You are on page 1of 28

I.

Mở đầu:

Ảnh hưởng của yếu tố ngoại lai đến nền âm nhạc Việt Nam là một hiện tượng đa
diện, đa chiều và có một sự gắn bó mật thiết với vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc. “Yếu
tố ngoại lai” nghĩa là có sự ảnh hưởng hoặc lai tạo từ những yếu tố của nước ngoài.
“Yếu tố ngoại lai trong âm nhạc” tức chỉ sự du nhập và ảnh hưởng của âm nhạc nước
ngoài đối với nền âm nhạc truyền thống Việt Nam. Là một quốc gia chịu ảnh hưởng
bởi quá trình đô hộ của Trung Quốc và Pháp, Việt Nam ắt không thể không tránh khỏi
việc chịu vô số những ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài trong suốt quá trình bảo vệ,
xây dựng và phát triển không chỉ riêng lĩnh vực văn hóa mà còn các khía cạnh khác
như kinh tế, chính trị...Việc chịu ảnh hưởng của các yếu tố ngoại lai là một điều không
thể tránh khỏi, bởi nó là một quy luật tất yếu của thời đại: “Sự tiếp xúc, giao thoa giữa
các nền văn hoá luôn luôn diễn ra trong quá trình phát triển của nhân loại. Đó là một
nhu cầu tất yếu, một quy luật của phát triển”. Chúng ta tiếp nhận tinh hoa của những
nền văn hóa khác rồi điều chỉnh, cải biến sao cho thích hợp, điều này dẫn đến sự tiếp
biến văn hóa. Đặc biệt là ở lĩnh vực nghệ thuật - một thành tố luôn song hành cùng văn
hóa mà cụ thể hơn là về phương diện âm nhạc. Âm nhạc Việt Nam đã và đang từng
bước cho thấy những nỗ lực trong việc tiếp nhận và học hỏi những chất liệu hiện đại
của âm nhạc thế giới; song vẫn duy trì sự cân bằng trong việc gìn giữ những nét đẹp
riêng mang giá trị nghệ thuật đậm đà bản sắc Việt và phát triển, làm mới những giai
điệu của âm nhạc dân gian truyền thống nhằm tạo nên một nền âm nhạc sống động,
phong phú.

Hơn sáu thập kỷ qua, chúng ta đã chứng kiến những ảnh hưởng rõ nét của yếu tố
ngoại lai đối với nền âm nhạc Việt: Bắt đầu hình thành từ những năm cuối của thập
niên 40 cho tới sự "vươn mình" hội nhập ở những năm thập niên 90 và tiếp tục cho
thấy sự đi lên và phát triển. Có thể thấy, âm nhạc thế giới có tác động rất lớn trong quá
trình phát triển và đổi mới nhạc Việt. Song song với những chuyển biến tích cực thì
yếu tố ngoại lai vẫn tồn đọng những mặt tiêu cực đến bản sắc văn hóa dân tộc nói
chung và đối với nền âm nhạc Việt Nam nói riêng, nếu không đảm bảo được tính cân
đối thì yếu tố ngoại lai sẽ gây nên tình trạng suy thoái nghệ thuật truyền thống, dần
dần đánh mất đi sự đặc trưng và đặc thù văn hóa. Việt Nam là quốc gia có một di sản
âm nhạc rất phong phú với âm điệu mang nét đặc trưng của văn hóa vùng miền, ví dụ
như những câu ca dao, những bài dân ca, những thể loại truyền thống như: Chèo,
Tuồng, Đờn ca tài tử...Cùng với sự du nhập của nền âm nhạc đương đại, sự bảo tồn và
phát triển những loại hình nghệ thuật âm nhạc truyền thống cần nhận được sự quan
tâm nhiều hơn; qua đó định hình nền âm nhạc trong nước phát triển cân bằng, bền
vững mà vẫn bắt kịp với xu thế phát triển của văn hóa đại chúng.
II. Nền âm nhạc đại chúng Việt Nam từ 1950 - 1990:

2.1. Ảnh hưởng của yếu tố ngoại lai và hiện trạng của nền âm nhạc đại chúng
Việt Nam từ 1954 - 1986:

2.1.1. Trước Ngày Thống nhất:

Hiệp định Genève được ký kết đã giải phóng hoàn toàn miền Bắc khỏi ách đô hộ của
thực dân Pháp, tuy vậy, miền Nam Việt Nam vẫn chịu sự quản lý của chế độ ngụy
quyền. Đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai thể chế chính trị khác
nhau. Từ đây đã dẫn đến sự phát triển khác biệt về mặt văn hóa, đặc biệt là trong tiến
trình lịch sử của nền âm nhạc Việt Nam.

2.1.1.1. Ở miền Bắc:

Từ năm 1954, Chính phủ ban lệnh cấm lưu hành mọi loại hình giải trí phương Tây
tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và thủ đô Hà Nội. Do đó, với quan điểm văn nghệ
phục vụ chính trị, âm nhạc miền Bắc chủ yếu tập trung vào hai đề tài: chống Mỹ cứu
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nhạc cách mạng đồng hành cùng nhạc
dân ca, trở thành hai dòng nhạc duy nhất được lưu hành và biểu diễn trong các buổi
sinh hoạt, hội văn nghệ.

Ở giai đoạn đầu, tiếp nối niềm hân hoan khi miền Bắc được giải phóng là những
“Lời ca thống nhất” của Trần Quý, “Liên khu Năm yêu dấu” của Phan Huỳnh
Điểu,...Nỗi niềm nhớ thương miền Nam được thể hiện qua các ca khúc “Quê mẹ” của
Hoàng Việt, “Quê tôi miền Nam” của Phan Huỳnh Điểu,...Đến cuối những năm 50,
hòa chung bầu không khí vui mừng khi miền Bắc hoàn thành kế hoạch ba năm và đạt
được một số thành tựu nhất định trong công cuộc xây dựng đất nước là một loạt các
sáng tác như: “Mời anh đến thăm quê tôi” của Nguyễn Đức Toàn, “Tiếng hát giữa
rừng Pắc Bó” của Nguyễn Tài Tuệ,...

Từ năm 1960, khi miền Nam tiến hành kháng chiến chống Mỹ với sự chi viện của
miền Bắc, nội dung sáng tác chính trong giai đoạn này là các ca khúc cổ vũ tinh thần
và ý chí chiến đấu. Bài hát “Giải phóng miền Nam” của Huỳnh Minh Siêng ra đời đã
tiên phong cho hàng loạt các nhạc phẩm về đề tài chống Mỹ cứu nước tiêu biểu như:
“Bài ca may áo” của Xuân Hồng, “Giờ hành động” của Lưu Hữu Phước,...
Đỉnh cao của cuộc chiến nằm ở giai đoạn cuối là Chiến dịch Xuân - Hè 1972. Chiến
thắng Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không đã truyền cảm hứng sáng tác cho các nhạc sĩ
đương thời, các sản phẩm âm nhạc ra đời trong bầu không khí hân hoan, vui mừng:
“Tiếng người vang mãi trên đường hành quân” của Phan Khắc Vinh, “Tiếng hát
trên quê hương giải phóng” của Phạm Đình Sáu,…

Do bị giới hạn ở chủ đề và thể loại sáng tác, các nhạc sĩ miền Bắc chủ yếu hướng
đến tính sáng tạo trong lĩnh vực chuyên môn với các kỹ thuật nhạc thính phòng, phô
diễn khả năng thanh nhạc nhiều hơn so với âm nhạc miền Nam cùng thời, vốn được tự
do lưu hành hơn.

2.1.1.2. Ở miền Nam:

Trong khi đó, dưới sự thống trị của ngụy quyền Sài Gòn, âm nhạc miền Nam sở dĩ
có xu hướng tự do hơn là vì mục đích phục vụ cho nhu cầu giải trí của người Mỹ và
người nước ngoài. Chính vì vậy, nhạc Rock đã du nhập vào Việt Nam qua Sài Gòn.
Rock đã len lỏi trong các hộp đêm, trên đường phố, trong các đĩa nhạc được xách tay
từ Mỹ và dần trở thành một xu hướng mới trong giới trẻ miền Nam thời bấy giờ.

Nổi bật nhất là vào đầu thập niên 70, Trường Kỳ gọi đây là giai đoạn “Việt hóa của
nhạc trẻ” - sáng tác lời Việt cho các ca khúc Pop Rock Âu - Mỹ. Đây cũng là thời
điểm một ban nhạc Việt Nam đúng nghĩa đầu tiên được thành lập và trình diễn các
sáng tác của mình bằng tiếng Việt: Ban Phượng Hoàng (bao gồm Lê Hựu Hà, Nguyễn
Trung Cang, Nguyễn Trung Vinh, Lê Huy và Elvis Phương). “Họ dùng âm nhạc để
nói lên khát vọng của mình, để nói lên sự phẫn nộ đối với một cuộc sống nhiều giả
dối. Và nhất là để bộc lộ được quan niệm của mình trước những sự kiện xảy ra trong
cuộc sống” (Trường Kỳ). Như bao người trẻ khác khi đối mặt với một xã hội sa vào
chiến tranh và bạo lực không hồi kết, Lê Hựu Hà đã thể hiện khao khát được sống thật
và từ bỏ những điều giả dối với các ca khúc “Tôi muốn”, “Hãy ngước mặt nhìn đời”.
Tiếp bước người bạn cùng nhóm, Nguyễn Trung Cang cùng “Mặt trời đen” cũng nói
về nỗi hoang mang trên hành trình đi tìm chỗ đứng của tuổi trẻ.
Bên cạnh âm hưởng từ văn hóa Rock, âm nhạc miền Nam còn đa dạng trong thể loại
và chủ đề sáng tác. Một lớp nhạc sĩ trẻ ưa chuộng các bản tình ca như Ngô Thuỵ Miên
với “Niệm khúc cuối”, Từ Công Phụng với “Bây giờ tháng mấy” hay Lê Uyên
Phương với “Dạ khúc cho tình nhân”,...

Khi chiến tranh ngày càng lan rộng, đi đôi với các sáng tác cổ vũ tinh thần chiến sĩ là
dòng nhạc phản chiến, mà người tiên phong trong thể loại này là nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn. Từ năm 1966, ông đã chinh phục công chúng với các nhạc phẩm “Nối vòng tay
lớn”, “Huế Sài Gòn Hà Nội”,...nhờ đánh trúng tâm lý ngao ngán chiến tranh và khao
khát hòa bình của một bộ phận người trẻ. Ngoài ra, sự kết hợp của ông và nữ ca sĩ
Khánh Ly đã trở thành một hiện tượng bất hủ trong làng tân nhạc Việt Nam qua một
loạt các ca khúc như: “Diễm xưa”, “Cát bụi”, “Còn tuổi nào cho em”,...

2.1.2. Sau Ngày Thống nhất:

Chiến dịch Hồ Chí Minh thắng lợi đã làm sụp đổ hoàn toàn ách thống trị thực dân
mới của đế quốc Mỹ tại Việt Nam, giải phóng hoàn toàn miền Nam và tiến tới thống
nhất đất nước. Trong bối cảnh ấy, nền văn hóa nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói
riêng đã có những thay đổi đáng kể ở cả hai khu vực miền Bắc và miền Nam.

2.1.2.1. Ở miền Bắc:

Sau khi thống nhất đất nước, tâm lý chung thời ấy của công chúng là mong muốn
được tận hưởng niềm vui hòa bình sau nhiều năm chiến đấu. Tâm lý ấy đòi hỏi âm
nhạc Việt Nam cần phải có những chuyển biến mới, đặc biệt là sự chuyển hướng nội
dung đề tài ca khúc từ thời chiến sang thời bình. Vì vậy, trào lưu nhạc Âu - Mỹ cùng
với nhạc trẻ từ miền Nam đã “hành quân” lên miền Bắc và chiếm một vị trí quan trọng
trong đời sống âm nhạc của nhân dân.

Các sáng tác của Trịnh Công Sơn với tiếng hát Khánh Ly đã theo các băng cối AKAI
đến từng căn nhà ở miền Bắc. Những tình khúc vượt thời gian như: “Biển nhớ”, “Ru
tình” hay “Áo lụa Hà Đông” đã từng quen tai với các khán giả miền Nam lại một lần
nữa ra mắt công chúng ở miền Bắc.
Từ năm 1976, một số nhóm nhạc trẻ (Hy Vọng, Đại Dương, Phù Sa…) đã thổi một
luồng gió mới vào miền Bắc với dòng nhạc điện tử. Tuy sự xuất hiện của nhạc điện tử
những ngày đầu có dấy lên nhiều tranh cãi nhưng để đáp ứng các nhu cầu trong đời
sống, thể loại nhạc này dần được hợp thức hóa trong các dàn nhạc chuyên nghiệp và
nghiệp dư, đặc biệt là sự kết hợp giữa nhạc thính phòng và nhạc điện tử đã tạo ra dàn
nhạc Semi-classique.

2.1.2.2. Ở miền Nam:


Chế độ ngụy quyền thất bại tại chiến trường Việt Nam và ra đi với hành lý là những
đĩa nhạc Pop, Rock cùng lối văn hóa giải trí kiểu Mỹ. Chính vì vậy, các nhạc sĩ miền
Nam buộc phải phá vỡ lối tư duy âm nhạc cũ và chuyển mình sang thời kỳ sáng tác
mới. “Gửi nắng cho em” của Phạm Tuyên, “Em ơi mùa xuân đến rồi đó” của Trần
Chung hay “Chiều trên bến cảng” của Nguyễn Đức Toàn là những minh chứng chân
thật trên hành trình cởi bỏ “tấm áo” âm nhạc không còn vừa vặn.

2.2. Âm nhạc đại chúng Việt Nam giai đoạn hậu chiến tranh và quá trình giao lưu
tiếp biến âm nhạc giai đoạn đầu đổi mới: (line Ánh Lê)

2.2.1. Giai đoạn hậu chiến tranh:

2.2.2. Quá trình giao lưu tiếp biến âm nhạc giai đoạn đầu đổi mới:

2.3. Thành công và thăng trầm của nền âm nhạc Việt Nam sau 1975:

Sau năm 1975, mọi loại hình giải trí mang ảnh hưởng của Mỹ đều bị cấm lưu hành
trong nước. Không còn cơ hội biểu diễn những nhạc phẩm cũ, phần lớn nghệ sĩ miền
Nam vốn đã gắn bó với văn hóa giải trí Âu - Mỹ quyết định di cư sang nước ngoài
hoặc chuyển hướng sáng tác. Các ấn phẩm nghệ thuật như đĩa than, băng cối, băng
cassette thu thanh của miền Nam ngày trước gần như bị tiêu hủy, chỉ còn sót lại một số
đĩa nhạc cực hiếm với mức giá đắt đỏ. “Tuy nhiên, mặt tích cực là cũng có những dự
án dày công sưu tầm và khôi phục những âm thanh đã mất này, điển hình như Saigon
Rock & Soul, Saigon Supersound vol.1 & 2, Saigon Soul Revival”.
Năm 1986, nhận thấy chế độ quan liêu bao cấp không còn phù hợp với tình hình phát
triển của đất nước, Việt Nam đã chuyển mình sang thời kỳ Đổi mới. Tình hình xã hội
và văn hóa đồng thời từng bước thay đổi một cách toàn diện. Người dẫn đầu của âm
nhạc sau đổi mới thời bấy giờ là nhạc sĩ Trần Tiến với chương trình “Đổi mới 87”.
Tuy nhiên, các sáng tác trong chương trình của ông phần lớn vấp phải tranh cãi dữ dội
và sau một thời gian đã bị cấm lưu hành vì nội dung bài hát không còn phù hợp với
chủ trương thời đại. Đến đầu năm 1988, các nhạc phẩm thời tiền chiến và tình ca sau
nhiều năm hạn chế đã được phục hồi lại và phổ biến rộng rãi đến công chúng.
III. Nền âm nhạc đại chúng Việt Nam từ 1990 - 2010:

3.1. Hiện trạng nền âm nhạc đại chúng Việt Nam từ 1990 – 2010:

Vào khoảng thời gian cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, nước ta đã có những thay đổi
toàn diện về nhiều mặt, cột mốc dễ nhận thấy chính là những chủ trương ngoại giao,
tiêu biểu như: Tháng 7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ bảy của tổ
chức ASEAN. Bên cạnh đó, vào năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành
viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và tổ chức thành công Hội nghị APEC
tại Hà Nội,...

Nhìn vào bối cảnh ấy, nền văn hóa Việt Nam theo lẽ tất yếu sẽ bị ảnh hưởng bởi
những yếu tố ngoại lai, cụ thể có thể đề cập đến là nền âm nhạc Việt Nam và sự
chuyển biến của nhạc Việt trong giai đoạn này. Xuyên suốt chặng hành trình kéo dài
hai thập kỷ, nền âm nhạc Việt Nam đã chứng kiến sự xuất hiện của nhiều thể loại và
xu hướng mới, cùng với sự trỗi dậy của các nghệ sĩ tài năng. Đây là một giai đoạn
quan trọng đánh dấu sự chuyển mình của âm nhạc Việt Nam từ một diện mạo truyền
thống sang một diện mạo hiện đại và phù hợp với xu hướng quốc tế.

3.1.1. Những nghệ sĩ và các thể loại âm nhạc tiêu biểu:

Vào thời kì này, hai thể loại âm nhạc thịnh hành là nhạc Pop và nhạc Rock bởi sự
ảnh hưởng khá lớn của văn hóa ngoại lai đến nước ta. Những bài hát được các nghệ sĩ
Việt Nam hiện đại hóa theo hơi hướng, phong cách của âm nhạc Âu Mỹ dần dà tiến
thẳng vào thị trường âm nhạc nước nhà rất mạnh mẽ. “Chương trình ca nhạc và thời
trang được giới trẻ quan tâm. Những Blues, Hip Hop và Rock, Pop của Mỹ được thế
hệ trẻ hồ hởi đón nhận và say sưa bắt chước. Các băng đĩa, hàng chục vạn bản, (bản
gốc và sao chép, in lậu) nhạc Rock, nhạc Pop và những băng đĩa của Britney Spears,
Christina Aguilera, Madonna, Michael Jackson, Ricky Martin có mặt mọi nơi ở nước
ta. Âm nhạc Mỹ, nhất là nhạc đại chúng ảnh hưởng rất lớn đến âm nhạc Việt Nam”.

Đề cập cụ thể đến nhạc Pop, đây là một thể loại nhạc đã được công chúng quốc tế
đón nhận từ trước đó. "Theo từ điển The New Grove, thuật ngữ popular music với ý
nghĩa là dòng nhạc được phổ biến ở Mỹ vào những năm 1880 và đến đầu thế kỷ 20 thể
loại này mới phát triển tại châu Âu. Thể loại âm nhạc này phụ thuộc vào văn hoá của
từng xã hội, không có ranh giới rõ ràng, thường được xem là loại nhạc đặc trưng của
một xã hội hiện đại. Đặc điểm của thể loại nhạc này trước hết có số lượng người nghe
đông đảo và không phân biệt tầng lớp xã hội". Cho đến tận bây giờ, khi nhắc đến
Michael Jackson, người hâm mộ đã nghĩ ngay đến danh xưng “Ông hoàng nhạc Pop”
vì công nhận tài năng âm nhạc cũng như những giá trị mà bài hát của ông đem lại; hay
nữ ca sĩ Britney Spears cũng thường được công chúng gắng với cái tên “công chúa
nhạc Pop” đã có vô số những thành công, những album với doanh thu triệu bản, những
bản hit bất hủ với thời đại như: “Toxic” hay “Baby One More Time”,...đã giúp cô trở
thành biểu tượng đình đám một thời. Sức ảnh hưởng của các nghệ sĩ nhạc Pop ngoại
quốc là cực kì to lớn, bởi họ có khả năng tạo nên những kỷ lục, những tác phẩm của
riêng họ. Sự nghiệp âm nhạc “đồ sộ” của họ đã có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn
cầu, từ châu Á cho đến Châu Âu…trong đó có Việt Nam. Nhạc Pop lúc này như một
làn gió mới của âm nhạc Việt, chính thể loại này đã mang những tiến bộ, hiện đại, độc
đáo của văn hóa Âu Mỹ đến nền âm nhạc nước nhà. Trong giai đoạn cuối những năm
2000, thể loại nhạc Pop du nhập vào nước ta được mở rộng: Vẫn chịu ảnh hưởng của
âm nhạc Âu Mỹ là chính, nhưng ngoài ra còn có một sự ảnh hưởng không hề nhỏ đến
từ phương Đông, tiêu biểu là đất nước Hàn Quốc với dòng nhạc K-Pop (Korean
Popular Music) đã khuấy đảo thị hiếu của giới trẻ, tạo nên vô vàn trào lưu sôi nổi lúc
bấy giờ, chẳng hạn như: “Văn hóa thần tượng” của các bạn trẻ cũng bắt nguồn từ đây.
Ngành công nghiệp giải trí ở Hàn Quốc đã tạo ra những tiếng vang lớn đến các nước
trong khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam cũng chịu sự ảnh hưởng mạnh
mẽ của làn sóng Hallyu - làn sóng văn hóa Hàn Quốc. Các nhóm nhạc K-Pop nổi bật
trong giai đoạn này có thể kể đến như: TVXQ, SNSD, BIGBANG,…Chính những
nghệ sĩ sĩ cùng với các bài hát, các bản hit của họ là một bước ngoặt mới và quan trọng
của cả nền văn hóa âm nhạc đại chúng ở Hàn Quốc nói riêng và thể loại nhạc Pop toàn
cầu nói chung.

Tóm lại, trong thập kỷ 1990, nhạc Pop đã trở thành thể loại âm nhạc phổ biến nhất,
ảnh hưởng sâu sắc đến nền âm nhạc đại chúng Việt Nam cũng như gắn liền với thế hệ
thanh niên trong giai đoạn này với những bản ballad lãng mạn, dance-pop sống động
hay những bản R&B tinh tế…Nhìn chung, nhạc trẻ đã thu hút sự quan tâm đông đảo
của công chúng. Thời kỳ này đã đánh dấu sự thay đổi trong diễn đàn âm nhạc Việt
Nam: Không chỉ dành sự ưu ái cho âm nhạc truyền thống nước nhà mà bên cạnh đó
còn tìm kiếm những chất liệu âm nhạc mới, phù hợp với xu hướng âm nhạc quốc tế và
đáp ứng thị hiếu của thế hệ trẻ. Đã có rất nhiều tên tuổi đình đám của âm nhạc Việt nổi
lên trong giai đoạn này, những cái tên tiêu biểu có thể kể đến là: Thanh Lam, Mỹ Linh,
Hồng Nhung, Trần Thu Hà, Đan Trường, Lam Trường,…Với những tác phẩm nổi bật
như “Tóc Ngắn”, “Hương Ngọc Lan”,...Ca sĩ Mỹ Linh còn được xem như là người đi
tiên phong cho dòng nhạc R&B tại thị trường Việt Nam, tiếp thu những yếu tố ngoại
lai trong âm nhạc để làm mới mình, làm phong phú nền âm nhạc: “Không chỉ bổ sung
cho nhạc nhẹ Việt Nam những bài hát mới, có sức sống, một số album của Mỹ Linh
còn lãnh vai trò tiên phong ở một số dòng nhạc vốn trước đó chỉ thịnh hành ở phương
Tây như: R&B, Funk, Soul…”. Không dừng lại với thành công vang dội ở thị trường
Việt Nam, Mỹ Linh thậm chí đưa nhạc Việt ít nhiều đến gần hơn với thế giới. Vào
ngày 19/09/2007, Mỹ Linh đã thành công phát hành ba album Made in Vietnam, Chat
với Mozart và Để tình yêu hát tại thị trường âm nhạc Nhật Bản, phát hành bởi hãng
đĩa Pony Canyon - một trong những công ty phát hành video, băng đĩa CD/DVD lớn
nhất tại Nhật Bản. Ca sĩ Hồng Nhung, với giọng hát đặc trưng đầy cảm xúc, cô đã
chiếm trọn trái tim của công chúng với các ca khúc vừa mang tính hàn lâm nhưng vẫn
cân bằng được với yếu tố thương mại, thị trường như: “Họa mi hót trong mưa”, “Một
ngày mới” - không chỉ là một bản hit, bài hát còn mang lại cho nữ ca sĩ một Giải Mai
vàng hay đỉnh điểm có thể kể đến là bài hát “Ngày không mưa” - sự kết hợp giữa
nhạc cụ truyền thống thể hiện tinh thần dân tộc hòa quyện cùng thể loại R&B mang
tính bản địa hóa âm hưởng phương Tây, đã vinh dự có tên trong danh sách bình chọn
“10 ca khúc được yêu thích nhất” trong chương trình “VTV - Bài hát tôi yêu” vào năm
2002. Và không thể không nhắc đến ca sĩ Mỹ Tâm, nghệ sĩ được công chúng ưu ái cho
danh xưng “Nữ hoàng V-Pop” cũng đã gặt hái được nhiều thành công trong giai đoạn
này. “Cây đàn sinh viên” được sáng tác vào năm 2002 đã trở thành một ca khúc bất
hủ gắn liền với nhiều thế hệ học sinh, sinh viên; album Hoàng hôn thức giấc được
phát hành vào năm 2005 đã trở thành một cột mốc đáng nhớ, “một kỉ lục của nền âm
nhạc Việt lúc bấy giờ khi tiêu thụ 20000 bản ngay trong tuần đầu phát hành”. Giám
khảo của cuộc thi “Bài hát tôi yêu” - nhạc sĩ Thuận Yến vào năm 2004 đã có những
nhận xét tích cực dành cho nền âm nhạc Việt trong giai đoạn này: “Một lực lượng
sáng tác và ca sĩ trẻ đầy khả năng, chính họ làm cho đời sống âm nhạc phong phú
hơn, đáp ứng nhu cầu thưởng thức đa dạng của người yêu âm nhạc”. Có thể thấy, với
sự đa dạng hóa thể loại nhờ vào việc tiếp thu chọn lọc những yếu tố ngoại lai, sự phát
triển vượt bậc của nhạc trẻ trong giai đoạn 1990 - 2010 ở thị trường âm nhạc Việt Nam
đã khẳng định vị thế của mình và đạt được những cột mốc đáng nhớ.

Ngoài thể loại Pop đã quá quen thuộc thì nhạc Rock cũng được xem như là một
trong những loại nhạc quan trọng phải được nhắc đến trong giai đoạn này. Thể loại
Rock bắt đầu du nhập và được biết đến nhiều ở Việt Nam từ rất sớm, vào khoảng cuối
những năm 1960 và đầu những năm 1970. Phải cho đến khoảng gần 40 năm sau, tức là
đầu thập niên 2000, Rock mới bắt đầu sôi động trở lại và đi đến thời hoàng kim của
đời mình. Đa số những người yêu quý thể loại Rock đều không thể phủ nhận khoảnh
khắc rực rỡ nhất của dòng nhạc này là vào cuối những năm 90, khi mà rất nhiều ca
khúc mang dòng chảy Rock đã len lỏi khắp các hàng quán, phố xá, vỉa hè và nhiều sân
khấu quy mô lớn nhỏ khác nhau. Nhiều ban nhạc rất thành công đưa thể loại nhạc này
đến gần hơn với công chúng, tiêu biểu là các ban nhạc như: Bức Tường, Microwave,
Black Infinity,...“Trong quá khứ, rock từng là ngọn cờ đầu suốt hàng thập kỷ, ảnh
hưởng mạnh mẽ đến các lĩnh vực văn hóa giải trí khác như phim ảnh, thời trang từ
thập niên 1990 đến những năm 2000. Hàng loạt ban nhạc rock đình đám như
Microwave, Bức Tường, Rock Alpha, Thủy Triều Đỏ, Atmosphere hay Smallfire…
nhận được sự yêu thích và ủng hộ từ khán giả trẻ. Sức hấp dẫn của rock khiến nhiều
ca sĩ nhạc pop muốn thử sức với dòng nhạc này, trong đó có Mỹ Tâm.”. Nhạc Rock là
một thể loại âm nhạc đòi hỏi những niềm đam mê thực thụ, những kĩ thuật hát, chơi
nhạc cụ, hòa âm phối khí thật chỉnh chu mới có thể đem đến một màn trình diễn đủ sôi
động, máu lửa, đủ nhiệt huyết cho khán giả và chính người nghệ sĩ. Tuy đã qua thời kì
đỉnh cao, nhưng Rock đã có nhiều đóng góp quan trọng nhất định cho âm nhạc Việt
Nam, hơn hết thì thể loại này luôn có chỗ đứng trong lòng những người đã và đang
yêu thích nó.
Tuy nhạc Pop và nhạc Rock là hai thể loại âm nhạc chủ đạo, thành công nhất của
thời kì này, nhưng ngoài ra trong những năm 2000, âm nhạc Việt Nam cũng bắt đầu
chào đón một thể loại nhạc mới lạ - Rap. Thể loại nhạc Rap dường như chưa được biết
đến cho đến năm 2002, nhưng tính đến hiện tại thì loại nhạc được du nhập này đã cố
gắng len lỏi và nở rộ cùng với rất nhiều sự nỗ lực đến từ những nghệ sĩ Việt yêu Rap
chân chính. “Đến thời gian gần đây thì rap đã được công nhận như một dòng nhạc
riêng, đã có rất nhiều bài hát thuần rap được mọi người lắng nghe đón nhận. Các
rapper hồi xưa chẳng được ai công nhận, bây giờ đã trở thành những ngôi sao được
hàng nghìn người săn đón”. Những ca nhạc sĩ Việt Nam đã thành công cùng với dòng
nhạc Rap giai đoạn này phải kể tên là nhóm Da Rap Club (RC), Tiến Đạt, LK,
Rapsoul, Da Sun Kid (DSK),...

Vấn đề văn hóa hay âm nhạc Việt Nam cùng những yếu tố ngoại lai tuy không mong
muốn nhưng vẫn đem đến những tiêu cực không đáng có. Trong khi các bài hát tiếng
Việt dường như không có cơ hội được đến gần hơn với công chúng và thị trường âm
nhạc quốc tế, song âm nhạc quốc tế lại luôn xuất hiện trong những chương trình âm
nhạc trên sóng phát thanh, truyền hình ở Việt Nam. Những ca khúc quốc tế kinh điển
với giai điệu tinh tế, lời bài hát ý nghĩa, mang thông điệp truyền cảm hứng đã trở thành
một phần không thể thiếu trong trái tim của người yêu nhạc ở Việt Nam - đây là một
điều hết sức hiển nhiên và dễ hiểu. Tuy nhiên, ngay cả những bài hát không hấp dẫn về
ca từ, sơ sài về hòa âm phối khí với những giai điệu “xào đi nấu lại” cũng vẫn có khả
năng tồn tại giữa thị trường âm nhạc. Điều này đã tạo điều kiện và động lực cho các
nghệ sĩ không có thực lực và các tác phẩm âm nhạc kém chất lượng ra đời, nhìn nhận
âm nhạc dựa trên yếu tố "nhìn" hơn là "nghe". Tuy nhiên, bên cạnh những mặt xấu, sự
ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài cũng góp phần cho nhiều mặt phát triển tích cực
của nền âm nhạc Việt Nam, mang đến cho âm nhạc dân tộc một diện mạo mới, hiện
đại hơn, mạnh mẽ hơn, phát triển hơn, hoàn thiện hơn: “Cùng với việc cử các nhạc sĩ
trẻ sang các nước tiên tiến, có nền âm nhạc hàn lâm đỉnh cao để học tập, nghiên cứu,
Việt Nam đã thành lập các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp như Học viện Âm nhạc, xây
dựng các tổ chức âm nhạc chuyên nghiệp bác học như Nhà hát Nhạc vũ kịch, dàn
nhạc Giao hưởng quốc gia... nhằm kiến tạo một nền âm nhạc chuyên nghiệp, bác học
cả về sáng tác, biểu diễn và công chúng hưởng thụ... Đây là một trong những nền tảng
quan trọng để âm nhạc Việt Nam được thế giới biết đến, trong đó có những tài năng
được khẳng định trên bầu trời âm nhạc hàn lâm thế giới, tiêu biểu như NSND Đặng
Thái Sơn - người đạt giải Nhất cuộc thi Piano quốc tế mang tên Chopin tại Ba Lan
năm 1980.”.

3.1.2. Cột mốc 1997 - Cơ hội song hành cùng những thách thức trong việc giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc trong âm nhạc đại chúng Việt Nam:

Năm 1997 được coi là một cột mốc quan trọng trong nền âm nhạc Việt Nam vì đây
là lúc Việt Nam hòa mạng Internet với thế giới - đây chính là cơ hội nhưng đồng thời
cũng dự báo những thách thức đối với nền âm nhạc đại chúng Việt Nam. Trước tiên về
mặt cơ hội, Internet đã mở ra cánh cửa để người Việt Nam tiếp cận thông tin, kiến thức
và tác động từ các nền văn hóa và âm nhạc nước ngoài. Người nghe có thể dễ dàng
tiếp xúc với âm nhạc quốc tế và theo kịp các xu hướng âm nhạc toàn cầu. Điều này tạo
ra cơ hội để người Việt có thể khám phá, học hỏi và kết hợp các yếu tố âm nhạc ngoại
lai để làm phong phú cho âm nhạc nước nhà cũng như tạo ra thêm một phương thức
mới giúp người nghe tiếp cận đa dạng, phong phú các loại hình âm nhạc khác nhau.

Tuy nhiên, điều này cũng mang lại không ít thách thức cho nhạc Việt trong cả việc
duy trì bản sắc văn hóa dân tộc và thu hút thị hiếu khán giả. Với một lượng thông tin
khổng lồ đang lan truyền rộng rãi và sự truy cập quá dễ dàng của người dùng thông
qua Internet, có thể xảy ra hiện tượng mất mát bản sắc văn hóa dân tộc khi âm nhạc
nước ngoài trở nên phổ biến hơn dẫn đến nguy cơ các yếu tố âm nhạc ngoại lai có thể
áp đảo hoặc thậm chí thay thế âm nhạc truyền thống Việt Nam. Điều này sẽ dẫn đến
nhiều hậu quả nghiêm trọng, nhất là người Việt dần không còn yêu nhạc Việt và chính
âm nhạc dần mất đi nét đặc thù và vẻ đẹp đặc trưng riêng của âm nhạc truyền thống
Việt Nam.

Để cân bằng giữa yếu tố ngoại lai và bản sắc dân tộc trong âm nhạc Việt Nam sau
khi hòa mạng Internet vào năm 1997, các nghệ sĩ và nhạc sĩ đã tìm cách bản địa hóa và
dân tộc hóa những ảnh hưởng ngoại lai bằng việc kết hợp yếu tố âm hưởng dân gian
với âm nhạc hiện đại, ví dụ ca sĩ Trần Thu Hà đã kết hợp thành công nét đẹp của âm
nhạc truyền thống Việt Nam với thể loại Electronic/Ambient của phương Tây - một
chất liệu âm nhạc không mới nhưng ở thị trường âm nhạc Việt Nam thì chưa có: “Sự
tương phản trong tính chất âm nhạc là thế mạnh của Đối thoại 06 - album dùng trip
hop/ambient làm phong cách chủ đạo và rất chú trọng đến chất lượng thu thanh. Tôi
vẫn trung thành với ý tưởng sử dụng công nghệ để làm nền cho âm hưởng nhạc Việt.
Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được. Tôi tự tin rằng Đối thoại 06 không giống
bất cứ album nào trước đây của tôi và trên thị trường nhạc Việt lâu nay.”. Tóm lại,
việc hòa mạng Internet của Việt Nam vào năm 1997 là một sự kiện quan trọng không
chỉ đối với nền âm nhạc đại chúng mà còn đối với văn hóa Việt Nam. Qua việc tiếp
cận kiến thức và ảnh hưởng từ âm nhạc ngoại lai, người Việt có cơ hội khám phá và
học hỏi, nhưng cũng đặt ra thách thức trong việc bảo vệ và duy trì bản sắc văn hóa dân
tộc. Việc cân bằng giữa yếu tố ngoại lai và bản sắc dân tộc là một nhiệm vụ hết sức
quan trọng của các nghệ sĩ và nhạc sĩ để đảm bảo sự phát triển và tồn tại của âm nhạc
Việt Nam.

3.2. “Làn Sóng Xanh” - Khởi đầu cho sự phát triển của những chương trình âm
nhạc:
Nhiều cuộc thi âm nhạc và cả những giải thưởng lớn dành cho lĩnh vực âm nhạc liên
tiếp được đón nhận, góp phần đánh dấu sự trưởng thành của nhạc Việt trong giai đoạn
này. Trong đó, nổi bật và được nhắc đến nhiều nhất chính là giải thưởng “Làn Sóng
Xanh” - lễ trao giải được Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức
quy mô và thường niên. “Làn Sóng Xanh” không chỉ đơn thuần là một lễ âm nhạc, mà
nó còn mang ý nghĩa của sự tự do sáng tạo, sự đổi mới và sự phá vỡ những giới hạn
trong âm nhạc Việt Nam. Nó đã tạo ra một không gian mới cho các nghệ sĩ trẻ để thể
hiện tài năng của mình trên một sân khấu chỉn chu với thiết bị âm thanh, ánh sáng tiên
tiến lúc bấy giờ.

Cùng khoảng thời gian với “Làn Sóng Xanh” cũng đã có nhiều giải thưởng lớn và uy
tín như “Giải Mai Vàng” do Báo Người Lao động tổ chức, “Giải Sao Mai” do Đài
truyền hình Việt Nam tổ chức. Dù vậy, “Làn Sóng Xanh” vẫn giữ vị thế là một giải
thưởng thành công bậc nhất lúc bấy giờ, thu hút được sự chú ý của đông đảo công
chúng và tạo dựng nhiều thành công vang dội, mở ra xu hướng thị hiếu công chúng
yêu thích dòng nhạc trẻ, nhạc trữ tình. Mở đầu cho chuỗi thành tích đáng nể mà “Làn
Sóng Xanh” đã mang đến cho thị trường âm nhạc Việt Nam có thể kể đến là bài hát
“Tình thôi xót xa” do ca sĩ Lam Trường trình bày. Bản hit này đã oanh tạc khắp mọi
nẻo đường và đưa tên tuổi của chủ nhân ca khúc – Lam Trường lên tầm cao mới. Và
rồi “Làn Sóng Xanh” đã trở thành “bệ phóng” cho sự phát triển của rất nhiều tên tuổi
đình đám sau này như: Hồ Quỳnh Hương, Quang Vinh, Đan Trường, Cẩm Ly, Mỹ
Tâm,...Sau thành công rực rỡ của “Làn Sóng Xanh” thì rất nhiều chương trình âm nhạc
cân bằng yếu tố hàn lâm lẫn thị trường ra đời, ví dụ như: “VTV – Bài hát tôi yêu”
(2002), “Sao Mai điểm hẹn” (2004), “Bài hát Việt” (2005), “Thần tượng âm nhạc:
Vietnam Idol” (2007),...là các ví dụ tiêu biểu của những chương trình truyền hình âm
nhạc đã chiếm trọn sự yêu thích, ủng hộ của công chúng. Đặc biệt với “Vietnam Idol”,
đây là chương trình được mua bản quyền từ Pop Idol và American Idol của Anh và Mỹ
với mức giá lên đến 2 triệu USD và đã nhận được sự quan tâm đông đảo ở Việt Nam
với hình thức mới lạ, chuyên nghiệp, độc đáo từ nước ngoài.

Có thể nói thì âm nhạc Việt Nam trong 1990 đến 2010 đã có một bước tiến rất đáng
ghi nhận, từ các thể loại và hình thức âm nhạc vốn dĩ đến từ quốc gia khác nên khá xa
lạ, mới mẻ đã được nhiều ca nhạc sĩ dùng tài năng biến nó trở nên gần gũi, vẫn hiện
đại nhưng đậm chất riêng, tạo nền tảng vô cùng vững chắc cho nhiều thế hệ âm nhạc
sau ngày càng phát triển.
IV. Nền âm nhạc đại chúng Việt Nam từ 2010 - nay:

4.1. Hiện trạng nền âm nhạc Việt Nam từ năm 2010 cho đến nay:

4.1.1. “Muôn màu muôn vẻ” trong nền âm nhạc Việt Nam hiện đại:

Trong thời kỳ hội nhập và phát triển, Việt Nam ta đã đón nhận và tiếp thu những nét
văn hóa tiêu biểu của nhân loại. Chính vì vậy, nền văn hóa nghệ thuật nước nhà nói
chung và âm nhạc nói riêng có nhiều biến đổi theo chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực.
So với các loại hình nghệ thuật khác, âm nhạc chính là nhân tố đi đầu trong việc tiếp
nhận các phong trào trên thế giới. Thị trường âm nhạc Việt Nam vốn đã rất sôi động
nay càng trở nên đa dạng, phong phú nhờ yếu các yếu tố sau:

● Sự phát triển của công nghệ trong nền âm nhạc Việt Nam:

Công nghệ ảnh hưởng đến âm nhạc Việt Nam theo nhiều cách khác nhau. Trong đó,
việc phát triển các nền tảng âm nhạc trực tuyến như Itunes, Spotify,... là một trong
những cách giúp khán giả có thể truy cập dễ dàng để tìm kiếm các bài hát, album được
phát hành và các video âm nhạc. Điều này đã giúp cho nghệ sĩ và ban nhạc có thể tiếp
cận nhiều hơn nhiều khán giả hơn, đặc biệt là những khán giả trẻ.

Năm 2019 khi thời điểm dịch Covid bùng phát, trước sự điêu đứng của nền ca nhạc và
phim ảnh truyền thống, thì các ứng dụng nghe nhạc và xem phim trực tuyến lại bội thu
nhờ chiến lược marketing hiệu quả và ứng dụng trí thông minh nhân tạo. Điển hình
như Spotify tính từ quý 2/2021 đã có 365 triệu người nghe hàng tháng.1
Qua đây ta có thể thấy tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ vào âm nhạc cũng
như đời sống.

Ngoài ra, nhờ có công nghệ mà các nhà sản xuất âm nhạc, các nghệ sĩ có thể sản xuất
và phát hành các bài hát, các album có chất lượng cao hơn về mặt âm thanh cũng như
hình ảnh, nội dung và đi kèm với đó là sự đa dạng, phong phú về các video quảng bá
về sản phẩm âm nhạc. Nhờ có công nghệ, khán giả nhanh chóng tiếp cận được với các

1 “Chiến lược Marketing của Spotify: Cá nhân hóa, lấy người dùng làm trung tâm” - Theo Tạp chí
Brands Vietnam - Tác giả Lâm Tuyết Nhi, đăng tải ngày 01/06/2022
sản phẩm âm nhạc mà nghệ sĩ mình yêu thích vừa ra mắt, tương tác trực tiếp được với
thần tượng của mình qua các nền tảng có hình thức phát trực tiếp, chỉ cần ngồi ở nhà
cũng có thể nghe - nhìn - ngắm các buổi liveshow mà không cần mất phí.

● Sự ảnh hưởng của âm nhạc nước ngoài:

Từ những năm 2010, khi công nghệ phát triển nhanh chóng, âm nhạc nước nhà bắt
đầu bị tác động bởi âm nhạc quốc tế. Các thể loại âm nhạc phương Tây như: âm nhạc
Âu Mỹ (US-UK), Hàn Quốc (Kpop), Nhật Bản (Jpop) dần phổ biến rộng rãi và được
giới trẻ đón nhận; với chất lượng âm nhạc, kỹ năng biểu diễn sân khấu chuyên nghiệp,
các nghệ sĩ quốc tế đã đóng góp không nhỏ vào nền âm nhạc Việt Nam. Điển hình như
các nghệ sĩ nước ngoài như giọng ca từng đoạt giải Grammy - Christina Aguilera trong
sự kiện Lễ trao giải Khoa học tại Nhà hát Lớn, Hà Nội tối ngày 20/12/2022 2. Màn trình
diễn của cô tại đây đã khiến cho người xem bùng nổ bởi giọng hát đầy nội lực cùng
với những giai điệu tâm tình, sâu lắng.

Trong xu thế toàn cầu hóa, một số ca sĩ, nhạc sĩ trẻ Việt Nam đã tiếp cận và từng
bước hòa nhập vào sự phát triển của nền âm nhạc các nước bạn. Các nghệ sĩ đã đưa
những yếu tố âm nhạc nước ngoài vào album của mình từ âm thanh, hình ảnh cho đến
cách trình diễn. Hàng loạt các ban nhạc, nhóm nhạc được đào tạo từ nước ngoài hay
theo định hướng quốc tế cũng xuất hiện ngày càng nhiều cũng là điểm ‘mới lạ’ khiến
người hâm mộ quan tâm.

Không chỉ có thế, âm nhạc Việt Nam còn mở rộng và kết nối được với âm nhạc thế
giới khi liên tục có những sự hợp tác mang tính quốc tế của các nghệ sĩ trong nước và
nước ngoài. Nói về những sự hợp tác này, nhạc sĩ Dương Khắc Linh cho biết: “Điều
này tốt cho nhạc Việt, sẽ có nhiều người tò mò tìm hiểu nhạc Việt hơn. Những màn
hợp tác này càng ngày càng sòng phẳng, luôn là phương án “cùng có lợi”: Nghệ sĩ
trẻ có nhiều cơ hội học hỏi khi hợp tác cùng các ê kíp chuyên nghiệp, còn nghệ sĩ quốc
tế được tiếp cận người hâm mộ tại Việt Nam - một thị trường âm nhạc khá tiềm
năng”.3

2 (Dantri.com.vn, Christina Aguilera Biểu Diễn thăng Hoa Tại Nhà Hát Lớn Hà Nội 20/12/2022)
3
Hàng loạt các bài hát như Danger (Thanh Bùi kết hợp cùng nhóm nhạc BTS), Em
đồng ý ( Đức Phúc kết hợp cùng ban nhạc 911),... là một sự kết hợp thành công khi
nhắc đến xu hướng giao lưu âm nhạc giữa Việt Nam và quốc tế.

● Màu sắc riêng của nền âm nhạc Việt Nam:

Nền âm nhạc Việt Nam từ năm 2010 đến nay đã có nhiều thay đổi và phát triển. Bên
cạnh việc các nghệ sĩ cho ra mắt các ca khúc của chính mình thì những các chương
trình tìm kiếm tài năng âm nhạc như: The Voice, Sing My Song,... đã được công
chúng đón nhận vì ngoài yếu tố giải trí, những chương trình này còn thu hút bởi tính
chuyên môn cao khi những ban giám khảo đều là những nghệ sĩ gạo cội và tài năng
như Thanh Bùi, Mỹ Tâm, Thu Minh, Bằng Kiều,...Từ đó những chương trình này đã
trở thành “bệ phóng” cho những bạn trẻ đam mê âm nhạc được đến gần hơi với công
chúng, trở thành thế hệ nghệ sĩ mới như Đức Phúc, Văn Mai Hương, Trúc Nhân,
Hương Tràm,... Ngoài ra, các ca sĩ, nhạc sĩ và nhà sản xuất âm nhạc đã có nhiều cải
tiến trong việc sản xuất âm nhạc, từ chất lượng âm thanh đến hình ảnh và nội dung ca
khúc.

Bên cạnh việc đưa các yếu tố ngoại lai vào sản phẩm âm nhạc, các nghệ sĩ Việt còn
hướng đến việc tự tạo ra màu sắc riêng cho chính bản thân mình. Họ bắt đầu thể hiện
chất riêng của bản thân qua những ca khúc do chính mình sáng tác và biểu diễn. Xu
hướng tự viết - tự hát được hình thành từ những năm 1960-1970, phổ biến tại thị
trường âm nhạc Mỹ và được gọi bằng cụm từ “Singer-Songwriter”. Người khởi xướng
phong trào này chính là danh ca Bob Dylan. Sau sự nghiệp lẫy lừng của ông, có rất
nhiều ca sĩ như Mariah Carey, Taylor Swift, John Lennon,... đều theo xu hướng này và
trở nên thành công nhờ tài năng sáng tác. “Sáng tác nhạc là hành động tốt mà chúng
ta nên trân trọng. Ai cũng có thể sáng tác, đừng phân biệt đây là tác phẩm của ca sĩ,
kia là tác phẩm của nhạc sĩ, vì chưa chắc chuyên nghiệp đã hay và không chuyên đã
dở"4, nhạc sĩ Dương Thụ từng chia sẻ.

4
Ở thị trường âm nhạc nước nhà, xu hướng này cũng dần trở nên phát triển. Khắc Việt,
Giáng Son, Lưu Thiên Hương,... là điển hình cho sự thành công khi chọn con đường
trở thành một “Singer - Songwriter”. Có thể nói, việc lựa chọn hình thức tự sáng tác -
tự hát ngày càng trở nên phổ biến, ngày càng có nhiều bạn trẻ yêu âm nhạc lựa chọn
xu hướng này. Nối tiếp thành công của các nghệ sĩ đi trước, lớp nghệ sĩ trẻ như Lê Cát
Trọng Lý, Vũ Cát Tường, Tiên Tiên, Ngọt,... với gu âm nhạc mới mẻ, lời bài hát bình
dị, gần gũi kể về những câu chuyện cuộc sống, những mối tình lãng mạn hay những
chuyến đi qua lời bài hát của mình khiến cho người hâm mộ đại chúng yêu thích.

Ưu điểm lớn nhất của xu thế này đó chính là các nghệ sĩ thể hiện ca khúc cũng chính là
nhạc sĩ của tác phẩm đó, chính điều này sẽ giúp họ có thể bộc lộ tâm tư, tình cảm,
truyền tải thông điệp của tác phẩm đến với khán giả một cách chân thành nhất, giàu
cảm xúc nhất. Bên cạnh đó, khi một ca sĩ có khả năng tự sáng tác nhạc cho riêng mình
thì họ có thể nắm bắt được điểm mạnh lẫn điểm yếu trong chính giọng hát của họ để
điều chỉnh quãng âm của ca khúc phù hợp với quãng giọng của chính mình..
Những ca khúc do thế hệ trẻ "nhào nặn" có đề tài đa dạng và mang đậm hơi thở cuộc
sống như Vì tôi còn sống, Lần cuối, Em dạo này,... được yêu thích cuồng nhiệt. Dù nội
dung của những bài hát này thường chỉ xoay quanh một câu chuyện giản dị với ca từ
mộc mạc.
● Các thể loại âm nhạc hiện nay

Nhạc Pop ắt hẳn không còn xa lạ gì với giới mộ điệu âm nhạc Việt Nam, nhạc Pop là
thể loại âm nhạc luôn được yêu thích và không bao giờ lỗi thời. Cuối những năm 90
của thế kỷ XX, nhạc Pop mới trở nên phát triển ở Việt Nam. Các nghệ sĩ Việt như Hồ
Ngọc Hà, Thu Minh,... đều lựa chọn thể loại âm nhạc này làm nền tảng chủ đạo để
phát triển và trở nên thành công từ đó. Từ những ngôi sao hàng đầu Việt Nam cho đến
các giọng ca trẻ như: Hương Tràm, Văn Mai Hương, Bích Phương, Hà Anh Tuấn đều
dành cho nhạc Pop một sự ưu ái nhất định bởi đây là dòng nhạc có giai điệu nhẹ
nhàng, tinh tế, chạm vào rung cảm của người thể hiện ca khúc lẫn người nghe.

Nhạc Hiphop/Rap: Nhạc Rap và Hip-hop có xu hướng ngày càng phát triển và trở
nên phổ biến trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, thể loại nhạc Rap và Hip-hop cũng đang
phát triển và trở nên phổ biến, nhiều nghệ sĩ như Đen Vâu, Suboi, Justatee,... với nét
cá tính riêng biệt trong sản phẩm mà họ thể hiện đã khiến cộng đồng người hâm mộ
yêu thích. Hiphop/Rap giờ đây không chỉ là những bản nhạc sơ khai về cả kỹ thuật lẫn
chất lượng thu âm mà rap đã chinh phục công chúng bằng sự bắt mắt về hình ảnh, nội
dung đa dạng, âm nhạc bắt tai cùng sự trau chuốt về phần ca từ. Nhờ sự sáng tạo của
các producer và rapper, rap có thể kết hợp vừa vặn với các thể loại âm nhạc khác mà
không làm mất đi sự sôi động, chất riêng của thể loại nhạc này. Năm 2020, khi chương
trình Rap Việt diễn ra đã thu hút đông đảo sự quan tâm của các bạn trẻ yêu rap lẫn
người từng nghe qua nhạc rap chứng tỏ sức hút mãnh liệt của thể loại âm nhạc này với
giới trẻ và tiềm năng vươn xa hơn trong thị trường âm nhạc của thể loại âm nhạc này.

Nhạc Rock bắt đầu được du nhập vào Việt Nam từ những năm 1950-1960, được một
bộ phận thanh niên Sài Gòn yêu thích nhưng sau đó dần chìm xuống và bị thay thế bởi
nhạc trẻ. Từ những năm 2010 đến nay, ban nhạc rock nổi bật là Chillies, Cá Hồi
Hoang,.. đã mang đến cho âm nhạc Việt Nam làn gió mới. Tuy chặng hành trình phát
triển của nhạc Rock ở Việt Nam ắt sẽ còn nhiều chông gai và gian nan, như nhạc sĩ
Quốc Trung chia sẻ: “Nhạc Rock Việt Nam không thực sự đang chết mà cũng không
thực sự đang sống. Thật ra chưa bao giờ sống thực sự.”5 nhưng thể loại âm nhạc này
luôn có chỗ đứng trong lòng khán giả trẻ nói chung và những người yêu thích nhạc
Rock nói riêng.

4.1.2. Nghệ sĩ thời đại mới giữ gìn và sáng tạo âm nhạc mang bản sắc Việt:

a) Hoàng Thùy Linh và hành trình đưa yếu tố truyền thống vào âm nhạc:

Trong những năm gần đây, yếu tố ngoại lai đã tác động mạnh mẽ đến nền âm nhạc
Việt Nam, đặc biệt là sau năm 2010. Bắt đầu từ việc nhìn nhận để học hỏi, tiếp thu
những điểm tích cực của âm nhạc nước ngoài để sáng tạo, sản xuất những tác phẩm
âm nhạc chỉn chu hơn, đầu tư hơn cho đến sự xuất hiện của một thế hệ nghệ sĩ trẻ đầy
tiềm năng đã cho "ra đời" những tác phẩm có sự kết hợp giữa giai điệu phương Tây
hiện đại với âm nhạc truyền thống, cho đến việc tái hiện và tôn vinh những giá trị dân

5
tộc...Tất cả đã góp phần tạo nên một nền âm nhạc Việt Nam phát triển đa dạng, dần
hội nhập với các thị trường âm nhạc khác trên thế giới.

Không chạy theo việc làm nhạc mang xu hướng quốc tế hay chịu bất kỳ sự ảnh
hưởng nào của các nền âm nhạc lớn trên thế giới như Kpop, Jpop, US-UK, ca sĩ Hoàng
Thùy Linh lại lựa chọn hướng đi tự mình thử nghiệm, kết hợp yếu tố truyền thống và
hiện đại, khai thác những chất liệu văn học Việt Nam và các yếu tố văn hóa có giá trị
truyền thống vào trong sản phẩm của mình. Điều này làm sống lại những tác phẩm văn
học theo phương thức mới, mang dấu ấn của thời đại mới và cũng là thứ khiến cho
người trẻ có một góc nhìn mới lạ hơn về âm nhạc cũng như về văn hóa, văn học Việt
Nam.

Từ năm 2016, khi cho ra mắt bài hát Bánh trôi nước - sản phẩm hợp tác của Hoàng
Thùy Linh kết hợp với đạo diễn Phù Nam lấy cảm hứng từ bài thơ “Bánh trôi nước”
của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương nhằm tôn vinh và ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ Việt
Nam đã khiến giới báo chí tốn không ít giấy mực. Sau sự thành công của “Bánh trôi
nước”, công chúng lại tiếp tục bùng nổ khi nữ ca sĩ cho ra mắt album “Hoàng” với các
ca khúc như: “Tứ phủ”, “Kẻ cắp gặp bà già”, “Duyên âm” hàng loạt các yếu tố dân
gian và mang đậm màu sắc văn hóa Việt. Đặc biệt là ca khúc “Để Mị nói cho mà
nghe” với sự kết hợp của một chút nhạc R&B, lời rap cùng nhạc điện tử sôi động
mang âm hưởng dân gian Tây Bắc với tiếng kèn, tiếng sáo cùng các hình ảnh MV
được lấy từ các tác phẩm văn học như “Vợ chồng A Phủ”, “Chí Phèo”, “Vợ nhặt”,...
đã khuấy đảo cộng đồng mạng. Không dừng lại ở đó, Hoàng Thùy Linh lại một lần
nữa khiến giới mộ điệu âm nhạc Việt Nam điên đảo khi cho ra mắt ca khúc See tình
với cảm hứng từ văn hóa Đồng bằng Sông Cửu Long, giai điệu dance-pop bắt tai, lời
bài hát dễ thuộc. See tình còn chứng minh sự thành công của mình khi gây tiếng vang
trên thế giới. Ở Hàn Quốc, nữ vận động viên bóng chuyền Lee Dahyeon đã ăn mừng
bàn thắng của đội mình bằng cách nhảy ca khúc See tình, Trên nền tảng mạng xã hội
Tiktok, các bạn trẻ cũng không thể thoát khỏi sức hấp dẫn của See tình khi có hơn vài
trăm, vài nghìn video được quay trên nền nhạc này và thu hút vài triệu lượt xem.
Không chỉ được biết đến tại Hàn Quốc, ca khúc còn được biết đến tại Trung Quốc và
được xem như “thần khúc” vì mức độ lan tỏa rộng rãi, đã có hơn 4 tỷ lượt xem các
video liên quan đến giai điệu và vũ đạo của bài hát.6

Có thể thấy nữ ca sĩ rất nỗ lực trong mang những âm điệu dân gian đến gần với công
chúng hơn - đây không phải là một điều mới mẻ trong làng nhạc Việt, mặc dù đã có rất
nhiều nghệ sĩ cố gắng theo đuổi hành trình này nhưng thành công hơn cả chính là
Hoàng Thùy Linh. Việc kết hợp yếu tố truyền thống, văn hóa Việt Nam vào sản phẩm
âm nhạc của Hoàng Thùy Linh đã góp phần tạo nên sự phong phú cho nền âm nhạc
Việt Nam. Đồng thời, cô còn góp phần mang âm nhạc Việt Nam ra thị trường quốc tế,
giúp người yêu âm nhạc trên toàn thế giới có thể tiệm cận gần hơn với âm nhạc Việt
Nam. Khi xem các sản phẩm âm nhạc mà Hoàng Thùy Linh đem đến, giới trẻ như
được truyền cảm hứng, thêm hiểu và thêm yêu nền văn học Việt Nam nói riêng và nền
văn hóa nước nhà nói chung, Có thể thấy, Hoàng Thùy Linh đã làm tốt vai trò của một
nghệ sĩ khi không ngại tìm hiểu, thử nghiệm và khai thác giá trị văn hóa, góp phần giữ
gìn bản sắc dân tộc thông qua tiếng hát và tài năng của mình.

b) Các nghệ sĩ tiếp tục phát triển âm nhạc đương đại có yếu tố truyền thống Việt Nam:

Hiện nay, ngày càng có nhiều nghệ sĩ trẻ lựa chọn việc đưa yếu tố văn hóa dân tộc
vào sản phẩm của mình tạo nên một làn gió mới mang hơi thở thời đại, được công
chúng đón nhận nồng nhiệt. Không chỉ có Hoàng Thùy Linh mà còn rất nhiều ca sĩ
như Hòa Minzy, Đức Phúc, Bích Phương, Phương Mỹ Chi,... lựa chọn việc làm mới
các yếu tố văn hóa trong sản phẩm của chính mình. Các tác phẩm văn học như Vợ
chồng A Phủ, Tấm Cám, Truyện Kiều, Bánh Trôi Nước, Chí Phèo,... đều trở thành
nguồn cảm hứng sáng tác cho các ca sĩ, nhạc sĩ. Hàng loạt các sản phẩm âm nhạc như
Hết thương cạn nhớ - MV có nội dung lấy cảm hứng từ câu chuyện Chí Phèo, hình ảnh
cô Tấm trong Anh ơi ở lại, nhân vật Thị Mầu trong bài hát cùng tên hay Không thể
cùng nhau suốt kiếp tái hiện câu chuyện lịch sử của vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam
Phương,... đều truyền tải tốt các giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam từ trang phục,
bối cảnh lịch sử cho đến cốt truyện. Không chỉ có các ca sĩ, nhạc sĩ lựa chọn theo xu
hướng này mà còn có các nghệ sĩ rap cũng không nằm ngoài “cuộc chơi”. Trong
chương trình Rap Việt mùa 1, thí sinh Ricky Star cũng đã chinh phục bốn vị huấn
6
luyện viên và cộng đồng người yêu rap khi trình diễn bản rap Bắc kim thang lấy nội
dung từ truyện dân gian cùng tên.

Nguồn cảm hứng từ văn học, chất liệu dân gian, yếu tố lịch sử mang đậm yếu tố dân
tộc chính là một kho tàng quý giá. Nếu biết khai thác và đưa vào sản phẩm âm nhạc
của mình, người nghệ sĩ có thể khẳng định cái tôi thông qua chúng, tạo nên dấu ấn cá
nhân trên con đường nghệ thuật. Việc xuất hiện các sản phẩm âm nhạc có lồng ghép
chất liệu dân gian, khai thác truyền thống, lịch sử, văn hóa là một điểm đáng mừng cho
lĩnh vực âm nhạc đại chúng Việt Nam. Các nghệ sĩ trẻ đã góp phần tôn vinh các giá trị
văn hóa Việt, bên cạnh đó là thể hiện lòng yêu nước, yêu quê hương dân tộc, tạo nên
nguồn cảm hứng cho các bạn trẻ, tạo được cảm xúc cho người nghe. Việc tạo ra những
sản phẩm này chính là góp phần truyền bá giá trị truyền thống đến gần hơn với thế hệ
trẻ. Nếu hướng đi này tiếp tục phát triển theo hướng tích cực sẽ góp phần phát triển và
đưa âm nhạc Việt Nam ra với thế giới.

4.2. Tác động tích cực và tiêu cực của yếu tố ngoại lai đối với âm nhạc Việt Nam:
● Tác động tích cực:

Có thể thấy, Thế hệ nghệ sĩ trẻ đã không chỉ nhìn nhận và yêu thích âm nhạc Việt
Nam mà còn đã tìm hiểu và tiếp thu những giá trị văn hóa mới từ nước ngoài. Điều này
giúp cho họ có một cái nhìn cởi mở và tích cực trong việc vun đắp và phát triển âm
nhạc đất nước. Một ví dụ không thể không nhắc đến cho việc mở rộng cái nhìn với tư
tưởng cởi mở là nữ ca sĩ thuộc thế hệ GenZ - Mỹ Anh đã hợp tác cùng với dự án thúc
đẩy bình đẳng giới “Genderation Vietnam” cho ra mắt ca khúc “Cần gì hơn nữa” 7 - với
thông điệp hãy cứ sống là chính mình, vượt lên những khuôn mẫu của xã hội để tiến
tới một cuộc đời hạnh phúc. Qua ca khúc và dự án, cả người nghệ sĩ lẫn người nghe
được tiếp cận kiến thức, thông tin về giới đồng thời còn được tiếp thêm nguồn động
lực để thể hiện chính mình, tự tin hơn và có thể mạnh dạn nói lên những bất công,
những hành vi bất bình đẳng giới. Việc tiếp nhận và học hỏi các giá trị văn hóa ngoại
lai giúp thế hệ nghệ sĩ trẻ có thêm nhiều phương thức sáng tạo và biểu hiện, làm phong
phú và đa dạng hơn bản sắc âm nhạc Việt Nam. Họ có thể kết hợp những yếu tố của
âm nhạc truyền thống Việt Nam và nhạc cụ truyền thống với những yếu tố âm nhạc
7
mới để tạo ra những sản phẩm âm nhạc đa dạng và phong phú hơn. Không những thế,
nhờ sự phát triển của internet và các kênh truyền thông, âm nhạc Việt Nam ngày càng
được quốc tế biết đến và yêu thích. Sự kết hợp giữa âm nhạc truyền thống và hiện đại
của thế hệ nghệ sĩ trẻ khiến cho các bản nhạc trở nên phong phú và đặc sắc hơn, cũng
như thể hiện được tính đa dạng và riêng biệt của âm nhạc Việt Nam. Âm nhạc Việt
Nam trong thời đại mới còn góp phần quảng bá hình ảnh và văn hóa Việt Nam: Những
bản nhạc đa dạng và phong phú từ thế hệ nghệ sĩ trẻ có tác động tích cực đến quảng bá
hình ảnh đẹp của người Việt Nam trên thế giới. Điều này giúp quốc tế hiểu rõ về nền
văn hóa Việt Nam và sự phát triển của con người trong lĩnh vực giải trí.
● Tác động tiêu cực:

Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng thì vẫn còn tồn tại những mặt tối nhất định.
Việc tiếp thu quá nhiều âm nhạc và văn hóa ngoại lai có thể khiến cho thế hệ nghệ sĩ
trẻ mất đi bản sắc âm nhạc truyền thống của đất nước. Một số ca sĩ trẻ có thể chỉ tập
trung vào việc quảng bá hình ảnh và phong cách của các nghệ sĩ nước ngoài mà không
đặt sự quan tâm đến việc phát triển âm nhạc truyền thống, tạo ra sự mất cân bằng trong
nguồn gốc và bản sắc âm nhạc Việt Nam.

Việc kết hợp các yếu tố truyền thống - đương đại vào trong âm nhạc là một việc làm
tốt và đáng học tập. Nhưng không phải sự kết hợp giữa âm nhạc truyền thống của dân
tộc và âm nhạc hiện đại nào cũng đem lại kết quả tốt. Người làm nghệ thuật nên biết
thế nào là đúng, thế nào là đủ, không nên biến tấu quá đà từ trang phục, bối cảnh, chất
liệu âm nhạc truyền thống để gây nên sự phản cảm, làm ảnh hưởng tiêu cực đến việc
quảng bá hình ảnh văn hóa nước nhà. Chính vì vậy, nghệ sĩ Việt Nam nói chung và
nghệ sĩ trẻ nói riêng cần phải thật cẩn trọng trong việc khai thác các chất liệu văn hóa
truyền thống đưa vào trong sản phẩm âm nhạc của mình. Không chỉ cần có lòng yêu
văn hóa, các giá trị truyền thống mà người trẻ còn phải có kiến thức, hiểu biết nhất
định mới có thể làm ra tác phẩm thể hiện được cả hai yếu tố truyền thống - đương đại
một cách trọn vẹn, có ý nghĩa.
4.3. Để nhạc Việt có một diện mạo mới tiến bộ nhưng vẫn gìn giữ những vẻ đẹp
truyền thống:
4.3.1. Yếu tố văn hóa ngoại lai lấn át âm nhạc truyền thống:

Một số ý kiến đã nêu rằng văn hóa ngoại lai đang len lỏi một cách “độc hại” và phá
hủy “thuần phong mỹ tục” của nền âm nhạc Việt.

Âm nhạc quốc tế từ khi tràn đến thị trường âm nhạc Việt đến nay vẫn luôn mang đến
cho khán giả những làn gió tươi mới và cuốn hút. Với nền công nghiệp giải trí Hàn
Quốc, âm nhạc của họ luôn có điểm nhấn, đặc sắc, chuyên nghiệp và có sức hút lớn
đến khán giả trong - ngoài nước, minh chứng điển hình là thị trường Kpop sôi động
với nhiều ca sĩ, ban nhạc nổi tiếng. Nền âm nhạc Nhật Bản với những MV âm nhạc
độc lập dùng giọng hát của ca sĩ ảo Vocaloid trên nền anime đặc sắc và độc đáo, tràn
đầy cảm xúc, đẹp - hay - mới mẻ đã đánh động đến nhiều tâm hồn yêu âm nhạc trên
trường quốc tế. Dòng nhạc Âu Mỹ thì lại gây ấn tượng mạnh đến thị trường âm nhạc
quốc tế ở sự cá tính, độc đáo riêng ở mỗi nghệ sĩ, đa dòng nhạc - đa sắc màu. Bởi tính
lôi cuốn trong mỗi dòng nhạc ngoại quốc, không ít nghệ sĩ Việt đã có sự tiếp thu văn
hóa ngoại quốc, đưa nó vào trong giai điệu - lời ca của mình. Nhưng cũng có không
người có biểu hiệu lạm dụng các yếu tố văn hóa ngoại lai, họ bắt đầu “sao chép” lại gu
ăn mặc, phong thái, cử chỉ - điệu bộ của các nghệ sĩ nước ngoài, đến cách đặt nghệ
danh cũng phải đặt sao cho thật “ngoại”. Ví dụ những cái tên na ná Tây, Hàn, Thái và
không có yếu tố Việt nào như Kelly, Karik, Jaykii, Erik, Mie, Will, nhóm Uni5,... xuất
hiện ngày càng nhiều trong giới giải trí Việt. Ông Phạm Đình Thắng (nguyên Phó cục
trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn - Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) cho rằng: “Thực
tế chưa có quy định nào cấm việc nghệ sĩ lấy nghệ danh ngoại. Nhưng nếu các bạn
nghệ sĩ trẻ lạm dụng nghệ danh ngoại sẽ trở nên phản cảm. Các bạn hãy cân nhắc khi
chọn và nên lấy cái tên nào mà phù hợp với văn hóa, ngôn ngữ của nước mình.”

Ngoài ra, lạm dụng tiếng nước ngoài (phần lớn là tiếng Anh) vào các ca khúc Việt
cũng là một hiện tượng bào mòn sự trong sáng của tiếng Việt. Không thể phủ nhận sự
thú vị khi pha trộn một chút yếu tố ngoại ngữ vào các sáng tác Việt và hiệu ứng mang
lại là sự đón nhận và ưa chuộng của khán giả. Lấy ví dụ như ca khúc “See Tình” của
Hoàng Thùy Linh khi pha lẫn một chút tiếng Anh: “Bae bae bae bae, em nói từ đầu
baby can you stay!” hay “Giây phút em gặp anh là em biết em see tình” đã khiến cho
khán giả trong - ngoài nước “phát sốt” vì độ bắt tai của nó. Tuy nhiên, có những nghệ
sĩ đã đi quá giới hạn của sự thú vị, thêm vào đó là những ca từ ngoại ngữ chiếm phần
lớn trong ca khúc có phần nhố nhăng, xem nhẹ tiếng Việt như “Sashimi” của Chi Pu.
Không những vậy, tình trạng nhạc sĩ - ca sĩ Việt hướng tới việc “nhái nhạc” ngày càng
phổ biến, tiêu biểu là việc tái hiện - viết lại lời Việt dựa trên các bài hát ngoại quốc nổi
tiếng, từ đó đó tạo nên thứ âm nhạc thiếu bản sắc; ví dụ như những ca khúc “Việt hóa
nhạc Hoa” của Phạm Lịch. Song song đó, những nghi vấn về việc nghệ sĩ Việt bắt
chước, vay mượn cách điều âm, phối khí, giai điệu đến sao chép ý tưởng MV vẫn luôn
tồn tại trong giới âm nhạc Việt. Có thể điểm danh qua một số ca khúc bị dính nghi vấn
“đạo” như “Cần sa” của Hiền Hồ có giai điệu rất giống với “Gashina” của nữ ca sĩ
Sunmi (Hàn Quốc), ca khúc “Tình nhân ơi” của Châu Đăng Khoa cũng bị phát hiện có
nhiều điểm tương đồng với “Nước mắt” của nhóm nhạc V4Men (Hàn Quốc), MV
“Sao anh chưa về” của Amee bị tố giống MV “Blank Space” của Taylor Swift,...
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Chung nêu lên quan điểm: “Các sáng tác mới của nhiều nhạc sĩ
trẻ hiện giờ đa số là cố tình “vay mượn” ý tưởng hay giai điệu nào đó. Không ít nghệ
sĩ trẻ đang bị cuốn theo xu hướng, trào lưu, bởi khi họ thấy bài hát hay dòng nhạc nào
đó đang nổi thì sẽ sáng tác một bài hát gần giống với bản gốc, hoặc có chỉnh sửa chút
ít, để nhanh chóng được nổi tiếng theo và thu được lợi nhuận cao.”

Từ đó có thể thấy xu hướng chạy theo thị trường thương mại âm nhạc của các nghệ
sĩ Việt. Đây là một trong những biểu hiện của sự lấn át văn hóa. Không khó để thấy
các sáng tác hiện nay phần lớn dựa trên thị hiếu của khán giả, nhiều sản phẩm âm nhạc
không được chau chuốt về mặt nội dung, bị công nghiệp hóa, thiếu chiều sâu, và tất
yếu không có sự sáng tạo nghệ thuật. Cùng với đó, nhiều loại hình âm nhạc cổ truyền
bị mất dần bản sắc, thiếu vắng người nghe, người xem khiến các nghệ sĩ hoạt động
trong lĩnh vực này gặp không ít khó khăn. Ca sĩ - nhạc sĩ lại mọc lên như nấm, không
qua đào tạo chính quy, thiếu chuyên môn, không chuyên nghiệp làm biến dạng nguyên
tắc trong giới, không còn coi trọng giọng ca nhất mà đã chuyển sang những đặc điểm
về ngoại hình, tính khôn khéo, dẻo hoạt, sau cùng mới đến giọng ca.

Lại bàn về xu hướng thưởng nhạc của giới trẻ hiện nay, họ bị ảnh hưởng bởi những
phong cách du nhập từ nước ngoài, trẻ trung và đương đại đã phản ánh nên thực trạng
“quay lưng” với kho tàng âm nhạc dân tộc. Và khi họ theo đuổi con đường nghệ thuật
lại luôn đặt các loại hình âm nhạc hiện đại lên hàng đầu thay vì tìm về với những nhạc
cụ - âm nhạc truyền thống. Hiện nay, các loại hình âm nhạc nước nhà như dân ca quan
họ, hát xoan, ví dặm,... vốn là một trong những sản phẩm văn hóa do nhân dân sáng
tác đang được người trẻ làm mới nhằm thu hút khán giả song lại vô tình làm mờ đi bản
sắc dân tộc vốn có của các loại hình âm nhạc dân tộc chưa qua cải biên. Bởi mới thấy,
bên cạnh những tác động tích cực mà các yếu tố ngoại lai đem lại còn có tiềm tàng
nguy cơ lấn át bản sắc văn hóa truyền thống trong nền âm nhạc truyền thống.

4.3.2. Tiếp thu và giữ gìn nét đẹp văn hóa trong nền âm nhạc:

Trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay, trước nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa và
nền âm nhạc cổ truyền, có những người nghệ sĩ - người trẻ đã gieo trong mình kỳ vọng
về sự níu giữ những giá trị dân tộc và từng bước thực hiện hóa nó, mang bản sắc văn
hóa - yếu tố dân gian đi vào âm nhạc đương đại, đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức
thể hiện. Có nhiều sự kết hợp đã diễn ra, dáng dấp của nhiều tác phẩm văn học, mảnh
ghép văn hóa đã xuất hiện trong ca từ của người ca sĩ, âm hưởng âm nhạc truyền thống
lấp ló sau lớp mành giai điệu của nhiều ca khúc. Không khó để có thể điểm qua một
vài cái tên đã quá quen thuộc với người hâm mộ âm nhạc như ca khúc “Để Mị Nói
Cho Mà Nghe” lấy cảm hứng từ tác phẩm văn học “Vợ Chồng A Phủ” của nhà văn Tô
Hoài hay “See Tình” của nữ ca sĩ Hoàng Thùy Linh - sử dụng chất liệu âm nhạc dân
gian kết hợp với nền nhạc điện tử sôi động,...Có thể thấy, âm nhạc không chỉ là nơi thể
hiện những cảm xúc lãng mạn của người nghệ sĩ mà còn là vỏ bọc hội tụ tinh hóa văn
hóa Việt. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Long cho rằng xu hướng mang yếu tố âm
nhạc truyền thống vào âm nhạc đương đại là một trong những giải pháp để nền âm
nhạc Việt Nam thoát ly khỏi cái mác “sao chép” - vay mượn các yếu tố văn hóa nước
ngoài.

Đồng thời, điều đó cũng phản ánh một thực tế rằng chỉ có âm nhạc dân tộc đã qua
cải biên cho phù hợp với thị hiếu của thời đại mới tạo nên được sức hút lớn đối với
công chúng. Khác với những người đã được tiếp xúc với thể loại nhạc truyền thống từ
nhỏ, có niềm yêu thích - sự gần gũi nhất định sẽ có ý nghĩ và hành động lưu truyền, đa
số những khán giả còn lại chỉ như khách quan đi qua “viện bảo tàng”, ngoài cảm giác
đáng lưu giữ - ngưỡng mộ và sau đó không vương vấn lại được gì trong tâm trí, không
có hành động xảy ra. Tác giả Trần Mỹ Hiền thực hiện đã đưa ra một số thực trạng
chứng minh rằng khán giả tìm đến âm nhạc cổ truyền vì tò mò chứ không phải yêu
thích: “Người ta đến Huế đi thuyền trên sông Hương để nghe Ca Huế, hay dịp đầu
năm đi Hội Lim để nghe Quan họ, vào miền Nam để nghe Cải lương. Các trích đoạn
chèo được diễn ở sân khấu khu phố cổ dành cho du khách nước ngoài, người nghệ sĩ
biểu diễn hát văn trên phố đi bộ ở khu phố cổ Hà Nội, dăm ba quán trà đạo trên khu
phố cổ Hội An mời nghệ sĩ chơi âm nhạc dân tộc vào mỗi tối… đa phần âm nhạc cổ
truyền đang được gắn với du lịch.” Vậy nên, sự lưu giữ những giá trị văn hóa trong
nền âm nhạc chỉ có thể mang tính tương đối, không thể tránh khỏi việc bản sắc dân tộc
trong nền âm nhạc truyền thống có đôi nét phai mờ đi.

Dù vậy, nếu sự đổi mới, sáng tạo trên nền nhạc dân tộc có thể góp phần lưu giữ các
yếu tố văn hóa, tạo nên sự quan tâm nhất định đến công chúng thì đó chính xác là giải
pháp tất yếu cho vấn đề làm thế nào để tiếp thu cái mới và lưu giữ cái tốt đẹp thời cũ.
Có được suy nghĩ này, nhạc sĩ Trần Hoàn đã có đôi lời nhắn nhủ thế hệ trẻ: “Tôi nghĩ
rằng Nghị quyết Trung ương 5 đã chỉ rõ, chúng ta cần bảo tồn nghệ thuật dân tộc
truyền thống, cần tìm tòi sáng tạo và phát huy chứ không bắt chước phương Tây. Việc
luôn luôn gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc. Tìm cái mới nhưng phải có sàng lọc.
Nếu sáng tạo mà thỏa mãn với chính mình thì sẽ tàn lụi nhanh chóng. Hãy làm sáng
tạo luôn xanh tươi như cây đời vì nghệ thuật vô biên.”

Bên cạnh đó, việc tạo điều kiện cho những nghệ nhân đang mang trên mình nhiệm
vụ giữ gìn âm nhạc cổ truyền cũng là một điều cấp thiết. Bởi loại hình âm nhạc này
ngày càng ít người quan tâm, ít người nghe - cảm, thu nhập của người nghệ sĩ cũng trở
nên bèo bọt hơn. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ bộc bạch: “Muốn
phục hồi và lưu giữ phải có kinh phí”.

Nên để những nghệ nhân an tâm gắn bó với nghề, giữ lửa nghề, truyền nghệ, truyền
nghệ thì cần có sự hỗ trợ đắc lực không chỉ với một vài cá nhân, vài trung tâm - tổ
chức mà là tất thảy những cơ sở có liên quan đến văn hóa - giáo dục, từ Trung ương
đến địa phương.
V. KẾT LUẬN:

Qua quá trình vận động lũy tiến của thời gian, nền âm nhạc ngoại lai vẫn không
ngừng du nhập vào nước ta, tạo nên màu sắc đa văn hóa và phát triển song hành cùng
những yếu tố âm nhạc bản địa. Vào từng giai đoạn, từng thời kỳ khác nhau, sự tiếp
biến của âm nhạc ngoại lai đối với nền văn hóa Việt Nam đều có sự tác động rõ rệt đến
thói quen tiếp nhận âm nhạc của đại chúng. Tuy nhiên, song song với những đổi mới
do tiếp nhận nhạc ngữ phương Tây vào nền âm nhạc Việt Nam, các thể loại âm nhạc
truyền thống vẫn luôn tồn tại, gìn giữ, bảo tồn và phát triển rực rỡ cho đến ngày hôm
nay. Quá trình bản địa hóa dần hình thành như một quy luật tất yếu cho việc hòa nhập
giữa âm nhạc ngoại lai và âm nhạc dân gian trong nước, hình thành những sản phẩm
âm nhạc độc đáo vừa mang màu sắc dân tộc, vừa mới mẻ và mang màu sắc cá nhân
theo xu thế chung của thời đại.

Mặc dù vậy, hiện tượng lai căng văn hóa trong quá trình tiếp nhận và sáng tạo âm
nhạc vẫn đang diễn ra ngày một trầm trọng. Ta dễ dàng thấy được trách nhiệm tiếp nối
những nét đặc sắc của văn hóa dân tộc trong âm nhạc để không bị mai một trước
những làn sóng du nhập văn hóa ngoại bang không chỉ phụ thuộc vào những người
đang hoạt động trên lĩnh vực nghệ thuật mà nhất là đối với giới trẻ hiện nay - đối
tượng tiếp nhận chính của nền âm nhạc mới. Đối tượng trẻ luôn là đối tượng nhanh
nhạy trong việc tiếp thu những cái mới, và cũng đang là tầng lớp tinh hoa được kế thừa
nền giáo dục tân tiến của nước nhà trong những năm tháng hòa bình và độc lập. Bởi vì
thế, trách nhiệm đặt lên vai của những người trẻ - kể cả người tiếp nhận và nghệ sĩ
sáng tạo là phải luôn tìm tòi tiếp thu và chọn lọc những điều quý giá từ âm nhạc quốc
tế để chuyển biến và làm giàu cho nền âm nhạc Việt Nam. Trong xã hội 4.0 khi xu thế
toàn cầu đang chi phối gần như mọi mặt của đời sống từ vật chất đến tinh thần, sự
cương quyết giữ gìn những bản sắc văn hóa dân tộc, quyết bài trừ những văn hóa lai
căn dị hợm đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Trích theo lời của Nghệ sĩ Trần
Mạnh Tuấn: "Một khi âm nhạc dân gian nói riêng và văn hóa dân tộc nói chung bị
mai một hoặc bị biến dạng trước các trào lưu đương đại của thế giới, thì tất yếu
chúng ta mất sức đề kháng và dễ có nguy cơ bị nô dịch bởi văn hóa ngoại bang" (Trò
chuyện với 100 ca sĩ - nhạc sĩ Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn). Sự giữ gìn
bản sắc và nét đẹp của văn hóa dân tộc trong âm nhạc, không chỉ là để nâng cao tinh
thần dân tộc trong quá trình tiếp nhận âm nhạc đối với đại chúng, mà còn là để giữ
vững đất nước trên mặt trận đấu tranh không ngừng đối với các âm mưu “diễn biến
hòa bình” của ngoại bang, mà nhất là đấu tranh trên mặt trận văn hóa. Vì vậy, việc cân
bằng giữa “cũ” và “mới”, giữa “truyền thống” và “hiện đại” trong văn hóa âm nhạc
hiện hành vẫn luôn là nhiệm vụ xuyên suốt không ngừng của cả người sáng tạo nghệ
thuật, giới nghiên cứu phê bình và cả đối tượng tiếp nhận thuộc về đông đảo quần
chúng. Âm nhạc - nghệ thuật - văn hóa vẫn luôn là những món ăn tinh thần không thể
thiếu trong hành trình dài của lịch sử dân tộc, nhưng hãy chế biến và thưởng thức
những món ăn ấy đúng cách để không phải ngộ độc trước những tạp chất đến từ yếu tố
ngoại lai xâm hại.

You might also like