Professional Documents
Culture Documents
Các yếu tố thị trường vốn
Các yếu tố thị trường vốn
Quá trình thoái vốn cũng có thể xảy ra vì công ty sau tái đầu tư, cũng như bộ
phận đã thoái vốn, có khả năng tiếp cận thị trường vốn nhiều hơn. Cơ cấu công ty kết
hợp có thể khó phân loại hơn cho các nhà đầu tư. Một số nhà cung cấp vốn nhất định
có thể đang tìm cách đầu tư vào các công ty thép nhưng không đầu tư vào các công ty
dược phẩm. Các nhà đầu tư khác có thể tìm cách đầu tư vốn vào các công ty dược
phẩm nhưng có thể cho rằng ngành thép quá chu kỳ và có tiềm năng tăng trưởng thấp.
Hai nhóm nhà đầu tư này có thể không muốn đầu tư vào một công ty kết hợp thép và
dược phẩm, nhưng mỗi nhóm có thể đầu tư riêng vào một công ty thép hoặc dược
phẩm độc lập. Việc thoái vốn có thể mang lại khả năng tiếp cận thị trường vốn nhiều
hơn cho hai công ty với tư cách là các công ty riêng biệt hơn là một công ty kết hợp.
Trong khi Miller là nhà sản xuất bia lớn thứ hai của Hoa Kỳ, thì hãng này lại
tụt hậu so với các thương hiệu Budweiser và Busch của công ty dẫn đầu thị trường
Anheuser Busch. Ngành kinh doanh bia ở Hoa Kỳ có tính cạnh tranh cao và đòi hỏi
các khoản chi tiêu tiếp thị lớn để xây dựng và mở rộng thương hiệu. Bất chấp những
nỗ lực hết mình, Miller đã không thể đóng góp mong muốn vào lợi nhuận của công ty
để đảm bảo Altria tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh này. Vào tháng 7 năm
2002, công ty quyết định bán Miller cho South African Brewers (SAB) trong một thỏa
thuận định giá công ty là 5,5 tỷ đô la. SAB đã giả định khoản nợ 2 tỷ đô la của Miller
trong khi phát hành cổ phiếu cho Philip Morris, công ty sẽ sở hữu hơn một phần ba
tổng SAB / Miller kết hợp. Vào thời điểm mua lại Miller, SAB là nhà sản xuất bia lớn
thứ tư trên thế giới. Thương vụ này đã đưa SAB lên vị trí số hai trên thị trường bia
quốc tế. Ta đã thấy trong Chương 4 rằng vị trí số một và số hai thường mang lại lợi
thế mà các đối thủ nhỏ hơn khó có thể sánh kịp. Ngoài ra, SAB, cũng đã tiếp thị
Pilsner Urquell, hiện đã có một thương hiệu lớn tại thị trường Hoa Kỳ. SAB cũng có
kế hoạch sử dụng ảnh hưởng quốc tế của mình để giúp nâng cao thương hiệu Miller ở
trong và ngoài nước Mỹ. Thương vụ này là một phần trong sự tăng trưởng của SAB
thông qua chiến lược mua lại, trong đó công ty mở rộng sang nhiều thị trường khác
nhau ở Đông Âu và Châu Á. Nó cũng mua lại một thương hiệu quốc tế lớn trong Tập
đoàn Pironi của Ý.
Trong những năm sau giao dịch Miller, ngành công nghiệp bia toàn cầu đã hợp
nhất. SAB đã bắt kịp tiến trình này bằng cách mua lại các nhà sản xuất bia ở Úc,
Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như ở Nam Mỹ và Ba Lan. Năm 2007, công ty liên
doanh với Coors để kết hợp hoạt động của hai công ty tại Hoa Kỳ. InBev, nhà lãnh
đạo ngành công nghiệp toàn cầu, đã phản ứng vào năm 2008 bằng cách mua lại công
ty bia lớn nhất của Mỹ, Anheuser Busch, với giá 52 tỷ USD.
Tương tự, việc thoái vốn có thể tạo ra các công ty mà các nhà đầu tư muốn đầu
tư nhưng không tồn tại trên thị trường. Những công ty như vậy đôi khi được coi là
những vở kịch thuần túy. Nhiều nhà phân tích cho rằng thị trường không hoàn chỉnh
và có nhu cầu về một số loại hình doanh nghiệp không phù hợp với nguồn cung chứng
khoán trên thị trường. Việc bán những bộ phận của công ty mẹ trở thành những vở
kịch thuần túy giúp hoàn thiện thị trường.
Việc tách các bộ phận tạo điều kiện xác định rõ ràng hơn và phân khúc thị
trường cho cộng đồng đầu tư. Đối với các bộ phận công ty cần vốn để phát triển, khả
năng thu hút các quỹ đầu tư mới có thể được nâng cao nếu công ty là một thực thể độc
lập. Ở đây, các nhà đầu tư dự định rót vốn vào một công ty có thể dễ dàng dự đoán lợi
nhuận trong tương lai khi doanh nghiệp là một đơn vị xác định và riêng biệt thay vì
được đặt trong một lớp vỏ công ty có triển vọng tăng trưởng rất khác nhau.
LỢI TỨC WESTERN UNION 2006 CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN FIRST DATA
Vào năm 2006, Công Ty Cổ Phần First Data quyết định tách đơn vị Western
Union của mình thay vì giữ nó nằm trong chiếc ô tổng thể của công ty First Data. First
Data, được American Express tách ra vào năm 1992, là một bộ xử lý thẻ tín dụng. Đây
là những công ty xử lý và theo dõi các khoản phí thẻ tín dụng và cung cấp các dịch vụ
liên quan khác, chẳng hạn như gửi thẻ tín dụng cho người tiêu dùng. Trong khoảng
thời gian 2004-2005, hoạt động kinh doanh cốt lõi của First Data bị ảnh hưởng đáng
kể khi các đối thủ, chẳng hạn như Total Services Systems, tấn công mạnh mẽ vào thị
phần của nó.
Trong khi hoạt động tài chính tổng thể của nó yếu, một điểm sáng mà nó có là
hoạt động kinh doanh chuyển tiền – Western Union. Trong khi hoạt động kinh doanh
xử lý thẻ tín dụng đang sa sút, hoạt động kinh doanh của Western Union đang bùng
nổ. Thật trớ trêu khi Western Union lại là một doanh nghiệp có tốc độ phát triển cao
như vậy, vì nó được thành lập vào năm 1851. Nó bắt đầu như một công ty truyền
thông và xây dựng máy điện báo xuyên Đại Tây Dương đầu tiên. Trong khi rất nhiều
công ty được thành lập vào thời điểm đó đã đi theo con đường từ lâu, Western Union
vẫn tiếp tục thích ứng với thị trường đang thay đổi và đang phát triển mạnh mẽ. Nó
hiện là công ty chuyển tiền lớn nhất trên thế giới, với doanh thu hàng năm là 4 tỷ đô
la. Công ty thực hiện 275 triệu giao dịch mỗi năm, sử dụng 271.000 đại lý trên khắp
Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ Latinh và Hoa Kỳ. Nó đã có thể thúc đẩy sự tăng trưởng
của mình thông qua một chiến lược mở rộng ra quốc tế. Tuy nhiên, phần lớn tiến bộ
vượt bậc mà Western Union đã đạt được rất khó nhìn thấy khi nằm trong một doanh
nghiệp xử lý thẻ tín dụng tầm thường. Kết luận hợp lý là phát hành Western Union
theo hình thức miễn thuế cho các cổ đông của Công Ty Cổ Phần First Data. và để họ
nhận ra những lợi ích từ thành công liên tục được mong đợi của Western Union. Eric
Dash, “Western Union, Đang phát triển nhanh hơn Công ty mẹ của nó, Sắp sửa thành
công”, New York Times, ngày 27 tháng 1 năm 2006, C3.
Các yếu tố về dòng tiền cũng thúc đẩy doanh số bán Hertz của Ford nói trên
vào năm 2005 (xem nghiên cứu điển hình ở phần trước) cũng như việc GM bán 51%
cổ phần GMAC vào năm 2006. Các bộ phận này đều sinh lời và có giá tốt trên thị
trường, đồng thời mang lại nhiều - tiền mặt cần thiết mà hai công ty ô tô này đã sử
dụng để bù đắp các khoản lỗ hoạt động đáng kể.
Trong những năm trước, cả Ford và GM đều đã tích hợp theo chiều dọc. Họ đã
xây dựng các nhà cung cấp lớn mà cuối cùng họ tách ra thành Visteon và Delphi. Tuy
nhiên, các khoản nợ công đoàn buộc Ford phải mua lại Visteon trong khi GM vẫn duy
trì trách nhiệm đối với chi phí lao động của Delphi. Khi vị thế của nó bắt đầu xấu đi,
Ford buộc phải bán bớt đơn vị tích hợp dọc phía trước - Hertz. Hertz là một trong
những công ty dẫn đầu thị trường cho thuê xe hơi tại Mỹ. Mặc dù Hertz là công ty cho
thuê ô tô hàng đầu, nhưng việc Ford bán cho Hertz không tạo ra lợi nhuận cao, vì các
công ty cho thuê ô tô thường mua bằng cách chiết khấu số lượng lớn mang lại lợi
nhuận thấp cho các nhà sản xuất ô tô. Tuy nhiên, lợi ích của việc mua với số lượng
lớn tuy không mang lại nhiều lợi nhuận cho phép các nhà sản xuất ô tô duy trì thị phần
và giữ cho các nhà máy của họ hoạt động với công suất cao. Điều này là cần thiết vì
Ford và GM buộc phải trả tiền cho công nhân công đoàn ngay cả khi họ không cần hết
khả năng của mình. Các cam kết bồi thường của công đoàn đối với nhân viên chủ yếu
trở thành chi phí cố định đối với Ford và GM, trong khi các chi phí tương tự này biến
đổi nhiều hơn đối với các công ty ô tô nước ngoài, chẳng hạn như Toyota và Honda.
Năm 2005, Ford quyết định bán bớt Hertz cho một tập đoàn các công ty cổ phần tư
nhân, bao gồm Clayton Dublier & Rice, Carlyle Group và Merrill Lynch Global
Private Equity. Việc bán Hertz, được cho là có giá trị doanh nghiệp 15 tỷ USD, đã
mang lại nguồn tiền mặt cho Ford. Lợi ích của khoản tiền mặt bổ sung này đã mang
lại cho Ford một số thời gian nghỉ ngơi trước áp lực tài chính trong khi tiến hành tái
cơ cấu lớn để khôi phục công ty có lãi. Chiến lược này bắt đầu có kết quả vào năm
2010 khi Ford có lãi trở lại.
THANH KHOẢN THỊ TRƯỜNG VÀ QUYẾT ĐỊNH THOÁI VỐN MỘT ĐƠN
VỊ
Có nhiều yếu tố khiến một công ty quyết định bán đi một phần hoặc toàn bộ tài
sản của doanh nghiệp. Một trong những điều rõ ràng nhất và dễ thấy nhất đó chính là
công ty đó hoạt động kém hiệu quả dẫn đến việc ra quyết định bán đi một phần tài sản.
Người ta sẽ nghĩ rằng đây chính là yếu tố cơ bản và rõ ràng nhất. Tuy nhiên, đáng
ngạc nhiên là nghiên cứu của Schlingemann, Stulz và Walking cho thấy tính thanh
khoản của thị trường thực sự quan trọng hơn. Trong một phân tích về 168 công ty
thoái vốn trong những năm 1979-1994, họ phát hiện ra rằng các công ty trong các
ngành có tính thanh khoản cao hơn có nhiều khả năng bị thoái vốn hơn. Bởi vì, trong
một thị trường có tính thanh khoản cao, người bán sẽ có cơ hội tốt hơn khi nhận được
toàn bộ giá trị, nếu không muốn nói là cao hơn giá trị cho tài sản của họ so với các thị
trường ít thanh khoản hơn. Schlingemann và cộng sự đã đo tính thanh khoản bằng
khối lượng tài sản được bán trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, khi các
công ty muốn thoái vốn khỏi một phân khúc không liên quan như một phần của
chương trình nâng cao trọng tâm, những công ty có thể bán trên thị trường thanh
khoản sẽ có nhiều khả năng làm như vậy, trong khi những công ty đối mặt với thị
trường ít thanh khoản hơn có thể giữ một đơn vị cho đến khi tính thanh khoản của thị
trường được cải thiện.
HIỆU ỨNG GIÀU CÓ CỦA VIỆC BÁN MỘT BỘ PHẬN CÔNG TY (SELL -
OFF)
Một yếu tố thúc đẩy chính cho việc thoái vốn và spin-off là niềm tin rằng sức
mạnh tổng hợp ngược lại có thể tồn tại. Thoái vốn, spin-off và cắt giảm vốn chủ sở
hữu về cơ bản là một sự thu hẹp quy mô của công ty mẹ. Do đó, công ty con phải có
khả năng kinh tế hơn thay vì là một phần của công ty mẹ. Một số nghiên cứu đã phân
tích tác động của spin-off bằng cách kiểm tra ảnh hưởng đến giá cổ phiếu của cả công
ty mẹ và một phần của công ty được tách ra khỏi công ty mẹ. Hiệu ứng này sau đó
được so sánh với một chỉ số thị trường để xác định liệu các cổ phiếu có trải qua hiệu
suất phi thường mà không thể giải thích được chỉ bằng các chuyển động của thị trường
hay không. Nghiên cứu trong lĩnh vực bán tháo, cho dù đó là thoái vốn, spin-off hay
các hình thức bán tài sản khác thì mục đích đều là nói về lợi ích của các cổ đông.
Bảng 11.3 cho thấy tài sản của cổ đông tăng lên do bán tháo công ty có tỷ suất sinh lợi
bất thường bình quân gia quyền của cổ đông là 1,2%. Điều này bắt nguồn từ một số
lượng lớn các nghiên cứu trong một khoảng thời gian dài—1963–2005. Thị trường
chứng khoán kết luận rõ ràng rằng việc tự nguyện bán một bộ phận là một sự phát
triển tích cực sẽ dẫn đến sự gia tăng giá trị cổ phiếu của công ty.
(BẢNG 11.3)
Có những lời giải thích trực quan tốt cho phản ứng tích cực của thị trường đối
với việc bán tháo. Nếu một công ty đang bán một đơn vị, thường có thể là do đơn vị
đó không còn phù hợp với chiến lược nữa. Có lẽ đó là một sự đa dạng hóa có được
trong một vụ mua lại trước đó. Có thể là công ty đã làm cạn kiệt hiệu suất chung của
doanh nghiệp. Đây là trường hợp khi GE, trong một khoảng thời gian đã kiếm được
rất nhiều lợi nhuận từ việc mở rộng sang các hoạt động tài chính, đã bị phá sản nặng
nề trong cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn. Trong những năm sau đó, công ty bắt
đầu giảm sự phụ thuộc vào thu nhập tài chính thông qua việc bán tài sản, chẳng hạn
như hoạt động kinh doanh cho vay bán lẻ. Động thái này thu hút các cổ đông coi GE
là một công ty công nghiệp hơn và lo lắng về việc tiếp xúc với các loại hình kinh
doanh tài chính. Rõ ràng một trong những lợi ích của việc bán tháo là cho phép người
bán tập trung hơn - có lẽ là ở những lĩnh vực mà họ vượt trội.
(bảng 11.4)
Họ phát hiện ra rằng các công ty có hội đồng quản trị độc lập hơn và các cổ
đông lớn có tác động tích cực hơn đến tài sản của cổ đông. Nghiên cứu của họ ngụ ý
rằng quyết định thoái vốn cần nhiều hơn là sự thừa nhận rõ ràng về hiệu quả hoạt động
kém của một đơn vị hoặc sự kém phù hợp của đơn vị đó trong tổng thể công ty. Có vẻ
như ban quản lý thường cần một số áp lực từ các giám đốc độc lập và các cổ đông lớn
để có đủ động lực “làm điều đúng đắn”. Tại Hoa Kỳ, áp lực này thường đến từ các
quỹ phòng hộ mua lại khối lượng cổ phiếu đáng kể trong các công ty bị định giá thấp,
với mục tiêu của họ là buộc tái cơ cấu doanh nghiệp nhằm tăng giá trị. Tuy nhiên, ở
nhiều công ty châu Âu lục địa, các cổ đông kiểm soát có thể ít phản ứng hơn trước
những lo ngại của các cổ đông nhỏ hơn, những người phản đối chiến lược mua lại mà
các công ty đã theo đuổi và những người muốn theo đuổi việc bán tháo để có thể giải
phóng giá trị cho các cổ đông.