
Minh, của Ban Chấp hành Trung
+ Xác lập cơ sở, nền móng
ương Đảng, phản ánh được nét đặc
pháp lý, tổ chức hoạt động
thù của thực tiễn dân tộc, phù hợp
của nhà nước.
với sự chuyển hướng chiến lược và
+ Khơi nguồn cho truyền
sách lược của Cách mạng Việt
thống dân chủ hiện đại ở
Nam.
Việt Nam.
+ Năm 1945, phong trào phát triển
mạnh, căn cứ địa cách mạng được
mở rộng, hình thành một vùng rộng
lớn gồm sáu tỉnh : Cao - Bắc -
Lạng - Hà - Tuyên - Thái và một số
vùng ngoại vi,...Trước tình hình đó,
Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Khu
giải phóng, cử ra Uỷ ban chỉ huy
lâm thời, thực hiện chức năng của
chính quyền cách mạng. Tại các
địa phương trong khu giải phóng,
các Uỷ ban nhân dân cách mạng
cũng được thành lập. Khu giải
phóng (với Tân Trào là Thủ đô) là
hình ảnh “nước Việt Nam mới phôi
thai”.
Chương II: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới
Một số 1. Phát huy dân chủ, giữ 1. Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ
giải pháp vững kỷ luật, kỷ cương, luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế
xây dựng tăng cường pháp chế Chính quyền là vấn đề cơ bản của
và hoàn - Phát huy dân chủ. mọi cuộc cách mạng. Giành chính
thiện nhà + Tăng cường quyền làm quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó
nước chủ của nhân dân. hơn. Cái khó của việc giữ chính quyền
pháp + Thực hiện chế độ dân là làm sao phát huy được dân chủ, tăng
quyền xã chủ trên thực tế, nói đi đôi cường pháp chế.
hội chủ với làm. Thứ nhất, phát huy dân chủ
nghĩa + Mở rộng và thực hiện Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản
Việt chế độ dân chủ trực tiếp chất của chế độ xã hội ta, vừa là mục
Nam một cách thiết thực, hiệu tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
hiện nay quả. đất nước. Để tiếp tục xây dựng và hoàn
+ Tăng cường và phát huy thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
dân chủ nhưng trong xây đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
dựng và hoàn thiện bộ nhân dân thì cần thực hiện tốt các nội
máy nhà nước luôn phải dung sau:
quán triệt nguyên tắc tập Tăng cường quyền làm chủ của
trung dân chủ. nhân dân
- Dân chủ bao giờ cũng đi Để vượt lên tình trạng thấp kém
liền với pháp chế, kỷ luật, của nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách
kỷ cương. về trình độ phát triển giữa nước ta với
+ Coi trọng công tác nhiều nước trên thế giới, trong điều kiện
tuyên truyền, giáo dục, cạnh tranh quốc tế quyết liệt hiện nay,
nâng cao ý thức pháp luật ta không có con đường nào là phải “phát
cho người dân. huy cao độ nội lực của dân tộc” mà một
+ Mọi công dân đều bình trong những nhân tố cơ bản làm nên nội
đẳng trước pháp luật. lực đó là phát huy dân chủ. Chính khát
+ Phải đấu tranh, phê vọng dân chủ đã tạo nên sức mạnh kiên
phán những hành vi thiếu cường đấu tranh cho độc lập tự do.
ý thức tổ chức kỷ luật. Giành được chính quyền về tay nhân
2. Cải cách thể chế và dân rồi thì quyền làm chủ thật sự của
phương thức hoạt động người dân là nội dung đích thực của độc
của nhà nước lập, tự do. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí
- Thay đổi phương thức Minh đã nói: “Nếu nước độc lập mà dân
tác động của nhà nước đến không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
quá trình kinh tế - xã hội. lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
- Kiện toàn tổ chức, đổi Một xã hội hỗn độn, ai cũng hành
mới phương thức và nâng động theo ý mình thì không thể có tự do
cao hiệu quả hoạt động cho cả cộng đồng cũng như cho mỗi
của Quốc hội. người. Như trong Báo cáo chính trị tại
+ Tăng cường và nâng Đại hội X đã đề ra: Nhà nước cần có
cao chất lượng hoạt động Luật trưng cầu ý dân nhằm từng bước
lập pháp. hoàn thiện cơ chế lấy ý kiến nhân dân
+ Tăng cường chức năng về những vấn đề quan trọng cho lãnh
giám sát của Quốc hội đối đạo và quản lý nhà nước, nhằm tăng
với toàn bộ hoạt động của cường quyền làm chủ của nhân dân
nhà nước. trong việc giám sát, góp ý vào hoạt
+ Khẩn trương nghiên động của nhà nước
cứu, sớm sửa đổi, bổ xung + Quyền làm chủ của nhân dân
một số điều của Hiến pháp được hoàn thiện và nâng cao trong quá
1992 để phù hợp với thực trình phát triển kinh tế xã hội, nâng cao
tiễn. dân trí. Một xã hội có nền kinh tế ở
- Cải cách, xây dựng một trình độ thấp, dân trí kém thì không thể
nền hành chính nhà nước có một nền dân chủ phát triển.
dân chủ, trong sạch, vững + Quyền làm chủ của nhân dân
mạnh, từng bước hiện đại phải được thể chế hóa bằng pháp luật,
hóa. bằng những quy định cụ thể có tính luật
- Cải cách và nâng cao pháp thì mới có cơ sở thực thi và buộc
hiệu lực hoạt động của toàn xã hội thực hiện thống nhất.
ngành tư pháp trong quan Bất cứ công dân nào hoặc công
hệ với cơ quan lập pháp, chức nhà nước nào vi phạm pháp luật,
hành pháp. làm tổn hại đến quyền làm chủ của dân
- Tăng cường sự lãnh đạo đều phải được phê phán, uốn nắn, ngăn
của Đảng đối với Nhà ngừa; những hành động độc đoán,
nước: gắn liền xây dựng, chuyên quyền ức hiếp dân phải được
chỉnh đốn Đảng với cải nghiêm trị theo pháp luật.
cách bộ máy hành chính. + Quyền làm chủ của nhân dân
3. Xây dựng đội ngũ cán còn phải được bảo đảm bằng pháp luật
bộ, công chức trong sạch, và bằng các cơ quan bảo vệ pháp luật
có năng lực đáp ứng yêu - Thực hiện chế độ dân chủ trên
cầu của tình hình mới thực tế, nói đi đôi với làm Dân chủ
- Theo Hồ Chí Minh, cán trong chế độ mới mà nhân dân ta xây
bộ có vai trò rất quan dựng được thể hiện bằng nhiều hình
trọng, là “cái gốc của mọi thức, trên tất cả các lĩnh vực và được
công việc”, “công việc pháp luật bảo đảm. Đó là chế độ dân
thành công hoặc thất bại chủ trên thực tế, nói đi đôi với làm.
đều do cán bộ tốt hay Nhân dân ta đã và đang thực hiện quyền
kém”. làm chủ của mình vừa bằng hình thức
- Nghị quyết Đại hội XI đã trực tiếp vừa bằng hình thức gián tiếp
nêu rõ: phải phân định thông qua những đại biểu do mình bầu
chức năng, nhiệm vụ, ra.
trách nhiệm và quyền hạn Điều cần chú ý là trong tư duy Hồ
của mỗi cán bộ... Chí Minh về dân chủ thì dân chủ của ta
4. Tích cực phòng ngừa và phải là “dân chủ thực sự”. Người viết:
kiên quyết đấu tranh “Nước ta phải đi đến dân chủ thực sự”.
phòng, chống tham nhũng, “Chúng ta phải ra sức thực hiện những
lãng phí, thực hành tiết cải cách xã hội, để nâng cao đời sống
kiệm của nhân dân, thực hiện dân chủ thực
- Hồ Chí Minh chỉ ra căn sự. Nhiều lần Người nhắc đi nhắc lại hai
bệnh tham ô, lãng phí, chữ “thực sự”, “thật sự” như một thuộc
tham quan... là “kẻ thù khá tính cơ bản không thể thiếu của nền dân
nguy hiểm, vì nó không chủ của chế độ ta, nó vốn xa lạ với thứ
mang gươm mang súng, dân chủ trừu tượng, dân chủ hình thức
mà nó nằm trong các tổ mà người ta dễ dàng nghĩ tới là dân chủ
chức của ta, để làm hỏng trong xã hội tư sản.
cônng việc của ta”. - Điều quan trọng hàng đầu hiện
- Nghị quyết Trung ương nay là nâng cao chất lượng dân chủ đại
4 khóa XI “Về những vấn diện bằng cách:
đề cấp bách trong xây + Đề cao tiêu chuẩn chất lượng
dựng Đảng hiện nay” đã của các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
hết sức quan tâm đến đấu đồng nhân dân để người đại diện cho
tranh chống tệ tham nhũng dân có đủ đức và tài, thực sự có khả
vì nó đang là một nguy cơ năng đại diện cho ý chí nguyện vọng và
trực tiếp quan hệ đến sự lợi ích của nhân dân.
tồn vong của hệ thống + Hoàn thiện những quy định về
chính trị. bầu cử, ứng cử về tiêu chuẩn, cơ cấu đại
- Đại hội XI nêu ra biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân
phương hướng và giải trên cơ sở phát huy dân chủ bảo đảm
pháp phải quán triệt và cho nhân dân có đủ thông tin, dân chủ
thực hiện trong thời gian trong tuyển chọn và bầu được người
tới: Cần phải tiếp tục hoàn xứng đáng đại diện cho mình, thực thi
thiện thể chế và đẩy mạnh quyền làm chủ của mình bằng nhà nước,
cải cách hành chính phục thông qua nhà nước.
vụ phòng, chống tham - Mở rộng và thực hiện chế độ
nhũng, lãng phí; xử lý dân chủ trực tiếp một cách thiết thực,
đúng pháp luật... hiệu quả để bảo đảm cho nhân dân trực
tiếp tham gia quản lý xã hội, thảo luận
và quyết định những vấn đề lớn.
Điều 53 Hiến pháp 1992 ghi rõ:
“Công dân có quyền tham gia quản lý
nhà nước và xã hội, thảo luận các vấn
đề chung của cả nước và địa phương,
kiến nghị với các cơ quan nhà nước,
biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng
cầu ý dân”.
- Tăng cường và phát huy dân
chủ nhưng trong xây dựng và hoàn thiện
bộ máy nhà nước phải luôn quán triệt
nguyên tắc tập trung dân chủ
+ Tập trung phải trên nền tảng
dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo tập
trung, cấp dưới phải phục tùng cấp trên,
số ít phục tùng số nhiều, cá nhân phục
tùng tổ chức. Tránh hai khuynh hướng
sai lầm: chuyên quyền, độc đoán hoặc
dân chủ quá trớn.
+ Nguyên tắc này góp phần khắc
phục sự cục bộ, phân tán, “phép vua
thua lệ làng”. Nó cung cấp nguồn sinh
lực cho bộ máy nhà nước và đảm bảo
cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu
quả và hiệu lực, sự điều hành được tập
trung, thống nhất và thông suốt từ
Chính phủ đến chính quyền địa phương.
Thứ hai, dân chủ bao giờ cũng đi
liền với pháp chế, kỷ luật, kỷ cương.
Đó là những khuôn khổ quy định
trình độ, mức độ, phạm vi thực thi các
quyền dân chủ.
- Trong quá trình thực hiện, một
mặt phải coi trọng công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức pháp luật cho người dân, làm cho
mọi người hiểu rõ và thực hiện. Gắn
quyền hạn với trách nhiệm, lợi ích với
nghĩa vụ của công dân.
- Mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, mọi tổ chức Đảng, cơ
quan nhà nước, đoàn thể... đều hoạt
động theo Hiến pháp, pháp luật.
- Phải đấu tranh, phê phán những
hành vi thiếu ý thức tổ chức kỷ luật.
Nghiêm trị những hoạt động phá hoại,
gây rối, thù địch.
- Yêu cầu này đòi hỏi các cán bộ
chính quyền trước hết phải nắm vững
pháp luật và vận dụng nhuần nhuyễn
luật pháp để giải quyết các công việc
hàng ngày của mình. Nếu không nắm
vững pháp luật, người cán bộ đó sẽ rơi
vào hoặc là tội lỗi mù quáng, hoặc là
quan liêu.
2. Cải cách thể chế và phương thức
hoạt động của nhà nước
Thứ nhất, thay đổi phương thức
tác động của nhà nước đến quá trình
kinh tế - xã hội.
Trong thời kỳ chiến tranh và
trong cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, tác động của Nhà nước đến quá
trình phát triển kinh tế - xã hội thường
là can thiệp trực tiếp mang tính chất tập
trung. Điều đó có tác dụng nhất định
trong hoàn cảnh trước đây, nhưng cũng
đã bộc lộ những hạn chế và là một trong
những nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Những hạn chế
nổi bật là gò bó các chủ thể hoạt động,
can thiệp và bao cấp đối với các chủ thể
xã hội hoạt động, hoặc thường dội từ
trên xuống đã hạn chế tính chủ động,
sáng tạo, quyền dân chủ của địa phương
và cơ sở, làm triệt tiêu những động lực
phát triển.
Khi đất nước chuyển sang nền
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường đòi hỏi nhà nước phải
thay đổi hình thức hoạt động và phương
thức tác động đến kinh tế - xã hội. Tức
là nhà nước phải đổi mới cả về vai trò,
chức năng, phương thức tác động và tổ
chức quản lý. Không có tác động của
nhà nước thì nền kinh tế sẽ rối loạn và
không thể thành công; hoặc nhà nước
can thiệp như cũ nghĩa là tập trung, bao
cấp thì cũng không thể đáp ứng yêu cầu
của nền kinh tế và công cuộc đổi mới.
Nhưng ở đây cũng không phải là giảm
vai trò của bộ máy nhà nước trong hoạt
động quản lý nền kinh tế thị trường mà
vấn đề ở chỗ tác động của bộ máy nhà
nước đối với quá trình phát triển kinh tế
- xã hội là phải phù hợp với năng lực
của mình và phải nâng cao năng lực ấy
để đáp ứng được những nhu cầu của xã
hội đang đòi hỏi. Đó là một kinh
nghiệm của sự đổi mới, hoàn thiện và
phát triển chức năng của nhà nước trong
nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập
đang chuyển đổi mau lẹ, sinh động.
Nhà nước không chỉ thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng,
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh, trật tự
xã hội mà quan trọng hơn là phải tạo
môi trường pháp lý cho xã hội phát triển
năng động, định hướng nền kinh tế - xã
hội bằng pháp luật, có những chương
trình phát triển, hỗ trợ, khuyến khích
các thành phần kinh tế phát huy năng
lực của mình. Nhà nước tập trung nắm
và quản lý những khâu, những lĩnh vực
then chốt mà mình có thể quản lý có
hiệu quả và có ý nghĩa quyết định đối
với vận mệnh của quốc gia, của chế độ;
đồng thời phải thực hiện phương thức
xã hội hóa trong quản lý theo phương
châm “nhà nước và nhân dân cùng
làm”, phát huy cao độ quyền làm chủ
của nhân dân, khả năng tự quản của các
cá nhân và cộng đồng xã hội. Trong
quan hệ với các nước, các tổ chức quốc
tế, nhà nước cần có sự chuyển hướng
sang trọng tâm về lĩnh vực kinh tế - xã
hội, bằng phương thức hợp tác cùng có
lợi, đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ, các hình thức hợp tác với các
chế độ xã hội, với các đối tác khác
nhau...
Nói chung, trong thời kỳ mới, vai
trò, chức năng, phương thức hoạt động
của Nhà nước phải thật sự đổi mới và
hoàn thiện theo nguyên tắc làm cho
kinh tế - xã hội phát triển nhanh, bền
vững, nhân dân thực hiện tốt nhất quyền
lực của mình, dân chủ xã hội được phát
huy; tác động của nhà nước phải phù
hợp với khả năng, năng lực của mình,
không được làm thay nhưng không
được buông lỏng vai trò của mình trên
lĩnh vực này. Chính quyền nhà nước ở
tất cả các cấp đều phải tự kiểm tra mình
để có sự điều chỉnh, phát triển hợp lý,
phù hợp với những yêu cầu, nhiệm vụ
và tình hình mới.
Thứ hai, kiện toàn tổ chức, đổi
mới phương thức và nâng cao hiệu quả
hoạt động của Quốc hội.
- Tăng cường và nâng cao chất
lượng hoạt động lập pháp nhằm nâng
cao chất lượng các đạo luật, tăng cường
ban hành luật, tiến tới hoàn thiện hệ
thống pháp luật trên cơ sở quá triệt quan
điểm, đường lối của Đảng phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và pháp luật quốc tế,
có tính khả thi cao. Do vậy, phải xây
dựng chương trình làm luật, đổi mới
quy trình ban hành và hướng dẫn thực
thi pháp luật.
Từ sau Đại hội VI đến nay, Đảng
và Nhà nước ta đã làm được nhiều việc
quan trọng, khối lượng và chất lượng
pháp luật được nâng lên rõ rệt, đã góp
phần vào việc tạo môi trường, tạo khung
pháp lý cho các hoạt động kinh tế - xã
hội năng động, tự chủ và có kết quả
hơn; đồng thời qua đó nhân dân cũng
thực hiện tốt hơn quyền dân chủ của
mình, hiệu lực của Nhà nước được nâng
cao một bước. Tất nhiên, đó mới chỉ là
bước đầu, cần phải được tiếp tục đổi
mới, hoàn chỉnh nhiều hơn nữa hệ thống
pháp luật để đáp ứng được nhu cầu xã
hội có dân chủ, có kỷ cương ngày càng
phát triển.
Để nâng cao năng lực quản lý của
Nhà nước thì việc khắc phục bệnh tình
cảm chủ nghĩa, coi thường pháp luật,
đồng thời phải tôn trọng vai trò “thần
linh pháp quyền”, có như vậy mới đảm
bảo được tính công bằng, tính dân chủ,
tính công khai. Thông qua pháp luật,
mỗi công dân có trách nhiệm đối với
nhà nước và nhà nước có trách nhiệm
đối với từng công dân, có như thế mới
dân chủ và mới đúng tính chất là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Tăng cường chức năng giám sát
của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động
của nhà nước.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực
cao nhất ở nước ta. Để phát huy vai trò,
vị trí của cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất, Quốc hội phải được kiện toàn
tổ chức, đổi mới phương thức và nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
mình.
- Khẩn trương nghiên cứu, sớm
sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến
pháp 1992 để phù hợp với thực tiễn.
Thứ ba, cải cách, xây dựng một
nền hành chính nhà nước dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại
hóa.
Cải cách hành chính để có một
nền hành chính dân chủ, trong sạch,
phục vụ đắc lực nhân dân, giữ vững trật
tự, kỷ cương xã hội theo pháp luật. Nó
phải phục vụ tận tụy, công tâm, đáp ứng
yêu cầu hàng ngày về quyền lực hợp
pháp của nhân dân. Phải phấn đấu để
xóa bỏ ấn tượng hiện nay trong nhân
dân: hành chính là hành dân là chính!
Trong công cuộc cải cách hành
chính, cải cách thể chế hành chính là
khâu đầu tiên cần vì có thể tiến hành
ngay, không chậm trễ. Cải cách thể chế
hành chính gồm việc thực hiện cải cách
cơ bản các thủ tục hành chính, cả về thể
chế và tổ chức thực hiện... Cần phải loại
bỏ ngay những khâu bất hợp lý, giảm
phiền hà, ngăn chặn tệ cửa quyền, tham
nhũng, hối lộ vi phạm pháp luật.
Cải cách và kiện toàn bộ máy
hành chính là một quá trình, phải tiến
hành đồng bộ trên nhiều mặt. Căn bệnh
nặng nề, phức tạp, có căn nguyên xã hội
- lịch sử, nên không thể chữa trị trong
một thời gian ngắn.
Những vấn đề bức xúc nổi lên
hiện nay thường biểu hiện tập trung ở
các cơ quan hành chính hàng ngày có
quan hệ tiếp xúc trực tiếp với nhân dân.
Cần phải làm cho đội ngũ cán bộ, công
chức quán triệt nhận thức: nhà nước là
một tổ chức công quyền thể hiện quyền
lực của nhân dân, nhân viên nhà nước là
công bộc của nhân dân.
Thủ tục hành chính cũng như bất
cứ một quy định nào khác của pháp luật
phải đảm bảo được hai mục tiêu: một là,
tăng cường quản lý nhà nước; hai là,
phải tạo điều kiện cho công dân thực
hiện được các quyền cơ bản của mình.
Quản lý phải tạo điều kiện, làm tiền đề
cho sự phát triển. Tính thống nhất, tính
hợp lý, tính năng động là những nhân tố
quan trọng cho một nền hành chính có
hiệu quả, hiệu lực. Đảng ta đặc biệt
nhấn mạnh: Làm cho bộ máy tinh gọn,
bảo đảm sự điều hành tập trung, thống
nhất, thông suốt có hiệu lực từ Chính
phủ đến chính quyền địa phương, cơ sở;
đồng thời phát huy tính chủ động, năng
động của địa phương, cơ sở.
Bên cạnh chức năng quản lý nhà
nước, các cơ quan hành chính còn có
chức năng dịch vụ công. Để nêu cao
tinh thần phục vụ nhân dân, cần thiết
phải:
+Cải cách thủ tục hành chính, ban
hành và hoàn thiện chế độ công vụ.
+ Đề cao trách nhiệm giải quyết
khiếu kiện của nhân dân, sao cho thủ
tục khiếu kiện đơn giản, nhanh chóng,
đúng pháp luật, không để nhân dân phải
tốn quá nhiều thời giờ, công sức đi lại,
do tình trạng đùn đẩy, “kính chuyển”
vòng vo.
+ Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ công
chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn,
thực hiện tinh giản biên chế; xử lý
nghiêm minh, kịp thời những người vi
phạm pháp luật (tham nhũng, đặc quyền
đặc lợi...)
Thứ tư, cải cách và nâng cao hiệu
lực hoạt động của ngành tư pháp trong
quan hệ với cơ quan lập pháp và hành
pháp.
Trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, việc phân công giữa các
quyền lực trong hệ thống nhà nước (lập
pháp, hành pháp, tư pháp) vừa phải rành
mạch, rõ ràng, thể hiện tính độc lập
tương đối về quyền lực của từng tổ
chức, có như thế mới phát huy được
tính chủ động và năng lực của mỗi tổ
chức; vừa phải đảm bảo sự phối hợp
đồng bộ, nhịp nhàng giữa các quyền ấy
trong sự thống nhất quyền lực duy nhất
thuộc về nhân dân, mới phát huy tốt
nhất hiệu lực, năng lực của hệ thống nhà
nước. Chúng ta không tổ chức theo kiểu
đối trọng quyền lực, nhưng phải chú ý
tôn trọng hơn nữa vai trò, quyền hạn
của từng tổ chức, trên cơ sở đó mà có sự
phối hợp một cách ăn khớp, nhịp nhàng,
tránh lấn át nhau hoặc đùn đẩy trách
nhiệm lẫn nhau.
Trong cải cách tổ chức và hoạt
động tư pháp phải tăng cường đấu tranh
chống tội phạm, bảo vệ công lý, bảo
đảm nguyên tắc mọi vi phạm pháp luật
phải bị xử lý, mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật, đảm bảo nghiêm
chỉnh việc thi hành án. Phải giải quyết
cho được nạn quá tải ở các tòa án cấp
tỉnh và thành phố, nhất là ở các thành
phố lớn, tăng cường biện pháp phòng
ngừa tội phạm, đề cao trật tự, kỷ cương
xã hội, tăng cường công tác hòa giải ở
cơ sở... để phấn đấu hạ thấp số vụ án
thụ lý ở tòa án; thành lập các tổ chức bổ
trợ tư pháp để giúp các tòa án xét xử
được nhanh chóng hơn và thuận lợi hơn.
Do đó, yêu cầu cải cách tư pháp hiện
nay cũng đang đặt ra một cách bức thiết.
Thứ năm, tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước: gắn
liền xây dựng, chỉnh đốn Đảng với cải
cách bộ máy hành chính.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, sự
lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà
nước ta đã hoàn thành được nhiệm vụ
lịch sử vẻ vang trong hai cuộc kháng
chiến vĩ đại của dân tộc. Bước vào thời
kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương: trước
hết tập trung đổi mới về kinh tế đồng
thời từng bước đổi mới về chính trị, nhờ
đó mà đất nước ổn định, từng bước tiến
lên đạt những thành tựu quan trọng sau
những năm đổi mới.
Tuy nhiên, yêu cầu của cuộc đấu
tranh chống tham nhũng, quan liêu, cửa
quyền, trù dập, ức hiếp nhân dân,...
đang đòi hỏi ở Đảng ta một sự lãnh đạo
tập trung hơn nữa, quyết tâm cao hơn
nữa, kế hoạch và biện pháp triệt để hơn
nữa, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
thị: “Cuộc vận động này là một cuộc
cách mạng nội bộ, một cuộc đấu tranh
gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và
cái mới, giữa đạo đức cách mạng là cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và kẻ
địch là tệ nạn tham ô, lãng phí, quan
liêu. Chúng ta đã thấy rõ kẻ thù, Đảng
đã định ra chiến lược sách lược đúng
đắn. Chúng ta phải đồng tâm nhất trí,
mạnh bạo xung phong”.
Cuộc đấu tranh để khắc phục
những khuyết tật của bộ máy nhà nước
không thể tách rời cuộc vận động, xây
dựng chỉnh đốn Đảng. Đảng mạnh thì
Nhà nước mạnh. Không thể có một
Đảng mạnh mà Nhà nước và hệ thống
hành chính của nó lại yếu kém. Vì vậy,
chỉ có sự lãnh đạo của một Đảng trong
sạch, vững mạnh mới đưa cải cách bộ
máy nhà nước đi đến thành công.
Bước sang kinh tế thị trường, có
quan niệm ở một số người cho rằng
Đảng không nên lãnh đạo kinh tế, đòi
tách Đảng ra khỏi Nhà nước. Những
quan niệm trên là cực đoan và sai lầm,
cần phải được khắc phục trong quá trình
cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước,
trong quá trình đổi mới và chỉnh đốn
Đảng. Vấn đề ở chỗ không phải là Đảng
từ bỏ sự lãnh đạo của mình hoặc hạn
chế sự lãnh đạo của mình, mà cần đổi
mới phương thức lãnh đạo, cùng với
nhà nước chăm lo sự nghiệp bảo vệ và
xây dựng chế độ mới.
Đảng có những quyết định không
những tinh giản bộ máy nhà nước, nâng
cao năng lực quản lý của nhà nước... mà
còn tinh giản bộ máy của Đảng, tăng
cường hơn nữa sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng đối với nhà nước và xã hội,
khắc phục cho kỳ được những yếu kém,
phát huy nội lực, bồi bổ thêm những
sinh lực mới. Đảng quan tâm đến việc
xây dựng hệ thống nhà nước, đồng thời
nhà nước cũng phải bằng hành động của
mình xây dựng Đảng vững mạnh. Bởi
vì, nhà nước ta vừa thực hiện ý chí của
dân, vừa là thực hiện lãnh đạo của
Đảng. Cùng với sự nghiệp đổi mới, sự
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
cũng được đổi mới. Nhà nước mạnh,
nhà nước sáng suốt, đủ trí tuệ và lương
tâm trong hoạt động quản lý nhà nước
của mình, không chỉ thể hiện sức mạnh
của nhân dân, quyền lực và ý chí của
nhân dân mà còn thể hiện sức mạnh, trí
tuệ và đạo đức của Đảng. Chính vì vậy,
Đảng và mọi đảng viên đều hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật,
chịu trách nhiệm về các hoạt động của
mình.
Để giải quyết tốt mối quan hệ
giữa Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của hai tổ chức này
cần chú ý một số điểm:
- Đảng phải khẳng định được vai
trò lãnh đạo của mình thông qua việc
định ra đường lối chính trị, chính sách,
những chủ trương cụ thể của Đảng
trong từng giai đoạn. Đảng phải lãnh
đạo các cơ quan nhà nước kịp thời thể
chế hóa đường lối, chính sách của Đảng
thành pháp luật, nhất là chủ trương về
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội.
- Đảng phải xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên thực sự trong sạch, vững
mạnh, xứng đáng vừa là người lãnh đạo
vừa là người đầy tớ trung thành với
nhân dân. Đảng phải tăng cường kiểm
tra tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên
trong các doanh nghiệp, các tổ chức sự
nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước...
đối với việc thực hiện các nghị quyết
của Đảng, các quy định của Nhà nước
về quản lý kinh tế, tài chính, thu chi
ngân sách, việc sử dụng, bảo quản vốn
và tài sản của Nhà nước.
- Phải củng cố và nâng cao chất
lượng hoạt động của các tổ chức Đảng
trong các cơ quan Nhà nước.
- Đảng phải kiểm tra hoạt động
của bộ máy Nhà nước thông qua tổ chức
Đảng, đảng viên và phương thức kiểm
tra của Đảng. Công tác kiểm tra không
phải chỉ để khẳng định vai trò lãnh đạo
của Đảng nói chung vì lãnh đạo mà
không có kiểm tra coi như chưa có lãnh
đạo. Điều quan trọng ở chỗ kiểm tra để
thấy đúng, sai, cái gì được, cái gì chưa
được, thiếu sót, sai lầm ở đâu.... từ đó
kịp thời bổ sung, điều chỉnh, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng cũng
như các vấn đề cụ thể trong hoạt động
của các cơ quan nhà nước như Quốc
hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp
nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng
và Nhà nước để thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức trong sạch, có năng lực đáp ứng
yêu cầu của tình hình mới.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ có vai
trò rất quan trọng, là “cái gốc của mọi
công việc”, “công việc thành công hoặc
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, cho
nên công tác cán bộ nói chung và công
tác xây dựng đội ngũ công chức nói
riêng có vai trò rất quan trọng đối với
hoạt động và năng lực của nhà nước.
Phải khẳng định rằng với các nghị quyết
chuyên đề, Đảng ta có những đánh giá
đúng và trúng thực trạng đội ngũ cán bộ
và công tác cán bộ, nêu ra được những
quan điểm đúng đắn và xây dựng đội
ngũ cán bộ, xác định tiêu chuẩn chung
và tiêu chuẩn cụ thể một số loại cán bộ
trong thời kỳ mới, các nhiệm vụ và giải
pháp lớn về xây dựng quy hoạch và đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, xây dựng các
quy chế công tác cán bộ và đổi mới,
hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ.
Nhưng rõ ràng trong công tác cán bộ
vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra. Việc trọng
dụng những người có đức, có tài hiện
nay đang nổi lên như là một vấn đề
đáng quan tâm. Nhưng có vẻ như vẫn
chưa có một cơ chế đủ mạnh, những
giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề
này. Vì vậy, vẫn còn khá phổ biến tình
trạng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
ra cách đây hơn năm mươi năm: “Dìm
người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng
của mình là đạo vị”. Tình trạng cán bộ
không dám chịu trách nhiệm, thiếu tinh
thần phụ trách trước nhân dân và chúng
ta chưa có cơ chế xử lý đúng mức vẫn
đang hiện hữu. Đọc suy nghĩ của Người
dân thấy trong họ có những bất bình vì
những cán bộ thiếu trách nhiệm, thiếu
tinh thần phụ trách mà không được xử
lý.
Chúng ta phải ghi tạc vào đầu
chân lý mà Hồ Chí Minh nêu ra: “Phải
đào tạo một mớ cán bộ phụ trách, có
gan làm việc, ham làm việc. Có thế
Đảng mới thành công. Nếu đào tạo một
mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập đi hò
đúng”, không dám phụ trách. Như thế là
một việc thất bại cho Đảng”.
Để đáp ứng được yêu cầu trên,
trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức phải thực hiện theo tinh thần của
Nghị quyết Đại hội XI đã nêu: phải
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách
nhiệm và quyền hạn của mỗi cán bộ,
công chức, tăng cường tính công khai,
minh bạch, trách nhiệm của hoạt động
công vụ. Phải nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực
công tác; có chính sách đãi ngộ, động
viên, khuyến khích cán bộ, công chức
hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại
bỏ, bãi miễn những người không hoàn
thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy
tín với dân. Đây là một định hướng
đúng và nếu làm tốt được điều này,
chúng ta sẽ có được một đội ngũ có cả
năng lực và đạo đức.
4. Tích cực phòng ngừa và kiên quyết
đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, thực hành tiết kiệm
Ngay từ những ngày cách mạng
Tháng Tám mới thành công, Hồ Chí
Minh đã thấy trước nguy cơ và vạch ra
những tệ nạn tham ô, lãng phí, quan liêu
và đặc biệt là cảnh cáo cán bộ “tham ô,
lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của
nhân dân, của bộ đội và của Chính
phủ”. Nó là “kẻ thù khá nguy hiểm, vì
nó không mang gươm mang súng, mà
nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm
hỏng công việc của ta”. Đó là một trong
những nguyên nhân làm cho Đảng mất
uy tín, làm cho nhà nước bị tiêu vong.
Các Đại hội của Đảng, và đặc biệt
vừa qua có Nghị quyết Trung ương 4
khóa XI “Về những vấn đề cấp bách
trong xây dựng Đảng hiện nay” đã hết
sức quan tâm đến đấu tranh chống tệ
tham nhũng vì nó đang là một nguy cơ
trực tiếp quan hệ đến sự tồn vong của hệ
thống chính trị. Đây vẫn là một cuộc
đấu tranh quyết liệt, gay go, phức tạp,
đang là một thách thức lớn đối với Đảng
và Nhà nước ta. Để góp phần đấu tranh
chống lại quốc nạn này cần có một hệ
thống biện pháp tích cực, được tiến
hành một cách kiên quyết, thường
xuyên trong các ngành, các cấp từ trên
xuống dưới, từ Trung ương đến cơ sở.
Phải kết hợp những biện pháp cấp
bách với những giải pháp có tầm chiến
lược nhằm hoàn thiện cơ chế, chính
sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công
tác quản lý, khắc phục sơ hở, xử lý
nghiêm và kịp thời mọi vi phạm, tội
phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ
mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngăn
chặn, đẩy lùi và loại trừ tham nhũng. Đề
cao trách nhiệm và sự gương mẫu của
thủ trưởng cơ quan, đơn vị, cán bộ chủ
chốt các cấp. Đấu tranh chống tham
nhũng phải gắn với đấu tranh chống
buôn lậu, lãng phí, quan liêu, cậy
quyền, hối lộ, nhận hối lộ và các hành
vi sai trái khác với ý đồ chiếm đoạt, làm
thất thoát tài sản của nhà nước.
Đại hội XI nêu ra phương hướng
và giải pháp phải quán triệt và thực hiện
trong thời gian tới: Cần phải tiếp tục
hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách
hành chính phục vụ phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, tập trung vào các lĩnh
vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí;
thực hiện chế độ công khai, minh bạch
về kinh tế, tài chính trong các cơ quan
hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ
công, doanh nghiệp nhà nước, các dự án
đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ
ngân sách nhà nước, quản lý, sử dụng
đất đai, tài sản công; thực hiện có hiệu
quả việc kê khai và công khai tài sản,
thu nhập của cán bộ, công chức theo
quy định; xác định rõ trách nhiệm người
đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị xảy ra
tham nhũng, lãng phí; xử lý đúng pháp
luật, kịp thời cán bộ tham nhũng, tịch
thu sung công tài sản tham nhũng và có
nguồn gốc từ tham nhũng. Đồng thời
phải có cơ chế khuyến khích và bảo vệ
người đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực; tổng kết, đánh giá cơ
chế, mô hình tổ chức cơ quan phòng,
chống tham nhũng để có chủ trương,
giải pháp phù hợp. Chúng ta hy vọng,
với nhà nước mạnh, cơ chế quản lý
đúng, kỷ cương phép nước nghiêm, đạo
đức xã hội được nâng cao, nhất định sẽ
đẩy lùi được nạn tham nhũng và các tệ
nạn có liên quan khác.