You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐHQGHN

BỘ MÔN NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM


----------------------------

BÀI TẬP THỰC TẾ


MÔN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
Học kì 1 năm học 2021 - 2022
Đề tài: Tìm hiểu về di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh xưa và nay

Danh sách nhóm


STT Mã sinh viên Họ và Tên STT theo ca Ghi chú
1 21040094 Đoàn Ngọc Anh 21
2 21040237 Hoàng Ngọc Anh 29
3 21040218 Lê Thị Phương Anh 46 0387 821 810
4 21040134 Nguyễn Hoàng Anh 59
5 21040624 Bùi Thị Minh Ánh 124
6 21040080 Trần Kim Chi 176
7 21040442 Nguyễn Thu Giang 260
8 21040609 Nguyễn Thị Hồng Hạnh 307
9 21040437 Nguyễn Thanh Hiền 329
10 21040014 Phạm Ánh Hồng 363

Hà Nội, tháng 12 năm 2021

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................3

1
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................3
2. Mục đích nghiên cứu..............................................................................................4
3. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................4
4. Phạm vi nghiên cứu................................................................................................4
NỘI DUNG................................................................................................................... 4
I. Khái quát về dân ca Quan họ Bắc Ninh..............................................................4
1. Nguồn gốc...........................................................................................................4
2. Phân loại.............................................................................................................7
II. Nghệ thuật trình diễn dân ca Quan họ Bắc Ninh..............................................9
1. Nghệ sĩ biểu diễn.................................................................................................9
2. Nội dung biểu diễn............................................................................................10
3. Trang phục biểu diễn.........................................................................................13
4. Làn điệu và nhạc cụ dân ca Quan họ.................................................................17
III. Quan họ Bắc Ninh xưa và nay........................................................................18
1. Nghệ sĩ biểu diễn...............................................................................................18
2. Tổ chức hoạt động Quan họ..............................................................................19
3. Phương thức hoạt động.....................................................................................19
4. Diễn xướng.......................................................................................................19
IV. Những phương pháp bảo tồn và phát triển....................................................20
1. Vấn đề đặt ra.....................................................................................................20
2. Giải pháp...........................................................................................................21
KẾT LUẬN................................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................22

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

2
Ông cha ta từ thuở xa xưa đã xây dựng một Việt Nam nghìn năm văn hiến với
vô vàn những nét đẹp trong văn hóa và lịch sử. Phủi đi lớp bụi thời gian là lấp lánh
trong đó những làn điệu quan họ kỳ diệu: “lời thì giao duyên, tình thì anh em”, khát
vọng yêu thương, vượt lên thiên tai, dịch họa, vượt lên gian khó, “thương người như
thể thương thân”, “tứ hải giao tình” (bốn biển một nhà). Trong dòng văn hoá và
nghệ thuật âm nhạc dân gian chảy từ ngàn xưa, giữa sự đa dạng và đa diện của các
dòng dân ca: chèo của Thái Bình, Nam Định, chèo tàu của Hà Tây, hát dặm Nghệ
An, Hà Tĩnh, ca trù, ca Huế... dân ca Quan họ Bắc Ninh vẫn lấp lánh một dòng dân
ca riêng biệt, đặc sắc và độc đáo. Quan họ Bắc Ninh vừa như một làn điệu hội tụ
“khí chất” của rất nhiều làn điệu dân ca: cái trong sáng, rộn ràng của chèo; cái thổn
thức, mặn mà của hát dặm; cái khoan nhịp sâu lắng của ca trù; cái khoẻ khoắn, hồn
nhiên của dân ca Nam Bộ. Nhưng trên hết, quan họ mang “khí chất” của chính quan
họ, là hồn của xứ sở quan họ, là “đặc sản” tinh thần của Kinh Bắc – Bắc Ninh hai
bên bờ sông Cầu. Quan họ Bắc Ninh mang trong câu hát nhiều phong tục, tập quán,
tín ngưỡng đặc sắc nên đã trở thành một “đặc sản văn hóa” luôn thu hút, gây ấn
tượng mạnh và đã được UNESCO công nhận là một trong những Di sản văn hóa phi
vật thể của Việt Nam.
Tuy nhiên nhìn vào thực tế hiện nay, âm nhạc dân tộc nói chung và dân ca
Quan họ nói riêng đang phần nào bị giới trẻ lãng quên và chạy theo những dòng
nhạc hiện đại. Điều này làm mai một đi không chỉ là câu hát Quan họ trữ tình mà
còn cuốn trôi đi văn hóa Quan họ và nét đẹp trong văn hóa tâm hồn người Việt. Để
bảo tồn và giữ gìn những tinh hoa, bản sắc độc đáo, đậm đà trong nền văn hóa Quan
họ thì mỗi người trước hết phải nâng cao hiểu biết, đồng thời có ý thức giữ gìn và
phát triển di sản văn hóa dân tộc. Chính vì những điều trên mà nhóm chúng em
quyết định tìm hiểu sâu hơn về Dân ca Quan họ Bắc Ninh để thấy rõ được cái mặn
mà đằm thắm trong câu hát quan họ mà người dân Bắc Ninh đã gửi gắm nghĩa tình
bao năm và lan tỏa niềm tự hào về một di sản văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc
Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu

3
Tìm hiểu những nét đẹp lâu đời, quá trình bảo tồn và phát triển đến ngày nay
của dân ca Quan họ Bắc Ninh. Từ đó đề xuất quan điểm đối với việc bảo tồn và
phát triển dân ca Quan họ Bắc Ninh.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp nghiên cứu phân tích
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về Dân ca Quan họ Bắc Ninh trong đó tập trung tìm hiểu về
nguồn gốc xuất xứ, nghệ thuật biểu diễn và so sánh để thấy sự phát triển của nền
văn hóa dân ca Quan họ Bắc Ninh thời xưa đến ngày nay.

NỘI DUNG
I. Khái quát về dân ca Quan họ Bắc Ninh
1. Nguồn gốc
Kinh Bắc nơi khơi nguồn văn hóa Quan họ.
Kinh Bắc là một trong những vùng văn hóa lâu đời và phát triển nhất của
người Việt ở vùng đất phía Bắc Thăng Long, sông Hồng (chủ yếu là đất Bắc Ninh,
Bắc Giang ngày nay). Đây là một trong những trung tâm của nền văn minh Việt cổ.
Địa danh Kinh Bắc đã được nói đến từ lâu với cái tên: Bắc Giang Lộ hay Kinh Bắc
Lộ, Bắc Giang thừa tuyên hay Kinh Bắc thừa tuyên, Kinh Bắc trấn và cái tên Bắc
Ninh (ước muốn yên bình cho một vùng đất quan trọng phía Bắc Tổ quốc nằm xa
kinh thành Huế) do vua Minh Mạng đổi tên năm 1822. Vùng đất có độ tuổi hàng
nghìn năm này là nơi giao lưu của các luồng văn hóa lớn được du nhập từ Trung
Hoa, Ấn Độ... Vì lẽ đó, văn hóa Kinh Bắc mang nhiều nét “cung đình”, là một vùng
văn hóa bị đứt gãy về mặt thời gian nên các yếu tố văn hóa dân gian lưu lại đến
ngày nay ít nhiều đều được thừa hưởng nét văn hóa truyền thống. Đây chính là sự
minh chứng hùng hồn cho sự phong phú đa dạng và tiêu biểu hơn bất cứ địa phương
nào trên mảnh đất Việt ngàn năm văn hiến. “Bắc Ninh là cái nôi phát sinh của người
Việt và văn hóa Việt”. Kinh Bắc còn là nơi khơi nguồn văn hóa Quan họ. Nói đến

4
Quan họ là nói đến nền văn hoá tổng thể hợp thành từ nhiều yếu tố văn hóa hóa
nghệ thuật dân gian trong một quá trình lịch sử lâu dài, có nhiều tầng, nhiều lớp
trong một chỉnh thể văn hóa; gắn bó với văn hóa, văn minh làng xã, thu hút và biểu
hiện những ước mơ; tập hợp và hành động chung cho những nguyện vọng, những
khao khát của con người xứ Bắc từ nhiều đời đối với quyền sống, quyền hưởng
hạnh phúc của con người trên bình diện văn hóa – xã hội. Nền văn hóa Quan họ là
do các lối chơi quan họ của cộng đồng xây dựng nên, luôn luôn được cộng đồng
sàng lọc trong dòng chảy lịch sử. Việc khôi phục và bảo tồn những tinh hoa nhất,
bản sắc độc đáo, đậm đà nhất trong nền văn hóa quan họ là phải khôi phục và bảo
tồn kho tàng bài bản của quan họ, cách hát và kỹ thuật hát quan họ (quan họ cổ) và
cuối cùng là lối chơi quan họ làng Viêm Xá (làng Diềm), huyện Yên Phong có đền
thờ vua Bà. Truyền rằng, Vua Bà chính là người đã sáng tác ra các làn điệu dân ca
quan họ đầy tình tứ và quyến rũ. Nét đặc trưng, độc đáo nhất của làng Diềm chính
là “nghề chơi” quan họ với nghệ thuật và phong cách hát quan họ vừa cổ xưa, vừa
độc đáo, vừa phong phú, điêu luyện. Trong số 49 làng Quan họ, làng Diềm còn duy
trì được đội quan họ đông tới hàng trăm người, đủ các thế hệ liền anh liền chị. Từng
bọn Quan họ, mỗi nhóm liền anh, liền chị khi gặp gỡ có thể cất giọng hát tùy theo
nhu cầu, tâm trạng cảm xúc. Việc truyền dạy hát quan họ được quan tâm ngay trong
gia đình, không phụ thuộc, hay chờ đợi việc tổ chức lớp học. Chính “cái nôi” văn
hóa này là nơi sản sinh ra văn hóa Quan họ với những làn điệu dân ca quan họ trữ
tình, đằm thắm; hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa mang tính chất dân gian, nhưng
lại nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi người chơi am tường tiêu chuẩn, tuân theo lề luật.
Văn hóa Quan họ là một di sản văn hóa quý giá không của riêng vùng Kinh Bắc
biểu hiện những quan niệm đẹp đẽ, trong sáng, chất phác của người dân lao động
sống trên mảnh đất Kinh Bắc xưa và nay. Tất cả hợp lại mảnh đất tốt để dân ca quan
họ, hay nói rộng hơn là những sinh hoạt văn hóa Quan họ ra đời và phát triển.
Cho đến nay, tuy có nhiều công trình nghiên cứu kỹ lưỡng về Quan họ nhưng
chúng ta vẫn chưa xác định được nguồn gốc của nó. Tuy về nguồn gốc chưa được
xác định rõ ràng, nhưng làng Viêm Xá được nhắc tới nhiều nhất trong các truyền
thuyết. Hiện nay Viêm Xá có 4 hội làng trong một năm – điều mà cả 49 làng Quan
họ ở vùng Kinh Bắc không nơi nào có được – đặc biệt ngày nay Hội Vua Bà là lễ

5
hội dài ngày nhất và thu hút đông đảo người hát Quan họ nhất, nên Viêm Xá được
dân Kinh Bắc xem như là làng Quan họ gốc và thủy tổ của các làn điệu dân ca ấy là
Vua Bà (hiện đang được nhân dân thờ phụng tại đền thờ trên làng Viêm Xá).

Ảnh 1: Làng Diềm - nơi còn lưu giữ nhiều yếu tố truyền thống văn hóa vùng Kinh
Bắc.
(Nguồn: https://mytour.vn/location/4858-lang-diem-que-huong-thuy-to-quan-
ho.html), truy cập ngày 29.11.2021

Ảnh 2: Đền Vua Bà trong ngày lễ hội làng Diềm.


(Nguồn: https://www.phaphoc.com/le-hoi-lang-diem), 0truy cập ngày 29.11.2021

6
2. Phân loại
Từ xa xưa dân ca quan họ đã là món ăn tinh thần, một nét sinh hoạt văn hóa
đẹp của người dân Kinh Bắc. Đây là những làn điệu dân ca đặc sắc của vùng đồng
bằng Bắc Bộ - thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân
ca Việt Nam. Mỗi một bài quan họ đều có giai điệu riêng. Có ít nhất 300 bài (giai
điệu) quan họ đã được ký âm (ghi âm bằng ký hiệu âm nhạc trên giấy), gồm những
đoạn thơ, bài thơ chủ yếu là thể lục bát do các nghệ nhân quan họ truyền thống bàn
giao cho các nhà sưu tầm lưu giữ cho đến hôm nay. Dân ca quan họ mang nhiều nét
độc đáo, được chia thành những loại sau:
2.1. Quan họ truyền thống
Quan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 49 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc Quan
họ truyền thống là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa dân gian của người dân Kinh
Bắc, với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi liền anh, liền chị phải am
tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ. Điều này giải thích lý do người dân Kinh Bắc
thích thú “chơi Quan họ”, không phải là “hát Quan họ” Quan họ truyền thống không
có nhạc đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị
kỳ ở các làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị
được gọi là hát hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm
liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ.

Ảnh 3: NSƯT Thu Huyền hát Quan họ “Cò lả”.


(Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=MS_HaP2-J4U), truy cập ngày
29.11.2021

7
“Chơi quan họ” truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời là
người thưởng thức (thưởng thức “cái tình” của bạn hát). Nhiều bài quan họ truyền
thống vẫn được các liền anh, liền chị “chơi quan họ” ưa thích đến tận ngày nay như:
Hừ La, La rằng, Cò lả, Tình tang, Bạn kim lan, Cái ả, Cây gạo…
2.2. Quan họ mới
Quan họ mới còn được gọi là “hát Quan họ”, là hình thức biểu diễn (hát) quan
họ chủ yếu trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết đầu xuân, lễ hội,
hoạt động du lịch, nhà hàng… Thực tế, quan họ mới được trình diễn vào bất kỳ
ngày nào trong năm. Các băng đĩa CD, DVD về quan họ ngày nay đều là hình thức
quan họ biểu diễn trên sân khấu, tức quan họ mới. Quan họ mới luôn có khán thính
giả, người hát trao đổi tình cảm với khán thính giả không còn là tình cảm giữa bạn
hát với nhau. Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra ở
nhiều nơi, đến với nhiều thính giả ở các quốc gia trên trên thế giới.
Quan họ mới có hình thức biểu diễn phong phú hơn quan họ truyền thống,
bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa… Quan họ mới cải biên
các bài bản truyền thống theo hai cách: không có ý thức và có ý thức. Dù ít hay
nhiều nhưng hình thức hát quan họ có nhạc đệm được coi là cách cải biên không có
ý thức. Đa số các bài quan họ mới thuộc dạng cải biên này. Cải biên có ý thức là
những bài bản đã cải biên cả nhạc và lời của bài bản quan họ truyền thống. Loại cải
biên này không nhiều, ví dụ bài “Người ở đừng về” là cải biên từ làn điệu “Chuông
vàng gác cửa tam quan” (Xuân Tứ cải biên).
Hát quan họ với lời mới được nhiều người yêu thích tới mức tưởng nhầm là
quan họ truyền thống như bài “Sông Cầu nước chảy lơ thơ” do Mai Khanh soạn lời
mới từ làn điệu truyền thống “Nhất quế nhị lan”. Quan họ mới được ưa thích hơn
quan họ truyền thống không phải do không gian và những sinh hoạt theo lề lối cổ
của quan họ không còn nữa mà một phần do hoạt động “hát Quan họ” ngày nay
thường được gắn với chính quyền nhiệm vụ tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá quan
họ trên diện rộng.
II. Nghệ thuật trình diễn dân ca Quan họ Bắc Ninh
1. Nghệ sĩ biểu diễn

8
Nghệ sĩ biểu diễn Quan họ được gọi là các “liền anh”, “liền chị”. Liền anh là
bên nam, người nam giới hát Quan họ và liền chị là bên nữ, người phụ nữ hát Quan
họ.
Liền anh, liền chị còn được gọi là anh Hai, chị Hai hay anh Ba, chị Ba. Liền
anh, liền chị, liền em tương ứng với đàn anh, đàn chị, đàn em theo công dụng 2 của
hình vị đàn (chỉ thứ bậc). Sự khác nhau chỉ là ở chỗ ba danh ngữ trước còn dùng để
tự xưng (trong sinh hoạt Quan họ) mà ba danh ngữ sau thì không. Trong Nam bộ,
người con trưởng trong gia đình được gọi là anh hai, chị hai mà không gọi là anh cả,
chị cả như theo cách nói của người gốc miền Bắc. Đối với những người trong họ
khi hát thì giới thiệu họ là anh Hai, chị Hai hay anh Ba, chị Ba. Cách gọi này có
trước khi gọi "hát Đúm, hát hội" là ca “Quan họ”. Chính vì vậy, cho đến nay chỉ có
vùng Kinh Bắc ở Miền bắc Việt Nam gọi những người ca dân ca Quan họ.

Ảnh 4: Liền anh, liền chị hát trên thuyền rồng


(Nguồn: https://biendao24h.vn/ve-dep-cua-cac-lien-anh-lien-chi-trong-dan-ca-
quan-ho/), truy cập ngày 29.11.2021
Điểm chung của các liền anh, liền chị thời nay là họ rất thích “hát Quan họ”,
không như thời xưa liền anh, liền chị không dám như vậy mà chỉ dám “ca Quan họ”
hoặc “chơi Quan họ”. Liền anh, liền chị ngày nay rất thích hát có nhạc đệm trên sân
khấu. Họ rất thích mặc quần trắng giống quan tùy tùng của vua chúa ngày xưa
(Hoạn quan) và liền chị rất thích mặc và dùng vật dụng có màu vàng của vua chúa
ngày xưa. Ngày xưa liền anh, liền chị chỉ ca hoặc chơi Quan họ dưới thuyền khi
nhàn rỗi, thuyền là thuyền chiến, thuyền chở hàng loại nhỏ đi trong sông, vùng

9
nước cạn, nhiều lau sậy… Nhưng ngày nay, liền anh liền chị rất thích hát dưới
“thuyền rồng” như của vua chúa.
2. Nội dung biểu diễn
Xứ Bắc xưa có mật độ các làng kết chạ lớn mạnh vào bậc nhất của vùng đồng
bằng châu thổ Bắc bộ. Trong một làng quan họ gốc thường có nhiều bọn quan họ:
có bọn quan họ nam và bọn quan họ nữ. Các bọn Quan họ kết bạn với nhau theo
nguyên tắc “Âm - Dương tương cấu” hát giao duyên. Những người hát Quan họ
thường được gọi là liền anh, liền chị. Thông thường, trong buổi diễn các cặp nam và
cặp nữ giữa hai làng sẽ cùng nhau giao lưu, ca đối đáp. Các cặp nam, cặp nữ từ hai
làng lần lượt cất tiếng ca, bài hát cùng giai điệu nhưng ca từ khác nhau, uyển
chuyển qua lại.

Ảnh 5: Liền anh liền chị hát giao duyên (2018).


(Nguồn: https://biendao24h.vn/ve-dep-cua-cac-lien-anh-lien-chi-trong-dan-ca-
quan-ho), truy cập ngày 29.11.2021
Dân ca Quan họ là một hình thức hát giao duyên, hát đối đáp. Những liền anh
trong trang phục truyền thống khăn xếp, áo the và những liền chị duyên dáng trong
bộ áo mớ ba, mớ bảy, đầu đội nón thúng quai thao, cùng nhau hát đối những câu ca
mộc mạc, đằm thắm, cách ca theo lối truyền thống không cần nhạc đệm mà vẫn đầy
chất nhạc, thể hiện nét văn hóa tinh tế của người Quan họ. Mỗi bên đều phân công
rõ người hát dẫn, người hát luồn một cách phù hợp, giọng hát hai người họp lại
thành một giọng. Những lời ca tinh tế, câu từ là lời thơ, là những câu ca dao với từ

10
ngữ trong sáng, cuốn hút. Mỗi câu ca là tiếng nói của tình yêu đôi lứa với sự luyến
láy nhịp nhàng thay cho tiếng nhạc đệm. Mở đầu canh hát bao giờ cũng phải ca
những bài giọng lề lối như: La rằng, Đường bạn, Tình tang, Cây gạo… sau đó mới
hát đến các bài thuộc giọng vặt. Cuối cùng là những bài thuộc giọng giã bạn. Qua
những tiêu chuẩn khắt khe, các “bọn Quan họ” có cơ sở để đánh giá hơn kém; đồng
thời cũng tạo nên những kích thích giúp các liền anh, liền chị sáng tạo ra những bài
độc trong hát đối đáp. Những bài ca mới hình thành phải đảm bảo hội tụ đủ các tố
chất âm hưởng riêng của âm nhạc Quan họ. Do đó, trong mỗi bọn Quan họ thường
có một người chuyên sáng tác ra những bài đối, giọng mới. Họ chính là những
“nhạc sĩ dân gian” - tác giả của hàng trăm làn điệu quan họ được truyền khẩu từ đời
này qua đời khác cho tới ngày nay.
Kết cấu của mỗi điệu hát lại được hình thành từ những lễ kết nghĩa. Lễ kết
nghĩa được bắt đầu bằng những lời thăm hỏi tận tình hoặc những lời thề thốt. Sau
đó, họ lại có buổi gặp nhau ở bên nam. Tại đây, các liền anh, liền chị có thể hát thâu
đêm suốt sáng để thổ lộ với nhau về tình cảm.

Ảnh 6: Hát canh Quan họ Bắc Ninh.


(Nguồn: https://www.vntrip.vn/cam-nang/dan-ca-quan-ho-bac-ninh-5443), truy cập
ngày 29.11.2021
Căn cứ vào sự đồng nhất về cữ giọng, âm sắc, họ xếp thành từng cặp: anh Cả – chị
Cả, anh Hai – chị Hai, anh Ba – chị Ba, anh Tư – chị Tư… Lời ca trong Quan họ
chủ yếu nói về tình yêu nam nữ, sự gắn bó thủy chung. Nhưng trên thực tế họ không
hề nghĩ đến chuyện yêu nhau mà chỉ quan hệ trên cơ sở bình đẳng tôn trọng lẫn
11
nhau. Họ gọi nhau bằng anh, chị và xưng em hoặc tôi. Thời gian kết nghĩa của
người Quan họ có thể từ đời này sang đời khác hay có khi chỉ một vài năm. Địa
điểm ca hát thường là ở sân nhà, trước cửa đình, cửa chùa, dưới gốc đa, bên sườn
đồi, trên thuyền, bến nước…
Cái đẹp nhất của văn hóa Quan họ chính là ở sự tinh tế, ý nhị trong cách ứng
xử, trong tâm tư gửi gắm ở mỗi câu ca. Dù là nam hay là nữ, khi cất lời, người Quan
họ luôn nhún nhường bằng những câu thưa gửi như: 
Thưa chị hai, chị ba, biết thì ca trước để anh em chúng em cất bước theo sau. 
Từ lời chào đón khi khách đến chơi nhà cũng đầy ý nhị, tận tình: 
Đốt than quạt nước pha trà mời người xơi
Trà này quý lắm người ơi
Mỗi người xơi mỗi chén cho em vừa lòng.
hay là:
 Giầu này trong tráp mở ra/ Giấu cha giấu mẹ đem ra mời chàng.
Dù là chỉ một khoảnh khắc nhỏ như gặp mặt cũng được người dân xứ Kinh Bắc gửi
gắm những hình ảnh đẹp đẽ: 
Hôm nay sum họp trúc mai/ Tình chung một khắc nghĩa dài trăm năm. 
Nói về cái nghĩa cái tình thì người quan họ lại bảo:
Nghĩa người em để trong cơi/ Nắp vàng đậy lại để nơi giường nằm. 
Cho đến khi phải “giã bạn”, những câu ca Quan họ cất lên như níu chân kẻ ở người
đi:
Người về em vẫn khóc thầm/ Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa. 
Sự sâu sắc, ý nhị trong lời ca, trong sinh hoạt văn hóa quan họ, tinh tế mà vẫn gần
gũi, tình cảm chứ không đài các, cách xa.
3. Trang phục biểu diễn
Trang phục Quan họ Bắc Ninh gồm có trang phục Quan họ của liền anh và
liền chị. Điều ấn tượng với du khách khi về quê hương Bắc Ninh không chỉ là lời ca
Quan họ mượt mà, nghĩa tình mà còn là nét duyên dáng của những liền anh, liền chị
trong trang phục Quan họ. Ngay cả trong các lễ hội Quan họ cũng có những cuộc
thi trang phục Quan họ. Trang phục Quan họ như nốt trầm tạo nên nét đằm thắm,
dịu dàng của liền chị, sự thanh lịch, sang trọng của liền anh.

12
3.1. Trang phục liền anh
Liền anh mặc áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá đầu
gối. Thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài. Riêng áo
dài bên ngoài thường màu đen, chất liệu là lương, the, hoặc đối với người khá giả
hơn thì áo ngoài may bằng đoạn màu đen, cũng có người áo dài phủ ngoài may hai
lần với một lần ngoài bằng lương hoặc the, đoạn, lần trong bằng lụa mỏng màu
xanh cốm, xanh lá mạ non, màu vàng chanh… gọi là áo kép. Quần của liền anh là
quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài tới mắt cá chân, chất liệu may
quần cũng bằng diềm bâu, phin, trúc bâu, hoặc lụa truội màu mỡ gà. Có thắt lưng
nhỏ để thắt chặt cạp quần.

Ảnh 7: Liền anh CLB Quan họ Hoài Thị, Liên Bão trong trang phục Quan họ.
(Nguồn: http://www.baobacninh.com.vn/chi-tiet-y-te/-/details/20182/net-duyen-
quan-ho), truy cập ngày 11.11.2021
Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Thời trước, đàn ông còn nhiều
người búi tó nên phải vấn tóc bằng khăn nhiễu. Sau này phần nhiều cắt tóc, rẽ
đường ngôi nên chuyển sang dùng loại khăn xếp bán sẵn ở các cửa hàng cho tiện.
Cùng với quần áo, khăn xếp, dép… các liền anh thường có thêm nón chóp với các

13
dạng chóp lá thường hoặc chóp dứa, có quai lụa màu mỡ gà. Ngoài ra cũng thường
thấy các liền anh dùng ô đen. Các phụ kiện khác là khăn tay, lược, những "xa xỉ
phẩm" theo quan niệm thời xưa. Khăn tay bằng lụa hoặc bằng vải trắng rộng, gấp
nếp và gài trong vành khăn, thắt lưng hoặc trong túi trong. Chân đi dép đen theo
kiểu dép Gia Định, nhiều người đi guốc. Vào đầu giữa thế kỷ XX, người ta cũng đi
giày vải, giày da, kiểu du nhập từ nước ngoài vào.
3.2. Trang phục liền chị
Trang phục liền chị thường được gọi là "áo mớ ba mớ bảy", nghĩa là liền chị
có thể mặc ba áo dài lồng vào nhau (mớ ba) hoặc bảy áo dài lồng vào nhau (mớ
bảy). Tuy nhiên trong thực tế, các liền chị thường mặc áo mớ ba. Về cơ bản trang
phục bao gồm các thành phần: trong cùng là một chiếc yếm có màu rực rỡ thường
làm bằng lụa truội nhuộm. Yếm thường có hai loại là yếm cổ xẻ (dùng cho trung
niên) và yếm cổ viền (dùng cho thanh nữ). Bên ngoài yếm là một chiếc áo cánh màu
trắng, vàng, ngà. Ngoài cùng là những lượt áo dài năm thân, cách phối màu cũng
tương tự như ở bộ trang phục nam nhưng màu sắc tươi hơn. Áo dài năm thân của
nữ, có cài khuy, khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt trước. Chất liệu để may áo đẹp
nhất thời trước là the, lụa.
Yếm thường nhuộm màu đỏ (xưa gọi là yếm thắm), vàng thư (hoa hiên), xanh
da trời (thiên thanh), hồng nhạt (cánh sen), hồ thủy (xanh biển)… Giải yếm to
buông ngoài lưng áo và giải yếm thắt vòng quanh eo rồi thắt múi phía trước cùng
với bao và thắt lưng. Bao của các cô gái quan họ xưa thường sử dụng chất liệu sồi
se, màu đen, có tua bện ở hai đầu bao, khổ rộng, có thể đựng túi tiền mỏng ở trong
bao rồi thắt gọn ngang eo, luồn qua lưng áo dài, bó chặt lấy ba thân áo trước, thắt
múi to để che phía trước bụng. Thắt lưng thường là loại bao nhỏ bằng chừng 1/3
bao, dùng để thắt chặt cạp váy vào eo. Cũng tương tự yếm, thắt lưng làm bằng lụa
nhuộm các màu tươi sáng như màu hoa lựu, màu hoa đào, màu hoa hiên tươi, màu
hồ thủy. Thắt lưng cũng buộc múi ra phía trước để cùng với múi bao, múi dải yếm
tạo nên những múi hoa màu sắc phía trước người con gái.
Liền chị mặc váy sồi, váy lụa, đôi khi có người mặc váy kép với váy trong
bằng lụa, vải màu, lương, the, đoạn; váy ngoài bằng the, lụa màu đen. Người biết
mặc váy khéo là không để váy hớt trước, không để váy quây tròn lấy người như

14
mặc quần mà phải thu xếp sao cho phía trước rủ hình lưỡi chai xuống gần tới mu
bàn chân, phía sau hơi hớt lên chớm tầm đôi con khoai phía gót chân.
Liền chị mang dép cong làm bằng da trâu thuộc theo phương pháp thủ công;
có một vòng tròn bằng da trên mặt dép để xỏ ngón chân thứ hai khiến khi đi lại,
không rơi được dép. Mũi dép uốn cong và người thợ làm dép phải biết nện, thuộc
cho mũi dép cứng, như một lá chắn nhỏ, che giấu đầu các ngón chân. Ngoài áo,
quần, thắt lưng, dép, người liền chị còn chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao, và thắt
lưng đeo dây xà tích.

Ảnh 8: Liền chị Nguyễn Thị Hồng Thái, Phó Chủ nhiệm CLB Quan họ măng non thị
trấn Lim (Tiên Du) chỉnh sửa trang phục cho các thành viên.
(Nguồn: http://www.baobacninh.com.vn/chi-tiet-y-te/-/details/20182/net-duyen-
quan-ho), truy cập ngày 11.11.2021
Bộ trang phục cầu kỳ từng chi tiết áo, váy, khăn, nón… khiến liền chị Quan
họ mang một nét riêng, làm tôn lên vẻ nền nã, tươi tắn, đoan trang, đằm thắm của
người Quan họ.Theo nghệ nhân Quan họ Nguyễn Thị Thềm, Viêm Xá, Hòa Long
(thành phố Bắc Ninh) khi liền chị mặc trang phục Quan họ thì dù ở đâu nó vẫn toát
lên được vẻ nền nã nhưng sang trọng, thanh lịch rất riêng của người con gái Quan
họ, nó khác hẳn với trang phục các loại hình nghệ thuật khác. Ca Quan họ mà
không mặc trang phục thì dù có hay cũng giảm đi rất nhiều nét đằm thắm và cái
chất của Quan họ. Ngày nay trang phục Quan họ đã được cải tiến để tôn thêm vẻ
duyên dáng của các liền chị Quan họ. Trên cơ sở bộ phục trang Quan họ cổ ba lớp
nay cải tiến lại còn hai lớp. Lớp áo trong cùng đã được thay bằng một miếng lá lật

15
màu xanh tươi hoặc xanh đậm ở cổ như một đường viền duyên dáng khiến trang
phục Quan họ mang một màu sắc riêng. Dù chỉ còn hai lớp nhưng khi nhìn vào vẫn
cảm thấy như là ba lớp vì các lớp vải được sắp xếp chồng lên nhau một cách hết sức
hài hòa và khéo léo.
4. Làn điệu và nhạc cụ dân ca Quan họ
4.1. Làn điệu
Hệ thống các làn điệu Quan họ được chia thành ba nhóm có sự khác nhau về
tính chất âm nhạc: 
Nhóm các bài hát thuộc giọng Lề lối thường được hát trong giai đoạn mở đầu của
cuộc hát. Đó là các bài: La rằng, Đường bạn, Tứ quý, Cây gạo, Cái hời các ả.
Nhóm các bài hát thuộc giọng Vặt có số lượng nhiều hơn cả. Bước vào giai đoạn
hát giọng Vặt (chặng giữa của cuộc hát) thoạt đầu người ta thường hát các bài hát
có câu Bỉ mở bài, sau đó mới là giai đoạn hát các bài hát giọng Vặt (loại bài hát
không có phần bỉ mở bài). Điển hình là một số bài hát như: Lên núi Ba Vì, Em là
con gái Bắc Ninh, Tuấn khanh, Gọi đò, Tỉnh bắc Sông Cầu, …
Giai đoạn cuối của cuộc hát thuộc về các bài hát Giã bạn. Nhìn chung, các bài hát
Giã bạn có tính chất âm nhạc khá nhất quán; cấu trúc mạch lạc, rõ ràng, hát theo
nhịp đều đặn. Tiêu biểu là các bài như: Người ở đừng về, Con nhện giăng mùng, Kẻ
bắc người nam, Chuông vàng gác của tam quan, Rẽ phượng chia loan, Xin ra về,

16
Ảnh 9: Sách Dân ca Quan họ Bắc Ninh 100 bài lời cổ. (Tác Giả: Lâm Minh Đức)
4.2. Nhạc cụ
Nhạc cụ đệm đang dần len lỏi vào và được chào đón bởi các ca sĩ Quan họ ở
một số làng. Đàn bầu là nhạc cụ phổ biến nhất, tiếp theo là sáo trúc. Các nhạc cụ
truyền thống khác có thể bao gồm đàn nhị 2 dây, đàn tam thập lục 36 dây, và đàn
đáy 3 dây. Đôi khi ghi-ta đệm hát và thậm chí cả bàn phím điện tử đều được sử
dụng. Việc sử dụng nhạc cụ trong hát Quan họ chính thức bắt đầu khi Đoàn kịch
Quan họ được thành lập vào năm 1969, tuy nhiên kể từ đó cũng đã gây ra tranh luận
giữa các học giả, và các ca sĩ Quan họ địa phương cũng vậy.
Một số ca sĩ làng rất nhiệt tình hát với nhạc đệm vì sự hỗ trợ mà nó cung cấp.
Các phương tiện truyền thông chính thức luôn trình diễn ca hát dân gian với nhạc
đệm. Các đoàn kịch chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp luôn biểu diễn các bài hát
quan họ kèm theo một bộ nhạc cụ truyền thống được sửa đổi, bao gồm một bộ
trống, hoặc sắp xếp theo trình tự trên bàn phím điện tử.
Tuy nhiên, không phải tất cả các bài hát đều được biểu diễn kèm với nhạc cụ.
Ví dụ, giai điệu La rằng chưa bao giờ xuất hiện ở dạng đi kèm, trên sân khấu
chuyên nghiệp hoặc các buổi giao lưu làng xã. Một số ca sĩ thích duy trì truyền
thống hát Quan họ mà không có đệm, ngay cả trên sân khấu.
III. Quan họ Bắc Ninh xưa và nay

17
1. Nghệ sĩ biểu diễn
Nếu ngày xưa các liền anh liền chị hát Quan họ chỉ giới hạn là các nghệ nhân
trong làng, xã bắt nguồn từ tầng lớp nông dân, nhân dân thì ngày này nghệ sĩ biểu
diễn không chỉ thu hẹp trong khuôn viên làng mà còn mở rộng ra các tỉnh thành lớn
khác như Hà Nội, Hồ Chí Minh… thậm chí ra cả nước ngoài với đa dạng tầng lớp
từ công nhân, thương nhân đến các trí thức phương Tây. Xuất hiện nhiều nghệ sĩ
chuyên nghiệp đến từ các đoàn nghệ thuật như Đoàn DCQHBN, Trung tâm
VHQH… và nhiều nghệ sĩ không chuyên.
Không gian văn hóa cũng không còn giới hạn trong các tiểu không gian gắn
với không gian địa lý của tỉnh Bắc Ninh, các yếu tố vật thể và phi vật thể, cái hiện
thực và huyền ảo, cái tâm linh; không gian “cây đa, bến nước, sân đình” và đặc biệt
là sinh hoạt VHQH theo thiết chế văn hóa tại các nhà chứa. Không gian văn hóa dân
ca Quan họ giờ đây rộng mở hơn như sông hoặc trong các không gian hiện đại như
rạp hát… tại Các tỉnh, thành phố trong và ngoài nước (329 làng với hơn 8.000
người tham gia); các câu lạc bộ quan họ tại Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, TP Hồ
Chí Minh… và nước ngoài như: Cộng hòa Séc, Cộng hòa liên bang Đức…
2. Tổ chức hoạt động Quan họ
Ngày nay, hình thức Bọn Quan họ bị hủy bỏ. Đồng thời tục kết chạ đang
được dần phục hồi song có nhiều thay đổi về quy mô và hình thức, không còn phổ
biến và có thêm hình thức mới như giao lưu hát giữa các làng trên sân khấu. Thay
vào đó là nhiều loại hình tổ chức mới CLB hay đội Quan họ, quy tụ hàng chục
người, gồm ba bốn thế hệ, từ những nghệ nhân chơi Quan họ trước năm 1945 cho
đến những em đang học lớp 2, lớp 3.
3. Phương thức hoạt động
Thời xưa, hoạt động trong nội bộ làng và Hoạt động giao lưu giữa các làng xã
trong phạm vi tỉnh Bắc Ninh. Ngày nay, mở rộng quy mô 2 phương thức trên: các
CLB Quan họ đã được mời tới nhiều địa phương, vùng miền khác trong cả nước để
trình diễn và có nhiều đoàn đi lưu diễn giao lưu và giới thiệu Quan họ ở nước ngoài
như: Lào, Hàn Quốc, Trung Quốc, Cộng hoà Séc, Pháp, Mỹ…
4. Diễn xướng
4.1. Phong cách biểu diễn

18
Phần lớn các hình thức hát truyền thống vẫn còn tồn tại nhưng ở những mức
độ khác nhau. Phổ biến nhất là: hát đối đáp, hát hội, hát vui, hát thi, hát mừng. Hát
lễ thờ, hát kết chạ chỉ diễn ra trong những dịp hội hè tế lễ. Riêng hình thức Hát cầu
đảo còn rất ít, được phục dựng chỉ để trình diễn nhằm bảo tồn di sản văn hóa này
trong những năm gần đây.
Ngày nay phát triển thêm hát đơn, hát đôi, hát tốp và hát có múa phụ họa.
4.2. Nhạc cụ
Ngày nay hình thức hát chay không còn được ưa chuộng mà thay vào đó là
hát có nhạc đệm, phụ họa và thiết bị âm thanh hiện đại.
4.3. Trang phục biểu diễn
Vẫn là tấm áo tứ thân quen thuộc nhưng có nhiều nét đổi mới từ chất vải đến
khổ may và sử dụng nhiều màu sắc sáng mang tính sân khấu biểu diễn cao.
Nguyên nhân có sự thay đổi trên là do các tác động về đời sống kinh tế xã hội
và sự phát triển của khoa học, sự giao thoa giữa các nền văn hóa do chính cộng
đồng sản sinh và thực hành và một phần do hoạt động “hát Quan Họ” ngày nay
thường được gắn với việc quảng bá, tuyên truyền hoặc các loại hình dịch vụ du lịch
làm mất dần Quan họ truyền thống.

Ảnh 10: Đoàn Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam biểu diễn Quan họ tại Triều Tiên
2019.
(Nguồn: https://www.vietnamplus.vn/hinh-anh-doan-nghe-thuat-quoc-gia-viet-nam-
bieu-dien-tai-trieu-tien/564197.vnp), truy cập ngày 29.11.2021

IV. Những phương pháp bảo tồn và phát triển

19
1. Vấn đề đặt ra
Việc Bảo tồn và phát huy giá trị dân ca Quan họ trong giai đoạn sắp tới sẽ còn
gặp nhiều thách thức do những nghệ nhân Quan họ đã thuộc lớp người cao tuổi, sức
khỏe yếu, những người có kinh nghiệm, kỹ thuật trong hát Quan họ nếu không
truyền lại cho đội ngũ kế cận thì sẽ ngày càng thiếu và mai một. Mặt khác do xã hội
Việt Nam đang có nhiều thay đổi, hướng theo nền kinh tế thị trường những lợi ích
chúng mang lại là rất lớn nhưng cũng không tránh khỏi mặt trái nó mang lại. Do đó
những cán bộ quản lý, người làm văn hóa cơ sở cần có những cái nhìn thấu đáo,
tránh những tiêu cực của thời kỳ mới đem lại. Đưa ra một hệ thống các giải pháp
Bảo tồn và phát huy giá trị dân ca Quan họ vừa đảm bảo giữ gìn được bản sắc văn
hóa dân gian, dân ca Quan họ, tiếp thu những lợi ích của xu hướng đổi mới, khắc
phục những nhược điểm của đổi mới mang lại.
2. Giải pháp
Tổ chức tốt mô hình các lớp học, CLB để dân ca Quan họ tạo sức lan tỏa rộng
rãi đến tất cả mọi người đặc biệt là lớp người trẻ; đầu tư, tu bổ, tôn tạo di tích gắn
với không gian văn hóa Quan họ kết hợp với truyền thông, báo chí và du lịch để
tuyên truyền về văn hóa dân ca Quan họ. Tiếp tục đào tạo học sinh năng khiếu dân
ca Quan họ; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quan họ cho các giáo viên dạy nhạc các
trường phổ thông trong tỉnh, từ đó tổ chức truyền dạy hiệu quả Quan họ trong học
đường.
Phát huy vai trò nghệ nhân trong bảo tồn dân ca Quan họ: vai trò của những
nghệ nhân là hết sức quan trọng, vừa “giữ lửa”, vừa trực tiếp “truyền lửa”, truyền bá
cách chơi Quan họ. Vốn liếng, kỹ năng chuẩn mực về di sản mà đội ngũ nghệ nhân
đang nắm giữ truyền lại cho cộng đồng thực sự quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên,
để thực hiện tốt hơn trọng trách, sứ mệnh truyền bá lớn lao ấy, đội ngũ nghệ nhân
rất mong muốn được các cấp, ngành, địa phương quan tâm tạo điều kiện về không
gian, cơ chế, chính sách hỗ trợ trong quá trình biểu diễn, truyền dạy kiến thức, vốn
Quan họ cổ trong cộng đồng.

KẾT LUẬN

20
Vào ngày 30 tháng 9 năm 2009, dân ca quan họ Bắc Ninh đã chính thức được
UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, đây quả là một
điều đáng mừng, là nguồn động lực dân ca Quan họ tiếp tục phát triển và ghi lại
những dấu ấn truyền thống tốt đẹp của dân tộc, như một nét văn hóa đặc sắc của
Việt Nam. Ngày nay cùng với sự phát triển của đất nước, Quan họ không còn bị bó
hẹp trong không gian làng xã mà nó dần lan tỏa đến mọi miền đất nước, trở thành
một nét văn hóa đặc sắc và là niềm tự hào của người dân Việt Nam. Mỗi chúng ta
người con đất Việt cần phải biết trân trọng và thêm yêu những giá trị truyền thống
tốt đẹp để chúng được trường tồn với thời gian, không bị đi vào quên lãng giữa nhịp
sống hiện đại xô bồ, tiếp tục đồng hành cùng con người, tạo nét riêng, nét đẹp văn
hoá của xứ Kinh Bắc và cả dân tộc Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


STT Nguồn
1
Quan họ – nguồn gốc và quá trình phát triển (Đặng Văn Lung – Hồng Thao
– Trần Linh Quý, Nxb KHXH – 1978), truy cập ngày 29.11.2021

2
Dân ca Quan họ Bắc Ninh (Lưu Hữu Phước – Nguyễn Văn Phú – Nguyễn
Viêm – Tú Ngọc, Nhà xb Văn Hóa – 1962), truy cập ngày 29.11.2021

3 Học, T. N. (2012, October 23). VỀ chữ liền Trong Liền Anh Liền Chị_ An
chi (đã đăng trên đương thời SỐ 12-2009). Tìm Hiểu Từ Nguyên. Truy cập
ngày 13.11.2021, từ https://tunguyenhoc.wordpress.com/2012/10/23/ve-chu-
lien-trong-lien-anh-lien-chi-_-an-chi-da-dang-tren-duong-thoi-so-12-2009/.
4
Yên Mẫn, N. T. (n.d.). Liền Anh, liền chị xưa và Nay Khác Nhau Như Thế
nào. Google Sites. Truy cập ngày 13.11.2021, từ
https://sites.google.com/site/nguyentocyenman/home/lien-anh-lien-chi-xua-
va-nay-khac-nhau-nhu-the-nao. 

5 Trịnh Văn, T. (2014, March 3). Các Hình Thức Hát Trong Quan Họ. Quan
họ Bắc Ninh - Dân ca quan họ. Truy cập ngày 13.11.2021, từ

21
https://quanhobacninh.vn/hat-doi-dap-va-tuc-ket-cha-cua-nguoi-quan-ho/.
6 Cục Di sản văn hóa. (n.d.). Dân Ca quan họ Bắc Ninh. banner. Truy cập
ngày 13.11.2021, từ http://dsvh.gov.vn/dan-ca-quan-ho-bac-ninh-482.
7 Việt, H. (2019, December 19). Lan tỏa quan họ Bắc Ninh Trong Nền Văn
Hóa Dân Tộc. Báo Dân tộc và Phát triển. Truy cập ngày 14.11.2021, từ
https://baodantoc.vn/lan-toa-quan-ho-bac-ninh-trong-nen-van-hoa-dan-toc-
1576033875099.htm.
8
Minh, H. (2020, July 9). Nét Duyên Quan Họ. Chi tiết y tế - Báo Bắc Ninh. .
Truy cập ngày 11.11.2021, từ http://www.baobacninh.com.vn/chi-tiet-y-
te/-/details/20182/net-duyen-quan-ho. 

9 Wikimedia Foundation. (2020, October 31). Quan Họ. Wikipedia. Truy cập
ngày 29.11.2021, từ https://vi.wikipedia.org/wiki/Quan_h%E1%BB
%8D#Trang_ph%E1%BB%A5c.
10 Việt, H. (2019, December 19). Lan tỏa quan họ Bắc Ninh Trong Nền Văn
Hóa Dân Tộc. Báo Dân tộc và Phát triển. Truy cập ngày 29.11.2021, từ
https://baodantoc.vn/lan-toa-quan-ho-bac-ninh-trong-nen-van-hoa-dan-toc-
1576033875099.htm.
11 Luận văn Thạc sĩ: Bảo tồn và phát huy giá trị dân ca quan họ ở huyện Viên
Yên, tỉnh Bắc Giang, 2019, Nguyễn Văn Huy, Trường Đại học sư phạm
Trung ương. Truy cập ngày 29.11.2021, từ
http://www.spnttw.edu.vn/userfiles/files/8_TTLVnguyenvanhuy.pdf.
12 Luận văn Tiến sĩ: Biến đổi của văn hóa quan họ Bắc Ninh trong thời kỳ hiện
nay, 2018, Hà Chí Cường, Trường Đại học văn hóa Hà Nội. Truy cập ngày
29.11.2021, từ
https://drive.google.com/file/d/1DE3eIFKITIuAm4lmgTGRbW01yqtewSK
A/view.
13 Quốc Trường. (2019, August 21). Nhiều Giải Pháp Bảo tồn, Phát Huy Giá
Trị Dân ca Quan Họ, ca trù. Báo Bắc Giang. Truy cập ngày 29.11.2021, từ
http://baobacgiang.com.vn/bg/van-hoa/299250/nhieu-giai-phap-bao-ton-
phat-huy-gia-tri-dan-ca-quan-ho-ca-tru.html

22

You might also like