Professional Documents
Culture Documents
Đó thực sự là một mốc lịch sử bi hùng của Lloyd’s, khi phải chi trả đến đồng bảng cuối cùng cho
thảm họa, và lại bắt đầu vươn lên từ hoang tàn thành một thị trường bảo hiểm lớn nhất thế giới như
ngày nay. Edward Lloyd (1648-1713), là một thuyền trưởng về hưu, cùng gia đình chuyển về
London và mở quán cà phê Lloyd vào năm 1680 tại phố Tower. Cuối năm 1691, Edward Lloyd
chuyển về nhà số 16 phố Lombard, ngay tại trung tâm của giới kinh doanh.
Năm 1696, Lloyd quyết định đáp ứng nhu cầu về thông tin của khách hàng bằng việc xuất bản tờ
báo ra 3 số một tuần có tên là “Lloyd’s News”, cung cấp các thông tin ngắn gọn về sự kiện ở các
nước, chiến tranh, các vụ xử án, hành quyết, và hoạt động của nghị viện. Tuy nhiên báo không
có sự nhấn mạnh đặc biệt về các thông tin hàng hải. “Lloyd’s News” đột ngột đình bản tại số 76,
ra ngày 23/2/1697, khi đăng một thông tin không chính xác do nhà in tự ý đưa vào. Người ta yêu
cầu Lloyd đăng tin cải chính ở số báo sau. Nhưng Lloyd tuyên bố sẽ không ra báo nữa.
Trước khi mất, Edward Lloyd đã kịp bàn giao việc kinh doanh quán cà phê cho William
Newton, trưởng nhóm bồi bàn, và tổ chức lễ cưới cho con gái Handy với Newton. Chỉ 18 tháng
sau, ở tuổi 21, Handy đã trở thành quả phụ và cô cũng không mất nhiều thời gian để tìm được
người chồng mới là Samuel Sheppard, là chủ của một cửa hàng, nằm dưới quán cà phê Lloyd’s.
Hạnh phúc không kéo dài, Handy mất vào năm 1720.
Sự kiện này đồng thời cũng chấm dứt việc kinh doanh của gia đình Lloyds tại quán cà phê. Sau
khi Samuel Sheppard mất vào năm 1727, quán cà phê được chuyển về tay người chị của ông là
Elizabeth và người chồng là Thomas Jemson. Chính Jemson đã xuất bản tờ báo “Lloyd’s List”
vào năm 1734. Tờ báo này, khác với tờ “Lloyd’s News”, chuyên cung cấp các thông tin liên
quan đến vận tải hàng hải, một dấu hiệu khởi đầu cho sự ra đời của Lloyd’s sau này.
Sau khi Jemson mất được 8 năm, hoạt động kinh doanh của quán cà phê bắt đầu đi xuống. Điều này
đã dẫn đến việc một người bồi bàn, Thomas Fielding, ra đi và mở một quán mới tại số 5 ngõ Pope’s
Head, vào ngày 21/3/1769, gọi là quán cà phê Tân Lloyd, một tuần sau tờ báo Tân “Lloyd’s List”
được phát hành.
Trong nhiều năm cả hai quán cà phê Lloyd và hai tờ báo Lloyd’s List cùng tồn tại. Tuy nhiên
quán cà phê Tân Lloyd nổi tiếng hơn vì Hiệp hội Lloyd’s, do những người bảo hiểm thường tụ
tập tại quán cà phê Lloyd lập ra, đóng trụ sở tại đây. Năm 1771, 79 nhà thanh toán bảo hiểm và
môi giới quyết định đóng góp mỗi người 100 bảng để xây trụ sở mới. Lloyd’s không còn là quán
cà phê nữa mà trở thành trụ sở đăng ký của những người thanh toán bảo hiểm.
Ngày 7/3/1774, các thành viên của Lloyd’s chuyển về Sở giao dịch Hoàng gia. Từ 1928- 1958,
Lloyd’s chuyển trụ sở về phố Leadenhall và ngay từ 8/4/1958 đến nay Lloyd’s đóng trụ sở tại
phố Lime, London.
Lloyd’s là ai?
Lloyd’s không phải là một công ty bảo hiểm mà là một thị trường bảo hiểm với các thành viên của
mình, bao gồm cả pháp nhân và thể nhân. Các thành viên của Lloyd’s (hay còn gọi là người cung
cấp vốn) thực hiện giao dịch bảo hiểm thông qua 66 nghiệp đoàn. Các hoạt động kinh doanh bảo
hiểm của nghiệp đoàn do các đại lý đảm nhiệm. Ngoài ra, còn có 168 công ty môi giới bảo hiểm
được Lloyd’s chứng nhận. Trong số đó có nhiều công ty chuyên sâu về từng lĩnh vực.
Ngoài lĩnh vực hàng hải truyền thống, các hoạt động của Lloyd’s hiện đã vươn sang hầu hết các
lĩnh vực khác như hàng không, thiên tai, tai nạn nghề nghiệp, động lực. Các công ty hàng đầu
thế giới trong các lĩnh vực sản xuất ôtô, dược phẩm, hàng không, ngân hàng, điện tử, chế tạo
hiện đều là khách hàng của Lloyd’s. Với tổng giá trị tài sản hơn 35 tỷ USD, hàng năm Lloyd’s
nhận bảo hiểm với tổng số giá trị của hợp đồng lên đến hơn 25 tỷ USD.
Lloyd’s còn sở hữu một hệ thống máy tính hiện đại xử lý hàng triệu hợp đồng bảo hiểm mỗi
năm. Thông qua trang web của Lloyd, các nhà môi giới bảo hiểm và chuyên môn trên toàn thế
giới có thể thu thập được các thông tin về giá trị của hợp đồng bảo hiểm mà Lloyd có thể thanh
toán.
Khi nói đến Lloyd’s, không thể không nhắc đến chiếc chuông Lutine, nặng 106 pao (khoảng
48kg) và có đường kính 18 inch (45,72cm), gắn liền với lịch sử của Lloyd’s. Chiếc chuông này
lần đầu tiên được treo trên tàu khu trục La Lutine (Tiên nữ) của Pháp, đã bị đắm ngoài bờ biển
Hà Lan khi đang vận chuyển các thỏi vàng bạc với tổng giá trị khoảng 1 triệu bảng Anh thời đó,
được tìm thấy vào năm 1859.
Chiếc chuông này, sau đó đã được treo tại phòng thanh toán bảo hiểm của Lloyd’s ở Sở giao
dịch Hoàng gia, sẽ vang lên mỗi khi nhận được thông tin về các con tàu không cập cảng theo
đúng lịch trình. Các nhà bảo hiểm, trong trường hợp này sẽ yêu cầu các nhà môi giới tái bảo
hiểm một phần rủi ro dựa trên khả năng con tàu có thể bị đắm.
Khi đã có các thông tin đáng tin cậy về việc con tàu bị đắm, tiếng chuông sẽ thông báo cho mọi
người có liên quan biết về sự kiện này. Chuông Lutine đã liên tục được treo tại Sở giao dịch
Hoàng gia từ 1890 -1928, phố Leadenhall từ 1928-1958, phố Lime 1958 -1986 và tại tòa nhà
hiện nay của Lloyd’s từ 1986.
Ngày nay, chuông Lutine không còn vang lên mỗi khi tàu cập cảng chậm mà chỉ vào những dịp
nghi lễ long trọng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt ngoại lệ, tiếng chuông vẫn vang
lên, chẳng hạn như trường hợp vụ khủng bố 11 tháng 09 năm 2001 tại Mỹ hay vụ nổ tàu con thoi
Challenger.
Lloyd’s còn bảo hiểm các căn cứ quân sự của Mỹ ở nước ngoài trước nguy cơ bị khủng bố tấn
công. Tuy nhiên, Lloyd’s chỉ bảo hiểm các tòa nhà, không bảo hiểm trang thiết bị quân sự và
nhân mạng, đồng thời cũng không bảo hiểm các cuộc tấn công bằng chất độc hóa học hoặc bom
nguyên tử.
Với sự kiện 11 tháng 9 tại Mỹ, Lloyd’s đã phải thanh toán tổng cộng gần 3 tỷ USD bảo hiểm cho
thảm họa này. Trong thập kỷ 80 Lloyd’s đã phải thanh toán khoảng 12 tỷ USD cho các thiệt hại
gây ra bởi các trận bão, động đất và những cái chết liên quan đến chất amiăng. Một số khoản
thanh toán đã suýt nhấn chìm Lloyd’s như vụ nổ giàn khoan tại Biển Bắc và vụ dầu tràn Exxon
Valdez.
(Nguồn: http://www.baohiem.pro.vn/Ins_News_Article.asp?CatID=61&ID=606)
Đầu tiên là vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên người ta đã tìm cách giảm nhẹ tổn thất
toàn bộ một lô hàng bằng cách san nhỏ lô hàng của mình ra làm nhiều chuyến hàng. Đây là cách
phân tán rủi ro, tổn thất và có thể coi đó là hình thức nguyên khai của bảo hiểm. Sau đó để đối
phó với những tổn thất nặng nề thì hình thức “cho vay mạo hiểm” đã xuất hiện theo đó trong
trường hợp xảy ra tổn thất đối với hàng hoá trong quá trình vận chuyển, người vay sẽ được miễn
không phải trả khoản tiền vay cả vốn lẫn lãi. Ngược lại họ sẽ phải trả một lãi suất rất cao khi
hàng hoá đến bến an toàn, như vậy có thể hiểu lãi suất cao này là hình thức sơ khai của phí bảo
hiểm. Song số vụ tổn thất xảy ra ngày càng nhiều làm cho các nhà kinh doanh cho vay vốn cũng
lâm vào thế nguy hiểm và thay thế nó là hình thức bảo hiểm ra đời.
Vào thế kỷ XIV, ở Florence, Genoa nước Ý, đã xuất hiện các hợp đồng bảo hiểm hàng hải đầu
tiên mà theo đó một người bảo hiểm cam kết với người được bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt
hại về tài sản mà người được bảo hiểm phải gánh chịu khi có thiệt hại xảy ra trên biển, đồng thời
với việc nhận một khoản phí. Hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy có ghi ngày
22/04/1329 hiện còn được lưu giữ tại Florence. Sau đó cùng với việc phát hiện ra Ấn Độ dương
và tìm ra Châu Mỹ, ngành hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng đã phát triển rất
nhanh.
Về cơ sở pháp lý thì có thể coi chiếu dụ Barcelona năm 1435 là văn bản pháp luật đầu tiên trong
ngành bảo hiểm. Sau đó là sắc lệnh của Philippe de Bourgogne năm 1458, những sắc lệnh của
Brugos năm 1537, Fiville năm 1552 và ở Amsterdam năm 1558. Ngoài ra còn có sắc lệnh của
Phần Lan năm 1563 liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hoá.
Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVI - XVII cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất TBCN thì
hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và ngày càng đi sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống
kinh tế – xã hội. Mở đường cho sự phát triển này là luật 1601 của Anh thời Nữ hoàng Elisabeth,
sau đó là Chỉ dụ 1681 của Pháp do Colbert biên soạn và Vua Louis XIV ban hành, đó là những
đạo luật mở đường cho lĩnh vực bảo hiểm hàng hải.
Đến thế kỷ XVII, nước Anh đã chiếm vị trí hàng đầu trong buôn bán và hàng hải quốc tế với
Luân Đôn là trung tâm phồn thịnh nhất. Tàu của các nước đi từ Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ,
Châu Phi đều về cập bến hai bờ sông Thame của thành phố Luân Đôn. Các tiệm cà phê là nơi
gặp gỡ của các nhà buôn, chủ ngân hàng, người chuyên chở, người bảo hiểm … để giao dịch,
trao đổi tin tức, bàn luận trực tiếp với nhau.
Edward Lloyd’s là một thuyền trưởng về hưu bắt đầu mở quán cà phê ở phố Great Tower ở Luân
Đôn vào khoảng năm 1692. Các các nhà buôn, chủ ngân hàng, người chuyên chở, người bảo
hiểm…thường đến đó để trao đổi các thông tin về các con tầu viễn dương, về hàng hóa chuyên chở
trên tàu, về sự an toàn và tinh hình tai nạn của các chuyến tàu…. Ngoài việc quản lý quán cà phê,
năm 1696 Edward Lloyd’s còn cho ra một tờ báo tổng hợp các tình hình tàu bè và các vấn đề khác
nhằm cung cấp thông tin cho các khách hàng của ông. Tuy nhiên việc làm chính của ông vẫn là
cung cấp địa điểm để khách hàng đến giao dịch bảo hiểm, hội họp. Sau khi Edward Lloyd’s qua đời
người ta thấy rằng cần phải có một nơi tương tự như vậy để các nhà khai thác bảo hiểm hàng hải tập
trung đến giao dịch bảo hiểm và năm 1770, “Society of Lloyd’s” với tư cách là một tổ chức tự
nguyện đã thành lập và thu xếp một địa điểm ở Pope’s Head Alley cho các thành viên của họ. Sau
đó tổ chức này rời địa điểm đến trung tâm hối đoái của Hoàng gia và ở đó đến năm 1828 thì rời đến
toà nhà riêng của họ tại phố Leaden Hall. Tổ chức này hoạt động với tư cách là tổ chức tư nhân đến
năm 1871 thì hợp nhất lại theo luật Quốc hội và trở thành Hội đồng Lloyd’s và sau này đã trở thành
nơi giao dịch kinh doanh bảo hiểm và hãng bảo hiểm lớn nhất thế giới.
Sau bảo hiểm hàng hải là sự xuất hiện của bảo hiểm hoả hoạn, đánh dấu bằng vụ cháy thảm khốc ở
Luân Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn nhà trong đó có hơn 100 nhà thờ trong 4
ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể cứu trợ được. Sau đó những nhà kinh doanh ở nước
Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hoả hoạn bằng cách đứng ra thành lập những Công ty
bảo hiểm hoả hoạn như: " Fire Office" (năm 1667), "Friendly Society" (năm 1684), "Hand and
Hand" (năm 1696), "Lom Bard House" (năm 1704) ... Lúc đó Công ty bảo hiểm Lloyds đã ra đời
nhưng chỉ hoạt động trong lĩnh vực hàng hải. Mãi tới thế kỷ XX mới chuyển sang hoạt động cả lĩnh
vực nội địa và tái bảo hiểm.
Nước Pháp do ảnh hưởng của vụ hỏa hoạn ở Luân Đôn, nên năm 1786 công ty bảo hiểm hỏa
hoạn đầu tiên mới được thành lập đó là “Company L'assurance Centree L'incendie” và
“Company Royade” (năm 1788). Sự kiện đáng được lưu truyền thời gian này và trong lịch sử
bảo hiểm là công trình toán học của Pascal về "Hình học của rủi ro" (Lageometric Du Hasard)
năm 1654 đã đưa đến toán học xác suất. Đó là cơ sở thống kê xác suất phục vụ cho hoạt động
bảo hiểm và ngày nay vẫn được coi là kỹ thuật cơ bản của ngành bảo hiểm.
Còn ở Việt Nam, bảo hiểm xuất hiện từ bao giờ? Không có tài liệu nào chứng minh một cách
chính xác mà chỉ phỏng đoán vào năm 1880 có các Hội bảo hiểm ngoại quốc như Hội bảo hiểm
Anh, Pháp, Thụy sĩ, Hoa kỳ... đã để ý đến Đông Dương. Các Hội bảo hiểm ngoại quốc đại diện
tại Việt Nam bởi các Công ty thương mại lớn, ngoài việc buôn bán, các Công ty này mở thêm
một Trụ sở để làm đại diện bảo hiểm. Vào năm 1926, Chi nhánh đầu tiên là của Công ty Franco-
Asietique. Đến năm 1929 mới có Công ty Việt Nam đặt trụ sở tại Sài Gòn, đó là Việt Nam Bảo
hiểm Công ty, nhưng chỉ hoạt động về bảo hiểm xe ô tô. Từ năm 1952 về sau, hoạt động bảo
hiểm mới được mở rộng dưới những hình thức phong phú với sự hoạt động của nhiều Công ty
bảo hiểm trong nước và ngoại quốc.
Ở Miền Bắc, ngày 15/01/1965 Công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt) mới chính thức
đi vào hoạt động. Trong những năm đầu, Bảo Việt chỉ tiến hành các nghiệp vụ về hàng hải như
bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu viễn dương….
(Nguồn:
http://www.baoviet.com.vn/newsdetail.asp?websiteId=1&newsId=354&catId=110&lang=VN)
Tài liệu số 3: Lịch sử phát triển của dịch vụ bảo hiểm nhân thọ
Con người cùng các thể chế chính trị từng tồn tại trong lịch sử luôn đặt nhiệm vụ hạn chế rủi ro
lên hàng đầu. Dịch vụ bảo hiểm ra đời chẳng qua chỉ để làm nhiệm vụ hạn chế rủi ro ấy.
Ở Trung Hoa cách đây hơn 5.000 năm, bảo hiểm được xem là biện pháp ngăn ngừa nạn cướp
biển. Lúc bấy giờ bọn cướp biển hoành hành khắp nơi; do vậy để hạn chế rủi ro, khi ra khơi
người ta thường bố trí cho nhiều tàu chia nhau chở kèm một phần hàng hóa của một chiếc tàu
khác, phòng khi có một chiếc tàu bị bọn cướp biển tấn công thì phần hàng còn lại chở trên những
chiếc tàu kia không bị cướp.
Cách nay gần 4,500 năm, ở một nơi khác là đế quốc Babylon cổ, các thương nhân thường phải
du thương (buôn bán ở những nơi xa) khá nhiều, và họ đã đối phó với các rủi ro bằng cách đem
tiền cho người khác vay. Khi việc vận chuyển hàng hóa đã hoàn tất một cách an toàn, các thương
nhân này sẽ bắt người vay tiền hoàn trả khoản vay, kèm theo đó là tiền lời. Vào năm 2100 trước
Công Nguyên, đạo luật Hammurabi ra đời đã đặt hoạt động cho vay của các doanh nhân vào
khuôn khổ pháp luật. Đạo luật này đã chính thể hóa các khái niệm “bottomry” (chỉ việc mượn
tiền trên cơ sở lấy tàu làm bảo đảm) và “respondentia” (chỉ hàng hóa vận chuyển bằng đường
thủy). Các khái niệm này đã đặt nền móng cho thực hiện các hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Các
hợp đồng loại này gồm 3 yếu tố: khoản vay căn cứ vào giá trị tàu, hàng hóa hay cước vận
chuyển; lãi suất; khoản phụ thu cho các trường hợp mất mát có thể xảy ra. Trên thực tế, khi tham
gia hợp đồng bảo hiểm, chủ tàu là người được bảo hiểm còn chủ cho vay là người đánh giá rủi
ro.
Bảo hiểm nhân thọ xuất hiện ở đế quốc La Mã cổ đại không lâu sau đó. Tại đây người ta đã lập
nên các hội mai táng để lo chi phí tang ma cho các thành viên, ngoài ra hội cũng hỗ trợ tài chính
cho thân nhân người chết. Khoảng năm 450 sau Công Nguyên, đế quốc La Mã sụp đổ dẫn đến
việc hầu hết các khái niệm của bảo hiểm nhân thọ bị lãng quên. Tuy nhiên các mặt, tính chất của
nó thì vẫn không hề thay đổi trong suốt thời Trung Cổ, nhất là đối với các phường hội thủ công
và thương nghiệp. Các phường hội này đã lập nên nhiều hình thức bảo hiểm thành viên để bù
đắp thiệt hại các vụ hỏa hoạn, lũ lụt, trộm cướp; ngoài ra còn có bảo hiểm thương tật, tử vong và
thậm chí là bảo hiểm tù ngục (bảo hiểm cho trường hợp người mua bảo hiểm phải vào tù).
Trong suốt thời phong kiến, các ngành du lịch và mậu dịch ngày càng suy yếu và không còn
thịnh đạt như trước, do vậy các hình thức bảo hiểm sơ khai cũng bị mai một. Tuy nhiên trong
khoảng thời gian từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16 các ngành giao thông, thương nghiệp và cả dịch vụ
bảo hiểm đã phát triển trở lại.
Dịch vụ bảo hiểm ở Ấn Độ bắt nguồn từ bộ kinh Veda của nước này. Đơn cử là trường hợp của tập
đoàn bảo hiểm nhân thọ Yogakshema, một Công ty trực thuộc tổng hội liên hiệp bảo hiểm Ấn Độ.
Tên của Công ty này được lấy từ trong kinh Rig Veda. Cụm từ Yogakshema cho thấy ở Ấn Độ vào
khoảng năm 1000 trước Công Nguyên, hình thức “bảo hiểm cộng đồng” đã phát triển rất thịnh hành
và người Aryan khi đó cũng đã tham gia rất nhiều vào hình thức bảo hiểm này.
Tương tự với đế quốc La Mã cổ đại, trong giai đoạn truyền bá đạo Phật người Ấn Độ đã lập nên
nhiều hội mai táng để hỗ trợ cho các gia đình xây cất nhà cửa đồng thời che chở, đùm bọc các
góa phụ và trẻ nhỏ.
Mặc dù được sử dụng như một công cụ hạn chế rủi ro, dịch vụ bảo hiểm nhân thọ vẫn bị cuốn vào
trò đỏ đen vốn được xem là bản năng của tầng lớp tiểu tư sản Anh đang phát triển rất mạnh mẽ lúc
bấy giờ. Khi đó nạn cá cược lan tràn khắp nơi. Thậm chí nếu đọc báo thấy tin có một nhân vật tiếng
tăm nào đấy đang bị bệnh nặng sắp chết, người ta liền phỏng đoán ngày chết của nhân vật này, sau
đó đổ về Nhà hàng Cà phê Lloyd’s để đặt cược cho ngày chết ấy. Để thể hiện sự phản đối đối với
trò cá cược này, vào năm 1679 đã có 79 nhà thầu bảo hiểm quyết định ly khai ra khỏi Nhà hàng Cà
phê Lloyd’s. Hai năm sau họ chung tay lập nên “Nhà hàng Cà phê Lloyd’s mới”, nơi được công
chúng biết đến với cái tên “Lloyd’s chân chính”. Đến năm 1774, Quốc hội Anh ra sắc lệnh cấm tổ
chức, tham gia cá cược trên ngày chết của con người, từ đó vấn nạn này mới chấm dứt.
Năm 1835, ở New York đã xảy ra một vụ hỏa hoạn đầy tai tiếng. Vụ hỏa hoạn này khiến người
dân ở đây lưu tâm nhiều hơn đến nhu cầu phải có nguồn dự trữ để bù đắp cho những thiệt hại
nghiêm trọng không thể lường trước. Hai năm sau, Massachusetts trở thành bang đầu tiên ở Mỹ
sử dụng luật pháp buộc các Công ty phải tự tích lũy nguồn dự trữ này. Vụ cháy lớn ở Chicago
vào năm 1871 càng nhấn mạnh sâu sắc một thực tế: nếu hỏa hoạn bùng lên ở những thành phố
đông dân, mức độ thiệt hại sẽ vô cùng to lớn.
Hình thức bảo hiểm trách nhiệm công cộng xuất hiện trong những năm 1880 và cùng với phát
minh ra xe ô tô, hình thức bảo hiểm này đã được công chúng đón nhận và ngày càng thể hiện
được tầm quan trọng.
Trong suốt quá trình công nghiệp hóa, dịch vụ bảo hiểm đã có rất nhiều bước phát triển. Năm
1897, chính phủ Anh thông qua “Đạo luật bồi thường cho người lao động” (Workmen’s
Compensation Act). Đạo luật này buộc các Công ty phải đóng bảo hiểm tai nạn lao động cho
nhân viên.
Trong thế kỷ 19, người ta đã lập ra rất nhiều hội đoàn có trách nhiệm bảo hiểm nhân mạng và
sức khỏe cho hội viên. Bên cạnh đó cũng có một số hội kín chỉ cung cấp dịch vụ bảo hiểm lệ phí
thấp cho những ai là hội viên của họ. Ngày nay các hội kín này vẫn cứ tiếp tục bảo hiểm cho hội
viên; điều này diễn ra tương tự ở hầu hết các tổ chức của người lao động. Có nhiều chủ sử dụng
lao động còn lo luôn một lúc nhiều hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và sức khỏe cho nhân viên. Các
hợp đồng này không chỉ đơn thuần bảo hiểm nhân thọ mà còn đảm bảo quyền lợi cho nhân viên
khi họ bị bệnh, bị tai nạn hay về hưu. Trong các hợp đồng này thường nhân viên chỉ phải trả một
phần phí bảo hiểm.
Mặc dù ngành công nghiệp bảo hiểm của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng sâu sắc bởi Vương Quốc Anh,
thị trường bảo hiểm của nước này lại phát triển theo chiều hướng có phần khác với Anh. Lãnh
thổ đất nước rộng lớn, sự phân bố đa dạng về mặt địa lý cùng khát vọng độc lập mãnh liệt của
người Mỹ chính là những nguyên nhân góp phần tạo nên sự khác biệt này. Khi Mỹ chuyển mình
từ một thuộc địa xa bờ của Anh trở thành một thế lực độc lập và từ một nước nông nghiệp thành
nước công nghiệp phát triển, ngành kinh doanh bảo hiểm của nước này cũng phát triển mạnh
theo hướng từ một vài Công ty ban đầu trở thành một ngành công nghiệp quy mô lớn.
Tóm lại có thể nói ngành bảo hiểm Mỹ đã phát triển rất tinh vi, sản sinh ra nhiều loại mạng lưới
phục vụ và đa dạng hóa dịch vụ để phát triển hài hòa với một quốc gia đang ngày càng phức tạp.
(Nguồn:
http://www.baoviet.com.vn/newsdetail.asp?websiteId=1&newsId=369&catId=110&lang=VN)