You are on page 1of 3

Whatever happened to the hole in the Ozone layer?

A. In the 1980s, the world faced a huge problem: A. Vào những năm 1980, thế giới phải đối mặt với
there was a rapidly expanding hole in the ozone một vấn đề nghiêm trọng: trên tầng ozon có một
layer. So, what happened? And is it still there? lỗ thủng đang mở rộng nhanh chóng. Vậy,
chuyện gì đã xảy ra? Và lỗ thủng ấy vẫn còn ở
đó chứ?

B. Let’s go back to the beginning. The Sun makes B. Hãy quay lại từ đầu nhé. Mặt Trời duy trì sự
life on Earth possible, but too much exposure to sống trên Trái Đất, nhưng tiếp xúc quá nhiều
its UV radiation damages plant and animal với tia UV sẽ làm hỏng DNA của động, thực
DNA. Thankfully, about 98% of that radiation is vật. Rất may, khoảng 98% tia UV được hấp thụ
absorbed by ozone molecules dispersed in the bởi các phân tử ozon phân tán trong tầng bình
stratosphere, which are continuously broken lưu. Các phân tử này liên tục tách rời và hợp lại
apart and reformed in this process, maintaining khi hấp thụ tia UV, và duy trì ở trạng thái cân
a delicate equilibrium. But in the early 1970s, bằng mỏng manh. Nhưng vào đầu thập niên
two chemists— Mario Molina and Sherwood 1970, hai nhà hóa học Mario Molina và
Rowland— demonstrated that widely used Sherwood Rowland đã chứng minh loại hóa
chemicals called chlorofluorocarbons, or CFCs, chất phổ biến mang tên chlorofluorocarbons,
could upset this balance. hay CFC, có thể làm đảo lộn sự cân bằng này.

C. CFCs were developed in the 1920s by three US- C. CFC được phát triển vào những năm 1920 bởi
based corporations as coolants for refrigerators. ba tập đoàn có trụ sở tại Mỹ như một chất làm
Unlike existing alternatives— such as ammonia lạnh cho tủ lạnh. Khác với các chất thay thế
or methyl chloride— CFCs were non-flammable hiện có— như ammonia hoặc methyl chloride—
and non-toxic— meaning they wouldn't burst CFC không bắt cháy và không có độc— nghĩa
into flames or cause deadly gas leaks. They also là chúng sẽ không bốc cháy hoặc rò rỉ khí gây
made great propellants, foaming agents, and chết người. CFC là chất hoàn hảo để tạo ra
fire-retardants. CFCs soon found their way into thuốc phóng, chất tạo bọt và chất cản cháy. CFC
a variety of everyday items and became a multi- sớm được ứng dụng vào nhiều vật dụng hằng
billion dollar per year industry. ngày và trở thành ngành công nghiệp với lợi
nhuận hàng tỷ đô mỗi năm.

D. In the lower atmosphere, CFCs don’t break D. Ở tầng khí quyển thấp hơn, CFC không bị phá
down or react with other molecules. But Molina vỡ hoặc phản ứng với các phân tử khác. Nhưng
and Rowland showed that in the stratosphere, Molina và Rowland đã cho thấy trong tầng bình
they're broken apart by UV light, releasing lưu, chúng bị phá vỡ bởi tia UV và giải phóng
chlorine atoms. These then react with ozone, các nguyên tử clo. Các nguyên tử này phản ứng
destroying it faster than it can be replenished. A với phân tử ozon, và phá hủy ozon nhanh hơn
single chlorine atom can destroy thousands of tốc độ chúng kết hợp lại. Một nguyên tử clo có
ozone molecules before finally reacting with thể phá hủy hàng ngàn phân tử ozon trước khi
something else and forming a stable molecule. phản ứng với chất khác và tạo thành một phân
Seeing the threat to their bottom line, CFC tử ổn định. Nhìn thấy mối đe dọa đối với lợi
producers pushed back to discredit the nhuận của mình, các nhà sản xuất CFC đã phản
scientists, even accusing them of working for đối, làm mất uy tín của các nhà khoa học, thậm
the KGB. chí cáo buộc họ làm việc cho KGB -cơ quan an
ninh Liên Xô.

E. Initial estimates showed that within 60 years, E. Ước tính ban đầu cho thấy trong vòng 60 năm,
CFCs could reduce ozone concentrations by 7%. CFC có thể làm suy giảm 7% lượng ozon trong
But by 1985, it became clear that ozone bầu khí quyển. Nhưng đến năm 1985, rõ ràng
depletion, especially over Antarctica, was rằng sự suy giảm tầng ozon, đặc biệt là ở Nam
happening much faster. Here, the extremely Cực, đang diễn ra với tốc độ nhanh hơn nhiều.
cold temperatures and unique structure of Nhiệt độ cực lạnh và cấu trúc mây độc đáo tại
Antarctic clouds accelerated ozone loss. Nam Cực làm tầng ozon suy giảm nhanh hơn.
Scientists stationed in Antarctica noticed a Các nhà khoa học lưu trú tại Nam Cực nhận
massive drop in overhead ozone occurring every thấy một sự suy giảm lớn của tầng ozon trên cao
spring. Satellite data revealed the vast extent of diễn ra vào mỗi mùa xuân. Dữ liệu vệ tinh cho
these losses and chemical tests confirmed that thấy phạm vi của sự suy giảm này vô cùng rộng
the cause was unquestionably CFCs. NASA lớn và các thử nghiệm hóa học đã xác nhận CFC
soon released visualizations, which were chắc chắn là thủ phạm. NASA nhanh chóng
broadcast around the world and captured public công bố các hình ảnh trực quan rộng khắp toàn
attention. cầu và thu hút sự chú ý của công chúng.

F. If ozone depletion continued, rates of skin F. Nếu sự suy giảm tầng ozon vẫn tiếp tục, tỷ lệ
cancer would skyrocket. Photosynthesis would ung thư da sẽ tăng vọt. Quá trình quang hợp sẽ
be impaired, making plants— including rice, suy giảm, làm cho thực vật— bao gồm cây lúa,
wheat, and corn— less productive and more lúa mì và ngô— có năng suất thấp hơn và dễ bị
susceptible to disease. Global agricultural mắc bệnh hơn. Sản xuất nông nghiệp toàn cầu
production would plummet, and entire sẽ giảm mạnh, và toàn bộ hệ sinh thái sẽ sụp đổ.
ecosystems would collapse. But many Nhưng nhiều chính trị gia— những người xem
politicians— weighing immediate economic trọng lợi nhuận trước mắt hơn lợi ích lâu dài—
concerns over long-term ones— disagreed about không thống nhất về điều cần làm. Cuộc chiến
what to do. The fight to ban CFCs found two cấm CFC đã tạo nên hai đồng minh không ai
unlikely allies in US President Ronald Reagan ngờ đến: Tổng thống Mỹ Ronald Reagan và Thủ
and UK Prime Minister Margaret Thatcher. tướng Anh Quốc Margaret Thatcher. Bất chấp
Despite their general opposition to government sự đối lập trong quy chế của mỗi chính phủ,
regulation, Reagan, who had undergone Reagan, người đang điều trị ung thư da, và
treatment for skin cancer, and Thatcher, who Thatcher, người có nền tảng là nhà hóa học,
was trained as a chemist, recognized the need nhận ra sự thôi thúc phải hành động ngay lập
for immediate action. tức.

G. The US and UK, along with Canada, Norway, G. Mỹ và Anh Quốc, cùng với Canada, Na Uy,
Sweden, and Finland, led calls for an Thụy Điển và Phần Lan, kêu gọi một lệnh cấm
international ban on CFCs. In 1987, sử dụng CFC trên toàn cầu. Năm 1987, các
representatives signed the Montreal Protocol, nguyên thủ quốc gia đã ký kết Nghị định thư
requiring the rapid phasing out of CFCs and Montreal, yêu cầu phải nhanh chóng loại bỏ
creating a fund to assist Global South countries CFC và thành lập quỹ hỗ trợ các quốc gia ở
in obtaining affordable, non-ozone depleting Nam Bán cầu tìm ra các chất thay thế có giá cả
alternatives. It was later ratified by every hợp lý và an toàn cho tầng ozon. Hiệp ước này
country on Earth— the only treaty in history to sau đó đã được mọi quốc gia thông qua, trở
achieve this. In 1995, Molina, Rowland, and thành hiệp ước duy nhất trong lịch sử làm được
their Dutch colleague Paul Crutzen, were jointly điều này. Năm 1995, Molina, Rowland và đồng
awarded the Nobel Prize in Chemistry. As the nghiệp người Hà Lan Paul Crutzen, cùng nhau
use of CFCs declined, the ozone hole began được trao giải Nobel Hóa học. Khi việc sử dụng
shrinking, and is predicted to disappear entirely CFC giảm, lỗ thủng tầng ozon dần thu hẹp lại và
by 2070. được dự đoán sẽ biến mất hoàn toàn vào năm
2070.

H. But we’re not out of the woods yet. While the H. Nhưng ta vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi khó
ban was a win for the climate, as CFCs are khăn. Dù lệnh cấm góp phần bảo vệ khí hậu, vì
potent greenhouse gases, the alternatives that CFC là khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh, các thế
replaced them— hydrofluorocarbons, or HFCs phẩm của CFC— hydrofluorocarbons, hay HFC
— are too. While generally less potent than — cũng vậy. Nhìn chung, dù không mạnh bằng
CFCs, HFCs still trap more heat than carbon CFC, nhưng HFC vẫn hấp thu nhiệt nhiều hơn
dioxide and are contributing to climate change. CO2 và đang góp phần vào biến đổi khí hậu. Để
To address this, in 2016, the Kigali Amendment giải quyết vấn đề này, vào năm 2016, Bản sửa
was added to the Montreal Protocol, calling for đổi Kigali đã được bổ sung vào Nghị định thư
an 85% cut in global HFCs by 2047. This alone Montreal, kêu gọi cắt giảm 85% lượng HFC
could avoid up to 0.5°C of global warming by trên toàn cầu đến năm 2047. Riêng việc này có
the end of the century. thể ngăn trái đất nóng lên thêm 0,5°C vào cuối
thế kỷ này.

I. Today, as we face the existential threat of I. Ngày nay, khi ta phải đối mặt với mối đe dọa
climate change, the Montreal Protocol serves as hiện hữu của biến đổi khí hậu, Nghị định thư
a model for the decisive global cooperation we Montreal như hình mẫu cho sự hợp tác then chốt
need to combat it. The question is, what will it trên toàn cầu mà ta cần để ứng phó. Câu hỏi đặt
take for us to come together again? ra là, điều gì sẽ xảy ra để chúng ta cùng nhau
chung tay lần nữa?

You might also like