Professional Documents
Culture Documents
Tên đề tài : Làm rõ các nét tính cách đặc thù của
người Việt ở Nam Bộ qua ca dao
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………….…...1
CHƯƠNG I: TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN……………………..3
2
2.2.2. Tinh thần trọng võ, trọng làm ăn buôn bán hơn khoa
cử………………………………………………….……..36
3
DANH SÁCH HÌNH
1.1 Cảnh đám cưới rước dâu bằng ghe xuồng gây sốt một thời 18
trên mạng xã hội Tiktok
2.1 Ảnh minh họa ông Địa trong tâm thức của người Nam bộ 29
4
LỜI MỞ ĐẦU
Top 10 nội dung được tìm kiếm tại Việt Nam năm 2023
(Nguồn: Google)
1
nhiên, nếu Người Vợ Cuối Cùng hay Tết Ở Làng Địa Ngục
được nhắc đến với những cụm từ “phục hưng văn hóa
Việt” hay “nỗ lực quảng bá văn hóa Việt” thì Đất Rừng
Phương Nam lại tạo nên làn sóng dữ vì vấn đề sai lịch sử
và sai văn hóa. Điều đó thể hiện rằng thị hiếu của công
chúng đã bắt đầu đặt sự quan tâm vào không những là điện
ảnh Việt mà còn là văn hóa nước nhà. Tuy nhiên, điều đó
có thể thể thấy rằng sự quan tâm và nhận thức của công
chúng đối với văn hóa người Việt ở Nam bộ vẫn chưa đủ,
chưa trả lại cho Nam bộ vị trí thật sự của nó.
Mảnh đất Nam bộ chỉ vừa được hình thành, xây dựng hơn
300 năm nay. Tuy nhiên, chừng ấy thời gian cũng đã đủ để
tạo nên bản sắc riêng của Nam bộ. Muốn tìm hiểu bản sắc
ấy, bên cạnh những nghiên cứu tập trung vào vấn đề kinh
tế, lịch sử hay địa lý, người ta còn cần phải tập trung vào
một vấn đề hay bị bỏ lơ: lời ăn tiếng nói của nhân dân nơi
đó. Ca dao - dân ca là nơi lưu dấu đậm nét nhất lời ăn tiếng
nói của một cộng đồng người. Ca dao - dân ca Nam Bộ đã
góp phần nuôi dưỡng những nhà thơ Đồng Nai – Gia Định
như Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Hồ Huân
Nghiệp, những nghệ sĩ tài danh của âm nhạc truyền thống
như Trần Văn Khê, Cao Văn Lầu, Nguyễn Vĩnh Bảo. Vậy
nên, khảo sát về ca dao Nam bộ cũng là đóng góp cho quá
trình tìm hiểu tính cách của con người nơi đây.
2
CHƯƠNG 1: TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
1. Khái quát về vùng đất Nam Bộ
Trước kia, Nam bộ là lãnh thổ của nước Phù Nam và Chân
Lạp nhưng dân cư rất thưa thớt.
Cho đến những thế kỷ đầu công nguyên, mảnh đất Nam bộ
đã tồn tại một nền văn hóa Óc Eo rực rõ với các đặc trưng
do cư dân vương quốc Phù Nam tạo dựng nên. [1] Có thể
nói, những cư dân này chính là những người bản địa đầu
tiên của nơi đây.
Sau khi văn hóa Óc Eo suy thoái, vương quốc Phù Nam đã
bị Chân Lạp của người Khmer xâm chiếm và sáp nhập vào
lãnh thổ của mình. Như vậy, người Khmer là những lưu
dân đầu tiên đến chiếm lĩnh vùng đất này.
Năm 1623, lấy danh nghĩa cha vợ - con rể, Chúa Sãi
Nguyễn Phúc Nguyên đã yêu cầu triều đình Chân Lạp để
cho dân Việt mở rộng địa bàn khai phá trên những vùng
đất thưa dân và để quản lý. Chúa Nguyễn cũng cho lập một
trạm thu thuế ở Prey Nokor (nay là Sài Gòn) và mở một
dinh điền ở Mô Xoài. Vua Chân Lạp đã chấp thuận đề nghị
này. Vào thời điểm đó, cư dân Việt đã có mặt ở hầu khắp
miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn. Người Việt cũng là lực
lượng quan trọng nhất làm biến đổi vùng đất này. Đặc biệt
là trong cộng đồng người Việt ở miền Nam, ngoài những di
dân tự do với số lượng nhỏ lẻ chủ yếu xuất phát từ miền
Trung tới nơi đây khẩn hoang trong rải rác mấy thế kỷ, còn
có những đợt di dân với số lượng lớn đi thẳng từ miền Bắc
như năm 1954 hay đợt di dân để xây các vùng kinh tế mới
sau năm 1975.
3
Từ giữa thế kỷ XVII, bên cạnh người Việt, những người
Hoa theo phong trào phản Thanh phục Minh đến Việt Nam
và một số nước Đông Nam Á khác tạo nên cộng đồng
Minh Hương. Ở Việt Nam, người Minh Hương tập trung
chủ yếu ở miền Nam.
Như vậy, bên cạnh người dân bản địa là cư dân vương
quốc cổ Phù Nam, ở Nam bộ có bốn tộc người chính tới
định cư và khai phá lần lượt theo thứ tự thời gian là
Khmer, Việt, Hoa và Chăm. Như vậy, bức tranh chủ thể
văn hóa của vùng Nam bộ mang tính đa tộc người rất đặc
sắc. Tuy mang tính đa tộc người sâu sắc, nhưng nhờ điều
kiện quan trọng là tương quan lực lượng giữa các tộc
người, khi trong bức tranh chủ thể văn hóa này người Việt
chiếm ưu thế tuyệt đối so với các tộc người khác, nên văn
hóa Nam bộ vẫn có tính thống nhất văn hóa cao.
Bên cạnh đó, cũng cần nhắc đến yếu tố địa lý trong quá
trình định vị văn hóa Nam bộ.
4
Đông Nam bộ là vùng chuyển tiếp từ vùng núi xuống đồng
bằng. Nơi đây còn rơi rớt lại một số ngọn núi như núi Bà
Đen, núi Chứa Chan, núi Bà Rá v.v. Những ngọn núi này
không chỉ là một bộ phận của thiên nhiên nơi đây mà còn
chứa đựng trong mình một di sản văn hóa phong tục, tín
ngưỡng của người dân.
Như vậy, có thể nhận xét rằng, Nam Bộ vừa có bề dày tiến
trình lịch sử văn hóa lại vừa là vùng đất giàu sức trẻ do các
cộng đồng người ở đây đang dày công xây dựng nên. Từ vị
thế địa lý, văn hóa, Nam bộ đang trở thành trung tâm của
quá trình tiếp biến văn hóa, phần nào tạo cho vùng có
những nét đặc thù, diện mạo mới đối với các vùng văn hóa
khác ở Việt Nam.
Muốn nghiên cứu tính cách người Việt ở Nam bộ, cần thiết
phải đặt hệ tính cách người Việt ở Nam bộ vào sự so sánh
với hệ tính cách người Việt ở các vùng khác của đất nước
trên cơ sở là tính cách văn hóa người Việt nói chung. [1]
5
Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, GS.TSKH Trần
Ngọc Thêm đã tổng kết được hệ tính cách văn hóa người
Việt có năm đặc trưng chính là: tính trọng âm, tính ưa hài
hòa, tính tổng hợp, tính cộng đồng trong phạm vi làng xã,
tính linh hoạt.
Tính cách của người Việt ở Nam bộ còn chịu ảnh hưởng
của các yếu tố tự nhiên như sau: noi gặp gỡ của những điều
kiện tự nhiên vừa thuận tiện vừa khắc nghiệt, nơi gặp gỡ
của các tuyến giao thông sông biển quốc tế, nơi gặp gỡ của
các cư dân của nhiều dân tộc đến từ mọi miền.
Xét đến khía cạnh xã hội, tính cách của người dân Nam bộ
là sản phẩm của quá trình dương tính hóa, giao lưu và
tiếp biến với văn hóa phương Tây.
Những đặc trưng chính trong văn hóa người Việt, kết hợp
với các điều kiện tự nhiên và xã hội đã góp phần hình
thành nên bản sắc văn hóa của con người Nam bộ mà sẽ
được nói rõ hơn ở phần 2.
Được thử thách qua không gian, thời gian và lòng người,
được gọt dũa bởi lớp lớp nhà thơ không tên, ca dao Nam
bộ đã trở thành viên ngọc quý óng ánh trong kho tàng văn
học dân gian của dân tộc. Vận dụng mọi khả năng của
ngôn ngữ dân gian, ca dao đã biểu hiện một cách chính
xác, tinh tế cuộc sống và hơn thế nữa, biểu hiện một cách
sinh động và đầy hình tượng của nhân dân về cuộc sống.
6
3.1. Về phương diện nội dung
Trong đời sống dân gian, ca dao là nơi tập trung nhiều tình
yêu quê hương, đất nước của người dân đối với những
anh hùng đã đi vào sử sách. Song song với đó, ca dao Nam
bộ còn ca ngợi sự giàu đẹp, trù phú của mảnh đất này.
Chưa ở đâu như mà có ruộng vườn đúng nghĩa là cò bay
thẳng cánh như ở Nam bộ [1]:
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh,
Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm
Tình yêu thương gia đình cũng là một chủ đề phổ biến
trong ca dao Nam bộ. Điểm khác biệt so với các vùng địa
lý khác là những cảnh sinh hoạt gia đình này mang những
nét dung dị, đời thường gắn với môi trường sông nước bao
la. Ở đó, cuộc sống thật đơn sơ, giản dị nhưng cũng đầm
ấm tình thân trong công cuộc mưu sinh:
Cha chài, mẹ lưới, con câu
Chàng rể đóng đáy, con dâu ngồi nò
Tình yêu lứa đôi bao giờ cũng là đề tài phong phú cho ca
dao và thơ văn.Tình yêu nam nữ của vùng đất phương
Nam qua ca dao rất mộc mạc, tự nhiên. Vốn là những con
người lao động chân chất, người Nam Bộ khi bày tỏ tình
cảm với nhau bằng một thứ khẩu ngữ thường ngày không
cần chưng diện, không cần màu mè mà cái tình cảm vẫn
nồng đượm, sâu sắc:
Sự chân chất, hồn nhiên trên phương diện từ ngữ, cách thể
hiện ngộ nghĩnh và thẳng thắn, tình cảm chân thật và dung
7
dị đã tạo nên chất “duyên” thường thấy trong ca dao Nam
Bộ. Đặc biệt là ca dao về tình yêu.
Là nơi tập trung sinh sống của bốn cộng đồng người lớn là
các dân tộc Việt, Hoa, Khmer, Chăm mà trong đó dân tộc
Việt làm chủ thể, lời ăn tiếng nói của người dân nơi đây
ảnh hưởng sâu sắc cách nói của người Việt. Cần lưu ý,
người Việt ở Nam bộ chủ yếu là người dân Bắc bộ và
Trung bộ di cư ra. Vậy nên ca dao Nam Bộ chủ yếu sử
dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc như lục bát,
song thất lục bát, song thất lục bát biến thể, đồng thời cũng
sử dụng các thể vãn hay gọi là các thể nói lối, chủ yếu là
vãn năm, vãn bốn (mỗi câu gồm bốn, năm âm tiết) và các
thể thơ hỗn hợp. Trong đó, số lượng ca dao được gieo vần
theo thể lục bát chiếm số lượng lớn vì biểu lộ được những
trạng thái tình cảm phong phú, đa dạng và tinh tế của con
người, đồng thời về mặt hình thức nghệ thuật, các câu thơ
rất dễ nhớ, dễ thuộc nhờ cách gieo vần và ngắt nhịp 6/8:
Ngoài ra, ca dao Nam bộ còn sử dụng thể lục bát biến thể.
Do tính phóng khoáng, ngang tàng, thích tự do của người
dân nơi đây, ca dao Nam bộ thường không gò ép mình theo
khuôn phép mà số chữ hoàn toàn tùy thuộc vào cách nói,
8
vào mục đích chuyển tải thông tin, miễn sao diễn tả cho đủ
ý muốn nói và có vần điệu dễ đọc, dễ nhớ:
Bên cạnh các kiểu câu mở đầu như “Chiều chiều…” hay
“Thân em…” của ca dao truyền thống. Ca dao Nam bộ
cũng có cho mình những kiểu câu mở đầu riêng, mang theo
những đặc sắc về phong tục, tập quán, lời ăn tiếng nói của
riêng mảnh đất này. Theo khảo săt của tiến sĩ Bùi Mạnh
Nhị, thì một số kiểu câu mở đầu thường gặp trong ca dao
Nam bộ có thể kể đến như:
+ Mù u bông trắng lá quắn nhụy huỳnh
+ Lầu nào cao bằng lầu ông Chánh (hoặc ông Phó)
+ Ba phen quạ nói với diều
+ Nước mắm ngon dầm con cá đối (hoặc con hẹ)
+ Phụng hoàng đậu nhánh vông nem (hoặc cẩm lai)
+ Sông sâu sóng bủa láng cò
+ Bần gie đốm đậu sáng ngời
+ Đờn cò lên trục kêu vang
+ Gió nam non thổi lên hang dế (hoặc hang chuột)
+ Khăn rằn nhúng nước ướt mem
+ Ghe lên ghe xuống dầm dề.
[3]
9
CHƯƠNG 2: CÁC NÉT TÍNH CÁCH ĐẶC THÙ CỦA
NGƯỜI Ở NAM BỘ QUA CA DAO
Theo đó, có thể hiểu tinh linh hoạt là khả năng thích nghi
với các thay đổi trong cuộc sống, đặc biệt là các tình huống
xã hội để từ đó điều chỉnh các yếu tố về mặt tinh thần, vật
chất để có thể giải quyết những yêu cầu bức thiết được đặt
ra.
Khi di chuyển đến mảnh đất phía Nam, người Việt cũng đã
thích ứng với môi trường tự nhiên ở đây. Dấu ấn rõ nhất
cho tính linh hoạt của người Việt ở Nam bộ là hình ảnh
nước trong tâm thức, lao động và sinh hoạt của người
dân.
10
Xét từ góc độ địa lý,yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến tính
linh hoạt của người dân nơi nơi đây trước nhất là do ảnh
hưởng từ việc mảnh đất này là nơi gặp gỡ của những điều
kiện tự nhiên thuận tiện. Nếu như ở Bắc bộ, người ta có
truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh ghi dấu ấn lại quá trình
con người chinh phục tự nhiên mà cụ thể là những cơn lũ
hằng năm, thì ở Nam bộ, con người ta chấp nhận sống
chung với lũ. Bởi con sông Cửu Long mỗi mùa lũ về
không chỉ giúp người dâng thau chua rửa mặn mà còn đem
về cá tôm, phù sa v.v cho con người. Bên cạnh đó, hệ
thống sông Cửu Long ở vùng Tây Nam bộ kết hợp với
mạng lưới giao thông đường thủy dày đặc đã giúp cho việc
đi lại cực kỳ thuận tiện, ít tốn sức, người dân nơi đây sống
nhờ quy luật con nước.
Nam bộ còn là nơi gặp của các tuyến giao thông sông
biển quốc tế. Với vị trí giáp biển, Nam bộ không những
đóng một vị trí quan trọng trong lính vực chính trị - quân
sự, mà còn là đầu mối buôn bán tấp nập với các nước. Bên
cạnh đó, nhờ có biển và hệ thống giao thông đường thủy
mà Nam bộ mới có thể đón nhận những nền văn hóa mà
các nhóm di dân người Hoa mang theo, cũng như rất hạn
chế sự hội nhập những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ.
Cái ăn là nhu cầu bức thiết của tất cả con người, vậy nên
cũng như bất cứ ai, người Việt ở Nam bộ buộc phải thay
đổi cách ăn uống sao cho phù hợp với cuộc sống nơi đây.
Với số lượng kênh rạch chằng chịt, thiên nhiên đã ưu đãi
cho vùng đất Nam bộ một số sản lượng thủy sản dồi dào:
11
Ai ơi về miệt Tháp Mười
Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn.
hay
Đồng Tháp Mười cò bay mỏi cánh
Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm…
rồi:
Bao phen quạ nói với diều
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm
Bởi sự dồi dào của thủy sản, những món ăn của người dân
nơi đây cũng có thực phẩm chủ đạo là cá tôm.
- Rau đắng nấu với cá trê
Ai đến lục tỉnh thì mê không về.
- Canh chua điên điển cá linh
Ăn chỉ một mình thì chẳng biết ngon
- Muốn ăn bông súng cá kho
Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm.
- Kèo nèo mà lại làm chua
Ăn với cá rán chẳng thua món nào.
- Má ơi, đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau má nhờ.
hay:
Má ơi, đừng đánh con hoài
Để con kho cá bằm xoài má ăn.
Cá ở đây nhiều đến mức đôi khi còn tấn công con người:
- Má ơi, con vịt chết chìm
Thò tay con vớt, cá lìm kìm cắn con
12
Từ cá người ta làm được ra mắm. Mắm khác so với cá là
mắm để được lâu hơn. Người miền Trung thường chế biến
đồ ăn sao cho thật mặn, thật cay để tiết kiệm, còn người
Nam bộ thì làm thành mắm để thức ăn có thể bảo quản
được lâu, nếu cần thì có sẵn đồ ăn để tiết kiệm thời gian
còn đi khẩn hoang. Học giả Trịnh Hoài Đức cũng từng
nhận xét: “Người Gia Định thích ăn mắm” [3], vậy nên sẽ
chẳng có gì lạ khi mắm cũng đi vào lời ăn tiếng nói khác
của người dân nơi đây:
Cùng với cá, Nam bộ còn có nhiều đặc sản liên quan đến
sông nước khác như tôm, ốc, ba khía:
13
Với tính cách ưa hài hòa của người Việt truyền thống, rau
là món không thể thiếu trong bữa ăn. Nhưng khác với bữa
cơm của người Việt truyền thống, món rau ủa người Việt ở
Nam bộ có tên gọi ngộ nghĩnh hơn là rau tập tàng (hay
thập tàng, thập toàn, tạp toàn v.v.). Rau tập tàng là hỗn hợp
của nhiều loại rau khác nhau được người dân hái “đại” ở
ven đường hay ở sau nhà. Sở dĩ người dân ở đây sử dụng
rau tập tàng bởi khác với người dân ở Bắc bộ là sự an cư,
tính cộng đồng, làng xã mạnh thì ở miền Nam là những
con người đi khẩn hoang, rày đây mai đó, không cố định,
tính cộng đồng làng xã yếu. Chính sự “rày đây mai đó” của
người dân Nam bộ dẫn đến tính hoang dã, có gì ăn nấy,
không câu nệ nội dung lẫn hình thức của món ăn:
Đối với người dân nơi đây, khi đói chỉ cần ra ngoài bắt cá,
hái rau là có ngay một bữa thịnh soạn:
Nếu cây đa, bến nước, con đò là biểu tượng cho làng quê
Bắc bộ thì hình ảnh con nước và những thứ liên quan đến
sông nước là đặc trưng cho Nam bộ. Do đặc trưng sông
14
ngòi dày đặc, nên phương tiện giao thông đường thủy
(ghe, xuồng, tàu, bè…) là phương tiện di chuyển chủ yếu ở
nơi đây. Điều này từng được Trịnh Hoài Đức ghi nhận
trong Gia Định thành thông chí như sau: “Ở Gia Định chỗ
nào cũng có ghe, thuyền, hoặc dùng thuyền để làm nhà ở,
hoặc để đi chợ, hay để đi thăm người thân thích, hoặc chở
gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi, mà ghe thuyền chật sông
ngày đêm qua lại không ngớt, cho nên nhiều khi đụng
chạm nhau, bị hư hại rồi sinh ra kiện cáo” [3]. Giao thông
đường thủy ở Nam Bộ phát triển đến mức hình thành ra
nhiều loại ghe, xuồng như ghe bầu, ghe cửa, ghe lồng, ghe
giàn hay xuồng ba lá, xuồng tam bản, xuồng năm lá, xuồng
be bẩy.
Trong ca dao Nam Bộ vẫn còn lưu giữ dấu tích của sự phát
triển về giao thông đường thủy ấy.
15
Nóp nồng em gửi tặng anh
Xuồng em bơi tận trong kinh Tháp Mười
Những con kênh con rạch chính là nơi gặp gỡ, giao
thương. Ca dao còn lưu dấu về một nền kinh tế trên sông,
biểu hiện sự ấm no, trù phú của miệt vườn miền Tây:
hay:
Như Karl Marx từng nhận định, thì người nông dân “trao
đổi với thiên nhiên nhiều hơn là giao tiếp với xã hội” [5].
Sinh sống trong môi trường sông nước, người dân Nam bộ
buộc phải nắm rõ quy luật của con nước để có thể sống
chung với nó.
Người dân Nam bộ nhận thức được bản chất, quy luật của
con nước:
16
Nước lớn rồi lại nước ròng
Đố ai bắt được con còng trong hang
Thậm chí, ở nhưng nơi ấy, đám cưới được tổ chức với ghe,
xuồng để phù hợp với địa hình:
Cái ghen của cô gái khi chàng trai đi lấy vợ cũng có bóng
dáng của con nước:
17
Trèo lên chót vót cây bần
Vái anh đi cưới vợ sóng thần nhận ghe
hay:
Bần gie, bần liệt, đóm đậu ngọn bần
Anh đi cưới vợ em vái cho sóng thần nhận ghe
18
Cảnh đám cưới rước dâu bằng ghe xuồng gây sốt một thời
trên mạng xã hội Tiktok
(nguồn: kênh Tiktok @hoangthan)
19
1.2.4 Phương ngữ Nam bộ rất giàu các từ ngữ chỉ các
sự vật, hiện tượng liên quan đến sông nước
Bởi vì sinh sống trong môi trường bao quanh là sông nước,
vậy nên sông nước là đối tượng mà người Nam bộ quan
tâm nhiều nhất. Hình ảnh sông nước đã đi vào lời ăn tiếng
nói của người dân nơi nay một cách tự nhiên. Ca dao – dân
ca Nam Bộ đã khai thác triệt để vốn từ ngữ của địa phương
để chỉ các đối tượng trên bối cảnh này. [4]
20
Cù lao xa sóng, anh mới đành xa em
21
Phương tiện vận chuyển:
Không xuồng nên phải lội sông
Đói lòng nên phải ăn ròng bè môn
Phần lớn địa danh ở nơi này thường gắn liền với ý nghĩa
sông nước:
Rạch Nhà Ngang khúc cong khúc lượn
Sông Gò Quao sông lớn sông dài
Linh đinh như chiếc giã ra vời
Như thuyền ra cửa, biết mấy đời gặp nh
Hệ quả của việc giàu phương ngữ chính là sông nước trở
thành cơ sở, hình ảnh để diễn đạt tính cách người dân:
22
Đôi lòng nên phải ăn ròng bẹ môn.
Người con gái giãi bày tấm lòng của mình thì nói:
Chiếc ghe kia nói có, chiếc ghe nọ nói không
Phải chi miếu ở gần sông
Em thề một tiếng kẻo lòng anh nghi
Sông nước cũng là nơi giao duyên, gặp gỡ của các chàng
trai, cô gái:
23
Ơ ơ ớ…
Đèn treo dưới xáng
Tỏ rạng bờ kinh (ờ)
Em có thương anh
Em nói cho thiệt tình (ờ)
Để anh lên xuống
Ơ ơ chớ một ơ ơ mình ờ bơ vơ
Để chứng minh tấm lòng son sắt của mình thì cô gái nói:
24
2. TÍNH THIẾT THỰC
Điều kiện thứ hai để óc thực tế có thể trở thành tính thiết
thực là quá trình dương dương tính hóa. Trước hết, trong
quá trình xâm lược Việt Nam, lối sống thực dụng đã xâm
nhập vào đây một cách rõ rệt khi người dân Nam bộ được
tận mắt thấy những phát minh khoa học kỹ thuật, những kỳ
tích của nhân loại lúc bấy giờ, giúp cho người dân nơi đây
có cơ hội mở mang tầm mắt, óc thực tiễn khi này đã có cơ
hội phát triển. Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế
thị trường kết hợp với việc lưu thông tiền tệ Đông Dương,
sự tấp nập người mua kẻ bán của các khu đô thị đã lôi kéo
người Việt vốn ngại cái mới bước ra khỏi vùng an toàn của
mình. Về sau, văn hóa của người Việt ở Nam bộ còn bị ảnh
hưởng bởi chủ nghĩa thực dụng từ Đế quốc Mỹ, càng làm
cho người ta phải coi trọng thực tế, coi trọng kết quả hơn.
25
2.2 BIỂU HIỆN
2.2.1 Văn hóa tư tưởng, sinh hoạt bám sát thực tế
Óc thực tiễn kết hợp với với các yếu tố khách quan như sự
linh hoạt trong tính cách người Việt, sự giao lưu giữa các
cộng đồng người, quá trình dương tính hóa đã tạo nên tính
thiết thực trong tâm thức và sinh hoạt của con người Việt.
Sách Đại Nam nhất thống chí ghi chép lại về người dân
Nam bộ như sau: “Sĩ phu Nam bộ ham đọc sách cốt yếu để
hiểu rõ nghĩa lý mà lại vụng văn từ”. Nghĩa là ở nơi đây,
con người ta đọc sách cốt để rèn luyện con người, để biết
chứ không phải để khoe mẽ học đòi, làm sang, cũng chính
những nhà Nho Nam bộ cũng là những người quay lưng lại
với nền Nho học hư học để đến với thực học. [1] Trong
dân gian, người ta bắt gặp ca dao nói về quan niệm của
người dân nơi đây về vấn đề học hành như sau:
Đối với họ, học hành không phải là để làm những điều quá
lớn lao như giáo dục ở Việt Nam truyền thống, mà với họ,
học hành chủ yếu là làm sao để con người ta có thể ứng
dụng nó vào đời sống sống của mình (Đặng mai đây khi
cha già mẹ héo, nó cũng biết đường tới lui)
26
những nếp sống của các dân tộc khác sao cho phù hợp với
dân tộc mình.
27
việc dung nạp tín ngưỡng của các dân tộc. Sự hình thành
tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ là sự góp sức của cả ba cộng
đồng lớn (trong đó người Việt đóng vai trò chủ đạo), đó là
người Việt với truyền thống trọng nữ và tục thờ Mẫu,
người Chăm với tín ngưỡng thờ Bà Mẹ Xứ Sở và tín
ngưỡng Bà Đen của người Khmer. Lúc ban đầu, tượng Bà
Chúa Xứ ở núi Sam chính là tượng thần Vishnu (nam thần)
của đạo Bà La Môn, nhưng nhờ sự tổng hợp, dung hòa của
ba cộng đồng người mà tượng nam thần đã được đưa
xuống và trở thành người đàn bà phúc hậu trong tâm thức
của không chỉ người Việt mà còn là các cộng đồng người
khác ở Nam Bộ.
Một vị thần rất điển hình cho mảnh đất Nam bộ là Ông
Địa. Ông xuất hiện trong hình ảnh rất bình dị, dân dã, thiết
thực với bộ bà ba hở phanh ngực, hút thuốc lá, thuốc lào đã
thể hiện được phần nào con người Nam bộ. Ông xuất hiện
trong ca dao nơi đây một cách dí dỏm:
28
Mới vần mặc kệ mới vần
Bây giờ đói bụng xúc lần ra anh
Hình ảnh ông Địa trong câu ca dao trên cũng đã tái hiện lại
một phần cách sống của người dân Nam bộ. Người dân nơi
đây thuở đầu là dân nghèo, vậy nên miếng ăn đối với họ là
điều cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, nếu người dân Việt
mình ở các nơi khác xem ăn uống như là nghệ thuật, là sự
kết hợp của các yếu tố âm dương ngũ hành (yếu tố âm
dương ngũ hành vẫn xuất hiện trong bữa cơm người Việt ở
Nam bộ tuy nhiên nó xuất hiện một cách vô tình do đây
không phải là điều ưu tiên của người dân chốn này), thì
người Nam bộ cho rằng miếng ăn là để cứu đói, để sống
sót, cái thiện cái nghĩa của tâm hồn nếu muốn làm chỗ dựa
vững chắc cho đạo đức con người thì cái ăn, nhu cầu bức
thiết của con người, phải được đáp ứng trước cái đã:
Tính thiết thực khiến cho bàn nhậu của người Nam bộ
cũng bình dân. Nếu món ăn giải cảm quen thuộc của người
dân Bắc bộ là món cháo hành (Vào vườn lấy củ gừng
thơm/ Trở vô cháo nóng múc lên bát đầy/ Tía tô, hành với
29
gừng này/ Cho vào cháo nóng bưng ngay lên giường) thì
của nơi đây là rượu. Người đi khẩn hoang mỗi khi thấy
lạnh trong người thì sẽ uống rượu để có sức vực dậy cơ thể
mà dầm mưa dãi nắng, còn nếu dưỡng sức như người Bắc
bộ thì biết bao giờ mới khẩn hoang xong.
Ảnh minh họa ông Địa trong tâm thức của người Nam bộ
(Nguồn: Google)
Trong trang phục, người Nam bộ cũng lựa chọn trang phục
phù hợp với công việc lao động (chèo ghe, xuồng, cấy
lúa…) mà nổi bật nhất là bộ đồ bà ba. Không chỉ dung nạp,
30
đón nhận tôn giáo, tín ngưỡng mà cả nếp sống của các
cộng đồng người khác cũng được người Việt tiếp thu. Bộ
bà ba và chiếc khăn rằn của đồng bào người Chăm đã trở
thành vẻ đẹp đặc trưng của Nam bộ:
– Ai mà bày đặt dị kì
Áo bà ba may hai túi đựng giống gì hở anh
– Ba má bày đặt cho anh
Áo bà ba may hai túi đựng dầu chanh o mèo
Vì giản tiện nên ai mặc nó cũng được, bất kể trai gái, lứa
tuổi, mục đích sử dụng. Chàng trai Nhơn Ái nổi tiếng với
hình ảnh mặc áo bà ba:
31
Đầu đội nón lá, đi đâu vội vàng?
Tính thiết thực của người dân nơi đây còn thể hiện ở việc
“ăn theo thuở, ở theo thời”. Người dân Nam bộ sẵn sàng
tiếp nhận và còn tiếp nhận rất nhanh cách ăn mặc ở
phương Tây:
Để có thể chung sống hòa thuận với các dân tộc khác,
người Việt ở Nam đã bao dung với các nền văn hóa khác.
32
Biểu hiện rõ nhất của việc dung nạp sự đa dạng văn hóa
trước tiên là sự đa dạng về ngôn ngữ. Ở Nam bộ, với tính
mở thoáng đặc trưng, lời ăn tiếng nói của các dân tộc đã
được dung hòa vào nhau để tạo ra những từ ngữ đặc trưng
cho mảnh đất này.
Bên cạnh người Hoa, người Khmer cũng là một cộng đồng
người lớn ở Tây Nam Bộ. Sinh sống trong môi trường
nhiều sông nước, từ ngữ của họ cũng mang theo rất nhiều
yếu tố liên quan đến nước. Về sau, khi người Việt đến
mảnh đất này, những từ ngữ này đã được Việt hóa và in
dấu rõ nét trong lời ăn tiếng nói của người Việt:
33
Ai về Ông Chưởng, Vàm Nao
Cho em hỏi cá bông lau có còn
34
Tính thiết thực của người Nam bộ còn thể hiện trong lối tư
duy của họ, kể cả việc hệ trọng cả đời, người con trai cũng
tìm kiếm người con gái có thể cùng mình làm giàu:
Nhờ thiên nhiên trời ban, nên người dân Nam bộ không
cần thiếu cái ăn, cái mặc, duy chỉ có tiền là thiếu, nên cô
gái thẳng thừng bảy tỏ với chàng trai:
hay
35
2.2.2 Tinh thần trọng võ, trọng làm ăn buôn bán hơn
khoa cử
Văn hóa người Việt thuộc loại hình văn hóa gốc nông
nghiệp, tức là trọng âm, trọng tĩnh. Còn văn hóa người Việt
ở Nam bộ, tuy vẫn là văn hóa của người Việt, nhưng cần
lưu ý rằng, họ là những con người với tinh thần mang
gươm mỡ cõi (Từ độ mang gươm đi mở cõi/Trời Nam
thương nhớ đất Thăng Long - Nhớ Bắc, Huỳnh Văn Nghệ),
quá trình dương tính hóa đã tặng cho con người Việt vốn
quen với những điều an toàn khả năng buôn bán với lối tư
duy “phi thương bất phú”. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định
thành thông chí cũng đã ghi nhận lại rằng ở hai huyện
Thuận An và Phúc Lộc, “chín người làm nông thì một
người đi buôn”. Ca dao Nam bộ cũng đã đề cập đến con
đường buôn bán bằng giọng điệu hân hoan:
Buôn bán trên sông nước là chủ yếu, người Nam bộ cũng
tự đúc kết ra cho mình kinh nghiệm buôn bán:
Dù ai buôn bán trăm nghề
Gặp ngày con nước cũng về tay không.
36
Thuyền dời nhưng bến chẳng dời
Bán buôn là nghĩa muôn đời cùng nhau
Việc người dân nơi đây coi trọng làm ăn buôn bán đã làm
cho Nam bộ sở hữu một nền thương nghiệp phát triển. Sự
phát triển đó còn lưu dấu trong ca dao đến bây giờ:
Song song với khả năng buôn bán, để thích nghi với môi
trường dữ dằn (Muỗi kêu như sáo thổi/ Đỉa lội tợ bánh
canh/ Cỏ mọc cọng thành tinh/ Rắn đồng đà biết gáy), con
người Nam bộ dần dần chuyển sang trọng võ hơn văn.
Thậm chí, võ còn là kế sinh nhai cho người dân ở nơi này:
37
Thấy em buôn bán anh chẳng vừa lòng
Để anh làm mướn kiếm từng đồng nuôi em
Thực chất, đài khán võ chinh là những gánh Sơn Đông mãi
võ. Đài khán võ là để những gánh ấy múa võ trước rồi mới
bắt đầu buôn bán thuốc. Những tiết mục họ trình diễn đều
phải trải qua quá trình khổ luyện và cũng có những tiết
mục rất nguy hiểm cho bản thân như: múa võ đánh cong
thanh sắt vào người, chỏi cây thương vào cổ họng, đâm
kiếm vào họng, chặt gạch bằng tay hoặc nuốt lưỡi lam…
Tất cả họ đều tỏ ra là những người lao động chân chính để
mưu sinh. Hình ảnh võ thuật trong đời sống người người
dân Nam bộ cũng đã trở thành nguồn cảm hứng cho văn
học viết với tác phẩm Tấm ván phóng đao của Nghệ sĩ
Mạc Can.
38
3. TÍNH TRỌNG NGHĨA
Theo “Từ điển Hán Việt”, học giả Thiều Chửu giải thích
“nghĩa” là “định liệu sự vật hợp với lẽ phải, làm việc
không có ý riêng của mình, lấy ân cố kết với nhau”. Theo
định nghĩa đó, nền tảng của “nghĩa” có hai, một là lẽ phải,
hai là cái ân mà mình đã chịu.
Khi du nhập đến Việt Nam, khái niệm “nghĩa” của Nho gia
đã kết hợp với những đặc trưng trong tính cách của người
Việt, nó gần gũi với chữ “tình” hơn cả. Nghĩa còn là “quan
hệ tình cảm thủy chung, phù hợp với những quan điểm đạo
đức nhất định”[8]
Với tính trọng âm ở Bắc bộ, con người ta đã quen với lối
sống ổn định, con người ta đã biết nhau rất rõ và cũng có
nhu cầu giúp đỡ lẫn nhau đã tạo nên tình trọng tình. Khi di
chuyển vào Nam bộ, là vùng đât mới, con người ở đây là
con người từ tứ xứ đổ về không quen biết nhau. Nhưng vì
là đất mới, nên con người ta càng cần phải yêu thương,
đùm bọc lẫn nhau. Tính cộng đồng làng xã ở Bắc bộ truyền
thống trên cơ sở tình nghĩa đã chuyển thành tính cộng đồng
xã hội. Chữ “nghĩa” đã được đặt lên hàng đầu trong cuộc
sống của người dân nơi đây.
Nếu thiên nhiên ở đây khắc nghiệt với con người thì thiên
nhiên cũng hết lòng hậu đãi con người. Ở đây không có khí
hậu quá khác biệt giữa các mùa, cũng không có những cơn
lũ dữ dội như ở ngoài Bắc. Con người ở đây cũng không
cần phải quá lo lắng về cái ăn. Thiên nhiên nơi đây ưu đãi
con người đến mức mà học giả Nguyễn Hiến Lê đã ghi lại
trong cuốn Bảy ngày ở Đồng Tháp Mười rằng “[...] phát
39
vài công đất ở sau nhà, sạ một vài giạ lúa là có dư lúa ăn
suốt năm. Cá nhiều tới nỗi con nít cầm một cây đinh ba
nhỏ đi đâm một lúc về cũng được một xâu cá, đàn bà ngồi
rửa chén thấy cá lội ngang thường chém được con cá lóc
lớn bằng bắp chuối”. Bởi như thế, nên con người ở đây ít
phải lo toan, có điều kiện để không đặt nặng vấn đề tài
chính để mà sống với nhau chân thành, giản dị, hết lòng vì
việc nghĩa.
Đây là tiêu chí để đánh giá tính trọng nghĩa trong quan hệ
ứng xử với những người tuy không cùng huyết thống nhưng
thân quen như mối quan hệ bạn bè, vợ chồng. Bởi đã kết
duyên phu thê, kết tình huynh đệ thì tình nghĩa phải nồng
đượm, không được phai nhạt. Một khi đã kết duyên, kết
nghĩa thì họ vô cùng yêu thương nhau.
Với bạn bè, người Nam bộ luôn sẵn sàng, hết lòng giúp đỡ.
Thậm chí khi gặp hoạn nạn thì người ta sẵn sàng coi rẻ
sinh mạng của mình:
Dấn mình vô chốn chông gai
Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân
40
Trong mối quan hệ vợ chồng, nghĩa được nâng lên thành
đạo:
Cây ngô nghe sấm đứt chồi
Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương
Trọng nghĩa gắn với khinh tài. Điều này không mâu thuẫn
với tính thiết thực trong tính cách của người Nam bộ. Tính
thiết thực giúp cho người dân Nam bộ đánh giá đúng sự
quan trọng của tiền bạc, thì tính trọng nghĩa giúp cho con
người đánh giá đúng vị trí của tiền bạc trong đời sống của
con người. Nghĩa là đối với họ, tiền bạc tuy quan trọng,
nhưng nghĩa tình còn quan trọng hơn. Nếu người Bắc bộ
xem đồng tiền như một thứ đồ quyền năng “nén bạc đâm
toạc tờ giấy” hay “có tiền mua tiên cũng được” thì tác giả
dân gian người Nam bộ lại cho rằng:
Tiền tài như phấn thổ,
Nghĩa trọng tợ thiên kim
Con le le mấy thuở chết chìm
Người bạc tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi.
hay:
Tiền tài như phấn thổ,
41
Nhân nghĩa tựa thiên kim
Đứt dây nên gỗ mới chìm
Người bất nhân bất nghĩa kiếm tìm làm chi
Qua câu ca dao trên, tác giả dân gian đã khẳng định rằng
tiền tài chỉ như bụi đất (phấn thổ) còn cái nghĩa lại nặng
(trọng), lại quý như ngàn vàng (thiên kim). Đối với họ,
người có nghĩa là người quý, thậm chí, nghĩa còn là tiêu
chí để người con gái chọn chồng:
Người con gái Nam bộ sẵn sàng đợi chờ người con trai:
Sông dài cá lội biệt tăm
Thấy anh người nghĩa mấy năm em cũng chờ
Đôi khi, họ còn chấp nhận sống nghèo nàn để giữ trọn đạo
nghĩa. Người ta khuyên con người phải giàu đúng theo cái
nghĩa cái tình, chớ vì bạc vàng mà lấy “của phi nghĩa”:
Của phi nghĩa có giàu đâu
Ở cho ngay thật giàu sau mới bền
42
Con chim nho nhỏ,
Cái lông nó đỏ,
Cái mỏ nó vàng,
Nó kêu người ở trong làng,
Đừng ham lãnh lụa phụ phàng vải bô
Tinh thần trọng nghĩa khinh tài ấy cũng đã giúp cho người
dân Nam bộ đồng lòng chống Pháp, quyết không vì tiền
bạc mà chống lại đồng bào:
Dẫu nghèo đi gặt lúa mua
Đi đào củ chuối sống qua tháng ngày
Còn hơn làm mọi cho Tây
Để nó sai khiến gọi mày xưng tao
Đối với người Nam bộ, “nghĩa” không đứng một mình mà
đi kèm theo đó là “nhân” và “dũng”. Bộ ba
Nhân-Nghĩa-Dũng là những giá trị bổ sung cho nhau, giúp
hoàn thiện hơn nội dung của Nghĩa. Tinh thần coi trọng lẽ
công bằng được thể hiện rõ trong kháng chiến chiến chống
Pháp:
43
Việc đánh Tây còn là điều kiện mà người con gái đặt ra
cho người yêu của mình:
Yêu em anh phải nhớ ghi
Đánh Tây giữ đất mới bì trượng phu
Trong công cuộc giữ đất, giữ nước, giữ nhà, từ người
nghèo đến bá hộ, điền chủ đều góp sức:
Hễ ai dám chống Lang Sa
Của tiền ủng hộ hết nhà cũng vui
44
Người dân Tây Nam Bộ căm thù giặc đến mức phẫn uất:
Chợ giồng triệt một thằng Tây
Mấy chú mộ nghĩa đem thây bỏ đìa
Bỏ đìa cho quạ nó tha
Cho cá chốt rỉa làm ma không mồ
Dù cho triều đình chủ trương nghị hòa, ngươi nông dân nơi
đây vẫn nói:
Giặc Sài Gòn đánh đánh đánh xuống
Binh ngoài Huế danh không vô
Anh biểu em đừng đợi đừng chờ
Để anh đi lấy đầu thằng mọi mà tế cờ nghĩa quân
Ý chí chống ngoại xâm cho đến cùng được khái quát thành
câu ca dao:
Bao giờ hết có Tháp Mười
Thì dân ta mới hết người đánh Tây
3.2.3.2 Tính hào hiệp, sống hết mình, sẵn sàng đùm bọc,
che chở cho nhau
45
Rồng chầu ngoài Huế
Nước chảy Đồng Nai
Nước sông trong chảy ruộng ngoài
Thương người xa xứ lạc loài đến đây
Hay:
Nam bộ là nơi đón đầu những xu hướng mới của thế giới
trong thời kỳ Pháp thuộc. Song, ngay khi người dân các
nơi đang hào hứng trong phong trào Âu hóa, thì người dân
Nam bộ vẫn không quên ngoái lại những con người nghèo
khổ:
46
3.2.3.3 Tinh thần hiếu khách
47
4. TÍNH BỐC TRỰC
Tính bộc trực của người Nam bộ xuất phát từ hững diều
kiện tự nhiên và xã hội ở nơi này.
Là vùng đất hoang vu, hoang dã, những con người ở đây
phải cùng nhau để mưu sinh, vậy nên rất cần sự thẳng thắn,
rõ ràng để không mất thời gian của các bên. Vì làm việc
chung với nhau nên họ phải hoàn toàn tin tưởng nhau, vậy
nên họ cần những người trắng đen phân minh chứ không
phải những kẻ ăn ở hai lòng.
Điều kiện tự nhiên thuận lợi, ưu đãi cho con người giúp
cho những đứa con của mảnh đất Nam bộ không cần phải
phí sức khéo léo lấy lòng người khác để tồn tại. Nếu con
người ta không chịu nổi sự áp bức của tầng lớp trên thì chỉ
cần bơi ghe bơi xuồng qua vùng khác sống là được. Tính
cộng đồng làng xã lỏng lẻo khiến cho người dân mảnh đất
này không phân biệt dân chính cư hay ngụ cư, mà ngược
lại còn sẵn sàng bao dung, cưu mang, thương người xa xứ
lạc loài tới đây.
Với quá trình giao lưu tiếp biến với văn hóa phương Tây,
tính bộc trực của người dân Nam bộ càng có cơ hội phát
triển. Những nét tính cách như coi trọng con người cá
48
nhân, lối giao tiếp trực khởi v.v đã được người dân nơi đây
đón nhận từ rất sớm.
Người Nam bộ dường như luôn ăn nói theo suy nghĩ của
mình, người ta có gì người ta nói nấy:
Ăn tương không phải là tu
Ăn tương cho hết cái ngu để chừa
Hệ quả của sự thẳng thắn là thật thà chất phác. Người dân
Nam bộ sẵn sàng đối xử chân thành, không giấu giếm.
Chuẩn mực trong giao tiếp của người Nam bộ là nói thiệt,
vì vậy, trong ca dao Nam bộ thường hay xuất hiện cụm từ
có chữ thiệt như "thưa thiệt”, "hỏi thiệt”:
49
Anh có vợ chưa, phân lại cho tường
Kẻo em vô phá đạo cang thường sao nên
Ăn nói thiệt thà còn là tiêu chuẩn của người con gái khi
chọn chồng. Theo anh có khổ như thế nào chẳng biết
nhưng trước hết là em thương vì ăn nói thật thà cái đã:
Càng coi trọng nói thẳng, nói thiệt bao nhiêu nhiêu thì
người Nam bộ càng ghét thói giả dối bấy nhiêu:
Bên cạnh thái độ thẳng thắn, thật thà, tính bộc trực của
người Tây Nam bộ còn thể hiện ở thái độ phản ứng tức
thời, trực tiếp và đôi khi vô cùng quyết liệt. Khi duyên
50
chẳng thành, người con gái nơi này sẵn sàng tự kết thúc
cuộc đời mình “cho rồi”. Nếu như người miền Bắc còn suy
đi nghĩ lại về việc đó, còn phải tắm rửa, thưa chuyện như
Người con gái Nam Xương thì cô gái Nam bộ chẳng cần
hai lời:
Ra mắt cha mẹ, cô gái cũng trực tiếp "dắt đại cho rồi”:
Chẳng thà dắt thẳng nhau vô
Phụ mẫu có giết, thác một mồ cũng ưng
Rồi phụ mẫu không chịu, cô gái ở đây cũng thủng thẳng:
Dẫu cho phụ mẫu rầy la
Đôi ta thủng thẳng dắt ra lạy chào
Tinh thần, nếp sống bộc trực ấy được các thế hệ sau kế
thừa, sinh ra những lớp người mang tinh thần của ông già
Ba Tri như Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Trung Trực. Ca dao
Nam bộ vẫn còn lưu dấu lời khen của nhân dân về những
con người ấy:
Vĩnh Long có cặp rồng vàng
Nhất Bùi Hữu Nghĩa, nhì Phan Tuấn Thần
51
Câu ca dao trên đã ca ngợi hai ông Bùi Hữu Nghĩa và Phan
Thanh Giản. Bùi Hữu Nghĩa là quan tri huyện Trà Vang, vì
liêm khiết nên ông đã động chạm đến quyền lợi của quan
trên. Còn ông Phan Thanh Giản đã kết thúc đời mình bằng
17 ngày nhịn ăn và chén thuốc độc tự vẫn vì buồn đau,
thương dân thương nước.
Trong đời sống của con người Nam bộ, cái gì phải ra cái
nấy, họ quyết không để trắng đen không phân minh:
Rắn hổ phải là rắn hổ, rắng rồng phải là rắng rồng chứ
không vì một số điểm chung mà họ chấp nhận cái này lẫn
lộn với cái kia.
4.3.4 Sự quan trọng của chữ tín trong đời sống người
dân
Sống quen trong môi trường nơi con người ta sẵn sàng nói
thiệt với nhau, nơi mà nói thiệt là một trong những quy
chuẩn đạo đức, con người Nam bộ tự nhiên sẽ sản sinh ra
lòng tin vào lời nói của người cùng nơi. Từ đó mà chữ tín
đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của người dân
nơi đây.
52
CHƯƠNG 3: TỔNG KẾT
Bốn đặc trưng tính cách văn hóa người Việt ở vùng Tây
Nam bộ nêu trên không mâu thuẫn, tách rời lẫn nhau, mà
ngược lại, còn thống nhất, bổ sung cho nhau để tạo nên
một bản sắc của vùng văn hóa Nam bộ.
Như vậy, từ văn hóa người Việt gốc, dưới sự tác động của
vị trí địa lý, kinh tế, và các vấn đề xã hội khác, đã biến đổi
để tạo nên những tính cách đặc thù của người Nam bộ.
Tính ưa hài hòa và tính linh hoạt đã biến đổi để thành tính
tính thiết thực. Tính cộng đồng theo kiểu tình cảm làng xã
được thay thế bằng tính cộng đồng xã hội, nhưng chưa đủ
cao nên chỉ mới dừng lại ở tính trọng nghĩa. Tính ưa hài
hòa đã được thay thế bằng tính bộc trực của người Nam bộ
do những hoàn cảnh bắt buộc mà cuộc sống đưa ra. Tính
ưa hài hòa và tính linh hoạt đã được biến đổi thành tính
thiết thực. Ngoài ra, còn có một số nét tính cách đặc thù
khác không thể bao quát trong phạm vi bài tiểu luận này
như tính mở thoáng, tính bao dung.
Như vậy, hệ tính cách văn hóa của người Việt vùng Nam
bộ có nhiều sự khác biệt so với tính cách người Việt truyền
thống. Những nét tính cách này đủ điển hình để chi phối
mọi tính cách văn hóa khác.
Dưới tác động của hội nhập và toàn cầu hóa, những nét
tính cách này diễn ra một quá trình ngược lại là mờ hóa và
biến đổi [1]. Chịu sức ép của nền kinh tế thị trường và
lượng di dân từ các nơi khác đến, tính trọng nghĩa đã biến
đổi theo hướng không còn khinh tài mấy, người miền Nam
tuy vẫn nói thẳng nói thật (tính bộc trực), nhưng đã không
còn vụng ăn nói như sách vở vẫn hay nhận xét, ở trong các
chợ, cửa hàng ở Nam bộ cũng đã dần dần xuất hiện tình
trạng chặt chém (đặc biệt là với khách du lịch nội địa và
nước ngoài). Tuy nhiên, dù có mờ hóa và biến đổi, nhưng
những đặc trưng tính cách vừa nêu trên vẫn là những nét
tinh cách đặc thù, đại diện của người dân mảnh đất Nam bộ
này.
54
Lời cuối cùng, em xin được phép gửi lời cảm ơn đến Tiến
sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa trong quá trình học tập cũng như
hoàn thành bài tiểu luận của bộ môn Cơ sở văn hóa Việt
Nam.
Bài tiểu luận có thể còn có một số thiếu sót nhất định, vậy
nên em kính mong sự góp ý của thầy để hoàn thiện hơn
những sản phẩm của em trong tương lai!
55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Thêm, T. N. (n.d.). Văn hoá người Việt vùng Tây Nam
Bộ. NXB Văn hoá – Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.
[2] Nguyễn, K. Đ. (2019). Ghe xuồng trong ca dao của
vùng văn hóa sông nước Tây Nam Bộ – Tiếp cận từ góc
nhìn ngôn ngữ biểu tượng. Tạp chí khoa học Đại học Sài
Gòn.
[3] Trịnh, Đ. H. (1998). Gia Định thành thông chí (A. D.
Đào, Ed.; K. M. Đỗ & T. N. Nguyễn, Trans.). NXB Giáo
dục.
[4] Bùi, N. M. (2021). Một số đặc điểm ngôn ngữ ca dao -
dân ca Nam bộ. Khoa Ngữ Văn - Đại Học Sư Phạm TP.Hồ
Chí Minh.
[5] Tuấn Anh. (2016). Giáo Trình Văn Học Dân Gian.
NXB Giáo dục.
56