Professional Documents
Culture Documents
19 Bài
19 Bài
Ở bài viết này, tác giả đã đề cập cho chúng ta về bản chất của quyền lực. Quyền lực sẽ
được chia làm hai loại: quyền lực chính trị và quyền lực tinh thần và huyền thoại tôn giáo
đã rất khó khăn trong việc vạch ra ranh giới khác biệt giữa chúng.
Ở đây, quyền lực chính trị được hiểu là khả năng bắt buộc người khác bằng nhiều cách
thức khác nhau phải làm theo ý mình muốn. Nó được thể hiện không phải từ chính chủ
thể mang quyền lực mà là những chức vụ, vị trí mà chủ thể đang mang, không hề liên hệ
đến nhận thức hay sự khôn ngoan. Quyền lực tinh thần lại khác, nó nằm hoàn toàn bên
trong cá nhân con người, là khả năng đưa ra quyết định, là ý thức. Bài viết đã đề cập
rằng, đôi khi có những việc, chúng ta tưởng chừng đã tường tận và thấu hiểu nhưng kết
quả thì không như chúng ta mong muốn, còn những việc tưởng chừng còn nhiều nghi
hoặc và không nắm chắc thì lại đạt được kết quả ngoài mong đợi. Có thể nói, khi còn
nhiều trở ngại trong lối suy nghĩ, ý thức càng được đề cao hơn, phát triển khả năng tư duy
để khai sáng trong nhận thức.
Để đi đến được quyền lực, chúng ta phải đủ nhận biết được cái nào đúng, cái nào sai,
đủ nhận thức được khi mình đang lạc lối, phải có hi vọng để được thoát ra, tìm một
hướng đi mới. Nhận thức không phải là ngày một ngày hai, nó phải đến từ từ và được rút
ra từ những bài học, chiêm nghiệm trong cuộc sống, từ những kiến thức được tích lũy và
vun đắp qua từng ngày để trở thành một phiên bản hoàn hảo hơn, giúp tạo bệ phóng tới
quyền lực.
Quyền lực thật sự sẽ gắn liền với sự khiêm tốn vui tươi, không ai mang quyền lực thật
sự sẽ khoe khoang và tân bốc chính mình, ngược lại họ luôn cho rằng nó không đáng kể
và dường như còn kết nối mình với Thiên Chúa.
Mọi thứ đều có hai mặt, khi con người càng nhận thức cao, hiểu rộng thì càng khó để
hành động vì phải đặt ra rất nhiều vấn đề và hệ lụy có thể xảy ra với hành động của mình.
Lúc này, quyền lực tinh thần không còn là nhận thức mà còn là khả năng duy trì những
quyết định với nhận thức càng lúc càng sâu rộng hơn. Quyền lực tinh thần có thể đem đến
nhiều niềm vui nhưng dường như còn mang lại cả sự cô đơn vì càng có tri thức cao,
người ta lại càng muốn tìm thấy một người đồng điệu về mặt kiến thức, một người đủ
đẳng cấp để cùng trao đổi, san sẻ, góp ý cho mình, không thể kiếm tìm được người có
cùng cấp độ nhận thức để giao tiếp cùng mình. Lấy ví dụ từ Đức Kitô, dù cố gắng cách
mấy thì cũng không có ai có thể hiểu người thật sự, không ai có đủ sự khôn ngoan ấy cả.
Tóm lại, bản chất của quyền lực, hoặc là xuất phát từ chức vụ, thân phận mà một người
đang mang-quyền lực chính trị hay có thể tạm gọi là vật chất. Hoặc là xuất phát từ tri
thức-quyền lực tinh thần-ý thức của con người.
2. Quyền lực cứng, quyền lực mềm, quyền lực thông minh-Bùi Việt
Hương
Các định nghĩa về quyền lực đều thống nhất rằng quyền lực có năng lực làm thay đổi hành
động của chủ thể khác trong mối quan hệ quyền lực. Có ba cách cơ bản để thực hiện được
việc thay đổi hành vi của người khác theo ý mình mong muốn đó là: ép buộc, đe dọa bằng
bạo lực; dụ dỗ bằng lợi ích; thu hút, hấp dẫn họ bằng các giá trị tư tưởng. Và hai cách đầu
được biết đến như dùng quyền lực cứng cách còn lại là quyền lực mềm.
Quyền lực cứng là quyền lực có được dựa trên sức mạnh quân sự và kinh tế. Theo Thomas
Schelling, có hai nguồn chính của quyền lực cứng là sự đe dọa và dụ dỗ, chúng liên hệ gần
gũi với nhau.
Quyền lực mềm được thể hiện qua sự hấp dẫn và thuyết phục. Cha đẻ của thuyết quyền
lực mềm Joseph Nye cho rằng nó là khả năng đoạt được thứ mình muốn thông qua sự hấp
dẫn thay vì bắt buộc. Về bản chất, quyền lực mềm là khả năng tạo ra ảnh hưởng với người
khác bằng cách tác động tới hệ thống giá trị của người khác làm thay đổi suy nghĩ và khiến
người đó mong muốn chính điều mình mong muốn.
Quyền lực cứng và quyền lực mềm có liên hệ với nhau. Quyền lực cứng là sự tác động từ
bên ngoài đến các đối tượng của quyền lực và phương thức duy trì rất tốn kém, nguy cơ
chống đối cao nếu không đảm bảo được tính chính đáng. Quyền lực mềm nằm ở lẽ phải, sự
thuyết phục, tạo ra sự thay đổi từ bên trong, tạo nên tính chính đáng. Hai loại quyền lực này
tác động và củng cố lẫn nhau. Quyền lực cứng là hậu phương, cơ sở cho quyền lực mềm
được phát huy. Quyền lực mềm hấp dẫn khi được bắt nguồn từ thành công về vật chất,
những thứ do quyền lực cứng mang lại.
Quyền lực mềm là sự bồi đắp cho những khiếm khuyết của quyền lực cứng, trong nhiều
trường hợp chỉ có thể sử dụng hoặc quyền lực cứng hoặc quyền lực mềm và hoặc phải kết
hợp cả hai. Việc kết hợp chúng sẽ tạo ra quyền lực thông minh-một hình thức sử dụng
quyền lực ngày càng có ý nghĩa và ảnh hưởng trong thế giới hiện đại. Đây không phải là
loại quyền lực thứ ba.Tuy nhiên để sử dụng quyền lực thông minh là một vấn đề khó bởi đòi
hỏi cùng lúc có một quyền lực cứng đủ mạnh để cưỡng chế khi cần và sự linh hoạt, nhạy
cảm của người cầm quyền. Việc sử dụng quyền lực thông minh đem lại hiệu quả cao nhất
yêu cầu một cơ chế phản hồi linh hoạt từ phía người dân, giúp cho chính quyền được củng
cố cả quyền lực mềm và cứng, cân bằng giữa tính hiệu quả trong sự hoạt động của nhà nước
và tham gia của người dân. Hơn thể, yêu cầu phải có những người lãnh đạo linh hoạt khôn
khéo, theo đó là người dân phải tự nguyện, tự giác để cùng nhau cải thiện chất lượng đời
sống, trình độ của người dân.
Dù là bất kì loại quyền lực nào thì điều quan trọng là phải biết sử dụng chúng hợp lí trong
từng trường hợp. Hơn nữa, phải nhận thức đúng ý nghĩa của chúng để có thể củng cố quyền
lực hợp lý, tạo nên sức mạnh tối đa của quốc gia.
5. Quyền lực mềm và ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại của Mỹ dưới
chính quyền Obama, Nguyễn Văn Dũng.
Quyền lực mềm được hiểu là dùng sự thuyết phục, các biện pháp ôn hòa và phi bạo
lực. Các nhân tố tác động đến việc sử dụng quyền lực mềm của Hoa Kì dưới thời tổng
thống B. Obama gồm: khách quan là bối cảnh quốc tế, chủ quan là tình hình nội bộ của
Hoa Kì và nhân tố cá nhân. Là một người sinh ra trong gia đình bình dân, ông là người
Mĩ gốc Phi đầu tiên trở thành tổng thống của Hoa Kỳ/, ông luôn tự hào về nguồn gốc của
mình và ủng hộ các chính sách cho người nhập cư, kêu gọi hòa bình giữa các dân tộc trên
thế giới.
Quyền lực ấy được thông qua các biện pháp chính yếu như: ngoại giao ôn hòa, đa
phương; giải quyết các vấn đề bằng biện pháp hòa bình, thúc đẩy nhân quyền…Qua các
sự kiện như: rút quân ở Iraq, kêu gọi các nước đồng minh và các tổ chức quốc tế hỗ trợ
Iraq tái thiết sau chiến tranh, nỗ lực kết thúc chiến tranh tại Afghanistan đã thể hiện được
nỗ lực giải quyết bằng biện pháp ôn hòa của ông. Dưới thời tổng thống B. Obama, các
chính sách tăng cường liên kết khu vực và kinh tế không ngừng được triển khai với các
nước: Trung Quốc, Ấn Độ, các nước ASEAN,... Thiết lập chương trình hợp tác với
APEC, xây dựng APEC như một tổ chức lãnh đọa cấp cao quan trọng nhằm thực hiện
mục tiêu thúc đẩy hội nhập kinh tế và các liên kết thương mại khắp Thái Bình Dương ,
xây dựng TPP. Các giá trị Mĩ được phổ biến trên phạm vi toàn cầu: thúc đẩy dân chủ,
nhân quyền ở châu Phi, Trung Đông, châu Á; xây dựng nền ngoại giao công chúng. Mở
rộng phạm vi hợp tác an ninh-quốc phòng bằng cách tăng cường hiện diện quân sự, hỗ trợ
nhân đạo thiên tai …
Kết quả là Hoa Kì đã khôi phục và ổn định được kinh tế, thực hiện cam kết kết thúc
chiến đấu ở Iraq và Afghanistan, giúp hỗ trợ tái thiết sau khi rút quân đội khỏi nơi đây.
Về mặt chiến lược đã ghi dấu ấn ngoại giao tại châu Á và một số khu vực, xây dựng
nhiều mối quan hệ và cam kết về các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu. Qua đó, hình
ảnh của Hoa Kì trên thế giới đã được thay đổi ngoạn mục.
Bên cạnh đó vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định. Trong khi Trung Quốc đang không
ngừng bành trướng sức mạnh kinh tế quân sự mà Hoa Kì lại chủ trương ngoại giao ôn
hòa thì lại tạo điều kiện để Trung Quốc bành trướng. Càng nhân nhượng thì Trung Quốc
càng lấn tới và gây ra nguy hiểm đến vị thế của Hoa Kì. Một phần cho rằng chính sách
ngoại giao của tổng thống O. Bama là quá mềm yếu và làm mất đi hình ảnh mạnh mẽ cần
thiết của một cường quốc như Hoa Kì. Quyền lực mềm của Hoa Kì chỉ được thực hiện tốt
khi có sự hợp tác của các bên liên quan. Chắc chắn rằng quyền lực mềm không thể thực
hiện được nếu không có sự hỗ trợ của quyền lực cứng, nếu không có tiềm lực kinh tế và
quân sự đủ mạnh thì quyền lực mềm trong ngoại giao dưới thời Obama không thể thực
thi, không thể đứng độc lập một mình.
6.Cách mạng thông tin, các chủ thể phi quốc gia và sự phân tán quyền
lực phần I
Cuộc cách mạng thông tin đương đại bắt nguồn từ những tiến bộ kỹ thuật nhanh chóng
về máy tính, truyền thông và các phần mềm vốn giúp cho chi phí xử lý và truyền tải
thông tin giảm xuống một cách đáng kể. Đặc tính quan trọng nhất của cuộc cách mạng
thông tin không phải là tốc độ truyền thông giữa các quốc gia giàu có và quyền lực. Thay
đổi quan trọng nhất của cuộc cách mạng thông tin là việc chi phí truyền tải thông tin giảm
đáng kể. Càng ngày, chi phí truyền thông càng giảm nhưng lượng thông tin được truyền
tải thì càng lớn hơn rất nhiều lần. Những thay đổi sâu sắc trong hai ngành công nghiệp có
liên quan là máy tính và truyền thông, đôi khi được gọi là “cuộc Cách mạng Công nghiệp
lần thứ ba”, đang thay đổi bản chất của các chính phủ, chủ quyền quốc gia và tạo ra một
sự phân tán quyền lực.
Trong quá trình hình thành và phát triển đất nước, từng cuộc cách mạng công nghiệp
diễn ra luôn đem lại những tác động to lớn đến kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội. Sự ra
đời của các phương tiện truyền thông đại chúng và phát thanh truyền hình hay việc máy
tính càng nhỏ hóa, lượng thông tin truyền đạt ngày cao gắn liền với sự thay đổi về chính
trị. Sự phổ biến của thông tin làm cho quyền lực được phân tán rộng rãi hơn, và giờ đây
những thiết chế không chính thức có thể phá vỡ thế độc quyền của những cơ quan nhà
nước truyền thống. Tốc độ lan truyền nhanh của internet khiến cho tất cả mọi chính phủ,
cả chính phủ Mỹ lẫn các nước khác trên thế giới, sẽ có ít cơ hội kiểm soát các chương
trình nghị sự của họ hơn.
Trong các xã hội văn minh, các tổ chức và các cộng đồng ảo ngày càng phát triển trên
mạng internet và vượt qua biên giới tài phán theo lãnh thổ, hình thành nên các mẫu hình
quản trị riêng của mình. Hiện nay, khái niệm về chủ quyền đang không ngừng thay đổi,
các yếu tố, mối quan hệ quốc tế giữa các quốc gia thay đổi. Khi chi phí internet giảm
đáng kể đã tạo điều kiện cho hàng triệu người được tiếp cận thông tin nhiều quốc gia trên
thế giới.
Vấn đề về chủ quyền quốc gia là đề tài tranh cãi nóng bỏng trong nền chính trị thế giới
hiện nay. Tuy nhiên cuộc tranh luận về số phận của các quốc gia chủ quyền đang được
định hình một cách quá kém cỏi. Ngày nay tất cả mọi người từ những kẻ tin tặc cho tới
những tập đoàn lớn đang phát triển những quy tắc và chuẩn mực riêng của internet mà
không bị kiểm soát bởi những thể chế chính trị chính thức. Thật ra chỉ là tấn công vào các
lĩnh vực mà các quốc gia chưa kiểm soát hiệu quả. Khi người dân tham gia vào các cộng
đồng intranet sẽ không ảnh hưởng đến sự trung thành của họ mà sẽ khác với những công
dân điển hình trước khi thời đại internet bắt đầu.
Công nghệ thông tin, đặc biệt là internet, đã giúp đơn giản hóa nhiệm vụ điều phối và
là cánh tay trợ giúp đắc lực cho những nhà hoạt động nhân quyền. Tuy nhiên, các nhà
lãnh đạo chính trị, đặc biệt là ở các nước thuộc địa trước đây, thường dựa vào sự bảo vệ
mà chủ quyền pháp lý mang lại để chống lại sự can thiệp từ bên ngoài.
Nhiều phong trào bùng nổ nhưng không chấm dứt sự tồn tại của các quốc gia có chủ
quyền, nhưng chúng thực sự khiến cho nền chính trị của các quốc gia trở nên dễ thay đổi
hơn và không còn bị bó hẹp trong chiếc vỏ của các quốc gia nữa.
7. Cách mạng thông tin, các chủ thể phi quốc gia và sự phân tán quyền
lực phần II.
Những chủ thể liên quốc gia có vai trò ngày càng gia tăng. Thế kỉ XVIII, các quốc
vương là người đại diện cho 1 quốc gia. Thế kỷ XIX, 1 tầng lớp tinh hoa hơn kiểm soát
các chính sách đối ngoại. Nửa sau thế kỷ XX, chương trình nghị sự của nền chính trị
quốc tế đang ngày càng được mở rộng hơn cuốn hút sự tham gia của hầu như mọi chủ
thể. Các xã hội tương tác với nhau ở nhiều cấp độ hơn. Những lợi ích chồng chéo này
luôn luôn tồi tại, và thường phổ biến trong lĩnh vực kinh tế và xã hội hơn là trong các vấn
đề an ninh quân sự truyền thống. Hơn nữa, khi một số nhóm lợi ích trong nước có được
khả năng liên lạc và tương tác một cách trực tiếp với các nhóm lợi ích ở các quốc gia
khác, chúng sẽ tạo ra một hình thái chính trị thế giới mới. Hai mô hình của chính trị thế
giới gồm: mô hình truyền thống của nền chính trị quốc tế và mô hình liên quốc gia. Khi
nói về chính trị của sự phụ thuộc lẫn nhau chúng ta không nên cho rằng mọi thứ đều được
định hình bởi mô hình truyền thống của các mối quan hệ giữa các chính phủ với nhau.
Một trong những đặc điểm nổi bật của mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau phức tạp chính là
vai trò quan trọng của các chủ thể khác bên cạch các quốc gia. Các quốc gia có vẻ như
bất khả xâm phạm nếu nhìn tổng thể, nhưng nếu xem xét kỹ hơn ta sẽ thấy có những lĩnh
vực các quốc gia rất dễ bị tổn thương hơn nhiều so với những lĩnh vực khác. Những lĩnh
vực này thường có xu hướng hoạt động liên quốc gia để cải thiện tình hình.
Nói tóm lại, các quốc gia vẫn là chủ thể quan trọng nhất của chính trị quốc tế,
nhưng như những người theo chủ nghĩa kiến tạo đã cảnh báo, nếu nói như vậy nghĩa là
bạn đã bỏ quên một số yếu tố quan trọng khác mà chúng ta cần phải biết về chính trị và
những sự xung đột trong một thế giới phụ thuộc lẫn nhau.
Các tổ chức phi chính phủ (NGO)
Các tổ chức tư nhân ngày càng tăng trưởng hoạt động liên quốc gia. Mặc dù không
được bầu ra một cách dân chủ nhưng những tổ chức này đôi khi có thể giúp phát triển
những chuẩn tắc mới. Xét về tài nguyên quyền lực, những tổ chức mới này hiếm khi sở
hữu sức mạnh cứng nhưng cuộc cách mạng thông tin đã tăng cường đáng kể sức mạnh
mềm của họ. Nếu xét tới quyền lực của các nhà biên tập uy tín hay những nhân vật có thể
định hướng thông tin trong thời đại internet, có một cách đơn giản để đánh giá tầm quan
trọng ngày càng gia tăng của các tổ chức liên quốc gia khi nhìn vào số lần được nhắc đến
trên các phương tiện truyền thông đại chúng chính thống. Vì thế, các tổ chức này thường
xuyên tham gia vào cuộc chiến giành sự quan tâm của những nhà biên tập có ảnh hưởng.
8. Tương lai của quyền lực toàn cầu.
Trong thế kỷ 21, đối ngoại thông minh sẽ cần kết hợp giữa sức mạnh cứng của sự cưỡng
chế, thanh toán với sức mạnh mềm của sự lôi cuốn và thuyết phục. Vậy những nguồn lực
nào sẽ tạo thành quyền lực trong thế kỷ này? Quan niệm phổ biến cho rằng nhà nước với
quân đội mạnh sẽ chiếm ưu thế, nhưng trong thời đại thông tin của thế kỷ 21, có thể nhà
nước (hay các chủ thể phi nhà nước) với những câu chuyện thú vị nhất sẽ giành chiến
thắng. Đến giờ, việc đo lường cân bằng quyền lực toàn cầu đã khó, nhưng việc làm thế
nào phát triển những chiến lược hiệu quả để tồn tại trong thế giới mới này càng khó hơn.
Hai sự thay đổi quyền lực quan trọng đang diễn ra trong thế kỷ này là chuyển dịch quyền
lực và phân tán quyền lực.
Ngày nay, sức mạnh toàn cầu được phân phối theo mô thức giống như trò cờ vua
trên ba tầng khác nhau. Ở bàn cờ đầu tiên, quyền lực quân sự vẫn mang tính đơn đơn cực,
và Mỹ sẽ còn vượt trội trong tương lai gần. Nhưng ở bàn cờ thứ hai, quyền lực kinh tế đã
thể hiện nhiều cực hơn trong hơn một thập niên trở lại đây, với Trung Quốc, châu Âu,
Nhật Bản, và Mỹ là những người chơi chính. Bàn cờ cuối cùng bao gồm một tập hợp các
quan hệ xuyên quốc gia, nơi các tập đoàn đa quốc gia lưu chuyển khối lượng tiền của
khổng lồ, nơi những kẻ khủng bố vận chuyển vũ khí, và những tin tặc đe dọa an ninh
mạng (quyền lực bị phân tán).
Khi nói đến chính trị xuyên quốc gia - bàn cờ sau cùng - cuộc cách mạng thông tin
đang xóa dần đi những rào cản tham gia vào chính trị toàn cầu. Bốn mươi năm trước, liên
lạc tức thì trên toàn cầu vẫn có thể thực hiện được nhưng vô cùng đắt đỏ, và chỉ sử dụng
hạn chế ở cấp độ chính phủ và các doanh nghiệp lớn. Điện đàm nay đã miễn phí trên
Skype. Ngày nay, ai cũng có thể tải về những bức ảnh chất lượng cao từ Google Earth,
miễn phí. Và thậm chí, với mỗi đại dịch lây lan do chim, người du lịch, số người chết có
thể còn nhiều hơn cả trong thế chiến thứ nhất hay thứ hai. Quyền lực sẽ ngày càng được
thực thi trong phạm vi tương tác mạng rộng lớn hơn.
Chủ nghĩa hiện thực thể hiện đầy đủ một số khía cạnh của quan hệ quốc tế. Nhưng nhà
nước không còn là chủ thể quan trọng duy nhất trong các vấn đề quốc tế; an ninh quân sự
không còn là kết quả quan trọng duy nhất mà họ theo đuổi; và vũ lực không phải là công
cụ tốt nhất, duy nhất và lúc nào cũng có thể sử dụng để đạt được kết quả như ý muốn.
Không phải chỉ riêng với quan hệ giữa các nước phát triển thì quyền lực mềm mới đóng
vai trò quan trọng. Trong thời đại công nghệ thông tin, truyền thông trở nên quan có ý
nghĩa hơn và các kết quả đạt được sẽ không chỉ phụ thuộc vào những nước có quân đội
mạnh mà còn bởi những nước có những câu chuyện hấp dẫn hơn. Thành công không chỉ
phụ thuộc chiến thắng quân sự mà còn phải nhờ vào vào câu chuyện có sức lôi cuốn.
9. Cái giá của sự công bằng: về giai cấp siêu giàu mới nổi.
Có nhiều lí do chính dẫn đến sự xuất hiện của giới siêu giàu, ở một mặt, một số(ít) trở
thành siêu giàu vì tải năng, sáng kiến cùng với may mắn của họ, có thể nhắc đến như Bill
Gates, Steve Jobs. .Ngược lại đó là những người siêu giàu nhờ những hoạt động bất hợp
pháp( tham nhũng, cướp đoạt,...)
Tuy nhiên, nhìn kĩ lại thì Bill Gates hay Steve Jobs không chỉ giàu lên từ tài năng mà
phần lớn từ độc quyền, hoạt động này hợp pháp song chứng tỏ họ đã tăng tài sản lên hàng
trăm lần nhờ vào các lợi dụng và khai thác các thể chế và luật pháp theo hướng có lợi cho
họ. Khách quan mà nói, những người giàu dựa vào tham nhũng, cướp đoạt kia cũng có tài
khi đã lách luật để đưa bản thân từ giàu bất hợp pháp trở thành siêu giàu hợp pháp.
Một nguồn gốc nữa của sự siêu giàu là do tích cực khai thác sự thiếu kém thông tin của
đa số người khác qua việc nghĩa ra các công cụ tài chính, bảo hiểm,.. vô cùng phức tạp.
Ở Việt Nam thì hai ý niệm “tham nhũng” và “nhóm lợi ích” được ghép chung, nó không
hoàn toàn đúng. Nhưng khi các nhóm lợi ích thông đồng cấu kết với tham nhũng thì việc
nguy hại của tham nhũng bị tăng lên gấp nhiều lần.
Có người cho rằng, việc bất công bằng thu nhập thì khó tránh khỏi vì là một tiền đề
khó tránh của một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh. Họ cho rằng khi bản thân giàu có
sẽ giúp đỡ, phát triển được xã hội. Có ba cách phản biện quan điểm này. Thứ nhất, không
phải lúc nào người ta cũng đặt lợi ích tập thể lên trên, có rất nhiều trường hợp họ chỉ theo
đuổi lợi ích cá nhân. Thứ hai, các nhà tâm lí học, khoa học xã hội đã tìm ra được động lực
lao động của con người. Đó không phải dựa vào sự thỏa mãn vật chất mà dựa vào sự thỏa
mãn về mặt tinh thần khi hoàn thành tốt công việc được giao. Thứ ba, không phải lúc nào
gói “thù lao” cũng được thiết kế tối hảo cho các lãnh đạo ngân hàng giám đốc các đại
công ti. Ngoài ra việc chênh lệch như thế còn ảnh hưởng đến việc làm giảm giá trị nội tệ,
tăng giá thành hàng nhập khẩu, gây sức ép cho người tiêu dùng.
Điều này đã đem đến nhiều ảnh hưởng như: “Thu nhập tương đối” và “Hạnh phúc con
người” nghĩa là thu nhập càng thấp, trung bình thì sẽ càng thấy ít hạnh phúc và ngược lại.
Việc chênh lệch này khiến cho mọi người nản chí và thậm chí từ bỏ nhiều cơ hội. Cứ thế,
sự bất bình đẳng trong xã hội sẽ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bên cạnh đó,
trong xã hội bất bình đẳng này, nhất là khi tài sản của những người giàu phi pháp, lối
sống vô văn hóa, xa hoa, phù phiếm này bị quảng bá nhiều trên các phương tiện truyền
thông đại chúng thì khiến con người lệch xa những lối sống văn minh thật sự.
Và vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta phải làm gì? Có những người cực đoan cho rằng
đây là một hiện tượng tự nhiên, chống lại chỉ thể hiện sự ganh tị,... nhà nước không cần
làm gì cả. Tuy nhiên, đây là kết quả của sự ranh ma trong khai thác lỗ hổng của thể chế,
nền kinh tế, có khả năng gây ra nguy hại cho sự phát triển của một quốc gia, rộng hơn là
mức độ an sinh của tuyệt đại đa số trong xã hội. Tất nhiên, không thể tránh khỏi sự bất
bình đẳng trong xã hội, tuy nhiên việc siêu giàu trong thời gian nhanh chóng dù có hợp
pháp thì cũng vượt quá xa tài sức và sự đóng góp của họ cho xã hội.
Ít nhiều, các nhà lãnh đạo cũng đã nghĩ tới việc can thiệp vào để giảm sự bất bình đẳng
thu nhập trong xã hội, chấn chỉnh những méo mó kinh tế, tái cấu trúc thể chế, tuy nhiên,
đây là một vấn đề hết sức khó khăn và nan giải.
10. Augus Deaton: Nhà nước yếu kém khiến đất nước nghèo.
Theo tác giả, ông cho rằng cảnh sát sẽ luôn giúp đỡ người dân khi cần cho tới khi được
đón tiếp bằng một tràng quát thảo từ một viên cảnh sát NewYork khi ông hỏi đường đến
bưu điện.
Người Mĩ coi hệ thống pháp lý và hành chính, các trường công lập, dịch vụ chăm sóc sức
khỏe và an sinh xã hội cho người già; hệ thống đường sá, quốc phòng và ngoại giao, và
các khoản đầu tư lớn của nhà nước cho nghiên cứu, nhất là trong y học, là lẽ đương
nhiên. Họ nộp thuế đầy đủ và có quyền yêu cầu các quyền lợi tương xứng.
Tuy nhiên ở phần lớn châu Phi và châu Á, các nhà nước thiếu năng lực thu thuế, cung cấp
dịch vụ, đồng thời cảnh sát cũng đè đầu cưỡi cổ, hành hạ người dân. Ngay cả ở Ấn Độ
việc đảm bảo an toàn trong sức khỏe cũng không được coi trọng khi nhà nước không
quản lí các bác sĩ tư, để họ hành nghề mà không đủ tiêu chuẩn.
Trong trường hợp nhà nước không có khả năng cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho
bà mẹ và trẻ em thường xuyên thì số người tử vong tăng cao. Tương tự, không đưa ra các
chính sách và thực thi hiệu quả các quy định thì các doanh nghiệp khó hoạt động.
Vai trò của chính phủ trong việc giảm nghèo là rất lớn, không thể mãi dựa vào nguồn
viện trợ nước ngoài hay các nhân tố bên ngoài.
Tóm lại, bài viết đã nêu rõ vai trò của nhà nước trong việc quyết định các chính sách kinh
tế, chính trị, rằng phải có sự dẫn dắt, quyết sách phù hợp để đưa đất nước đi lên, nếu
không, sự trượt dài của xã hội là kết quả tất yếu của một nhà nước yếu kém.
11. Mô hình Trung Quốc: Đối thoại giữa Francis Fukuyama và Trương
Duy Vi
Francis Fukuyama: Ở Trung Quốc mọi người đều biết phải có một sự giải trình và chịu
trách nhiệm mang tính đạo đức, có nghĩa là chính quyền hoàn toàn không phải giải trình
và chịu trách nhiệm thông qua bầu cử nhưng phải thấy được trách nhiệm trước công
chúng trên nền tảng của sự giáo dục và tu thân, rèn luyện theo tinh thần của các bậc
hoàng đế và vua chúa. Điều mà Trung Quốc đã không phát triển được đó chính là thể chế
chính trị pháp quyền và thể chế giải trình và chịu trách nhiệm chính trị công khai. Mô
hình Trung Quốc. Đặc điểm đầu tiên đó là một chính phủ tập trung, quan liêu và toàn trị.
Tính giải trình và chịu trách nhiệm của Trung Quốc mang nội dung đạo đức nhiều hơn là
thủ tục. mô hình Trung Quốc dựa trên định hướng xuất khẩu và vai trò tích cực của các
chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ quá trình công nghiệp hóa. Một hệ thống an sinh xã
hội khá khiêm tốn nếu như so sánh với các nước phát triển. So với thế hệ trước, người
Trung Quốc hiện nay tương đối ít bị hệ tư tưởng chi phối và chính phủ cũng đã thử
nghiệm nhiều đổi mới. Mô hình hướng vào xuất khẩu là phù hợp với Trung Quốc khi nền
kinh tế quốc gia còn nhỏ nhưng nó sẽ phải thay đổi để trở nên một hệ thống phù hợp và
hiệu quả để đuổi kịp các nước đã công nghiệp hóa. Chính phủ còn có những yêu cầu về
mặt đạo đức cần đáp ứng.
Trương Duy Vi: Thượng Hải không chỉ có hạ tầng “cứng” tốt hơn New York, chẳng hạn
như tàu điện cao tốc, đường ngầm, sân bay, cảng và nhiều phương tiện phục vụ thương
mại mà còn cả hạ tầng “mềm” nữa. Nói về tính giải trình và chịu trách nhiệm như GS
Fukuyama đã tranh luận thì đây chính là hình thức dân chủ nghị viện đa đảng ở Phương
Tây. Tính giải trình và chịu trách nhiệm trong chính trị và luật pháp. Sự đổi mới thể chế
chính trị của Trung Quốc hiện nay đã giải quyết dứt điểm vấn đề “ngụy vương”. Về tính
bền vững của mô hình Trung Quốc, Trung Quốc là một nhà nước văn hiến có một không
hai, với logic và chu kỳ phát triển riêng của mình, Trung Quốc hiện nay mới đang ở giai
đoạn đầu của một chu kỳ đi lên. Quả thực Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào ngoại
thương, thế nhưng sự phụ thuộc đó hơi bị thổi phồng.
Francis Fukuyama: Ngụy vương gần đây nhất của Trung Quốc, nói rất chân thành, chính
là Mao Trạch Đông. Một hình thái pháp trị có kiểm soát và đối trọng trong dài hạn sẽ có
ý nghĩa sống còn chứ không chỉ dựa vào ký ức và kinh nghiệm của một thế hệ.
16. Chủ nghĩa tân tự do-Hệ tư tưởng nằm trong cội rễ tất cả các vấn đề
của chúng ta.
Chủ nghĩa tân tự do phát sinh như một nỗ lực có ý thức để định hình lại cuộc
sống con người và di chuyển vị trí của quyền lực. Theo đó, sự cạnh tranh là đặc
trưng xác định các mối quan hệ của con người, định nghĩa lại công dân là những
người tiêu thụ thông qua việc mua và bán, qua quá trình thưởng phạt xứng đáng,
đảm bảo “thị trường” mang lại lợi ích mà kế hoạch hoá không thể.
Những nỗ lực để hạn chế sự cạnh tranh được xem là kẻ thù của tự do, càng nỗ
lực tạo ra một xã hội bình đẳng bao nhiêu thì càng phản tác dụng và làm xói mòn
đạo đức bấy nhiêu. Thị trường đảm bảo rằng mọi người đều nhận được những gì
họ xứng đáng. Trong một thế giới bị sự cạnh tranh chi phối, những người bị tụt lại
phía sau được xem và tự xem là những kẻ thua cuộc. Sự giải phóng ra khỏi các quy
định thuế chính là tự do đầu độc chính mình, để các lí thuyết gia tân tự do lợi dụng
áp đặt các chính sách thất nhân tâm trong khi mọi người bị phân tâm. Một nghịch lí
là sự cạnh tranh toàn cầu dựa trên số lượng và so sánh toàn cầu, mọi người đều có
chế độ đánh giá và kiểm soát chặt chẽ nhằm xác định người chiến thắng và trừng
phạt kẻ thua cuộc. Nó không được quan niệm trở thành một hoạt động tội phạm
hình thành từ thủ đoạn tư lợi nhưng đã nhanh chóng tạo ra sự độc tôn: thù lao đã
được thay thế bằng thu nhập không từ lao động. Các chính sách tân tự do thất bại
khắp nơi và càng trở nên cực đoan, gây ra khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng
chính trị khi phạm vi quyền lực của nhà nước bị thu hẹp. Kết quả là người nghèo
và tầng lớp trung lưu bị mất quyền và bị đẩy ra khỏi nền chính trị, không còn gì
ngoài quyền lực và sự tuân phục, để rồi thứ duy nhất còn lại buộc chặt chúng ta là
quyền lực của nhà nước. Chiến thắng sau cùng của chủ nghĩa tân tự do phản ánh sự
thất bại của cánh tả và phe trung dung khi không tạo ra khuôn khổ tổng quát cho tư
tưởng kinh tế trong 80 năm qua. Cần phải đề xuất một giải pháp thay thế chặt chẽ,
với nhiệm vụ trọng tâm là phát triển một chương trình kinh tế Apollo, một nỗ lực
có ý thức để thiết kế một hệ thống mới, phù hợp với yêu cầu của thế kỉ XXI.
17. Tại sao các chính phủ cần liên tục đổi mới?
Bài viết đã đề ra quan điểm về sự cạnh tranh để phát triển. Trong thời đại đầy biến đổi
này, những ai tụt hậu sẽ bị gạt sang một bên – chỉ trong chốc lát. Những quốc gia mà
chính phủ trở nên già cỗi phải đối mặt với số phận chung với những công ty già cỗi. Lựa
chọn quả họ là đơn giản: đổi mới hay thụt lùi.
Các quốc gia cạnh tranh với nhau trong một nền kinh tế thị trường đầy biến động, những
quốc gia nào bị tụt lại sẽ phải bị loại bỏ. Chính vì thế, chính phủ có vai trò hết sức to lớn.
Và chìa khóa để phát triển không là gì khác mà chính là đổi mới. Nó là công thức cho sự
sống sót và phát triển của loài người, là nhiên liệu cho sự phát triển, và bản vẽ cho sự trỗi
dậy của một đất nước. Phải tập trung phát triển kĩ năng, nâng cấp, đầu tư vào những lĩnh
vực mới, những chính phủ nào không biết trang bị cho thế hệ mới những kĩ năng cần thiết
thì sẽ ngày càng tụt hậu, đất nước khó khăn.
18. Từ nhà nước phúc lợi đến nhà nước đổi mới.
Viễn cảnh công nghệ tước đi công ăn việc làm đang ám ảnh nền kinh tế thế giới.
Nhiều người tin rằng nền kinh tế thế giới có thể đang ở đỉnh điểm bùng nổ về các
công nghệ mới, nhưng vấn đề là chúng lại tiết giảm sức lao động của con người,
dẫn đến thay thế lượng lớn công nhân tay nghề thấp và trung.
Một thế giới nơi máy móc làm việc thay con người không có nghĩa là tình trạng
thất nghiệp cao, nhưng phần lớn nhất của năng suất lao động gia tăng được đổ dồn
về túi của những người sở hữu các công nghệ mới đó. Và rồi lực lượng lao động
lớn sẽ bị thất nghiệp hoặc phải nhận lương thấp, tương tự như ở những nước phát
triển ít nhất trong khoảng bốn thập niên qua. Chúng đang là những thủ phạm gây ra
sự gia tăng bất bình đẳng từ cuối những năm 1970, với xu hướng tiếp tục tạo ra
những cấp độ bất bình đẳng mới chưa từng có trong lịch sử và nguy cơ lan rộng
của xung đột chính trị - xã hội. Tuy nhiên, bằng những suy nghĩ sáng tạo và các
thiết chế thể chế, chúng ta có thể cứu hệ thống kinh tế tư bản khỏi các nguy cơ do
chính nó tạo ra.
So với các thị trường tài chính tại những nền kinh tế phát triển, nhà nước đóng
vai trò đầu tư này thậm chí ở quy mô lớn hơn, qua đó cho phép nhiều cải tiến công
nghệ hơn xảy ra và chuyển những lợi ích đó trực tiếp tới xã hội nói chung.
Với mô hình ngân hàng trung ương và xã hội đóng vai trò là một đồng chủ sở
hữu thông qua đại diện của mình là chính phủ, phần lớn lợi ích sẽ được chuyển cho
những công dân của nước đó dưới dạng cổ tức “canh tân xã hội” để bổ sung thu
nhập, tiến dần về một xã hội nơi các tiến bộ kỹ thuật tạo điều kiện cho từng cá
nhân trong xã hội được tự do “đi săn vào buổi sáng, câu cá vào buổi chiều, chăm
sóc gia súc vào buổi tối và tranh luận sau bữa ăn tối.”
Thế kỷ 21 đòi hỏi sự chuyển đổi từ “Nhà nước phúc lợi” dân chủ hóa và ổn định
hóa hệ thống kinh tế tư bản để hướng tới một “Nhà nước đổi mới” như phác thảo
trên, điều hòa giữa lợi ích và các động cơ thúc đẩy đầu tư, khắc phục điểm yếu về
thuế cao mà không kích thích bù đắp vào năng lực đổi mới.
19. Vốn văn hoá, Trần Hữu Dũng.
Trong làn sóng toàn cầu hóa, văn hóa đi kèm với phát triển kinh tế, vậy chúng ta có
thể làm được gì cho văn hóa, để xây dựng một nước Việt Nam ngày càng tươi đẹp, phồn
vinh là vấn đề của bài viết này.
Văn hoá là gì? Thứ nhất, văn hoá của một nước là những sinh hoạt trong "lĩnh vực
văn hoá", hay là "khu vực công nghiệp văn hoá" của nước ấy. Đó là viết văn, làm thơ,
soạn nhạc, tạc tượng, vẽ tranh... nói chung là những hoạt động có tính văn chương nghệ
thuật. Thứ hai (nhìn theo quan điểm nhân chủng và xã hội học), văn hoá là tập hợp những
phong thái, tập quán và tín ngưỡng, là nền tảng, là chất keo không thể thiếu cho sự vận
hành nhuần nhuyễn của xã hội. có thể phân biệt hai dạng vốn văn hoá: vật thể và phi vật
thể. Vốn văn hoá vật thể là gồm những công trình kiến trúc, đền đài cung miếu, di tích
lịch sử, những địa điểm có ý nghĩa văn hoá. Vốn văn hoá phi vật thể, là những tập quán,
phong tục, tín ngưỡng, và các giá trị khác của xã hội. Loại vốn văn hoá này (cùng những
nghệ phẩm công cộng như văn chương và âm nhạc) là một loại dây, một thứ keo gắn kết
cộng đồng.
liên hệ giữa văn hoá, kinh tế, và phát triển.
Một là muốn hội nhập vốn văn hoá vào phân tích kinh tế ta phải xác định liên hệ giữa
giá trị văn hoá và giá trị kinh tế. Hầu như mọi loại vốn văn hoá vật thể đều có thể được
nghĩ đến như ngôi nhà lịch sử trong ví dụ, tức là chúng bơm tiêm giá trị văn hoá vào giá
trị kinh tế của vật thể, làm tăng thêm, có thể gấp nhiều lần, giá trị của vật thể ấy.
Trong trường hợp vốn văn hoá phi vật thể thì liên hệ giữa giá trị văn hoá và giá trị kinh tế
phức tạp hơn, không phải cái này gây cái kia. Nói cách khác, những dịch vụ xuất phát từ
vốn văn hoá phi vật thể là có giá trị văn hoá và kinh tế, nhưng ở đây hai loại giá trị ấy hoà
quyện lẫn nhau, không thể tách rời nhau.
Hai là đặt ra vấn đề vốn văn hóa đóng góp được gì vào tổng thu nhập và tốc độ phát
triển của một nước
Ba là vốn văn hoá giúp ta hiểu sâu hơn về ý niệm tính bền vững của phát triển. Đóng
góp của nó vào khả năng phát triển dài hạn không khác gì đóng góp của vốn thiên nhiên.
Bốn là chế độ thị trường và xu thế toàn cầu hóa đặt ra những thử thách và những cơ
hội mới.
Chúng ta nhìn về tương lai với một niềm tin mãnh liệt ở nước ta, nhưng không sô vanh
dân tộc. Giữ gìn và phát huy di sản văn hoá dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng, nhưng
nên hiểu tại sao phải giữ gìn, phát huy, và không lo sợ một cách võ đoán và phi lý những
trào lưu văn hoá mới. Chúng ta cần một chính sách văn hoá, nhưng chính sách đó phải
tôn trọng thực tế của kinh tế thị trường, trong thời đại mở cửa, không vướng mắc những
ảo tưởng, cảm tính chủ quan. Hãy tranh luận vì một nền văn hóa lành mạnh và tốt đẹp.