You are on page 1of 7

2.

Nhận xét ảnh hưởng của thời cơ đến sự thành công của Cách mạng Tháng Tám
Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa mùa Thu năm 1945 là thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt
Nam và thắng lợi đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan của lịch sử. Về chủ
quan, chúng ta có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh với đường lối lãnh đạo tài tình, sáng tạo; chúng ta có nhân dân anh dũng, kiên cường, với
lòng yêu nước nồng nàn và chí căm thù giặc sâu sắc; có đường lối quân sự và nghệ thuật chiến
tranh độc đáo... Thắng lợi đó còn do sự tác động không nhỏ của nhân tố khách quan, đó là thắng
lợi của Liên Xô và Đồng minh trước phe phát xít trên khắp các chiến trường thế giới. Nhưng một
trong những nhân tố quan trọng nhất làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là thời
cơ và sự nhạy bén chớp lấy thời cơ cách mạng của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định chính xác về thời cơ, theo dõi chặt chẽ, tích cực
chuẩn bị sẵn sàng chờ thời cơ, thúc đẩy cho thời cơ phát triển nhanh chóng và mau lẹ chớp thời
cơ tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đã chín muồi. Thời cơ có thể hiểu theo
nghĩa chung nhất là thời gian, điều kiện, hoàn cảnh chủ quan, khách quan thuận lợi để tiến hành
thắng lợi một việc gì đó. Thời cơ là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong nghệ thuật chỉ
đạo cách mạng của Đảng. Thời cơ có thể do thực lực cách mạng trong nước tạo ra, cũng có thể do
hoàn cảnh bên ngoài đưa lại, song theo quan điểm của Đảng, nhân tố chủ quan là quyết định và
phải chuẩn bị sẵn sàng cho thời cơ. Như vậy, muốn có thời cơ thì phải biết tạo ra thời cơ, thúc
đẩy thời cơ và khi thời cơ đến thì phải chớp lấy thời cơ, không được bỏ lỡ. Việc xác định chính
xác thời cơ, thúc đẩy và chớp thời cơ không chỉ là khoa học, mà còn là nghệ thuật cách mạng.
Nhận định của Đảng dựa trên cơ sơ phân tích khoa học và lý luận cách mạng cua Chủ nghĩa
Mác-Lê nin, một cách biện chứng, khách quan, toàn diện, toàn cục; thể hiện tư duy nhạy bén của
Đảng, trong việc đánh giá thời cơ, đánh giá về so sánh lực lượng cách mạng giữa ta và địch, nắm
vững quy luật vận động của chiến tranh, tính quy luật tất yếu, có áp bức dân tộc, có đấu tranh giải
phóng dân tộc. Một lần nữa chúng ta thấy tầm vóc tư duy chiến lược của Đảng và Bác Hồ thể
hiện rõ ở chỗ: Sớm nhìn thấy quy luật vận động cách mạng, dự báo thời cơ cách mạng, nhanh
chóng triên khai thực hiện để thúc đẩy cách mạng. Tức là không thụ động chờ thời cơ, mà phải
tích cực, chủ động tiến hành đấu tranh cách mạng để tạo ra thời cơ cách mạng.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ đầu những năm 40 của thế kỷ XX đã diễn ra theo đường lối
cách mạng giải phóng dân tộc mà Đảng và Hồ Chí Minh đã đề ra. Đường lối đó có vai trò chỉ đạo
phong trào cách mạng trên khắp cả nước. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng tiếp tục cụ thể hóa
những quan điểm, đường lối đó và giải quyết thành công nhiều vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn vấn đề phân tích, đánh giá tình thế và thời cơ cách mạng được Đảng và Hồ Chí Minh đặc biệt
coi trọng. Đó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật trong lãnh đạo cách mạng nói chung và trong
khởi nghĩa giành chính quyền nói riêng.
Có thể khẳng định, thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám
là Đảng ta đã chọn đúng thời cơ “nổ ra đúng lúc”. Đó là lúc 16 nghìn quân Anh chưa vào miền
Nam và khi 20 vạn quân Tưởng chưa vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật; quân Nhật bại trận
mất tinh thần, hoang mang, rệu rã ngồi chờ quân Đồng minh đến tước vũ khí; còn chính quyền bù
nhìn tay sai Trần Trọng Kim thì bỏ trốn hoặc đầu hàng chính quyền cách mạng. Do chọn đúng
thời cơ nên sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, tiến tới khởi nghĩa giành chính
quyền trong cả nước một cách nhanh, gọn, ít đổ máu và thành công triệt để. Đồng thời, thắng lợi
của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 là do lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhanh chóng và
kịp thời chuyển hướng chiến lược cách mạng. Sự chủ động và nhạy bén đó bắt nguồn từ bản chất
cách mạng, đường lối, quan điểm đúng đắn, trí tuệ tập thể của Đảng. Thành công của Cách mạng
Tháng Tám 1945 là minh chứng sinh động về sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển
của khởi nghĩa và cách mạng, khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ giành thắng lợi;
chứng tỏ tầm nhìn thời đại của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thời cơ của Cách mạng Tháng Tám chỉ tồn tại trong một thời gian rắt ngắn - từ sau khi Nhật
đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Trong tình thế ngặt
nghèo, Đảng ta đã hết sức khôn khéo, linh hoạt đẩy lùi nguy cơ để tạo ra thời cơ thuận lợi. Theo
phân tích của nhiều chuyên gia, nếu khởi nghĩa sớm hơn, khi Nhật chưa đầu hàng, ta sẽ gặp sự
kháng cự quyết liệt, có thể tổn thất lớn và khó giành thắng lợi, chính quyền cách mạng chưa thể
thành lập trong toàn quốc. Còn nếu để muộn hơn, khi Đồng minh đã vào Đông Dương, tình hình
trở nên “vô cùng nguy hiểm”.
Có thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã sáng suốt linh hoạt chớp thời
cơ của cách mạng từ tháng 8/1945. Đó là việc tận dụng những cơ hội hiếm có do khách quan và
chủ quan mang đến, những điều kiện thuận lợi ở trong nước và trên thế giới để khởi nghĩa giành
chính quyền, giành độc lập cho dân tộc, cứu dân, cứu nước mà ít phải hy sinh xương máu. Trên
cơ sở phân tích mâu thuẫn giữa các nước, các dân tộc trong chiến tranh thế giới thứ II, phân tích
các mâu thuẫn chủ yếu trong nước; lợi dụng được mâu thuẫn của kẻ thù. Đo lường trước những
diễn biến và dự báo kết quả thắng lợi sẽ đạt được. Phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết
dân tộc, chớp lấy thời cơ của cách mạng để tiến hành tổng khởi nghĩa, lật đổ chính quyền thực
dân phong kiến, đánh Pháp, đuổi Nhật, giành lấy độc lập chủ quyền trước khi quân Đồng minh
tiến vào nước ta. Tránh được ý đồ xâm lược của thực dân Anh và quân Tưởng; hạn chế thiệt hại
về người và của, hạn chế sự hy sinh không cần thiết.
Như vậy về cơ bản, cho đến trước Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, nhận thức của Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về thời cơ cách mạng, thời cơ của tổng khởi nghĩa giành lại độc lập
dân tộc đã được định hình và thể hiện rất cụ thể trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Nhưng
vấn đề mấu chốt ở đây là, để có thể nhận thức đầy đủ những điều kiện, những thời cơ của cách
mạng ấy, Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã phải trải qua một quá trình đấu tranh
thực tiễn đầy gian khổ và tổng kết lý luận không ngừng, với sự hy sinh của biết bao chiến sĩ,
đồng bào, trên cơ sở sự vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và
truyền thống đấu tranh của dân tộc, từ đó mà xây dựng nên lý luận cách mạng Việt Nam. Đó là
điều kiện quan trọng nhất để những nhận thức về thời cơ và những dự đoán về thời cơ cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn phù hợp với thực tiễn, với xu thế phát triển của
hiện thực khách quan. Người đã sớm suy đoán chính xác về thời cơ cách mạng, không thụ động
chờ thời cơ, mà tích cực, chủ động tạo ra thời cơ cách mạng, bắt đầu bằng việc thành lập một
chính đảng, từ đó lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng, để tạo nên thời cơ và tình thế cách
mạng. Theo Hồ Chí Minh, thời cơ cách mạng và tình thế cách mạng có liên quan trực tiếp và biện
chứng với nhau. Trên cơ sở phân tích tình hình thực tiễn cách mạng thế giới và trong nước, để dự
báo về thời cơ cách mạng. Từ dự báo thời cơ để chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng đón thời cơ và
ngược lại, tích cực xây dựng, phát triển lực lượng để tạo ra thời cơ và chờ đón tình thế cách
mạng.
Trong quá trình vận động cách mạng, Đảng ta đã coi trọng cả đấu tranh chính trị lẫn đấu tranh
vũ trang, kết hợp chặt chẽ, linh hoạt 2 hình thức đấu tranh này, không chỉ chú ý đưa quần chúng
vào các tổ chức chính trị, Đảng còn từng bước vũ trang cho quần chúng, xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng. Lực lượng vũ trang đó được sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, được nhân dân
nuôi dưỡng, đùm bọc, có chỗ đứng vững chắc là các căn cứ địa cách mạng. Vì thế, cho đến trước
ngày Tổng khởi nghĩa tháng Tám, tuy ta chưa có đội quân chủ lực mạnh nhưng đã có đủ các loại
lực lượng vũ trang phát triển khắp nơi, và đặc biệt ta có ưu thế về lực lượng chính trị so với kẻ
thù. Dựa trên các ưu thế cách mạng đó, chớp đúng thời cơ lịch sử ngàn năm có một, với nghệ
thuật lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức khởi nghĩa khéo léo, tài tình, Đảng đã đưa cuộc tổng khởi
nghĩa đến thắng lợi trọn vẹn trong cả nước.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là hội tụ của ý chí độc lập tự chủ, tự lực, tự
cường của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; là thắng lợi vĩ đại của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng vận dụng một cách sáng tạo để “lựa tình thế, chọn thời
cơ”, đưa ra những quyết sách đúng đắn, sáng tạo ở tầm chiến lược. Một yếu tố nữa chính là tận
dụng được mâu thuẫn của kẻ thù. Biết nhìn xa trong rộng cũng như lường trước trước được kết
quả sẽ diễn ra. Tận dụng được khối đại đoàn kết dân tộc, lực lượng công – nông – binh hùng hậu.
Và quan trọng nhất chính là chớp thời cơ của cách mạng tháng Tám. Thắng lợi đó cũng chứng
minh rằng, một dân tộc dù nhỏ bé nhưng nếu có truyền thống nồng nàn yêu nước, ý chí tự lực, tự
cường, đoàn kết, sáng tạo dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng chân chính có thể làm nên
những sự kiện vĩ đại có tầm vóc đi vào lịch sử của dân tộc và thế giới. Với nghệ thuật chớp thời
cơ của cách mạng tháng Tám dân tộc ta đã đạp đổ chính quyền thực dân và trở thành quốc gia
độc lập.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của Nhân dân ta từ khi
có Đảng, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta. Lịch sử đã chứng minh, thành công đó có được là nhờ một đảng tiên phong thật sự cách
mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn
cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn; biết nắm bắt thời cơ,
xây dựng và tổ chức lực lượng; phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần
chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.
3. Bài học kinh nghiệm về thời cơ
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn, tài
tình và sáng tạo của Ðảng ta, đặc biệt là nghệ thuật nắm bắt đúng thời cơ và kiên quyết phát
động khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến. Có thể nói Cách mạng Tháng Tám là biểu
hiện mẫu mực của nghệ thuật chớp thời cơ giành chính quyền cách mạng của Đảng ta. Cách
mạng Tháng Tám thành công đã để lại nhiều kinh nghiệm quý báu chứa đựng nhiều giải pháp đã
được Đảng và nhân dân ta vận dụng, giải quyết nhiều vấn đề, nhiều tình huống phức tạp về
chính trị, quân sự, ngoại giao… trong sự nghiệp chống ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, trong đó có bài học kinh nghiệm về chớp thời cơ và vận dụng thời cơ.
Nhờ chủ động, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho phong trào cách mạng ngay từ những ngày đầu
thành lập Đảng; hiểu biết sâu sắc về thời cơ cách mạng; dự báo chính xác, nắm bắt kịp thời và
chớp thời cơ mau lẹ, tuy mới 15 tuổi và chỉ với hơn 5 nghìn đảng viên, trong vẻn vẹn chưa đầy
20 ngày của Mùa thu lịch sử năm 1945, Đảng ta đã lãnh đạo quần chúng nhân dân làm cuộc tổng
khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền, tuyên bố thành lập nước, thành lập Chính phủ lâm
thời… mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc cho quốc gia dân tộc. Bài học và tấm gương
mẫu mực về tận dụng thời cơ trong cách mạng tháng Tám năm 1945 không ngừng được phát huy,
phát triển trong các thời kỳ chiến đấu và chiến thắng vẻ vang của toàn quân, toàn dân ta, lập nên
Điện Biên Phủ chấn động địa cầu năm 1954 và chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 mang tầm cao
thời đại…
Có thể nói Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam đã sáng suốt trong việc chớp thời cơ
của Cách mạng tháng Tám. Từ việc tận dụng thuận lợi trong và ngoài nước Đảng ta đã giành
được độc lập cho dân tộc, giành được chính quyền một cách nhanh chóng ít đổ máu.
Thời cơ là tình thế xuất hiện trong thời điểm nhất định có lợi nhất cho việc chủ động phát huy
mọi sức mạnh để giành thắng lợi. Khi thời cơ đến, phải nhạy bén nắm bắt và kịp thờ chớp lấy.
Ngày Tổng khởi nghĩa 19-8-1945, làm nên cuộc cách mạng tháng Tám kỳ diệu, chính là do
chúng ta đã kịp thời chớp lấy thời cơ và giành thắng lợi trọn vẹn.
Thời cơ của cách mạng tháng Tám mang đến bài học không chỉ riêng dân tộc Việt Nam mà còn
dành cho tất cả nước thuộc địa trên thế giới. Việc tận dụng yếu tố khách quan, chủ quan trong
chiến tranh là vô cùng quan trọng. Sự lãnh đạo độc quyền của một Đảng lãnh đạo cũng đóng vai
trò với chiến thắng của Việt Nam.
Thông qua tìm hiểu về thời cơ trong cách mạng tháng Tám (1945), có thể rút ra một số bài học
kinh nghiệm về thời cơ cách mạng như sau:
- Kiên trì con đường cách mạng lâu dài.
- Sự kiên quyết điều chỉnh đường lối cách mạng khi cần, trên cơ sở phương hướng chiến lược
cách mạng đúng đắn, mục tiêu cách mạng nhất quán. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo Đảng
không ngừng bổ sung, phát triển, cụ thể hóa đường lối cho phù hợp với tình hình trong nước và
quốc tế.
- Sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng biết nắm lấy thời cơ, biết sử dụng lực lượng cách
mạng đúng lúc, kết hợp chính trị và vũ trang, lấy lực lượng chính trị của quần chúng giữ vai trò
quyết định, kết hợp nông thôn và thành thị, kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp, từ thấp lên
cao, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn
- Ra sức xây dựng và chuẩn bị lực lượng về mọi mặt hùng hậu, vững chắc, tuỳ theo sự phát triển
của tình hình khách quan và chủ quan mà đưa quần chúng cách mạng ra đấu tranh để giành thắng
lợi từ nhỏ đến lớn, làm chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng, chủ động tạo tình
thế và thời cơ.
- Tận dụng được khối đại đoàn kết dân tộc, lực lượng công – nông – binh hùng hậu. Công tác
mặt trận và các đoàn thể nhân dân càng cần được coi trọng hơn hết.
- Lợi dụng tình thế và thời cơ khách quan thì có thể giành thắng lợi cơ bản, thắng lợi quyết định
hoàn toàn trong thời gian ngắn mà tiết kiệm được xương máu.
- Dân tin Đảng, Đảng tin Dân vẫn là bài học nóng hổi từ Cách mạng Tháng Tám để vượt qua
bằng sức mạnh tổng hợp, bằng sức mạnh của toàn dân với một niềm tin sắt son vào Đảng, vào hệ
thống chính trị.
=> Nhờ biết chủ động tạo ra tình thế và thời cơ cách mạng mà Đảng ta đã làm cho cách mạng
phát triển với tốc độ “một ngày bằng hai mươi năm”.
⇒ Nếu tiếp thu và học hỏi được những bài học này, chính là cơ hội để chúng ta tận dụng thời
cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà
nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nghệ thuật chớp thời cơ để giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 trở thành bài
học quý báu của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Ở mỗi giai đoạn cách mạng, việc
kịp thời nhận diện và nắm bắt tốt thời cơ để giành thắng lợi trong mọi nhiệm vụ cách mạng luôn
được Đảng ta quan tâm.
Kế thừa, vận dụng bài học nắm bắt thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong
kháng chiến chống Pháp, nhờ biết nắm bắt thời cơ, phân tích tình hình, thế trận địch - ta, quân
dân ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và cuối cùng là chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-
1954) lịch sử.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã nhiều lần vận dụng thành công bài học về
nắm bắt thời cơ. Điển hình như năm 1972, chớp thời cơ nội bộ chính phủ Mỹ có sự xáo trộn,
phong trào phản đối chiến tranh trong nhân dân Mỹ dâng cao, Đảng đã lãnh đạo tiến hành cuộc
tiến công chiến lược thắng lợi, tiếp đó là đánh thắng cuộc tập kích đường không trên bầu trời Hà
Nội và một số tỉnh, thành phố miền Bắc cuối năm 1972, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán,
ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (ngày 27-1-1973). Tiếp
đó, khi thời cơ xuất hiện, ngay lập tức, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương đã họp, quyết
định rút ngắn kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam từ hai năm 1975-1976 xuống còn một
năm (1975) và cuối cùng là thực hiện thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975,
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975). Bài học thời cơ của Cách
mạng Tháng Tám đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo, đưa cuộc tông tiến công và nổi dậy mùa
xuân 1975 đến toàn thắng, giành độc lập trọn vẹn cho cả nước, đưa nước ta vào kỷ nguyên mới -
kỷ nguyên cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bước vào thời kỳ mới, đất nước đứng trước những thuận lợi, thời cơ, nhưng đồng thời cũng có
không ít khó khăn, thách thức. Bài học về nắm bắt thời cơ và vận dụng sáng tạo thời cơ của Cách
mạng Tháng Tám năm xưa vẫn không ngừng được phát huy, tỏa sáng, trở thành điểm tựa tinh
thần vững chắc để nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách.
Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta tiếp tục vận dụng thành công bài học về
nắm bắt thời cơ. Năm 1986, Đảng ta kịp thời nắm bắt tình hình, tận dụng thời cơ có sự chuyển
biến trong lý luận và nhận thức để tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đưa Việt Nam thoát ra
khỏi những khó khăn của thời kỳ bao cấp. Năm 1991, biến cố chính trị ở Liên Xô và các nước
Đông Âu đã đặt chúng ta đứng trước nhiều thách thức to lớn, nhưng Việt Nam đã vượt qua,
chuyển hóa khó khăn thành cơ hội để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng cũng uyển
chuyển, linh hoạt "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong hoạt động ngoại giao để mở rộng quan hệ với
nhiều nước trên thế giới.
Những năm sau đó, Việt Nam đã nắm bắt tốt thời thế để bình thường hóa quan hệ ngoại giao
với Hoa Kỳ (1995); gia nhập Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN - năm 1995); năm
2007 gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); được bầu làm Ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021... Đến nay, Việt Nam có
quan hệ ngoại giao với trên 200 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó xác lập nhiều quan
hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện; là thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế và khu
vực; tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do, nhất là các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới. Vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế thông qua vai trò
then chốt trong những tổ chức khu vực và quốc tế, tổ chức thành công các sự kiện quan trọng,
thực hiện tốt nghĩa vụ tham gia các hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc...
Có thể nói, sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay diễn ra trong bối
cảnh có nhiều thời cơ, vận hội mới; đồng thời, cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách
thức, đặc biệt là những biến động nhanh chóng của tình hình quốc tế, khu vực; những diễn biến
phức tạp trên Biển Đông và dịch Covid-19, nhưng chúng ta luôn tin tưởng, một Đảng đã biết phát
huy sức mạnh của cả một dân tộc để dân tộc đó đứng lên, đem hết tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giành và giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc, thì Đảng đó nhất định sẽ lãnh
đạo thành công sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Đó cũng chính là việc vận dụng thành công những bài học từ lịch sử, trong
đó có bài học nắm bắt thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Bài học nắm thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám phải được vận dụng có hiệu quả trong tình
hình hiện nay, khi Đảng cần tỏ rõ bản lĩnh chính trị và trí tuệ sáng suốt của mình để vượt qua khó
khăn trở ngại, đưa đất nước phát triển bền vững. Muốn thế, bản thân Đảng phải luôn luôn chú
trọng “tự chỉnh đốn”, phòng và chống những tiêu cực trong Đảng, nhất là tham nhũng, lãng phí,
quan liêu; khắc phục cho được tình hình một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Bài học về chớp thời cơ và tận dụng thời cơ để giành thắng lợi. Nghệ thuật chớp thời cơ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn luôn là bài học cực kỳ quý
báu, còn nguyên giá trị cho cả hiện tại và tương lai, là kim chỉ nam dẫn lối cho sự nghiệp đổi mới
đất nước Việt Nam giai đoạn hiện nay, đang được Đảng và nhân dân ta kế thừa, phát huy, góp
phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng đất nước. Bài
học về tập hợp, đoàn kết, lôi cuốn toàn dân tham gia sự nghiệp cách mạng, tham gia sự nghiệp
xây dựng đất nước; nâng cao ý thức tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của dân
tộc, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế. Bài học về xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn
dân và an ninh nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Đã mấy mươi năm đã trôi qua, nhưng bài học về nhận định thời cơ và chớp thời cơ cách mạng
của Ðảng trong Cách mạng Tháng Tám 1945, vẫn còn nguyên giá trị thời sự. Qua đó chúng ta
càng cảm nhận sâu sắc hơn về hai câu thơ của Bác ở bài thơ “Học đánh cờ” trong tác phẩm “Nhật
ký trong tù”:
“Lạc nước hai xe đành bỏ phí
Gặp thời một tốt cũng thành công”.

You might also like