You are on page 1of 2

I.

Nguồn gốc của ngôn ngữ

- phân biệt giữa nguồn gốc của ngôn ngữ nói chung:tìm hiểu loài người đã sáng tạo ra ngôn ngữ
trong quá trình phát triển của lịch s như thế nào. Con người s dụng ngôn ngữ làm phương tiện giao
tiếp, công cụ nhận thức và tư duy như thế nào, khi nào…

- Nguồn gốc của ngôn ngữ cụ thể: quá trình hình thành và phát triển của 1 ngôn ngữ cụ thể: tiếng
Việt, tiếng Nga… Nghiên cứu nguồn gốc của ngôn ngữ cụ thể phải dựa vào kết cấu, sự phát triển lịch
s về các phương diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của ngôn ngữ ấy.

- Vấn đề nguồn gốc của ngôn ngữ nói chung gắn liền nguồn gốc xã hội loài người. Cơ sở để NC phải
dựa vào bản chất, kết cấu, đặc điểm của các ngôn ngữ cụ thể và kiến thức lịch sử , văn hóa, xã hội,
tâm lý, tư duy…của từng cộng đồng dân tộc có tác động không nhỏ đến ngôn ngữ của cộng đồng dân
tộc ấy.

1. Một số giả thuyết về nguồn gốc của ngôn ngữ

1.1. Thuyết tƣợng thanh Xuất hiện từ thời c đại, phát triển từ Tk VII-XIX. Theo thuyết này, ngôn ngữ
nói chung và các từ riêng biệt đều do ý muốn tự giác của con người bắt chước và mô phỏng các âm
thanh trong tự nhiên. Tác giả tiêu biểu là laton và Augustin thời c đại. 18 VD: trong tiếng Hi Lạp [r]
âm rung gọi tên sông ngòi có đặc điểm lưu động (dòng chảy), tiếng La Tinh âm mel (mật ong) biểu thị
tiếng âm thanh mền mại , ngọt ngào như bày ong làm mật… VD2: ph biến là bắt chước âm thanh của
cơ quan phát âm con người, mô phỏng các âm thanh do sự phát ra âm thanh đó: bình bịch (xe bình
bịch), meo meo (m o), các từ tượng thanh có trong tiếng Việt ào ào, rì r m, róc rách…

1.2. Thuyết cảm thán Ngôn ngữ bắt nguồn từ âm thanh các trạng thái tâm lí phát l c tình cảm x c
động: vui, buồn, giận, đau đớn...Tiêu biểu như utsô Humbôn, Stăngđan…Đó là mối quan hệ giữa từ
với trạng thái của con người.

1.3. Thuyết kêu trong lao động Xuất hiện TK XIX cho rằng ngôn ngữ có từ tiếng kêu trong lao độngcó
cơ sở từ sinh hoạt lao động của con người là do hoạt động cơ năng cơ thể theo nhịp độ lao động.

1.4. Thuyết khế ước xã hội

Bắt nguồn từ ý kiến nhà triết học c đại Đêmôcrit cuối TK XVIII và Rutsô… cho rằng ngôn ngữ do con
người thỏa thuận mà định ra, trong đó kế ước xã hội là khả năng đầu tiên để ngôn ngữ hình thành.
Rutsô cho rằng loài người trải qua 2 giai đoạn, giai đoạn đầu tự nhiên, nguồn gốc của ngôn ngữ là
cảm x c, giai đoạn sau là giai đoạn văn minh, ngôn ngữ là sản phẩm của khế ước xã hội.

1.5. Thuyết ngôn ngữ cử chỉ Ban đầu con người chưa có ngôn ngữ thành tiếng mà d ng c chỉ, tư thế
thân thể, chân tay để giao tiếp.

Tiền thân của ngôn ngữ loài người


Mệnh đề ngôn ngữ bắt nguồn từ trong lao động thực ra chỉ mới khẳng định điều kiện
nảy sinh ngôn ngữ chứ chưa nói rõ ngôn ngữ đã nảy sinh từ cái gì. Những giải thuyết
về nguồn gốc ngôn ngữ của ngôn ngữ trước Mác, nếu như không giải thích được những
điều kiện tạo ra ngôn ngữ thì ít nhiều đều hướng về tiền thân của ngôn ngữ loài người. Hiển
nhiên, tiền thân của ngôn ngữ không thể là tư thế của tay hay của thân thể như Marr và
môn phái của ông chủ trương. Thừa nhân tư thế của tay hay của thân thể là tiền thân
của ngôn ngữ là chưa có cơ sở. Lịch sử không hề biết có một xã hội loài người nào
dù lạc hậu đến đâu chăng nữa lại không có ngôn ngữ thành tiếng. Nhân chủng học
không hề biết có một dân tộc nhỏ bé, lạc hậu nào, dù cổ lỗ hay còn cổ lỗ hơn người
châu Úc hay dân sĐất lửa thế kỉ trước chẳng hạn, lại không có ngôn ngữ thành tiếng.
Cho nên, giả thuyết lúc đầu con người chưa có ngôn ngữ thành tiếng và tư duy trừu
tượng, muốn diễn đạt cái tư duy tiền logic đó người ta dùng ngôn ngữ cử chỉ, tức là
dùng tư thế của tay, của thân thể, thậm chí của mắt để tỏ ý nhất định, nhưng những
cử chỉ đó và âm thanh của ngôn ngữ không có tính chất kế thừa lịch sử nào bởi vì cử
chỉ dựa vào ấn tượng thị giác còn ngữ âm dựa vào ấn tượng thính giác.

Một số người căn cứ vào sự khác nhau về bản chất và chức năng của ngôn ngữ
với các âm được bắt chước, tiếng kêu trong lao động và tiếng kêu cảm thán để phủ
nhận giá trị tiền thân của những thứ đó là không đúng. Người và vượn cũng khác
nhau về chất nhưng vượn vẫn là tiền thân của người; chữ viết và đồ hoạ nguyên thuỷ
khác nhau về chất nhưng đồ hoạ nguyên thuỷ vẫn là tiền thân của chữ viết.

Theo chúng tôi, ngôn ngữ với tư cách là hệ thống tín hiệu thứ hai phải bắt nguồn
từ hệ thống tín hiệu thứ nhất ở con người. Hệ thống tín hiệu thứ nhất là tất cả những
ấn tượng, cảm giác và biểu tượng thu được từ bối cảnh tự nhiên bên ngoài thông
qua những phản xạ, kích thích ở dạng mọi cảm giác: thính giác, thị giác, xúc giác…
Hệ thống tín hiệu thứ nhất tiến hành giao tiếp trong phạm vi tư duy hình tượng, một
mặt nó lấy hình tượng mà bộ máy cảm giác nhận được làm cái biểu hiện còn cái được biểu
hiện là tư duy hình tượng. Sự giao tiếp như vậy rất đơn sơ vì nó không có tư duy trừu
tượng. Nhưng dầu sao cũng vẫn có tác dụng giao tiếp. Chẳng hạn, một người nguyên thuỷ
kêu lên một tiếng, những người khác lập tức xúm lại, bởi vì tiếng kêu đó làm cho người
khác biết là có thức ăn… Phạm vi của hệ thống tín hiệu thứ nhất ở con người nguyên thuỷ
rất rộng. Bất cứ hình tượng nào mà bộ máy cảm giác hình thành nên đều có thể trở thành
"cái biểu hiện" của hệ thống tín hiệu thứ nhất. Nhưng không phải ngôn ngữ bắt nguồn từ tất
cả hệ thống tín hiệu thứ nhất. Vì ngôn ngữ lấy ngữ âm làm vật kích thích vật chất, lấy khái
niệm làm nội dung chính của những vật kích thích ấy, cho nên chỉ bộ phận hệ thống tín hiệu
thứ nhất nào có tác dụng giao tiếp lấy âm thanh làm vật kích thích mới trở thành ngôn ngữ.

Như vậy, có thể một phần của sự bắt chước âm thanh là nguồn gốc của một số
thành phần ngôn ngữ. Nhưng phải là những âm thanh mà con người mô phỏng âm
thanh do sự vật phát ra để làm tín hiệu giao tiếp. Sự bắt chước âm thanh theo cách
hiểu của Platon và Augustin thời cổ đại, cũng như sự bắt chước âm thanh với tư
cách là dùng đặc điểm của tư thế bộ máy phát âm để mô phỏng đặc điểm của sự vật
khách quan không thể là tiền thân của ngôn ngữ. Ngay chúng ta vẫn chưa lí giải được rõ
ràng những mối quan hệ tượng thanh ấy, huống hồ là người nguyên thuỷ thời xưa.

Tương tự, những bộ phận tiếng kêu trong lao động, tiếng kêu cảm thán có tác dụng
giao tiếp với tư cách là hệ thống tín hiệu thứ nhất, đều có thể trở thành những bộ phận cấu
thành của ngôn ngữ sau này.

You might also like