Professional Documents
Culture Documents
BÀI DỊCH MA
BÀI DỊCH MA
HCM
TRƯỜNG KINH DOANH
KHOA TÀI CHÍNH
----------∞---------
THOÁI VỐN
Hầu hết các đợt bán tháo là những đợt thoái vốn đơn giản. Các công ty thực hiện các
hình thức bán tháo khác nhau, chẳng hạn như chia tách công ty (spin - off) hoặc cắt giảm
vốn chủ sở hữu (equity carve - out) để đạt được các mục tiêu khác ngoài việc loại bỏ một
bộ phận cụ thể của công ty. Các mục tiêu này có thể bao gồm việc thực hiện giao dịch
không chịu thuế, có thể gọi là chia tách công ty (spin - off).
Hình thức thoái vốn phổ biến nhất liên quan đến việc bán một phần của công ty mẹ cho
một công ty khác. Quá trình này là một hình thức thu hẹp đối với công ty bán nhưng là
một phương tiện mở rộng đối với công ty mua. Số lượng các lần thoái vốn diễn ra từ năm
1985 đến năm 2014 được liệt kê trong bảng 11.1 bên dưới.
Các xu hướng lịch sử
Vào cuối những năm 1960, trong làn sóng sáp nhập lần thứ ba, số lượng các thương vụ
thoái vốn và bán tháo tương đối nhỏ tính theo tỷ lệ phần trăm so với tổng số giao dịch.
Các công ty đang tham gia vào việc mở rộng quy mô lớn vào thời điểm này thông qua
việc mua lại các công ty khác nhằm tăng giá cổ phiếu của công ty mua. Quá trình mở
rộng này đã đột ngột chấm dứt sau khi có những thay đổi trong luật thuế và các biện
pháp quy định khác, cùng với sự suy giảm của thị trường chứng khoán. Sau đó, các công
ty bắt đầu xem xét lại một số thương vụ mua lại đã được chứng minh là không hiệu quả
- nhu cầu này càng gia tăng sau cuộc suy thoái kinh tế từ năm 1974-1975. Dưới áp lực
từ nhu cầu kinh tế yếu, các công ty buộc phải bán bớt các bộ phận để tăng vốn và cải
thiện dòng tiền. Cạnh tranh quốc tế cũng gây áp lực buộc một số tập đoàn trong những
năm 1960 phải trở nên hiệu quả hơn bằng cách bán bớt các thương vụ không có khả năng
cạnh tranh trên thị trường thế giới đã mua lại trước đây.
Sự đảo ngược của xu hướng mua lại này đã trở nên rõ rệt ngay từ năm 1971, khi các hoạt
động thoái vốn tăng lên 42% tổng số giao dịch. Xu hướng đạt đến đỉnh điểm vào năm
1975, thời kỳ suy thoái kinh tế, khi số lượng các vụ thoái vốn chiếm 54% tổng số giao
dịch. Tỷ lệ này vẫn duy trì trong khoảng từ 35% đến 40% suốt thập kỷ 1980. Tuy nhiên,
trong làn sóng sáp nhập thứ năm, số lượng các thương vụ thoái vốn đã tăng trở lại khi
việc giảm quy mô và tái tập trung trở thành những chiến lược kinh doanh nổi bật. Khi
khối lượng giao dịch tổng thể suy yếu vào cuối làn sóng đó, khối lượng thoái vốn cũng
chậm lại, chỉ phục hồi trở lại vào những năm 2000, khi hoạt động M&A sôi nổi trở lại.
Nhiều thương vụ thoái vốn là kết quả của việc bán tháo các thương vụ mua lại trước đó.
Mối quan hệ giữa việc mua lại và các thương vụ thoái vốn tiếp theo được thể hiện trong
hình 11.1. Với niềm tin rằng nhiều thương vụ thoái vốn là sự hủy bỏ của các thương vụ
mua lại trước đó được xem như là xu hướng hàng đầu trong đường cong mua lại với
đường cong thoái vốn. Thời kỳ sôi động của hoạt động sáp nhập vào cuối những năm
1960 được phản ánh trong một đỉnh cao rõ rệt vào thời điểm này, tiếp theo là một đỉnh
trong đường cong thoái vốn vào đầu những năm 1970. Diễn biến thị trường chứng khoán
dường như đóng vai trò quyết định đến khối lượng thoái vốn. Linn và Rozeff đã sử dụng
phân tích hồi quy để chỉ ra rằng trong những năm thị trường chứng khoán sụt giảm,
chẳng hạn như năm 1966, 1969 và 1973–1974, tỷ lệ thoái vốn giảm xuống dưới mức mà
người ta dự đoán dựa trên tỷ lệ sáp nhập trước đó. Khi thị trường hoạt động tốt (các giai
đoạn này thường tương ứng với khi nền kinh tế đang hoạt động tốt), số lượng các vụ
thoái vốn tăng lên. Nghiên cứu này cũng phù hợp với thị trường chứng khoán đang lên
và số lượng các vụ thoái vốn gia tăng trong những năm 1990. Hình 11.1 cho thấy khi
hoạt động mua bán và sáp nhập chậm lại vào cuối những năm 1980, tốc độ thành lập
công ty con và thoái vốn tăng lên. Tuy nhiên, khi làn sóng sáp nhập thứ năm tăng tốc
vào những năm 1990, số lượng thoái vốn tiếp tục tăng lên, mặc dù dựa theo tỷ lệ phần
trăm so với tổng số giao dịch thì chúng đã có sự sụt giảm.
Nhiều nhà phê bình của một số cuộc mua lại doanh nghiệp sử dụng hồ sơ về các vụ thoái
vốn theo các vụ mua lại kém chất lượng như một bằng chứng về những kế hoạch mở
rộng sai lầm. Chúng ta thường nghe thấy những lời phê bình này ngày nay, và chúng đã
được lên tiếng trong nhiều năm. Ví dụ, sử dụng một mẫu gồm 33 công ty trong giai đoạn
1950–1986, Porter cho thấy rằng các công ty này đã thoái vốn 53% của các vụ mua lại
để đưa các công ty mua lại vào các ngành công nghiệp mới. Dựa trên bằng chứng này,
ông kết luận rằng hồ sơ mua lại của công ty "tồi tệ." Những kết quả này phần nào được
hỗ trợ bởi Ravenscraft và Scherer, những người phát hiện ra rằng 33% các thương vụ
mua lại được thực hiện trong những năm 1960 và 1970 sau đó đã bị bán. Hồ sơ theo dõi
của nhiều vụ mua lại gần đây cũng chưa đáp ứng được mong đợi.
Khi một công ty có được một mục tiêu đa dạng, thường xảy ra trường hợp có một số
đơn vị kinh doanh có sức hấp dẫn hơn các đơn vị khác. Đây là trường hợp của năm
2005, khi Starwood Capital Group, một công ty bất động sản, mua lại Taittinger với
giá 3,45 tỷ USD. Taittinger là công ty rượu champagne lớn thứ sáu trong lĩnh vực này.
Starwood được biết đến với các tài sản khách sạn đa dạng trong chính lĩnh vực mà nó
chuyên doanh. Tuy nhiên, Taittinger, thông qua Concorde Group của mình, sở hữu
khoảng 70 khách sạn cao cấp ở châu Âu, chẳng hạn như Hotel de Crillon ở Paris và
Hotel Lutetia, cũng như chuỗi khách sạn bình dân lớn thứ hai trên lục địa - Envergure
Group. Những tài sản này là điểm hấp dẫn chính của Taittinger đối với Starwood.
Ngoài rượu champagne và khách sạn, Taittinger còn sở hữu thương hiệu pha lê
Baccarat nổi tiếng. Tương tự một số công ty châu Âu đa dạng khác, chẳng hạn như
LVMH, sự kết hợp giữa các chủ sở hữu doanh nghiệp liên quan chỉ có mối quan hệ
lỏng lẻo. Điều này làm cho chúng dễ dàng tách rời hơn.
Starwood có trụ sở tại Greenwich được điều hành bởi Barry S. Sternlicht, một nhà đầu
tư bất động sản / nhà điều hành khách sạn thông minh. Ông thành lập Starwood vào
năm 1995, và chỉ sau một vài năm, ông đã mua lại chuỗi khách sạn Westin cùng với
ITT (những gì còn lại của tập đoàn đó), công ty sở hữu chuỗi Sheraton và St. Regis.
Ông mua lại Taittinger biết rằng mình sẽ mua lại các tài sản bất động sản mà ông cảm
thấy rất có giá trị. Ông cũng biết rằng trong khi ông không muốn công ty của mình
tham gia vào ngành rượu champagne hoặc kinh doanh pha lê, thương hiệu mà ông
đang mua lại sẽ có giá trị tốt trên thị trường vì chúng là một trong những người đứng
đầu trong chính lĩnh vực đó. Taittinger, một trong ba nhà sản xuất rượu champagne cổ
nhất, được thành lập vào năm 1734 và kể từ năm 1931 đã được gia đình Taittinger
kiểm soát. Đây là một ví dụ khác về các tập đoàn lớn châu Âu do quyền lợi gia đình
kiểm soát.
Một ví dụ điển hình về giá trị cộng hưởng đảo ngược xảy ra vào cuối những năm 1980
khi Tập đoàn Allegis buộc phải bán bớt các công ty đã mua lại trước đó, Hertz Rent A
Car và chuỗi khách sạn Weston và Hilton International. Allegis đã phải trả giá đắt cho
những thương vụ mua lại này dựa trên niềm tin rằng lợi ích tổng hợp của việc kết hợp
các công ty trong ngành du lịch với United Airlines, tài sản chính của hãng, sẽ đủ để
xứng đáng với giá cao. Khi lợi ích cộng hưởng không thành hiện thực, giá cổ phiếu giảm,
mở đường cho một cuộc đấu thầu thù địch từ công ty đầu tư Coniston Partners ở New
York. Coniston đã đưa ra giá thầu dựa trên phân tích của mình rằng các phần riêng biệt
của Allegis có giá trị cao so với tổ hợp thực thể.
Altria - Trước đây được biết đến là Philip Morris. Trong nhiều năm, công ty hoạt động
chủ yếu trong ba lĩnh vực chính: thuốc lá, thực phẩm và bia (và một sự hiện diện nhỏ
trong lĩnh vực tài chính). Philip Morris là công ty sản xuất thuốc lá hàng đầu trên thế
giới và có thị phần tại thị trường Hoa Kỳ ở khoảng 50%. Thương hiệu của họ,
Marlboro, là một trong những tên tuổi hàng đầu trên toàn cầu. Việc kinh doanh thuốc
lá của Philip Morris được chia thành hai phần: Philip Morris USA và Philip Morris
International. Có sự khác biệt hoàn toàn khi Kinh doanh thuốc lá tại Hoa Kỳ so với
khi hoạt động kinh doanh trên quốc tế. Đầu tiên, kinh doanh tại Hoa Kỳ đã trở thành
mục tiêu của hơn 1000 vụ kiện. Tiếp theo đó, tiêu thụ thuốc lá ở Hoa Kỳ theo công ty
con đã giảm với tỷ lệ khoảng 2%/năm trong vòng nhiều năm. Trong khi kinh doanh
thuốc lá trên quốc tế lại vượt trội hoàn toàn.
Miller là hãng sản xuất bia lớn thứ hai tại Hoa Kỳ, đứng sau các thương hiệu Budweiser
và Busch của hãng Anheuser Busch - thị trường hàng đầu trong ngành. Ngành công
nghiệp sản xuất bia tại Hoa Kỳ cạnh tranh mạnh mẽ và đòi hỏi các khoản chi marketing
lớn để xây dựng cũng như mở rộng thương hiệu. Mặc dù đã nỗ lực hết sức, Miller vẫn
không thể đóng góp như mong đợi vào lợi nhuận của công ty để đảm bảo Altria tiếp
tục hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh này. Vào tháng 7 năm 2002, công ty quyết
định bán Miller cho South African Brewers (SAB) với giá trị công ty là 5,5 tỷ đô la.
SAB đã tiếp nhận 2 tỷ đô la nợ của Miller trong khi phát hành cổ phiếu cho Philip
Morris, khiến họ sở hữu hơn một phần ba trong tổng số cổ phiếu của SAB/Miller kết
hợp.
Vào thời điểm mua lại Miller, SAB là hãng sản xuất bia lớn thứ tư trên thế giới. Thỏa
thuận này đã đưa SAB lên vị trí thứ hai trên thị trường bia quốc tế. Chúng ta đã thấy
trong Chương 4 rằng vị trí thứ nhất và thứ hai thường mang lại lợi thế mà các đối thủ
nhỏ khó có thể cạnh tranh. Ngoài ra, SAB cũng đã tiếp thị Pilsner Urquell, hiện đã có
một thương hiệu lớn tại thị trường Hoa Kỳ. SAB cũng có kế hoạch sử dụng ảnh hưởng
quốc tế của mình để giúp nâng cao thương hiệu Miller ở trong và ngoài nước Mỹ. Thỏa
thuận này là một phần trong sự phát triển của SAB thông qua chiến lược mua lại, trong
đó công ty mở rộng sang nhiều thị trường khác nhau ở Đông Âu và Châu Á. Nó cũng
mua lại một thương hiệu quốc tế lớn trong Tập đoàn Pironi của Ý.
Trong những năm sau giao dịch với Miller, ngành công nghiệp bia toàn cầu đã hợp
nhất. SAB đã theo kịp quá trình này bằng cách mua lại các hãng sản xuất bia tại Úc,
Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như tại Nam Mỹ và Ba Lan. Vào năm 2007, họ tham gia
một liên doanh với Coors để kết hợp hoạt động ở Hoa Kỳ của hai công ty. Vào năm
2008, InBev, hãng dẫn đầu ngành công nghiệp toàn cầu đã đáp trả bằng việc mua lại
hãng sản xuất bia lớn nhất tại Hoa Kỳ, Anheuser Busch với giá 52 tỷ đô la.
Tương tự, việc thoái vốn giúp nhà đầu tư có thể tạo ra các công ty họ muốn đầu tư nhưng
không tồn tại trên thị trường. Những công ty như vậy đôi khi được gọi là "pure plays"
(đồng nghĩa với "công ty chơi đẹp"). Nhiều nhà phân tích cho rằng thị trường không
hoàn hảo và có một nhu cầu về loại công ty cụ thể mà không được đáp ứng bằng cung
cấp chứng khoán trên thị trường. Việc bán các phần của công ty mẹ trở thành "pure
plays" giúp hoàn thiện thị trường này.
Việc tách các bộ phận tạo điều kiện xác định rõ ràng hơn và phân khúc thị trường cho
cộng đồng đầu tư. Đối với các bộ phận công ty cần vốn để phát triển, khả năng thu hút
các quỹ đầu tư mới có thể được tăng cường nếu công ty là một bộ phận độc lập. Ở đây,
những nhà đầu tư đang xem xét việc đầu tư vào một công ty có thể dễ dàng dự đoán ra
lợi nhuận trong tương lai khi doanh nghiệp trở thành một công ty con xác định và riêng
lẻ thay vì nằm trong một kết cấu tập đoàn có triển vọng tăng trưởng rất khác biệt.
WESTERN UNION 2006 TÁCH RA KHỎI FIRST DATA CORP
Năm 2006, Tập đoàn First Data quyết định tách riêng Western Union thay vì giữ công
ty con trong tầm kiểm soát của Tập đoàn như một phần của tổng thể. First Data được
tách riêng từ American Express vào năm 1992, là một công ty xử lý thẻ tín dụng. Đây
là các công ty xử lý, theo dõi các giao dịch thẻ tín dụng và cung cấp các dịch vụ liên
quan khác, chẳng hạn như gửi thẻ tín dụng cho người tiêu dùng. hoạt động kinh doanh
cốt lõi của First Data bị ảnh hưởng đáng kể khi bị các đối thủ như Total Services
Systems tấn công mạnh mẽ vào thị phần của họ. Mặc dù hiệu suất tài chính tổng thể
của công ty suy yếu nhưng doanh nghiệp có một điểm sáng nổi bật là hoạt động kinh
doanh chuyển tiền - Western Union. Trong khi hoạt động kinh doanh bộ xử lý thẻ tín
dụng đang xấu đi, hoạt động kinh doanh của Western Union đang bùng nổ.
Thật trớ trêu khi Western Union lại là một doanh nghiệp có tốc độ phát triển cao như
vậy mặc dù nó được thành lập vào năm 1851. Ban đầu, doanh nghiệp được biết đến
như là công ty truyền thông và xây dựng máy điện báo xuyên Đại Tây Dương đầu
tiên. Trong khi nhiều công ty được thành lập vào thời điểm đó đã lâm vào quên lãng,
Western Union vẫn tiếp tục thích nghi với thị trường đang thay đổi và phát triển mạnh
mẽ. Hiện nay, Western Union là công ty chuyển tiền lớn nhất trên thế giới, với doanh
thu hàng năm là 4 tỷ đô la. Công ty thực hiện 275 triệu giao dịch mỗi năm, thông qua
271,000 điểm giao dịch trên khắp châu Á, châu u, Mỹ Latin và Hoa Kỳ. Họ đã có khả
năng thúc đẩy sự phát triển thông qua chiến lược mở rộng quốc tế rộng lớn. Tuy nhiên,
nhiều tiến bộ mà Western Union đang làm ra khó có thể thấy được khi nó còn thuộc
về một doanh nghiệp xử lý thẻ tín dụng tầm thường. Kết luận hợp lý là phát hành
Western Union thông qua một giao dịch tách riêng và miễn thuế cho cổ đông của First
Data Corp để họ thấy được lợi ích từ sự thành công tiếp theo của Western Union.
Eric Dash, “Western Union, Growing Faster Than Its Parent, Is to Be Spun Off,” New
York Times, January 27, 2006, C3.
Hiệu ứng tài sản của cổ đông từ các công ty chia tách
Không có gì đáng ngạc nhiên khi thị trường thích những công ty chia tách. Các giao dịch
này hoàn thành nhiều mục tiêu giống nhau của việc thoái vốn nhưng không có tác động
bất lợi về thuế. Bảng 11.6 cho thấy lợi nhuận bất thường trung bình thu được từ nhiều
nghiên cứu trong giai đoạn 1962–2007 là 3,3%.
Ảnh hưởng tài sản của cổ đông từ các công ty chia tách: Bằng chứng về ảnh hưởng
của công ty mẹ và công ty con
Cusatis, Miles và Woolridge đã kiểm tra lợi nhuận cổ phiếu phổ thông của cả công ty
con và công ty mẹ trước đây của chúng. Không giống như một số nghiên cứu trước đó,
chủ yếu kiểm tra lợi nhuận của cổ đông và bao gồm cả thông báo về công ty con, nghiên
cứu này bởi Cusatis và cộng sự đã theo dõi các công ty sau quá trình tách công ty để xác
định xem những tác động lâu dài hơn đến tài sản là gì. Các nhà nghiên cứu này đã kiểm
tra 815 đợt phân phối cổ phiếu trong các công ty tách ra từ năm 1965 đến năm 1988.
Cusatis và cộng sự. nghiên cứu trình bày một bức tranh rất thuận lợi về hiệu suất sau sự
kiện chia tách. Cả hai công ty con và công ty mẹ của chúng đều cho thấy lợi nhuận tăng
mạnh trong khoảng thời gian từ 6 tháng trước đến 36 tháng sau ngày phân phối cổ phiếu.
Một phát hiện thú vị khác của Cusatis et al. là cả công ty con và công ty mẹ đều tích cực
hơn trong việc tiếp quản so với nhóm kiểm soát của các công ty tương đương. Hoạt động
tiếp quản này có thể giúp giải thích một số mặt tích cực lên tài sản của cổ đông. Khi các
công ty tham gia vào việc tiếp quản bị loại khỏi mẫu, lợi nhuận vẫn dương nhưng không
khác 0 về mặt thống kê. Điều này cho thấy rằng các công ty con và công ty mẹ của chúng
có nhiều khả năng tham gia vào các vụ thâu tóm hơn và khi thực hiện như vậy, chúng
cho phép các cổ đông của mình nhận được phí mua lại.
TAN RÃ AT&T: MỘT TRONG NHỮNG VỤ CHIA TÁCH CÔNG
TY NỔI TIẾNG
AT&T đã trải qua nhiều lần tái cơ cấu trong lịch sử của mình. Trước khi AT&T tan rã
vào năm 1984, nó đã thống trị lĩnh vực kinh doanh viễn thông địa phương và đường
dài ở Hoa Kỳ. Để mắt đến những ngành thú vị hơn, chẳng hạn như kinh doanh máy
tính, AT&T đã tan rã với các công ty điều hành địa phương “nhàm chán” của mình.
Các doanh nghiệp này được tách thành bảy công ty điều hành khu vực: Ameritech,
Bell Atlantic, BellSouth, Nynex, Pacific Telesis, Southwestern Bell và U.S. West. Một
số “Baby Bells” này sau đó đã hợp nhất, chẳng hạn như Nynex và Bell Atlantic, kết
hợp lại để tạo thành Verizon, công ty cuối cùng trở thành một trong những công ty
viễn thông lớn nhất ở Hoa Kỳ. Các cổ đông của AT&T nhận được 1 cổ phiếu của mỗi
công ty trong khu vực này cho mỗi 10 cổ phiếu họ nắm giữ tại AT&T. Họ cũng vẫn
sở hữu 10 cổ phiếu của AT&T mới, điều này chứng tỏ đây là một công ty sẽ vướng
vào một số thất bại sáp nhập đáng chú ý hơn trong lịch sử sáp nhập. Thật vậy, AT&T
còn sống sót cuối cùng sẽ được mua lại bởi một trong những người con của nó –
Southwestern Bell. AT&T nổi lên từ công ty chia tách đã có thành tích đáng kinh ngạc
khi thực hiện một số vụ sáp nhập tồi tệ nhất trong lịch sử. AT&T tỏ ra là một công ty
gặp khó khăn trong việc học hỏi từ những sai lầm của mình và sẽ tiếp tục thực hiện
những sai lầm sáp nhập lớn hơn bao giờ hết. Việc tách các công ty điều hành đã cho
phép AT&T gia nhập ngành công nghiệp máy tính, vì một sắc lệnh chấp thuận chống
độc quyền đã cấm hãng này sử dụng doanh thu từ hoạt động kinh doanh viễn thông
của mình để tài trợ cho các dự án mạo hiểm cạnh tranh vào các ngành khác. Khi AT&T
không thành công với hoạt động kinh doanh máy tính của mình, họ đã mua lại NCR
trong một thương vụ mua lại thù địch và trả giá quá cao sau khi gặp phải sự phản đối
từ mục tiêu. Những rạn nứt về văn hóa còn tạo ra nhiều vấn đề hơn nữa và cuối cùng
AT&T đã tự chia thành ba phần. Phục hồi sau những vết thương trong làn sóng sáp
nhập thứ tư, đội ngũ quản lý mới quyết định vượt qua những người tiền nhiệm của họ
trong lĩnh vực kinh doanh sáp nhập thất bại. Ban quản lý của AT&T ghen tị với sự
tăng trưởng và lợi nhuận của các công ty con của họ, chẳng hạn như Verizon. Nó mong
muốn có thể cung cấp các dịch vụ điện thoại địa phương. Thật không may, khi đã từng
kinh doanh lĩnh vực này, nó đã phải từ bỏ tất cả trong làn sóng sáp nhập thứ tư để có
thể tham gia vào lĩnh vực kinh doanh máy tính, nhưng nó đã thất bại. Phiên bản làn
sóng thứ năm của AT&T muốn tiếp cận thị trường điện thoại địa phương và tin rằng
hai công ty, MediaOne và TCI, sẽ cho phép nó thực hiện được điều này. Nó cũng muốn
trở thành một cửa hàng tổng hợp, cung cấp cáp và viễn thông đường dài, di động và
địa phương cho khách hàng của mình. Người đọc cần cảnh giác khi ban quản lý cung
cấp cho khách hàng trung tâm thương mại, điểm đến cho mọi nhu cầu. AT&T thông
báo rằng họ đang trả khoảng 100 tỷ USD cho hai thương vụ mua lại cáp của mình. Sau
khi mua lại các công ty (đẩy người bán đi mà không thực hiện thẩm định thích đáng),
họ phát hiện ra rằng các tuyến cáp địa phương được mua lại không thể hỗ trợ các dịch
vụ viễn thông nếu không có nguồn vốn lớn. Một lần nữa, AT&T lại phạm sai lầm trong
lĩnh vực M&A – với sai lầm sau lại lớn hơn sai lầm trước. Không lâu sau các thỏa
thuận, AT&T tuyên bố sẽ đổ bể—một lần nữa. Thật trớ trêu là sau sự thất bại và tan
rã trong hoạt động M&A gần đây nhất này, AT&T đã được mua lại vào tháng 11 năm
2005 bởi một trong những công ty mà nó đã tách ra trước đó – SBC. SBC sau đó lấy
tên AT&T.
VỐN CHỦ SỞ HỮU ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC CHIA TÁCH: HOA
KỲ VÀ CHÂU ÂU
Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tác động lên tài sản của cổ đông của các đợt bán tháo và
đặc biệt là các đợt bán tháo nói riêng đều tập trung vào các công ty và thị trường Hoa
Kỳ. Boreiko và Murgia đã phân tích 97 công ty spin-off ở châu u. Họ phát hiện ra rằng
ở châu u, các công ty chia tách thường được kích hoạt bởi cái mà họ gọi là “cơn động
đất quản trị”, chẳng hạn như việc bổ nhiệm một CEO mới hoặc mối đe dọa thâu tóm.
Quả thực, Shimizu và Hitt đã phân tích một mẫu thoái vốn ở Hoa Kỳ và cũng phát hiện
ra rằng việc bổ nhiệm một CEO mới làm tăng khả năng một đơn vị bị thoái vốn. Việc
chia tách doanh nghiệp phổ biến ở Anh hơn ở Châu u. Cơ cấu quyền sở hữu điển hình
ở Châu u tập trung hơn ở Anh hoặc Hoa Kỳ. Điều này đặt các cổ đông châu u lục địa,
ngoài những cổ đông nắm quyền kiểm soát lớn thường có quan hệ họ hàng gia đình, vào
vị thế ít có ảnh hưởng hơn so với các cổ đông ở Anh. Giống như hầu hết các nghiên cứu
về các công ty chi tách ở Mỹ, mẫu châu u của Boreiko và Murgia cho thấy tác động tích
cực đến tài sản của cổ đông đối với các thông báo về công ty chia tách. Cũng nhất quán
với các phát hiện của Hoa Kỳ, họ nhận thấy tác động của các thương vụ phụ tăng cường
sự tập trung cao hơn (5,7%) so với các thương vụ không tăng cường sự tập trung (3,3%).
Tuy nhiên, họ không nhận thấy sự cải thiện hiệu suất hoạt động ở các công ty mẹ sau khi
tách công ty, nhưng họ lại nhận thấy những tác động như vậy đối với thực thể được tách
ra. Các công ty tách ra có những cải tiến lớn nhất không phải là những công ty cho phép
công ty mẹ tập trung hơn mà thường là các đơn vị phát triển nội bộ. Điều này trái ngược
với nghiên cứu về các công ty phụ của Hoa Kỳ, cho thấy có xu hướng sự cải thiện hiệu
suất đối với các thỏa thuận nâng cao sự tập trung.
Bán tháo phòng thủ tự nguyện ảnh hưởng đến giá trị tài sản
Chúng ta đã thảo luận ở phần trước về tác động tích cực của việc bán tháo tự nguyện. Có
một số bằng chứng cho thấy khi việc bán tháo tự nguyện này được sử dụng như một biện
pháp chống lại sự thâu tóm, những tác động tích cực có thể không tồn tại. Loh, Bezjak
và Toms nhận thấy tác động tích cực của tài sản cổ đông đối với việc bán tháo tự nguyện
nhất quán với nghiên cứu khác đã được thảo luận. Tuy nhiên, họ phát hiện ra rằng phản
ứng tích cực này không xuất hiện khi các công ty sử dụng việc bán tháo như một biện
pháp phòng vệ chống thâu tóm. Trong một mẫu gồm 59 công ty từ năm 1980 đến năm
1987, 13 trong số đó có hoạt động đầu cơ tiếp quản, Loh, Bezjak và Toms nhận thấy lợi
nhuận bất thường trung bình tích lũy bằng 1,5% / ngày, tính đến ngày bán tháo. Tuy
nhiên, khi họ chia mẫu của họ thành hai mẫu phụ - những mẫu có và không có đầu cơ
thâu tóm - 13 công ty là mục tiêu của đầu cơ thâu tóm đã không cho thấy bất kỳ thay đổi
đáng kể nào về tài sản của cổ đông. Những kết quả này cho thấy rằng khi các công ty
tiến hành bán tháo để tránh bị tiếp quản, thị trường sẽ xử lý các giao dịch đó một cách
khác và không coi đó là một thay đổi tích cực.
Ảnh hưởng đến tài sản của việc bán tháo không tự nguyện
Hầu hết các nghiên cứu về tác động của việc bán tháo đối với tài sản của cổ đông đều
kết luận rằng việc bán tháo làm tăng tài sản của cổ đông công ty mẹ và thị trường có
phần hiệu quả trong việc dự đoán sự kiện này. Do đó, phản ứng giá cổ phiếu xảy ra trước
ngày bán tháo thực tế. Tác động làm tăng tài sản của việc bán đi một công ty con không
mong muốn hoặc hoạt động kém sẽ khác với tác động của việc công ty mẹ bị buộc phải
thoái vốn khỏi một bộ phận đang sinh lời. Đây là trường hợp khi Santa Fe – Nam Thái
Bình Dương nhận được phán quyết bất lợi yêu cầu họ phải thoái vốn khỏi Đường sắt
Nam Thái Bình Dương. Như đã lưu ý trước đó, giá cổ phiếu giảm và Santa Fe trở thành
mục tiêu tiếp quản. Năm 1981, Kudla và McInish đã tiến hành một nghiên cứu điển hình
về tác động của việc yêu cầu tách Công ty Louisiana-Thái Bình Dương bởi Georgia-
Pacific, công ty mẹ. Việc tách công ty được yêu cầu bởi Ủy ban Thương mại Liên bang
(FTC), trong đó kết luận rằng việc mua lại 16 công ty ở miền nam Hoa Kỳ, chiếm tổng
cộng 673.000 mẫu cây thông, sẽ dẫn đến sự tập trung phản cạnh tranh trong ngành ván
ép. Sử dụng số dư tích lũy để điều chỉnh các tác động của thị trường, Kudla và McInish
cho thấy giá cổ phiếu Georgia-Pacific đã giảm trước khi FTC chính thức nộp đơn khiếu
nại. Louisiana-Pacific được tách ra vào năm 1972. Tuy nhiên, xu hướng đi xuống này đã
kết thúc bằng việc tách ra, sau đó giá cổ phiếu tăng trở lại. Mặc dù giá cổ phiếu phục hồi
đáng kể nhưng số dư tích lũy không hồi phục hoàn toàn vào thời điểm bắt đầu của năm
1971, thậm chí cho đến tận tháng 3 năm 1974. Một nghiên cứu của Miles và Rosenfeld
cho thấy tài sản của những người nắm giữ trái phiếu đã giảm sau đợt chia tách ngay cả
khi sự giàu có của các cổ đông tăng lên. Điều này được cho là do dòng tiền thấp hơn sau
khi chia tách và dẫn đến sự gia tăng rủi ro cho các trái chủ. Kudla và McInish đã cố gắng
đo lường tác động rủi ro của việc tách ra Louisiana-Thái Bình Dương không tự nguyện
bằng cách kiểm tra beta của Georgia-Pacific trước và sau khi tách ra. Khi đó, hệ số beta
sẽ phản ánh bất kỳ thay đổi nào về rủi ro hệ thống hoặc rủi ro không thể đa dạng hóa liên
quan đến cổ phiếu Georgia-Pacific. Kudla và McInish nhận thấy beta của Georgia-
Pacific đã tăng lên đáng kể và có ý nghĩa thống kê sau giai đoạn chia tách. Họ cho rằng
sự gia tăng này là do thị trường nhận thức rằng Georgia-Pacific bị suy giảm quyền lực
độc quyền sau khi chia tách và điều này khiến công ty gặp rủi ro hơn. Cộng đồng nghiên
cứu tài chính dường như đã đạt được sự đồng thuận rằng việc thoái vốn do sự ủy quyền
của chính phủ bắt buộc, trái ngược với việc bán tháo tự nguyện, sẽ có tác động bất lợi
đến giá cổ phiếu của công ty thoái vốn. Việc xem xét của Ellert đối với 205 bị cáo trong
các vụ kiện sáp nhập chống độc quyền cho thấy giá trị vốn chủ sở hữu của các công ty
này đã giảm 21,86% trong tháng mà đơn khiếu nại được nộp. Vấn đề mà nghiên cứu của
Kudla và McInish giải quyết là thời điểm xảy ra tác động đó và sự đảo ngược của xu
hướng giảm.
Nếu việc thực thi chống độc quyền có hiệu quả trong việc làm giảm sức mạnh độc quyền
của công ty bán hàng thì điều này sẽ được phản ánh qua sự gia tăng giá trị vốn chủ sở
hữu của các đối thủ cạnh tranh của công ty đó. Thật không may, các cơ quan chống độc
quyền có thể tìm thấy rất ít sự hỗ trợ cho hành động của họ về giá cổ phiếu của các đối
thủ cạnh tranh của các công ty thoái vốn. Giá trị vốn cổ phần của các đối thủ cạnh tranh
của các công ty thoái vốn không cho thấy phản ứng tích cực đáng kể đối với các đợt bán
tháo bắt buộc.
Bằng cách giữ lại ít nhất 50%, công ty mẹ có thể hợp nhất doanh nghiệp cho mục đích
thuế. Allen và McConnell nhận thấy trung bình các công ty mẹ giữ lại gần 70% cổ phiếu
của đơn vị đã được tách ra, trong khi Vijh nhận thấy rằng các công ty mẹ giữ lại gần ba
phần tư cổ phiếu của công ty con (unit).
Chia tách cổ phiếu thường liên quan đến một số sự kiện tiếp theo. Ví dụ, một công ty mẹ
trước tiên có thể thực hiện chia tách cổ phiếu bằng cách bán một số cổ phiếu mà họ sở
hữu trong một công ty con nhưng sau đó có thể tiếp tục phân chia số cổ phiếu còn lại cho
cổ đông của chính công ty mẹ. Bằng cách phát hành một số cổ phiếu, người bán thiết lập
một giá trị thị trường cho đơn vị đó, giá trị này có thể được sử dụng trong việc tách toàn
bộ doanh nghiệp ra khỏi công ty mẹ. Do đó, việc chia tách cổ phiếu có thể cho phép công
ty mẹ “thử nghiệm” thị trường để xem thị trường có hứng thú mua cổ phiếu của công ty
con không. Nếu việc này có vẻ không hứa hẹn, công ty mẹ có thể chỉ yêu cầu cổ phiếu
của đơn vị đó - do đó sẽ hủy bỏ việc “bán”.
Cổ phiếu có thể được bán bởi công ty con hoặc công ty mẹ có thể đứng ra bán cổ phiếu.
Nếu công ty mẹ bán cổ phiếu, điều này được gọi là “chào bán sơ cấp”. Nếu công ty con
thực hiện bán, điều này được gọi là “chào bán thứ cấp”. Quá trình chào bán thứ cấp
không có tác động thuế, nhưng chào bán sơ cấp có thể dẫn đến thuế thu nhập về lợi nhuận
cho công ty mẹ. Đây là lí do tại sao hầu hết việc thoái vốn một phần là chào bán thứ cấp.
Khi đơn vị công ty con bán cổ phiếu, họ sẽ nhận được tiền thu. Điều này dẫn đến quyết
định về việc phải làm gì với số tiền thu được. Cách còn lại là sẽ trả số tiền đó cho công
ty mẹ, nhưng cần thực hiện một cách sao cho không gây ra tác động bất lợi về thuế. Một
cách để thực hiện điều này là cho phép đơn vị công ty con phát hành một biên lai hoặc
khoản công ty làm nghĩa vụ cổ phiếu cho công ty mẹ như một khoản cổ tức trước khi
thực hiện chia tách cổ phiếu. Khi đơn vị công ty con nhận được số tiền từ việc bán cổ
phiếu, công ty có thể trả khoản công ty đó.
Nhiều công ty thường xem chia tách cổ phiếu như một cách để giảm độ nhạy cảm đối
với một doanh nghiệp mà họ cho rằng không còn là chiến lược tốt hoặc có rủi ro cao hơn
so với điều họ muốn. Ví dụ, vào năm 1981, American Express đã mua công ty môi giới
Shearson. Sau đó, họ mua lại ngân hàng đầu tư Lehman Brothers để thành lập Shearson
Lehman. Đây là một lĩnh vực kinh doanh có rủi ro cao hơn so với hoạt động thẻ tín dụng
truyền thống của American Express. American Express sau đó quyết định rằng, mặc dù
họ thích giá trị cộng hưởng đi kèm với việc trở thành một công ty dịch vụ tài chính đa
dạng, họ muốn giảm độ nhạy cảm với các rủi ro của ngành kinh doanh chứng khoán.
Năm 1987, Amexco, công ty cổ phần mẹ của họ, đã bán 39% cổ phần của Shearson
Lehman. Điều này được chứng minh là một sự tình cờ vì giao dịch bán xảy ra trước khi
thị trường chứng khoán suy thoái, một sự kiện mà các công ty chứng khoán vẫn chưa hồi
phục từ đó cho đến cuối thập kỷ 1980. Công ty sau đó đã hoàn toàn loại bỏ những giao
dịch mua lại này. American Express đã tiếp tục tối ưu hóa việc kinh doanh của họ vào
năm 2005, khi họ phân chia công ty con thuộc lĩnh vực tài chính cá nhân của mình, trở
thành Ameriprise Financial Inc. Đây là một ví dụ khác về một ngành kinh doanh có liên
quan dường như có giá trị cộng hưởng lớn nhưng thực tế lại không có.
Một trong những lợi ích của việc chia tách một phần cổ phần là công ty thiết lập một thị
trường cho cổ phiếu của công ty con. Hulbert đã phân tích một mẫu dữ liệu gồm 172
trường hợp chia tách cổ phiếu và thấy rằng hầu hết thời gian, việc chia tách chỉ là một
“sự kiện tạm thời”. Điều này hàm ý việc công ty con bị chia tách không ở lại độc lập.
Điều này xảy ra khoảng một nửa thời gian. Hai mươi phần trăm thời gian, cổ phiếu của
đơn vị được mua lại bởi công ty mẹ, và mười sáu phần trăm thời gian, công ty con bị
một công ty khác mua lại.
HIỆU ỨNG CỦA CẢI CỦA CỔ ĐÔNG ĐẾN VIỆC PHÁ SẢN TỰ
NGUYỆN
Nghiên cứu của Skantz và Marchesini về thông báo giải thể từ 37 công ty từ năm 1970
đến 1982 đã cho thấy một lợi nhuận thặng dư trung bình là 21,4% trong tháng công bố.
Hite, Owers và Rogers cũng tìm thấy hiệu ứng tích cực về giá trị cổ đông trong tháng
công bố giải thể tự nguyện từ 49 công ty trong mẫu của họ, bao gồm các năm 1966 đến
1975. Họ đã cho thấy một lợi nhuận bất thường tích cực trong tháng công bố lên đến
13,62%. Gần một nửa các công ty trong mẫu của họ đã là đối tượng của các đề xuất kiểm
soát trong vòng hai năm kể từ thông báo kế hoạch giải thể. Các đề xuất này bao gồm một
loạt các biện pháp, bao gồm các thương vụ mua lại đòi hỏi vay (LBOs), đề nghị mua lại,
và cuộc chiến uỷ quyền. Hơn 80% của các công ty trong mẫu của họ đã thể hiện lợi
nhuận bất thường tích cực. Điều này ngụ ý rằng thị trường cổ phiếu đã đồng tình rằng
việc tiếp tục hoạt động của công ty dưới chính sách hoạt động trước đây sẽ làm giảm giá
trị cổ đông.
Phản ứng tích cực từ thị trường cổ phiếu đã được xác nhận bởi hai nghiên cứu khác. Kim
và Schatzberg đã tìm thấy một lợi nhuận tích cực 14% cho 73 công ty giải thể trong suốt
ba ngày xung quanh thông báo giải thể. Họ đã tiết lộ rằng một lợi nhuận 3% được thêm
vào khi các cổ đông xác nhận giao dịch. Kim và Schatzberg không phát hiện bất kỳ hiệu
ứng tài sản đáng kể nào, tích cực hoặc tiêu cực, đối với các cổ đông của các công ty mua
lại. Trong một nghiên cứu về 61 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán đã hoàn
thành việc giải thể tự nguyện từ năm 1970 đến 1991, Erwin và McConnell tìm thấy rằng
việc giải thể tự nguyện thường đi kèm với một lợi nhuận cổ phiếu thặng dư trung bình
cao hơn, lên đến 20%. Họ cũng xác nhận rằng việc giải thể tự nguyện thường xuất phát
từ việc doanh nghiệp đối diện với triển vọng tăng trưởng hạn chế. Quyết định giải thể là
một quyết định hợp lý bởi vì công ty giải phóng nguồn tài chính để áp dụng vào các cơ
hội sinh lời cao hơn. Như đã đề xuất trước đó, những nghiên cứu này ngụ ý rằng thị
trường cổ phiếu thường đồng tình rằng việc tiếp tục hoạt động của công ty theo chính
sách hoạt động trước đây sẽ làm giảm giá trị cổ đông. Điều này không quá bất ngờ bởi
vì hầu hết các công ty đang xem xét việc giải thể đang gặp vấn đề nghiêm trọng. Giải thể
sau đó giải phóng tài sản của công ty cho các công ty khác có thể thực hiện lợi nhuận
cao hơn từ chúng.
Vào ngày 13 tháng 6 năm 1995, Tập đoàn ITT thông báo rằng họ sẽ chia tách tập đoàn
khổng lồ được xây dựng trong giai đoạn sáp nhập thứ ba thông qua việc mua lại nhiều
doanh nghiệp không liên quan khác nhau trên toàn thế giới. Giao dịch này là một trong
những giao dịch lớn nhất trong lịch sử. công ty bao gồm việc tạo ra ba công ty riêng
biệt có sự quản lý của riêng mỗi công ty, mỗi công ty đều được niêm yết trên Sàn giao
dịch chứng khoán New York. Người nắm giữ cổ phiếu của ITT đã nhận được một cổ
phiếu của mỗi công ty mới.
Sự tan rã của ITT, từng được gọi là Công ty Điện thoại và Điện báo Quốc tế, là sự
chứng thực cho niềm tin rằng tổng các bộ phận của công ty, với tư cách là các pháp
nhân độc lập, có giá trị cao hơn giá trị của chúng cộng lại. dưới sự bảo trợ của ITT.
Thật khó để tìm thấy nhiều điểm tương đồng hoặc sự phối hợp trong Lợi ích kinh
doanh đa dạng của ITT; nghĩa là, sẽ hơi quá khi công ty cho rằng các sòng bạc và đội
khúc côn cầu có nhiều điểm chung với bảo hiểm tai nạn hoặc kinh doanh khách sạn.
Một trong những lợi ích rõ ràng của việc chia tách công ty là khả năng tiếp cận vốn tốt
hơn.
“Chúng tôi chỉ nghĩ rằng việc ba công ty này hoạt động và điều hành và được đánh giá
trong môi trường kinh doanh của chính họ sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư, nhà phân
tích và những người triển khai công ty một cách đơn giản hơn, rõ ràng hơn để đánh
giá chúng tôi,” chủ tịch, chủ tịch và giám đốc điều hành của ITT, Rand V. Araskog.
Tập đoàn trị giá 25 tỷ USD do Harold Geneen xây dựng đã được chia thành
ba công ty: công ty bảo hiểm ITT Hartford; một công ty sản xuất sản phẩm công
nghiệp, Công nghiệp ITT; và một công ty sòng bạc, khách sạn và thể thao, ITT
Corporation. Trong thời gian Những năm 1960 và 1970, ITT đã mua lại hơn 250 công
ty, trong đó có Avis Rent Một chiếc ô tô, Công ty làm bánh Continental, Căng tin,
Rayonier, Khách sạn Sheraton, Hartford Công ty bảo hiểm và các công ty khác. ITT
đã bán mảng kinh doanh cốt lõi ban đầu của mình vào 1986. Vào thời điểm đó, công
ty đã bán hoạt động viễn thông của mình cho Alcatel Alsthom (CGE Pháp).
Ba công ty mới đều bao gồm các bộ phận có chung những yếu tố chung mà có thể có
sự phối hợp. Ví dụ, nhiều trong số kỹ năng quản lý và hệ thống hành chính cần thiết
để điều hành một khách sạn cũng có phần giống với hệ thống quản lý của sòng bạc.
Trong Tập đoàn ITT mới, các khách sạn Sheraton và Ciga đã được hợp nhất. Cũng
nằm trong công ty này là Quảng trường Madison, Nhà thi đấu thể thao Garden (MSG),
cùng với hai trong số những người sử dụng chính của đấu trường là New York
Knickerbockers và New York Rangers. Ngoài ra, công ty còn có thỏa thuận hợp tác
với Cablevision System Corporation—New York công ty truyền hình cáp cung cấp
chương trình truyền hình cáp MSG để truyền hình các trận đấu của các đội này. Năm
1997, ITT bán Madison Square Garden và lợi ích của công ty trong các đội thể thao
cho Cablevision.
Sự tan rã của ITT là điển hình của các giao dịch diễn ra vào giữa những năm 1990, khi
áp lực phải tăng hiệu quả thay vì theo đuổi các mục tiêu phức tạp chiến lược mua lại
là xu hướng thời đó. Trong khi làn sóng sáp nhập thứ ba và thứ tư có nhiều thương vụ
mua lại đáng ngờ, thì từ đầu đến giữa những năm 1990 lại có nhiều vụ mua lại mang
tính chiến lược hơn, bên cạnh việc làm sáng tỏ nhiều thương vụ được hình thành kém
cỏi trong các giai đoạn trước đó.