You are on page 1of 4

Thụ thể kết hợp enzyme

Enzyme-coupked receptors là những protein vận chuyển xuyên màng thể hiện những miền
liên kết phối tử trên mặt ngoài của màng sinh chất. Miền sinh chất của các thụ thể hoặc là
hoạt động như một enzyme, hoặc là hình thành nên những phức hợp cùng với các protein
khác, và những phức hợp này hoạt động như một enzyme.
Thụ thể kết hợp enzyme được phát hiện thông qua vai trò của nó trong đáp ứng các protein
tín hiệu ngoại bào điều hoà sụ tăng trưởng, tăng sinh, biệt hoá và sự sống của tế bào mô
động vật. Hầu hết các phân tử tín hiệu này có chức năng như những local mediator và có thể
hoạt đoojng ở nồng độ rất thấp. Đáp ứng các tín hiệu trên thường chậm (vài giờ) và ảnh
hưởng của nó có thể yêu cầu nhiều bước dẫn truyền nội bào, thường dẫ đến sự thay đổi
trong biểu hiện gene.
Tuy nhiên, các thụ thể kết hợp enzyme cũng có thể làm trung gian tái cấu hình trực tiếp,
nhanh chóng của tế bào, thay đổi hình dạng của tế bào và cách nó di chuyển. Các tín hiệu
ngoại bào gây ra những thay đổi như vậy thường không phải là protein tín hiệu khuếch tán,
mà là các protein gắn vào bề mặt mà tế bào đang bò.
Phân lớp lớn nhất của các thụ thể này bao gồm các thụ thể có miền sinh chất có chức năng
như một tyrosine kinase – phosphoryl hoá các tyrosines cụ thể trên các protein tín hiệu nội
bào chuyển biệt. Những protein đó được gọi là Receptor Tyrosine Kinasen (RTKs)

Activated RTKs Recruit a Complex of Intracellular Signaling Proteins


Để hoạt động như một signal transducer, thì một thụ thể kết hợp enzyme phải bật (switch
on) hoạt độgn enzyme trên miền nội bào của nó ( hoặc là của một enzyme liên kết) khi một
phân tử tín hiệu bên ngoài liên kết với miền ngoại bào của nó.
Trong nhiều tường hợp, sự liên kết của phân tử tín hiệu ngoài bào khién cho hai phân tử thụ
thể tiến lại gần như trên màng sinh chất, hình thành một dimer. Sự kết cập này mang 2
intracellular tails của những thụ thể lại với nhay và hoạt hoá vùng kinase domains chúng,
bằng cách phosphoryl hoá tail của nhau. Trong trường hợp của RTKs, sự phosphoryl hoá diễn
ra trên nhữung tyrosines chuyên biệt.
Quá trình phosphoryl hóa tyrosine này sau đó kích hoạt sự lắp ráp của một phức hợp tín hiệu
nội bào ngắn ngủi nhưng phức tạp trên đuôi tế bào của các thụ thể . Các tyrosines mới
phoshporyl háo đóng vai trò là nơi kết nối (docking site) cho nhiều protein tín hiệu nội bào –
lên tới 10 – 20 phân tử khác nhau. Một số những protein trên trở nên P.hoá và hoạt hoá, sau
đó truyền tín hiệu. Một số khác có chức năng như Scaffolds, kết hợp receptor với những
phân tử tín hiệu khác, do đó giúp tạo nên một phức hợp tín hiệu chủ động.
Tất cả các protein tín hiệu nội bào được kết nối trên đều có một miền tương tác chuyên biệt,
giúp nhận ra tyrosines đã phosphoryl hoá trên đuôi thụ thể.
Khi nào nó còn liên kết cùng nhau, thì cac phức hợp protein tín hiệu lắp trên đuôi sinh chất
của RTKs vẫn có thể vận chuyển tín hiện dọc theo một số tuyến đường đồng thời đến nhiều
điểm đến trong té bào, do đó kích hoạt và phối hợp nhiều thay đổi sinh hoá cần thiết để kích
hoạt một phản ứng phức tạp như tăng sinh hoặc biệt hoá tế bào.
Kết thúc đáp ứng bằng tyrosine phosphatases, loại bỏ phosphate đã được gắn trước đó trên
tyrosine và các protein tín hiệu. Trong một vài trường hợp, RTKs bị bất hoạt một cách đáng
sợ hơn, chúng bị kéo vào bên trong bỏi endosytosis và sau đó bị phá huỷ bởi lysosomes
CÁc RTKs tuyển chọn các tập hợp protein tín hiệu nội bào khác nhau, sinh ra những ảnh
hưởng khác nhau. Tuy nhiên, một số thành phần xác định được sử dụng bởi hầu hết RTKs.
Chúng bao gồm, ví dụ, một phospholipase C hoạt động theo cách tương tự như
phospholipase C được kích hoạt bởi GPCR để kích hoạt con đường tín hiệu phospholipid
inositol đã thảo luận trước đó (xem Hình 16-23). Một protein tín hiệu nội bào khác được kích
hoạt bởi hầu hết các RTK là một protein liên kết GTP nhỏ gọi là Ras, như chúng ta sẽ thảo
luận tiếp theo.

Most RTKs Activate the Monomeric GTPase Ras


Như đã tìm hiểu, RTK đã hoạt hoá tuyển chọn và kích hoạt nhiều loại protein tín hiệu nội
bào, dẫn tới sự hình thành của các phức hợp tín hiệu lón trên đuôi của RTK. Một thành viên
quan trọng trong đám phức hợp đó là Ras – một protein liên kết GTP nhỏ được liên kết bởi
đuôi lipid với bề mặt sinh chất (cytosolic face) của màng sinh chất.
Hầu như tất cả các RTK đều kích hoạt Ras, bao gồm các thụ thể yếu tố tăng trưởng có nguồn
gốc tiểu cầu (PDGF - platelet-derived growth factor), làm trung gian tăng sinh tế bào trong
chữa lành vết thương và thụ thể yếu tố tăng trưởng thần kinh (NGF - nerve growth factor),
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của một số tế bào thần kinh động vật có xương
sống.
Protein Ras thường được gọi là mono GTPase để phân biệt nó vói trimeric G protein. Ras
giống như tiểu đơn vị alpha của G protein và hoạt động theo cách tương tự. Nó xoay vòng
giữa hai trạng thái cấu trúc riêng biệt – hoạt động khi liên kết GTP và bất hoạt khi liên kết
GDP. Việc tương tác với một protein hoạt hoá được gọi là Ras-GEF kích thích Ras thay đổi
GDP của nó thành GTP, do đó bật Ras chuyển sang trạng thái được hoạt hoá. Sau một tgian,
Ras bị tắt (switch off) bởi một GAP được gọi là Ras-GAP, tăng cường sự thuỷ phân liên kết
GTP thành GDP

trạng thái hoạt động của nó, Ras khởi


xướng một dòng thác p.hoá trong đó một
loạt các tyrosine/threonine p.hoá và kích
hoạt lẫn nhau theo trình tự, như một trò
chơi domino nội bào. Hệ thống chuyển
tiếp này, mang tín hiệu từ màng sinh chất
đến nhân , bao gồm một mô đun ba
kinase đuọc gọi là mô-đun tín hiệu MAP-
kinase (MAP-kinase signaling module),
để vinh danh enzyme cuối cùng trong
chuỗi, protein kinase kích hoạt mitogen
hoặc MAP-kinase.

Trong con đường này, MAP kinase được p.hoá


và kích hoạt bởi một enzyme gọi là MAP –
kinase kinase. Protein này tự nso được kích
hoạt bởi MAP kinase kinase kinase (được kích
hoạt bởi Ras). Ở kết thúc của MAP-kinase
cascade, MAP kinase p.hoá nhiều effector
protein, bào gồm các protein điều hoà phiên
mã, thay đổi khả năng kiểm soát sự phiên mã
của nó. Sự thay đổi kết quả trong mô hình
biểu hiện gen có thể kích thích sự tăng sinh tế
bào, thúc đẩy sự sống sót của tế bào hoặ
cgaay ra sự biệt hoá tế bào: hệ quả chính xác
sẽ phụ thuộc và gen nào khác được hoạt hoá
trong tế bào và những tín hiệu khác mà tế bào
nhận được.

Trước khi Ras được phát hiện trong các tế bào thường, một dạng đột biến của proein đã
được tìm thấy trong các tế bào ung thư ở người. ĐỘt biến làm bất hoạt hoạt động GTPase
của Ras, do đó protein không thể tự tắt (shut itself off), thúc đẩu sự tăng sinh không kiẻm
soát và sự phát triển của ung thư. Khảong 30% nguòi mắc ung thư có các đột biến hoạt động
ở Ras gene; ở những người không có, nhiều người có đột biến trong các genes có đoạn mã
hoá proteins có chức năng trong con đường truyền tín hiệu như Ras. Nhiều gen mã hóa các
protein tín hiệu nội bào bình thường ban đầu được xác định trong cuộc săn lùng các gen gây
ung thư thúc đẩy ung thư

You might also like