You are on page 1of 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

A.
KHOA SƯ PHẠM

BÀI TIỂU LUẬN

Học phần : Lí luận dạy học bộ môn Lịch sử ở trường phổ


thông
Đề tài: Nghiên cứu nghệ thuật văn hóa dân gian Việt
Nam

Họ và tên sinh viên : Nguyễn Minh Châu

Lớp : Sư Phạm Sử D2021

Học phần : Phương pháp nghiên cứu khoa học

Ngành học : Sư Phạm Sử

HÀ NỘI- 11/ 2022

1
B. A. MỞ ĐẦU

1) Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu nghệ thuật văn hóa dân gian Việt Nam là một trong những đề tài
hay và thú vị nhất trong văn hóa cổ truyền của dân tộc ta . Chính vì vậy em đã
lựa chọn đề tài này để phần nào đó mang những nét đẹp văn hóa cổ truyền tới
cô cũng như bản thân tìm hiểu sâu sắc thêm nghệ thuật mang nét đẹp dân tộc
này . Hiện nay văn hóa dân gian ở Việt Nam có truyền thống hình thành cũng
như phát triển từ rất lâu đời điều đó bắt nguồn từ xã hội nguyên thủy. Đến thời
kỳ phong kiến tự chủ, cùng với sự ra đời và phát triển của văn hóa bác học,
chuyên nghiệp, cung đình thì văn hóa dân gian vẫn tồn tại và giữ vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của văn hóa cũng như xã hội Việt Nam, đặc biệt là
với quần chúng lao động.
Từ xa xưa truyền thống lịch sử và xã hội Việt Nam đã quy định những nét đặc
trưng của văn hóa nước ta. Đó là văn hóa xóm làng trội hơn văn hóa đô thị, văn
hóa truyền miệng lấn át văn hóa chữ nghĩa, ứng xử duy tình nặng hơn duy lý,
chủ nghĩa yêu nước trở thành cái trục của hệ ý thức Việt Nam, nơi sản sinh và
tích hợp các giá trị văn hóa Việt Nam . Và đối với Lịch Sử văn học thì văn hóa
dân gian đóng vai trò rất quan trọng bởi nó thể hiện đời sống lao động của
nông dân , nhân dân con người Việt Nam .
Nhìn vào đó như thể khắc họa rõ nét hình ảnh đất nước Việt Nam , con người
Việt Nam một cách chân thực và giản dị nhất . Ông cha ta ngày xưa thường nói
về văn hóa dân gian như là nói là “cội nguồn của văn hóa dân tộc” , không chỉ
vậy văn hóa dân gian còn ví như bản sắc văn hóa dân tộc . Là một sinh viên
ngành Sư Phạm Sử bản thân em cần cố gắng học tập cũng như tìm hiểu để
mang hình ảnh văn hóa của dân tộc Việt Nam phát triển hơn nữa . Với mục tiêu
nghiên cứu hình ảnh của văn hóa dân tộc , chính vì vậy em đã lựa chọn đề tài “
Nghiên cứu nghệ thuật văn hóa dân gian của Việt Nam ’’.

2
2) Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích : Tìm hiểu và nghiên cứu nghệ thuật văn hóa dân gian của Việt Nam
bao gồm những phần nào ví dụ như : Nghệ thuật tạo hình dân gian (kiến trúc dân
gian, hội họa dân gian, trang trí dân gian) , nghệ thuật biểu diễn dân gian (âm
nhạc dân gian, múa dân gian, sân khấu dân gian, trò diễn
Và mục đích chính là nghiên cứu cũng như tìm hiểu rõ về nghệ thuật : Ca Trù ,
Quan Họ , Múa Rối Nước , ....
- Nhiệm vụ nghiên cứu :
Mang văn hóa Việt Nam lên một tầm cao mới , nêu rõ được sự quan trọng của
việc nghiên cứu các nghệ thuật văn hóa cổ truyền cũng như nêu được nổi bật các
nghệ thuật văn hóa cổ truyền hiện nay là gì .
Với đề tài trên bản thân em quyết định sẽ đi nghiên cứu rõ về nghệ thuật văn hóa
như : Ca Trù , Quan Họ, Múa Rối Nước , ....
3) Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : Liên quan tới nhiều ngành nghề văn học nghệ thuật
hay như trong chính đề tài đang nghiên cứu đó chính là : Văn hóa dân gian Việt
Nam , các bộ môn nghệ thuật liên quan tới Ca trù , Quan Họ , Múa rối nước ...
- Phạm vi nghiên cứu :
Bao gồm trong văn hóa nghệ thuật của Việt Nam gồm những bộ môn nào liên
quan tới , phạm vi nghiên cứu bao trùm thống kê , phân tích , lịch sử hình thành
hình ảnh và số liệu liên quan tới phạm vi nghiên cứu .
4) Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu về quá trình hình thành , lịch sử hình thành của nghệ thuật văn hóa
dân gian . Bởi đây là 1 sự kiện sống động khi mà nhà nghiên cứu đã đặt nó trong
hoàn cảnh lịch sử và sau cùng các nhà nghiên cứu mới biết được quá trình hình
thành của nó.
=>> Chính vì vậy phương pháp nghiên cứu văn hóa nghệ thuật dân gian thường
liên quan tới lịch sử của chúng , vị trí hình thành , số liệu cũng như hình ảnh

3
C. NỘI DUNG
I. Nghiên cứu nghệ thuật văn hóa dân gian Việt Nam
1) Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù
- Đầu tiên chính là nghệ thuật Ca Trù được xem như là di sản văn hóa lâu đời
của người dân Việt Nam . Nhắc tới nghệ thuật văn hóa dân gian của Việt Nam
không thể không kể tới đó chính là nghệ thuật Ca Trù . Sau đây chúng ta sẽ cùng
tìm hiểu xem loại hình âm nhạc này có gì đặc sắc tới vậy .
Như chúng ta đều biết Ca trù chính là một loại hình âm nhạc truyền thống của
miền Bắc nước ta. Chính vì vậy nó cũng mang trong mình những ý nghĩa đặc
biệt và sâu sắc .

+) Ca trù là gì : Theo như chúng ta biết Ca trù thực chất là một từ chữ Nôm là
loại hình diễn xướng bằng âm nhạc thính phòng rất được ưa chuộng tại bắc bộ
và bắc trung bộ Việt Nam. Ngoài ra hình thức âm nhạc này còn được gọi với cái
tên khác là hát cô dâu, hát nhà trò, rất được thịnh hành ở thế kỷ 15. Ca trù là một
loại hình âm nhạc kinh điển, đỉnh cao của việc kết hợp thơ ca và âm nhạc

4
+) Quá trình hình thành và phát triển của ca trù :
- Ca trù khởi nguồn từ lối hát Đào nương, một lối hát lấy giọng nữ làm trọng
và đã xuất hiện trong đời sống người Việt hơn hai thế kỷ trước Công nguyên:
Thời Tiền Lê, năm Thiên Phúc thứ 8 (987), Đại Hành Hoàng đế sai Khuông
Việt chế khúc để hát tiễn sứ thần phương Bắc Lý Giác về nước. Khác với lối
làm thơ, chế khúc là viết ca từ cho một ca điệu có sẵn, ca nương dựa vào điệu
mà “bẻ thành làn hát” đây chính là tiền thân của hát ca trù..
+) Danh xưng nghệ thuật trình diễn ca trù bao gồm những danh xưng sau :
- Hát ả đào là một danh xưng được lưu truyền từ đời vua Lý Thái Tổ bởi vì có
người ca nương tên là Đào Thị giỏi nghề ca hát và thường được nhà vua ban
thưởng. Từ đó cái tên Ả đào được coi là một trong những tên gọi cổ xưa nhất
của thể loại nghệ thuật âm nhạc ca trù.
- Tiếp theo là hát cửa đình được coi như là hình thức sinh hoạt ca trù được
phục vụ cho nghi thức tế lễ thần thánh ở các đình hoặc các đền làng.
- Tiếp là hát ca trù
Thời xưa người ta có lệ hát thẻ , ở đây thẻ được gọi là Trù và được làm bằng
mảnh tre ghi mức tiền ứng với giá trị mỗi thẻ thường dùng nó để thưởng cho ả
đào thay vì việc cho tiền mặt . Chính vì vậy hát ả đào còn được gọi là ca trù
tức là hát thẻ.
- Quan viên, cầm chầu
Khái niệm quan viên trong ca trù dùng để gọi những người tham gia nghe hát.
Trong một cuộc hát ca trù, quan viên cũng có thể tham gia cầm chầu. Họ có
thể vừa là công chúng thưởng thức và cũng có thể là thành viên của ban nhạc.
Ngoài danh xưng các chủ thể văn hóa trong ca trù, để tạo nên giá trị nghệ
thuật âm nhạc trong ca trù, cần có sự hòa quyện của nghệ thuật diễn xướng,
các nhạc cụ và lời ca tiếng hát của đào nương, trong đó, cỗ phách, đàn đáy,
trống chầu là linh hồn của nghệ thuật ca trù.

5
+) Các vùng ca trù trên cả nước
Theo thống kê hiện nay trên cả nước có 15 tỉnh và thành phố có hoạt động
của các câu lạc bộ và giáo phường ca trù. Bởi đại đa số nằm ở các tỉnh thành
từ Bắc Bộ cho tới Hà Tĩnh , Quảng Bình và cuối cùng là Thành phố Hồ Chí
Minh.
+) Vẻ đẹp của nghệ thuật ca trù
Ca trù được xem như là vẻ đẹp của âm thanh đã chuốt thành những chuỗi
ngọc lung linh mà người hát trao cho người nghe và từ đó cũng đồng thời
những người làm ra các bài thơ đó lại là người phẩm bình không chỉ vậy còn
chấm điểm tiếng hát và tiếng phách ấy

Khác với nghệ thuật chèo hay hát văn, đi thưởng thức ca trù gọi là đi “nghe
hát”, chứ không phải là đi “xem hát”. Người hát ca trù không có múa và diễn
với các trang phục nhiều màu vẻ như chèo hay hát văn. Đào nương ca trù chỉ
ngồi yên gần như bất động trong suốt cuộc hát trên một mảnh chiếu cạp
điều, với vẻ mặt bình thản, đoan trang. Đào nương chỉ có một cỗ phách tre
đặt trước mặt và “đối thoại” với khách nghe chỉ bằng giọng hát và tiếng
phách của mình
2) Quan họ:

6
là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng châu thổ sông
Hồng ở miền Bắc Việt Nam. Quan họ được hình thành và phát triển ở
vùng văn hóa Kinh Bắc xưa, đặc biệt là khu vực ranh giới hai tỉnh Bắc
Giang và Bắc Ninh ngày nay với dòng sông Cầu chảy qua được gọi là
"dòng sông quan họ".
+) Nguồn gốc:
- Ý nghĩa của từ “Quan họ” thường được tách thành hai từ rồi lý giải
nghĩa đen về mặt từ nguyên của “quan” và của ‘họ”.
- Điều này dẫn đến những kiến giải về “Quan họ” xuất phát từ “âm nhạc
cung đình”, hay gắn với sự tích một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc
đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó và đã dừng bước để
thưởng thức .
+) Quan họ truyền:
- Quan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 67 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc
Quan họ truyền thống là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa dân gian của
người dân Kinh Bắc, với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi
liền anh, liền chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ.
=>> Điều này giải thích lý do người dân Kinh Bắc thích thú “chơi Quan
họ”, không phải là “hát Quan họ” Quan họ truyền thống không có nhạc

7
đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu
nhị kỳ ở các làng quê.
+) “Chơi quan họ” truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng
thời là người thưởng thức . Nhiều bài quan họ truyền thống vẫn được các
liền anh, liền chị “chơi quan họ” ưa thích đến tận ngày nay như:
+) Vốn liếng em có 30 đồng, Mời nước mời trầu, Ngồi tựa song đào, Cây
trúc xinh, Người ở đừng về, Xe chỉ luồn kim,...
+) Quan họ mới:
- Còn được gọi là “hát Quan họ lời mới”, là hình thức biểu diễn quan họ
chủ yếu trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết đầu xuân,
lễ hội, hoạt động du lịch, nhà hàng,... Thực tế, quan họ mới được trình
diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm. Quan họ mới không còn nằm ở
không gian làng xã mà đã vươn ra ở nhiều nơi, đến với nhiều thính giả ở
các quốc gia trên thế giới.
- Quan họ mới có hình thức biểu diễn phong phú hơn quan họ truyền
thống, bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa... Loại cải
biên này không nhiều, ví dụ bài “Người ở đừng về” là cải biên từ làn điệu
“Chuông vàng gác cửa tam quan” .
- Hát quan họ với lời mới được nhiều người yêu thích tới mức tưởng
nhầm là quan họ truyền thống như bài “Sông Cầu nước chảy lơ thơ” do
Mai Khanh soạn lời mới từ làn điệu truyền thống “Nhất quế nhị lan”.
+) Các làng quan học:
- Năm 2016, có 67 làng quan họ được đưa vào danh sách bảo tồn và phát
triển di sản văn hóa. Tỉnh Bắc Giang có 23 làng quan họ, tỉnh Bắc Ninh
có 44 làng quan họ. Điều đặc biệt là phần lớn các làng quan họ thờ thánh
Tam Giang, vị thánh gắn với dòng sông Cầu .

+) Làn điệu:

8
- Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho
tàng dân ca Việt Nam. Mỗi một bài quan họ đều có giai điệu riêng. Cho
đến nay, đã có ít nhất 300 bài quan họ đã được ký âm
- Một số làn điệu quan họ cổ: La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo,
Giã bạn, Hừ la, La hời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Cái hờn,
Gió mát trăng thanh, Tứ quý.
+) Trang phục
- Thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài.
Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen, chất liệu là lương, the hoặc đối
với người khá giả hơn thì áo ngoài may bằng đoạn màu đen, cũng có
người áo dài phủ ngoài may hai lần với một lần ngoài bằng lương hoặc
the, đoạn, lần trong bằng lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ non, màu
vàng chanh , gọi là áo kép.
- Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài
tới mắt cá chân, chất liệu may quần cũng bằng diềm bâu, phin, trúc bâu,
hoặc lụa truội màu mỡ gà. Có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. Khăn
tay bằng lụa hoặc bằng vải trắng rộng, gấp nếp và gài trong vành khăn,
thắt lưng hoặc trong túi trong.
- Trang phục liền chị thường được gọi là “áo mớ ba mớ bảy”, nghĩa là liền
chị có thể mặc ba áo dài lồng vào nhau hoặc bảy áo dài lồng vào nhau.
+) Áo dài năm thân của nữ, có cài khuy, khác với kiểu tứ thân thắt
hai vạt trước. Áo cánh mặc trong có thể thay bằng vải phin trắng,
lụa mỡ gà. Yếm thường nhuộm màu đỏ, vàng thư, xanh da trời,
hồng nhạt ,hồ thủy . Giải yếm to buông ngoài lưng áo và giải yếm
thắt vòng quanh eo rồi thắt múi phía trước cùng với bao và thắt
lưng.
+) Bao của các cô gái quan họ xưa thường sử dụng chất liệu sồi se,
màu đen,có tua bện ở hai đầu bao, khổ rộng, có thể đựng túi tiền
mỏng ở trong bao rồi thắt gọn ngang eo, luồn qua lưng áo dài, bó

9
chặt lấy ba thân áo trước, thắt múi to để che phía trước bụng. Thắt
lưng thường là loại bao nhỏ bằng chừng 1/3 bao, dùng để thắt chặt
cạp váy vào eo.
+) Văn hoá quan họ:
- Văn hoá quan họ còn là cách ứng xử thật khéo léo, tế nhị, kín đáo và
mang đầy ý nghĩa như các làn điệu mời nước, mời trầu thật chân tình,
nồng thắm mỗi khi có khách đến chơi nhà "đôi tay nâng chén rượu đào,
đổ đi thì tiếc, uống vào thì say".
- Quan họ là "ứng xử" của người dân Kinh Bắc, "mỗi khi khách đến chơi
nhà", không chỉ "rót nước pha trà" mời khách, mà cùng với đó là những
câu hát thắm đượm nghĩa tình: "Mỗi khi khách đến chơi nhà/ đốt than
quạt nước pha trà mời người xơi/ trà này quý lắm người ơi/ Mỗi người
một chén cho tôi vui lòng"...
+) Bảo tồn “Dân ca quan họ”
- Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
76 chữ khắc đã được vinh danh từ 111 đề cử từ 34 quốc gia của Ủy ban
liên chính phủ của UNESCO về Bảo vệ Di sản phi vật thể kỳ họp thứ 4
trong United Arab Emirates từ 28 Tháng Chín - 2 tháng 10.

+) Múa rối nước

- được xem là một thể loại của loại hình sân khấu Việt Nam. Được sinh ra từ
nền văn hóa nông nghiệp lúa nước của nông dân vùng châu thổ sông Hồng,
nó mang đậm tính văn hóa phương Đông và Đông Nam Á. Đó là thể loại sân
khấu vận động theo hình thức dân gian với đầy đủ đặc trưng của văn hóa dân
gian trong mùa vụ, hội hè, đình đám ở nông thôn.

10

You might also like