You are on page 1of 43

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Câu 1. Nguyên tắc bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp
và pháp luật (nguyên tắc pháp chế)
Đây là nguyên tắc đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước không thể
được tiến hành một cách tuỳ tiện, độc đoán theo ý chí cá nhân của người cầm quyền mà
phải dựa trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hầu hết các nhà nước
đương đại đều có hiến pháp, đồng thời hệ thống pháp luật có quy định khá đầy đủ về cơ
cấu tổ chức bộ máy nhà nước, trình tự thành lập, chức năng, thẩm quyền... của các cơ
quan, nhân viên nhà nước, về mặt tổ chức, nguyên tắc này đòi hỏi việc thành lập mới,
giải thể, chia tách, sáp nhập một cơ quan nhà nước, cơ cấu của nó, vấn đề tuyển dụng,
bổ nhiệm các thành viên trong cơ quan đó... đều phải được tiến hành theo đúng quy định
của Hiến pháp và pháp luật, về mặt hoạt động, nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan và
nhân viên nhà nước phải thực hiện đúng đắn, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, theo đúng trình tự, thủ tục đã được Hiến pháp và pháp luật quy định...
Nguyên tắc này được áp dụng rộng rãi trong nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc này ở các nhà nước tư sản không hoàn toàn
nhất quán mà có sự thay đổi qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Đối với Nhà nước Việt Nam, đây cũng là một nguyên tắc hiến định và được ghi nhận
trong Hiến pháp ngày càng rõ ràng, cụ thể hơn. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1992 quy
định:
“Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chể xã hội chủ
nghĩa” (Điều 12)
hoặc Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản li xã hội bằng
Hiển pháp và pháp luật... ” (khoản 1 Điều 8).
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến
pháp và pháp luật, quản lí xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ.
Việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước:
- Về mặt tổ chức: nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi việc thành lập, giải thể,
chia tách, hợp nhất cơ quan nhà nước, cơ cấu, bổ nhiệm, tuyển dụng phải dựa trên quy
định của Hiến pháp và pháp luật. - Bộ máy Nhà nước CHXHCNVN mang tính pháp
chế xã hội chủ nghĩa
- Nhà nước thực hiện quản lí mọi mặt của đời sống xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật
dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN.
-Về hoạt động, đòi hỏi các cơ quan và công chức, viên chức phải thực hiện theo đúng
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn;... phải dựa trên quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Theo Hiến pháp năm 2013, bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
nhiều cơ quan hợp thành như: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Chính quyền địa
phương, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử Quốc gia và Kiểm
toán nhà nước. Có những cơ quan nhà nước do Hiến pháp quy định, nhưng cũng có
những cơ quan nhà nước được thành lập trên cơ sở luật và văn bản dưới luật. Những cơ
quan nhà nước này nằm trong bộ máy nhà nước, tạo thành một tổng thể thống nhất
nhưng có thẩm quyền riêng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi thực hiện chức
năng, thẩm quyền riêng cũng là góp phần thực hiện chức năng chung của Nhà nước.
Tổng thể này là sự đảm bảo tính thống nhất của Nhà nước.
- Tính thống nhất của bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể
hiện như thế nào trong thông tin trên?
- Để thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, các cơ quan trong bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thực hiện như thế nào?
Ý 2: Thực tiễn hoạt động nhà nước XHCN Việt Nam (SGK trang 109)
Hết câu 1
CÂU 2.
1. Bản chất của nhà nước CHXHCNVN Việt Nam
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Về nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội biểu quyết thông
qua ngày 28/11/2013 (gọi tắt là Hiến pháp năm 2013) là bản Hiến pháp thứ 5 trong lịch
sử lập hiến của Việt Nam tính từ Hiến pháp năm 1946. Việc ban hành Hiến pháp năm
2013 là một dấu mốc mới trong tiến trình phát triển tư tưởng lập hiến của nước nhà trên
cơ sở kế thừa thành tựu lập hiến của gần 70 năm trước đó, phúc đáp yêu cầu đổi mới đất
nước trong giai đoạn hiện nay. Một trong những nội dung quan trọng hàng đầu của Hiến
pháp năm 2013 là sự thể hiện sâu sắc hơn nữa bản chất dân chủ của chế độ gắn liền với
yêu cầu bảo đảm tính pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của nhà nước. Tại khoản 2
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 trang trọng khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức.” Quy định trên nên được hiểu như thế nào cho đầy đủ và sâu sắc. Đây là vấn đề rất
quan trọng cần được giải mã một cách thấu đáo.
1. Khẳng định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” đi liền với việc khẳng
định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ” là sự thể hiện
trực tiếp nguyên lý về chủ quyền nhân dân - tư tưởng nền tảng trong các bản Hiến pháp
của Việt Nam, nhất là bản Hiến pháp năm 2013. Quy định ấy cũng đi kèm với quy định
tại Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 theo đó “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân.”
Hiến pháp năm 1946, Bản Hiến pháp đầu tiên của chế độ ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh
trực tiếp chỉ đạo soạn thảo được ban hành trong bối cảnh “sau tám mươi năm tranh đấu,
dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời gạt bỏ
chế độ vua quan”, nước nhà đã bước sang một kỷ nguyên phát triển mới, giai đoạn “bảo
toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn” và “kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”.
Điều thứ nhất của Hiến pháp năm 1946 khẳng định một cách dứt khoát “Nước Việt Nam
là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân
Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Tinh thần của nguyên tắc ấy được kế thừa trong Hiến pháp năm 1959 bằng quy định tại
Điều 4 “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân
dân.” Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định tại Điều 6 “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.” Hiến pháp năm 1992 tại Điều 2
khẳng định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.”
2. Nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” gắn liền với việc
khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ” khẳng
định chủ thể thật sự, chủ thể đích thực và chủ thể tối cao của nhà nước, của tất cả quyền
lực nhà nước là Nhân dân. Điều này có nghĩa rằng, ở Việt Nam, quyền lực nhà nước có
nguồn gốc từ Nhân dân. Quyền lực nhà nước, dù do bất cứ cơ quan, cá nhân nào nắm
giữ cũng có nguồn gốc từ sự ủy quyền của Nhân dân. Không có thứ quyền lực nhà nước
nào có nguồn gốc tự thân, nằm ngoài sự trao quyền, ủy quyền (trực tiếp hoặc gián tiếp)
của Nhân dân.
Trong thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước, tuy chỉ Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp là các cơ quan mà thành viên của cơ quan này do Nhân dân trực tiếp bầu ra nhưng
điều đó không có nghĩa rằng chỉ có các cơ quan này mới là các cơ quan được Nhân dân
ủy thác quyền lực. Nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” hàm ý
rằng, quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước khác thực hiện (dù đó là cơ quan
thực hiện quyền hành pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp hay bất cứ cơ quan nhà
nước nào khác) cũng là sản phẩm của sự trao quyền một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ
Nhân dân (thông qua Hiến pháp và pháp luật).
Tinh thần đó đòi hỏi, trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, bất kể là cơ
quan thực hiện quyền lập pháp (Quốc hội), cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Chính
phủ), cơ quan thực hiện quyền tư pháp (Tòa án nhân dân) và các cơ quan nhà nước khác
trong bộ máy nhà nước đều phải bảo đảm tinh thần vì lợi ích của Nhân dân để phục vụ.
3. Nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” gắn liền với quy
định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ” khẳng định
nguồn gốc thế tục của quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Điều này cũng có nghĩa rằng,
quyền lực nhà nước ở Việt Nam không có nguồn gốc từ thần quyền, mà có nguồn gốc từ
Nhân dân. Trước đây, trong thời phong kiến, nhà vua hoặc hoàng đế thường tự coi mình
là “thiên tử” (con trời), được trời đưa xuống để chăm lo, giáo hóa, cai trị nhân dân chứ
không phải chủ thể nhận sự ủy thác của Nhân dân. Chính vì thế, quan lại được coi là cha
mẹ dân, được “thiên tử” ủy thác cho việc chăm lo, cai trị thần dân. Vua (“thiên tử”)
không phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước Nhân dân mà chỉ phải chịu trách nhiệm
trước “trời”, chỉ cần hành xử theo “thiên mệnh”. Quan lại cũng không phải chịu trách
nhiệm trước Nhân dân mà chỉ phải chịu trách nhiệm trước Vua (“thiên tử”). Trong chế
độ phong kiến ấy, sự chuyển giao quyền lực tối cao của nhà nước được thực hiện bằng
con đường “thế tập” theo kiểu cha truyền, con nối, “con vua thì lại làm vua, coi sãi ở
chùa đi quét lá đa”. Nhân dân không phải là người chủ mà nhà vua có trách nhiệm phục
vụ, ngược lại, chính nhân dân có trách nhiệm phục vụ nhà vua. Những tư tưởng phản
động kể trên đã bị cuộc cách mạng tháng Tám, do Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Bác Hồ kiên quyết bác bỏ khi xây dựng chế độ mới. Ngay trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ cách mạng lâm thời vào ngày 3/9/1945 (tức là chỉ một ngày sau ngày
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân
không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được
hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một bản Hiến pháp dân chủ.”[1]
Với tư cách là sự phủ định của các tư tưởng phong kiến, thần quyền về nguồn gốc của
quyền lực nhà nước, nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” đòi hỏi
trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhân dân thì Nhà nước không phải là chủ của
Nhân dân, các cơ quan nhà nước, dù là cơ quan có quyền lực ở mức nào cũng không
phải là chủ của Nhân dân, mà ngược lại chính Nhân dân mới là chủ của Nhà nước, Nhân
dân thực hiện quyền làm chủ đối với Nhà nước. Điều này cũng có nghĩa rằng, Nhà nước
có trách nhiệm cao nhất là phục vụ Nhân dân. Nhân dân có tiếng nói cao nhất, cuối cùng
về số phận của Nhà nước, của từng cơ quan nhà nước. Tất cả các cơ quan nhà nước, các
cán bộ, công chức nhà nước đều phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân, phục vụ Nhân
dân và hành xử vì lợi ích của Nhân dân. Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước đều
phải là công bộc của Nhân dân. Điều đó cũng phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh mà
toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức thực hiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng diễn giải
bằng một ngôn ngữ rất giản dị nhưng hết sức sâu sắc về dân chủ: “Dân làm chủ thì Chủ
tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân
dân chứ không phải làm quan cách mạng.”[2]
4. Nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” cũng có nghĩa hễ cứ
là công dân Việt Nam thì đều là người làm chủ Nhà nước, không phân biệt giới tính, giai
cấp, tôn giáo, tín ngưỡng, chính kiến, nguồn gốc xuất thân, quá khứ chính trị. Điều ấy
cũng thể hiện rõ tinh thần đại đoàn kết toàn dân trong các chính sách của Đảng và Nhà
nước ta. Tuy nhiên, khẳng định nền tảng của Nhân dân là “liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” hàm ý một yêu cầu rất quan trọng, dù
Nhà nước được xác định là của Nhân dân nhưng phù hợp với truyền thống lịch sử, gắn
với thực tiễn Việt Nam hiện nay Nhà nước ấy phải là nhà nước phục vụ lợi ích và bảo
đảm lợi ích cho đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội, mà trước hết là những
người lao động trong xã hội. Thực tiễn lịch sử ở nhiều nước cho thấy không phải cứ
tuyên bố quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân thì đương nhiên mọi người dân đều có
quyền như nhau đối với Nhà nước. Ở không ít quốc gia, các lực lượng cần lao rất khó
tiếp cận với các cơ hội hoạt động chính trị, rất khó tham gia vào bộ máy nhà nước và rất
khó bảo đảm được rằng Nhà nước ấy thực sự là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và
vì Nhân dân. Ở những nước như vậy, chính quyền thường bị các nhóm lợi ích thiểu số
lũng đoạn và khi ấy sớm hay muộn chính quyền cũng sẽ quay lưng lại với Nhân dân,
phản bội lại lợi ích của Nhân dân. Chính vì vậy, trong bối cảnh thực tế giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là lực lượng cơ bản nhất, đông đảo nhất
trong xã hội, yêu cầu “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” vẫn được xem
là phù hợp và cần thiết. Yêu cầu bảo đảm quyền lực nhà nước phải thuộc về Nhân dân
mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
đặt ra trách nhiệm rất lớn đối với Nhà nước theo đó Nhà nước phải có trách nhiệm tạo
điều kiện để những người có thu nhập không hẳn là cao trong xã hội nhưng vẫn không
những không bị loại ra khỏi các cơ hội phát triển bình đẳng về chính trị. Đây là điều
không hề dễ dàng.
Nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” là nguyên tắc rất căn
bản của Hiến pháp năm 2013, thể hiện bản chất cốt lõi của chế độ ta. Chính vì vậy, đây
cũng là tư tưởng chủ đạo chi phối việc thiết kế nhiều quy định khác trong Hiến pháp và
thiết kế các quy định cụ thể trong pháp luật Việt Nam. Cụ thể:
- Tại Điều 3 Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ trách nhiệm, sứ mệnh phục vụ Nhân
dân của Nhà nước, theo đó, “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.” Cần lưu ý rằng, trách
nhiệm, sứ mệnh phục vụ Nhân dân này là yêu cầu có tính xuyên suốt trong mọi chính
sách của Nhà nước, mọi quy định của pháp luật do Nhà nước ban hành. Trách nhiệm, sứ
mệnh phục vụ Nhân dân vì thế không chỉ là trách nhiệm, sứ mệnh chung của toàn thể bộ
máy nhà nước, mà phải trở thành trách nhiệm, sứ mệnh cụ thể của từng cơ quan nhà
nước, từng cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy ấy. Chính vì thế, khoản 2 Điều 8
Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức
phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng
nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.” Theo tinh thần đó, mọi biểu
hiện quan liêu, xa dân, cửa quyền, hách dịch, tệ nạn tham nhũng, lãng phí đều được coi
là xa lạ với bản chất của chế độ ta, của nhà nước ta và trở thành vấn đề cần được giải
quyết triệt để bằng các phương thức phòng, chống phù hợp. Phù hợp với tinh thần đó,
Hiến pháp năm 2013 đề cao hơn cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước, bảo đảm tốt hơn
sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Cụ thể, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định quyền giám sát tối cao của Quốc hội (cơ
quan đại biểu cao nhất của Nhân dân) đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước bao
gồm cả cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Quốc hội
bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Các cơ
quan như Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao đều phải báo cáo công tác trước Quốc hội và chịu sự giám sát tối cao của Quốc
hội. Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội họp công khai (Điều 83), Luật, Pháp lệnh
phải được công bố (Điều 85), Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng phải thực hiện chế
độ báo cáo trước Nhân dân (Điều 98 và 99), Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân (Điều 102), Tòa án nhân dân xét xử công
khai (Điều 103), Hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương (Điều
113). Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rõ trách nhiệm của đại biểu dân cử phải liên
hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri (Điều 79 và Điều 115).
- Với yêu cầu bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, Hiến pháp năm
2013 khẳng định đầy đủ và sâu sắc hơn các phương thức để Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 khẳng định rõ “Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội
đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.”. Như vậy, cả hai hình
thức thực hiện quyền lực nhà nước là thực hiện bằng dân chủ đại diện thông qua các cơ
quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) và các cơ quan nhà nước khác và thực hiện
dân chủ trực tiếp đều được Hiến pháp ghi nhận. Khẳng định Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông
qua các cơ quan khác của Nhà nước cũng hàm ý yêu cầu các cơ quan nhà nước, khi ra
quyết sách hoặc thực thi quyền lực, đều phải lưu ý rằng, các công việc mình đang thực
hiện đều là các công việc do Nhân dân ủy thác. Chính vì thế, khi ban hành các quyết
sách, thực thi công vụ, các cơ quan nhà nước đều không được làm trái lợi ích của Nhân
dân mà phải thực hiện một cách tận tụy nhất, trung thành nhất với lợi ích của Nhân dân.
Đây cũng là sự thể hiện yêu cầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn các cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức nhà nước rằng “việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm,
việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh.” Để đảm bảo yêu cầu đó, một trong những
điều tiên quyết phải thực hiện là bảo đảm sự thiết lập một cơ chế bầu cử thực chất, phản
ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân khi bầu ra thành viên các cơ quan dân cử.
Người đại biểu dân cử phải trung thành với lợi ích của Nhân dân và khi không còn xứng
đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân thì sẽ bị bãi nhiệm. Tinh thần đó được thể hiện
trong Điều 7 Hiến pháp năm 2013:“Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín.... Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng
nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân.”
Việc khẳng định Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp thể hiện
một bước tiến mới trong nhận thức của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong tiến trình
mở rộng và phát huy dân chủ. Trên thực tế, các hình thức dân chủ trực tiếp đã ngày càng
được Nhà nước ta coi trọng hoàn thiện về mặt thể chế và tổ chức thực hiện trên thực
tiễn. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 đã quy định rất nhiều
công việc Nhân dân ở địa phương trực tiếp bàn, quyết định và chính quyền có trách
nhiệm bảo đảm thực hiện. Chẳng hạn, Điều 10 của Pháp lệnh này quy định rõ “Nhân
dân bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng,
các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân
đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng
dân cư phù hợp với quy định của pháp luật”. Cũng tại Điều 13 của Pháp lệnh quy định
những công việc do Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định như
“Hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn,
Tổ trưởng tổ dân phố. Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát
đầu tư của cộng đồng”. Hiện nay, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở nước ta đang
xúc tiến xây dựng Luật Trưng cầu ý dân, Luật Tiếp cận thông tin và một số đạo luật
khác có liên quan nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế để các hình thức dân chủ trực tiếp
ngày càng được thực hiện đa dạng hơn trong thực tiễn.
Một điểm cũng rất cần lưu ý khi đề cập tới yêu cầu bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự
là của Nhân dân là việc thực hiện quyền dân chủ của Nhân dân thông qua các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội do Nhân dân lập ra. Điều đó thể hiện rõ trong quy định
tại Điều 9 Hiến pháp năm 2013. Cụ thể: Điều 9 Hiến pháp năm 2013 (trên cơ sở kế thừa
và bổ sung quy định tại Điều 9 Hiến pháp năm 1992[3]). Theo đó, “Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham
gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.” Việc bổ sung trách nhiệm “giám sát, phản biện xã hội”, khẳng định quyền
và trách nhiệm “tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cũng là một hình thức mở rộng và phát huy dân chủ trong điều kiện xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng. Điều cần lưu ý nữa là Hiến pháp
đã chính thức ghi nhận sự tồn tại của các tổ chức xã hội ngoài các tổ chức chính trị-xã
hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thông qua quy định tại Khoản 3 Điều
9 Hiến pháp năm 2013 theo đó “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của
Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt
trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.”
Quy định “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” còn trực tiếp chi phối việc
thiết kế các quy định về quyền công dân, quyền con người trong Hiến pháp năm 2013.
Trên cơ sở kế thừa và bổ sung, phát triển quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp
năm 2013 đã quy định hàng loạt quyền con người, quyền công dân mà mỗi cá nhân
người dân Việt Nam đều được hưởng dụng để xây dựng cuộc sống của mình, tham gia
các mặt hoạt động của xã hội, phát triển cộng đồng, xây dựng đất nước. Trong số ấy,
phải kể tới các quyền năng trong lĩnh vực chính trị như quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 25), quyền bầu cử và ứng cử
(Điều 27), quyền tham gia quản lý nhà nước (Điều 28), quyền biểu quyết khi Nhà nước
tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29) và quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 30). Chẳng hạn, theo
Điều 27 Hiến pháp năm 2013, công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ
hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Theo Điều
28 Hiến pháp năm 2013, công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham
gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và
cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công
khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. Theo
Điều 30 Hiến pháp năm 2013, mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố
cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh
dự theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc
lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
6. Từ góc độ lý luận về luật Hiến pháp, có thể khẳng định rằng, bảo đảm trong thực tế
“tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” đi liền với việc khẳng định “Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ”, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là
nhà nước “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” là một trong những biện pháp
quan trọng hàng đầu bảo đảm tính chính danh, chính đáng của hệ thống chính quyền ở
nước ta. Đây cũng là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu bảo đảm sự bền
vững của một chế độ. Quy định tinh thần, tư tưởng ấy trong Hiến pháp năm 2013 một
lần nữa tô đậm thêm truyền thống chính trị vì dân ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, tạo tiền đề tiếp tục xây dựng và củng cố mối quan hệ bền chặt giữa Nhân dân và
chế độ.
Hết câu 2

…………………………………………………………………………………………

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân
Sau thắng lợi hào hùng của cuộc Cách mạng Tháng Tám, ngày 2-9-1945, tại Quảng
trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập,
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - một nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ
nhân dân đầu tiên ở Đông-Nam Á, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại luôn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu có chọn lọc
những giá trị tinh hoa của nhân loại về nhà nước pháp quyền nhằm xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946, tiếp đến là trong các Hiến
pháp năm 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013. Mỗi bản hiến pháp là một dấu mốc
quan trọng trong quá trình xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước ta. Trải qua các
thời kỳ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, sự
ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân, Nhà nước ta không ngừng lớn mạnh, trưởng thành về mọi
mặt, đã làm tròn sứ mệnh vẻ vang của mình trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, nhất là sau khi thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII) về “Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong sạch, vững mạnh”, công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta đã có
những tiến bộ to lớn. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội đã có bước đổi mới vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát
huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước. Bản chất giai cấp công nhân,
tính dân tộc, tính nhân dân của Nhà nước được giữ vững và củng cố. Hệ thống quan
điểm, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân từng bước được hoàn
chỉnh. Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 cùng nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh
được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống kinh tế -
xã hội. Tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, trước hết là các cơ quan
hành chính nhà nước đã được đổi mới và hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả. Cơ
chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của Nhà
nước được phân định rõ hơn và trong tổ chức thực hiện đã có những bước tiến tích cực.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực, tác động mạnh mẽ
đến việc giải phóng sức sản xuất, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân. Dân chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, Quốc hội,
Hội đồng nhân dân các cấp có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.
Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý nhà nước, điều hành vĩ mô và giải quyết
những vấn đề chiến lược liên quan đến quốc kế dân sinh. Cải cách hành chính tiếp tục
được chú trọng, tháo gỡ được nhiều khó khăn, vướng mắc cho người dân và doanh
nghiệp. Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp được thể chế hóa
trong Hiến pháp, pháp luật và được triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt những kết quả
bước đầu quan trọng. Tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, tổ
chức luật sư, các cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động
được nâng cao, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân, hạn chế được tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong bối
cảnh đó, yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đặt ra rất cấp bách. Nghị quyết Đại
hội lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống
chính trị... Xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ cả
lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị
theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Để Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, quản lý, điều hành đất nước hiệu lực,
hiệu quả, trước hết cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước: “Tính chất nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn
đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của
ai? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp... Nhà nước ta là Nhà nước dân
chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh
đạo”[1]. Gắn kết chặt chẽ bản chất giai cấp của Nhà nước với tính dân tộc, tính nhân
dân, thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bởi lợi ích căn bản của giai cấp
công nhân, của dân tộc và của nhân dân là thống nhất. Giữ vững và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa; ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ, như Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII) về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng đã đề ra. Xây dựng Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, gần dân, sâu
sát dân, bảo đảm trên thực tế mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Tổ chức nhiều hình thức
phù hợp để nhân dân tích cực tham gia hoạch định chính sách, pháp luật và giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật của các cơ quan nhà nước, coi đây là vấn đề có ý nghĩa
sống còn đối với chế độ ta. Chính quyền có trong sạch, được dân tin yêu, ủng hộ thì mới
vững mạnh, giữ vững được quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, tạo động lực to lớn để phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân là phương hướng cơ bản để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ
cương, siết chặt kỷ luật; quyền đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ; dân chủ được thể chế
hóa thành pháp luật, dân chủ trong khuôn khổ pháp luật. Tăng cường tổ chức và hoạt
động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ quan trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu lực
quản lý nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội. Đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra
trong nội bộ các cơ quan, tổ chức nhà nước; đề cao trách nhiệm kiểm tra của cấp trên đối
với cấp dưới, của các cấp chính quyền đối với mọi cơ quan, tổ chức trên địa bàn, lãnh
thổ. Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự, khắc phục tình trạng vô kỷ luật, dân chủ cực
đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối an ninh, trật tự; làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động
của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo” để
chống phá chế độ ta.
Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các thiết
chế trong bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế sâu rộng. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan dân cử
(Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) để các cơ quan này thực sự là cơ quan đại diện
của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước trong việc xem xét và quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương. Hoàn thiện và phân định rõ mô hình tổ
chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt theo luật định. Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám
sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị - xã hội và sự giám sát của nhân dân. Các cơ quan hành chính nhà nước
phải nghiêm túc chấp hành các quyết định của cơ quan dân cử trong trách nhiệm, quyền
hạn được pháp luật quy định và chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và của nhân dân. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với
cán bộ, công chức theo hướng khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; chú trọng tiêu chuẩn về bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh
giá, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút,
trọng dụng nhân tài.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính trong các lĩnh vực liên quan
đến hoạt động của doanh nghiệp và đời sống nhân dân; xây dựng nền hành chính dân
chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, quản lý nhà nước có hiệu quả, giảm mạnh, bãi bỏ các thủ
tục hành chính gây phiền hà, đáp ứng tốt nhất yêu cầu chính đáng của người dân, doanh
nghiệp. Phân định rõ hơn vai trò và hoàn thiện cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa
Nhà nước và thị trường. Quy định rõ trách nhiệm và cơ chế giải trình của các cơ quan
nhà nước, đề cao đạo đức công vụ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi
công vụ của cán bộ, công chức. Thông qua các công cụ quản lý vĩ mô và vai trò của kinh
tế nhà nước để quản lý thị trường, điều tiết thu nhập, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng
kinh tế với thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các
vùng miền và các tầng lớp dân cư. Kiểm soát việc phân bổ, quản lý và sử dụng vốn, tài
sản công, khắc phục tình trạng vô chủ, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
Xác định rõ trách nhiệm của các cấp chính quyền, thủ trưởng cơ quan nhà nước trong
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Xử lý nghiêm minh các hành vi trì hoãn,
làm sai lệch, can thiệp trái pháp luật hoặc lẩn tránh trách nhiệm đối với việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Xây dựng, hoàn thiện những quy định để người dân trình bày nguyện
vọng, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, tạo sự đồng thuận trong xã hội; đồng thời ngăn
chặn, xử lý nghiêm minh những hành vi lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để xuyên tạc,
vu khống, gây rối an ninh, trật tự.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả ba lĩnh vực: Xây dựng pháp luật, chấp
hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
đồng bộ, hiện đại với tính công khai, minh bạch cao, phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng. Chỉ đạo chặt chẽ quá
trình chuẩn bị và thông qua các dự án luật, bảo đảm quán triệt đường lối, quan điểm của
Đảng, tổng kết thực tiễn, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp tiên tiến của nước
ngoài; tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, ý kiến đóng góp của nhân
dân, nhất là các đối tượng có liên quan đến việc thi hành pháp luật. Các bộ luật, luật ban
hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để giảm tình trạng phải chờ đợi
văn bản hướng dẫn mới thi hành được. Tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích,
giáo dục pháp luật để nhân dân hiểu và tự giác chấp hành. Tổ chức thực hiện và chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật, đấu tranh chống các biểu hiện coi thường pháp luật, kỷ
cương, phép nước.
Cùng với tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật, đề cao tinh thần “thượng tôn pháp
luật”, cần coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, kết hợp sức
mạnh của pháp luật với sức mạnh đạo đức, văn hóa và dư luận xã hội. Nâng cao vai trò,
trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên trong việc xây dựng, bảo
vệ chính quyền, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thu hút sự tham gia ngày càng
rộng rãi của nhân dân vào công việc quản lý nhà nước, đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước cũng
như trong đời sống xã hội.
Chú trọng phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền
tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp. Cụ thể hóa đầy đủ các nguyên
tắc hiến định về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
Tiếp tục kiện toàn tổ chức cơ quan điều tra, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan điều tra. Quan tâm đào tạo,
bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp đối với từng lĩnh vực hoạt động tư
pháp; thường xuyên cập nhật thông tin hợp tác quốc tế về tư pháp và các lĩnh vực liên
quan. Tích cực chuẩn bị đội ngũ luật sư, cán bộ các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp có
đủ khả năng tham gia tố tụng trong các vụ, việc có yếu tố nước ngoài và giải quyết các
tranh chấp quốc tế, bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Tăng cường tổng kết thực tiễn, bổ sung và hoàn thiện lý luận, rút ra những bài học kinh
nghiệm về cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trên cơ sở đó,
cung cấp những luận cứ khoa học để tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; Nhà nước hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu
quả; nhân dân ngày càng tham gia nhiều hơn vào các công việc của Nhà nước.
Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ sự nghiệp đổi mới đất nước, tận dụng mọi thời cơ,
vượt lên mọi khó khăn, thách thức, nhất định công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân sẽ giành
được những thành tựu to lớn hơn nữa, đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
“Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công , phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”
trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung
phát triển năm 2011), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp
năm 2013) đã bổ sung một nguyên tắc mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước ta. Đó là “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”. Đây vừa là quan điểm vừa là nguyên tắc chỉ đạo công cuộc tiếp tục, xây dựng và
hoàn thiện bộ máy nhà nước ta trong thời kỳ mới - Thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới cả về kinh tế lẫn chính trị.
1. Về quyền lực nhà nước là thống nhất
Quyền lực nhà nước thống nhất là vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc. Cho đến
nay, các khía cạnh của vấn đề quyền lực nhà nước là thống nhất như: Thế nào là thống
nhất quyền lực nhà nước? Quyền lực nhà nước thống nhất ở đâu? Ý nghĩa của quyền lực
nhà nước là thống nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước như thế nào?
Các khía cạnh này chưa được nhận thức thống nhất. Có một số người cho rằng, quyền
lực nhà nước là thống nhất, nhưng sự thống nhất đó tập trung vào Quốc hội. Do vậy,
Quốc hội được Hiến pháp xác nhận là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Và với vị
trí pháp lý đó, những người này cho rằng Quốc hội là cơ quan có toàn quyền, là cơ quan
cấp trên của các quyền hành pháp và tư pháp. Một số khác lại cho rằng, trong nhà nước
kiểu mới như nhà nước ta, giai cấp công nhân và Nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của một Đảng, ngày càng thống nhất về lợi ích, trong nội bộ không có sự phân chia
thành phe phái đối lập như trong nhà nước tư sản, nên thống nhất quyền lực nhà nước là
yếu tố cơ bản, duy nhất giữ vai trò quyết định trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước mà không cần thiết phải phân công quyền lực nhà nước. Quan niệm này đề cao
tính thống nhất của quyền lực nhà nước, phủ nhận, xem thường hoặc hạ thấp vai trò của
phân công, phân nhiệm rành mạch quyền lực nhà nước. Thực chất quan niệm này cũng
không khác gì quan điểm nói trên.
Theo nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 2013 thì quyền lực nhà nước thống nhất
là ở Nhân dân. Quan niệm thống nhất quyền lực nhà nước là ở Nhân dân thể hiện ở
nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.
Trước đây, Hiến pháp cũng quy định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân” nhưng được thực hiện bằng nguyên tắc tập trung quyền lực nhà nước (tập quyền).
Do đó, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân nhưng lại tập trung vào Quốc hội,
như quan niệm nói trên. Với nhận thức rằng, Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà
nước, nhưng vì không thực hiện được quyền lực nhà nước một cách trực tiếp nên đã trao
toàn bộ quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội. Quốc hội được Hiến pháp năm
1980 xác định là cơ quan có toàn quyền. Ngoài 15 nhiệm vụ và quyền hạn quy định ở
Điều 83, Hiến pháp 1980 còn quy định “Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ
và quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết” (Điều 83) đến Hiến pháp năm 1992, Điều 84
quy định Quốc hội chỉ có 14 nhiệm vụ quyền hạn (không còn là một Quốc hội toàn
quyền như Hiến pháp năm 1980), nhưng Điều 6 Hiến pháp lại quy định: “Nhân dân sử
dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng Nhân dân là những cơ quan
đại diện cho ý chí và nguyên vọng của Nhân dân…”. Như vậy, Quốc hội vẫn là Quốc
hội toàn quyền trong Hiến pháp năm 1992 bởi Nhân dân không thực hiện quyền lực nhà
nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp mà chỉ bằng hình thức dân chủ đại diện.
Nguyên tắc tập trung quyền lực nhà nước của Nhân dân vào Quốc hội phù hợp với điều
kiện kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp, với ưu điểm bảo đảm cho quyền
lực nhà nước tập trung, quyết định và thực thi quyền lực nhà nước nhanh chóng, thống
nhất. Tuy nhiên, nguyên tắc này trong điều kiện mới đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là
thiếu sự phân định phạm vi quyền lực nhà nước được Nhân dân giao quyền nên không
đề cao được trách nhiệm của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, hạ thấp vai trò
dân chủ trực tiếp của Nhân dân, thiếu sự kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan
nhà nước. Hơn nữa, nguyên tắc này phủ nhận tính độc lập tương đối giữa các quyền nên
đã hạn chế tính năng động, hiệu quả và trách nhiệm của mỗi quyền. Nhân dân và xã hội
không có sơ sở để đánh giá chất lượng hoạt động của quyền lực nhà nước. Do vậy, trong
điều kiện dân chủ và pháp quyền XHCN, tập quyền không phù hợp với việc phát huy
đầy đủ vai trò của quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tiềm ẩn nguy cơ lạm dụng
quyền lực nhà nước của Nhân dân từ phía các cơ quan nhà nước.
Nhận rõ hạn chế của nguyên tắc tập quyền trong điều kiện mới, Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung và phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013 đã
khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Điều 2).
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân được Hiến pháp quan niệm Nhân dân là
chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, Nhân dân thông qua quyền lập hiến giao quyền
lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và cho cơ quan tư pháp như các
Hiến pháp trước đây. Theo điều 70 Hiến pháp năm 2013, Nhân dân chỉ trao cho Quốc
hội ba nhóm quyền hạn và nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp;
quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao và quyền hạn và nhiệm vụ về quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước. Đồng thời điều 6 quy định Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước không những bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng Nhân
dân và các cơ quan khác của nhà nước mà còn bằng dân chủ trực tiếp thông qua việc
thực hiện quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu
ý dân về Hiến pháp (điều 29 và điều 120)… Có như vậy, nguyên tắc tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân mới đúng, mới bảo đảm thực hiện đầy đủ, không hình thức.
Như vậy, thống nhất quyền lực nhà nước được hiểu là toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc
về Nhân dân, tập trung thống nhất ở Nhân dân chứ không phải tập trung ở Quốc hội.
Quan niệm đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Trước hết, điều đó chỉ ra rằng
quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một
nguồn gốc thống nhất là Nhân dân, đều do Nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói
quyền lực nhà nước là thống nhất trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội
dung chính trị của nhà nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu
chính trị chung là xây dựng một nhà nước “đảm bảo và không ngừng phát huy quyền
làm chủ về mọi mặt của Nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” như Điều 3 Hiến pháp mới đã quy định.
Quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất như nói trên của Hiến pháp năm 2013 là
cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm của nhà nước trước Nhân dân,
hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại trong việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ mà Nhân dân đã
ủy quyền. Đó cũng là cơ sở để không có chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu
trách nhiệm trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất là giữa quyền lập pháp và quyền
hành pháp. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét,
đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực
nhà nước cũng như từ bên ngoài là Nhân dân.
Như vậy, quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung ở Nhân dân, chủ thể tối cao và
duy nhất của quyền lực nhà nước là quan niệm có ý nghĩa chỉ đạo tổ chức quyền lực nhà
nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
Mọi biểu hiện xa rời quan điểm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân theo Hiến pháp
năm 2013 đều dẫn đến tổ chức quyền lực nhà nước kém hiệu quả.
2. Về “phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền XHCN thì quyền lực nhà nước không phải là
quyền lực tự có của nhà nước mà quyền lực được Nhân dân ủy quyền, Nhân dân giao
quyền. Vì thế, tất yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát quyền lực
nhà nước. Mặt khác, khi ủy quyền cho nhà nước, quyền lực nhà nước lại thường vận
động theo xu hướng tự phủ định mình, trở thành đối lập với chính mình lúc ban đầu (từ
của Nhân dân là số đông chuyển thành số ít của một nhóm người hoặc của một người).
C.Mác gọi hiện tượng này là sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Hơn nữa, quyền lực
nhà nước là của Nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước suy cho cùng là giao cho
những người cụ thể thực thi. Mà con người thì “luôn luôn chịu sự ảnh hưởng của các
loại tình cảm và dục vọng đối với các hành động của con người. Điều cũng khiến cho lý
tính đôi khi bị chìm khuất”[1]. Đặc biệt là khi lý tính bị chi phối bởi các dục vọng, thói
quen hay tình cảm thì khả năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực nhà nước càng lớn.
Với đặc điểm đó của con người, không thể khẳng định người được ủy quyền luôn luôn
làm đúng, làm đủ những gì mà Nhân dân đã ủy quyền. Vì vậy, kiểm soát quyền lực nhà
nước là một nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền đối với người được ủy quyền.
Hơn thế nữa, quyền lực nhà nước không phải là một đại lượng có thể cân, đong, đo, đếm
được một cách rạch ròi, vì nó là một thể thống nhất như nói ở trên. Điều đó lại càng đòi
hỏi phải kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn chế hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền lực
nhà nước được Nhân dân ủy quyền.
Xuất phát từ các đòi hỏi khách quan nói trên, quyền lực nhà nước thường được lượng
hóa bằng các quy định của Hiến pháp để phân định nhiệm vụ quyền hạn của các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự lượng hóa này là để giao cho các cơ quan nhà nước
khác nhau, thay mặt Nhân dân thực hiện. Sự phân định các quyền như vậy là điều kiện
cơ bản để Nhân dân giao quyền mà không bị lạm quyền, Nhân dân kiểm soát và đánh
giá được hiệu lực và hiệu quả thực hiện các quyền mà mình đã giao. Đồng thời cũng là
để cho các cơ quan tương ứng được giao quyền đề cao trách nhiệm trong việc thực thi
quyền lực nhà nước và tự kiểm tra việc thực hiện quyền lực nhà nước được giao cho
mình. Theo đó, trong Hiến pháp năm 2013 đã có một bước tiến mới trong việc phân
công quyền lực nhà nước. Lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta chỉ rõ Quốc hội thực
hiện quyền lập hiến (không còn là duy nhất có quyền lập hiến như Hiến pháp năm
1992), quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ thực hiện quyền hành pháp (Điều 94), Tòa
án Nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Việc xác nhận các cơ quan khác nhau
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một thay đổi quan trọng, tạo điều
kiện để làm rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ quyền hạn của mỗi quyền.
Đối với quyền lập pháp là quyền đại diện cho Nhân dân thể hiện ý chí chung của quốc
gia. Những người được Nhân dân trao cho quyền này là những người do phổ thông đầu
phiếu bầu ra hợp thành cơ quan gọi là Quốc hội. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt
động của quyền này là đại diện cho Nhân dân, bảo đảm cho ý chí chung của Nhân dân
được thể hiện trong các đạo luật mà mình là cơ quan duy nhất được Nhân dân giao
quyền biểu quyết thông qua luật. Quyền biểu quyết thông qua luật là quyền lập pháp,
chứ không phải là quyền đưa ra các mô hình xử sự cho xã hội. Vì vây, quyền lập pháp
không đồng nghĩa với quyền làm ra luật. Đồng thời, là người thay mặt Nhân dân giám
sát tối cao mọi hoạt động của nhà nước, nhất là hoạt động thực hiện quyền hành pháp, để
góp phần giúp cho các quyền mà Nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước không bị lạm
quyền, lộng quyền hay bị tha hóa. Quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc hội thực hiện
quyền lập hiến, lập pháp được quy định ở Điều 70 và Điều 120 của Hiến pháp năm
2013.
Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung của quốc gia do Chính phủ
đảm trách. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đề xuất,
hoạch định, tổ chức soạn thảo chính sách quốc gia và sau khi chính sách quốc gia được
thông qua là người tổ chức thực hiện và quản lý nhà nước mà thực chất là tổ chức thực
hiện pháp luật để bảo đảm an ninh, an toàn và phát triển xã hội. Không có một Chính
phủ thực hiện quyền hành pháp một cách hữu hiệu, thông minh; không thể có một nhà
nước giàu có, phát triển ổn định cả về mặt kinh tế lẫn mặt xã hội. Thực hiện quyền này
đòi hỏi Chính phủ và các thành viên của Chính phủ phải nhanh nhạy, quyết đoán kịp
thời và quyền uy tập trung thống nhất. Quyền hạn và nhiệm vụ của Chính phủ - cơ quan
thực hiện quyền hành pháp được quy định một cách khái quát ở Điều 96 Hiến pháp năm
2013.
Quyền tư pháp là quyền xét xử, được Nhân dân giao cho tòa án thực hiện.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức
thực hiện quyền này; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử
của thẩm phán và hội thẩm Nhân dân (khoản 2 Điều 103). Đây thực chất là quyền bảo
vệ ý chí chung của quốc gia bằng việc xét xử các hành vi vi phạm Hiến pháp, pháp luật
từ phía công dân và cơ quan nhà nước. Vì vậy, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân là nhiệm vụ hàng đầu của quyền tư pháp (khoản 3 Điều 102). Mọi cơ
quan, tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ tính pháp quyền và
công lý trong các phán quyết của Tòa án.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền lực nhà nước, việc phân định thành ba quyền
nói trên là một nhu cầu khách quan. Ngày nay, xu hướng phân định rành mạch ba quyền
đó ngày càng được coi trọng trong tổ chức quyền lực nhà nước. Bởi vì, xã hội càng phát
triển, phân công lao động càng phải chuyên môn hóa cao để phát huy hiệu quả. Đồng
thời, thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta chỉ ra rằng việc phân
định mạch lạc ba quyền là cách thức tốt nhất để phát huy vai trò của nhà nước trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, trong nhà nước ta quyền lực nhà nước là thống nhất. Đó là
sự thống nhất về mục tiêu chính trị chung. Vì vậy, việc phân định quyền lực nhà nước
không chứa đựng và bao quát việc phân lập mục tiêu chính trị chung của quyền lực nhà
nước. Do vậy, mặc dù có sự phân định ba quyền nhưng cả ba quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp không hoàn toàn tách biệt nhau, mà “ràng buộc lẫn nhau”, cả ba quyền đều
phải phối hợp với nhau, phải hoạt động một cách nhịp nhàng trên cơ sở làm đúng, làm
đủ nhiệm vụ và quyền hạn mà Nhân dân giao cho mỗi quyền được Hiến pháp – Đạo luật
gốc của nhà nước và xã hội quy định. Mục đích của việc phân công quyền lực nhà nước
là để nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm cho tính pháp quyền của nhà nước
và phát huy dân chủ XHCN, chứ không phải là để thỏa hiệp hay chia rẽ quyền lực nhà
nước giữa các quyền. Thực tiễn chỉ ra rằng sức mạnh và sự thịnh vượng của một quốc
gia, cũng như khả năng đối mặt với những khó khăn, thách thức phần lớn được quyết
định bởi sự vững mạnh của các thiết chế, cam kết của các nhánh quyền lực nhà nước với
Nhân dân về tính pháp quyền. Điều đó không kém phần quan trọng so với các yếu tố về
tài nguyên thiên nhiên, khí hậu hoặc vị trí địa lý của quốc gia. Những nước duy trì được
sự phát triển ổn định lâu dài về kinh tế - xã hội và chính trị chính là những nước tuân
theo tinh thần của pháp quyền. Ý nghĩa của sự phân công quyền lực nhà nước là để phân
định nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, để nhà nước hoạt
động có hiệu lực và hiệu quả, quyền lực nhà nước ngày càng thực sự là quyền lực của
Nhân dân, tính pháp quyền của nhà nước ngày càng thực sự là quyền lực của Nhân dân,
tính pháp quyền của nhà nước ngày càng được đề cao. Nội dung và tinh thần của các
quy định về việc phân công nhiệm vụ quyền hạn cho Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân
dân nhìn chung đáp ứng các yêu cầu nói trên và là cơ sở để tiến hành kiểm soát quyền
lực nhà nước.
Về kiểm soát quyền lực nhà nước, ngoài việc phân công mạch lạc nhiệm vụ quyền hạn
của các quyền để tạo cơ sở cho kiểm soát quyền lực; Hiến pháp năm 2013 còn tạo lập cơ
sở Hiến định để hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định (Điều 119). Đồng thời,
Hiến pháp giao cho: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ,
Tòa án Nhân dân, Viện kiểm sát Nhân dân, các cơ quan khác của nhà nước có trách
nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Như vậy, Hiến pháp lần này tuy chưa hình thành cơ chế bảo vệ
Hiến pháp chuyên trách như Nghị quyết của Đảng đã đề ra, nhưng với quy định của
Điều 119 đã tạo cơ sở hiến định để xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định.
Rồi đây, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Thanh tra, Luật Tổ chức Viện
kiểm sát Nhân dân chắc chắn sẽ được sửa đổi bổ sung để hình thành cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước trong việc tuân theo Hiến pháp một cách hữu hiệu hơn.
Trong tổ chức quyền lực nhà nước ở các nước theo nguyên tắc phân quyền mềm dẻo thì
kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, chủ yếu
là kiểm soát của lập pháp và tư pháp đối với hành pháp. Để tăng cường kiểm soát việc
thực hiện quyền hành pháp, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, điều chỉnh một số nhiệm
vụ, quyền hạn của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ví dụ như: Uỷ ban thường
vụ Quốc hội được bổ sung thêm nhiệm vụ: Quyết định, thành lập, giải thể, nhập, chia,
điều chỉnh địa giới, đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (khoản 8, Điều 74). Quốc hội được bổ sung thêm nhiệm vụ quyền hạn: Phê chuẩn,
đề nghị, bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao (khoản 7,
Điều 70). Cùng với điều đó, Hiến pháp năm 2013 đã thiết lập thêm hai thiết chế độc
lập: Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo
công tác bầu cử đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp (Điều 117) và Kiểm toán nhà
nước có nhiệm vụ giúp Quốc hội kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản
công (Điều 118). Sự ra đời các thiết chế hiến định độc lập này cũng nhằm tăng cường
các công cụ để Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước trong bầu cử, trong sử dụng tài
chính ngân sách nhà nước và tài sản công một cách hiệu quả hơn.
Ý 4, Biện pháp lực lượng Công an …
Để tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân trong quá trình phát triển, đổi mới và hội nhập, cần thực hiện có hiệu quả các giải
pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tăng cường dân chủ XHCN bởi vì dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, cần xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống
ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được
thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Thứ hai, đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, với tư cách Nhà nước là
trụ cột của hệ thống chính trị. Việc đổi mới, hoàn thiện Nhà nước có ý nghĩa quan trọng,
quyết định đến hiệu quả tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức,
hình thức, phương thức hoạt động của các cơ quan Nhà nước ở Trung ương, địa phương
nhằm hướng tới một bộ máy Nhà nước gọn về tổ chức, hiệu quả trong hoạt động, đáp
ứng ngày càng tích cực hơn các yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc
phòng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân phù hợp với các chuẩn mực
của chế độ pháp quyền.
Thứ tư, thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đáp ứng yêu cầu của
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam: (1) công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước
(CQHCNN) với việc kiểm soát quyền lực Nhà nước một cách hiệu quả nhất, vì thế phải
xem công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình như là một yếu tố cấu thành cốt lõi
trong mọi chiến lược, kế hoạch, chính sách, pháp luật về kiểm soát quyền lực của bộ
máy CQHCNN. (2) xây dựng, áp dụng các quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp của cán
bộ, công chức, viên chức hành chính cần đưa ra những yêu cầu về thái độ, hành vi của
cán bộ, công chức, viên chức hành chính khi thi hành công vụ. Đồng thời, các hình thức
xử lý trách nhiệm cũng cần được quy định rõ và tương xứng nhằm đảm bảo thực hiện
các quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp trên thực tế. (3) bảo đảm sự tuân thủ pháp luật
về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các CQHCNN đòi hỏi các cơ quan
Nhà nước phải thực hiện nghiêm túc các quy định có liên quan của Luật Phòng, chống
tham nhũng năm 2018, đặc biệt là quy định tại Điều 9, trong đó việc công khai, minh
bạch, trách nhiệm giải trình phải bảo đảm chính xác, rõ ràng, đầy đủ, kịp thời theo trình
tự, thủ tục của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền và phù hợp với quy định của
pháp luật. (4) bảo đảm công khai, minh bạch trong xây dựng chính sách, pháp luật, cần
thực hiện nghiêm túc, hiệu quả việc tham vấn ý kiến người dân và doanh nghiệp về các
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; kết hợp với việc minh bạch hóa quá trình chuẩn bị,
soạn thảo, trình, ban hành các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, cần chú
trọng rà soát, hệ thống hóa, công bố danh mục tài liệu bí mật Nhà nước để ngăn ngừa,
hạn chế việc lợi dụng bí mật Nhà nước theo nguyên tắc: Công khai là tối đa, bí mật là tối
thiểu. (5) nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện công
khai, minh bạch có trách nhiệm giải trình rõ những ý kiến, kiến nghị của người dân về
các vấn đề liên quan, đem lại hiệu quả cao nhất trong vấn đề này. Đồng thời, Nhà nước
cần đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng đơn giản hóa để tạo thuận lợi nhất cho
các tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu giải quyết công việc; tạo điều kiện để người dân có
thể giám sát và kiểm soát được hoạt động của cơ quan công quyền với phương châm lấy
sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp làm thước đo của hiệu quả hành chính công.
(6) nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức hành chính trong thực thi
công vụ: việc này đòi hỏi phải tổ chức thực hiện tốt quy định của Luật Cán bộ, công
chức; xây dựng và thực hiện chế độ, định mức công việc theo vị trí việc làm gắn với
phân công rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cán bộ, công chức hành
chính. Việc đảm bảo công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong đánh giá cán bộ,
công chức hành chính và sự minh bạch trong quản trị Nhà nước sẽ tạo thuận lợi cho
người dân giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, trong đó, việc xây dựng,
thực hiện định mức theo vị trí việc làm và trách nhiệm công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình là điều kiện để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính liêm
chính, kỷ cương, trách nhiệm. (7) đảm bảo sự giám sát của người dân và quyền giám sát,
phản biện xã hội của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, sự tham gia của Nhân
dân vào quản trị Nhà nước không chỉ làm cho các quyết định của Nhà nước được ban
hành sát với thực tế, mà còn là cơ sở tăng cường sự minh bạch hoạt động của cơ quan
Nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ. Vì vậy, cần
đảm bảo sự giám sát của người dân và quyền giám sát, phản biện xã hội của MTTQ, các
đoàn thể chính trị - xã hội trên thực tế. Ngoài ra, cần phát huy vai trò của báo chí và các
phương tiện thông tin đại chúng trong việc cung cấp thông tin về tổ chức, hoạt động của
bộ máy Nhà nước nói chung, các CQHCNN nói riêng, tạo diễn đàn tranh luận cho công
chúng và tạo dư luận để thúc đẩy tiến trình, nội dung minh bạch hóa hoạt động của bộ
máy Nhà nước nói chung, các CQHCNN nói riêng.

Câu 3 CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VÀ NHIỆM VỤ BẢO ĐẢM THI HÀNH
PHÁP LUẬT
1. Chính quyền địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật
Ở nước ta trước đây, thuật ngữ “chính quyền địa phương” đã được sử dụng tương
đối rộng rãi và phổ biến trong các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà
nước, các sách báo chính trị pháp lý, cũng như trong các bài phát biểu của lãnh đạo
Đảng và Nhà nước ở trung ương và địa phương. Chính quyền địa phương được hiểu là
một tổ chức hành chính có tư cách pháp nhân được Hiến pháp và pháp luật công nhận sự
tồn tại vì mục đích quản lý một khu vực nằm trong một quốc gia. Tuy nhiên, khái niệm
“chính quyền địa phương” chỉ mới được sử dụng chính thức từ khi có Hiến pháp năm
2013 và đặc biệt là được quy định cụ thể trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 (thay thế Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003).
Chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở các đơn vị hành
chính, có nhiệm vụ bảo đảm thi hành Hiến pháp, pháp luật, quyết định các vấn đề của
địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cấp trên; trên cơ sở phân định
thẩm quyền giữa Trung ương và địa phương…
Hiến pháp năm 2013 đã sửa đổi tên gọi của Chương IX từ “Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân” thành “Chính quyền địa phương”. Việc sửa đổi tên gọi của chương
này không chỉ thuần túy là sự sửa đổi về câu chữ, mà hơn hết đã thể hiện được tính
thống nhất của chính quyền địa phương và sự kết nối chặt chẽ của hai cơ quan tổ chức
thực thi quyền quyền lực nhà nước ở địa phương. Mặc dù Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân là hai cơ quan có vị trí và chức năng khác nhau, nhưng được tổ chức và hoạt
động trên cùng một địa bàn, một cấp hành chính, có mối quan hệ chặt chẽ về mặt tổ
chức và trong tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Thực tế cho
thấy, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của một cấp chính quyền địa phương chủ yếu dựa vào
việc phát huy mang tính tổng hợp hiệu lực hoạt động của cả hai cơ quan trong một thể
thống nhất. Bởi vậy, việc đổi tên gọi của chương này được coi là một bước thay đổi
nhận thức về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong Hiến pháp, thể
hiện rõ tính thống nhất, thông suốt của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến chính quyền
địa phương trong một nhà nước đơn nhất.
Mô hình tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa
phương cũng được đổi mới theo hướng: (i) Bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ hơn nữa giữa
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, trong đó, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền
lực nhà nước trong phạm vi đơn vị hành chính - lãnh thổ, thực hiện chức năng của mình
trên cơ sở Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đóng vai trò
chủ yếu trong việc tổ chức thực hiện Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của các cơ
quan nhà nước cấp trên ở địa phương. Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội
đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên; (ii) Phân cấp, phân quyền rành
mạch nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, bảo đảm nâng cao tính tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương và các nguồn lực bảo đảm thực hiện
các nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp; (iii) Khẳng định rõ nét hơn vị trí của chính
quyền địa phương trong hệ thống hành chính thống nhất, thông suốt của một nhà nước
đơn nhất, trong đó, giải quyết mối quan hệ hài hòa giữa chính quyền địa phương với các
cơ quan hành chính cấp trên và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.
Tổ chức chính quyền địa phương được quy định cụ thể hơn trong Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015. Chính quyền địa phương có nhiệm vụ tổ chức và
bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của
địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.
Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định
thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp
chính quyền địa phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao
thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm
thực hiện những nhiệm vụ đó (Điều 112).
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu
trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân
dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân
(Điều 113).
Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp
trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ
chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan
nhà nước cấp trên giao (Điều 114).
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình của địa
phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến,
kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở
địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân động
viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh ở địa phương.
2. Nhiệm vụ bảo đảm thi hành pháp luật của chính quyền địa phương
Như trên đã trình bày, chính quyền địa phương có trách nhiệm tổ chức và bảo đảm
việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương. Ở nước ta pháp luật được thi hành
thông qua các hình thức chủ yếu là tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật, chấp hành
pháp luật và áp dụng pháp luật. Bảo đảm thi hành pháp luật là tổng thể các biện pháp,
phương thức mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng để các chủ thể thực hiện
pháp luật đưa các quy định của pháp luật vào cuộc sống. Các biện pháp bảo đảm thi
hành pháp luật gồm: (i) Biện pháp pháp lý là các biện pháp từ việc tạo ra cơ sở pháp lý
cụ thể (ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản cá biệt) để thi hành pháp
luật đến các biện pháp cưỡng chế (hành chính hoặc tư pháp); (ii) Biện pháp kinh tế - xã
hội (ổn định và phát triển cơ sở vật chất, đời sống, điều kiện phương thức kỹ thuật…);
(iii) Biện pháp hành chính điều hành bảo đảm để các chủ thể quan hệ pháp luật thực hiện
các hành vi hợp pháp. Ngoài những nội dung trên, việc bảo đảm thi hành pháp luật ở địa
phương có những đặc điểm sau:
- Về phạm vi địa bàn, địa phương là một địa bàn đã được xác định một cách ổn
định và cụ thể, tuy hẹp nhưng không kém phần phức tạp, vì đây là một xã hội thu nhỏ
với trình độ phát triển, những nét văn hóa, truyền thống, tập quán riêng.
- Về chủ thể quan hệ pháp luật, đối với cá nhân là những người dân bao gồm cả
những người lãnh đạo và những người dân thường với trình độ văn hóa, học vấn, nhận
thức khác nhau, điều kiện bản thân, gia đình, mức sống, nhu cầu tự do, sở thích, quyền
lợi khác nhau; đối với tổ chức, là các chủ thể quan hệ pháp luật có trách nhiệm thực hiện
pháp luật và bảo đảm thi hành pháp luật, đó là các cơ quan thuộc chính quyền địa
phương, các cơ quan bảo vệ pháp luật, các tổ chức, cơ quan khác trong hệ thống chính
trị.
- Về vai trò bảo đảm thi hành pháp luật, chính quyền địa phương có trách nhiệm
quyết định việc thực hiện các biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân; áp
dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật. Tòa án nhân
dân và Viện kiểm sát nhân dân địa phương là những cơ quan bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi
ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa
phương. Các đoàn thể và tổ chức xã hội là lực lượng to lớn trong thực hiện pháp luật của
Nhà nước và tuyên truyền, phổ biến và động viên các hội viên, tổ chức của mình cũng
như toàn dân thực hiện pháp luật và giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương.
Việc bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương được thực hiện bằng nhiều biện
pháp đồng bộ của các cơ quan chính quyền địa phương, từ việc thực hiện các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương đến các biện pháp tuyên truyền, giáo dục và thi
hành pháp luật cụ thể. Đặc biệt, các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương
được xây dựng trên cơ sở phát huy truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, kết hợp
giữa các quy định chung của pháp luật với những nét đặc thù của địa phương. Tuy
nhiên, việc bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương được thực hiện trên cơ sở các quy
định của pháp luật về thẩm quyền của chính quyền địa phương, song các quy định hiện
hành về vấn đề này còn quá chung chung. Tài liệu về các quy định của pháp luật, nhất là
những văn bản pháp luật mới được ban hành không đáp ứng kịp thời, các văn bản pháp
luật lại thường xuyên sửa đổi, bổ sung, nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo nhau gây
khó khăn cho việc áp dụng pháp luật, nhất là ở cơ sở; điều kiện vật chất, phương tiện,
kinh phí cho hoạt động bảo đảm thi hành pháp luật, nhất là ở cơ sở rất khó khăn; đội ngũ
cán bộ (nhất là cán bộ có trình độ) ở địa phương vừa thiếu, vừa yếu, đặc biệt là ở cơ
sở… Để nâng cao hiệu quả bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương, cần thiết phải quan
tâm đẩy mạnh một số vấn đề sau đây:
- Đổi mới hoạt động để nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật tạo ra hệ
thống pháp luật đồng bộ bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật mang tính khả thi
cao, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Đây là yêu cầu quan trọng làm cơ sở cho việc bảo
đảm thi hành pháp luật, nhất là ở địa phương. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về thẩm
quyền của chính quyền địa phương trong việc bảo đảm thi hành pháp luật. Tăng cường
công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, trong đó có
việc quy định cụ thể hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân và nhiệm vụ thanh tra,
kiểm tra của Ủy ban nhân dân. Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công
chức, nhất là cán bộ, công chức cơ sở trong việc triển khai thi hành các quy định của
pháp luật và bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương.
- Tăng cường các điều kiện cho việc bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương từ
việc cung cấp đầy đủ, kịp thời các văn bản pháp luật đến các điều kiện để tổ chức thi
hành pháp luật và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Bảo đảm để các cơ quan
bảo vệ pháp luật thực hiện đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn trong việc áp dụng pháp luật ở
địa phương. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ
thống chính trị tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương.
Ngoài các biện pháp trực tiếp nêu trên, chúng ta còn cần có một số biện pháp khác
như quan tâm và chú trọng tới yếu tố kinh tế, xã hội, nhất là vấn đề phát triển kinh tế,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất
lớn tới ý thức thực hiện pháp luật, yếu tố kinh tế là nền tảng của sự nhận thức, hiểu biết
pháp luật và thực hiện pháp luật nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp
luật của các chủ thể pháp luật. Từ đó, niềm tin của các chủ thể đối với pháp luật được
củng cố, hoạt động thực hiện pháp luật sẽ mang tính tích cực, thuận chiều, phù hợp với
các giá trị, chuẩn mực pháp luật hiện hành. Chú trọng tới việc thực hiện chính sách xã
hội, đảm bảo các nguyên tắc của công bằng xã hội là điều kiện cần thiết cho sự ổn định
chính trị, tăng cường pháp chế và đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, từ đó, ý thức tôn
trọng pháp luật cũng được nâng lên một bước và việc thực hiện pháp luật của các chủ
thể trở nên tự giác và chủ động hơn. Cùng với việc quan tâm phát triển kinh tế và ổn
định chính trị, thì vấn đề văn hóa, lối sống trong cộng đồng dân cư cũng rất quan trọng.
Với những mặt, những khía cạnh biểu hiện của mình như phong tục tập quán, truyền
thống văn hóa, lễ nghi, tín ngưỡng… có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện
pháp luật thể hiện trên các mặt như phong tục tập quán trong cộng đồng xã hội có ảnh
hưởng nhất định tới hoạt động thực hiện pháp luật của các tầng lớp nhân dân, thể hiện
đặc biệt rõ nét ở khu vực nông thôn. Lối sống, quan hệ dòng họ, thân tộc đã và đang có
những tác động nhất định tới việc thực hiện pháp luật, đặc biệt là sự tác động mạnh mẽ
của dư luận xã hội.

Về đơn vị hành chính, Điều 110 Hiến pháp năm 2013 quy định: Các đơn vị hành
chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị
xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận,
huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị
xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường.
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Như vậy, về cơ bản
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về các đơn
vị hành chính nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, ổn định trong cấu trúc hành
chính ở nước ta; đồng thời có bổ sung thêm các quy định sau:

+ Ở thành phố trực thuộc Trung ương, ngoài đơn vị hành chính có tính truyền
thống còn có “đơn vị hành chính tương đương” với cấp quận, huyện, thị xã. Đơn vị
hành chính tương đương này có thể là thành phố trong thành phố trực thuộc Trung
ương như đề xuất của thành phố Hồ Chí Minh trong Đề án thí điểm mô hình chính
quyền đô thị. Quy định mang tính mở này tăng khả năng dự báo và tính ổn định
của Hiến pháp trong việc đáp ứng nhu cầu khách quan của quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.

+ Bổ sung quy định “đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập”
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường,
khai thác tiềm năng kinh tế của một số địa phương nhất định. Thực chất, vấn đề
này cũng đã được quy định tại khoản 8 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992 nhưng lại
nằm ở Chương quy định về Quốc hội, chứ không phải ở Chương quy định về chính
quyền địa phương. Đây là quy định được bổ sung trên cơ sở ý kiến đề xuất của các
vị đại biểu Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan, tổ chức, các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương nhằm đáp ứng nhu cầu thiết lập các đơn vị hành chính - kinh tế
đặc biệt đang đặt ra ở một số địa phương như huyện đảo Phú Quốc tỉnh Kiên
Giang, huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh… Vì vậy, khi xây dựng Luật tổ chức
chính quyền địa phương cần phải tính toán một cách khoa học, thực tiễn và có quy
định địa vị pháp lý riêng cho đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt này.

+ Xuất phát từ quan điểm chủ quyền Nhân dân và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân, sự tham gia của Nhân dân vào việc xây dựng Nhà nước, bảo đảm quyền
dân chủ trực tiếp của Nhân dân đã được ghi nhận tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013
và bảo đảm tính ổn định các đơn vị hành chính, tránh tình trạng “nhập - tách” có
phần dễ dãi, thiếu căn cứ, tiêu chí minh bạch, công khai, khoản 2 Điều 110 Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới
đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục
do luật định”.

- Về tổ chức chính quyền địa phương: Điều 111 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải
đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”. Với quy định này, Hiến
pháp năm 2013 khẳng định chính quyền địa phương được tổ chức ở tất cả các đơn
vị hành chính, nhưng không phải ở tất cả các đơn vị hành chính, chính quyền địa
phương cũng được tổ chức giống nhau. Đồng thời, không phải chính quyền ở bất
kỳ một đơn vị hành chính nào cũng là một cấp chính quyền. Ở đâu được quy định
là cấp chính quyền thì chính quyền ở đó bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân, Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra; còn ở đâu
không được quy định là cấp chính quyền thì sẽ có cơ quan hành chính thực hiện
nhiệm vụ quản lý hành chính và dịch vụ công tại địa bàn; cơ quan hành chính này
có thể được thiết lập bằng nhiều cách thức khác nhau, có thể do cơ quan hành
chính cấp trên quyết định thành lập, hay do Hội đồng nhân dân cấp dưới bầu, hoặc
theo cách thức khác. Việc tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở từng
đơn vị hành chính cụ thể sẽ được quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa
phương trên cơ sở tổng kết việc thực hiện chủ trương của Đảng về thí điểm một số
nội dung về tổ chức chính quyền đô thị và kết quả tổng kết việc thực hiện Nghị
quyết số 26 của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu tổ chức chính quyền địa phương phù
hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt
và các nguyên tắc phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương và giữa
các cấp chính quyền địa phương.

- Về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, Hiến pháp năm 1992
không có điều khoản riêng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa
phương mà nội dung này được thể hiện thông qua các quy định về thẩm quyền của
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một điều
mới (Điều 112) quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương với
nội dung như sau:

+ Quy định cụ thể chính quyền địa phương có 02 loại nhiệm vụ: tổ chức và bảo
đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề
của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp
trên. Như vậy, ở những nơi có cấp chính quyền thì những nhiệm vụ, quyền hạn này
do cả Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thực hiện, còn ở những nơi không
được xác định là cấp chính quyền thì nhiệm vụ, quyền hạn này sẽ do một thiết chế
hành chính thực hiện và chính quyền ở bất kỳ một cấp hành chính nào cũng đều
phải chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.

+ Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân
định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của
mỗi cấp chính quyền địa phương. Đây là một quy định mang tính định hướng quan
trọng cho việc thực hiện quan điểm tổ chức và thực hiện quyền lực có ảnh hưởng
quyết định đến tổ chức bộ máy nhà nước ta “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”, đồng thời đòi hỏi phải phân cấp thật
rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn giữa trung ương và địa phương và mỗi cấp chính
quyền.
+ Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số
nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện
nhiệm vụ đó. Quy định này nhằm khắc phục tình trạng nhiều nhiệm vụ của trung
ương được giao cho địa phương thực hiện nhưng chỉ giao việc mà không kèm theo
các điều kiện (vật chất, nhân lực…) để bảo đảm việc thực hiện việc đó.

- Về địa vị pháp lý của chính quyền địa phương và chức năng, nhiệm vụ cụ thể của
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân: So với Hiến pháp năm 1992, địa vị pháp
lý của chính quyền địa phương và chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân quy định trong Hiến pháp năm 2013 không có những thay
đổi căn bản, nhưng quy định rõ hơn, cụ thể hơn. Theo đó, Hội đồng nhân dân tiếp
tục thực hiện hai loại chức năng: quyết định và giám sát (quyết định những vấn đề
của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân). Đối với Ủy ban nhân
dân thì Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên. Như vậy, ở những đơn vị hành chính mà chính
quyền ở đó không được coi là cấp chính quyền thì việc thành lập cơ quan hành
chính sẽ do luật định. Điều này sẽ tạo nên sự năng động hơn trong việc thành lập cơ
quan hành chính ở các đơn vị hành chính khác nhau, bảo đảm phù hợp với thực
tiễn. Về chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân, khoản 2 Điều 114 Hiến pháp
năm 2013 tiếp tục quy định: “Ủy ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và
pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân”
nhưng đồng thời có bổ sung nhiệm vụ: “thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà
nước cấp trên giao”.

- Về đại biểu Hội đồng nhân dân, cơ bản Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa các
quy định của Hiến pháp năm 1992 về đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo đó, đại
biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chia, nguyện vọng của Nhân dân
địa phương; liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ
tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả
lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động Nhân dân thực hiện
Hiến pháp và pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân
dân, động viên Nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Đại biểu Hội đồng nhân dân
có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban
nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Thủ
trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội
đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan
nhà nước, tổ chức, đơn vị ở địa phương. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu.

- Về mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên, cũng như các quy định về đại biểu Hội đồng
nhân dân, cơ bản, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa các quy định của Hiến
pháp năm 1992, cụ thể như sau: Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thực hiện
chế độ thông báo tình hình của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng
chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể Nhân dân động viên Nhân dân cùng Nhà nước thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương. Chủ tịch Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội ở địa
phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự
hội nghị Ủy ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan.

Có thể thấy rằng, các quy định trong Hiến pháp năm 2013 về chính quyền địa
phương kế thừa nhiều quy định của Hiến pháp năm 1992, nhưng đồng thời cũng bổ
sung nhiều điểm mới mở đường cho việc tiếp tục đổi mới pháp luật về chính quyền
địa phương như: thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà
nước (Điều 52); quy định đơn vị hành chính tương đương thuộc thành phố trực
thuộc trung ương; quy định việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới
đơn vị hành chính (Điều 110); quy định về tổ chức chính quyền địa phương ở các
đơn vị hành chính (Điều 111); quy định về phân định thẩm quyền giữa các cơ quan
nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương;
quy định về việc thực hiện nhiệm vụ được cơ quan nhà nước cấp trên giao (Điều
112). Những quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc tổ chức đơn vị
hành chính và tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với yêu cầu xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của Nhân dân, do Nhân dân và
vì Nhân dân. Để thực hiện có hiệu quả các quy định của Hiến pháp năm 2013 về
chính quyền địa phương, chúng ta cần phải sớm tổng kết việc thực hiện thí điểm
không tổ chức Hội đồng nhân dân ở quận, huyện, phường theo tinh thần Nghị
quyết số 26 của Quốc hội; khẩn trương xây dựng, ban hành Luật tổ chức chính
quyền địa phương và Luật về điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập mới, giải thể,
chiaương, tách địa giới hành chính… bảo đảm chính quyền địa phương các cấp
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, hệ thống hành chính nhà nước thống nhất, thông
suốt từ trung ương đến cơ sở; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò
làm chủ của Nhân dân trong việc xây dựng và giám sát hoạt động của chính quyền
địa phuonwg
Thực trạng và định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương ở Việt Nam
Điều 111 Hiến pháp năm 2013 quy định “Chính quyền địa phương được tổ chức ở
các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; “Cấp chính
quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức
phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt do luật định”. Căn cứ quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức chính quyền địa
phương (CQĐP) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) đã có những quy định mới
về tổ chức và hoạt động của CQĐP các cấp. Theo đó, CQĐP ở các đơn vị hành
chính (ĐVHC) là cấp CQĐP gồm có Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân
dân (UBND), trừ trường hợp Quốc hội quy định không phải là cấp CQĐP đối với
quận, phường, ĐVHC cấp xã thuộc cấp huyện ở hải đảo và đơn vị hành chính -
kinh tế đặc biệt; nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp CQĐP được quy định theo từng
loại ĐVHC.
Thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), trong nhiệm kỳ 2016-2021 vừa qua và nhiệm kỳ
2021-2026 hiện nay, CQĐP các cấp ngày càng hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng
các yêu cầu quản lý và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; bộ máy chính quyền các
cấp ở đô thị, nông thôn, hải đảo từng bước được đổi mới trên cơ sở quy định rõ hơn
chức năng, nhiệm vụ. Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức và hoạt động của CQĐP ở nước ta
hiện nay còn bộc lộ những hạn chế, bất cập do nhiều nguyên nhân về tổ chức ĐVHC, về
trình độ phát triển kinh tế - xã hội và các yếu tố đặc thù của từng loại ĐVHC. Vì vậy,
việc tiếp tục nghiên cứu để đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐP là nhiệm vụ quan
trọng, nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn quản lý
nhà nước ở địa phương.

Thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam
Những kết quả đạt được
Thứ nhất, về tổ chức đơn vị hành chính
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, Nghị quyết số 37-NQ/TW
ngày 24/12/2018 của Bộ Chính trị và căn cứ quy định của pháp luật về sắp xếp, thành
lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới ĐVHC, trong giai đoạn 2019-2021, cả nước
đã giảm được 08 ĐVHC cấp huyện và 561 ĐVHC cấp xã, nhiều đô thị được hình thành,
đầu tư phát triển mở rộng cả về quy mô và chất lượng. Tính đến tháng 12/2021, nước ta
có 63 ĐVHC cấp tỉnh (gồm 05 thành phố trực thuộc Trung ương và 58 tỉnh), 705 ĐVHC
cấp huyện (gồm 01 thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, 80 thành phố
thuộc tỉnh, 50 thị xã, 46 quận và 528 huyện) và 10.599 ĐVHC cấp xã (gồm 1.723
phường, 612 thị trấn và 8.264 xã).
Thứ hai, về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
Trong nhiệm kỳ 2016-2021, CQĐP ở các ĐVHC (được tổ chức có HĐND và UBND) là
cấp CQĐP, làm việc và hoạt động theo chế độ tập thể. Từ đầu nhiệm kỳ 2021-2026,
thực hiện Luật Tổ chức CQĐP và 03 Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức mô hình chính
quyền đô thị tại thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh thì
phường thuộc thành phố Hà Nội và quận, phường thuộc Thành phố Hồ Chí Minh và
thành phố Đà Nẵng không tổ chức HĐND; chính quyền địa phương ở nơi không tổ chức
HĐND là UBND, làm việc và hoạt động theo chế độ công vụ của công chức. Theo đó,
bước đầu đã có những đổi mới về tổ chức và hoạt động của CQĐP theo hướng phân biệt
đô thị và nông thôn.
Thứ ba, về phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa
phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương
Luật Tổ chức CQĐP đã quy định 06 nguyên tắc phân định thẩm quyền giữa các cơ quan
nhà nước Trung ương và địa phương và của mỗi cấp CQĐP. Trong đó, xác định rõ việc
phân quyền cho mỗi cấp CQĐP phải được quy định bằng luật, đồng thời các luật chuyên
ngành phải quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể mà CQĐP không được phân cấp, ủy
quyền cho cơ quan nhà nước cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác; việc phân cấp phải
bằng văn bản quy phạm pháp luật và việc ủy quyền phải thể hiện bằng văn bản. Từ
những nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp, phân quyền, CQĐP các cấp có căn cứ pháp
lý để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội ở địa
phương.
Thứ tư, về cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
Đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 được bầu theo đúng quy định, giảm về số
lượng, đặc biệt giảm đại biểu công tác trong các cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương để tăng đại biểu hoạt động chuyên trách; chất lượng và trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ của đại biểu HĐND được nâng cao so với nhiệm kỳ trước(1).
Cơ cấu tổ chức của UBND gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên (ở cả 3 cấp đều
có Ủy viên phụ trách quân sự và Ủy viên phụ trách công an; ở cấp tỉnh, cấp huyện bao
gồm những người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp), bảo đảm
nguyên tắc làm việc tập thể của UBND, tạo điều kiện thực hiện việc giám sát của
HĐND và lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên UBND, (tại những nơi không tổ
chức HĐND theo Nghị quyết của Quốc hội thì UBND đã được kiện toàn cơ cấu tổ chức
theo quy định và hoạt động từ ngày 01/7/2021).
Thứ năm, về thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
Việc ban hành các nghị quyết của HĐND bảo đảm quy trình, thủ tục luật định, đã chú
trọng hơn việc lấy ý kiến nhân dân địa phương và các chuyên gia. Chất lượng kỳ họp và
nghị quyết được tăng lên cả về chất lượng và số lượng, đã mang lại hiệu quả tích cực
trong việc giải quyết những vấn đề quan trọng của địa phương(2). Hoạt động tiếp xúc cử
tri và tiếp nhận đơn tố cáo, kiến nghị của công dân trước các kỳ họp HĐND được thực
hiện ngày càng tốt hơn(3).
UBND các cấp đã thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng là cơ quan chấp hành của
HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (nơi không tổ chức
HĐND thì UBND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương), khắc phục các khó
khăn, thách thức, tận dụng tốt các thời cơ để tập trung công tác chỉ đạo, điều hành; có sự
phân định trách nhiệm của cá nhân và tập thể UBND, trong đó đề cao vai trò, trách
nhiệm của Chủ tịch UBND.
Một số hạn chế, bất cập
Một là, về tổ chức và số lượng đơn vị hành chính
Đánh giá theo quy định của Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiêu chuẩn của ĐVHC và phân loại ĐVHC thì tính đến
tháng 12/2021 chỉ có 14/63 ĐVHC cấp tỉnh (chiếm 22,22%), 124/705 ĐVHC cấp huyện
(chiếm 17,59%) và 1.963/10.599 ĐVHC cấp xã (chiếm 18,52%) đạt đủ cả 02 tiêu chuẩn
về quy mô dân số và diện tích tự nhiên. Số ĐVHC có quy mô diện tích nhỏ, dân số ít
còn nhiều, dẫn đến đầu tư dàn trải và khó khăn trong việc sắp xếp tổ chức bộ máy và
tinh giản biên chế ở các cấp CQĐP.
Hai là, về mô hình tổ chức chính quyền địa phương
Ngoài việc thực hiện tổ chức mô hình chính quyền đô thị ở 03 thành phố (Hà Nội, Đà
Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh) thì CQĐP ở các ĐVHC còn lại đều là cấp chính quyền
địa phương (có HĐND và UBND) là chưa có sự phân biệt với đặc điểm nông thôn, đô
thị, hải đảo. Mô hình chính quyền đô thị tại 03 thành phố mới triển khai thực hiện chưa
đủ thời gian để tổng kết đánh giá và trong quá trình thực hiện đã phát sinh một số hạn
chế, bất cập so với yêu cầu của thực tiễn.
Ba là, về phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa
phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương
Phân quyền, phân cấp vẫn chủ yếu “từ trên xuống” theo cấp chính quyền; chưa phù hợp
với vị trí, vai trò của từng cấp chính quyền và đặc thù của từng loại chính quyền nông
thôn, đô thị, hải đảo; chưa gắn với cải cách thủ tục hành chính, vẫn còn cơ chế kiểm soát
của cấp trên qua các hình thức như báo cáo, xin ý kiến đối với các vấn đề đã phân
quyền, phân cấp; cơ chế kiểm soát quyền lực chưa được hoàn thiện đồng bộ với yêu cầu
đẩy mạnh phân quyền, phân cấp.
Bốn là, về vị trí, vai trò và hoạt động của chính quyền địa phương
Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) đã
quy định vị trí, vai trò và hoạt động của CQĐP phải bảo đảm tính thông suốt của nền
hành chính trong thể chế của nhà nước đơn nhất. Tuy nhiên, trong cơ chế cấp ủy địa
phương cùng cấp lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn thì cần
phải tiếp tục làm rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoạt động của HĐND và
UBND.
Vị trí, vai trò, trách nhiệm và hoạt động của các ủy viên với tư cách là thành viên UBND
chưa rõ ràng; chế độ làm việc tập thể của UBND kết hợp với trách nhiệm của Chủ tịch
UBND nếu thực hiện không tốt dẫn đến tình trạng phải họp nhiều, gây lãng phí thời
gian, không rõ trách nhiệm của từng thành viên UBND và không kịp thời giải quyết
những việc có tính cấp bách, cần thiết.
Năm là, về phát huy dân chủ và giám sát của người dân
Trong việc thực hiện bỏ phiếu còn có việc người dân chưa thực sự quan tâm tìm hiểu về
thông tin của các đại biểu; một số yêu cầu, kiến nghị của cử tri gửi đến các cơ quan có
thẩm quyền chưa được giải quyết dứt điểm; tình trạng để vụ việc tồn đọng vẫn còn kéo
dài; việc đôn đốc, theo dõi kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cử tri ở
một số địa phương còn chưa kịp thời.
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
Những hạn chế, bất cập nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó,
có những nguyên nhân chủ yếu sau: (i) Quá trình hình thành và phát triển của các
ĐVHC ở nước ta trải qua nhiều thời kỳ, mang nhiều yếu tố đặc thù về lịch sử, phong
tục, tập quán, điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế - xã hội; (ii) việc chậm xây
dựng quy hoạch tổng thể về ĐVHC các cấp cũng gây khó khăn cho công tác tổ chức
phân định ĐVHC các cấp làm cơ sở để tổ chức CQĐP ở các ĐVHC cho phù hợp; (iii)
nhiều địa phương vẫn khó khăn phải phụ thuộc vào ngân sách Trung ương để phát triển
kinh tế - xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức, hoạt động và phân quyền, phân cấp của
CQĐP trên địa bàn; (iv) thể chế về CQĐP chưa phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị;
(v) đội ngũ cán bộ, công chức và đại biểu HĐND các cấp đã từng bước được nâng cao
về chất lượng, tuy nhiên năng lực thực tiễn và trình độ còn chưa đồng đều, chưa thực sự
ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và quản trị CQĐP hiện đại, văn minh và hội
nhập quốc tế(4).
Định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
Thứ nhất, xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương
Cần xác định rõ vị trí, tính chất pháp lý của HĐND và UBND theo hướng quy định rõ
về quyền tự chủ của HĐND trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của địa
phương, đặc biệt là vấn đề ngân sách và sử dụng các nguồn lực của địa phương; xác
định rõ tính chất, vai trò, chức năng chấp hành và quản lý hành chính nhà nước trên địa
bàn của UBND ở mỗi cấp CQĐP.
Quy định rõ những nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của Trung ương và của mỗi
cấp CQĐP theo hướng xác định từ cấp dưới lên cấp trên; việc nào CQĐP cấp dưới
không làm được thì CQĐP cấp trên, cơ quan Trung ương mới làm và phải làm. Theo đó,
những việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của cấp nào thì cấp đó chịu trách nhiệm thực
hiện, các cấp khác giữ vai trò phối hợp nếu có liên quan, khắc phục việc can thiệp, chỉ
đạo, điều hành không đúng thẩm quyền của cấp trên đối với việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của cấp dưới.
Thứ hai, đề cao vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về phân quyền, phân cấp giữa các cấp chính quyền từ Trung
ương đến từng cấp CQĐP theo hướng đề cao vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm, phát
huy chủ động, sáng tạo, hiệu quả trong hoạt động quản lý của từng cấp CQĐP; đa dạng
về mô hình tổ chức và tinh gọn về bộ máy của các cấp CQĐP, làm rõ từng vị trí việc
làm ở từng cấp CQĐP để phân công lao động hợp lý và tinh giản biên chế.
Thứ ba, đổi mới sắp xếp tổ chức đơn vị hành chính
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới và sắp
xếp ĐVHC theo hướng sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn của
ĐVHC, đặc biệt ở những ĐVHC có yếu tố đặc thù. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh thực hiện
sắp xếp các ĐVHC cấp huyện, cấp xã chưa đạt tiêu chuẩn theo quy định; đồng thời triển
khai nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sắp xếp ĐVHC cấp tỉnh ở nước ta
từ trước đến nay để trình cấp có thẩm quyền xem xét việc thực hiện vào thời điểm thích
hợp. Nghiên cứu, đề xuất quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và chế tài đối
với CQĐP cấp tỉnh trong việc liên kết, phối hợp giải quyết các nhu cầu, nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội của vùng theo hướng không hình thành một cấp hành chính mà
thành lập Hội đồng vùng là cơ quan tư vấn cho các CQĐP cấp tỉnh trong vùng trong
việc thực hiện liên kết vùng.
Thứ tư, đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông
thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
Căn cứ chủ trương tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, quy định của Hiến pháp năm
2013 và trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết đánh giá về thực tiễn tổ chức mô hình CQĐP ở
nước ta từ năm 1945 đến nay, sau khi sơ kết việc thực hiện tổ chức mô hình chính quyền
đô thị tại thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh, cần nghiên
cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế về mô hình tổ chức CQĐP ở đô thị, nông thôn
cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, hướng tới CQĐP ở đô thị không tổ chức HĐND
ở quận, phường (khu vực nội thành, nội thị) và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước
trên thế giới về mô hình “Tòa thị chính”, “Thị trưởng” phù hợp với đặc thù ở nước ta;
CQĐP ở nông thôn không tổ chức HĐND ở huyện. Trên cơ sở đó, nghiên cứu việc đổi
tên UBND thành Ủy ban hành chính (UBHC) ở những ĐVHC không tổ chức cấp CQĐP
(không tổ chức HĐND) để tạo thuận lợi cho việc tổ chức mô hình CQĐP khác nhau ở
ĐVHC tổ chức cấp CQĐP (có HĐND và UBND) và ở ĐVHC không tổ chức cấp CQĐP
(chỉ có UBHC thực hiện chế độ công vụ của công chức do Chủ tịch UBND cấp trên bổ
nhiệm thực hiện quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ).
Thứ năm, đổi mới hoạt động của chính quyền địa phương
Đối với ĐVHC tổ chức cấp CQĐP (có HĐND và UBND), cần hoàn thiện nguyên tắc
hoạt động theo chế độ tập thể UBND theo hướng làm rõ trách nhiệm của người đứng
đầu và của từng thành viên UBND, trong đó ủy viên UBND là người đứng đầu cơ quan
chuyên môn thuộc UBND được quyết định các công việc thuộc thẩm quyền của UBND
với tư cách là thành viên UBND để khắc phục tính hình thức trong hoạt động của chức
danh ủy viên UBND hiện nay. Ở ĐVHC không tổ chức HĐND thì các thành viên
UBND do Chủ tịch UBND cấp trên bổ nhiệm, hoạt động theo chế độ công vụ của công
chức.
Quy định cụ thể, rõ ràng các nhiệm vụ, quyền hạn và quy trình giám sát của HĐND và
các cơ quan của HĐND, đại biểu HĐND, đặc biệt là chế tài xử lý kết quả thực hiện các
kiến nghị của các chủ thể giám sát đối với các cá nhân, tổ chức và cơ quan chịu sự giám
sát; thực hiện công khai, minh bạch các hoạt động giám sát; phát huy dân chủ và giám
sát của người dân; tăng cường sự tham gia của người dân, phát huy quyền làm chủ trực
tiếp của người dân và vai trò tự quản của cộng đồng dân cư trên địa bàn. Xác định rõ nội
dung và phạm vi trách nhiệm các lĩnh vực công việc do chính quyền cơ sở quản lý và tổ
chức thực hiện; những công việc chính quyền cơ sở giao cho thôn, tổ dân phố để triển
khai thực hiện; đồng thời xây dựng và nhân rộng các mô hình tổ chức tự quản theo các
lĩnh vực ở thôn, tổ dân phố cho phù hợp.
Thứ sáu, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số và đội ngũ cán bộ, công chức
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chuyển đổi số
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng công nghệ thông minh, kết nối và
vận hành thông suốt các phần mềm quản lý tác nghiệp để từng bước mở rộng việc cung
ứng các loại hình dịch vụ công tại địa phương. Theo đó, trách nhiệm của chính quyền
cấp tỉnh phải ban hành kịp thời các quy định và hỗ trợ việc xây dựng, phát triển chính
quyền số các cấp trên địa bàn.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về tuyển dụng công chức ở địa phương theo hướng đề cao
trách nhiệm của người sử dụng, thực hiện nguyên tắc cạnh tranh và sử dụng công nghệ
thông tin trong tuyển dụng; đồng thời ban hành chính sách thu hút, trọng dụng người có
tài năng làm việc tại địa phương. Hoàn thiện việc xây dựng vị trí việc làm, bản mô tả
công việc và khung năng lực của từng vị trí việc làm để làm cơ sở cho việc tuyển chọn,
bố trí, sắp xếp và đánh giá cán bộ, công chức công khai, minh bạch, công bằng, tạo động
lực phấn đấu trong việc thực thi nhiệm vụ. Phân biệt rõ giữa việc đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao năng lực đối với “cán bộ” (người được bầu) và công chức chuyên môn, nghiệp
vụ; nghiên cứu quy định cụ thể về tiêu chuẩn đối với cán bộ mỗi cấp, có chính sách nâng
cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức ở địa phương, nhất là cấp cơ sở để hoàn
thành tốt các nhiệm vụ được giao./.
--------------------------
Ghi chú:
(1) Nhiệm kỳ 2021-2026: tỷ lệ đại biểu HĐND có trình độ từ đại học trở lên ở cấp tỉnh
là 98,07%, cấp huyện là 95,31% và cấp xã 54,12%.
(2) Nhiệm kỳ 2016-2021: mỗi HĐND cấp tỉnh đã ban hành từ 167 đến 540 nghị quyết
thuộc thẩm quyền tại địa phương, trong đó nghị quyết quy phạm pháp luật được ban
hành từ 27 đến 249 nghị quyết. HĐND cấp huyện trong cả nước đã ban hành 80.890
nghị quyết, trong đó có 6.730 nghị quyết quy phạm pháp luật...
(3) Nhiệm kỳ 2016-2021: HĐND cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện tiếp xúc cử tri đạt trên
95%, cấp xã là 93%.
(4) Kết quả bầu cử các nhiệm kỳ gần đây cho thấy mặc dù trình độ học vấn của các đại
biểu đã được nâng cao nhưng trình độ pháp lý và sự hiểu biết thực tiễn của nhiều đại
biểu, đặc biệt là đại biểu HĐND cấp xã còn hạn chế. Các đại biểu hoạt động kiêm nhiệm
có ít thời gian dành cho công việc cũng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của HĐND
các cấp.

Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh
thần Đại hội XIII của Đảng
Kế thừa tinh thần các kỳ Đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng coi “Tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”
Trên tinh thần nhiệm vụ trọng tâm này, Đại hội XIII đề ra một số giải pháp xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng
đến năm 2045. Đó là các giải pháp định hướng cơ bản sau:
Một là, trên cơ sở tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
cần tập trung “Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
trên cơ sở nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà
nước”[2]. Đây vừa là nhiệm vụ quan trọng nhất vừa là giải pháp hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bởi lẽ, nhà nước của chúng ta không thực hiện
tam quyền phân lập mà thực hiện nguyên tắc phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ
và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây vừa là nhiệm vụ trước mắt vừa là
nhiệm vụ lâu dài. Bởi lẽ, chỉ trên cơ sở phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng
cường kiểm soát quyền lực nhà nước chúng ta mới bảo đảm được trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không xảy ra tình trạng lạm quyền, lộng quyền hay
buông lỏng quyền lực. Như vậy thì Nhà nước mới được tổ chức và hoạt động theo tinh
thần pháp quyền, quyền lực của nhân dân mới được bảo đảm trên cơ sở Hiến pháp và
pháp luật. Để thực hiện tốt giải pháp này cần tổ chức thực hiện một số biện pháp cụ thể
sau:
Thứ nhất,“Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển
nhanh, bền vững”[3]. Đồng thời, “Đẩy nhanh tiến độ ban hành các luật trực tiếp triển
khai thi hành Hiến pháp năm 2013”[4]. Bởi lẽ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
quản lý, điều hành cũng như kiến tạo phát triển phải trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật.
Thiếu các luật trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp thì nhà nước sẽ không có cơ sở
pháp lý để thực hiện chức năng quản lý điều hành cũng như chức năng kiến tạo phát
triển.
Thứ hai, “Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ
quan nhà nước, thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”[5]. Khi xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước thì sẽ khắc phục tình trạng chồng
chéo, trùng lặp nhưng lại bỏ sót chức năng nào đó của các cơ quan nhà nước. Đồng thời,
khi ấy chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng như chức năng quản lý, điều hành,
chức năng kiến tạo phát triển sẽ rõ ràng, rành mạch không chồng chéo, không cản trở
nhau, ngược lại, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Trên cơ sở đó phải giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Bởi lẽ, quản lý phát triển xã hội một nghĩa
nào đó là phải giải quyết tốt quan hệ Nhà nước (quản trị công) - thị trường (quản trị theo
quy luật kinh tế thị trường) - xã hội (quản trị bằng cách lôi kéo người dân, xã hội tham
gia). Ba hình thức quản lý này bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Nhưng để giải quyết tốt quan
hệ này thì phải dựa trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và xác định rõ hơn vai trò, vị trí,
chức năng, nhiệm vụ cũng như quyền hạn của các cơ quan nhà nước.
Thực hiện được các biện pháp trên sẽ góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý,
điều hành và năng lực kiến tạo phát triển của nhà nướcpháp quyền xã hội chủ nghĩa. Qua
đó, góp phần xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát
triển, liêm chính, hành động.
Hai là, “Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ
chức thi hành pháp luật” Định hướng giải pháp này xuất phát từ thực tế những hạn chế
trong xây dựng nhà nước mà Đại hội XIII đã chỉ ra “Hệ thống pháp luật còn một số quy
định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn. Chấp hành pháp luật
nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi
phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe”[7]. Để đẩy mạnh việc
hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu quả, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật có
hiệu quả, Đại hội XIII đề ra một số các biện pháp cụ thể:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực
sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,
“tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức
năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao”[8].
Thứ hai,trên cơ sở đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, xây dựng hệ thống pháp
luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc
tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi
mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an
ninh trong điều kiện mới[9]. Rõ ràng là trên cơ sở hệ thống pháp luật thống nhất, đồng
bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định,v.v.. như vậy thì việc việc hoàn thiện pháp
luật gắn với nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật mới đạt kết quả. Trên cơ sở đó
thì việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính,
hành động mới thành công.
Thứ ba, nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường. Tất nhiên, nhà nước
cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chủ động điều tiết các tác động tiêu cực của
thị trường nhưng không can thiệp làm sai lệch các quy luật thị trường[10]. Nghĩa là, nhà
nước phải giải quyết tốt quan hệ nhà nước và thị trường, tránh rơi vào “nhà nước tối
thiểu” trong cơ chế thị trường tự do, nhưng cũng không được rơi vào “nhà nước tối đa”
trong cơ chế kinh tế tập trung bao cấp. Muốn vậy phải tuân thủ nguyên tắc là nhà nước
điều hành, quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các
công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường.
Thực hiện tốt ba biện pháp này sẽ đẩy mạnh được việc hoàn thiện pháp luật gắn với
nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật của nhà nước. Trên cơ sở đó xây
dựng, hoàn thiện được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm
chính, hành động.
Ba là, “Nâng cao năng lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội”[11]. Chúng ta đều biết, nhìn chung hệ thống pháp luật,
thể chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của chúng ta chưa thật hoàn thiện toàn diện
nhưng cũng đủ tạo điều kiện cho nhà nước nâng cao năng lực kiến tạo phát triển, liêm
chính, hành động, mặc dù còn yếu ở khâu tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp
luật, thể chế và các chính sách. Do vậy, nâng cao cao năng lực tổ chức có hiệu quả hệ
thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội là một định hướng
giải pháp quan trọng để nâng cao năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để nâng cao cao năng lực tổ chức có hiệu quả hệ
thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội XIII xác
định cần thực hiện tốt một số biện pháp cụ thể:
Thứ nhất, thực hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi
hành pháp luật. Tập trung đầu tư cơ sở vật chất, các điều kiện cần thiết để thực hiện tốt
các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật; thanh tra, kiểm tra,
xử lý vi phạm pháp luật[12].
Thứ hai, chú trọng quản lý phát triển xã hội, thực hiện ngày càng tốt hơn an sinh xã hội
và phúc lợi xã hội, bảo vệ và trợ giúp các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế
thị trường[13]. Chúng ta đều rõ, một trong những chức năng quan trọng của Nhà nước ta
là quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng
bước và trong từng chính sách phát triển. Thực hiện tốt chức năng này mới có cơ sở thực
hiện tốt chức năng kiến tạo phát triển. Đảng và Nhà nước ta phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa như một công cụ, phương tiện thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do vậy, để giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm tới an sinh xã hội
và phúc lợi xã hội, bảo vệ và trợ giúp các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế
thị trường. Cũng vì vậy, trong các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước luôn có sự thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội; gắn
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ
môi trường trong từng bước và từng chính sách phát triển. Đồng thời thực hiện phân
phối công bằng, ngoài phân phối theo quy luật kinh tế thị trường như theo kết quả, hiệu
quả sản xuất kinh doanh, theo đóng góp vốn và các nguồn lực khác còn thực hiện phân
phối theo an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Vì vậy, thực hiện tốt giải pháp này góp phần
giải quyết tốt quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội. Trên cơ sở đó nâng cao được năng
lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế -
xã hội, để góp phần xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát
triển, liêm chính, hành động.
Thứ ba, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an ninh kinh tế; thực hiện tốt chức năng quản
lý, phát triển mạnh nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đáp ứng
yêu cầu phát triển. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản quốc gia, thực hiện đúng, tốt
chức năng chủ sở hữu đối với doanhh nghiệp nhà nước[14]. Rõ ràng là nếu kinh tế
không ổn định thì không thể phát triển được. Hơn nữa, để phát triển đất nước phải có
nguồn nhân lực, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, sử dụng hiệu quả tài sản quốc
gia, phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Những chức năng này đều thuộc chức
năng quản lý, điều hành của nhà nước. Nếu thực hiện chức năng quản lý, điều hành
những vấn đề này tốt mới tạo cơ sở, điều kiện tiền đề để xây dựng được nhà nước kiến
tạo phát triển, liêm chính, hành động.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, có cơ
cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cung ứng
dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao[15]. Rõ ràng, Nhà
nước pháp quyền kiến tạo phát triển không thể là nhà nước có bộ máy cồng kềnh, quản
trị lạc hậu, cung cấp dịch vụ công phức tạp, kém chất lượng. Do vậy, đây là biện pháp
quan trọng để nâng cao năng lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời đẩy mạnh chuyển giao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự
nghiệp công, kiểm soát độc quyền và bảo vệ người tiêu dùng
Thực hiện tốt bốn biện pháp trên sẽ từng bước nâng cao được năng lực tổ chức có hiệu
quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở
đó tăng cường hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển,
liêm chính, hành động.
Bốn là, “Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp
quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch,
quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả”[17]. Giải pháp này bắt nguồn từ thực
trạng cải cách hành chính mà Đại hội XIII đã tổng kết chỉ ra rằng cải cách hành chính
chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước[18]. Để thực hiện hiệu quả giải pháp
này, Đại hội XIII đề ra nhiệm vụ thực hiện bốn biện pháp cụ thể:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hóa
nền hành chính quốc gia. Hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền các cấp gắn với tinh
giản biên chế, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả[19].
Thứ hai, đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, bảo đảm quản lý thống
nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đồng thời phát huy tính chủ động sáng tạo, đề cao
tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với tăng cường kiểm soát quyền
lực[20].
Thứ ba, trên cơ sở phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa chính phủ với
các bộ, ngành; giữa Chính phủ, bộ, ngành với địa phương; khắc phục tình trạng chồng
chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Chính phủ tập trung vào quản lý vĩ mô, nâng cao
chất lượng xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Tăng cường năng lực dự
báo và khả năng dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong trong điều kiện kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế[21].
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông
thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt. Tổng kết việc thí điểm chính
quyền đô thị nhẳm xây dựng và vận hành các mô hình chính quyền đô thị theo hướng
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả[22].
Thứ năm, mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Phát huy dân chủ
để phát huy tính sáng tạo, chủ động, tích cực của các cấp, các ngành, các địa phương
nhưng phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật, tăng cường kiểm tra, giám sát quyền lực trong
hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ sáu,“nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát
triển”[23]. Chúng ta đều rõ quản lý, điều hành là chức năng vốn có của bất kỳ nhà nước
nào, còn khi nói đến năng lực kiến tạo phát triển là muốn nói đến năng lực chủ động,
tích cực tham gia, dẫn dắt, tạo lập, khuyến khích, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
bằng trách nhiệm, uy tín, bằng cơ chế, chính sách, bằng môi trường cạnh tranh lành
mạnh mà nhà nước tạo lập ra. Để xây dựng được nhà nước kiến tạo phát triển, liêm
chính, hành động thì trước hết phải nâng cao được năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành
và năng lực kiến tạo phát triển. Hai năng lực quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo
phát triển không đối lập nhau mà bổ sung cho nhau, đòi hỏi ở nhau, thúc đẩy cùng nhau
và đòi hỏi nhà nước pháp quyền phải trong sạch, vững mạnh.
Thực hiện tốt sáu biện pháp này sẽ xây dựng được nền hành chính nhà nước phục vụ
nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo
đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Trên cơ
sở đó việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm
chính, hành động sẽ hiệu quả.
Năm là, “Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm
minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”[24]. Chúng ta đều rõ, nền tư
pháp xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, bảo vệ quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, bảo vệ quyền, lợi ích chính đảng, hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Do vậy, xây
dựng được nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh,
liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân sẽ góp phần trực tiếp vào xây dựng
được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động.
Để thực hiện tốt giải pháp này, Đại hội XIII yêu cầu thực hiện tốt các biện pháp cụ thể
sau:
Thứ nhất, tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp.
Muốn vậy, cần phát triển các hoạt động dịch vụ pháp lý và các thiết chế giải quyết tranh
chấp ngoài tòa án.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án
trong lĩnh vực dân sự, hành chính, đầu tư, kinh doanh, thương mại, bảo vệ người tiêu
dùng[25].
Thứ ba, tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hiệu qảu hoạt động và uy tín của
toàn án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các
cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp[26].
Thực hiện tốt ba biện pháp này sẽ xây dựng được nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp,
hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Trên cơ sở đó sẽ xây dựng, hoàn thiện từng bước nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động.
Sáu là, “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có
năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có
phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng”[27]. Rõ ràng là, đội ngũ đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng thành công
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động. Do
vậy, đây là giải pháp rất quan trọng. Để thực hiện được giải pháp này, Đại hội XIII yêu
cầu thực hiện tốt các biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, cùng với có quy định rõ ràng về trách nhiệm của người đứng đầu thì cần có
cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để
mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao; tận tụy phục
vụ nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột
phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đồng thời cũng phải có cơ chế sàng lọc,
thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, vi phạm
pháp luật, vi phạm đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, mất uy tín
trước nhân dân[28].
Thứ hai, cải cách cơ bản chế độ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức, cũng như
chế độ chính sách đãi ngộ, tạo điều kiện, môi trường làm việc để thúc đẩy đổi mới, sáng
tạo, phục vụ phát triển[29]. Trong điều kiện đất nước còn khó khăn nhưng chúng ta vẫn
phải tạo điều kiện tốt nhất về điều kiện vật chất, tinh thần để cán bộ, công chức, viên
chức sáng tạo trong công việc.
Thứ ba, kiên trì, kiên quyết đấu tranh có hiệu quả phòng, chống tham nhũng, thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí. Bởi vì, đúng như Đại hội XIII đã đánh giá “Tham nhũng, lãng
phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện
ngày càng tinh vi gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy
cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”[30]. Do vậy, kiên trì, kiên quyết đấu tranh
có hiệu quả phòng, chống tham nhũng, đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là
một trong những biện pháp quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt và bản
lĩnh chính trị vững vàng.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra. Để thực hiện tốt biện
pháp này, Đảng, Nhà nước chủ trương không hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế, hành
chính, dân sự. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của nhân dân, của Mặt trận Tổ
quốc, các cơ quan thông tin đại chúng trong quá trình hoạch định chính sách phát triển
kinh tế - xã hội, trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí[31].
Thực hiện tốt bốn biện pháp này sẽ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có
tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh
chính trị vững vàng. Trên cơ sở đó, xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động.
Như vậy, Đại hội XIII của Đảng trên tinh thần kế thừa các kỳ đại hội trước đã định
hướng sáu giải pháp xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Thực hiện đồng bộ sáu giải pháp này trên
thực tế, chúng ta sẽ từng bước thực hiện được mục tiêu đề ra góp phần xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh toàn diện.

You might also like