You are on page 1of 12

NHÓM 6

1. Nguyễn Thị Cúc Phương - 2257010154


2. Tất Lê Phương Nhi - 2257010135
3. Trần Lâm Tâm Như - 2257010144
4. Nguyễn Quỳnh Như - 2257010142
Reading Passage 1
NỮ THƯ
~ Một ngôn ngữ bí mật ~
A. Nhiều lúc người ta nói rằng đàn ông và phụ nữ giao tiếp bằng những ngôn ngữ khác
nhau. Hàng trăm năm qua ở quận Giang Vĩnh, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc chính là trường
hợp như vậy. Đâu đó trong khoảng 400 năm đến 1000 năm trước, phụ nữ đã bất chấp
những quy tắc gia trưởng của thời đại cấm họ không được phép đọc hay viết và hình
thành ý niệm về Nữ Thư – đúng như vậy, “ngôn ngữ của phụ nữ” – một hệ thống chữ viết
và ngôn ngữ của riêng họ. Qua việc xây dựng các mạng lưới thân thiết của “ hội chị em
kết nghĩa” gồm những người phụ nữ cam kết chỉ dạy ngôn ngữ cho nữ giới và sử dụng nó
thật khéo léo để người khác tin rằng đó chỉ như là các sản phẩm nghệ thuật (như những kí
tự trên quạt cầm tay), Nữ Thư đã có thể phát triển và lan rộng mà không gây quá nhiều sự
nghi ngờ.

B. Nữ thư có nhiều sự khác biệt về chính tả so với hệ thống chữ viết tiếng Trung chuẩn.
Ngược lại với tiếng Trung tiêu chuẩn có các nét lớn, đậm, nhìn như thể được viết bằng
một cây bút to luôn có sẵn mực, các kí tự của Nữ thư là nét thanh, nghiêng và có một vẻ
ngoài khá nghuệch ngoạc càng trông giống với thư pháp. Trong khi tiếng Trung chuẩn là
chữ tượng hình với các kí tự đại diện cho từng từ và ý nghĩa, Nữ thư lại hoàn toàn là ngữ
âm, mỗi ký tự đại diện cho một âm, ý nghĩa phải dựa vào ngữ cảnh mà nó được nói ra.
Những người sử dụng Nữ thư đã phát triển loại ý nghĩa mật mã cho các từ và các câu
khác nhau, nhưng dường như chỉ một phần nhỏ của chúng được biết đến. Nhiều bí mật về
Nữ thư đã bị chôn vùi dưới nấm mồ.

C. Nữ thư đã phát triển như một cách cho phép phụ nữ tự tin giao tiếp với nhau. Trong một
chừng mực nào đó, sự đòi hỏi này đến từ một niềm khao khát sự riêng tư, và Nữ thư đã
cho phụ nữ một diễn đàn để giao tiếp thư từ cá nhân trong một xã hội mà được cai trị bởi
văn hóa trọng nam khinh nữ. Còn có một yếu tố thực tế nữa cho sự trỗi dậy của Nữ thư,
tuy mãi đến giữa thế kỉ 20 phụ nữ vẫn hiếm khi được khuyến khích học chữ theo hệ
thống chữ tiếng Trung tiêu chuẩn. Nữ thư cung cấp một trong những giải pháp vừa thực
tiễn vừa dễ học. Phụ nữ bị tách khỏi gia đình và bạn bè của họ bởi hôn nhân vì thế có thể
gửi “thư” cho nhau. Không giống với thư từ truyền thống, tuy vậy, các ký tự của Nữ thư
được vẽ hay thêu trên những vật dụng hằng ngày như quạt, áo gối và khăn tay và thể hiện
trong các tác phẩm nghệ thuật để tránh sự nghi ngờ của những người đàn ông.
D. Sau cách mạng Trung Quốc, càng có nhiều phụ nữ được khuyến khích học chữ theo hệ
thống chữ viết tiếng Trung tiêu chuẩn và sự cần thiết cho một dạng giao tiếp đặc biệt của
nữ giới đã bị mai một. Khi Hồng vệ binh phát hiện ra hệ thống chữ này vào những năm
60, họ đã nghĩ đó là mật mã dùng để mật báo. Lúc biết được đó là ngôn ngữ bí mật của
phụ nữ, họ đã nghi ngờ và sợ hãi. Số lượng lớn thư từ, vải dệt, đồ thêu và các tạo vật khác
đã bị phá hủy và phụ nữ bị cấm thực hành phong tục Nữ thư. Kết quả, sự lưu truyền ngôn
ngữ qua hàng thế hệ bị cắt đứt, Nữ thư thôi không còn được truyền lại qua các chị em kết
nghĩa. Không ai còn sống mà được học qua Nữ thư theo cách truyền thống này nữa; Yang
Huanyi (Dương Hoán Nghi), người cuối cùng sử dụng thành thạo Nữ thư, mất vào
20/09/2004, khi đã gần 100 tuổi.
E. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự quan tâm phổ biến và học thuật dành cho Nu
Shu đã tăng lên. Công ty Ford Foundation đã cho Mỹ 209 nghìn đô để xây dựng một bảo
tàng Nu Shu mà ở đó, những tạo tác của ngôi nhà như là các bản ghi âm, bản thảo và các
bài báo đã tồn tại được hơn 100 năm. Nguồn đầu tư từ Hồng Kông - đặc khu hành chính
của Trung Quốc đang được dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng tại một khu vực du lịch tiềm
năng ở Hunan, và một vài trường trong khu vực cũng đã bắt đầu dạy bằng ngôn ngữ.
Tình cờ thay, việc sử dụng Nu shu còn là một chủ đề trong cuốn tiểu thuyết lịch sử đã
được chuyển thể qua phim của Lisa See, Snow Flower và Secret Fan.
Question 1-13
1. III – Sự ra đời và phát triển ( “Sometime between 400 and 1000 years ago women defied
the patriarchal norms of the time that forbade them to read or write, and conceived of Nu
shu” and “Nu shu was able to grow and spread without attracting too much suspicion.”)
2. VII – Đặc điểm của chữ viết Nữ thư(“Nu shu has many orthographical distinctions from
the standard Chinese script ”)
3. V – Vai trò xã hội của Nữ thư( “Nu shu allowed women a forum for personal written
communication in a society that was dominated by a male-orientated social culture”)
4. II – Sự suy tàn và không dùng đến (“ the generational chains of linguistic transmission
were broken up, and the language ceased being passed down though sworn sisters”)
5. VIII – Sự hồi sinh và sự quan tâm ở hiện tại( “In recent years, however, popular and
scholarly interest in Nu shu has blossomed.”)
6-7.
B – Nó là một cách để những phụ nữ không được học hành có thể đọc và viết
D – nó là một cách để phụ nữ phản hồi nhau mà không bị đàn ông phát hiện (paragraph C:
“Nu shu allowed women a forum for personal written communication in a society that was
dominated by a male-orientated social culture” and “ Nu shu provide a practical and easy-to-
learn alternative”)
8. Chính quyền đề ra cuộc các mạng không muốn để phụ nữ đọc hay viết được bất kì ngôn
ngữ nào - FALSE ( D: “After the Chinese Revolution, more women were encouraged to
become literate in the standard Chinese script”)
9. Ban đầu, Hồng vệ binh đã nghĩ Nữ thư có thể là một công cụ mật báo - TRUE ( D: “When
the Red Guard discovered the script in the 1960s, they thought it to be a code used for
espionage.”)
10. Phụ nữ có thể bị tử hình vì dám sử dụng Nữ thư - NOT GIVEN
11. Cách truyền thống để học Nữ thư đã bị mai một - TRUE ( D: (“ the generational chains
of linguistic transmission were broken up “ and “There is no longer anyone alive who has
learnt Nu shu in this traditional manner”)
12. Tốn rất nhiều tiền để làm công chúng quan tâm đến Nữ thư - NOT GIVEN
13. Ngày nay Nữ thư đã được giảng dạy rộng rãi - TRUE (E: “… and some school in the
area have begun instruction in the language”)
Reading Passage 2
CÂY ĂN THỊT/ CÂY NẮP ẤM
A. Từ thần thoại bản địa tới tiểu thuyết The Day of the Triffids của John Wyndham và nhạc
kịch dưới 500 người Little shop of Horrors, ý tưởng về não và loài thực vật ăn thịt đã dọa
khán giản và người đọc sợ chết khiếp trong mấy thế kỷ. Trong khi cây bụi và chồi non
còn chưa tự nhổ hay thể hiện sự yêu thích con người, thì một vài cư dân nhỏ hơn của trái
đất như nhện hay côn trùng, nguy cơ bị bẫy và tiêu hóa bởi một cái cây có thể là môi đe
dọa cho sự tồn tại hằng ngày của chúng. Chắc chắn kẻ săn mồi nổi tiếng nhất là cây ăn
thịt/cây nắp ấm, một trong hai loại bẫy bắt trên thế giới. Mặc dù hiếm khi thấy chúng
mọc hoang, nhưng cây ăn thịt đã nắm bắt trí tưởng tượng phổ biến và có thể được mua ở
những người bán hoa hay bán lẻ cây trên khắp thế giới.
B. Phần cảm giác bí ẩn của cây ăn thịt bắt đầu với cái tên của nó. Trong khi, nó khá rõ ràng
rằng nửa sau cảu cái tên gọi đã thể hiện cho khả năng bẫy cô trùng của nó, nguồn gốc của
từ “ Venus” vẫn còn phần nào mơ hồ. Theo xã hội thực vật ăn thịt quốc tế, cái cây được
nghiên cứu đầu tiên là vào thế kỷ thứ 17,18, đó là khi mà những người theo chủ nghĩa
thuần túy cai trị các xã hội phương Tây và nỗi ám ảnh đầy rẫy những thôi thúc và thúc
giục của con người bị cấm đoán. Những người phụ nữ thường được miêu tả trong thời kỳ
này như những người quyết rũ và cám dỗ, và các nhà thực vật học được cho là đã thấy sự
song song giữa hành vi của thực vật trong việc dụ dỗ và nuốt chửng côn trùng với hành vi
tưởng tượng người phụ nữ trong việc dụ dỗ và gài bẫy những người đàn ông dại khờ. Do
đó, loài cây này được đặt tên theo tên của nữ thần ngoại giáo của tình yêu và tiền bạc -
Venus.
C. Cây ăn thịt là một loài cây nhỏ có 6 tới 7 lá mọc ra từ một thân cây giống như củ. Phần
cuối của mỗi lá là một cái bẫy mà nó là một vỏ quả mở với lông mao xung quanh các
cạnh giống như lông mi cứng. Vỏ quả được lót bằng sắc tố anthocyanin và nhựa cây có
mùa ngọt để thu hút ruồi và các côn trùng khác. Khi chúng bay vào, các sợi gai bên trong
vỏ sẽ cảm nhận chuyển động của kẻ xâm nhập rồi đóng lại. Cơ chế kích hoạt phức tạp ở
chỗ cái cây có thể phân biệt giữa sinh vật sống và mảnh vụng không ăn được bằng cách
yêu cầu 2 cái gai chạm vào nhau trong vòng 12 giây, hoặc một cái gai chạm vào liên tiếp.
Cái cây không có hệ thần kinh, và những người nghiên cứu chỉ có thể giả thuyết như làm
thế nào chuyển động tắt nhanh hoạt động. Điều này không chắc chắn làm tăng sự quyến
rũ của cây ăn thịt.
D. Vỏ đóng lại nhanh chóng, nhưng lúc đầu không bịt kín hoàn toàn; Những nhà khoa học
đã nhận ra rằng cơ chế hoạt động này cho phép các côn trùng nhỏ trốn thoát, vì chúng sẽ
không là nguồn dinh dưỡng hữu ích cho cây. Tuy nhiên, nếu loài đủ lớn, nắp của cây cuối
cùng sẽ gặp nhau để tạo thành một nén kín khí và tại thời điểm này quá trình tiêu hóa bắt
đầu. Hệ tiêu hóa của cây ăn thịt rất giống với cách dạ dày của con người hoạt động.
Trong khoảng từ 5 tới 12 ngày, các bẫy tiết ra dịch tiêu hóa có tính axit làm tan các mô
mềm và màng tế bào của côn trùng. Những loại nước ép này cũng tiêu diệt bất kỳ vi
khuẩn nào đã xâm nhập vào thực phẩm, đảm bảo cây duy trì vệ sinh để không bắt đầu
thối nữa. Enzyme trong axit giúp tiêu hóa DNA, axit amin và các phân tử tế bào để mọi
bộ phận thịt của động vật có thể được tiêu thụ. Khi cây đã tái hấp thụ dịch tiêu hóa – lần
này với chất dinh dưỡng bổ sung, bẫy sẽ mở lại và bộ xương ngoài thổi bay trong gió.
E. Mặc dù được cấy trồng đến các nơi khác trên thế giới, cây bẫy ruồi chỉ được tìm thấy tự
nhiên ở một khu vực xung quanh Wilmington, North Carolina ở Hoa Kỳ. Nó phát triển
mạnh ở các bãi lầy, đầm lầy cỏ và vùng đất ngập nước và phát triển trên cát ướt, đất than
bùn. Bởi vì những môi trường này quá cạn kiệt nitơ, chúng làm ngạt các hệ thực vật khác,
nhưng cây bẫy ruồi khắc phục tình trạng nghèo dinh dưỡng này bằng cách tìm nguồn
cung cấp protein từ con mồi của nó. Một trong những đặc điểm gây tò mò của loài thực
vật này là khả năng phục hồi nhanh sau khi bị tác động bởi lửa - người ta suy đoán rằng
cây bẫy ruồi đã phát triển tính năng này để chịu được các đám cháy định kỳ và hoạt động
như một phương tiện sinh tồn mà đối thủ cạnh tranh của nó không có.
F. Trong khi cây bẫy ruồi sẽ không sớm bị tuyệt chủng (ước tính hiện có khoảng 3-6 triệu
cây đang được nuôi trồng) sự tồn tại ngoài tự nhiên của nó là không chắc chắn. Trong
cuộc khảo sát cuối cùng, chỉ có 35.800 cây bẫy ruồi được tìm thấy còn lại trong tự nhiên,
và một số nhà bảo tồn nổi tiếng đã đề nghị loài cây này được xếp vào tình trạng ‘dễ bị tổn
thương’”.Vì nghiên cứu này đã khá lâu, diễn ra vào năm 1992, nên con số hiện tại thấp
hơn đáng kể. Việc rút cạn và phá hủy các vùng đất ngập nước tự nhiên nơi cây bẫy ruồi
sinh sống được coi là mối đe dọa lớn nhất đối với sự tồn tại của nó, cũng như việc con
người loại bỏ thực vật khỏi môi trường sống tự nhiên của chúng. Các biện pháp trừng
phạt đã được đề ra để ngăn chặn mọi người làm điều này. Trớ trêu thay, trong khi những
mô tả trong văn hóa về những kẻ giết người lâu năm có thể tiếp tục tồn tại, mối đe dọa
lớn hơn không phải là những gì thực vật ăn thịt có thể gây ra cho chúng ta, mà là những
gì chúng ta có thể gây ra cho chúng.

Questions 14 – 19
Đọc đoạn văn 2 có sáu đoạn, A – F
Đoạn văn nào chứa những thông tin trên?
Viết từ đúng, A – F, vào ô 14 – 19 vào phiếu trả lời.
14. Tổng quan cách cây nắp ấm ăn con mồi
D
“ A venus flytrap’s digestive system is remarkably similar to how a human stomach works. For
somewhere between five and twelve days the trap secretes acidic digestive juices that dissolve
the soft tissue and cell membranes of the insect” Line 4-6
15. So sánh giữa hành vi của con người và cây cối.
B
“Women were often portrayed in these times as seductresses and temptresses, botanists are
believed to have seen a parallel between the behavior of the plant in luring and devouring
insects, the imaged behavior of women in luring and “trapping” witless men” Line 5-7
16. Phương pháp được thiết kế để bảo tồn loài cây nắp ấm trong môi trường bản địa của chúng.
F
“The draining and destruction of natural wetlands where the Flytrap lives is considered to be the
biggest threat to its existence, as well as people removing the plants from their natural habitat.
Punitive measures have been introduced to prevent people from doing this” Line 5-7
17. Một ví dụ văn hóa và nghệ thuật của thực vật ăn thịt.
A
“ From indigenous myths to John Wyndham’s Day of the Triffids and the off-Broadway musical
Little shop of Horrors, the idea of cerebral, carnivorous flora has spooked audiences and readers
for centuries.” Line 1-2
18. Một đặc điểm của Venus Flytrap đặc biệt trong thế giới thực vật
E
Cả đoạn
19. Một tài liệu tham khảo về một khía cạnh sinh học của Venus Flytrap chưa được hiểu đầy đủ.
C
“the plant has no nervous system, and researchers can only hypothesize as to how the rapid
shutting movement works. This uncertainly adds to the Venus Flytrap’ allure” last lines
Questions 20 – 22
Hoàn thành những câu sau với những từ trong đoạn 2
Không dùng nhiều hơn 2 từ cho một câu.
Viết đáp án của bạn vào ô 20 – 22 vào phiếu đáp án

20. Nếu họ quá nhỏ để cung cấp useful nourishment, vỏ đóng cho phép côn trùng thoát ra ngoài
Paragraph D ; Line 1-2
“The pod shuts quickly, but does not seal entirely at first; scientists have found that this
mechanism allows minuscule insects to escape, as they will not be a source of useful
nourishment for the plant”
“Vỏ đóng lại nhanh chóng, nhưng lúc đầu không đóng kín hoàn toàn; các nhà khoa học đã phát
hiện ra rằng cơ chế này cho phép côn trùng cực nhỏ trốn thoát, vì chúng sẽ không phải là nguồn
dinh dưỡng hữu ích cho cây trồng”
21. Chỉ exoskeleton bị bỏ lại sau khi cây nắp ấm tiêu hóa một con côn trùng
Paragraph D ; 2 last lines
“Once the plant has reabsorbed the digestive fluid this time with the added nourishment the trap
re-opens and the exoskeleton blows away in the wind.”
“Một khi cây đã tái hấp thụ chất lỏng tiêu hóa lần này với chất dinh dưỡng bổ sung, cái bẫy sẽ
mở lại và bộ xương ngoài bị gió thổi bay.”
22. Rất nhiều cây không tồn tại trong đầm lầy và đất ngập nước vì sự thiếu hụt nitrogen
Paragraph E ; Line 2-3
“Because these environments are so depleted in nitrogen, they asphyxiate other flora, but the
Flytrap overcomes this nutritional poverty by sourcing protein from its insect prey.”
“Bởi vì những môi trường này quá cạn kiệt nitơ, chúng làm ngạt thở các hệ thực vật khác, nhưng
Flytrap khắc phục tình trạng nghèo dinh dưỡng này bằng cách tìm nguồn cung cấp protein từ con
mồi côn trùng của nó.”

Questions 23 – 26
Làm những câu sau đây phù hợp với các thông tin trong đoạn 2?
Trong ô 23 – 26 vào phiếu trả lời, viết
TRUE nếu câu trùng khớp với thông tin
FALSE nếu câu trái ngược với thông tin
NOT GIVEN nếu không có thông tin về nó
23. Cây nắp ấm có thể chịu đựng khi tiếp xúc với lửa
True
Paragraph E ; Line 4-5
“One of the plant's curious features is resilience to flame- it is speculated that the Flytrap evolved
this to endure through periodic blazes and to act as a means of survival that its competition
lacks.”
“Một trong những đặc điểm gây tò mò của loài thực vật này là khả năng phục hồi trước ngọn
lửa- người ta suy đoán rằng Flytrap đã phát triển tính năng này để chịu đựng được các đám cháy
định kỳ và hoạt động như một phương tiện sinh tồn mà đối thủ cạnh tranh của nó không có.”
24. Nhiều nhà thực vật muốn cây nắp ấm được công nhận chính thức là một loài cây có nguy cơ
bị tuyệt chủng.
NG
25. Chỉ 35,800 cây nắp ấm bây giờ tồn tại trong môi trường tự nhiên của chúng.
False
Paragraph F ; Line 2
“In the last survey, only 35,800 Flytraps were found remaining in the wild, and some prominent
conservationists have suggested the plant be given the status of 'vulnerable”
“Trong cuộc khảo sát gần đây nhất, chỉ có 35.800 cây bẫy ruồi được tìm thấy còn lại trong tự
nhiên và một số nhà bảo tồn nổi tiếng đã đề xuất loại cây này được xếp vào tình trạng 'dễ bị tổn
thương'
-> Trong đoạn là “ were” , trong lựa chọn là “ now’’-> không đúng
26. Sự can thiệp của con người là yếu tố chính trong việc giảm cây nắp ấm hoang dã.
True
Paragraph F ; Line 5-7
“The draining and destruction of natural wetlands where the Elytrap lives is considered to be the
biggest threat to its existence, as well as people removing the plants from their natural habitat.”
“Việc rút cạn và phá hủy các vùng đất ngập nước tự nhiên nơi Elytrap sinh sống được coi là mối
đe dọa lớn nhất đối với sự tồn tại của nó, cũng như việc con người loại bỏ loài thực vật này khỏi
môi trường sống tự nhiên của chúng.”
Reading Passage 3
SỰ PHÁT TRIỂN
Ngay sau Thế chiến thứ II, “sự phát triển” như chúng ta hiểu giờ đã bắt đầu chuyển động. Các
chính phủ và nhà tài trợ phương Tây đổ tiền vào các cơ quan mới nhằm cố gắng kích thích nền
kinh tế của các nước kém phát triển. Vì sự nhấn mạnh này, hiện nay nó được coi là Mô hình
Tăng trưởng. Mặc dù chúng ta có thể kỳ vọng xóa đói giảm nghèo là mục tiêu trung tâm, nhưng
các nhà hoạch định ở giai đoạn này chủ yếu quan tâm đến phát triển công nghiệp. Người ta hy
vọng rằng lợi ích của việc này sẽ đến với người nghèo thông qua việc nâng cao thu nhập và tạo
cơ hội việc làm, qua đó gián tiếp nâng họ lên trên ngưỡng nghèo được quy định là một đô la một
ngày. Tuy nhiên, những điểm yếu của những giả định này đã bộc lộ khi tỷ lệ nghèo đói và tăng
trưởng kinh tế được phát hiện tăng đồng thời ở nhiều quốc gia.
Trong những năm 1970, một xu hướng mới đã giành quyền kiểm soát—sự phát triển hiệu ứng
nhỏ giọt. Thay vì tập trung vào chính sách kinh tế vĩ mô và các dự án công nghiệp quy mô lớn,
các nhà hoạch định chuyển hướng chú ý đến các yêu cầu sống cốt lõi của cá nhân và cộng đồng.
Điều này được biết đến là cách tiếp cận nhu cầu cơ bản để phát triển. Đã được hi vọng rằng
thông qua việc cung cấp các dịch vụ như vệ sinh cộng đồng và các chương trình xóa mù chữ,
nghèo đói có thể được loại bỏ từ mức thấp. Tăng trưởng kinh tế đáng mong mỏi nhưng lại không
cần thiết - Nhu cầu cơ bản xác định lại nghèo đói đến từ việc thiếu tiền đến không đủ khả năng
để đạt được tiềm năng đầy đủ của con người. Tuy nhiên, rắc rối của các chương trình nhu cầu cơ
bản là bản chất tốn kém, sử dụng nhiều nguồn lực, đòi hỏi sự quản lý và tài trợ liên tục.
Kể từ những năm 1980, các nhà lập kế hoạch phát triển đã hướng tới cách tiếp cận sinh kế bền
vững, trong đó nhấn mạnh đến sinh kế tốt ( vật chất và xã hội), quan trọng nhất là độc lập và bền
vững. ‘ Bền vững’ trong câu này có nghĩa là mọi người có thể phục hồi sau những cú sốc và căng
thẳng của cuộc sống hàng ngày, miễn trừ cho các cơ quan khỏi sự cần thiết phải liên tục giám sát
cuộc sống của họ. Cách tiếp cận này nhấn mạnh quan điểm về nghèo đói không phải đến từ
những người giàu mà từ chính những người nghèo, những người được coi là có vị trí phù hợp
nhất để xác định các chỉ số nghèo đói góp phần vào nhiều khía cạnh của sự thiếu thốn của chính
họ. Mặc dù cách tiếp cận sinh kế bền vững đã bị chỉ trích vì thiếu một nền tảng môi trường đủ
mạnh để ứng phó với biến đổi khí hậu, và để tách các khía cạnh quyền lực và địa vị xã hội khỏi
là một phần có thể tranh chấp của sự phát triển, nó hiện là mô hình được ưa thích cho các dự án
phát triển.
Mặc dù có một số tuyến tính đối với quỹ đạo của thực tiễn phát triển, với các mô hình thay đổi từ
phổ biến và trở nên lỗi thời, cuộc tranh luận học thuật sôi nổi vẫn tồn tại xung quanh tất cả các
cách tiếp cận. Mô hình tăng trưởng, ví dụ ,vẫn được nhiều nhà lý thuyết, đặc biệt là các nhà kinh
tế bảo vệ. Những người tin tưởng vào mô hình tăng trưởng khẳng định rằng không có gì vượt trội
hơn phát triển kinh tế như một công cụ xóa đói giảm nghèo cho các nước đang phát triển (mặc
dù thường có ít nhiệt tình hơn về khả năng ứng dụng của nó đối với phương tây hậu công
nghiệp). Nhiều quốc gia tập trung rõ ràng vào tăng trưởng đã cố gắng đạt được những bước tiến
đáng kể vào việc giảm nghèo, ngay cả khi không có chương trình phát triển; Nhật Bản và Đức đã
đi theo con đường này sau chiến tranh thế giới thứ hai, cũng như Trung Quốc từ những năm
1970. Mặt khác, một số quốc gia có dòng vốn đầu tư lớn cho các 'dự án phát triển' dựa trên viện
trợ, đặc biệt là các quốc gia ở châu Phi cận Sahara - đã phải vật lộn để đạt được các mục tiêu xóa
đói giảm nghèo.
Có một lý do chính đáng để nghiên cứu về mô hình tăng trưởng, tuy nhiên như được chứng minh
bởi nhiều xã hội đã sụp đổ một phần do hệ quả của việc ưu tiên tăng trưởng kinh tế hơn công tác
phát triển con người. Kinh nghiệm của nhiều nước Đông Âu với các cuộc khủng hoảng sức khỏe
và việc làm vào đầu những năm 1990 là những ví dụ đặc biệt đau thương cho điều này. Mô hình
tăng trưởng cũng gặp phải tình trạng thiếu dân chủ và 'kỹ trị', nếu không phải là chuyên quyền,
các nước kém phát triển về phương pháp thường đưa ra các quyết định chính sách dựa trên sự
tham khảo ý kiến của các nhà kinh tế và các tổ chức phương Tây về cách tạo ra tăng trưởng.
Điều này làm mất đi quyền tự quyết của các cộng đồng trong việc đưa ra quyết định riêng về
những gì quan trọng đối với họ và loại xã hội mà họ muốn xây dựng, bởi vì bằng cách hoạt động
trên một nguyên tắc các quyết định phải được thực hiện bởi những người bị ảnh hưởng bởi
chúng, nó giới thiệu một vai trò đối với việc ra quyết định được bản địa hóa.
Sẽ rất khó, nếu không muốn nói là không thể, đối với bất kỳ quốc gia nào trong tương lai gần
nếu bỏ qua tăng trưởng kinh tế như một chỉ tiêu phát triển trong khi vẫn tiếp tục đạt các mục tiêu
phát triển. Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta không coi loại hình tăng trưởng này là mục
tiêu hàng đầu để phát triển. Phát triển suy cho cùng là vì con người, và phát triển con người phải
được đặt lên hàng đầu; tăng trưởng kinh tế chỉ đơn giản là một trong số rất nhiều công cụ có thể
giúp chúng ta xuyên suốt hành trình. Chúng ta cũng cần phải thừa nhận rằng các cố vấn nước
ngoài, bất kể bằng cấp và kiến thức nào mà họ có thể có, đôi khi có thể là một trở ngại; quyền tự
chủ của địa phương phải được tôn trọng để sự phát triển thực sự xảy ra. Mô hình tăng trưởng có
thể đã thất bại, nhưng điều này không làm cho tăng trưởng kinh tế không còn phù hợp. Phương
pháp tiếp cận sinh kế bền vững cung cấp các lựa chọn thay thế hữu ích và thực tế . Nhưng thật
điên rồ khi cống hiến hết mình cho một chương trình có hệ thống, được xác định khắc khe -
những tư duy ít cố định hơn sẽ giúp chúng ta phá vỡ sự phát triển chu kỳ .
Question 27-33
Hoàn thành bảng dưới đây.
Chọn KHÔNG QUÁ HAI TỪ trong đoạn văn cho mỗi câu trả lời.
Viết câu trả lời của bạn vào các ô 27-33 trên phiếu trả lời của bạn.
27. … là mục tiêu chính
 Industrial development
“Although we might expect poverty reduction to be the central objective, planners at this stage
were primarily concerned with industrial development.” Line 4-6
28. Người ta đã phát hiện ra rằng cái nghèo sẽ tăng đồng thời với …
 Economic growth
“The weaknesses of these assumptions were revealed, however, when poverty rates and
economic growth were found to rise simultaneously in many countries.” Line 9-11
29. Điển hình bởi sự viện trợ qui mô nhỏ như sức khỏe và dự án …
 Literacy
“It was hoped that through the provision of services such as community sanitation and
literacyprogrammes, poverty could be eliminated from below.” Line 15-17
30. Nghèo khó là sự bất lực để đạt được…
 Human potential
“Economic growth was desirable but superfluous Basic Needs redefined poverty from involving
a lack of money to lacking the capability to attain full human potential.” Line 17-19
31. Các dự án tốn kém … yêu cầu sự tham gia liên tục
 Resource-intensive
“The trouble with Basic Needs programmes, however, was their expensive, resource-intensive
nature that entailed continuous management and funding.” Line 19-21
32. Những người nghèo nhận định được … của họ
 Poverty indicators
“This approach emphasises a view of poverty that comes not from the rich but from the
impoverished themselves, who are considered to be most suitably positioned to determine the
poverty indicators that contribute m to the multiple facets of their own deprivation.” Line 27-30
33. Vấn đề của … chưa được giải quyết thỏa đáng; & bỏ qua các vấn đề về sự thống trị và quyền
lực xã hội.
 Climate change
“Although the Sustainable Livelihoods Approach has been criticised for lacking an
environmental platform strong enough to respond to climate change, and for disassociating
aspects of power and societal status from being a contestable part of development, it is currently
the preferred model for development projects.” Line 30-34
Câu hỏi 34-38
Các ý sau đây có giống với ý của nhà văn trong Reading Passage 3? Trong các ô 34-38 trên
phiếu trả lời của bạn, hãy viết
Yes – ý giống với ý của nhà văn
No – nếu ý mâu thuẫn với ý của nhà văn
Not given – không thể biết được người viết nghĩ gì về điều này
34. Phương pháp phát triển được ưa chuộng nhất là Phương pháp Tiếp cận Sinh kế Bền vững.
=> Yes
“Since the 1980s, development planners have moved towards the Sustainable Livelihoods
Approach, which emphasises good livelihoods (materially and socially) that, most importantly,
are independent and sustainable.”
35.Trong khi các thể chế thường chạy theo các xu hướng phát triển, các tranh chấp học thuật lại
mang tính thời sự hơn.
=> Yes
“Though there is some linearity to the trajectory of development practice, with paradigms
shifting in and out of fashion, vigorous scholarly debate persists around all approaches.”
36.Mô hình Tăng trưởng phổ biến với các học giả Thế giới thứ ba hơn là các học giả phương
Tây.
=> Not given
37. Không thể giảm nghèo nếu không có chính sách phát triển rõ ràng.
=> No
“Many countries that have focused explicitly on growth have managed to make considerable
inroads into reducing poverty, even in the absence of a development programme”
38 Mô hình Tăng trưởng lấy đi một số thẩm quyền từ các hình thức tổ chức địa phương.
=> Yes
“The move to the Sustainable Livelihood Approach is a positive move in this regard, because by
operating on a principle that decisions should be made by those who are affected by them, it
introduces a role for localised decision-making.”
Question 39-40
Chọn hai chữ cái A-E
Viết câu trả lời của bạn vào các ô 39-40 trên phiếu trả lời của bạn.
HAI câu nào sau đây là một phần trong kết luận của tác giả?
A. Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu phát triển chính, nhưng có những yếu tố khác cần xem
xét.
B. Tốt nhất là không nên nghĩ về sự phát triển theo các thuật ngữ cấu trúc, cứng nhắc
C. Các dự án phát triển có khả năng thất bại nếu không có các chuyên gia có trình độ học
vấn cao.
D. Phương pháp Tiếp cận Sinh kế Bền vững hiệu quả hơn Mô hình Tăng trưởng.
E. Tăng trưởng kinh tế chỉ nên được coi là phương tiện để phát triển, không phải là mục tiêu
cuối cùng.
 B,E
“It is important, however, that we move away from seeing this type of growth as the prime
objective for development. Development is ultimately about people, and human development
must be placed at the forefront; economic growth is simply one tool out of many that can help us
along the way”

You might also like