You are on page 1of 3

Dân tộc Khmer ở Việt Nam

Lan Anh -  


29 Tháng Mười Hai 2015 | 9:53:55
  
 

(VOV5)- Dân tộc Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ và có kiến
trúc chùa tháp đặc sắc.

Các diễn viên Khmer biểu diễn trong lễ hội. (Ảnh: TTXVN)

Nghe âm thanh bài viết tại đây:

Dân tộc Khmer ở Việt Nam có khoảng 1,3 triệu người, sống tập trung ở tại các tỉnh
Nam Bộ như Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh
Long... Cuộc sống của người Khmer gắn liền với nghề canh tác lúa nước và nhiều
nghề thủ công. Dân tộc Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ và có
kiến trúc chùa tháp đặc sắc. Các lễ hội lớn trong năm là dịp để đồng bào Khmer
Nam bộ thể hiện những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc của dân tộc mình. 
Tiếng nói của dân tộc Khmer thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me. Tuy sống cùng
trên một địa bàn với các dân tộc Kinh, Hoa từ rất lâu nhưng hình thái cư trú của
người Khmer vẫn giữ được đặc điểm riêng của mình, phổ biến là hình thái cư trú
theo cộng đồng người với tên gọi là “phum” và “sóc”. Người Khmer sinh sống bằng
nhiều nghề trong đó có đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và
làm gốm. Trong cuộc sống hàng ngày, người Khmer chế biến rất nhiều loại mắm
làm từ tôm tép, cá sặc nhưng nổi tiếng nhất là mắm làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê,
tôm tép trộn với thính và muối. 

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất
nhiều loại. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có
từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng
nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ cúng trăng Ok-ang Bok (tháng 10 âm lịch).

Nam nữ Khmer trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Những
người đứng tuổi thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc
quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu hoặc vắt qua vai.

Đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào Khmer Nam Bộ rất phong phú. Trong hệ
thống lễ hội của đồng bào Khmer Nam Bộ, có nhiều lễ hội đặc sắc nhưng phải kể
đến 2 lễ lớn trong năm là Tết Chol Chnam Thmay, là Tết đón năm mới, và Lễ hội
Ok-ang Bok, là Lễ cúng trăng, trong lễ  có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc. Tết
Chol Chnam Thmay tháng 4 là dịp vui lớn của cộng đồng. Bà con thăm hỏi, chúc lẫn
nhau, tổ chức nhiều hoạt động văn nghệ, thể thao. Lễ đón năm mới của người
Khmer cũng có những khác biệt với các dân tộc khác, ông Châu Ôn, Viện Phật học
Phật giáo Nam tông Khmer Nam bộ, cho biết:  Đón giao thừa của người Khmer khác
hơn đón giao thừa của người Việt hay là người Hoa. Đón giao thừa của người
Khmer được tính theo mặt trời đi. Tức là theo giờ phút đã định sẳn mà người Hora
Cha (người thiên văn) bói toán cách tính theo hướng của mặt trời đi theo đường
thẳng, ngay một giờ nào đó. Giờ chấm dứt mùa này sang mùa mới. Thí dụ như năm
nay, vào năm mới bắt đầu từ 14h2’, vậy thì người ta lấy lúc 14h2’ đó, ngày đó là
ngày người ta mới ở tại chùa tổ chức đánh cồng, đánh chống này nọ xong rồi mới
mời, đưa rước đức phật, tượng phật và Moha Songkran xung quanh chánh điện vào
giờ đó.

Người Khmer Nam Bộ hầu hết đều theo tín ngưỡng Phật giáo, hệ phái Nam Tông.
Di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer cũng chính là nghệ thuật và kiến trúc chùa
tháp. Người Khmer lớn lên được tu dưỡng trong tinh thần Phật pháp, học giáo lý
Phật và học văn hoá tại chùa trước khi bước vào cuộc sống tự lập của người trưởng
thành.  Đại đức Giang Thanh, trụ trì chùa Chrôi Tôn Sa, xã Kim Sơn, huyện Trà Cú,
tỉnh Trà Vinh, cho biết: 

Ngoài học chữ các thầy còn dạy các em về đạo đức, về cách ứng xử, chào hỏi ông
bà, cha mẹ, thầy cô, cụ già theo phong tục dân tộc. Đồng thời cũng cung cấp kiến
thức cơ bản nhất cho các em về văn hóa, nghệ thuật như các điệu múa, hát dân
gian, trang phục… để các em hiểu và biết gìn giữ văn hóa của mình”.

Trong suốt quá trình phát triển, nền văn hóa Khmer giao hòa, gắn kết với các nền
văn hóa khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Điều này góp phần tạo thành nền văn
hóa của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam đậm đà bản sắc.

You might also like