Professional Documents
Culture Documents
Giới thiệu
Trong một thời gian dài, tranh cãi về những bất thường của áp lực trong ổ bụng
thường xảy ra do thiếu các định nghĩa chung. Hiệp hội Hội chứng khoang ổ bụng Quốc tế
(WSACS), được thành lập vào năm 2004, đã thiết lập một chuỗi các định nghĩa nhằm, không
chỉ hỗ trợ các nhà lâm sàng trong điều trị những bệnh nhân có sự biến động áp lực ổ bụng, mà
còn để làm cho việc nghiên cứu về vấn đề này dễ dàng hơn. Do đó, áp lực trong ổ bụng
(ALOB) được định nghĩa là áp lực trong khoang phúc mạc. Thuật ngữ tăng áp lực trong ổ
bụng (TALOB) được định nghĩa là sự tăng ALOB trên 12mmHg. TALOB có thể được phân
nhóm theo mức độ nặng như Bảng 1 dưới đây.
Bảng 1. Phân loại TALOB và khuyến cáo lâm sàng
Độ ALOB ALOB Khuyến cáo
(cmH2O) (mmHg)
I 16-20 12-15 Đảm bảo rằng BN không thừa dịch hoặc thiếu dịch
Điều trị nguyên nhân nền
II 21-27 16-20 Hồi sức nội mạch có thể cần thiết
Dùng các công cụ chuẩn đoán để tìm ra nguyên nhân
nền
Xem xét khả năng (thấp) cần phẫu thuật giải ép
III 28-34 21-25 Hồi sức nội mạch có thể cần thiết
Dùng các công cụ chuẩn đoán để tìm ra nguyên nhân
nền
Xem xét khả năng (cao) cần phẫu thuật giải ép
IV >34 >25 Phẫu thuật giải ép là cần thiết
Dùng các công cụ không xâm lấm (chọc hút ổ bụng)
hoặc xâm lấn (mở bụng ngoại khoa) được khuyến cáo
mạnh
Chẩn đoán hội chứng khoang ổ bụng (HCKOB) có thể được đặt ra ở mọi bệnh nhân có
ALBO >20mmHg và kết hợp với sự tiến triển suy tạng mới xuất hiện. Các cơ quan dễ bị tổn
thương nhất bởi sự TALOB là hai thận, ống tiêu hoá, gan, phổi và hệ tim mạch. HCKOB có
thể nguyên phát (trường hợp có rối loạn trong ổ bụng: chảy máu, giãn căng ruột,…) hoặc thứ
phát (trường hợp có rối loạn bên ngoài ổ bụng: sepsis, bỏng,…).
Đo áp lực ổ bụng
Có nhiều phương pháp để đo áp lực trong ổ bụng, ta có thể dùng sonde âm đạo hoặc
sonde trực tràng, ta cũng có thể luồn trực tiếp một catheter vào khoang ổ bụng. Những kỹ
thuật này thường không đủ trung thực về giá trị hoặc nhiều nguy cơ. Phương pháp được
khuyến cáo bởi WSACS là dùng áp lực trong bàng quang. Kỹ thuật này dựa vào nguyên lý
của sự truyền ALOB qua thành bàng quang và thường được báo cáo trong thú y. Mô tả kỹ
lưỡng của hệ thống đo ALOB có thể thấy ở Hình 1. Một sonde tiểu (lý tưởng là sonde Foley)
được đặt một cách vô khuẩn vào bàng quang và kết nối với hệ thống túi kín. Một van ba
hướng được đặt giữa sonde và túi đựng dịch. Bàng quang được làm trống sau đó đổ đầy bằng
dịch muối đẳng trương (0,5 đến 1mL/kg NaCl 0,9%) để dự phòng mọi sự tắc nghẽn của thành
bàng quang gây nên cho sonde tiểu. Bệnh nhân được duy trì ở tư thế nằm nghiên. Một cột
nước để làm thước được kết nối với van ba hướng. Mức “không” của cột nước sẽ tương ứng
với ngang mức khớp mu của bệnh nhân. Sau khi mở van, giá trị độ cao của cột nước chính là
trị số của ALOB theo cmH2O (lưu ý: 1mmHg = 1,36cmH2O).