You are on page 1of 4

NHƯỢC ĐIỂM :

1. Khó đánh giá được các mức độ nhận thức bậc cao như: phân tích, tổng hợp, đánh giá.
 Phân tích:
 Khó đánh giá khả năng tách chi tiết, xác định yếu tố then chốt và mối liên hệ.
 Câu hỏi thường chỉ kiểm tra kiến thức cơ bản.
Ví dụ:
Cho một câu hỏi trắc nghiệm về cấu tạo của tế bào, các đáp án bao gồm:
A. Nhân, màng tế bào, ty thể.
B. Lưới nội sinh, nhân, ti thể.
C. Vách tế bào, nhân, ti thể.
D. Tất cả các đáp án trên.
Câu hỏi này chỉ đánh giá được mức độ ghi nhớ kiến thức cơ bản về cấu tạo tế bào, học sinh
chỉ cần chọn ra đáp án A hoặc D là đúng. Tuy nhiên, để phân tích được cấu tạo tế bào, học
sinh cần hiểu rõ chức năng của từng bộ phận, mối liên hệ giữa các bộ phận và vai trò của
chúng trong hoạt động sống của tế bào. Các câu hỏi trắc nghiệm thông thường khó có thể
đánh giá được khả năng phân tích ở mức độ này.
 Tổng hợp
 Khó đánh giá khả năng kết nối kiến thức, tạo bức tranh tổng thể.
 Câu hỏi thường chỉ kiểm tra ghi nhớ thông tin rời rạc.
Ví dụ:Cho một câu hỏi trắc nghiệm về tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, các
đáp án bao gồm:
A. Thúc đẩy sản xuất phát triển, xã hội phân hóa giàu nghèo.
B. Xuất hiện tầng lớp công nhân, máy móc thay thế sức lao động thủ công.
C. Hình thành thị trường thế giới, quan hệ quốc tế thay đổi.
D. Tất cả các đáp án trên.
Câu hỏi này chỉ đánh giá được mức độ ghi nhớ các tác động riêng lẻ của cuộc cách mạng
công nghiệp. Để tổng hợp được tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, học sinh cần liên
hệ các tác động khác nhau, đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng tác động và rút ra kết luận
chung về tác động của cuộc cách mạng công nghiệp đối với xã hội. Các câu hỏi trắc nghiệm
thông thường khó có thể đánh giá được khả năng tổng hợp ở mức độ này.
 Đánh giá:
 Cần khả năng phân tích, tổng hợp, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm, quan điểm cá
nhân.
 Câu hỏi trắc nghiệm khó đáp ứng yêu cầu này.
Ví dụ :Cho một câu hỏi trắc nghiệm về tính hợp lý của một hành vi đạo đức, các đáp án bao
gồm:
A. Hành vi đó phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
B. Hành vi đó mang lại lợi ích cho bản thân.
C. Hành vi đó không vi phạm pháp luật.
D. Cả A, B và C đều đúng.
Câu hỏi này chỉ đánh giá được mức độ hiểu biết về các tiêu chí đánh giá hành vi đạo đức. Để
đánh giá được tính hợp lý của một hành vi đạo đức, học sinh cần phân tích tình huống cụ thể,
xét đến các yếu tố liên quan, vận dụng các chuẩn mực đạo đức và đưa ra nhận định, đánh giá
chính xác, khách quan về hành vi đó. Các câu hỏi trắc nghiệm thông thường khó có thể đánh
giá được khả năng đánh giá ở mức độ này.
2. Khó đánh giá và không cho thấy quá trình tư duy, suy luận, kỹ năng sử dụng ký hiệu
toán...
 Chỉ chọn đáp án, không giải thích suy luận.
 Câu hỏi giới hạn, không khuyến khích sáng tạo.
 Ví dụ :Cho một câu hỏi trắc nghiệm về giải một phương trình bậc hai, các đáp án bao
gồm:
A. x = 1, x = 2
B. x = -1, x = -2
C. x = 0, x = 3
D. x = 2, x = 3
Với câu hỏi này, học sinh chỉ cần áp dụng công thức giải phương trình bậc hai để tìm
ra đáp án đúng mà không cần giải thích hay trình bày quá trình suy luận giải bài. Do
đó, giáo viên không thể đánh giá được khả năng tư duy logic, khả năng giải quyết vấn
đề và kỹ năng sử dụng toán học của học sinh thông qua câu hỏi trắc nghiệm này.
3. Chuẩn bị đề kiểm tra khó, mất nhiều thời gian, cơ sở vật chất...
 Cần đầu tư kỹ lưỡng về nội dung, hình thức.
 Chấm điểm tốn thời gian, công sức, dễ sai sót.
4. Không tạo điều kiện để HS tự phát hiện và GQVĐ
 Học sinh không nhận ra và sửa lỗi sai.
 Ảnh hưởng đến khả năng học tập sau này.

3. Chuẩn bị đề kiểm tra khó khăn, tốn nhiều thời gian và nguồn lực:

Để xây dựng một đề thi trắc nghiệm khách quan chất lượng, cần có đội ngũ giáo viên giàu
kinh nghiệm, tâm huyết, có chuyên môn cao về môn học và phương pháp trắc nghiệm. Quá
trình xây dựng đề thi bao gồm nhiều bước như: xác định mục tiêu đánh giá, xây dựng khung
nội dung, viết câu hỏi, thẩm định câu hỏi, thử nghiệm đề thi... Mỗi bước đều đòi hỏi sự đầu
tư kỹ lưỡng về mặt thời gian và công sức.

Với các câu hỏi trắc nghiệm chỉ cung cấp đáp án lựa chọn sẵn, học sinh không có cơ hội để tự
phát hiện và sửa chữa lỗi sai của bản thân. Việc này có thể ảnh hưởng đến khả năng học tập
và rèn luyện của học sinh trong tương lai. Ví dụ, với câu hỏi trắc nghiệm về giải một phương
trình,
Ví dụ: Cho một câu hỏi trắc nghiệm về ngữ pháp tiếng Anh:

Cấu trúc nào sau đây không đúng?

A. The cat are sleeping on the mat.


B. I am going to school tomorrow.
C. She has a beautiful voice.
D. We do not like coffee.

Với câu hỏi trắc nghiệm này, học sinh chỉ cần chọn ra đáp án A là sai mà không cần giải
thích vì sao đáp án A sai và các đáp án còn lại đúng. Do đó, học sinh không có cơ hội để tự
nhận ra lỗi sai của bản thân và sửa chữa lỗi đó.

Nếu được làm bài thi tự luận, học sinh sẽ phải giải thích vì sao đáp án A sai và các đáp án
còn lại đúng. Điều này sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn về ngữ pháp tiếng Anh và có khả năng tự
phát hiện và sửa chữa lỗi sai trong tương lai.

Ngoài ra, phương pháp trắc nghiệm khách quan cũng có thể hạn chế khả năng sáng tạo và tư
duy độc lập của học sinh. Vì các câu hỏi trắc nghiệm thường chỉ có một đáp án đúng duy
nhất, học sinh có xu hướng tập trung vào việc tìm ra đáp án đúng thay vì tự do sáng tạo và
đưa ra những ý tưởng mới.

Kết luận:

Phương pháp trắc nghiệm khách quan là một phương pháp đánh giá hiệu quả, tuy nhiên cũng
có một số nhược điểm cần được khắc phục. Để khắc phục những nhược điểm này, cần kết
hợp phương pháp trắc nghiệm khách quan với các phương pháp đánh giá khác như: thi tự
luận, thảo luận, thực hành... Điều này sẽ giúp đánh giá toàn diện hơn về năng lực và phẩm
chất của học sinh.

You might also like