Professional Documents
Culture Documents
Ngôn NG + Tư Duy
Ngôn NG + Tư Duy
Điều kiện thứ ba của ngôn ngữ lặp lại nguyên vẹn là khả năng di chuyển từ một cấu âm này
sang một cấu âm khác hoặc từ một từ này sang một từ khác.
Các bộ máy của vỏ não trước vận động thuộc bán cầu trái, nhất là các phần dưới của nó, giữ
vai trò cơ bản trong việc bảo đảm tính mềm dẻo cần cho điều trên của các quá trình vận động.
Dạng ngôn ngữ biểu cảm sau đây - gọi tên sự vật bằng từ cần thiết là dạng phức tạp hơn
nhiều.
Điều kiện đầu tiên của việc gọi tên sự vật hay hình ảnh của nó một cách phù hợp là sự tri giác
nhìn đủ rõ ràng đối với nó.
Thứ hai, tính nguyên vẹn của cấu trúc âm học của từ là điều kiện quan trọng và rõ rệt của việc
gọi tên sự vật một cách bình thường, như chúng ta đã biết, nó là chức năng của các hệ thống
ngôn ngữ thính giác của miền thái dương trái.
Điều kiện thứ ba phức tạp hơn nhiều của sự gọi tên sự vật một cách chính xác bao gồm việc
tìm ra cách biểu thị cần thiết và ức chế tất cả các sự lựa chọn phụ.
Dấu hiệu đặc trưng của loại rối loạn ngôn ngữ biểu cảm này là sự kiện mà, khi nhắc một âm
đầu tiên hay một âm tiết đầu tiên của từ phải tìm là giúp ngay cho bệnh nhân tức khắc tìm ra
được từ cần thiết. Điều này đã phân biệt chứng “mất trí nhớ ngôn ngữ” đích thực với chứng
“mất ngôn ngữ trí nhớ nghe”, mà cơ sở của nó là sự sói mòn các cấu trúc âm thanh của từ.
Điều kiện cuối cùng, điều kiện thứ tư cần thiết cho việc gọi tên sự vật một cách bình thường.
Đó chính là tính cơ động của các quá trình thần kinh mà chúng ta đều đã biết.
Điều kiện này không được tuân thủ cả trong những tổn thương của các phần dưới miền trước
vận động của bán cầu trái (vùng Brôca), lẫn trong những tổn thương của miền vỏ não trán - thái
dương trái, trong những trường hợp đó đối với các hiện tượng mà chúng ta đã biết thì tính ỳ
bệnh lý của các dấu vết được gắn kết với hiện tượng “xa lánh ngữ nghĩa của từ” vùng thái
dương khi ấy thái độ phê phán đối với tính ỳ bệnh lý được phát sinh và việc chỉnh sửa các sai
sót đã mắc phải bị rối loạn. Bây giờ, chúng ta cần chuyển sang vấn đề tổ chức não bộ của hoạt
động ngôn ngữ biểu cảm nói chung.
Chúng tôi sẽ không dừng lại nhiều ở những khó khăn của ngôn ngữ biểu cảm mở rộng, chúng
được gắn với những khó khăn của việc phát âm hay của việc tìm ra các từ riêng lẻ, mà đi thẳng
vào những rối loạn nguyên phát của hoạt động ngôn ngữ mở rộng tự phát. Như đã nói ở trên,
ngôn ngữ biểu cảm mở rộng hay lời được bắt đầu từ ý định hay ý nghĩ, mà về sau chúng cần
được giải mã thành hình thức lời nói và cần phải tìm ra được sự hiện thân của mình trong lời
phát biểu.
Cả hai quá trình này đều đòi hỏi sự tham gia của các thuỳ trán của não, chúng là bộ máy làm
nảy sinh những động cơ phức tạp, một mặt, và tạo ra ý định tích cực hay sự biểu đạt ý đồ - mặt
khác.
Chứng “mất tự phát ngôn ngữ”, thường phát sinh trong những tổn thương hoàn toàn của các
thuỳ trán não bộ (kéo theo cả hai bán cầu), còn chưa có thể được đánh giá như là một rối loạn
có tính chất “mất ngôn ngữ”. Đúng hơn, nó là một hình thức cục bộ của chứng mất tính tự phát
chung của bệnh nhân. Thế nhưng hình thức rối loạn ngôn ngữ sau, mà chúng tôi gọi bằng thuật
ngữ “mất động lực ngôn ngữ” và chúng tôi đã chuyển sang mô tả nó, lại chiếm một vị trí rõ rệt
và độc đáo trong các rối loạn mất ngôn ngữ (A.R. Luria, 1947, 1948, 1962, 1963, 1964, 1965,
1966, 1969, 1970; A.R. Luria và Svétcôva, 1968).
Giả thiết cho rằng, nguyên nhân của sự mất khả năng sản sinh lời nói mở rộng đó là sự rối loạn
“câu - sơ đồ tuyến”, có liên quan với thiếu sót trong chức năng vị ngữ của ngôn ngữ, đã được
khẳng định bằng một thí nghiệm đơn giản của L.X. Svétcôva.
Cái sự kiện, mà L.X. Svétcôva đã quan sát được thật là thú vị: nếu như thử nghiệm trực tiếp
việc biểu đạt lời nói mà việc ghi điện cơ đồ của môi và lưỡi không phát hiện được một xung
động đặc biệt nào, thì khi đưa ra sơ đồ câu làm điểm tựa để gợi nhớ đã ghi nhận được các
xung động của môi, của lưỡi và thanh quản trên điện cơ đồ một cách rõ ràng, (hình 104).
Hiện tượng “mất động lực ngôn ngữ” có thể có những hình thức phức tạp hơn nhiều; ngay ở
những thời kỳ đầu nghiên cứu các hiện tượng tương ứng (A.R. Luria, 1947, 1948, 1963) chúng
tôi đã quan sát thấy trường hợp, khi mà bệnh nhân hoàn toàn giữ được khả năng lặp lại các từ
và câu lại hoàn toàn không có khả năng đối với lời nói mở rộng độc lập.
Chương 6. TƯ DUY
1. CẤU TẠO TÂM LÝ
- Biểu tượng về tư duy: là về một hoạt động tâm lý cụ thể và tách ra được các bộ phận
cấu thành của nó, mà trong mức độ như nhau đều được thể hiện cả trong tư duy trực quan
- hành động, lẫn cả trong tư duy từ ngữ - lôgíc, suy lý - lôgíc. Trên cơ sở của những biểu
tượng này, tâm lý học thần kinh cùng tìm kiếm bản thể não bộ của “tư duy nói chung”,
thoạt đầu là tìm kiếm hệ thống các cơ chế não bộ mà chúng bảo đảm cho các khâu và giai
đoạn cấu thành của tư duy.
- Tư duy chỉ nảy sinh trong những trường hợp khi mà ở chủ thể có một động cơ tương
ứng, làm cho nhiệm vụ trở nên cấp thiết và việc giải quyết nhiệm vụ là tất yếu, và khi mà
chủ thể ở trong một tình huống mà ở họ không có sẵn cách giải quyết (do bẩm sinh hay
thói quen) để thoát ra khỏi nó.
- Giai đoạn đầu tiên, tiếp ngay sau sự nảy sinh nhiệm vụ là kiềm chế các phản ứng nảy
sinh một cách có tính chất xung động, định hướng vào các điều kiện của nhiệm vụ, phân
tích các thành tố nằm trong nó, tách nó thành các bộ phận cơ bản nhất và đối chiếu chúng
với nhau. Sự định hướng ban đầu như thế vào các điều kiện của nhiệm vụ là giai đoạn
đầu tiên bắt buộc của mọi quá trình tư duy thực sự, thiếu nó thì không thể có một quá
trình tư duy nào được thực hiện cả.
- Giai đoạn tiếp theo của quá trình tư duy là lựa chọn một trong những con đường giải
quyết có thể có và hình thành một con đường chung (sơ đồ) để giải quyết nhiệm vụ, làm
cho một vài nước đi trở nên chắc chắn hơn và loại bỏ mọi sự lựa chọn không phù hợp.
- Sự có mặt của các mối liên hệ nhiều mức độ được nhắc đến ở trên về ý nghĩa của từ, mà
chúng tham gia vào mọi hình thức tư duy, sẽ quy định cấu trúc xác suất của hành động tư
duy; mỗi một nhiệm vụ nhất thiết đều đề ra một mạng lưới các lựa chọn, mà một trong
chúng sẽ được chủ thể chọn lấy do tính chất của các mối liên hệ ẩn sau ý nghĩa của từ.
- Quá trình phân tích các điều kiện của nhiệm vụ và chọn lấy một lựa chọn nhất định từ
nhiều lựa chọn có thể có ấy đã tạo thành bản chất tâm lý của các quá trình “sáng tạo”
(ơrixtic
- Các thao tác luôn luôn là sự sử dụng các mã có sẵn (ngữ ngôn, lôgíc, con số), được hình
thành trong quá trình lịch sử xã hội và thích hợp để thực hiện cái sơ đồ tư tưởng hay giả
thuyết.
-Quá trình tư duy trải qua một số giai đoạn: nó được bắt đầu từ những hành động bên
ngoài chi tiết (thử và sai), sau đó diễn ra giai đoạn ngôn ngữ bên ngoài mở rộng, mà sự
tìm kiếm cần thiết được thực hiện nhờ nó, quá trình rút ngắn, thu hẹp sự tìm kiếm bên
ngoài được hoàn tất và chuyển sang quá trình bên trong độc đáo, khi đó chủ thể sẽ dựa
vào hệ thống các mã đã có sẵn, được họ lĩnh hội (ngữ ngôn và lôgíc - trong tư duy suy lý
từ ngữ, con số - trong việc giải quyết các nhiệm vụ số học)… Sự có mặt của các mã bên
trong đã được lĩnh hội vững chắc, tạo nên cơ sở thao tác của “hành động trí tuệ”, là cơ sở
của việc thực hiện các thao tác tư duy và trở thành cơ sở vững chắc cho pha thao tác của
tư duy ở chủ thể người lớn, đã nắm chắc các mã này.
- Việc sử dụng các mã đã được mô tả sẽ dẫn chủ thể đến pha tiếp theo của hành động tư
duy, mà trong suốt nhiều thập niên nó được đánh giá là pha cuối cùng, nhưng theo các
quan niệm hiện đại thì nó vẫn chưa hoàn tất hành động trí tuệ. Pha này la sự giải quyết
thực sự đối với nhiệm vụ hay tìm ra lời đáp cho câu hỏi mà nhiệm vụ đã đề ra.
- Sự rối loạn “hành vi có tính chất phạm trù” đúng ra là hậu quả của một chuỗi lớn các
biến đổi diễn ra trong hoạt động trí tuệ của bệnh nhân, hơn là nguyên nhân của chúng; và
sự rối loạn “hành vi có tính chất phạm trù”, theo các tài liệu của chính K. Gônđơstêin, có
thể nảy sinh trong các tổn thương thành ổ của não rất khác nhau về khu trú và, do đó, là
kết quả chung của một quá trình bệnh lý phức tạp.
- Chúng ta có thể gặp sự rối loạn khả năng duy trì nhiệm vụ, ức chế những ý đồ nảy sinh
một cách xung động, ngay tức khắc tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra mà
không cần có sự định hướng sơ bộ vào các điều kiện cơ bản của nó; năng lực xây dựng
giả thuyết, thực hiện việc lựa chọn các bước đi có thể có, sử dụng các thao tác hay mã
phù hợp và, cuối cùng, đối chiếu các kết quả thu được với các điều kiện ban đầu của
nhiệm vụ và đánh giá sự phù hợp của cách giải quyết đã thu được, cũng có thể bị phá
huỷ.
2. TƯ DUY TRỰC QUAN (XÂY DỰNG)
-Hình thức tư duy trực quan - hành động đơn giản nhất và được nghiên cứu kỹ nhất trong
lâm sàng là quá trình giải quyết các nhiệm vụ xây dựng, và những nhiệm vụ kiểu “các
khối Kôôtxơ” hay “khối vuông Link” có thể là mô hình đơn giản nhất của nó.
- Trong những trường hợp này thì nghiệm thể phải bày ra một kết cấu mà sơ đồ của nó
được đưa ra cho họ dưới dạng một bức hình của các khối riêng lẻ. Đặc điểm của kết cấu
này là ở chỗ, các thành phần được tách rời ra từ một mô hình, được tri giác trực tiếp,
không tương ứng với các thành phần, mà từ chúng mô hình này cần phải được tạo thành
kết cấu thực.
- Nhiệm vụ tư duy, được đặt trước nghiệm thể bằng trắc nghiệm này, là ở chỗ: làm sao để
khắc phục được các “véc-tơ" của ấn tượng trực tiếp và chuyển các thành phần của ấn
tượng thành các thành phần của kết cấu.
Các thí nghiệm với các khối Kôốtxơ
-Sự rối loạn các tổng hợp không gian trong các tổn thương của các phần đỉnh - chẩm bên
bán cầu trái sẽ làm xấu đi một cách nghiêm trọng khả năng thực hiện các nhiệm vụ được
mô tả trên đây đối với hoạt động xây dựng. Bệnh nhân thuộc nhóm này phân loại các
khối Kôôtxơ một cách kém cỏi, trong khi không biết nên đặt chúng như thế nào và nên
đặt đường chéo ở vị trí nào để nó trùng với đường viền của mẫu.
Sự rối loạn của việc thực hiện các nhiệm vụ xây dựng với các khối
- Thứ nhất, các quá trình tư duy trực quan (xây dựng) đều có cấu tạo phức tạp, đều được
dựa trên một phức hợp hoàn chỉnh các vùng não bộ hoạt động cùng nhau và,
- Thứ hai, sự phân tích chú tâm vào những biến đổi, được đưa vào hoạt động xây dựng
trực quan trong những tổn thương khác nhau về khu trú của não bộ, đã cho phép vạch ra
các vai trò mà mỗi một vùng não đó đảm nhận trong cấu tạo của các quá trình tư duy trực
quan.
3. TƯ DUY TỪ NGỮ - LÔGÍC (SUY LÝ LÔGÍC)
Sự giải quyết nhiệm vụ
- Bài toán số học luôn luôn chứa đựng trong thành phần của mình mục đích (được biểu
đạt dưới dạng câu hỏi của bài toán) và các điều kiện, mà khi phân tích chúng có thể tạo
được một sơ đồ nào đó về việc giải bài toán hay đi đến một chiến lược nào đó cho phép
tìm ra cách giải cần có. Chiến lược này, được biểu đạt dưới dạng một giả thuyết nhất
định, gợi nên sự tìm kiếm các thao tác riêng lẻ mà việc thực hiện chúng có thể đưa đến
kết quả cần có.
- Quá trình giải bài toán được kết thúc ở sự đối chiếu con đường đã thực hiện và kết quả
thu được với câu hỏi chung, lẫn với cả các điều kiện của bài toán; trong trường hợp có sự
trùng khớp hay sự thống nhất của cách giải đã tìm được với những điều kiện của bài toán
thì hoạt động trí tuệ được chấm dứt. Ngược lại, mọi sự bất đồng của con đường và kết
quả giải quyết đối với những điều kiện ban đầu thì buộc phải quay lại tìm kiếm các
phương thức giải quyết phù hợp.
- Sự phân tích về mặt cấu trúc (trong việc giải quyết bài toán) vừa mới được dẫn ra đối
với các đòi hỏi, mà các bài toán khác nhau về cấu tạo đề ra cho quá trình giải chúng, đã
cho phép đi đến sự phân tích vấn đề: chính quá trình giải toán được biến đổi như thế nào
khi loại bỏ các điều kiện này hay điều kiện kia, có liên quan đến hoạt động của các hệ
thống não bộ xác định, và do đó, tới vấn đề về tổ chức não bộ của quá trình phức tạp này.
- Nét đầu tiên và cơ bản của sự rối loạn hoạt động trí tuệ ở những bệnh nhân bị tổn
thương hoàn toàn các thùy trán của não bộ là ở chỗ, văn bản nhiệm vụ đưa ra không được
họ nhận thức như là nhiệm vụ, nói cách khác, như là một hệ thống các thành tố phụ thuộc
của các điều kiện.
- Sự phân tích về mặt tâm lý học thần kinh đã chỉ ra những khác biệt sâu sắc trong tính
chất của những rối loạn trong việc giải bài toán khi có những tổn thương khác nhau về
khu trú của não bộ và cho phép thấy được rằng, nếu các phần sau của bán cầu đại não
(thuộc thành phần của khối chức năng thứ hai của não) bảo đảm cho các điều kiện thao
tác của việc thực hiện hoạt động trí tuệ, thì các thùy trán của não (thuộc thành phần của
khối chức năng thứ ba) là cần thiết cho việc tổ chức hoạt động trí tuệ nói chung, với sự
chương trình hóa hành động trí tuệ và sự kiểm soát việc thực hiện hành động đó là các
thành phần của nó.