You are on page 1of 65

LUT HIN PHÁP

2023 - 2024
LY THI HIEN THUC
QUỐC HỘI
I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT PHÁP LÝ (Điều 69 của HP 2013)
Giải thích thuật ngữ:
- Vị trí pháp lý của 1 cơ quan: Trong khoa học pháp lý, vị trí của một cơ quan được hiểu là chỗ đứng
của cơ quan đó trong bộ máy nhà nước. Nói khác đi, vị trí pháp lý nằm ở đâu? chỗ nào? trong tổng
thể bộ máy nhà nước. Từ vị trí pháp lý của nó sẽ quyết định đến tính chất pháp lý của cơ quan đó
( thuộc tính bên trong của cơ quan đó).  trả lời câu hỏi : Cơ quan do ai lập? phục vụ cho ai? Báo
cáo công tác và chịu trách nhiệm trước ai? => nghiên cứu chức năng và thẩm quyền của cơ quan đó
- Chức năng: phương diện hoạt động thường xuyên và chủ yếu. Nói cách khác, nghiên cứu chức
năng của một cơ quan sẽ trả lời cho câu hỏi: Lập cơ quan để làm gì? Là sự khái quát hóa của thẩm
quyền, còn thẩm quyền là sự cụ thể hóa/chi tiết hóa của chức năng. Từ chức năng thì pháp luật mới
quy định cho cơ quan đó những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể.  Nghiên cứu cơ cấu tổ chức của cơ
quan đó
Ví dụ: Chức năng Quốc hội: làm luật  được quyền trình luật, hợp…
- Cơ cấu, tổ chức của cơ quan: cơ quan sẽ lập những chức danh/ bộ phận bên trong/có những con
người nào để giúp cơ quan đó thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình  Nghiên cứu
các hình thức hoạt động của cơ quan đó
- Hình thức hoạt động của cơ quan: cơ quan đó hoạt động trên thực tế như tế như nào? Để vận hành,
thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
 Nội dung chính:
- Theo điều 69 của Hiến pháp 2013, Quốc hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước,
được xác định là cơ quan có vị trí cao nhất. Có nghĩa là, trong bộ máy nhà nước ta hiện nay, Quốc
hội là cao nhất, không có một cơ quan nào cao hơn thậm chí ngang hàng. Cần lưu ý rằng, vị trí này
của Quốc hội là chỉ có trong các bản HP XHCN, các HP TS (Mỹ) Nghị viện không được xác nhận là
cơ quan cao nhất mà là trong 3 nhánh quyền lực (ngang hàng).

Nghị viện (Mỹ) Quốc hội (VN)

- Không được xác nhận là cao nhất - Là vị trí cao nhất. Lý do: áp dụng học thuyết “Tập quyền
mà ngang hàng/cân bằng với 2 XHCN” trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có 2
nhánh còn lại (Tòa án, Chính phủ) nội dung lớn:
 kiểm soát chéo lẫn nhau
+ Các nhà lập hiến theo CNXH quan niệm rằng Hành pháp, Lập
 do áp dụng học thuyết pháp, Tư pháp phải là 1 khối thống nhất và đều thuộc về nhân
Mongteskio “ Tam quyền phân lập” dân. Tuy nhiên, để thực hiện quyền lực của mình thì người dân
trong bộ máy nhà nước sẽ đi bầu cử để bầu ra Quốc hội bằng lá phiếu của mình thì
người dân trao hết quyền lực Lập/Hành/Tư pháp cho Quốc hội
- Với học thuyết “tam quyền phân
 Quốc hội là cơ quan có toàn quyền, là 1 tập thể hành động.
lập”, 3 nhánh quyền lực đều do dân
lập và trao quyền mỗi cơ quan 1 + Tuy nhiên, các nhà kinh điển theo XHCN cũng nhận thấy
quyền lực  tạo ra sự ngang cơ, rằng: trong điều kiện thực tế hiện nay ở các nước XHCN, Quốc
cân bằng  kiểm soát chéo. hội hoạt động không thường xuyên (1 năm họp 2 kì). Đa số
(hơn 2/3) đều là hoạt động kiêm nhiệm (vừa làm đại biểu Quốc
- Nghị quyền hoàn toàn có thể bị
hội vừa làm việc khác) và chất lượng/hiệu quả/năng suất của
kiểm soát/ đối trọng bởi 2 nhánh
các đại biểu không cao.  Bản thân Quốc hội không thể vừa
quyền lực còn lại thông qua những
Lập/Hành/Tư pháp  Lập ra Chính phủ để trao lại quyền Hành
công cụ/ hiện tượng pháp lý đặc
pháp  Lập ra Tòa án để trao lại quyền Tư pháp. Vì vậy, Chính
trưng: Nguyên thủ Quốc gia có
phủ và Tòa án là các cơ quan phái sinh từ Quốc hội ra, là những
quyền phủ quyết và bắt Nghị viện
đứa con do Quốc hội sinh ra  không thể ngang hàng
phải thảo luận lại 1 dự luật/ có
quyền kí sắc lệnh để giải tán Nghị + Quốc hội có quyền thành lập/ trao quyền/ giám sát tối cao/bãi
viện trước hạn. Tòa án có quyền nhiệm/miễn nhiệm cho các cơ quan nhà nước khác. Các cơ
tuyên bố 1 đạo luật do Nghị viện quan nhà nước khác phải báo cáo và chịu trách nhiệm trước
ban hành là vi Hiến và từ chối áp Quốc hội. Do đó trong “tập quyền xã hội chủ nghĩa” sẽ: không
dụng… ai quyền được phủ quyết luật của Quốc hội, không ai được giải
tán trc hạn, không ai được tuyên bố Luật của Quốc hội là vi
Hiến và từ chối áp dụng.

SỬ DỤNG NHỮNG QUY TẮC NÀY QUA 5 BẢN HIẾN PHÁP


- Hiến Pháp 1946: Áp dụng nguyên tắc tam quyền phân lập phân chia quyền lực nhà nước, mang
đậm dấu ấn bản Hiến Pháp Âu, Mỹ. Biểu hiện rõ nét của tam quyền phân lập được thể hiện qua:
Chủ tịch nước qua Hiến Pháp năm 46 có quyền hạn rất lớn vừa đứng đầu nhà nước vừa đứng đầu
chính phủ, nắm hành pháp. Có quyền kiềm chế đối trọng kiểm soát ngược trở lại với nghị viện nhân
dân, ví dụ: Điều 31 theo bản Hiến Pháp này quy định chủ tịch nước có quyền phủ quyết luật các
đạo luật do nghị viện ban hành; Điều 54 của bản Hiến Pháp này quy định chủ tịch nước có quyền
uy cầu nghị viện thảo luận lại việc bất tín nhiệm nội các ( thủ tướng và các bộ trưởng ), Điều 50 của
bản Hiến Pháp này còn quy định chủ tịch nước không báo cáo công tác không chịu trách nhiệm gì
trước nghị viện trừ tội phản quốc...
=> Kết luận rằng qua những quy định cho thấy rõ ràng nghị viện trong Hiến Pháp 46 không phải là
cơ quan cao nhất, có toàn quyền mà hoàn toàn có thể bị kiểm soát bởi các nhánh quyền lực khác -
phân chia quyền lực, tam quyền phân lập MôngTexKiƠ.
- Hiến Pháp 1958 bắt đầu áp dụng tập quyền xã hội chủ nghĩa, biểu hiện của tập quyền là Quốc Hội
là cơ quan nhà nước có quyền lực cao nhất, chủ tịch nước chỉ còn giữ vai trò mờ nhạt hơn là người
đứng đầu đất nước nói chung chứ không còn nắm chỉnh phủ, hành pháp, không điều hành, quản lý
nhà nước và không có quyền kiềm chế, đối trọng với Quốc Hội và phải báo cáo công tác và chịu
trách nhiệm trước quốc hội.
- Hiến Pháp 1980, tập quyền XHCN được áp dụng triệt để và đỉnh cao, biểu hiện ở chỗ các nhà lập
hiến năm 80 đã nỗ lực và quyết tâm để xây dựng một quốc hội có toàn quyền, cụ thể là: Theo Hiến
Pháp năm 80, Quốc Hội không chỉ là cơ quan lập pháp, làm luật mà còn ôm đồm, bao biện, làm việc
thay cho các cơ quan nhà nước khác ( công việc quản lý của chính phủ, xét xử của toàn án ). Và đặc
biệt là điều 83 Hiến Pháp năm 80 trao cho Quốc Hội 15 loại quyền hạn rất lớn nhưng kết thúc của
điều 83 thì các nhà lập hiến quy định thêm một ý rằng: ‘ơ/ơ=Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn kể
trên thì Quốc Hội có thể tự định ra cho mình những quyền hạ./n khác nếu xét thấy cần. Bình luận
cái quyền định này: Với quy định này đã làm bản Hiến Pháp năm 80 trở nên vô nghĩa. Qua một thời
gian áp dụng tập quyền XHCN thì nguyên tắc này đã bộc lộ những yếu kém và hạn chế của nó về đề
cao Quốc Hội quá mức, như: Không phân công phân nhiệm rõ ràng cho nên  có sự chồng chéo lẫn
lộn về mặt chức năng  không mang lại hiệu quả công việc  đặc biệt với sự ôm đờm, bao biện thì
không thể quy kết trách nhiệm khi có sai phạm xảy ra; với tập quyền thì bộ máy nhà nước trở lên
cồng kềnh, tốn kém, quang liêu. Nói tóm lại, tập quyền XHCH đã bộc lộ một cái hạn chế rõ ràng: nó
có tư duy cảm tính vì người làm việc quá đề cao quốc hội nên dẫn đến việc gì cũng muốn giao cho
quốc hội  nhưng với khả năng và điều kiện của quốc hội không xứng đánh để đảm nhiệm những
công việc đó.
- Hiến Pháp 1992 xuất phát từ những hạn chế bất cập của tập quyền, nên HP 92 đã nhận thức lại tập
quyền XHCN và đã biết áp dụng, tiếp thu một số hạt nhân hợp lý của học thuyết phân quyền, điều
này được thể hiện ở quy tắc mới đó là quyền lực nhà nước là sự thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các việc lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nội dung của
quyên tắc này là Quốc Hội vẫn được xác định là cơ quan cơ nhất ( vì quyền lực nhà nước là không
thể phân chia, là một khối thống nhất của nhân dân và nhân dân đã trao cho Quốc Hội ). Tuy nhiên
cái sự phân công ở đây là, một khi Quốc Hội đã không quản lí đất nước được thì quốc hội lập ra
Chính Phủ thì Chính Phủ sẽ là cơ quan quản lý cao nhất và chủ động và chịu trách nhiệm trong việc
điều hành quản lý => Quốc Hội không ôm đờm, không can thiệp và làm thay công việc của các cơ
quan khác và các cơ quan khác phải báo cáo và chủ động, chịu trách nhiệm trước Quốc Hội. Và
trong quá trình làm việc thì các cơ quan nhà nước phải biết phối hợp với nhau để đi đến việc thực
hiện các chức năng và mục tiêu chung.
Cần LƯU Ý rằng: nguyên tắt phân công phố hợp quyền lực đã được Đảng và nhà nước ta nhận
thức và được áp dụng trong tổ chức hoạt động nhà nước từ năm 92 nhưng bản Hiến Pháp năm 92
chưa có những quy định, điều khoảng chính thức nào để quy định những nguyên tắc này  sau 10
năm áp dụng nguyên tắc này thì đến năm 2001, nghị quyết số 51 của Quốc Hội mới quyết định bổ
sung vào điều 2 của Hiến Pháp năm 92 - quyền lực là thống nhất có sự phân công phối hợp  Đảng
và nhà nước ta có thận trọng trong nguyên tắc này, đổi mới từ từ nhưng phải vững chắc.
- Hiến Pháp 2013, các nhà lập hiến đã tiếp tục bổ sung vào nguyên tắc này một nội dung mới, đó
là quyền lực nhà nước không chỉ dừng lại ở chỗ là sự thống nhất có sự phân chia và phối hợp mà
còn phải có sự kiểm soát lẫn nhau giữ các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Với quy định mới này chứng tỏ Việt Nam ta đã tiếp thu và áp dụng ngày càng
nhiều những hạt nhân hợp lý của học thuyết phân quyền ( đang từng bước phân quyền hóa từng
bước bộ máy nhà nước ). Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề mới, nhạy cảm và
được lần đầu tiên được quy định ở Hiến Pháp 13 vì thế cần nghiên cứu một cách nghiêm túc để
hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, kiểm soát Quốc Hội.
* Căn cứ vào Điều 69 của HP 2013 thì QH là cơ quan có 2 tính chất sau:
 QH được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân vì 4 lí do:
a) Cách thành lập: Quốc hội là cơ quan duy nhất trong bộ máy Nhà nước do nhân dân cả nước trực
tiếp bầu trong một cuộc phổ thông đầu phiếu  Quốc hội được nhân dân bầu ra để Quốc hội thay
mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước của nhân dân  dân chủ đại diện, dân chủ gián tiếp.
b) Cơ cấu thành phần: Theo quy định hiện nay, Quốc Hội bao gồm không quá 500 số lượng đại biểu
và phải đủ sức đại diện cho mọi thành phần dân cư trong cả nước, Quốc Hội phải là một tấm gương,
hình ảnh thủ nhỏ của cả dân tộc Việt Nam ( trong Quốc Hội phải có ít nhất 15% đại biểu là người
dân tộc thiểu số, phải có ít nhất 20% là đại biểu nữ, phải có một số lượng đại biểu nhất định đại diện
cho các tôn giáo, và một số đại biểu là người ngoài đảng, theo tôn giáo... )  Muốn như thế thì phải
cơ cấu thành phần khi bầu cử đại biểu Quốc Hội
 Muốn như thế thì phải có cơ cấu thành phần khi bầu đại biểu Quốc hội.
c) Về nhiệm vụ, quyền hạn: ĐBQH có 1 nhiệm vụ rất quan trọng đó là tiếp công dân và tiếp xúc cử
chi để thông qua hoạt động này đại biểu quốc hội sẽ lắng nghe thu thập tâm tư nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân và sẽ đem ra phản ánh tại kỳ họp của quốc hội, cùng nhau bàn bạc thảo luận tập
thể quyết định theo đa số để biến những tâm tư nguyện vọng ý chí của tầng lớp nhân dân thành nghị
quyết thành luật của Quốc hội  Luật nghị quyết của Quốc hội phải là ý chí của các tầng lớp nhân
dân được nâng lên thành thông qua vai trò của các ĐBQH.
d) Về báo cáo công tác và chịu trách nhiệm: ĐBQH phải báo cáo công tác và chịu trách nhiệm
trước cử chi và có thể bị cử tri bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với niềm tin của cử tri
 Cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước CHXHCNVN.
 Xuất phát từ nguyên tắc tập quyền XHCN  hiện nay tập quyền đã bị nhận thức lại nhưng dấu
ấn vẫn còn tồn tại.
- Tính quyền lực cao nhất của Quốc hội được thể hiện ở những phương diện sau:

 Quốc hội là cơ quan có quyền lập hiến, quyền lập pháp.


 Quốc hội có quyền thành lập ra các cơ quan Nhà nước khác ở trung ương và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước.
 Quốc hội có quyền giám sát tối cao.
 3 phương diện này cũng là 3 chức năng của Quốc hội và được cụ thể hóa thành 15 loại nhiệm vụ,
quyền hạn được quy định tại Điều 70 của HP 2013.
II. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA QUỐC HỘI (Điều 70 của HP 2013)
1. Trong lĩnh vực lập hiến, lập pháp
a) Nội dung của chức năng này: theo quy định của Điều 70 của HP 2013 thì Quốc hội là cơ quan
thực hiện quyền lập hiến, lập pháp.
Quyền lập hiến - Thông qua HP, thông qua các đạo luật
Quyền lập pháp - Sửa đổi, bổ sung HP và các đạo luật
- Quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh (kế hoạch làm luật)
Các đạo luật do Quốc hội ban hành Bộ luật
Luật đơn hành
Luật và bộ luật

2 giống 1 khác
- Đều do Quốc hội ban hành. - Qui mô, cơ cấu, số lượng chương, điều: Bộ
- Đều có giá trị luật như nhau. luật có qui mô cơ cấu lớn hơn, nhiều chương,
nhiều điều hơn so với luật đơn hành.

- Để giúp và hỗ trợ cho Quốc hội thực hiện chức năng này thì Điều 84 của HP 2013 có quy định về
quyền sáng kiến lập pháp
Trình kiến nghị về luật
Sáng kiến lập pháp
Trình dự án luật
Nội dung Trình kiến nghị sự về luật: là đề nghị Quốc hội thông qua sửa đổi một luật gì đó trong thời
gian tới chỉ có đại biểu của họ mới có quyền trình kiến nghị về luật trước quốc hội
Nội dung Trình dự án luật: là các chủ thể đã xây dựng xong một dự án luật hoàn chỉnh rồi trình dự
án cho quốc hội xem xét thảo luận thông qua. Chủ thể của quyền này theo điều 83 được chia thành 3
nhóm:
 Các cơ quan tổ chức bên trong của quốc hội bao gồm: Ủy ban thường vụ, Hội đồng dân tộc, các
Ủy ban chuyên môn, đoàn đại biểu Quốc hội và từng cá nhân đại biểu Quốc hội.
 Các cơ quan Nhà nước khác ở Trung ương: Chủ tịch nước, Chính phủ (thủ tướng và các bộ
trưởng) (Nhóm viết luật chủ yếu ở VN hiện nay (hơn 9%)), TANDTC, VKSNDTC, Kiểm toán NN
 Cơ quan Trung ương của 6 tổ chức chính trị - xã hội gồm: Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt
Nam, Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản, Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ, Liên đoàn lao động,
Ban chấp hành Trung ương…Cựu chiến binh  6 cơ quan đó có quyền chủ trì, viết luật, viết dự án.
b) Điểm mới của chức năng này trong HP 2013 so với HP 1992
 Có 2 điểm mới
Chức năng Lập hiến, lập pháp

HP 1992 HP 2013
 Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập  Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập
hiến, lập pháp hiến, quyền lập pháp
Bỏ đi 2 chữ “duy nhất”

Với việc bỏ đi 2 từ “duy nhất” thì HP 2013 đã diễn đạt vấn đề này nhẹ nhàng, tương đối, hợp lí hơn
vì 2 lí do:
1) Không thể nói Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến: Vì đa số các nước trên thế giới có
quan niệm phổ biến khi cho rằng việc làm và thúc đẩy nhân dân vì HP phải là công cụ trong tay
người dân để kiểm soát Nhà nước. Ở nước ta hiện nay trong điều kiện hoàn cảnh thực tế: an ninh,
chính trị, kinh tế nghèo, dân trí thấp,… nên người dân không thể trực tiếp thông qua cuộc trưng cầu
dân ý, cho nên người dân tin tưởng tạm giao cho Quốc hội thay mặt người dân thực hiện quyền lập
hiến  Quyền lập hiến của Quốc hội là tạm thời. Nghĩa là, khi người dân đủ điều kiện thực hiện
trưng cầu dân ý thì quốc hội phải trả quyền lại cho nhân dân  Không thể nói Quốc hội là có quyền
“duy nhất” được.
2) Cũng không nên quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp: Vì lập pháp là quy
trình phức tạp với nhiều công đoạn, chủ thể tham gia vào: phải có kiến nghị về luật, phải có người
xây dựng dự án luật, phải đem ra cho các nhà khoa học, chuyên gia, tầng lớp nhân dân đóng góp ý
kiến, thẩm tra về luật,… Quốc hội chỉ là cơ quan thảo luận và quyết định cuối cùng, thông qua luật
Không thể nói Quốc hội là cơ quan “duy nhất” được.
CẦN LƯU Ý: Lập pháp ở nước ta hiện nay chỉ được hiểu là thông qua luật (lập pháp khác làm
luật), làm luật nhiều khâu: kiến nghị, dự án, ý kiến đóng góp, thẩm tra, thông qua.

HP 1992 HP 2013
 Quốc hội có quyền lập hiến và  Quốc hội có quyền thực hiện quyền lập hiến, quyền lập
lập pháp pháp
 Xem lập hiến và lập pháp chỉ là  Rút kinh nghiệm này, HP 2013 đã thực hiện quyền lập
1 quyền. Cách quy định này nguy hiến, quyền lập pháp. Theo đó quyền lập hiến thuộc về nhân
hiểm ở chỗ: nó đánh đồng quyền dân, nhưng ở Việt Nam nhân dân chưa trực tiếp thực hiện
lập hiến với quyền lập pháp  quyền này, mà giao cho Quốc hội làm thay. Còn quyền lập
Đánh đồng giữa hiến pháp với pháp thuộc về Quốc hội  cần có sự phân biệt rõ ràng giữa
thường luật mà không có sự ngăn hiến pháp và thường luật  Hiến pháp phải là bản khế ước
bạch. Hiến pháp phải khác với luật hợp đồng và là công cụ trong tay người dân để quản lí nhà
thông thường  Vô tình biến hiến nước.
pháp thành công cụ quản lý dân  Quyền lập hiến là quyền nguyên thủy, đầu tiên, cơ bản,
trong tay nhà nước như thường phải thuộc về nhân dân. Từ quyền lập hiến mới ấn định 3
luật, không có gì khác nhau  quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
không phù hợp với quan điểm  Cách hiểu này được coi là phù hợp với văn minh nhân
chung của các quốc gia trên thế loại  Hiến pháp là đạo luật mang tính nhân văn sâu sắc.
giới.

c) Thực tế thực hiện chức năng này


Trên thực tế ở nước ta hiện nay mặc dù điều 84 của HP 2013 quy định là rất nhiều chủ thể có quyền
trình dự án luật ra trước quốc hội nhưng thực tế ở nước ta hiện nay hơn 95% dự án luật là được viết
được xây dựng bởi chính phủ thông qua các bộ, các ngành cấu thành nên chính phủ. Còn chủ thể
đáng kỳ vọng để viết dự án luật là đại biểu quốc hội với 0% (hoàn toàn trái ngược với Mỹ, ở Mỹ
100% dự án luật do nghị sĩ viết và là người duy nhất có quyền trình dự án luật) do chế độ làm việc.
Nhìn chung việc giao một dự luật cho chính phủ xây thì cũng có những ưu điểm nhất định:
+ Chính phủ là cơ quan quản lý trong lĩnh vực đó cho nên chính phủ rất am hiểu về lĩnh vực đó và
chuyên môn nên khi làm luật sẽ có sự chính xác
+ Chỉ có chính phủ mới có đủ nhân lực, kiệt lực, đội ngũ chuyên gia, con người, tiền bạc để mà làm
luật vì quy trình làm luật là một quy trình cực kỳ tốn kém
Bên cạnh những ưu điểm thì có những nhược điểm, nguy cơ:
+ Các bộ các ngành dễ có tâm lý, cơ hội để cài cắm lợi ích riêng tư của bộ, của ngành mình vào
trong dự luật ( cục bộ ngành, lợi ích nhóm )
+ Nếu giao 1 dự luật cho bộ xây thì làm vô hiệu hóa quốc hôi, ý chí của các tầng lớp nhân dân
không được đảm bảo trong các dự luật
* Giải pháp
+ Cần nghiên cứu ở Việt Nam nên cho đấu thầu trong việc xây dựng các dự án luật
+ Quốc hội có thể cho 2, 3 cơ quan để xây dựng 2, 3 dự án luật độc lập khác nhau  sau đó ra quốc
hội thì quốc hội sẽ lựa chọn dự án luật có chất lượng tốt nhất để thông qua  tăng tính cạnh tranh,
phá vỡ thế độc quyền và tránh tình trạng lợi ích nhóm, quốc hội có nhiều cơ hội lựa chọn và không
áp lực bở cơ quan soạn thảo (hiện nay, quốc hội chỉ có 1 dự luật duy nhất nên rất bị áp lực vì nếu
chần chừ không chịu tham gia thì sẽ bị chậm trễ, không có dự luật thông qua).
2. Trong lĩnh vực thành lập ra các cơ quan nhà nước khác ở trung ương và giải quyết những
vấn đề quan trọng khác của đất nước
a) QH quyết định thành lập các CQNN khác ở TW theo quy trình sau:
Khi có Thủ tướng Chính phủ phải thực hiện quy trinh 3 bước để thành lập các Phó thủ tướng,
các bộ trưởng và các cơ quan ngang bộ.
Thủ tướng phải thực hiện 3 bước sau đây để bầu ra các Phó thủ tướng:
 Thủ tướng lập 1 danh sách các Phó thủ tướng, các bộ trưởng và các thủ trưởng cơ quan ngang bộ
để đề nghị Quốc hội phê chuẩn, bổ nhiệm (những người này không nhất thiết phải là đại biểu Quốc
hội).
 Quốc hội tiến hành bỏ phiếu và ra Nghị quyết phê chuẩn, bổ nhiệm (Quốc hội không bầu mà phê
chuẩn, bổ nhiệm).
Bầu ≠ Phê chuẩn:
Bầu: cho danh sách các ứng viên  Quốc hội sẽ bầu chọn
Phê chuẩn: những người này đã được Thủ tướng chọn và không bầu cử, ứng cử. Quốc hội
chỉ đồng ý hay không với một ứng cử viên đã được chọn.
 Sau khi đã có Nghị quyết phê chuẩn, bổ nhiệm của Quốc hội thì Chủ tịch nước sẽ kí các quyết
định bổ nhiệm.
Câu hỏi: Tại sao thành lập bộ trưởng phải trải qua 3 bước
Trả lời: Vì mỗi bước đều có mục đích và ý nghĩa riêng
- Bước 1 Thủ tướng chọn có 2 lí do:
+ Những người cộng sự cấp dưới của thủ tướng nên phải để thủ tướng chọn những người “Tâm đầu ý hợp” để có được
1 đội ngũ làm việc trôi chảy, thuận lợi ( Những người này hiểu được nỗi lòng của thủ tướng) .
+ Đảm bảo vị thế, tiếng nói và sự chỉ đạo, điều hành của thủ tướng đối với các phó thủ tướng, bộ trưởng (Những
người này phải nghe và thực hiện).
- Bước 2 Quốc Hội phê có 2 lí do
+ Tránh sự tuỳ tiện, lạm quyền của thủ tướng, hình thức để kiểm soát thủ tướng.
+ Đảm bảo các bộ trưởng phải chấp hành và thi hành các đường lối chủ trương trong hiến pháp, luật và nghị quyết của
Quốc Hội.
- Bước 3: Chủ tịch nước có 2 lí do
+ Chữ kí của chủ tịch nước nhằm hợp thức hóa về mặt nhà nước, một hoạt động đã rồi của Quốc Hội và thủ tướng 
Có tính chất lễ nghi và thủ tục.
+ Chữ kí của chủ tịch nước nhằm giữ vai trò điều hoà, phối hơp, nối kết hoạt động giữa các cơ quan nhà nước ở trung
ương với nhau (Bài chủ tịch nước sẽ làm rõ).

Khi Chánh án TANDTC đã được bầu thì ông sẽ tiến hành chọn Thẩm phán TANDTC và Phó
chánh án.
Đối với các Thẩm phán, Chánh án phải thực hiện các qui trình:
 Chánh án lập danh sách những người đủ điều kiện tiêu chuẩn trở thành Thẩm phán để trình Quốc
hội phê chuẩn.
 Quốc hội bỏ phiếu kín và ra Nghị quyết phê chuẩn.
 Sau khi Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước kí quyết định phê chuẩn.
 Trong 3 bước thì Bước 2 là điểm mới trong HP 2013 và Luật tổ chức Tòa án 2014. Trước 2013
để trở thành Thẩm phán chỉ cần Chánh án chọn và Chủ tịch nước kí là được.
Khi có Viện trưởng VKSNDTC.

 Trình danh sách những người đủ điều kiện tiểu chuẩn để Chủ tịch nước kí quyết định bổ nhiệm
vào chức vụ Kiểm sát viên của VKSNDTC.
 Sau đó Viện trưởng VKSNDTC sẽ chọn những người đầy đủ các điều kiện, tổ chức có chức vụ
ngang nhau và đưa cho Chủ tịch nước kí quyết định bổ nhiệm.

Câu hỏi: Tại sao để trở thành thẩm phán TANDTC từ 2013 đến nay phải được Quốc Hội phê ?

- Để trở thành thẩm phán của TANDTC đòi hỏi người đó phải vừa có tài vừa có đức (“tài” ở chỗ phấn đấu, tích luỹ
kinh nghiệm để đạt hết các điều kiện tiêu chuẩn do luật định, “đức” ở chỗ có danh dự, có uy tín và được sự tín nhiệm
của Quốc Hội thông qua lá phiếu phê chuẩn)  Khi các thẩm phán tối cao xét xử và ra phán quyết mới có tính thuyết
phục cao và được xã hội tôn trọng.

*** Một số LƯU Ý quan trọng:


1) Điểm mới của HP 2013 là có quyết định một chương riêng về các thiết chế quyết định độc lập đó
là: Tổng kiểm toán Nhà nước và Hội đồng bầu cử quốc gia. Theo đó ý đồ của các nhà lập hiến khi
thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia là muốn cơ quan này hoạt động thường xuyên, chuyên trách,
chuyên nghiệp như mô hình các nước trên thế giới, hướng đến nâng cao chất lượng bầu cử, chất
lượng đại biểu dân cử. Vì vậy, hiến pháp quyết định Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia không nhất
thiết là đại biểu Quốc hội cho khách quan (trước 2013 khi nào có bầu cử, ta mới lập Hội đồng bầu
cử tạm thời để phụ trách, bầu cử xong sẽ giải tán  không chuyên trách, không hiệu quả). Tuy
nhiên, trên thực tế từ khi thành lập Hội đồng bầu cử đến nay vì mô hình còn mới, công việc chưa
nhiều, nếu lập thêm 1 cơ quan chuyên trách sẽ dẫn đến việc cồng kềnh, tốn kém  Vì vậy, Đảng và
Nhà nước mới linh hoạt áp dụng mô hình Chủ tịch Quốc hội đương nhiệm đồng thời là Chủ tịch Hội
đồng bầu cử quốc gia.
2) 1 điểm mới nữa trong HP 2013 là quyết định 4 chức danh sau đây:
- Sau khi Quốc hội bầu ra thì phải đọc lời tuyên thề, nhận chức trước Quốc hội. Thề là sẽ trung
thành với Tổ quốc, nhân dân, hiến pháp.

 Chủ tịch nước


 Thủ tướng chính phủ
 Chủ tịch quốc hội
 Chánh án toàn án nhân dân tối cao
- Ý nghĩa của lời thề:
+ Nhằm vinh danh những người này, coi việc được Quốc hội bầu là một việc lớn lao, ghi nhận thành
quả và uy tín của những người đó.
+ Nhằm để ràng buộc trách nhiệm, đã nói phải giữ lời, như là 1 điều để sau này người ta đối chiếu
lại với lời nói  Đó là cơ sở để người đó có được leo chức cao hơn hay không, hay phải từ chức
nghỉ việc.
- Cần phân biệt các thuật ngữ pháp lý sau:
+ Bầu: Hoạt động của một tập thể người để thành lập một chức danh, thể hiện niềm tin của tập thể
 Chủ thể là tập thể người. VD: Quốc hội 500 người, hội đồng nhân dân. Bỏ phiếu bầu rồi ra nghị
quyết bỏ phiếu bầu
+ Miễn nhiệm: Hệ quả pháp lý của 1 chức danh do tập thể bầu ra, nhưng do những lý do khách
quan như sức khoẻ, đảm nhận chức vụ khác.. mà không thể tiếp tục công tác thì sẽ được tập thể bầu
ra miễn nhiệm.
+ Bãi nhiệm: Hệ quả pháp lý của 1 chức danh do tập thể bầu ra, nhưng do những lý do chủ quan
như sai phạm, không có năng lực… sẽ bị tập thể bầu ra BÃI NHIỆM
+ Bổ nhiệm: Ý chí của một người, là hoạt động của thủ trưởng è chủ thể là người đứng đầu: Chủ
tịch, bộ trưởng…
Người được cá nhân bổ nhiệm trong quá trình thi hành nghĩa vụ vì lý do khách quan không thể tiếp
tục công tác sẽ được miễn nhiệm, còn nếu vì những lý do sai phạm sẽ bị cá nhân bổ nhiệm mình
cách chức.
*Lưu ý: Ở Việt Nam trên thực tế do tâm lý trọng tình nên các cơ quan nhà nước đã có những hành
xử không có đúng với quy định pháp luật: Quan chức có hành vi sai trái và lẽ ra phải chịu hình thức
bãi nhiệm hoặc cách chức  Nặng nề  Vì vậy các cơ quan NN thường lập luận rằng: sai nhưng
bảo là sai nhẹ  Đề nghị người đó làm đơn xin từ chức  Cuối cùng sẽ được áp dụng hình thức
miễn nhiệm cho nhẹ nhàng
b) Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
- Xem các khoảng sau đây: 3,4,5,11,12,13,14,15 của điều 70 HP 2013 để biết Quốc hội quyết định
cái gì.
LƯU Ý
+ Hiện nay các nhà lập làm luật chỉ quyết định một cách chung chung, không rõ ràng, cụ thể những
vấn đề gì, quan trọng đến mức nào thì mới do Quốc hội quyết  Pháp luật chỉ quyết định theo định
tính và quyết định quá chung chung không cụ thể rõ ràng các chủ thể khác hoàn toàn có thể lợi dụng
việc này để thao túng, qua mặt Quốc hội. Trên thực tế, có những chuyện không quan trọng hoặc
quan trọng không đến mức phải đưa ra Quốc hội bàn  Nhưng người ta vẫn đưa ra Quốc hội (để
nếu Quốc hội tập trung vào tranh cãi, bàn đến những vấn đề này sẽ không còn thời gian vào những
chuyện quan trọng xứng tầm với Quốc hội nữa).
+ Theo quyết định của điều 70 HP 2013 thì Quốc hội có quyền đại xá, đặc xá, ân xá.
Sự khác biệt giữa đại xá, đặc xá, ân xá.
- Đại xá: thẩm quyền Quốc Hội, Quốc Hội ra nghị quyết, chủ tịch nước công bố. Bản chất là miễn
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với 1 loạt tội phạm nhẹ (lỗi vô ý và các tội xâm phạm giao thông)
vào những dịp rất long trọng của đất nước. VD: Từ khi thành lập nước đến nay có 2 lần đại xá là
1946: thành lập nước và 1976: thống nhất đất nước.
- Đặc xá: Chủ tịch nước kí quyết định đặc xá theo tư vấn của ban quản lý trại giam. Đặc xá là tha tù
trước thời hạn đối với những phạm nhân có cải tạo tốt và có hoàn cảnh đặc biệt
- Ân xá: Chủ tịch nước kí quyết định ân xá, là trường hợp người phạm tội bị kết án tử hình mới làm
đơn xin chủ tịch nước tha cho tội chết  Biện pháp khoan hồng và nhân đạo của nhà nước dựa trên
triết lý “mạng sống con người là quan trọng”  Giảm xuống thành tù chung thân.

3. Trong lĩnh vực giám sát tối cao


a) Đối tượng của giám sát tối cao
Quốc hội giám sát tối cao là giám sát hoạt động Nhà nước một cách chung chung và chia đối tượng
giám sát tối cao làm 2 tình huống:
(1) Quốc hội giám sát tối cao trực tiếp tại kì họp  tầng cao nhất của Bộ máy nhà nước từ bộ trở
lên

 UBTVQH, Hội đồng dân tộc, các UB chuyên môn.


 Hoạt động của Chủ tịch nước, Chình phủ (các bộ, các ngành cấu thành).
 TANDTC, VKSNDTC, Tổng kiểm toán NN, Hội đồng bầu cử quốc gia.
 Các cơ quan ≠ do Quốc hội thành lập
(2) Quyền giám sát chung ngoài kì họp (giám sát gián tiếp thông qua các bộ phận, thiết chế bên
trong của Quốc hội)  Phần còn lại từ Bộ trở xuống.
b) Biện pháp mà Quốc hội sử dụng để giám sát tối cao
* Thông qua các biện pháp
(1) Xét báo cáo công tác  Chủ tịch nước, Chính phủ (các bộ, các ngành), Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán Nhà nước.
=> Những cơ quan này sẽ báo cáo công tác trước Quốc hội.
(2) Xem xét văn bản Quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước thuộc cơ quan ϵ đối tượng giám
sát tối cao có phù hợp với Nghị quyết do Quốc hội ban hành hay không.
- Hầu hết các nước trên thế giới trao hoạt động xem xét này cho Toán án với lập luận cho rằng Toà
án là cơ quan áp dụng pháp luật nên Tòa án phải có chức năng hợp…
- Nhưng do người Việt Nam tâm lí tập quyền, đề cao Quốc hội nên chúng ta lại không trao cho Tòa
án quyền này, mà lại trao cho Quốc hội  Quốc hội không chuyên môn, không có thời gian; nên
hầu như Quốc hội không thực hiện quyền này  trao nhầm chức năng. Quốc hội có giao cho cơ
quan khác làm, nhưng không hiệu quả.
(3) Quốc hội sẽ thành lập Ủy ban điều tra lâm thời để giám sát tại chỗ: bằng cách này thì mỗi khi
nghe cử tri có bức xúc, phản ánh về những can sai tiêu cực tại 1 địa phương nào đó  trăm nghe
không bằng mắt thấy, không được quan liêu.
 Biện pháp này hiện nay đang được Quốc hội sử dụng nhiều  thể hiện sự sâu sát của Quốc hội.
(4) Chất vấn: có thể coi rằng đây là biện pháp khá hiệu quả vì vậy kì họp nào Quốc hội cũng dành
ra thời lượng thích đáng cho việc chất vấn và trả lời chất vấn. Chất vấn nhìn chung cũng là 1 dạng
hỏi đáp nhưng nó hoàn toàn khác với yêu cầu, kiến nghị, hỏi đáp thông thường ở 1 số tiêu chí sau
đây:
* Đại biểu Quốc hội hiện nay được trao cho 2 quyền: yêu cầu kiến nghị và chất vấn. Đều liên quan
đến hỏi đáp nhưng lại có những điểm rất khác nhau.

Yêu cầu kiến nghị Chất vấn


ĐBQH có thể thực hiện ĐBQH chỉ được áp dụng với những chủ thể sau:
quyền yêu cầu kiến nghị Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng và
Đối tượng đối với bất cứ cơ quan, tổ các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án
chức, cá nhân nào mà đại TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC và Tổng kiểm
biểu yêu cầu. toán Nhà nước.
 Đều là thủ trưởng, người đứng đầu cơ quan, tổ
chức; không chất vấn cấp phó và ủy viên.

Để biết/ tìm kiếm/ có Quy kết trách nhiệm, làm sáng tỏ trách nhiệm, và
Mục đích thông tin người đó có cách thức, giải pháp gì để khắc phục
những hậu quả đó  vì vậy mà chỉ có người đứng
đầu.

Một bên có quyền hỏi, Một bên yêu cầu giải trình thì bên kia phải trả lời.
quyền yêu cầu nhưng bên Và phải trả lời cho tất cả mọi người nghe và mọi
Bản chất kia không bắt buộc trả lời người cũng có thể chất vấn (nếu đối tượng bị chất
(có hoặc không). Nếu có vấn cần thêm thời gian điều tra, nghiên cứu thì có
phải trả lời thì phải trả lời thể xin QH cho trả lời tại kì họp sau hoặc trả lời
riêng cho người yêu cầu bằng văn bản cho đại biểu có câu chất vấn. Sau khi
câu hỏi đó. nhận được câu trả lời mà không hài lòng thì đại biểu
Quốc hội có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ mang
cái này đem ra bắt trả lời tại kì họp gần nhất.

Nhìn chung không có hậu Có hậu quả: việc trả lời chất vấn của các đối tượng
Hậu quả pháp quả gì, hỏi cho biết mà chính là cơ sở để Quốc hội đo lường niềm tin, lấy
lý thôi. phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm. Trong lúc cần
thiết, Quốc hội sẽ ra nghị quyết bày tỏ thái độ về
việc trả lời chất vấn.

Một vài nhận xét về hoạt động chất vấn tại Quốc hội:
- Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc chất vấn của Quốc hội hiện nay còn gặp nhiều bất cập.
- Các quy định của pháp luật về chất vấn chưa hoàn thiện và chưa thực sự đầy đủ, củ thể là: Pháp
luật hiện hành không quy định những trường hợp nào đối tượng chất vấn được từ chối trả lời. VD:
những vấn đề bí mật quốc gia hay vấn đề cá nhân, và những quy định của pháp luật về hậu quả của
chất vấn là chung chung, không cụ thể. VD: Trong trường hợp cần thiết, Quốc hội có thể bày tỏ thái
độ của mình về việc trả lời chất vấn  Vì quá chung chung nên từ trước đến giờ Quốc hội chưa ra
Nghị quyết để bày tỏ thái độ với ai hết.
 Vấn đề xử lý hậu chất vấn ở Việt Nam chưa được triệt để.
c) Những hậu quả pháp lý mà Quốc hội có thể áp dụng cụ thể trong quá trình giám sát tối cao
(Quốc hội sẽ phát hiện cái sai) và xử lý cái sai đó như thế nào?
Nhìn chung, có 2 khả năng:
* Khả năng 1
-Trong quá trình giám sát tối cao, Quốc Hội phát hiện ra những văn bản sai (Văn bản của những chủ
thể mà thuộc đối tượng giám sát tối cao của Quốc Hội có dấu hiệu trái với Hiến Pháp, Luật, nghị
quyết của Quốc Hội hay nói khác đi là nếu chủ tịch nước, chính phủ, toà án ND tối cao mà trái với
quy định Quốc Hội thì Quốc Hội có quyền nghị quyết bãi bỏ những văn bản đó
-Bãi bỏ chứ không huỷ bỏ vì huỷ bỏ được hiểu là tự xử là tự mình bỏ những văn bản do chính mình
ban hànhè Quốc Hội tự huỷ bỏ văn bản của mình
-Bãi bỏ là quyền của cơ quan, chủ thể này áp dụng với chủ thể khác trong phạm vi giám sát của
mình
* Khả năng 2
- Trong quá trình giám sát tối cao, Quốc Hội phát hiện ra những hành vi sai trái thì Quốc Hội sẽ tiến
hành miễn nhiệm, bãi nhiệm
- Quốc Hội phê chuẩn cách chức đối với những chức danh do Quốc Hội phê chuẩn bổ nhiệm
- Đặc biệt từ năm 2001 đến nay, trong quá trình giám sát tối cao, Quốc Hội còn có quyền bỏ phiếu
tín nhiệm đối với những chức danh do Quốc Hội bầu, phê chuẩn. Và từ năm 2015 đến nay, Quốc
Hội còn có quyền lấy phiếu tín nhiệm những chức danh do Quốc Hội phê chuẩn
Bỏ phiếu tín nhiệm: Lần đầu được áp dụng ở Việt Nam từ 2001 và hiện nay được quy định tại Điều
13 của Luật tổ chức Quốc hội 2015.
1. Thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm (Điều 13 của Luật tổ chức Quốc hội 2015)
- Nếu như có yêu cầu của 1 trong 4 chủ thể sau: Ủy ban thường vụ, Hội đồng dân tộc Quốc hội, các
Ủy ban chuyên môn Quốc hội, ít nhất 20% đại biểu Quốc hội yêu cầu (ít nhất 100 đại biểu trở lên).
- Đối tượng bị yêu cầu là những chức danh nào do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Dựa trên niềm tin,
bỏ phiếu tín nhiệm là cách chức để đo lường niềm tin.
- Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ mang việc bỏ phiếu tín nhiệm ra tại Quốc hội để trình bày lí do,
cho người bị bỏ phiếu tín nhiệm được phát biểu nói lời sau cùng.
- Quốc hội tiến hành bỏ phiếu kín và kiểm phiếu. Nếu người đó vẫn quá bán tín nhiệm (251/500) thì
người đó vẫn tiếp tục giữ ghế. Nếu không được quá bán tín nhiệm thì Quốc hội tuyên bố bất tín
nhiệm, người đó phải làm đơn xin từ chức, nếu không chịu từ chức thì người nào đề nghị Quốc hội
bầu sẽ đứng ra đề nghị miễn nhiệm hoặc phê chuẩn miễn nhiệm.
Bài tập áp dụng:
Cơ quan, người có thẩm quyền sẽ giải quyết như thế nào trong những tình huống sau:
Tình huống 1: Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt nam thu 30% số phiếu tín nhiệm Quốc hội mà không làm đơn xin
từ chức.
Tình huống 2: Viện trưởng VKSNDTC thu 40% số phiếu tín nhiệm Quốc hội mà không làm đơn xin từ chức.
Tình huống 3: Phó chánh án TANDTC thu 20% số phiếu tín nhiệm Quốc hội mà không làm đơn xin từ chức.
Thì ai sẽ đứng ra xử lí cho những người này từ chức?
1) 3 bước
B1: Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn miễn nhiệm.
B2: Quốc hội ra nghị quyết miễn nhiệm.
B3: Chủ tịch nước ký quyết định.
2) 2 bước
B1: Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội miễn nhiệm.
B2: Quốc hội ra nghị quyết miễn nhiệm.
3) Không có bước nào  đề sai vì Phó chánh án không do Quốc hội bầu, phê chuẩn nên không thể bỏ phiếu tín nhiệm.

Ý NGHĨA
Bỏ phiếu tín nhiệm là một văn minh chính trị, giúp Quốc hội chủ động hơn trong việc xử lí các quan
chức và qua đó giúp các quan chức tăng cường trách nhiệm trước Quốc hội.

Trước năm 2001 2001 đến nay


Cơ chế bãi nhiệm Cơ chế tín nhiệm
- Quốc hội bị động - Quốc hội chủ động
- Quan chức vô trách nhiệm - Quan chức trách nhiệm

Bãi nhiệm là một loại trách nhiệm Tín nhiệm là trách nhiệm chính trị (niềm
Tính chất pháp lý (áp dụng với những người tin, không cần sai trái).
có hành vi sai trái).

Phải có hành vi sai, phải đủ các Niềm tin của số đông và niềm tin đó
Cơ sở quy kết yếu tố cấu thành tội phạm có được đo lường bằng lá phiếu, bằng bầu
chứng cứ để chứng minh. cử. Bỏ phiếu là cách đo lường niềm tin.

Phải được tiến hành theo quy Đem ra bỏ phiếu tại nghị trường rồi
Thủ tục quy kết trình tố tụng, điều tra tìm ra tội kiểm phiếu. Quá bán tín nhiệm  tiếp
phạm, chứng cứ, cáo trạng để tố tục, không quá bán  nộp đơn từ chức.
cáo, tranh luận, tranh tụng, ra
phán xét.

Phải là chức năng của tư pháp Là chức năng, sở trường của Quốc hội
Chủ thể quy kết (quan tòa, thẩm phán,…) chứ (Quốc hội muốn bầu ai cũng là bỏ
không phải là chức năng của phiếu)  Quốc hội mà bỏ phiếu tín
Quốc hội, mà giao nhầm chức nhiệm  Quốc hội có trách nhiệm, nên
năng cho Quốc hội  kết quả là quan chức mới sợ.
Quốc hội không bãi nhiệm được
ai.

 Một nghịch lý trong cuộc sống là hễ có làm thì sẽ có sai, mà làm sai thì sẽ bị mất ghế, bị bãi
nhiệm. Mà muốn không có sai thì không làm gì cả  người nào vô trách nhiệm thì lại giữ ghế được
lâu ….
- Thực tế thực hiện bỏ phiếu tín nhiệm hiện nay.
Bỏ phiếu tín nhiệm được coi là một văn minh chính trị, được áp dụng trên thế giới từ thế kỉ 18 đến
nay, nước Anh là nước đã khai sinh ra. Hiện nay trên thế giới được người ta áp dụng rất phổ biến.
Còn ở Việt Nam thì đến năm 2001 chúng ta mới áp dụng, nhưng vì quyền này mới, nhạy cảm, nếu
áp dụng không khéo thì các đại biểu Quốc hội kết bè, vận động kết phiếu làm lật đổ Bộ trưởng, làm
bất đồng đất nước. Vì vậy, chúng ta đã quy định rất thận trọng và khắt khe.
 Đại biểu Quốc hội tín nhiệm ai, âm thầm viết đơn (đơn chính danh, ký tên)  âm thầm chuyển
đơn  Ủy ban thường vụ Quốc hội âm thầm thu thập 100 phiếu trở lên (ít nhất 20%)  đưa người
bị yêu cầu ra Quốc hội bỏ phiếu.
Trước giờ, không ai viết đơn cả  Quốc hội không bỏ phiếu tín nhiệm được ai cả.
- Thực tế ở Việt Nam không ai viết đơn, Quốc hội không bỏ phiếu được ai, thậm chí nhiều đại biểu
Quốc hội còn bị xử lí kỉ luật vì hô hào, la ó um xùm gây ra những bức xúc và dư luận trong dân
chúng. Để xoa dịu dư luận này thì HP2013 và Luật tổ chức Quốc hội 2014 đã đặt ra 1 quy định mới
Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm để hỗ trợ cho việc bỏ phiếu tín nhiệm có tính khả thi hơn, thực tế hơn.
Lấy phiếu tín nhiệm (Điều 12 của Luật tổ chức Quốc hội 2014)
Lấy phiếu tín nhiệm Bỏ phiếu tín nhiệm
Đối với tất cả các chức danh nào được Tất cả những chức danh do Quốc
Quốc hội bầu hay phê chuẩn được ghi hội bầu hoặc phê chuẩn thì Quốc hội
trong Điều 12 của Luật tổ chức Quốc hội được quyền bỏ phiếu tín nhiệm.
2014 (khoản 1). Phải có yêu cầu của 1 trong 4 chủ
thể được quy định ở Điều 13 hoặc
chức danh nào do Quốc hội bầu
Đối tượng hoặc phê chuẩn mà khi đưa ra lấy
phiếu tín nhiệm tại Điều 12 mà có từ
2/3 tổng số đại biểu Quốc hội đánh
giá ở mức tín nhiệm thấp trở lên 
sẽ đưa chức danh đó ra bỏ phiếu tín
nhiệm.
 Có thể thấy rằng lấy phiếu tín
nhiệm là cơ sở để bỏ phiếu tín
nhiệm khả thi hơn.

- Là hoạt động được tiến hành một cách - Bỏ phiếu tín nhiệm không thường
thường xuyên, định kì, theo luật xuyên, không định kì, chỉ bỏ phiếu
- Lấy đồng loạt, lấy hết, không chừa 1 ai với ai được yêu cầu  sẽ có kì họp
(được quy định ở khoản 1 Điều 12). bỏ phiếu 2,3 trường hợp, còn có kì
- Theo quy định hiện nay, Quốc hội sẽ lấy họp lại không có cuộc bỏ phiếu nào.
phiếu tín nhiệm định kì vào kì họp thứ 6
của Quốc hội mỗi khóa (tức là hết 3 năm
hoạt động). Với lí giải cho rằng, phải hết
Cách thức tiến 3 năm hoạt động mới có cơ sở thực tiễn
hành để đại biểu Quốc hội đo lường niềm tin
một cách chính xác hơn và kết quả lấy
phiếu tín nhiệm là cơ sở để quy hoạch
cán bộ cho nhiệm kì tới. Tuy nhiên, nhiều
chuyên gia cho rằng lấy phiếu tín nhiệm
cho 1 lần duy nhất trong nhiệm kì thì quá
ít, lỡ ai bị tín nhiệm thấp, mãi mãi mang
tiếng tín nhiệm thấp, không có cơ hội
khắc phục. Vì vậy, cần lấy phiếu tín
nhiệm nhiều hơn.

- Kết quả cho ra có 1 kết quả là tất cả đều - Cho ra 2 khả năng khác nhau:
Thủ tục được tín nhiệm, nhưng lại chia ra 3 mức: 1/ Quá bán tín nhiệm.
 Tín nhiệm cao % 2/ Không quá bán tín nhiệm 
 Tín nhiệm % Quốc hội bất tín nhiệm.
 Tín nhiệm thấp %

- Nhìn chung, lấy phiếu tín nhiệm ban - Luôn luôn có hậu quả, nếu không
đầu lúc mới ra đời chỉ có giá trị tham được quá bán tín nhiệm thì Quốc hội
khảo  cảnh báo với các quan chức, để sẽ tuyên bố bất tín nhiệm phải làm
biết niềm tin của Quốc hội với mình như đơn xin từ chức. Nếu không làm đơn
thế nào để làm việc tốt hơn. Chỉ có người xin từ chức thì sẽ xử lí theo Điều 13.
nào có 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội tín  Bỏ phiếu tín nhiệm là văn minh
nhiệm thấp trở lên phải chịu hậu quả đem thế giới.
Hậu quả ra bỏ phiếu tín nhiệm  Trên thực tế
cũng chưa xảy ra trường hợp này bao giờ
(chỉ cần quá bán tín nhiệm thấp là bỏ
được rồi).
- Tuy nhiên hiện nay Đảng và Nhà nước
ta đã dần dần siết chặt lấy phiếu tín
nhiệm lại, nếu quy định người nào có
51% tín nhiệm thấp trở lên thì không cho
quy hoạch chức cao hơn, còn lại 2/3 tín
nhiệm thấp trở lên  không cho giữ chức
vụ này tiếp.

III. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA QUỐC HỘI


1. Ủy ban thường vụ Quốc hội
a) Tính chất
- Là cơ quan thường trực hoạt động thường xuyên được Quốc hội lập ra để thay mặt Quốc hội giải
quyết công việc lúc Quốc hội không họp. Nói khác đi vì Quốc hội nước ta là Quốc hội kiêm nhiệm
1 năm 2 kì. Mỗi kì họp khoảng 1 tháng  trung bình 1 năm họp 2 tháng, 10 tháng còn lại trong năm
thì Quốc hội không có họp. Vì thế cần phải có Ủy ban thường vụ để giải quyết những công việc phát
sinh giữa 2 kì họp của Quốc hội  Ủy ban thường vụ là cơ quan phát sinh từ chế độ làm việc không
thường xuyên (Nghị viện ở các nước tư sản không có Ủy ban thường vụ vì đây là một Nghị viện
chuyên trách, hoạt động thường xuyên, nghị sĩ không họp người ta vẫn được tiếp dân, tiếp xúc
thường xuyên).
b) Thành phần
- Ủy ban thường vụ hiện nay gồm 18 thành viên
+ Chủ tịch Ủy ban thường vụ
+ Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ
+ 13 ủy viên Ủy ban thường vụ
 Tất cả chức danh này đều do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo sự giới thiếu của Ủy ban
thường vụ khóa trước (với điều kiện đây là kì họp thứ nhất) đương nhiệm giữa 2 kì họp.
+ 13 ủy viên bao gồm: Chủ tịch Hội đồng dân tộc, 9 chủ nhiệm của 9 Ủy ban chuyên môn, Tổng thư
kí Quốc hội, Trưởng ban công tác đại biểu, Trưởng ban dân nguyện.
- Tất cả thành viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội chuyên trách không thể đồng thời là thành viên
của Chính phủ vì đã là 1 trong 18 này thì:
1) Vì tính chất của Ủy ban thường vụ là một cơ quan thường trực hoạt động thường xuyên nên thành
viên của Ủy ban thường vụ phải hoạt động chuyên trách, do Quốc hội nước ta là Quốc hội không
hoạt động chuyên trách cần Ủy ban thường vụ nên Ủy ban thường vụ phải chuyên trách.
2) Trong lúc Quốc hội không họp thì Ủy ban thường vụ có trách nhiệm giám sát hoạt động của
Chính phủ. Để sự giám sát được khách quan thì chủ thể đi giám sát đồng thời không thể là đối
tượng bị giám sát.
3) Quy định này thể hiện một tư duy mới, phân công rành mạch giữa lập pháp, hành pháp và bất khả
kiêm nhiệm.
c) Nhiệm vụ, quyền hạn
Về mặt nhân sự
- UBTV được quyền giới thiệu các chức danh sau đây cho Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm:
Chủ tịch Quốc hội, Phó chủ tịch Quốc hội, ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng
dân tộc, chủ nhiệm Ủy ban thường vụ Quốc hội, Tổng thư kí Quốc hội, Chủ tịch nước (những chức
danh này phải là 1 trong số các đại biểu Quốc hội).
- Phê chuẩn:
+ UBTV được quyền phê chuẩn, quyền bổ nhiệm địa sứ đặc mệnh toàn quyền ở nước ngoài và các
tổ chức quốc tế (Thủ tướng đề nghị UBTV phê, rồi Chủ tịch nước ký).
+ UBTV còn được quyền phê chuẩn kết quả bầu đối với tất cả chủ tịch và phó chủ tịch cấp tỉnh.
+ UBTV được quyền ra nghị quyết giải tán Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nếu làm thiệt hại nguyên
nhân đến lợi ích nhân dân trong tỉnh rồi sẽ hướng dẫn nhân dân địa phương bầu 1 Hội đồng nhân
dân mới.
Về mặt văn bản
- UBTV được ban hành 2 loại văn bản: Pháp lệnh và nghị quyết. 2 loại văn bản này là của 18 người
UBTV và được Chủ tịch Quốc hội thay mặt kí  cần phân biệt với Luật và Nghị quyết của Quốc
hội do 500 người và do Chủ tịch Quốc hội thay mặt Quốc hội ký.
- UBTV được quyền đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ Nghị quyết sai trái.
- Trong lúc Quốc hội không họp nếu UBTV phát hiện 4 chủ thể sau đây ban hành 1 văn bản sai trái
gồm: Chính phủ, Thủ tướng, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì UBTV phải hết sức bình
tĩnh chia làm 2 trường hợp:
+ Nếu văn bản của 4 chủ thể này trái với hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội 500 người thì
UBTV được đình chỉ rồi đề nghị 500 người bãi bỏ trong kì họp gần nhất.
+ Nếu văn bản của 4 chủ thể trái pháp lệnh, nghị quyết của UBTV thì UBTV được đình chỉ hoặc bãi
bỏ luôn.
d) Xu hướng phát triển
- Các bản hiến pháp trong lịch sử lập hiến của Việt Nam nhìn chung đều có xu hướng ngày càng thu
hẹp nhiệm vụ, quyền hạn của UBTV. UBTV trong bản hiến pháp sau sẽ nhỏ hơn trong bản hiến
pháp trước.
- Chứng minh:

UBTV HP 1992 UBTV trong NQ51 2001


Quốc hội “không họp” UBTV sẽ thay mặt Sửa lại như sau: trong tình trạng Quốc hội
Quốc hội quyết định. “không thể họp” được thì UBTV được
1. Quyết định tình trạng chiến tranh hay hòa quyền quyết định chiến tranh hay hòa bình
bình khi nước nhà bị xâm lược rồi báo cáo khi nước nhà bị xâm lược rồi báo cáo Quốc
với Quốc hội trong kì họp gần nhất. hội trong kì họp gần nhất.
2. Quyết định nhân sự của Chính phủ theo  có 2 điểm mới:
đề nghị của Thủ tướng rồi báo cáo với Quốc 1. Dùng từ “không thể họp” thay cho
hội trong kì họp gần nhất. “không họp”.
2. NQ51 bỏ đi quyền phê chuẩn nhân sự của
Chính phủ theo đề nghị của Thủ tướng.

Câu hỏi:
Câu 1: Từ “không thể họp” khác gì với “không họp”. Tại sao dùng từ “không thể họp” thì quyền của UBTV bị
thu hẹp đáng kể ?
- Nếu dùng từ “không họp”  Quốc hội họp 1 năm 2 kì, 2 kì là 2 tháng thường lệ, 10 tháng còn lại trong năm là Quốc
hội không họp nên Quốc hội có thể toàn quyền quyết định chiến tranh hay hòa bình.
- Nếu dùng từ “không thể họp”  10 tháng không họp này thì UBTV cũng không được quyết định chiến tranh hay hòa
bình mà phải triệu tập Quốc hội bất thường. Nếu trong trường hợp khó khăn không họp bất thường được thì UBTV
mới có thể quyết định chiến tranh hay hòa bình.

Câu 2: Tại sao UBTV 2001 không có UBTV được quyền phê chuẩn nhân sự Chính phủ. Hiện nay, nếu khuyết
nhân sự của Chính phủ thì Quốc hội sẽ như thế nào ?
Nếu duy trì quyết định này sẽ dẫn đến nguy cơ Thủ tướng Chính phủ bắt tay cấu kết với UBTV để sắp đặt nhân sự của
Chính phủ. Từ đó, qua mặt Quốc hội đặt Quốc hội trong tình thế đã rồi. Vì đưa 1 người ra 500 người thì có kết quả
khác so với đưa ra trước 18 người. Hiện nay, để xử lí 1 thành viên của Chính phủ khi Quốc hội không họp thì Thủ
tướng sẽ đề nghị với Chủ tịch nước tạm đình chỉ công tác với Bộ trưởng rồi sẽ giao quyền Bộ trưởng cho 1 người khác
và thường tạm giao quyền Bộ trưởng cho 1 Thứ trưởng nào đó. Và khi Quốc hội họp sẽ đưa ra quyết định cuối cùng.

Câu 3: Việc thu hẹp quyền hạn của UBTV là việc đáng mừng hay đáng buồn? Vì sao ?
Đây là 1 xu hướng tích cực, đáng mừng vì:
 UBTV ngày càng thu hẹp dần thì Quốc hội Việt Nam ngày càng rộng hơn, hoạt động hiệu quả hơn, xứng đáng hơn
với tình cảm và niềm tin của nhân dân cả nước  Nhân dân cả nước trao quyền cho 500 người (đại biểu Quốc hội) 
500 người không đản đương nên giao cho 18 người  quyền của 18 người càng lớn thì quyền của 500 người kia chỉ là
hình thức  Vì UBTV được trao quyền quá nhiều nên nhiều người nghĩ rằng UBTV là cấp trên lãnh đạo của Quốc hội
 UBTV trong một chừng mực nào đó có thể định hướng, khống chế Quốc hội  Quốc hội càng hình thức thì càng
phụ niềm tin nhân dân giao phó.
 Bởi vì UBTV ngày càng bị thu hẹp thì Quốc hội ngày càng nhiều hơn, đều đặn, thường xuyên hơn, chuyên trách
hơn (trước kia sô lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách chỉ có hơn 20%, ngày nay 40% có thể tăng lên nhiều hơn).
Nếu số lượng chuyên trách càng tăng thì hoạt động càng hiệu quả hơn.

UBTV trong HP 2013: Điều 74 của HP 2013 đã trao thêm UBTV Quốc hội một số quyền cụ thể
như sau:
- Quyền được phê chuẩn đại sứ đặc mệnh toàn quyền (trước 2013 chỉ cần Thủ tướng Chính phủ đề
nghị và Chủ tịch nước ký bổ nhiệm là được, nhưng kể từ 2013 đến nay, Thủ tướng đề nghị, UBBTV
phê, Chủ tịch nước mới ký, giới thiệu là Bộ trưởng Bộ ngoại giao).
- Quyền quyết định điều chỉnh giới hành chính từ cấp huyện trở xuống (trước 2013 điều chỉnh địa
giới cấp tỉnh là Quốc hội quyết, Chính phủ là với cấp huyện, xã. Từ 2013 đến nay, là do Quốc hội
điều chỉnh cấp tỉnh còn lại do UBTV quyết định).
Câu hỏi: Theo các bé, việc làm này của HP 2013 có đi ngược lại với xu thế chung hay không ?
Không. Vì những quyền trao thêm cho UBTV trước đây thuộc về Chủ tịch nước, Chính phủ giờ trao cho thêm UBTV
là việc bình thường (những quyền nào trước đây trao Quốc hội, nhưng Quốc hội lười mà lại giao cho UBTV, thì những
điều đó mới đi ngược lại xu thế chung, biến UBTV thành Quốc hội nhỏ).

2. Hội đồng dân tộc và Ủy ban chuyên môn của Quốc hội
a) Hội đồng dân tộc
- Thành phần: bao gồm Chủ tịch Hội đồng dân tộc, các Phó chủ tịch Hội đồng dân tộc, các ủy viên.

 Chủ tịch Hội đồng dân tộc được Quốc hội bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban thường vụ Quốc
hội.
 Phó chủ tịch Hội đồng dân tộc và các ủy viên do Chủ tịch Hội đồng dân tộc chọn.
Trong Hội đồng dân tộc sẽ có một số đại biểu hoạt động chuyên trách do UBTV quyết định.
- Về chức năng: Hội đồng dân tộc được Quốc hội lập ra để thực hiện 3 công việc sau đây:
+ Tham mưu, tư vấn Quốc hội, ban hành chủ trương chính sách có liên quan đến dân tộc.
+ Giúp Quốc hội thẩm tra, báo cáo đề án có liên quan đến dân tộc.
+ Giúp Quốc hội giám sát việc Quốc hội thực hiện các chủ trương về dân tộc.
b) Các Ủy ban của Quốc hội
Có 2 loại:
- Ủy ban lâm thời: là Ủy ban được lập ra để giải quyết công việc nào đó khi Quốc hội có nhu cầu và
sẽ giải tán khi xong việc  Ủy ban này không có cùng nhiệm kí với Quốc hội.
VD: Ủy ban sửa HP, Ủy ban điều tra cá chết ở miền Trung.
- Ủy ban chuyên môn (chuyên trách): là Ủy ban được lập ra từ đầu nhiệm kì và hoạt động tồn tại với
Quốc hội đến hết nhiệm kì, được lập ra theo luật, còn gọi là Ủy ban thường trực. Theo quy định của
Luật tổ chức Quốc hội 2014 thì Quốc hội lập ra 9 Ủy ban chuyên môn.
1. Ủy ban pháp luật
2. Ủy ban tư pháp
3. Ủy ban kinh tế
4. Ủy ban tài chính – ngân sách
5. Ủy ban an ninh – quốc phòng
6. Ủy ban khoa học – công nghệ và môi trường
7. Ủy ban văn hóa – giáo dục thanh thiếu niên nhi đồng
8. Ủy ban về các vấn đề xã hội
9. Ủy ban đối ngoại
- Thành phần: bao gồm
+ Đứng đầu Ủy ban là chủ nhiệm Ủy ban do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm trong số đại biểu
Quốc hội theo sự giới thiệu của UBTV.
+ Phó chủ nhiệm Ủy ban và các ủy viên là do Chủ nhiệm Ủy ban lập danh sách và cho UBTV phê
chuẩn.
LƯU Ý: Tiêu chí để Quốc hội bầu vào các Ủy ban là các đại biểu Quốc hội phải có trình độ kiến
thức chuyên môn sâu về lĩnh vực Ủy ban phụ trách. Trong số Ủy ban phải có một số đại biểu hoạt
động chuyên trách do UBTV quyết định.
- Vì Ủy ban là nơi tập hợp các đại biểu có trình độ chuyên môn sâu về một lĩnh vực nào đó  làm
việc mới có hiệu quả, do đó xu hướng trên thế giới là rất đề cao các Ủy ban này. Xu hướng của thế
giới người ta cho rằng: hoạt động của phiên toàn thể nghị viện chỉ là để trình diễn, hoạt động của
ban hoạt động, ban chuyên môn mới là hoạt động thiệt sự. Việt Nam cần tiếp thu kinh nghiệm thế
giới để đề cao các Ủy ban, Ủy ban như cái nơi để khuyến khích, lôi kéo các đại biểu vào hoạt động
chuyên trách.
- Chức năng:
+ Giúp Quốc hội thẩm tra các báo cáo, đề - dự án.
+ Giúp Quốc hội giám sát các cơ quan nhà nước ở trung ương.
VD: Ủy ban tư pháp giám sát Bộ tư pháp,…
IV. KÌ HỌP CỦA QUỐC HỘI
- Quốc hội họp thường lệ 1 năm 2 kì (1 kì vào giữa năm (tháng 5 dương lịch) và 1 kì vào cuối năm
(tháng 10), kì họp được coi là hình thức hoạt động quan trọng và chủ yếu nhất của Quốc hội). Ngoài
2 kì họp thì Quốc hội có thể họp bất thường nếu có yêu cầu của 4 chủ thể sau: UBTV, Thủ tướng
Chính phủ, Chủ tịch nước và 1/3 tổng số đại biểu yêu cầu.
- Về nguyên tắc thì Quốc hội sẽ họp công khai, nhưng nếu có yêu cầu của 1 trong 4 chủ thể trên thì
Quốc hội sẽ họp kín. UBTV sẽ dự kiến Quốc hội, cùng thư đại biểu Quốc hội, chậm nhất 30 ngày
trước ngày khai mạt thường lệ, và chậm nhất 7 ngày trước ngày khai mạt kì họp bất thường. Tại kì
họp Quốc hội sẽ bàn bạc tập thể, quyết định theo đa số tất cả những vấn đề thuộc về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Và cuối mỗi kì họp thì Quốc hội sẽ cho ra 3 loại văn bản: hiến
pháp, luật, nghị quyết, sẽ do Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực và Chủ tịch nước ký lệnh công bố,
chậm nhất 15 ngày kể từ ngày văn bản đó được Quốc hội thông qua.
Câu hỏi: Theo các bé 2 chữ kí của Chủ tịch Quốc hội và Chủ tịch nước thì chữ kí nào có ý nghĩa phát sinh hiệu
lực ?
 Không có chữ kí nào cả. Vì thời điểm có hiệu lực của một văn bản do Quốc hội ban hành được xác định như:
- Nếu văn bản nào có ghi rõ thời điểm ghi trong văn bản thì đúng thời điểm đó văn bản phát sinh hiệu lực.
- Còn văn bản nào không ghi rõ thời điểm có hiệu lực thì nó sẽ có hiệu lực sau 10 ngày Chủ tịch nước công bố…(chữ
kí của Chủ tịch nước chủ dùng để xác nhận văn bản đó đã được Quốc hội thông qua).

 Nhìn chung các quyết định của Quốc hội phải được quá nửa số đại biểu Quốc hội tại nghị quyết
tán thành. Các nghị quyết về 3 vấn đề sau đây của Quốc hội phải được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu
Quốc hội tán thành.
- Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung HP.
- Nghị quyết về việc kéo dài hoặc rút ngắn nhiệm kì của Quốc hội. Vì nhiệm kì Quốc hội là 5 năm
và được qui định tại Điều 71 của HP  Nghi quyết sửa nhiệm kì tương tự như sửa HP.
- Nghị quyết bãi nhiệm đại biểu Quốc hội vì Quốc hội do cử tri bầu, lẽ ra phải do cử tri bãi nhiệm. Ở
Việt Nam do chưa có điều kiện để đưa ra cho cử tri bãi nhiệm nên tạm giao cho Quốc hội. Vì vậy,
để việc bãi nhiệm được chặt chẽ, thận trọng, tránh sự tùy tiện làm ảnh hưởng đến đại diện Quốc hội
nên phải được nhất trí cao của Quốc hội.
IV. QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
1. Đoàn đại biểu Quốc hội
Các đại biểu Quốc hội được bầu ra ở các đơn vị bầu cử trong cùng 1 tỉnh hoặc thành phố trực thuộc
trung ương sẽ họp thành đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh hoặc thành phố đó.
 63 tỉnh thành sẽ có 63 đoàn đại biểu Quốc hội. Trong đó đông nhất là đoàn đại biểu TPHCM và
Hà Nội (30 người/1 đoàn), đoàn bé nhất khoảng 6-7 người. Thành phần bao gồm: Trưởng, phó đoàn
và đại biểu trong đoàn (mỗi đoàn sẽ có từ 1-2 đại biểu hoạt động chuyên trách)  Trong quá trình
sinh hoạt, để thuận tiện thì các đại biểu có thể chuyển sinh hoạt đoàn.
LƯU Ý: Lập các đoàn đại biểu Quốc hội ra không phải hành chính mệnh lệnh đối với các đại biểu
mà mục đích chính là để đại biểu thuận tiện hơn trong sinh hoạt và làm nhiệm vụ, nhất là đối với
các đại biểu ở vùng sâu, xa, biên giới hải đảo, đi lại khó khăn (tiếp xúc cử tri, sinh hoạt đoàn,..)….
2. Quy chế pháp lý của đại biểu Quốc hội
a) Nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội  bắt buộc phải làm
- Tại kì họp: phải đi họp, tham dự đầy đủ các phiến họp các ủy ban mà mình là thành viên. Vì kì họp
của Quốc hội được coi là hợp lệ nếu có 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội tham dự (muốn vắng họp phải
xin phép, UBTV đồng ý).
- Ngoài kì họp nhiệm vụ quan trọng nhất là tiếp dân và tiếp xúc cử tri.

Tiếp công dân Tiếp xúc cử tri


Đại biểu Quốc hội sẽ tiếp xúc bất Đại biểu chủ gặp gỡ, tiếp xúc những người đã
cức công dân, bất cứ ở đầu, khi bỏ phiếu cho mình ở đơn vị bầu cử mình ra
Đối tượng nào. bầu cử trước đây.

Khi nào công dân có yêu cầu, bức Định kì theo luật, đại biểu Quốc hội phải chủ
Cách thức xúc, nhu cầu,…thì họ chủ động gặp động gặp cử tri.
 đại biểu phải tiếp.

Theo quy luật pháp luật hiện hành, hoạt động tiếp xúc cử tri được thực hành như sau:
- Chậm nhất là 20 ngày trước ngày khai mạt kì họp thường lệ đại biểu Quốc hội phải tiếp xúc cử tri
để thu thập tâm tư, nguyện vọng của họ để phản ánh tại kì họp.
- Chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày bế mạt cuộc họp, để báo cáo cử tri về kết quả kì họp.
- Ít nhất 1 năm 1 đợt (có thể kết hợp với lần tiếp xúc cử tri cuối năm) đại biểu Quốc hội lại báo cáo
cử tri về kết quả của cả 1 năm hoạt động và kế hoạch trong năm tới.
Câu hỏi: 1 năm gặp ít nhất 4 lần, 1 nhiệm kì ít nhất 20 lần nhưng thực tế có những cử tri chưa gặp đại biểu do mình
bầu ra lần nào.  VÌ SAO ?

Trả lời: do các quy định của luật về tiếp xúc cử tri nó không phù họp ở Việt Nam, thực tế là một đơn vị bầu cử của
Việt Nam là sự cấu thành của 2-3 quận, huyện với 1-50 ngàn cử tri, quá rộng, đông.  luật quy định phải tiếp xúc cử
tri như thế là không thể hết. Vì vậy, mặt trận tổ quốc là đơn vị được giao cho nhiệm vụ tổ chức những hội nghị tiếp
xúc cử tri, chỉ mời đại vài trăm người. Đại biểu chỉ tiếp xúc những cử tri tiêu biểu được mời mà thôi.

 Thế nào là cử tri tiêu biểu? : là những đại diện đáng kính ở địa phương (không ai phản ánh tiêu
cực)  những cử tri bức xúc thì lại không gặp được đại biểu của mình. Vì vậy ở Việt Nam, đại biểu
dân cử thì có 2 loại: chuyên trách và kiêm nhiệm.
- Cử tri cũng có 2 loại: chuyên trách (chuyên được mời tiếp xúc) và kiêm nhiệm (không bao giờ
được mời).
b) Những đảm bảo về mặt pháp lý cho hoạt động của đại biểu Quốc hội
- Đại biểu Quốc hội thì được hưởng quyền miễn trừ và gồm những nội dung sau: trong thời gian
Quốc hội họp nếu không có sự đồng ý của UBTV thì không ai được bắt giam, khám xét nơi ở, nơi
làm việc của đại biểu Quốc hội. Người duy nhất có quyền đề nghị với Quốc hội / UBTV về bắt
giam, truy tố, khám xét về nơi ở, nơi làm việc của đại biểu Quốc hội là Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao. Nếu đại biểu Quốc hội phạm tội hỏa tang thì sẽ bị tạm giam nhưng cơ quan tạm
giữ phải báo cáo ngay cho Quốc hội/UBTV quyết định.
- Đại biểu Quốc hội không thể bị cơ quan nơi mình làm việc lập Hội đồng kỷ luật buộc thôi việc nếu
không có văn bản của UBTV.
- Đại biểu Quốc hội được cung cấp hồ sơ, giấy tờ, tài liệu để làm nhiệm vụ được hưởng những ưu
đãi về trợ cấp thuốc men, miễn phí cầu đường, ưu tiên mua vé máy bay, tàu xe.
c) Trách nhiệm đại biểu Quốc hội
- Nếu đại biểu Quốc hội mà bị truy tố thì UBTV sẽ tạm thời đinh chỉ hoạt động đối với đại biểu
Quốc hội. Và đại biểu Quốc hội sẽ đương nhiên mất quyền đại biểu kể từ thời điểm bản án của Tòa
án có hiệu lực (hết tư cách đại biểu, đương nhiên mất quyền, Quốc hội hết tư cách). Bởi vì đại biểu
Quốc hội không còn đủ tiêu chuẩn, điều kiện tiêu chuẩn để làm đại biểu nữa.
- Nếu đại biểu không xứng đáng với niềm tin của cử tri sẽ bị bãi nhiệm  cử tri trực tiếp bãi nhiệm
hoặc giao cho Quốc hội bãi nhiệm. Nếu đại biểu Quốc hội vì lí do khách quan, sức khỏe công tác có
thể xin thôi làm nhiệm vụ  Quốc hội sẽ quyết định là có cho thôi hay không.
d) Đại biểu Quốc hội chuyên trách và kiêm nhiệm

Chuyên trách Kiêm nhiệm


1. Đối tượng :
- UBTV  Còn lại là kiêm nhiệm.
Đối tượng - Hội đồng dân tộc + các đại biểu Đại biểu Quốc hội như Thủ tướng, Bí thú,
chuyên môn một số đại biểu hoạt Bộ trưởng,…  60%.
động chuyên trách do UBTV quyết
định.
- Đoàn đại biểu Quốc hội ( từ 1-2
người)
 ít nhất 40% hoạt động chuyên
trách.

Dành hết thời gian 12 tháng làm Dành 1/3 thười gian trong năm để làm
Thời gian nhiệm vụ của 1 đại biểu nhiệm vụ của 1 đại biểu.
làm việc
Đại biểu Quốc hội chuyên trách được Chỉ được hưởng 1 khoảng lương tương
Hưởng hưởng lương do UBTV quyết định. đương với mức lương cơ bản.
lương
Đại biểu Quốc hội chuyên trách thì được bố trí nơi ăn, chốn ở, nơi làm việc để hoạt động chuyên
trách, để làm nhiệm vụ. Được cơ quan nơi mình làm việc nhận trở lại làm việc khi hết thời gian
chuyên trách. Thời gian làm việc chuyên trách được tính vào thời gian làm việc liên tục  Quy định
này có ý nghĩa quan trọng tạo điều kiện, khuyến khích người ta hoạt động chuyên trách (không có
quy định này sẽ không ai chịu làm chuyên trách).

CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. Vị trí và tính chất pháp lý (Điều 83 của HP 2013)
So sánh chế định Chủ tịch nước của HP 46 với 4 bản HP còn lại (59, 80, 92, 2013) qua đó thấy rằng
Chủ tịch nước theo HP 46 rất độc đáo và Chính thể cộng hòa trong HP 46 rất mới .

NTQG theo HP 1946 NTQG theo HP59  2013


- Gọi Nguyên thủ quốc gia là Chủ tịch - Đều gọi Nguyên thủ quốc gia là Chủ
nước (Nguyên thủ quốc gia là thuật ngữ tịch nước (riêng HP80 gọi Nguyên thủ
để chỉ người đứng đầu nhà nước, còn quốc gia là Hội đồng Nhà nước – đây
gọi là gì cụ thể là tùy nhà nước). là Chủ tịch tập thể của nước
- Chủ tịch nước theo HP46 là do Nghị CHXHCNVN  ông Chủ tịch Hội
viện nhân dân bầu ra trong số các nghị đồng Nhà nước chỉ là người thay mặt
sĩ và phải được ít nhất 2/3 số phiếu Hội đồng Nhà nước để ký hợp thức
thuận. Nếu bầu vòng 1 mà không di đạt hóa các quyết định đã rồi của Hội
được tỉ lệ này thì bầu vòng 2 theo đồng Nhà nước mà thôi  do chúng
Tên gọi, nguyên tác quá nửa quá bán. ta chịu ảnh hưởng hiến pháp của Liên
cách thành - Nhiệm kì của Chủ tịch nước là 5 năm, Xô phản ánh, đề cao tinh thần làm chủ
lập, nhiệm dài hơn Nghị viện là 3 năm, HP46 tập thể tràn lan).
kì của không quy định độ tuổi của ứng cử viên Chủ tịch nước từ năm 1959 đến nay
NTQG và không quy định số nhiệm kì liên tiếp đều do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi
mà ứng cử Chủ tịch nước được nắm nhiệm trong số các đại biểu Quốc hội
giữ. (theo nguyên tắc quá bán. Riêng Chủ
Bình luận và giải thích những quy tịch nước theo HP59 không nhất thiết
định này: là đại biểu Quốc hội).
- 2/3 số phiếu thuận là bởi vì ý đồ của - Nguyên thủ quốc gia từ năm 1959
các nhà lập hiến năm 1946 là muốn chỉ đến nay đều có nhiệm kì theo nhiệm
có Chủ tịch Hồ Chí Minh mới có đủ uy kì của Quốc hội. Các bản hiến pháp từ
tín, khả năng, cơ hội để làm Chủ tịch năm 1959 đến nay, đều không quy
nước (không có cửa cho những người định độ tuổi của ứng cử viên Chủ tịch
khác). Nghị viện có 403 người, trong đó nước là bao nhiêu và không quy định
có 333 ghế là do dân trực tiếp bầu, 70 về số nhiệm kì liên tiếp mà người giữ
ghế việt quốc việt cách  để đảm bảo chức vụ Chủ tịch nước được đảm
Bác Hồ trúng Chủ tịch nước, chỉ có Bác nhiệm là bao nhiêu (duy nhất HP59
mới sử dụng quyền năng to lớn đó để quy định ứng cử viên Chủ tịch nước
bảo vệ nước, bảo vệ Đảng. phải từ 35 tuổi trở lên).
- Nhiệm kì của Chủ tịch nước là 5 năm
trong khi Nghị viện là 3 năm, dài hơn
nhiệm kì của Nghị viện  nhằm đảm
bảo Chủ tịch nước độc lập và không bị
lệ thuộc vào một Nghị viện quá phức
tạp.

- Chủ tịch nước theo HP46 có tới 2 vị - Từ HP59 đến nay thì Nguyên thủ
trí trong bộ máy nhà nước. quốc gia chỉ có 1 vị trí duy nhất trong
1) Là người đứng đầu Nhà nước và thay bộ máy nhà nước: chỉ là người đứng
mặt toàn bộ Nhà nước về đối nội, đối đầu Nhà nước nói chung: Chủ tịch
ngoại. nước không nằm trong cơ quan nào cụ
2) Chủ tịch nước đứng đầu Chính phủ, thể  vì không nắm hành pháp nên
nắm hành pháp, trực tiếp điều hành vai trò mang tính lễ nghi, tượng trưng,
quản lý đất nước. danh nghĩa, hợp thức hóa. Nhìn
Vì nắm được quyền hành pháp (nhân chung, khá là nhạt nhòa.
lực, vật lực và các tiềm năng khác của
quốc gia, nói khác đi là nắm tiền bạc và
Vị trí, vai con người)  rất thực quyền và uy
trò quyền  Việc giao cho Chủ tịch nước
nắm hành pháp trong HP46 là nhằm
mục đích tập trung sức người, sức của
để phục vụ cho cuộc kháng chiến bảo
vệ tổ quốc. Nói khác đi, trong hoàn
cảnh chiến tranh thì quyền lực phải nằm
trong tay cá nhân lãnh tụ,… chứ không
thể nằm trong tay Nghị viện 403 người
 Đây là bài học, lúc nào thì dân chủ,
lúc nào thì tập trung.

- Được trao rất nhiều quyền hạn, đặc - Chủ tịch nước không còn được
biệt là Chủ tịch nước được trang bị quyền kiềm chế đối trọng Quốc hội.
nhiều công cụ kiềm chế đối trọng với + Chủ tịch nước chỉ được ban hành
Nghị viện: những lệnh có giá trị dưới luật, chỉ để
+ Chủ tịch nước được quyền ban hành công bố luật mà thôi.
những sắc lệnh có giá trị như 1 đạo luật. + Chủ tịch nước chỉ có quyền công bố
+ Theo Điều 31 của HP46, Chủ tịch các đạo luật do Nghị viện ban hành,
nước còn được quyền phủ quyết luật do chậm nhất 15 ngày.
Nghị viện ban hành. + Không có quyền đề nghị Quốc hội
+ Theo Điều 54, Chủ tịch nước được xem xét lại.
quyền đề nghị Nghị viện xem xét lại  Quốc hội luôn luôn đúng.
việc bất tín nhiệm Nội các (Thủ tướng
Quyền và các Bộ trưởng).
hạn  Chứng tỏ HP 1946 tiếp thu được tinh
hoa Âu Mĩ và học thuyết “Tam quyền
phân lập” dùng quyền lực kiểm soát
quyền lực (dùng quyền hành pháp của
Chủ tịch nước để kiểm soát quyền lập
pháp của Nghị viện) và đây là hiến
pháp duy nhất đặt quyền kiểm soát
Nghị viện.
- HP 1946 trao cho Chủ tịch nước
quyền này là công cụ hữu hiệu để đối
phó với Nghị viện đa Đảng.
 Với thành phần chính trị phức tạp, đa
Đảng, Nghị viện có thể ra 1 đạo luật bất
lợi cho cách mạng Việt Nam.

- Theo Điều 50 của HP46 thì Chủ tịch - Chủ tịch nước phải báo cáo công tác
nước không báo cáo và không phải chịu và chịu trách nhiệm trước Quốc hội:
trách nhiệm gì trước Nghị viện nhân đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn,
dân. lấy/bỏ phiếu tín nhiệm với Chủ tịch
 Quy định này phù hợp với quan nước, miễn nhiệm, bãi nhiệm, bãi bỏ
niệm chung của hầu hết các quốc gia Chủ tịch nước  toàn quy định thôi
Chế độ trên thế giới. Đã là NTQG là đại diện, chứ không làm được.
báo cáo tượng trưng cho đất nước thì phải bất
công tác khả xâm phạm. NTQG bị gì thì cả dân
và chịu tộc cũng bị ảnh hưởng, NTQG mà yếu
trách ớt thì cả dân tộc cũng yếu ớt.
nhiệm  Vì thế trên thế giới, NTQG không
phải chịu trách nhiệm, báo cáo trước ai.
Thậm chí có vài nước, phải báo cáo
công tác lại cho NTQG.
 Cái quy định này để Chủ tịch nước
độc lập, không phụ thuộc vào Nghị viện
đa Đảng  để Chủ tịch nước đủ mạnh,
đủ tự tin để đối phó với thù trong, giặc
ngoài.
- Theo Điều 51, nếu có chứng cứ cho
rằng Chủ tịch nước phản quốc thì Nghị
viện không được trực tiếp xử lý Chủ
tịch nước mà Nghị viện chỉ được thành
lập Tòa án đặc biệt để xét xử Chủ tịch
nước.
 hành vi phản quốc là trách nhiệm
pháp lý  Phải được quy kết theo quy
trình tố tụng  đây chính là chức năng,
sở trường của Tòa án chứ không phải là
câu chuyện, chức năng của Nghị sĩ.

- Theo HP46, Chủ tịch nước là Tổng chỉ - Chủ tịch nước chỉ được xác định là
huy quân đội, trực tiếp chỉ đạo, điều Chủ tịch Quốc phòng và An ninh,
binh, khiển tướng  Việc này có ý thống lĩnh các lực lượng vũ trang
nghĩa sống còn: bảo vệ Đảng, thành quả nhân dân  phụ trách quân đội về
Vai trò cách mạng. Công an, quân đội, được mặt danh nghĩa chứ không trực tiếp
của Chủ xem là thanh kiếm thép, là công cụ để chỉ đạo quân đội ở nước ta, từ năm
tịch nước bảo vệ chủ quyền, độc lập toàn vẹn lãnh 1959 đến nay, chức Tổng chỉ huy
trong lĩnh thổ quốc gia. quân đội là Bộ trưởng Bộ quốc phòng.
vực AN – Do tầm quan trọng của công an, quân
QP đội, có ít nhất 4 người sau đây đều có
tác động:
+ Tổng bí thư Đảng đồng thời là bí
thư quân uỷ trung ương: hoạch định
đường lối, chính sách vĩ mô
+ Bộ trưởng bộ QP là phó bí thư quân
uỷ, tổng tư lệnh quân đội: người thực
thi đường lối, chính sách
+ Thủ tướng: quản lí bộ CA, bộ QP về
mặt lương bỗng, vật chất, súng đạn,
tiền bạc, con người
+ Chủ tịch nước: phụ trách quân đội
về mặt danh nghĩa
Thông qua so sánh HP46 với các bản hiến pháp còn lại có thể nhận thấy, HP46 đã sáng tạo ra một
chế định Chủ tịch nước độc đáo và một Chính thể cộng hòa mới mẻ.
1) Chủ tịch nước độc đáo ở chỗ (những kết luận được rút ra từ bảng so sánh) là được thiết kế hoàn
toàn phù hợp với bối cảnh thù trong, giặc ngoài, ngàn cân treo sợi tóc. Do đó, chế định này đã góp
phần vào việc bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam và thành quả của cách mạng Việt Nam trong tình thế
đa Đảng, là không có điều khoản nào trực tiếp quy định Đảng trực tiếp lãnh đạo nhưng bằng các quy
định của HP46, đặc biệt là quy định về Chủ tịch nước vẫn đảm bảo: Đảng là lực lượng lãnh đạo chủ
yếu trên thực tế
 Các nhà lập hiến đã không ngừng tính toán, tư duy, suy nghĩ để nó cực kì hợp lí, chắc chắn.
2) Chế định Chủ tịch nước theo HP46 là có sự tiếp thu tinh hoa Âu Mĩ (hình ảnh Chủ tịch nước là
phù hợp với quan điểm chung của hầu hết các quốc gia trên thế giới về Nguyên thủ quốc gia, đặc
biệt rất giống với Tổng thống Mỹ và Pháp. Nhưng các nhà lập hiến không rập khuôn, chép nguyên
xi mà có sự tiếp thu, chọn lọc, kế thừa cho phù hợp hoàn cảnh Việt Nam).
 Tổng thống Pháp, Mỹ do dân trực tiếp bầu nhưng do hoàn cảnh Việt Nam năm 1946 không thể
cho dân bầu Chủ tịch nước  nên để Nghị viện bầu. Cái hay là Chủ tịch nước do Nghị viện bầu
nhưng Chủ tịch nước độc lập, không sợ Nghị viện, vẫn có thể kiềm chế đối trọng Nghị viện.
- Ở Mỹ và Pháp có truyền thống gọi NTQG là Tổng thống, nhưng về Việt Nam đổi tên thành Chủ
tịch nước, nghe gần gũi với Châu Á hơn.
- Ở Mỹ và Pháp, Tổng thống được quyền phủ quyết tương đối quyền của Nghị viện, dự luật được
thông qua lần bầu quá bán bị Tổng thống phủ quyết sẽ thảo luận lại và thông qua tỉ lệ 2/3 thì luật đó
sẽ trở thành luật. Còn Điều 31 của HP46 Việt Nam, Nghị viện thông qua lần đầu, nếu bị Chủ tịch
nước đề nghị xem xét lại nếu quá bán thì luật đó sẽ trở thành luật (phủ quyết mềm)  không căng
thẳng, vì Chủ tịch nước Việt Nam do Nghị viện bầu nên không thể quá cứng rắn với Nghị viện.
- Ở Mỹ và Pháp, Tổng thống có quyền giải tán Nghị viện trước hạn, còn ở Việt Nam thì Chủ tịch
nước không thể giải tán Nghị viện trước hạn.
3) Thông qua chế định Chủ tịch nước của HP46 đã thể hiện tầm nhìn xa trong rộng của các nhà lập
hiến ở chỗ: các nhà lập hiến đã chơi một canh bạc chính trị lớn (ván cược là vận mệnh dân tộc) và
nhờ thắng được canh bạc này mới góp phần bảo vệ Đảng.
Công bằng mà nói, lúc viết chế định Chủ tịch nước thì các nhà lập hiến vẫn chưa biết ai là Chủ tịch
nước  Và việc trao cho Chủ tịch nước nhiều quyền hạn là hoàn toàn khách quan bởi lẽ ai được bầu
Chủ tịch nước sau này, đều sẽ được hưởng quyền hạn đó (chứ không phải là trao cho cá nhân Bác,
vì Nghị viện bầu ai làm Chủ tịch nước thì sau này mới biết). Tuy nhiên, khi viết thì các nhà lập hiến
có niềm tin sâu sắc rằng với uy tín của Bác và quy định trong hiến pháp thì chỉ có Bác mới đủ uy tín
làm Chủ tịch nước  nên mới mạnh dạn trao cho Chủ tịch nước nhiều quyền hạn như vậy.
 May mắn là niềm tin, hi vọng đó hoàn toàn chính xác.
2. Chính thể cộng hòa mới mẻ
Chính thể là gương mặt đại điện của cơ quan Nhà nước trung ương  Nguyên thủ quốc gia.
+ NTQG là tổng thống hay CTN, bầu cử có nhiệm kỳ  cộng hòa
+ Cộng hòa đại nghị: NTQG k nắm hành pháp vai trò (thủ tướng chế) nhạt nhòa
(thủ tướng chế do Anh khai sinh HP 1949 Đức hoàn thiện)
+ Cộng hòa tổng thống: không có thủ tướng (HP 1787 Mỹ)
+ Công hòa hỗn hợp: có 1 NTQG nắm quyền hành pháp, ½ còn lại cho thủ tướng, bộ trưởng (HP
1958 Pháp)
Theo HP1946 nước ta theo chính thể cộng hòa hỗn hợp vì có chủ tịch nước và thủ tướng nắm quyền
hành pháp nhưng phải có 2 chú thích kèm theo
+ NTQG phải do dân trực tiếp bầu nhưng trong hoàn cảnh HP1946 không thể để dân trực tiếp bầu
chủ tịch nước được nên phải để nghị viện bầu. Tuy nhiên đây không phải là đặc điểm cơ bản và
riêng có của cộng hòa hỗn hợp.
+ Lẽ ra khi Bác Hồ được nghị viện bầu làm Chủ tịch nước thì Bác phải chọn Thủ tướng để cho Nghị
viện phê chuẩn để cùng chia sẻ quyền hành pháp với Bác nhưng Bác chưa kịp chọn Thủ tướng thì
cuộc kháng chiến toàn quốc đã bùng nổ. Trên thực tế thì Bác đã nắm toàn bộ quyền hành pháp. Vì
vậy, nếu bảo rằng căn cứ vào thực tế tình hình của năm 1946 thì chính thể của Việt Nam giống với
cộng hòa tổng thống nhưng phải lí giải căn cứ vào tình hình thực tế năm 1946 chưa chọn kịp Thủ
tướng.
* Bác học De Gaulle vì năm 1946 giữa Pháp và Việt Nam có nhiều sự kiện tương đồng với nhau,
trong lúc Bác Hồ thành lập hội đồng lập hiến gồm 7 người đi du học ở Pháp với Bác là chủ tịch thì
đó cũng là lúc HP58 của Pháp chỉ là 1 dự thảo sắp được công bố nhưng do De Gaulle bị đảo chính
và dự thảo HP58 Pháp bị xóa bỏ và sau này, sau khi HP1946 được khai sinh 12 năm, De Gaulle tập
hợp lực lượng dành được quyền lực thì đã dùng lại dự thảo chính thể cộng hòa hỗn hợp để làm
HP58.
 Qua đây có thể rút ra kết luận:
+ Chính thể trong HP46 là cộng hòa hỗn hợp và là chính thể hoàn toàn mới mẻ tại thời điểm ra đời
(Đã có cộng hòa tổng thống và đại nghị được nhiều nước áp dụng nhưng Bác không học theo  Bác
Hồ rất nhạy cảm, nhạy bén với cái mới)
+ Bác Hồ nhạy bén ở chỗ khi cộng hòa hỗn hợp còn là dự thảo thì Bác đã nhìn thấy những ưu việt
của nó và thực tế năm 1958, cộng hòa hỗn hợp được khai sinh, tuổi đời còn non trẻ nhưng hiện nay
đã được 54 nước trên TG chọn làm gương mặt đại diện và đặc biệt những quốc gia theo chủ nghĩa
xã hội nằm trong khối Liên Xô cũ và Đông Âu khi tan rã đều chọn chính thế cộng hòa hỗn hợp.
II. Thẩm quyền của Chủ tịch nước theo Điều 88 của HP 2013
Chia làm 6 nhóm thẩm quyền tương ứng với 6 lĩnh vực, tương ứng 6 khoản trong Điều 88
Thẩm quyền của Chủ tịch nước, khoản 1 Điều 88
- Quyền công bố hiến pháp, luật của Quốc hội và pháp lệnh của UBTVQH  Mang tính chất lễ
nghi, thủ tục, hình thức vì từ năm 1959 đến nay áp dụng quy tắc tập quyền đề cao Quốc hội nên Chủ
tịch nước không được quyền phủ quyết luật do Quốc hội ban hành (Duy nhất HP 1946 thì Chủ tịch
nước được quyền phủ quyết đạo luật do Quốc hội ban hành vì nguyên tắc “Phân quyền”)
- Chủ tịch nước được quyền đề nghị UBTVQH xem xét lại các pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày kể
từ ngày được thông qua. Nếu UBTVQH đã xem xét lại mà Chủ tịch nước vẫn không đồng ý thì Chủ
tịch nước sẽ trình Quốc hội xem xét tại kì họp gần nhất.
 Tức là Chủ tịch nước có quyền phủ quyết các pháp lệnh của UBTVQH (18 người).
Giải thích và bình luận quy định:
- Thứ nhất, các pháp lệnh của UBTV cần bị phủ quyết vì trong khoa học pháp lí thì pháp lệnh
UBTV được coi là một loại lập pháp “ủy quyền”: Trong đời sống xã hội luôn phát sinh nhiều quan
hệ xã hội mới, những quan hệ này không ổn định và không có luật để điều chỉnh lẽ ra Quốc hội cần
ban hành một đạo luật để điều chỉnh nhưng Quốc hội chưa có điều kiện làm luật ngay được. Vì vậy,
Quốc hội mới giao cho UBTVQH ban hành pháp lệnh để tạm thời điều chỉnh các quan hệ xã hội đó
và chờ đến khi nào các quan hệ xã hội đó ổn định và Quốc hội có điều kiện hơn thì Quốc hội sẽ
nâng các pháp lệnh lên thành luật.
- Về mặt lí thuyết thì các pháp lệnh của UBTV được xem là những văn bản có giá trị dưới luật
nhưng trên thực tế vì trong lĩnh vực đó không có luật nên mới cần có pháp lệnh vì vậy các pháp lệnh
có giá trị như một đạo luật. Vì vậy nhằm mục đích kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các pháp
lệnh, tránh tình trạng cẩu thả, vội vàng khi ban hành pháp lệnh và cũng để cho Quốc hội cảm giác
yên tâm hơn nên Quốc hội đã giao cho Chủ tịch nước quyền phủ quyết các pháp lệnh như một hình
thức kiểm tra, giám sát
- Việc phủ quyết này chỉ giao cho Chủ tịch nước chứ không giao cho Thủ tướng, Chánh án vì:
+ Chủ tịch nước là người có quyền công bố các pháp lệnh nên ông là người đầu tiên được đọc và
tiếp cận với các pháp lệnh, ông sẽ là người đầu tiên biết được pháp lệnh có vấn đề gì và chữ kí của
Chủ tịch nước sẽ làm cho pháp lệnh có hiệu lực hay không.
+ Lúc Quốc hội họp thì Quốc hội là cao nhất, còn lúc Quốc hội không họp thì UBTV và Chủ tịch
nước là ngang cơ, không ai báo cáo công tác và không ai chịu trách nhiệm trước ai  Cân bằng và
kiểm soát chéo (Lúc Quốc hội không họp, Thủ tướng, Chánh án, Viện trưởng được xác định là cấp
dưới của UBTV và phải báo cáo công tác UBTV).
Quyền hạn của CTN trong hành pháp khoản 2 điều 88
- Chủ tịch nước được quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng trong số các
đại biểu Quốc hội. .
- Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước kí quyết định bổ nhiệm, bãi nhiệm, cách chức
phó Thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
- Chủ tịch nước còn được quyền tham dự phiên họp của Chính phủ (được quyền phát biểu ý kiến,
nhưng không có quyền biểu quyết).
- Điểm mới của HP2013 là Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Thủ tướng triệu tập Chính phủ họp bất
thường và cho ý kiến về những vấn đề mà Chủ tịch nước quan tâm để thực hiện quyền hạn, nhiệm
vụ của Chủ tịch nước (điểm mới này chứng tỏ các nhà lập hiến 2013 đã nhận thức rằng Chủ tịch
nước là Nguyên thủ quốc gia dù ít hay nhiều cũng phải có khả năng tác động và chi phối đến lĩnh
vực hành pháp).
Quyền của Chủ tịch nước trong lĩnh vực tư pháp (Khoản 3 Điều 88)
- Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TANDTC, Viện
trưởng VKSNDTC.
- Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội (Quốc hội phải phê rồi Chủ tịch nước mới kí), Chủ tịch nước
có quyền kí quyết định bổ nhiệm, bãi nhiệm, cách chức đối với Thẩm phán TANDTC.
- Chủ tịch nước có quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm, cách chức Phó chánh án TANDTC, Kiểm sát viên
VKSNDTC, và Thẩm phán các Tòa án khác (trừ Thẩm phán Tòa tối cao).
Trong lĩnh vực xáp lập địa vị pháp lý của công dân và thi đua khen thưởng (khoản 4 Điều 88)
- Chủ tịch nước có quyền kí tất cả các quyết định có liên quan đến quốc tịch như cho nhập quốc
tịch, thôi quốc tịch, tước và trở lại Vì quốc tịch là căn cứ để xác lập mối quan hệ giữa Nhà nước và
công dân mà Chủ tịch nước là người đại diện cho Nhà nước nên Chủ tịch nước phải được kí.
- Chủ tịch nước còn có quyền đặc xá và ân xá.
- Chủ tịch nước còn được quyền phong tặng huân chương, huy chương và các danh hiệu cao quý
của Nhà nước.
Trong lĩnh vực An ninh – Quốc phòng (Khoản 5 Điều 88)
- Thống lĩnh lượng vũ trang, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh.
Hội đồng quốc phòng và an ninh
- Về chức năng: là cơ quan tham mưu, tư vấn cho Chủ tịch nước các vấn đề có liên quan đến an
ninh- quốc phòng.
- Về thành phần: gồm có 6 người
+ Chủ tịch nước đồng thời là Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh
+ Phó chủ tịch và 4 ủy viên (Phó chủ tịch và ủy viên của Hội đồng là do Chủ tịch nước lập danh
sách cho Quốc hội phê chuẩn và không bắt buộc là đại biểu Quốc hội  trên thực tế sẽ chọn Thủ
tướng làm Phó chủ tịch Hội đồng, 4 ủy viên sẽ bao gồm Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng Bộ quốc
phòng, Bộ trưởng Bộ công an, Bộ trưởng Bộ ngoại giao).
Phân biệt Hội đồng quốc phòng - an ninh với Ủy ban an ninh - quốc phòng và Bộ quốc phòng:
+ Hội đồng quốc phòng – an ninh: Hội đồng này trực thuộc Chủ tịch nước, chức năng của nó là tư
vấn Chủ tịch nước các vấn đề an ninh – quốc phòng.
+ Ủy ban an ninh – quốc phòng: là Ủy ban chuyên môn thuộc Quốc hội, tập hợp các đại biểu có
kiến thức chuyên sâu về an ninh – quốc phòng, thẩm tra giám sát các đề án, báo cáo có liên quan
đến an ninh – quốc phòng và giám sát các Bộ công an, Bộ quốc phòng.
+ Bộ quốc phòng: là một Bộ thuộc Chính phủ, chức năng của nó quản lí Nhà nước trong lĩnh vực an
ninh – quốc phòng.
Trong lĩnh vực đối ngoại (Khoản 6 Điều 88 )
- Chủ tịch nước được quyền phong hàm cấp đại sứ.
- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam ở nước ngoài và các
tổ chức quốc tế.
- Nhân danh Nhà nước đàm phán, kí kết điều ước quốc tế
Có thể nhận thấy rằng Chủ tịch nước theo HP 2013 không nằm trong cơ quan nào cụ thể, không
nắm quyền lực nào cụ thể và đặc biệt là do không nắm quyền hành pháp nên Chủ tịch nước có vai
trò khác tượng trưng, hình thức và vai trò Chủ tịch nước hầu như chỉ để hợp thức hóa (những
chuyện người khác đã làm, Chủ tịch nước chỉ ký mà thôi). Quyền hạn Chủ tịch nước tuy không lớn
nhưng chế độ đãi ngộ (chỉ phí cho chế định Chủ tịch nước) là khá lớn: Chủ tịch nước bao giờ cũng
là người nhận lương cao nhất trong bộ máy Nhà nước; Chủ tịch nước còn có một phủ chủ tịch riêng;
 Đặc biệt đôi khi người ta thấy Chủ tịch nước hơi thừa (không có Chủ tịch nước thì Quốc hội làm
luật được vì đã có UBTV lãnh đạo; không có Chủ tịch nước, Chính phủ vẫn hành pháp được vì đã
có Thủ tướng; không có Chủ tịch nước thì Tòa án, Viện kiểm sát vẫn có thể xét xử được)  Vì vậy
có ý kiến cho rằng, nếu sắp tới sửa HP thì nên bỏ Chủ tịch nước, bớt chức danh để tương giảm bộ
máy, giảm chi phí và áp lực cho ngân sách.
Không nên bỏ chức danh Chủ tịch nước, có 2 lí do:
1) Nếu coi Nhà nước là một tổ chức thì bao giờ cũng phải có người đại diện, người đứng đầu và chỉ
có Chủ tịch nước mới đủ tư cách để đại diện cho Nhà nước đó (Thủ tướng chỉ đứng đầu và đại diện
cho Chính phủ  Chính phủ chỉ là một loại cơ quan trong bộ máy Nhà nước  Vì vậy người ta chỉ
có thể đặt vấn đề là trong Nhà nước nào đó có chức danh Thủ tướng hay không mà thôi ( bởi vì các
quốc gia nào mà chọn Cộng hòa tổng thống như Mỹ và 41 nước khác thì không có chức danh Thủ
tướng).
2) Chủ tịch nước tuy không nằm trong cơ quan nào cụ thể, không nắm một loại quyền lực nào cụ thể
nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với từng cơ quan trong bộ máy Nhà nước để thông qua đó Chủ
tịch nước được ví như một mắt xích có vai trò điều hòa, phối hợp, nối kết hoạt động giữa các cơ
quan Nhà nước ở trung ương với nhau để đưa cả bộ máy Nhà nước đi đến thực hiện các chức năng
và mục tiêu chung. Tóm lại, nếu nhìn từng cơ quan riêng lẻ trong bộ máy Nhà nước thì không cần
Chủ tịch nước nhưng nếu nhìn tổng thể bộ máy Nhà nước thì rất cần người đại diện đứng đầu và nối
kết.
Như vậy Chủ tịch nước hiện nay để nguyên như thế thì hơi phí, quyền không lớn, còn nếu bỏ thì
không thể bỏ. Vì vậy chỉ có 1 hướng duy nhất để đổi mới Chủ tịch nước là phải tăng thêm quyền
hạn cho Chủ tịch nước để Chủ tịch nước xứng đáng là một người đứng đầu Nhà nước theo đúng
nghĩa. Một nguyên thủ quốc gia theo đúng nghĩa nhìn chung phải nắm được 3 quyền năng. Từ HP
1959 đến nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau:
- Do Việt Nam bị ảnh hưởng tập quyền xã hội chủ nghĩa, suy tôn Quốc hội, đề cao Quốc hội mà
không trao quyền cho những cơ quan Nhà nước khác.
- Do Việt Nam văn minh nông nghiệp, tinh thần làm chủ tập thể  lại có tư tưởng xem nhẹ dấu ấn
của cá nhân.
- Từ khi đất nước thống nhất năm 1975 đến nay, khi chọn các chức vụ lãnh đạo cao cấp trong bộ
máy Nhà nước phải cố gắng để chọn những người có cả ở bắc, trung, nam (người ta hay nói vui với
nhau “3 ông 3 miền”: Tổng bí thư thường đến từ miền bắc vì đây là thành trì, cái nôi của CNXH,
Thủ tướng thường đến từ miền nam, Chủ tịch nước thường đến từ miền trung). Vì lẽ đó mà từ năm
1959 đến nay, chúng ta đã thiết kế chế định Nguyên thủ quốc gia mà quyền lực bị phân tán cho 3
người khác nhau nắm giữ, Chủ tịch nước chỉ còn nắm quyền của một NTQG là thay mặt cả nước,
còn quản lí đất nước thì giao cho Thủ tướng, còn công an, quân đội, an ninh thì giao cho Tổng bí
thư  qua cách này làm người ta thấy Việt Nam ta có chế định nguyên thủ quốc gia tập thể. Và cái
dở của NTQG tập thể này là không biết ai là người thật sự đứng đầu và ai là người có quyền quyết,
Vì vậy chế định Chủ tịch nước Việt Nam có thể được đổi mới theo 1 trong 2 hướng sau:
+ Nhất thể hóa chức danh Tổng bí thư của Đảng đồng thời là Chủ tịch nước: phù hợp với các nước
XHCN (Trung Quốc, Lào, Cuba), thông lệ quốc tế (ở các nước khác, chủ tịch Đảng cầm quyền đồng
thời là Thủ tướng, những nước cộng hòa tổng thống, cộng hòa hỗn hợp thì người đứng đầu Đảng là
Tổng thống).
Tăng cường sức mạnh Nguyên thủ quốc gia, lãnh đạo của Đảng, tinh giảm được chức năng, tiền bạc
và vì phù hợp thông lệ quốc tế nên phù hợp với quan hệ đối ngoại.
+ Giao 3 bộ có tính chất an ninh: công an, quốc phòng, ngoại giao cho Chủ tịch nước trực tiếp nắm,
quản lí. Còn Thủ tướng chỉ nắm các bộ còn lại  Chính phủ lưỡng đầu  Cộng hòa hỗn hợp 
Tây hóa.

CHÍNH PHỦ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT PHÁP LÝ CỦA CHÍNH PHỦ (Điều 94 của HP 2013)
Rất quan trọng, đây là điều luật không thể quên. Theo điều 94 của HP 2013 Chính phủ là cơ quan có
2 tính chất sau đây:
1) Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước CHXHCNVN vì những lí do sau đây:
- Chính phủ được lập ra để quản lí, điều hành quản lý lĩnh vực đời sống xã hội, là phương diện hoạt
động thường xuyên, chủ yếu và là …Chính phủ  Chính phủ được xếp vào hệ thống cơ quan hành
chính – hệ thống những cơ quan có chức năng quản lý (hành chính = quản lý).
- Không chỉ là cơ quan quản lí như bao cơ quan trong hệ thống hành chính mà Chính phủ còn được
xác định là trung tâm đầu não chỉ huy cả hệ thống hành chính. Một mệnh lệnh quản lý của Chính
phủ có hiệu lực với tất cả 18 bộ, 4 cơ quan ngang bộ, 9 cơ quan trực thuộc Chính phủ và UBND của
68 tỉnh thành  Chính phủ còn được xác định là cơ quan hành chính cao nhất.
- Hệ thống cơ quan hành chính:

- Với tư cách cơ quan quản lý cao nhất cả nước, Chính phủ luôn được hiến pháp và luật trao cho
việc nắm nguồn nhân lực, vật lực và tài nguyên thiên nhiên cũng như những tiềm năng khác của
quốc gia để thống nhất quản lý và sử dụng hiệu quả (nhân lực – biên chế, bộ máy, con người; vật lực
– của cải, vật chất, tài nguyên, tiền bạc)  Vì lẽ này mà theo nguyên tắc bất thành văn là ai nắm
hành pháp thì có thực quyền, quyền lực nằm trong tay của người nắm hành pháp. Ở các nước trên
thế giới, quyền hành pháp có tầm quan trọng đặc biệt, vì tầm quan trọng của hành pháp mà phân
biệt hình thức chính thể là căn cứ vào việc ai nắm hành pháp: Thủ tướng chế - Nội các chế - Đại
nghị chế  Thủ tướng nắm hành pháp, Tổng thống nắm hành pháp  tổng thống chế, cả Thủ tướng
và Tổng thống nắm hành pháp  bán Tổng thống chế.
Câu hỏi: Tại sao một số nước đề cao hành pháp hơn lập pháp, tư pháp ?

Chính phủ dịch ra là phủ của những chính sách: là nơi kiến tạo, hoạch định, quyết định và thực thi tất cả những chính
sách quan trọng của quốc gia. Với ý nghĩa này, chính phủ là cơ quan quyết định sự hưng thịnh, giàu có, thành bại của
1 quốc gia dân tộc à Cơ quan trực tiếp mang lại, tạo ra của cải vật chất cho 1 quốc gia dân tộc (Quốc Hội làm luật
nhưng luật chỉ là nền tảng pháp lý cho xã hội, hoạt động xét xử và tư pháp của tòa chỉ mang lại sự dân chủ, công
bằng).

1) Quốc hội thành lập Chính phủ, cụ thể:


- Quyết định Chính phủ thành lập bao nhiêu bộ, cơ quan ngang bộ và tên gọi theo đề nghị của Thủ
tướng.
- Quyết định số lượng Phó thủ tướng theo đề nghị của Thủ tướng.
- Quốc hội bầu Thủ tướng Chính phủ trong số đại biểu Quốc hội theo sự giới thiệu của Chủ tịch
nước.
- Thủ tướng đề nghị với Quốc hội phê chuẩn, bổ nhiệm Phó thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ (không cần là đại biểu Quốc hội)
LƯU Ý: Nếu có nhận định cho rằng, theo hiến pháp hiện hành, Quốc hội bầu ra Chính phủ thì đúng
hay sai?  Sai, Quốc hội chỉ bầu ra Thủ tướng, các thành viên còn lại thì Quốc hội phê chuẩn, bổ
nhiệm theo sự đề nghị của Thủ tướng.
2) Chính phủ phải chấp hành đường lối, chủ trương trong hiến pháp, luật mà còn chấp hành luôn các
pháp lệnh, nghị quyết của UBTV.
- Không được quyền phủ quyết các đạo luật và không có quyền đề nghị xem xét lại quyết định của
Quốc hội.
- Phải ban hành văn bản dưới luật: nghị định, thông tư, chỉ thị,…để hướng dẫn thi hành luật của
Quốc hội, pháp lệnh của UBTV.
- Luôn họp bàn, tìm biện pháp hữu hiệu để thi hành đường lối, chủ trương của Quốc hội trong thực
tế.
 Quốc hội lập ra Chính phủ là để Chính phủ thực thi đường lối chủ trương của Quốc hội.
3) Báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước Quốc hội
- Lúc Quốc hội họp thì phải báo cáo công tác trước Quốc hội, Quốc hội không họp thì báo cáo trước
UBTV và Chủ tịch nước.
- Đại biểu Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản sai trái của Chính phủ, Thủ tướng nếu trái với hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
- Có quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng theo sự đề nghị của Chủ tịch nước, miễn nhiệm, cách
chức các thành viên còn lại theo đề nghị của Thủ tướng.
***LƯU Ý QUAN TRỌNG: Điểm mới của Điều 94 của HP 2013 với Điều 109 HP 1992 về vị trí
và tính chất pháp lý của Chính phủ: có 2 điểm mới rất quan trọng.
1) Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam Điều 94 HP 2013 quy định Chính phủ là cơ
quan “thực hiện quyền hành pháp”
 Giải thích và bình luận điểm mới này:

- Với việc quy định Chính phủ thực hiện quyền hành pháp chứng tỏ HP2013 tiếp tục có sự phân
công, phân nhiệm rõ ràng hơn, rành mạch giữa các nhánh quyền lực ở chỗ: Tại điều 2 HP1992 có
nhắc đến 3 nhánh quyền lực là lập pháp, hành pháp, tư pháp nhưng trong toàn bộ HP1992 không nói
rõ cơ quan nào thực hiện quyền lực gì. Rút kinh nghiệm này thì điều 69 của HP2013 đã chỉ rõ QH là
cơ quan thực hiện quyền lập pháp, điều 94 HP2013 quy định CP là cơ quan thực hiện quyền hành
pháp và điều 102 HP2013 quy định Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
(Hiến pháp đầu tiên của nhân loại là HP 1787 của Mỹ ngay tại điều 2 có quy định là quyền hành
pháp trao cho Tổng thống Mỹ - đứng đầu nước Mỹ, tuy nhiên nội hàm của hành pháp gồm những
nội dung gì thì không nói rõ mà giao cho Tòa án tối cao được giải thích hiến pháp tùy thuộc vào
điều kiện hoàn cảnh cụ thể  Chính vì điều này đã làm cho hiến pháp Mỹ sống động với thời gian.
Mãi đến HP 1958 của Pháp thì Degaulle mới quy định rõ hơn nội hàm của quyền hành pháp trong
bản hiến pháp này và ông đã sáng tạo ra nền hành pháp, chính phủ lưỡng đầu  Việt Nam mãi đến
2013 mới có quy định chính thức là quyền hành pháp trao cho Chính phủ).
-Với việc quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp: cho thấy Chính phủ đã là một
nhánh quyền lực thực sự, nắm trọn vẹn một loại quyền lực, là phủ của những chính sách. Với tư
cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp thì Chính phủ đã có vị thế độc lập, cân bằng hơn so với
Quốc hội. Chính phủ phải chủ động kiến tạo, hoạch định chính sách quốc gia và thực thi chính sách
quốc gia đó trên thực tế, không được ỷ lại, dựa dẫm vào Quốc hội  Tự chịu trách nhiệm nếu để sai
phạm xảy ra trong việc thực hiện quyền hành pháp.
*Lưu ý: phạm trù quyền hành pháp với thuật ngữ hành chính là 2 phạm trù khác nhau
Quyền hành pháp: 1 nhánh quyền lực trọn vẹn và nó là 1 loại quyền lực quan trọng trong 3 loại
quyền cấu thành quyền lực NN, kiến tạo hoạch định và quản lý chính sách ở tầm vĩ mô
Hành chính chỉ là 1 ND của quyền hành pháp, không phải là 1 loại quyền lực thực sự và 1 nhánh
quyền lực trọn vẹn. Vì điều này mà Degaulle khi viết HP1958 của Pháp mới sáng tạo ra Chính phủ
lưỡng đầu, hành pháp có 2 người đứng đầu, theo đó Tổng thống có vai trò kiến tạo, hoạch định
chính sách hành pháp ở tầm vĩ mô và nắm 3 bộ có tính chất an ninh: Bộ quốc phòng, Bộ công an,
Bộ ngoại giao còn Thủ tướng là người điều hành quản lý đất nước, thực thi các chính sách hành
pháp và nắm các bộ còn lại
- Ở VN ta trong các bản hiến pháp trước 2013 thì không có một quy định nào Chính phủ là cơ quan
thực hiện quyền hành pháp mà chỉ quy định Chình phủ là cơ quan hành chính cao nhất. Vì trước
2013, Việt Nam ta theo cơ chế tập quyền, đề cao Quốc hội, toàn bộ quyền lực tập trung trong tay
Quốc hội nên ta quan niệm rằng cả Quốc hội và Chính phủ cùng thực thi quyền hành pháp (Quốc
hội mới là người hoạch định, quyết định chính sách hành pháp còn Chính phủ chỉ là người điều
hành quản lý và thực thi chính sách). Vì thế mà Điều 94 HP 2013 tuyên bố Chính phủ thực hiện
quyền hành pháp đã làm cho Chính phủ nắm trọn vẹn một loại quyền lực và là một nhánh quyền lực
thực sự.
 HP 2013 tiếp tục tiếp thu những hạt nhân hợp lí của học thuyết phân quyền (Chúng ta đang phân
quyền hóa từng bước bộ máy nhà nước)
2). Điểm mới 2

Điều 109 của HP 1992 HP 2013


- Quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của - Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất
Quốc hội, là cơ quan hành chính cao nhất nước nước CHXHCNVN, là cơ quan chấp hành của
CHXHCNVN. Quốc hội.
 Đặt tính chấp hành trước tính hành chính  Đưa tính hành chính lên trước tính chấp
chứng tỏ HP92 đề cao tính chấp hành hơn là hành, chứng tỏ HP 2013 đề cao tính hành chính
tính hành chính. Khi nhắc đến Chinh phủ là nghĩ hơn chấp hành. Nhắc đến Chính phủ thì nghĩ
ngay rằng cơ quan này là cơ quan chấp hành của ngay rằng cơ quan này lập ra để điều hành,
Quốc hội, chỉ có nhiệm vụ thi hành đường lối, quản lý, phát triển đất nước, chăm lo đời sống
chủ trường Quốc hội  Chính phủ phải chờ của dân (lấy cảm hứng phục vụ dân phát triển
Quốc hội họp để quyết định đường lối, chính đất nước là chủ đạo). Với tư cách là phủ của
sách hành pháp; nếu Quốc hội chưa họp thì những chính sách thì phải chủ động kiến tạo,
Chính phủ không được làm gì hết  Tạo tâm lí hoạch định, quyết định và thực thi chính sách
bị động, ỷ lại, trong chờ Quốc hội. Hơn nữa, dễ Quốc hội và tự chịu trách nhiệm (không ỷ lại,
dẫn đến ngộ nhận cho rằng Chính phủ chỉ để dựa dẫm Quốc hội). Trên cơ sở điều hành, quản
báo cáo, chịu trách nhiệm trước Quốc hội  lý và kết quả đạt được, đợi Quốc hội họp thì
Chính phủ phải nghe lời, phụng sự Quốc hội Chính phủ mới báo cáo và chịu trách nhiệm
làm cho Chính phủ càng xa dân, không phục vụ trước Quốc hội (1 năm thì 10 tháng điều hành
dân. quản lý, 2 tháng Quốc hội họp thì báo cáo, chịu
 Chính phủ lấy cảm hứng phục vụ Quốc hội là trách nhiệm  Tính hành chính gấp 5 tính hành
chủ đạo mà không quản lí, điều hành đất nước, chính).
chăm lo đời sống nhân dân.

II. CƠ CẤU TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ


1. Cơ quan cấu thành: bởi các bộ và cơ quan ngang bộ (1). Về quá trình thành lập, sáp nhập như
sau:
1) Chính phủ đề án
2) Thủ tướng trình Quốc hội quyết định đề án
3) Quốc hội ra nghị quyết quyết định
 Như vậy, số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ ở Việt Nam thay đổi theo nhiệm kì để đáp ứng nhu
cầu quan lí. Tuy nhiên hiện nay đang tiến hành cải cách hành chính ở trung ương theo hướng nhập
(1) lại với nhau để hình thành những bộ quản lý đa ngành, lĩnh vực, thu gọn đầu mối quản lý 
Chính phủ tinh gọn, hiệu quả, ít người  (1) sẽ có thay đổi, đ/c theo nhiệm kì nhưng phải thay đổi
theo hướng ngày càng ít đi.
Chứng minh:
- Chứng minh: ở Việt Nam trước 1992 thì số lượng các bộ và cơ quan ngang bộ là rất đông, gồm 28
bộ, 8 ủy ban nhà nước và 1 ngân hàng nhà nước  37 cơ quan. Vì thời kì này chúng ta có tư duy
quản lí manh mún, chia nhỏ lĩnh vực  Càng nhiều bộ, quan chức thì càng tốn kém.
- Rút kinh nghiệm này từ 1992 đến 2006 chúng ta đã tiến hành cải cách hành chính, nhập các bộ và
cơ quan ngang bộ còn 20 bộ và 6 ngang bộ à còn 26 cơ quan, giảm đi 11 cơ quan so với giai đoạn
trước.
- Từ năm 2006 đến nay nước ta chỉ còn 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ  22 cơ quan, giảm đi 4 cơ
quan so với giai đoạn trước.
 Trong giai đoạn tới tiếp tục cải cách hành chính nhưng theo hướng ít đi.
- Theo nghị quyết Quốc hội thì từ năm 2006 đến nay, nước ta thành lập 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ
sau đây:
+ Ngân hàng nhà nước Việt Nam: cơ quan quản lí nhà nước trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, đứng
đầu ngân hàng là thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam tương đương bộ trưởng. Hiện nay đã có
bộ tài chính (tiền công, tiền nhà nước) liên quan đến quản lý tiền tệ và đồng thời còn có 1 ngân hàng
nhà nước để quản lý về tiền (tiền tư nhân).
+ Thanh tra chính phủ: lãnh đạo là tổng thanh tra là thủ trưởng cơ quan ngang bộ có nhiệm vụ thanh
tra hoạt động, hệ thống quản lý theo yêu cầu Thủ tướng.
+ Ủy ban dân tộc: quản lí NN trong lĩnh vực dân tộc, đứng đầu là chủ nhiệm Ủy ban dân tộc tương
đương Bộ trưởng.
+ Văn phòng chính phủ: lãnh đạo là chủ nhiệm văn phòng Chính phủ tương đương Bộ trưởng, về lý
thuyết thì văn phòng Chính phủ ngang với 1 bộ nhưng trên thực tế thì nó có vị thế hơn 1 bộ, là siêu
bộ siêu quyền lực.
- Ngoài 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ thì còn có thuộc cơ quan thuộc Chính phủ.
Cơ quan thuộc ngang bộ (4 cơ quan)

Cơ quan ngang bộ Cơ quan thuộc Chính phủ


4 cơ quan: 9 cơ quan:
1) Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1) Viện hàng lâm KHXH VN
2) Ủy ban Dân tộc 2) Viện hàng lâm KHCN
3) Thanh tra Chính Phủ 3) Học viện hành chính - chính trị quốc
4) Văn phòng Chính phủ gia
Số lượng 4) Đài tiếng nói Việt Nam
5) Đài truyền hình Việt Nam
6) Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp
7) Bảo hiểm xã hội
8) Ban quản lí lăng chủ tịch HCM
9) Ban quản lý vốn trong các doanh
nghiệp nhà nước (mới thành lập năm
2018).

Là cơ quan được lập ra để quản lí 1 Cũng là cơ quan được lập ra để quản lý


Quy mô quản ngành, 1 lĩnh vực và ngành, lĩnh vực nhưng nó quản lí 1 lĩnh vực có tính
lý này có quy mô tương đối lớn, ổn định chuyên môn, đặc thù và có quy mô tương
lâu dài, xứng tầm với 1 bộ đối nhỏ, không ổn định lâu dài, không
xứng tầm với 1 bộ.

Được coi là 1 cơ quan cấu thành Cơ quan thuộc Chính phủ không được
Chính phủ và Thủ trưởng cơ quan coi là cơ quan cấu thành Chính phủ,
Địa vị pháp lý ngang bộ được coi là 1 thành viên của người đứng đầu của 9 cơ quan này không
Chính phủ. Người đứng đầu được là thành viên của Chính phủ và người
thành lập theo quy trình 3 bước đứng đầu thành lập bằng 1 bước duy
1) Thủ tướng đề nghị nhất là do Thủ tướng chính phủ kí quyết
2) Quốc hội phê chuẩn định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
3) Chủ tịch nước kí quyết định

+ Ở Việt Nam trước 2001, số lượng các cơ quan thuộc chính phủ là rất đông và được xác định là có
tới 26 cơ quan, nhưng kể từ 2001 nước ta đã tiến hành cải cách triệt để 26 cơ quan này theo hướng
là nhập các cơ quan này lại với nhau hoặc nhập các cơ quan này vào các bộ, các cơ quan ngang bộ
có chức năng tương ứng (vd: Tổng cục hải quan nhập vào Bộ tài chính, Tổng cục địa chính nhập
vào Bộ tài nguyên và môi trường…).
+ Đến năm 2001, chỉ còn có 12 cơ quan, đến năm 2006, chúng ta tiếp tục nhập và giờ đây còn tổng
cộng 9 cơ quan thuộc Chính phủ. Điều đặc biệt, là trước năm 2001 mặc dù chúng ta coi người đứng
đầu cơ quan thuộc Chính phủ không có địa vị pháp lý bằng Bộ trưởng, nhưng trên thực tế những
người này lại được quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật như 1 bộ trưởng.
+ Và kể từ năm 2001 đến nay, thì pháp luật không cho Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ được
quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật nữa. Hiện nay, nước ta còn tồn tại 9 cơ quan nhưng vì
nó quá chuyên môn đặc thù chưa biết nhập vào đâu, nên tạm thời để vậy, sau này nếu có chỗ nhập
phù hợp sẽ nhập luôn.
2. Thành viên của Chính phủ
Bao gồm:
- Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu, lãnh đạo điều hành các hoạt động của Chính phủ, là do
Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội theo lời đề nghị của Chủ tịch nước, Thủ tướng phải
báo các công tác và chịu trách nhiệm trước Quốc hội và lúc Quốc hội không họp thì báo cáo công
tác trước UBTV và Chủ tịch nước.
- Các Phó thủ tướng: số lượng phó thủ tướng bao nhiêu người là do Thủ tướng đề nghị Quốc hội
quyết định. Phó thủ tướng là do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn rồi Chủ tịch nước kí quyết
định bổ nhiệm. Quốc hội chỉ phê chuẩn các Phó thủ tướng, còn thủ tướng mới là người phân công
các mảng công tác.
- Các bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ: là người đứng đầu 1 ngành, 1 lĩnh vực do thủ
tướng đề nghị, quốc hội phê, chủ tịch nước kí quyết định bổ nhiệm.
Chính phủ hiện nay có 26 người: 1 thủ tướng và 3 phó thủ tướng, 18 bộ trưởng, 4 thủ trưởng cơ
quan ngang bộ.
- Trong các thành viên của Chính phủ thì chỉ có Thủ tướng mới bắt buộc là đại biểu quốc hội, còn
phó thủ tướng, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ thì không nhất thiết là đại biểu quốc hội.
Giải thích quy định này:
(1) Thủ tướng phải là đại biểu quốc hội vì 2 lí do sau đây:
- Để đảm bảo tính chấp hành của chính phủ trước quốc hội ở chỗ nếu là đại biểu quốc hội thì thủ
tướng sẽ đương nhiên tham dự kì họp quốc hội và qua đó thủ tướng sẽ nghe và nắm bắt được tâm tư
nguyện vọng, đường lối chủ trương của quốc hội  từ đó Thủ tướng mới về triển khai cho chính
phủ thi hành.
- Để thể hiện được một sự tín nhiệm nhất định của người dân đối với người đứng đầu cơ quan hành
chính cao nhất của đất nước trong bối cảnh mà người đứng đầu cơ quan hành chính này không do
dân trực tiếp bầu ra (người đứng đầu cơ quan hành pháp ở các nước trên thế giới hầu như do dân
trực tiếp bầu).
(2) Những thành viên khác của chính phủ không nhất thiết là đại biểu quốc hội vì 3 lí do sau:
- Tạo ra một cơ sở xã hội rộng rãi cho thủ tướng trong việc lựa chọn các thanh viên khác của chính
phủ nhằm mục đích thu hút nhân tài (nếu những người này mà là đại biểu quốc hội thì thủ tướng chỉ
được chọn trong 500 đại biểu mà thôi, còn nếu quy định không nhất thiết thì thủ tướng được chọn
những người này trong 96 triệu dân  nhiều người tài hơn, không bó hẹp trong 500 người).
- Quy định này để đảm bảo cho quốc hội giám sát chính phủ được khách quan, tránh tình trạng vừa
đá bóng vừa thổi còi, cho nên thành viên của chính phủ không nên là thành viên của quốc hội.
- Quy định này thể hiện một tư duy mới là cần có sự phân công rành mạch giữa lập pháp và hành
pháp, bất khả kiêm nhiệm.
III. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
- Thủ tướng chính phủ được trao những nhiệm vị, quyền hạn riêng tại Đ.98 HP 2013, quy định cho
thủ tướng những nhiệm vụ quyền hạn sau đây:
1. Về mặt nhân sự:
- Thủ tướng đề nghị quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức phó thủ tướng, bộ trưởng
và thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
- Thủ tướng có quyền đề nghị UBTVQH phê chuẩn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đại sứ đặc
mệnh toàn quyền Việt Nam.
- Thủ tướng tự mình bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thủ trưởng các cơ quan thuộc chính phủ, các
thứ trưởng và tương đương với thứ trưởng theo đề nghị của thủ trưởng (cấp phó của thủ trưởng cơ
quan ngang bộ).
- Thủ tướng được quyền phê chuẩn kết quả bầu, kết quả miễn nhiệm, bãi nhiệm chủ tịch và phó chủ
tịch cơ quan UBND cấp tỉnh của HĐND cấp tỉnh.
- Thủ tướng chính phủ còn được tạm giao quyền bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ lúc quốc
hội không họp, tạm giao quyền chủ tịch UBND cấp tỉnh lúc HĐND cấp tỉnh không họp theo đề nghị
của bộ trưởng Bộ nội vụ.
- Thủ tướng có quyền điều động, đình chỉ công tác, cho thôi làm nhiệm vụ, cách chức đối với chủ
tịch và phó chủ tịch UBND cấp tỉnh. Giải thích thuật ngữ “điều động” là…; “cho thôi làm nhiệm
vụ” là do sức khỏe công tác khách quan; “đình chỉ công tác” là tạm thời đình chỉ (ngưng chức vụ)
để điều tra; “cách chức” là sai phạm và bị xử luôn.
LƯU Ý: Trong mối quan hệ giữa thủ tướng với chủ tịch UBND cấp tỉnh và cả phó chủ tịch UBND
 Thủ tướng có rất nhiều quyền (nhưng có 1 quyền không có là quyền bổ nhiệm) bởi vì đầu nhiệm
kì là do HĐND bầu, Thủ tướng chỉ phê chuẩn, còn giữa nhiệm kì thì Thủ tướng có rất nhiều quyền
nhưng không có chỗ để bổ nhiệm. Vì vậy nếu gặp nhận định “Thủ tướng có quyền bổ nhiệm, miễn
nhiệm, bãi nhiệm, cách chức…”  Sai.
2. Về mặt văn bản:
- Thủ tướng được quyền tự mình ban hành 2 loại văn bản: quyết định và chỉ thị. Còn tập thể chính
phủ 26 người thì được quyền ban hành nghị định và nghị quyết.
Thủ tướng thì ban hành quyết định và chỉ thị  Thủ tướng trực tiếp kí
Tập thể chính phủ  nghị định và nghị quyết  Thủ tướng thay mặt kí
Đều do thủ tướng kí
Những văn bản riêng của thủ tướng thì Thủ tướng tự mình kí, tự mình chịu trách nhiệm.
Chính phủ ban hành nghị định: huống dẫn luật,..
Nghị quyết: những quyền hạn nhiệm vụ còn lại của tập thể
Quyết định:
Chỉ thị: truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng trong hệ thống các cơ quan hành chính.
- Thủ tướng được quyền đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của bộ trưởng, thủ
trưởng cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh và chủ tịch UBND cấp tỉnh.
- Đặc biệt lưu ý, Thủ tướng được quyền đình chỉ thi hành những nghị quyết sai trái của UBND cấp
tỉnh và đề nghị UBTVQH bãi bỏ.
LƯU Ý: Nếu làm Thủ tướng mà phát hiện 1 UBND cấp tỉnh có lỡ ban hành văn bản sai thì Thủ
tướng có quyền đình chỉ hoặc bãi bỏ luôn. Nhưng làm Thủ tướng mà phát hiện HĐND cấp tỉnh ra
nghị quyết sai thì Thủ tướng chỉ tạm đình chỉ thi hành, mà Thủ tướng phải đề nghị UBTVQH,
UBTV ra nghị quyết để bãi bỏ nghị quyết của HĐND.
Giải thích chỗ này: Bởi vì HDND là 1 cơ quan dân cử do nhân dân ở địa phương bầu ra, không
nằm trong hệ thống hành chính của Thủ tướng và không do Thủ tướng thành lập (con nhà hàng
xóm)  khi phát hiện nó sai, thì chỉ được quyền đình chỉ hành vi sai trái và giao cho UBTV bãi bỏ.
Trong khi đó, UBND lại là cơ quan hành chính nằm trong hệ thống hành chính và chịu sự quản lý
trực tiếp của Thủ tướng, Thủ tướng được quyền thành lập, chỉ đạo và UBND phải báo cáo công tác
và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng (con nhà mình)  đình chỉ hoặc bãi bỏ luôn.
* SO SÁNH VỀ CHẾ ĐỘ LÀM VIỆC VÀ ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU
CHÍNH PHỦ THEO HP 1992 – 2013 VỚI BẢN HP 1980.

Chủ tịch hội đồng bộ trưởng theo HP Thủ tướng chính phủ theo HP 1992 và 2013
1980
HP 1980 gọi cơ quan hành chính cao nhất Rút kinh nghiệm này HP 1992 và 2013 đã biết kết
của đất nước là Hội đồng Bộ trưởng và hợp giữa chế độ làm việc tập thể của Chính phủ và
người đứng đầu là chủ tịch Hội đồng Bộ đề cao vai trò của cá nhân người đứng đầu. HP
trưởng  cách gọi này mang tính chất cảm 1992 đã đổi tên Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ
tính giống cách gọi theo hiến pháp Liên Xô và người đứng đầu là Thủ tướng. Nếu Điều 96 của
và nó phản ánh việc đề cao tinh thần làm HP 2013 quy định cho tập thể Chính phủ những
chủ tập thể, càng đông càng vui (Điều 104 nhiệm vụ quyền hạn chung thì Điều 98 của HP
HP 1980). 2013 lại quy định cho Thủ tướng Chính phủ những
Do HP 1980 quá đề cao tinh thần làm chủ nhiệm vụ quyền hạn riêng. Đặc biệt là Thủ tướng
tập thể ở chỗ tất cả nhiệm vụ quyền hạn đều đã được trao những nhiệm vụ quyền hạn mà người
giao cho tập thể Hội đồng Bộ trưởng 47 đứng đầu cơ quan hành chính cao nhất phải có:
người bàn bạc và quyết định theo đa số, chủ - Được quyền lựa chọn các thành viên khác của
tịch Hội đồng Bộ trưởng không có nhiệm vụ Chính phủ, đề nghị Quốc hội để Quốc hội phê
quyền hạn riêng mà chỉ được quan niệm là 1 chuẩn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
người có vai trò điều khiển hợp hành, kí hợp - Được quyền điều động, đình chỉ công tác và cách
thức hóa các quyết định đã rồi của tập thể chức đối với chủ tịch và phó chủ tịch UBND cấp
Hội đồng Bộ trưởng mà thôi (Hội đồng Bộ tỉnh. Thậm chí đến luật tổ chức chính phủ 2015
trưởng những năm 1980 có tới 47 người vì còn trao cho thủ tướng quyền tạm giao quyền bộ
gồm có 1 chủ tịch, 9 phó chủ tịch, 28 bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và chủ tịch
trưởng, 8 chủ nhiệm ủy ban nhà nước và 1 UBND cấp tỉnh.
tổng giám đốc ngân hàng). Đặc biệt là bản Với những quyền này thì thủ tướng Chính phủ đã
HP 1980 không trao cho chủ tịch Hội đồng trở thành 1 thiết chế quyền lực theo đúng nghĩa, 1
Bộ trưởng những nhiệm vụ quyền hạn mà lẽ người đứng đầu cơ quan hành chính cao nhất của
ra người đứng đầu của cơ quan hành chính đất nước theo đúng nghĩa và từ đó nó tạo ra cho
cao nhất phải có: Thủ tướng những uy quyền, tiếng nói, vai trò và
- Không được quyền đề nghị Quốc hội phê khả năng điều hành quản lý đất nước để tạo nên sự
chuẩn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thông suốt trong hệ thống hành chính (trên nói,
đối với các thành viên còn lại của Hội đồng dưới phải nghe). Điều này chứng tỏ, các nhà lập
Bộ trưởng (theo HP 1980 thì tất cả thành hiến năm 92 và 2013 đã nhận thức lại rằng chính
viên Hội đồng Bộ trưởng đều do Quốc hội phủ mạnh là Chính phủ của ít người, Chính phủ
bầu trong số các đại biểu Quốc hội). mạnh phải là chính phủ của 1 người, người đứng
- Không được quyền điều động, đình chỉ đầu, đối với chính phủ không chơi trò làm chủ tập
công tác, cách chức đối với các chủ tịch, thể được mà phải đề cao vai trò của người đứng
phó chủ tịch của UBND cấp tỉnh. đầu.
Vì thế nó đã gây ra khó khăn cho chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng trong việc điều hành và
quản lý đất nước  dẫn đến tình trạng
không thông suốt trong hệ thống hành chính
(trên nói, dưới không nghe)  không thể
nào quản lý được. Đặc biệt điều nguy hiểm
hơn là với tinh thần làm chủ tập thể tràn lan,
làm cho việc điều hành quản trị của ông chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng không được hiệu
quả, không đáp ứng yêu cầu quản lý, không
thể quy kết trách nhiệm nếu có sai phạm.

TÒA ÁN NHÂN DÂN VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CÁC CẤP
A. TÒA ÁN NHÂN DÂN CÁC CẤP
I. NGHIÊN CỨU VỀ VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ QUYỀN HẠN CỦA
TÒA ÁN (Điều 102 của HP 2013) ** (quan trọng, dễ vô thi)
Theo Điều 102 HP 2013, Tòa án là cơ quan được lập ra để thực hiện 1 chức năng duy nhất là xét xử
- Xét xử là hoạt động Tòa án nhân danh nước CHXHCNVN để ra một phán quyết về một trong
những tình huống sau đây (lưu ý ngay: khi xét xử Tòa án nhân danh nước CHXHCNVN chứ Tòa án
không có nhân danh nhà nước bởi vì thuật ngữ nhà nước được hiểu là cơ quan nhà nước, cán bộ
công chức hay còn gọi là nhà cầm quyền, vì vậy nếu mà Tòa án nhân danh nhà nước để xét xử thì
vô tình chúng ta đã biến Tòa án thành một công cụ trong tay nhà nước để mà xử lí và trừng trị dân
chúng  Câu hỏi đặt ra vậy cán bộ công chức nhà nước mà làm sai, nhà cầm quyền làm sai thì họ
không phải là đối tượng trừng trị của tòa  đó là điều không có dân chủ. Trong khi đó phạm trù
nước CHXHCNVN được hiểu là toàn bộ đất nước, toàn bộ con người và toàn thể dân tộc Việt Nam,
nếu tòa nhân danh nước CHXHCNVN thì Tòa án mới thực sự là công cụ trong tay người dân, được
nhân dân trao cho quyền tư pháp để bảo vệ công lý và bảo vệ nhân quyền  nếu cán bộ công chức
làm sai thì tòa vẫn xử như thường dân, thậm chí là nặng hơn):
- Tòa sẽ phán quyết về một hành vi nào đó mà theo quy định của bộ luật hình sự thì có phải tội
phạm hay không và cần áp dụng hình phạt gì cho tội phạm đó (phán quyết như vậy gọi là phán
quyết trong lĩnh vực hình sự (vụ án hình sự)).
- Tòa sẽ ra một phán quyết để giải quyết một tranh chấp nào đó trong giao lưu đời thường như các
tranh chấp về dân sự, thừa kế, hợp đồng, thương mại, đất đai,… (tất cả các án nào không dính đến tù
tội thì được xếp vào án dân sự. Nhìn chung án ở tòa án chỉ có 2 loại: án nào dính đến tù tội là án
hình, còn lại là dân sự).
- Xét xử còn hiểu là hoạt động nhân danh nước CHXHCNVN để giải quyết những vụ việc khác theo
quy định của pháp luật: Tòa án được pháp luật trao cho quyền tuyên bố tình trạng phá sản doanh
nghiệp, được quyền giải quyết những khiếu nại có liên quan đến danh sách cử tri.
* Nhìn chung hoạt động xét xử của tòa án có những đặc điểm sau đây:
- Nên hiểu theo 1 nghĩa rộng, xã hội càng được dân chủ thì phạm vi xét xử càng được mở rộng.
- Chỉ có hoạt động xét xử của tòa là được nhân danh nước CHXHCNVN, cho nên bản án quyết định
của tòa là có hiệu lực pháp lý cao nhất và nó có khả năng thay thế cho các quyết định của trọng tài,
quyết định của hòa giải hoặc quyết định giải quyết khiếu kiện của các cơ quan hành chính nhưng
không có chiều ngược lại.
- Hoạt động xét xử của Tòa nhìn chung có 4 thủ tục: xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và
tái thẩm. Trong 4 thủ tục này chỉ có sơ thẩm và phúc thẩm được coi là 1 cấp xét xử còn giám đốc
thẩm và tái thẩm không là 1 cấp xét xử mà nó chỉ được coi là 1 thủ tục đặc biệt nhằm để xem xét lại
bản án quyết định của Tòa đã có hiệu lực pháp luật. Nếu án đã có hiệu lực mà lại phát hiện các tình
tiết mới, có khả năng làm đảo lộn hoàn toàn sự thật vụ án (sai về mặt nội dung) thì trong trường hợp
này bản án đó sẽ được xem xét lại theo thủ tục đặc biệt gọi là tái thẩm, còn nếu án đã có hiệu lực mà
lúc đó mới phát hiện những lỗi sai nghiêm trọng về mặt tố tụng (sai về luật hình thức) thì bản án đó
sẽ được xem xét lại với thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm.
 So sánh Điều 102 của HP 2013 với Điều 127 của HP 1992 về chức năng và nhiệm vụ của
Tòa án.
1. Điểm mới về chức năng: lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của Việt Nam Điều 102 của HP 2013
đã chính thức quy định TAND là cơ quan thực hiện “quyền tư pháp”. Giải thích và bình luận điểm
mới này:
(1) Với việc quy định Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp chứng tỏ HP 2013 đã tiếp tục có sự
phân công, phân nhiệm rõ ràng hơn, rành mạch giữa các nhánh quyền lực, HP 2013 đã có sự tiếp thu
ngày càng nhiều những hạt nhân hợp lý của học thuyết phân quyền (chúng ta phân quyền hóa bộ
máy nhà nước) cụ thể là nếu như tại Điều 2 của HP 1992 mới chỉ đề cập và nhắc đến tên của 3
nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp nhưng trong toàn bộ bản HP 1992 chưa quy định rõ
là cơ quan nào thực hiện quyền lực gì. Rút kinh nghiệm này thì đến HP 2013 đã quy định rõ ràng cụ
thể cơ quan nào thực hiện quyền lực gì. Điều 69 Quốc hội thực hiện quyền lập pháp , Điều 94 Chính
phủ - hành pháp, giờ đây Điều 102 Tòa án – tư pháp.
(2) Với việc tuyên bố Tòa án thực hiện quyền tư pháp thì Tòa án đã là nhánh quyền lực thực sự nắm
trọn vẹn 1 loại quyền lực trong cơ cấu 3 quyền mà cấu thành quyền lực nhà nước. Với tư cách là cơ
quan thực hiện quyền tư pháp thì Tòa án đã có 1 thân phận độc lập hơn, cân bằng hơn với 2 nhánh
quyền lực còn lại, Tòa án phải chủ động trong việc thực hiện quyền tư pháp và phải tự chịu trách
nhiệm trước Quốc hội và nhân dân nếu có sai phạm xảy ra.
(3) Đặc biệt với việc tuyên bố Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp thì đã góp phần quan
trọng làm cho người Việt Nam hiểu về quyền tư pháp theo 1 nghĩa hẹp, rất rất hẹp phù hợp với
thông lệ quốc tế và qua đó góp phần vào việc xây dựng hệ thống Tòa án độc lập mạnh mẽ trong
chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta trong thời gian tới.

Quan niệm của các nước trên thế giới về


quyền tư pháp và cơ quan thực hiện Việt Nam
quyền tư pháp

Đa số các nước trên thế giới đều hiểu quyền Trong khi đó người Việt Nam có quan điểm ngược
tư pháp theo 1 nghĩa rất rất hẹp, hẹp đến lại hoàn toàn với thế giới, hiểu tư pháp và quyền tư
mức không thể hẹp hơn. Đa số các nước pháp theo 1 nghĩa rất rất rộng (rộng đến mức không
trên thế giới đều hiểu quyền tư pháp là thể rộng hơn). Việt Nam hiểu quyền tư pháp bao
quyền tài phán và quyền tài phán là quyền gồm những quyền sau:
xét xử (3 từ này đồng nghĩa).Với cách hiểu - Quyền xét xử của tòa án.
này, đa số các nước thế giới đều cho rằng - Quyền công tố của Viện kiểm sát cũng là quyền tư
chỉ có Tòa án mới là cơ quan tư pháp và pháp.
thực hiện quyền tư pháp, toàn bộ quyền tư - Quyền điều tra của công an điều tra vẫn là quyền
pháp nằm trong tay Tòa án, Tòa án đã nắm tư pháp.
trọn vẹn 1 loại quyền lực và là 1 nhánh - Quyền thi hành án cũng quyền tư pháp.
quyền lực thật sự  Vì thế mà Tòa án ở các - Bổ trợ tư pháp chính là công chứng luật sư.
nước rất độc lập và rất mạnh mẽ  Bởi vì ở Bình luận về cách hiểu này: Với cách hiểu này thì
các nước trên thế giới thì Tòa án có vị trí chứng tỏ quyền tư pháp ở Việt Nam đã bị chia năm
độc lập và cân bằng với 2 nhánh quyền lực xẻ bảy cho rất nhiều cơ quan khác nhau.
còn lại, và có khả năng kiểm soát 2 loại Đây là biểu hiện của việc phân công, phân nhiệm
quyền lực này  Tòa án thật sự là công cụ không rõ ràng (ở Việt Nam thì muốn xét xử được
trong tay của người dân để bảo vệ công lý, thì phải có chứng cứ  thân phận thẩm phán ở Việt
dân chủ, công bằng, là cái nơi để người dân Nam bị lệ thuộc nhiều vào kiểm sát viên và công
tìm thấy cái lẽ công bằng chung, giá trị đạo an). Đặc biệt điều nguy hiểm hơn là ở Việt Nam lại
đức công lý và nền dân chủ (Nghị viện và có biểu hiện là hành chính háo các hoạt động tư
quan chức Chính phủ mà làm sai thì tòa sẽ pháp (để cho các cơ quan hành chính như là Bộ
xử như thường dân). công an, Bộ tư pháp) lấn sân hoạt động tư pháp và
Đa số các nước trên thế giới đều coi hoạt tranh giành quyền tư pháp với tòa  biểu hiện của
động điều tra tìm chứng cứ là hoạt động phân công, phân nhiệm không rõ ràng  không thể
hành pháp. Hoạt động thi hành án là trực quy kết trách nhiệm nếu có sai phạm.
thuộc Bộ tư pháp  cũng là hành pháp. Như vậy, kể từ 2013, với quy định tại Điều 102 Tòa
Ngay cả hoạt động viết cáo trạng để tố cáo án thực hiện quyền tư pháp, ý đồ của các nhà lập
tội phạm cũng là hoạt động hành pháp (vì hiến là chỉ được coi là chỉ có Tòa án mới là cơ quan
Nghị viện - làm luật, Chính phủ - thi hành tư pháp, toàn bộ quyền tư pháp nằm trong tay tòa án
luật và trong quá trình thi hành luật có ai đó và phải hiểu về quyền tư pháp theo 1 nghĩa hẹp thì
làm sai luật thì bản thân Chính phủ phải đi Tòa án mới độc lập và mạnh mẽ được. Và đây cũng
tìm chứng cứ thì bản thân Chính phủ phải là lí do mà HP 2013 quy định chỉ có Chánh án tối
viết cáo trạng tội phạm  vì vậy mà việc cao mới đọc lời tuyên thệ trước Quốc hội, còn Viện
viết cáo trạng tố cáo tội phạm là quyền hành trưởng thì không.
pháp (VD: ở Mỹ thì Tổng công tố liên bang
Mỹ là Bộ trưởng tư pháp Mỹ là thành viên
của Chính phủ do Tổng thống,..) ở trên thế
giới người ta chỉ coi Tòa án là cơ quan tư
pháp, độc lập và rất mạnh.

2. Điểm mới về nhiệm vụ của tòa án


Theo HP92 Theo Đ.102 của HP 2013
Hp92 quy định cả tòa án và viện kiểm sát đều có Rút kinh nghiệm này Đ.102 của HP 2013 đã
chung 1 nhiệm vụ đó là nhiệm vụ bảo vệ pháp quy định lại tòa án, VKSND có nhiệm vụ riêng,
chế XHCN (với việc quy định tòa án và viện không cùng chung nhiệm vụ nữa. Theo đó tòa
kiểm sát có chung nhiệm vụ chứng tỏ là HP92 án sẽ có nhiệm vụ bảo vệ công lí, bảo vệ quyền
vẫn còn có tư duy đánh đồng giữa tòa án và viện con người, quyền công dân (bảo vệ công lí và
kiểm sát. Còn bảo vệ pháp chế XHCN thì được nhân quyền).
hiểu là bảo vệ trật tự pháp luật do nhà nước Giải thích: bảo vệ công lí là bảo vệ lẽ phải, bảo
XHCN đặt ra hay nói khác đi bảo vệ pháp chế vệ công bằng chung trong cuộc sống và tòa án
XHCN là bảo vệ ý chí và lợi ích của nhà cầm còn bảo vệ nhân quyền tức là bảo vệ toàn bộ
quyền  với cách hiểu này thì nó kém văn minh người dân việt nam chứ không chỉ bảo vệ riêng
và kém dân chủ ở chỗ vô tình chúng ta biến tòa nhà cầm quyền. Nhìn chung, từ công lí và nhân
án thành công cụ trong tay NN để quản lí, trừng quyền thì nó mang ý nghĩa nhân văn và tiến bộ
trị người dân và vì thế nhà nước, nhà cầm quyền sâu sắc hơn nhiều so với từ bảo vệ pháp chế
không trở thành đối tượng xét xử của tòa XHCN vì 3 lẽ sau:

(1) Nếu hiểu tòa bảo vệ pháp chế XHCN thì luật của nhà nước quy định như thế nào thì tòa phải xử
đúng y như vậy, bất chấp đạo luật đó có vi hiến không, có vi phạm nhân quyền không. Trong khi đó
nếu hiểu tòa bảo vệ công lý và nhân quyền thì đứng trước 1 đạo luật có dấu hiệu vi hiến và vi phạm
nhân quyền thì tòa án có quyền từ chối xét xử.
(2) Nếu hiểu tòa án bảo vệ pháp chế XHCN tức là bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích nhà cầm quyền
cho nên chỉ khi nào người dân làm cái gì sai trái thì tòa mới xử, còn cán bộ công chức nhà nước,
nhà cầm quyền mà làm sai thì nó không nằm trong đối tượng xét xử của tòa. Nếu hiểu tòa bảo vệ
công lý và nhân quyền thì nếu cán bộ công chức nhà nước mà có hành vi sai trái, không đúng thì tòa
án sẽ xử phạt như thường dân
(3) Nếu hiểu tòa án là bảo vệ pháp chế XHCN thì muốn có pháp chế thì phải có pháp luật vì vậy cái
vụ án đó phải có luật thì tòa mới được quyền xử. Còn nếu đứng trước một vụ việc mà quốc hội chưa
kịp làm luật hoặc luật có chỗ hỏng thì thẩm phán ngồi chơi, không phải từ chối xét xử. Còn nếu hiểu
tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lí và nhân quyền đứng trước một vụ việc mà quốc hội chưa kịp làm
luật hoặc luật có lỗ hỏng kẻ hở thì thẩm phán phải bằng năng lực, kinh nghiệm, nội tâm và thậm chí
bằng tất cả tư chất của 1 người thẩm phán để thẩm phán sẽ tự mình ra 1 bản án để giải quyết vụ việc
đó và miễn chứng minh với xã hội rằng bản án đó là công lý, là công quyền, là lẽ phải  để các
thẩm phán áp dụng bản án đó cho những vụ việc tương tự về sau (án lệ: nói nôm na thừa nhận thẩm
phán sáng tạo ra luật).
II. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CÁC CẤP
1. Hệ thống tòa án ở Việt Nam
- Bao gồm: tòa án nhân dân và tòa án quân sự.
+ Tòa án quân sự được lập ra để xử quân nhân phạm tội hoặc dân thường phạm tội mà có liên quan
đến quân đội. Tòa quân sự thì bao gồm có Tòa quân sự trung ương (phân tòa nằm bên trong của
TANDTC, 1 phó chánh án của tòa tối cao sẽ đồng thời là chánh án của tòa quân sự trung ương),
dưới tòa quân sự trung ương là tòa quân sự quân khu  dưới tòa quân sự quân khu là tòa quân sự
khu vực).
+ Còn tòa án nhân dân được lập ra để xử các vụ còn lại. Bao gồm TANDTC, dưới TANDTC có tòa
án nhân dân cấp cao (ở VN lập ra 3 tòa cấp cao: hà nội, đà nẵng, tphcm  dưới tòa cấp cao là
TAND cấp tỉnh, dưới tỉnh là huyện).
- Như vậy về cơ bản ở nước ta hiện nay thì tòa án được lập ra theo mô hình đơn vị hành chính lãnh
thổ từ cấp huyện trở lên (cứ 1 huyện lập 1 tòa, cứ 1 tỉnh lập 1 tòa). Tuy nhiên cách thức lập tòa án
như hiện nay được coi là lỗi thời, không phù hợp với thông lệ quốc tế (Trên thế giới không ai lập tòa
như ở VN), việc lập tòa như này phản ánh tâm lí cào bằng của VN, nó còn là nguyên nhân để gây ra
tồn đọng án của nhiều nơi, trong khi đó một số nơi không có án để xử (vd: theo thống kê hiện nay
thì cả 1 tòa án của huyện Côn Đảo xử khoảng tầm 3 - 4 vụ thôi, năm nào được mùa thì khoảng 5 vụ
 ngồi chơi xơi nước, lục nghề. Trong khi đó tòa án nhân dân quận Bình Thạnh thì 1 tuần 1 ông
thẩm phán đã xử 50 – 60 vụ, nó còn là nguyên nhân dẫn đến tòa án và thẩm phán không có sự độc
lập, lệ thuộc vào chính quyền địa phương nơi nó đóng trụ sở  nhiều cái dở). Nhận thấy điểm bất
hợp lí này cho nên Đảng và nhà nước ta đã đề ra chủ trương và chiến luộc để cải cách tư pháp là cần
nghiên cứu để tổ chức tòa án theo mô hình cấp xét xử chứ không theo đơn vị hành chính lãnh thổ
như hiện nay.
+ Tổ chức tòa theo cấp xét xử: có nghĩa là sẽ lập tòa theo số dân và luận án, ở đâu dân đông án
nhiều thì chúng ta phải lập tòa và ngược lại dân ít, án ít thì gợp lại lập 1 tòa. VD chúng ta quy định
cứ 10k dân thì sẽ lập tòa sơ thẩm  Quận Bình thạnh 40 - 50 ngàn dân thì phải có 6 tòa sơ thẩm,
mỗi tòa sơ thẩm phụ trách 10 ngàn dân. Trong khi đó Mường Lát của Thanh Hóa thì phải kết hợp
với huyện kế bên thì mới lập thành 1 tòa.
MỘT SỐ LƯU Ý QUAN TRỌNG TRƯỚC KHI NGHIÊN CỨU VỀ TAND
(1) Cần phân biệt thuật ngữ “Chánh án” và “Thẩm phán”:
- Thẩm phán được hiểu là chức danh nghề nghiệp và chức danh Thẩm phán được đào tạo chuyên 1
nhiệm vụ là xét xử và trong 1 tòa án sẽ có nhiều thẩm phán, và để quản lí các Thẩm phán trong tòa
án sẽ có chức danh Chánh án  Chánh án là 1 chức danh quản lí, sẽ được bổ nhiệm theo nhiệm kì,
không trường tồn mãi mãi. Thẩm phán là 1 nghề nghiệp (phân biệt giống như giảng viên ĐH Luật
với hiệu trưởng ĐH Luật)  Vấn đề là muốn ngồi vào ghế Chánh án thì có cần là Thẩm phán hay
không  Tùy từng trường hợp, cụ thể là:
TH1: đối với Chánh án tòa cấp cao, tòa tối cao thì những tòa án này lập ra chủ yếu là để quản lí,
không xét xử. Vì vậy để đáp ứng yêu cầu quản lý thì Đảng và nhà nước có thể điều 1 người ngoài
ngành để ngồi vào ghế Chánh án tối cao và cấp cao. Vì vậy mà Chánh án tối cao và cấp cao không
cần phải là thẩm phán.
TH2: trong khi đó với chánh án tòa cấp huyện và chánh án tòa cấp tỉnh, chủ yếu là để xét xử chứ nó
không quản lý ai cả. Vì vậy chánh án của tòa cấp tỉnh, cấp huyện bắt buộc phải là 1 thẩm phán,
thậm chí phải là 1 thẩm phán giỏi, chuyên môn tốt và nổi bật hơn các thẩm phán khác.
(2) Cần phân biệt thuật ngữ “thư kí tòa án” và “thư kí phiên tòa”:
- “Thư kí tòa án” - được coi là một người trợ lí, người giúp việc, là người chăm lo công việc hành
chính, sự vụ của một tòa án, đây là người trợ lí đắc lực cho Chánh án. “Thư kí phiên tòa” - chỉ là
một người ghi chép lại diễn biến trong một phiên tòa cụ thể, thì người ta gọi là Thư kí phiên tòa
(3) Một điểm mới của Luật tổ chức Tòa án 2014 là tiến hành chia đội ngũ thẩm phán VN ra làm 4
ngạch thẩm phán bao gồm: ngạch thẩm phán TANDTC, ngạch thẩm phán cao cấp, ngạch thẩm phán
trung cấp, ngạch thẩm phán sơ cấp.
Giải thích ngạch thẩm phán: nói lên trình độ, tay nghề của thẩm phán  vì vậy mà các thẩm phán
phải thi để nâng ngạch. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì:
- TANDTC chỉ có một ngạch thẩm phán duy nhất đó là ngạch thẩm phán TANDTC. Người đã có
ngạch thẩm phán TANDTC mà muốn trở thành thẩm phán TANDTC thì phải theo quy trình 3 bước:
+ Bước 1: Phải được Hội đồng tuyển chọn và giám sát thẩm phán quốc gia xem xét hồ sơ  thì
Chánh án TANDTC sẽ lập danh sách những người đủ điều kiện
+ Bước 2: Quốc hội phê chuẩn
+ Bước 3: Chủ tịch nước kí bổ nhiệm
- Còn tòa án nhân dân cấp cao chỉ có 1 ngạch thẩm phán là ngạch thẩm phán cao cấp. Người đã có
ngạch thẩm phán cao cấp mà muốn trở thành thẩm phán tòa án nhân dân cấp cao thì nhìn chung phải
được hội đồng tuyển chọn và giám sát thẩm phán quốc gia xem xét, Chánh án tối cao sẽ lập danh
sách đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm.
- Đối với TAND cấp tỉnh có thể có 3 ngạch thẩm phán: cao cấp, trung cấp, sơ cấp. Người đã có 3
ngạch thẩm phán này rồi mà muốn trở thành thẩm phán của TAND cấp tỉnh thì cũng phải được Hội
đồng tuyển chọn và giám sát thẩm phán quốc gia xem xét hồ sơ, Chánh án tối cao sẽ lập danh sách
đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm.
- TAND cấp huyện có 2 ngạch thẩm phán: trung cấp và sơ cấp. Người có 2 ngạch thẩm phán này
muốn trở thành thâm phán TAND cấp huyện thì cũng phải được Hội đồng tuyển chọn và giám sát
thẩm phán quốc gia xem xét hồ sơ, Chánh án tối cao sẽ lập danh sách đề nghị Chủ tịch nước bổ
nhiệm.
Như vậy, từ những quy định trên đây thì sẽ dẫn đến 1 tình huống trong thực tế là sẽ có 1 người đã có
ngạch thẩm phán trung cấp nhưng họ mới là thẩm phán của TAND cấp huyện, trong khi đó có người
chỉ có người có ngạch sơ cấp mà đã là thẩm phán tòa tỉnh  Đây là hiện tượng rất bình thường,
không có gì kì quái, bình thường ở chỗ mỗi 1 loại tòa nó chỉ quy định tối thiểu điều kiện để được vô
làm trong tòa đó thôi cho nên có những người có điều kiện cao hơn điều kiện tối thiểu nhưng người
ta vẫn có nguyện vọng để vào cơ quan đó thì đó là điều rất bình thường  đó là mong muốn và nhu
cầu của các thẩm phán.
2. Cơ cấu tổ chức của TANDTC (điều 21)
a) Thành viên:
- Chánh án TANDTC là người đứng đầu lãnh đạo, không bắt buộc phải là 1 thẩm phán và Chánh án
là do quốc hội bầu miễn nhiệm bãi nhiệm theo đề nghị của CTN, nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc
hội, không bắt buộc là đại biểu Quốc hội.
- Các phó chánh án - do Chánh án đề nghị rồi CTN kí quyết định bổ nhiệm, bãi nhiệm, cách chức,
nhiệm kì các Phó chánh án là 5 năm kể từ ngày bổ nhiệm (chỉ được chọn trong số các thẩm phán
TANDTC).
- Thẩm phán TANDTC là do Chánh án đề nghị, Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước kí quyết định
bổ nhiệm, nhiệm kì của thẩm phán TANDTC là 5 năm kể từ ngày bổ nhiệm, còn nếu tái bổ nhiệm là
10 năm.
- Thẩm tra viên – có chức năng thẩm tra lại 1 bản án hoặc thẩm tra việc thi hành án theo đề nghị của
Chánh án, Thẩm tra viên sẽ do Chánh án bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kì 5 năm kể từ
ngày bổ nhiệm.
- Thư kí tòa án – do Chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kì 5 năm tính từ
ngày được bổ nhiệm.
- Công chức, viên chức và người lao động khác – do Chánh án TANDTC tuyển dụng và bổ nhiệm
vào làm việc.
b) Cơ quan cấu thành: được cấu thành bởi những cơ quan sau đây:
+ Hội đồng thẩm phán TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất của đất nước (được ví như trí tuệ, tinh
hoa, bộ não của nền tư pháp Việt Nam), bao gồm Chánh án TANDTC, các Phó chánh án TANDTC
là Thẩm phán TANDTC và các Thẩm phán TANDTC.
Giải thích chỗ này: Ở Việt Nam hiện này thì các phó chánh án của tòa tối cao chỉ được chọn trong
số các thẩm phán của tòa tối cao cho nên phó chánh án tòa tối cao luôn luôn là thẩm phán và vì vậy
phó chánh án tối cao luôn là 1 thành viên đương nhiên của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Trong
khi đó, Chánh án TANDTC thì có 2 khả năng xảy ra:
(1) Trước khi ngồi vào ghế Chánh án ổng đã là thẩm phán của tòa tối cao, thì chánh án sẽ là thành
viên của Hội đồng thẩm phán tòa tối cao. Nói khác đi, chỉ có chánh án của tòa tối nào mà là thẩm
phán của tòa tối cao thì mới là thành viên của Hội đồng thẩm phán TANDTC bởi vì đây là cơ quan
xét xử cao nhất cả nước nên người nào ngồi vào là phải có chuyên môn, nghiệp vụ về xét xử.
(2) Có những ông Chánh án tối cao do Đảng và NN điều động từ nơi khác về và không là thẩm phán
tòa tối cao => không là thành viên của Hội đồng thẩm phán TANDTC.
Kết luận: không phải chánh án TANDTC nào cũng là thành viên của Hội đồng thẩm phán
TANDTC.
- Thẩm phán TANDTC có ít nhất 13 người, tối đa 17 người (Hội đồng thẩm phán tối cao có thể có
13-15-17 chứ không có 14-16). Hội đồng thẩm phán TANDTC sẽ họp mỗi tháng 1 phiên và là cơ
quan duy nhất được quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật mang tên là Nghị quyết => Nghị
quyết của Hội đồng thẩm phán tòa tối cao dùng để hướng dẫn tòa cấp dưới áp dụng thống nhất PL,
phát triển án lệ và tổng kết kinh nghiệm xét xử => phiên họp của các Hội đồng thẩm phán tòa tối
cao chỉ được coi là hợp lệ khi có ít nhất 2/3 thành viên tham dự và các nghị quyết được thông qua
nếu có quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.
+ Bộ máy giúp việc
+ Lập ra các cơ sở đào tạo bồi dưỡng
3. Cơ cấu tổ chức của TAND cấp cao
a) Thành viên gồm có những chức danh
- chánh án TAND cấp cao – do chánh án TANDTC bổ nhiệm, nhiệm kì 5 năm tính từ ngày được bổ
nhiệm.
- Các phó chánh án TAND cấp cao – do chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức,
nhiệm kì 5 năm tính từ ngày được bổ nhiệm.
- Thẩm phán TAND cấp cao (mới ghi ở trên).
- Các chánh tòa và phó chánh tòa – chánh án cấp cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kì 5
năm tính từ ngày được bổ nhiệm.
- Thư kí tòa án, thẩm tra viên, công chức, viên chức, người lao động – là do chánh án cấp cao tuyển
dụng và bổ nhiệm, nhiệm kì 5 năm.
b) Cơ quan cấu thành
+ Ủy ban thẩm phán – gồm chánh án tòa cấp cao, các phó chánh án là thẩm phán cao cấp (chỉ có
chánh án cấp cao nào là thẩm phán cao cấp thì mới là thành viên của ủy ban thẩm phán TAND cấp
cao, còn chánh án cấp cao nào được điều ngoài ngành vào thì không là thành viên của Ủy ban thẩm
phán TAND cấp cao) và một số thẩm phán cao cấp do Chánh án TANDTC quyết định theo đề nghị
của Chánh án TAND cấp cao (thành viên của UB thẩm phán là có từ 11 – 13 người).
+ Các tòa chuyên trách - mỗi tòa cấp cao sẽ lập ra 6 tòa chuyên trách bao gồm: Tòa hình sự, tòa dân
sự, tòa lao động, tòa kinh tế, tòa hành chính, tòa gia đình và người chưa thành niên (mới được lập
theo luật năm 2015).
+ Bộ máy giúp việc – các văn phòng,…
Theo nghị quyết 51 năm 2001 cho đến nay: sau nhiều năm giao cho VKSND thực hiện chức năng
kiểm sát chung nó đã phát sinh và bộc lộ rất nhiều bất cập, mà bất cập lớn nhất là đối tượng kiểm sát
chung quá rộng, bao gồm: tất cả văn bản, tất cả hành vi của tất cả chủ thể từ Bộ trở xuống  bản
thân Viện kiểm sát cũng không kiểm sát hết được. Và trên thực tế ở VN có rất nhiều cơ chế về thanh
tra, kiểm tra, giám sát và kiểm sát trong bộ máy nhà nước  tạo ra tình trạng đùn đẩy trách nhiệm
cho nhau (cha chung không ai khóc, nhiều sải không ai đóng cửa chùa), chồng chéo giẫm đạp lên
nhau,…Xuất phát từ những bất cập này, đến năm 2001 quốc hội đã ban hành nghị quyết 51 để sửa
đổi HP 1992 thu hẹp chức năng kiểm sát chung của VKSND . VÀ kể từ năm 2001 đến nay thì
VKSND ở Việt Nam chỉ còn được thực hiện 2 chức năng sau: thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp.
Giải thích “kiểm sát các hoạt động tư pháp” là VKS chỉ được kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp trong
hoạt động và trong hành vi của 4 cơ quan sau:
+ Hoạt động điều tra của công an điều tra.
+ Hoạt động xét xử của tòa.
+ Hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án.
+ Hoạt động tạm giam, tạm giữ người.
VKSND từ năm 1952 đến 2001: bắt đầu từ HP 1959 thì chúng ta đã thành lập 1 hệ thống VKSND
là bởi vì kể từ HP 1959 chúng ta đã áp dụng nguyên tắc “Tập quyền XHCN” trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước và VKSND được coi là cơ quan đặc thù trong bộ máy nhà nước XHCN
với cơ chế tập quyền.
 Giải thích: trong tập quyền XHCN thì Quốc hội được xem là cơ quan quyền lực cao nhất và có
toàn quyền. Quốc hội được quyền giám sát toàn bộ hoạt động của nhà nước từ trung ương đến địa
phương. Nhưng trên thực tế với chế độ làm việc kiêm nhiệm 1 năm họp 2 kì thì bả thân Quốc hội
chỉ giám sát được tầng cao nhất của bộ máy nhà nước từ Bộ trở lên mà thôi, quốc hội không thể với
tay tới được phần còn lại của bộ máy nhà nước từ Bộ trở xuống .Vì vậy, quốc hội đành phải thành
lập thêm VKSND như một cánh tay nối dài của Quốc hội trong cơ chế tập quyền để giúp Quốc hội
kiểm tra, giám sát phần còn lại của bộ máy nhà nước từ Bộ trở xuống.
LƯU Ý: Vì vậy tên của cơ quan này phải là “Viện kiểm sát” chứ không phải là “Kiểm soát”  vì cơ
quan này đi từ chức năng giám sát tối cao của Quốc hội, là một chiều (chỉ có quyền kiểm sát chứ
không có bị kiểm sát ngược lại).
Và kể từ HP 1959 kể từ khi mới được lập ra cho đến năm 2001 thì VKSND được lập ra để thực hiện
2 chức năng sau đây:
- Thực hành quyền công tố: là nhân danh nhà nước để tố cáo tội phạm (Tại sao phải có một cơ quan
nhân danh nhà nước để tố cáo tội phạm ?  Bởi vì khi một tội phạm được thực hiện trong thực tế,
thì nó không chỉ gây thiệt hại trực tiếp cho người bị hại mà nó còn gây ảnh hưởng đến lợi ích chung
của toàn xã hội, vì vậy nhà nước mới tư cách là một tổ chức quản lí xã hội thì nhà nước phải đại
diện cho toàn xã hội lập ra 1 cơ qua nhân danh nhà nước để viết cáo trạng tố cáo tội phạm. Cơ quan
đó trong điều kiện của các nước tư sản, đó là viện công tố trực thuộc Chính phủ  quyền công tố là
quyền hành pháp. Cơ quan đó trong điều kiện các nước XHCN là trao luôn cho VKSND và các
nước XHCN coi quyền công tố này là quyền tư pháp).
LƯU Ý: Quyền công tố chỉ có trong các vụ án hình sự mà thôi, còn trong các án phi hình sự đó là
án tư tố (dân sự).
- Kiểm sát chung: là kiểm sát mọi văn bản, mọi hành vi của mọi chủ thể từ Bộ trở xuống (cánh tay
nối dài của Quốc hội trong cơ chế tập quyền)
LƯU Ý: Vì VKSND thực hiện 2 chức năng nên cái tên VKSND ở Việt Nam là không đầy đủ
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
a) Thành viên:
- Chánh án, Các phó chánh án là do chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kì
5 năm kể từ ngày được bổ nhiệm.
- Thẩm phán là do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kì 5 năm, tài bổ nhiệm
10 năm.
- Chánh tòa, giúp việc là phó chánh tòa là do chánh án TAND cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức, nhiệm kì 5 năm kể từ ngày được bổ nhiệm.
- Thẩm tra viên, thư kí tòa án, công chức viên chức và người lao động khác là do chánh án TAND
cấp tỉnh tuyển dụng và bổ nhiệm.
b) Cơ quan cấu thành:
+ UB thẩm phán: gồm chánh án, các phó chánh án và một số thẩm phán của TAND cấp tỉnh do
Chánh án tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án TAND cấp tỉnh. Số lượng bao nhiêu người
là do Chánh án tòa cấp tỉnh đề nghị Chánh án tối cao quyết định.
+ Tòa chuyên trách: cũng lập ra 6 tòa chuyên trách, đứng đầu mỗi tòa là chánh tòa và các phó chánh
tòa.
+ Bộ máy giúp việc
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
a) Thành viên:
- Chánh án, các Phó chánh án của TAND cấp huyện – do Chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức, nhiệm kì 5 năm tính từ ngày được bổ nhiệm.
- Thẩm phán – do CTN bổ nhiệm miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kì 5 năm tính từ ngày được bổ
nhiệm, tái bổ nhiệm là 10 năm.
- Chánh tòa, phó chánh tòa, thư kí tòa án, thẩm tra viên, công chức viên chức và người lao động là
do Chánh án TAND cấp huyện tuyển dụng và bổ nhiệm, nếu bổ nhiệm thì nhiệm kì là 5 năm kể từ
ngày được bổ nhiệm.
b) Cơ quan cấu thành:
TAND cấp huyện có thể lập ra: tòa hình sự, tòa dân sự, tòa gia đình và người chưa thành niên, tòa
xử lí hành chính.
B.VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CÁC CẤP
I. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HP 1946
HP 1946 của Việt Nam không có thành lập VKSND mà cơ quan tư pháp theo HP46 chỉ bao gồm các
tòa án, không có viện kiểm sát  HP46 đã hiểu về quyền tư pháp theo 1 nghĩa hẹp và rất phù hợp
với thông lệ quốc tế. Lí do để HP46 không lập VKSND bởi vì HP46 tổ chức bộ máy nhà nước theo
nguyên tắc “Tam quyền phân lập”, phân chia quyền lực nên không có viện kiểm sát (VKSND chỉ là
một cơ quan đặc thù trong bộ máy XHCN với cơ chế tập quyền).
Giải thích tại sao phân quyền không có VKS: với học thuyết “tam quyền phân lập” thì quyền lực
nhà nước được chia thành 3 nhánh khác nhau và sẽ chia cho 3 cơ quan khác nhau nắm giữ: Quyền
lập pháp – nghị viện, hành pháp – chính phủ, tư pháp – tòa án  3 nhánh quyền lực luôn luôn đặt
trong trạng thái cân bằng, ngang cơ quyền lực  tạo ra sự kiềm chế đối trọng giữa 3 nhánh quyền
lực  tạo ra sự kiểm soát chéo giữa 3 nhánh quyền lực này (nghị viện làm luật nhưng lại bị chính
phủ và tòa án kiểm soát, chính phủ thi hành luật thì lại bị tòa án và nghị viện kiểm soát, tòa án là xét
xử thì lại bị nghị viện và chính phủ kiểm soát)  vì vậy không cần phải thành lập thêm 1 hệ thống
VKSND để làm gì. Nói khác đi, tự thân cơ chế phân quyền nó đã tạo ra tình trạng kiểm tra, kiểm
soát chéo giữa các nhánh quyền lực với nhau nên không cần Viện kiểm sát.
II. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở VN TỪ HP 1959 ĐẾN NĂM 2001
Bắt đầu từ HP 59, chúng ta đã thành lập 1 hệ thống VKSND bởi vì kể từ HP 59 chúng ta đã áp dụng
nguyên tắc tập quyền XHCN trong tổ chức và hoạt động. VSKND được coi là cơ quan đặc thù trong
bộ máy XHCN. Trong tập quyền XHCN thì quốc hội được xem là cơ quan có quyền lực cao nhất và
có toàn quyền, và quốc hội được quyền giám sát hoạt động bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa
phương nhưng trên thực tế với chế độ kiêm nhiệm 1 năm họp 2 kì thì bản thân quốc hội chỉ giám sát
được tầng cao nhất từ bộ trở lên. Vì vậy quốc hội đành phải thành lập thêm 1 hệ thống VKSND như
1 cánh tay nối dài của QH trong cơ chết tập quyền để giúp QH kiểm tra, giám sát phần còn lại của
bộ máy nhà nước từ bộ trở xuống => Tập quyền đẻ ra VKS, VKS kiểm soát từ bộ trở xuống.
Từ HP 59 đến năm 2001 thì VKS được lập ra để thực hiện 2 chức năng:
+ thực hiện quyền công tố: nhân danh nhà nước tố cáo tội phạm bởi vì khi 1 tội phạm thực hiện
trong thực tế thì không chỉ gây thiệc hại cho người bị hại mà còn gây ảnh hưởng đến lợi ích chung
toàn xã hội. Nhà nước với tư cách là tổ chức quản lí xã hội lập ra 1 cơ quan để viết cáo trạng tố cáo
tội phạm. Cơ quan đó trong các nước tư sản là viện công tố trực thuộc chính phủ => Quyền công tố
là quyền hành pháp. Cơ quan đó trong các nước XHCN trao cho VKSND và coi quyền này là quyền
tư pháp.
Lưu ý: quyền công tố chỉ có trong các vụ án hình sự, còn các vụ án dân sự là quyền tư tố.
+ kiểm sát chung: kiểm sát mọi văn bản, mọi hành vi của mọi chủ thể từ bộ trở xuống.
Lưu ý: vì VKS thực hiện cả 2 chức năng này mà gọi tên nagy không chính sát và không đầy đủ, phải
gọi là VKS và công tố hoặc Viện công tố và kiểm sát.
III. Viện kiểm sát nhân dân từ nghị quyết số 51 HP 2001 đến nay
Sau nhiều năm giao cho VKSND thực hiện chức năng kiểm sát chung thì nó đã phát sinh và bộc lộ
nhiều bất cập. Bất cập lớn nhất là đối tượng kiểm sát chung quá rộng, bao gồm tất cả văn bản, hành
vi, chủ thể là quá rộng => bản thân VKS cũng không kiểm sát hết được. Và trên thực tế ở VN có rất
nhiều cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm sát => đùn đẩy trách nhiệm, giẫm đạp và chồng
chéo… Xuất phát từ những bất cập này, năm 2001 QH han hành nghị quyết số 51 để sửa đổi HP 92
thu hẹp chức năng kiểm sát chúng của VKSND từ kiểm sát chung đến kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Từ năm 2001 đến nay VKS chủ được thực hiện 2 chức năng: thi hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp.
VKS chỉ được kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động và trong hành vi của 4 cơ quan sau:
hoạt động điều tra của cơ quan điều tra, hoạt động xét xử của tòa, hoạt động thi hành án của cơ quan
thi hành án, hoạt động tạm giam và giam giữ người.

CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG


A. PHÂN CHIA ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH LÃNH THỔ
I. VỀ VIỆC PHÂN CHIA ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH LÃNH THỔ
Nước ta chia trực tiếp theo cấp tỉnh bao gồm tỉnh và thành phố thuộc trung ương
- Hiện nay nước ta chia ra thành 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh và trong 63 đơn vị hành chính cấp
tỉnh đó thì có 58 tỉnh và 5 thành phố thuộc trung ương. Nhìn chung, tỉnh được xác định là có đơn vị
hành chính rộng nhất là Nghệ An, nhỏ nhất là Bắc Ninh, đông nhất là TPHCM, ít nhất là Bắc Kạn,
diện tích dân số và trình độ phát triển kinh tế được coi là không đồng đều (TPHCM đóng góp vào
kinh tế ngân sách nhiều nhất)  Vì không đồng đều nên người ta đề nghị là nó phải có quy chế riêng
chứ không thể cho 63 tỉnh thành mà 1 chiếc áo pháp lý như nhau.
- Cấp huyện bao gồm quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và thành phố thuộc thành phố trực
thuộc trung ương (“cấp huyện” khác với “huyện”)  hiện nay cả nước có 711 đơn vị hành chính cấp
huyện, trong đó có thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (thành phố nhỏ trong thành
phố lớn) mới được ban hành trong HP 2013.
- Cấp xã bao gồm các xã, phường, thị trấn  11162 xã, phường, thị trấn.
Ngoài những đơn vị hành chính trên thì 1 điểm mới nữa của HP 2013 là có quy định về việc thành
lập đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt do QH thành lập. Ý tưởng của các nhà lập hiến là muốn nhắm
đến 1 số hòn đảo nổi tiếng của VN, những hòn đảo này có điều kiện về tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên và có những thế mạnh riêng, tận dụng điều đó để cho nó 1 quy chế riêng.
II. VIỆC PHÂN LOẠI CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Căn cứ vào tính chất nông thôn và đô thị
- Đối với cấp tỉnh: 58 tỉnh được xếp vào địa bàn nông thôn, 5 thành phố trực thuộc trung ương được
xếp vào địa bàn đô thị
- Đối với cấp huyện: được xếp vào địa bàn nông thôn. Còn thị xã, quận, thành phố thuộc tỉnh và
thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương được xếp vào địa bàn đô thị.
- Đối với cấp xã: xã được xếp vào địa bàn nông thôn, còn thị trấn và phường xếp vào địa bàn đô thị.
2. Căn cứ vào nghị định xếp loại của Chính phủ
Chính quyền địa phương được phân chia như sau:
- Đối với cấp tỉnh: có 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh thì có TPHCM và HÀ Nội được xếp vào đơn vị
hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt. 61 tỉnh còn lại được chia thành 3 loại: Đơn vị hành chính cấp tỉnh
loại I, loại II, loại III.
- Đối với cấp huyện: 711 đơn vị được phân thành 3 loại: đơn vị hành chính cấp huyện loại I, loại II,
loại III.
- Đối với cấp xã: 11162 đơn vị được chia thành 3 loại: đơn vị hành chính cấp xã loại I, loại II, loại
III.
TẠI SAO PHẢI PHÂN LOẠI ?  phân loại để biết mình là ai, năng lực mình tới đâu thì mới cần có
những quy chế riêng, hỗ trợ riêng để tạo động lực cho sự phát triển, tránh tình trạng cào bằng, bình
quân, phải quản lý khác nhau.
B. HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP
I. VỊ TRÍ VÀ TÍNH CHẤT PHÁP LÝ (được quy định tại Đ.113 HP 2013)
Theo điều luật này HDND là cơ quan có 2 tính chất sau:
1. HDND là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương là
vì 4 lí do sau:
- HDND là do nhân dân địa phương trực tiếp bầu, trực tiếp trao quyền lực và thay mặt cho dân thực
hiện quyền lực của dân (quân chủ đại diện/ quân chủ gián tiếp).
- Về cơ cấu thành phần: được cấu thành từ các địa biểu HDND và các đại biểu HDND đó được xác
định là đủ sức đại diện cho … ở địa phương  nhờ cơ cấu thành phần.
- Nhiệm vụ, quyền hạn: quan trọng nhất của đại biểu HDND là tiếp công dân và tiếp xúc cử tri để
thu thập tâm tư, nguyên vọng của các tầng lớp nhân dân ở địa phương , mới mang ra kì họp HDND,
bàn bạc tập thể và biến nó thành nghị quyết,…
- Báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước cử tri ở địa phương và có thể bị cử tri bãi nhiệm khi
không còn xứng đáng với niềm tin của cử tri nữa
2. Là cơ quan quyền lực nhất ở địa phương
- HDND có quyền quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương và thành lập ra các cơ quan
nhà nước khác ở địa phương.
- Có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước khác ở địa phương.
II. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CẢU HDND CÁC CẤP
Để thực hiện 2 chức năng sau đây:
1. HDND được quyền quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương và thành lập các cơ
quan nhà nước khác ở địa phương theo quy trình sau:
- Theo quy định của pháp luật hiện hành thì kì họp thứ I của hội đồng ở mỗi cấp sẽ được khai mạt
chậm nhất 30 ngày kể từ ngày bầu cử (chậm nhất là 45 ngày đối với những nơi vùng sâu, vùng xa,
đi lại khó khăn)  đây là kì họp quan trọng nhất, mang tính tổ chức, (nhiệm kì 5 năm, 1 năm 2 kì)
- Kì họp thứ I của HDND sẽ có 1 chủ tọa kì họp, chủ tịch HDND khóa trước sẽ là người triệu tập và
chủ tọa kì họp của HDND khóa mới. Nếu khuyết chủ tịch HDND khóa trước thì Phó chủ tịch
HDND kháo trước sẽ đứng ra triệu tập và chủ tọa; Còn nếu khuyết luôn thì người thường trực
HDND cấp trên trực tiếp sẽ đứng ra chỉ định người triệu tập và chủ tọa kì hợp thứ I (UBTVQH sẽ
chỉ định đối với cấp tỉnh).
- Chủ tọa kì họp thứ I sẽ đứng ra giới thiệu chủ tịch HDND khóa mới trong số các đại biểu HDND
để cho HDND ra nghị quyết bầu
- Chủ tịch HDND khóa mới sẽ đứng ra giới thiệu các chức vụ: phó chủ tịch, ủy viên thường trực,
trưởng các ban, và chánh văn phòng HDND (chỉ có ở cấp tỉnh) trong số các đại biểu HDND khóa
mới và HDND cũng ra nghị quyết bầu các chức danh này.
- Chủ tịch HDND khóa mới sẽ tiếp tục đứng ra giới thiệu chủ tịch UBND cùng cấp trong số các đại
biểu HDND khóa mới và HDND ra nghị quyết bầu.
- Chủ tịch UBND sẽ đứng ra giới thiệu: phó chủ tịch, ủy viên ủy ban cùng cấp (không nhất thiết là
đại biểu HDND cùng cấp)  HDND cũng ra nghị quyết bầu.
* Một số lưu ý quan trọng:
(1) Có những nghị quyết sau đây của HDND phải được cấp trên phê chuẩn trước khi đem ra thi
hành:
- NQ về việc bầu thường trực HDND cùng cấp (chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên thường trực) phải
được thường trực HDND cấp trên trực tiếp phê
- NQ về bầu chủ tịch và phó chủ tịch UBND cùng cấp sẽ do chủ tịch UB cấp trên trực tiếp phê (Thủ
tướng phê đối với cấp tỉnh).
(2) Có 2 chức danh rất quan trọng sau đây ở địa phương nhưng không do HDND bầu:
- Chánh án TAND cùng cấp: là do Chánh án TANDTC miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức (Ở VN,
tất cả Chánh án TAND ở địa phương bao gồm Chánh án cấp tỉnh, cấp huyện đều do Chánh án
TANDTC miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức).
- Viện trưởng VKSND cùng cấp (cấp tỉnh, cấp huyện gọi chung là Viện trưởng địa phương là do
Viện trưởng VKSNDTC miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức).
 Vì HDND không bầu 2 chức danh này nên HDND không miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với 2 chức
danh này, không được quyền bãi bỏ văn bản sai trái của 2 chức danh này và cũng không được quyền
bỏ phiếu tín nhiệm, lấy phiếu tín nhiệm 2 chức danh này. Tuy nhiên với tư cách là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương thì HDND vẫn được quyền giám sát hoạt động của 2 chức danh này
bằng cách chất vấn và xét báo cáo công tác khi có yêu cầu  mối quan hệ của HDND với 2 chức
danh này là mối quan hệ rất hạn chế.
2. Chức năng giám sát
a) Đối tượng giám sát:
HDND được quyền giám sát trực tiếp tại kì họp đối với các cơ quan nhà nước sau đây ở địa phương:
UBND cùng cấp và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp, TAND và VKSND cùng cấp
(chỉ xét báo cáo công tác và chất vấn mà thôi), HDND cấp dưới trực tiếp.
b) Biện pháp giám sát
- Xét báo cáo công tác của những cơ quan này.
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cũng cấp, chủ tịch UBND cùng cấp, HDND cấp
dưới trực tiếp.
- Thành lập ban điều tra để giám sát tại chỗ.
- Chất vấn: theo quy định của pháp luật hiện này thì HDND được quyền chất vấn những chức danh
sau đây: chủ tịch UBND và các thành viên khác của UBND cùng cấp, Thủ trưởng cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cùng cấp, Chánh án cùng cấp và Viện trưởng cùng cấp.
c) Biện pháp pháp lý mà HDND sử dụng để xử lí những sai phạm trong quá trình giám sát:
- Trong quá trình giám sát nếu HDND phát hiện UBND, chủ tịch UBND, HDND cấp dưới trực tiếp
mà có ban hành văn bản trái với văn bản của HDND và trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên thì HDND được quyền ra nghị quyết để bãi bỏ 1 phần hoặc toàn bộ văn bản sai trái đó.
- Trong quá trình giám sát nếu HDND phát hiện chủ tịch UBND và các thành viên khác của UBND
cùng cấp có những hành vi sai trái thì HDND được quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với các chức
danh đó. Đặc biệt từ năm 2001 đến này thì HDND được quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với những
chức danh do HDND bầu. Và từ năm 2015 đến nay, HDND còn được lấy phiếu tín nhiệm đối với 1
số chức danh do HDND bầu.
- HDND còn được quyền ra nghị quyết để giải tán HDND cấp dưới trực tiếp nếu nó làm thiệt hại
nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân địa phương. Và nghị quyết này phải được HDND cấp trên
trực tiếp phê chuẩn trước khi đem ra thi hành.
BÀI TẬP
Câu 1: Trong 2 nhận định sau đây nhận định nào đúng/ sai. Giải thích tại sao
- (1) Theo quy định của pháp luật hiện hành, HDND chỉ được quyền chất vấn những chức danh do
HDND bầu ra.
- (2) Theo quy định của pháp luật hiện hành, HDND được quyền bầu chức danh nào thì được quyền
chất vấn chức danh đó (hay chức danh nào do HDND bầu thì HDND được quyền chất vấn).
Trả lời:
- Nhận định (1) Sai. Vì có những chức danh không do HDND bầu nhưng HDND vẫn có quyền chất
vấn ví dụ như: Chánh án TAND cùng cấp và Viện trưởng VKSND cùng cấp.
- Nhận định (2) Sai. Vì có những chức danh do HDND bầu nhưng HDND không có quyền chất vấn
ví dụ như: chủ tịch HDND cùng cấp, phó chủ tịch HDND cùng cấp,.. vì mục đích của chất vấn là để
quy kết trách nhiệm và làm sáng tỏ trách nhiệm nên chỉ chất vấn chức danh nào được PL trao quyền
và nó phải chịu trách nhiệm riêng về quyền hạn riêng đó.
Câu 2: Cơ quan nào có thẩm quyền phê chuẩn nghị quyết về việc giải tán HDND thành phố Nha
Trang ?
Trả lời: UBTVQH phê. Vì HDND tỉnh Khánh Hòa ra nghị quyết giải tán HDND thành phố Nha
Trang, nghị quyết này phải được chuyển đến cho cấp trên, mà cấp trên của HDND tỉnh là
UBTVQH.
III. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA HDND CÁC CẤP
1. Cơ cấu tổ chức của HDND cấp tỉnh:
- Số lượng đại biểu của HDND cấp tỉnh được bầu từ 50 – 85 đại biểu, riêng TPHCM và thủ đô Hà
Nội là được bầu không quá 95 địa biểu  Đây là quy định của luật hiện hành và được sửa1 lần vào
năm 2019 (còn theo luật của 2015 thì số lượng đại biểu HDND cấp tỉnh là 50 – 95 đại biểu,
TPHCM và HN là không quá 105 đại biểu).
- Thường trực HDND cấp tỉnh lập ra để thay mặt HDND cấp tỉnh lúc HDND không họp bao gồm:
+ Chủ tịch HDND cấp tỉnh.
+ Các phó chủ tịch (theo luật năm 2015 mỗi tỉnh có 2 phó chủ tịch, nhưng theo quy định của luật đã
sửa năm 2019 thì tỉnh nào mà chủ tịch HDND hoạt động chuyên trách thì chỉ có 1 phó chủ tịch
HDND. Còn tỉnh, thành phố nào chủ tịch HDND hoạt động kiêm nhiệm thì có 2 phó chủ tịch).
+ Các ủy viên thường trực là trưởng các ban HDND.
- HDND còn lập ra các ban sau đây: số lượng các ban được chia làm 2 trường hợp:
+ Ở địa bàn đô thị (HDND của 5 thành phố trực thuộc trung ương) được lập ra 4 ban sau đây: ban
pháp chế, ban kinh tế - ngân sách, ban văn hóa – xã hội, ban đô thị (mới có từ năm 2015)
+ Ở địa bàn nông thôn (HDND của 58 tỉnh) lập từ 3 – 4 ban sau đây: ban pháp chế, ban kinh tế -
ngân sách, ban văn hóa – xã hội, riêng ở tỉnh nào có nhiều dân tộc ít người sinh sống thì mới lập
thêm ban dân tộc  đứng đầu mỗi 1 ban là trưởng các ban và trưởng các ban đó là ủy viên thường
trực HDND cấp tỉnh (thường trực HDND cấp tỉnh có từ 5–7 người: 1 chủ tịch, 1-2 phó chủ tịch, 3-4
trưởng ban).
2. Cơ cấu tổ chức của HDND cấp huyện
- Về số lượng đại biểu HDND cấp huyện: được bầu từ 30-45 người (luật 2015 được bầu từ 35-50
đại biểu).
- Thường trực HDND cấp huyện bao gồm:
+ Chủ tịch HDND cấp huyện.
+ Phó chủ tịch HDND cấp huyện (theo luật cũ 2015 là 2 người, nhưng theo luật 2019 thì chỉ có 1
người).
+ Ủy viên thường trực là trưởng các ban của HDND cấp huyện.
- HDND cấp huyện được thành lập từ 2-3 ban sau: ban pháp chế, ban kinh tế - xã hội. Riêng huyện
nào có nhiều dân tộc ít người sinh sống thì lập thêm ban dân tộc  đứng đầu mỗi ban là trưởng ban.
Kết luận: thường trực HDND cấp huyện có từ 4-5 thành viên.
3. Cơ cấu tổ chức của HDND cấp xã
- Số lượng đại biểu HDND cấp xã: đối với xã và thị trấn được bầu 15-30 đại biểu, còn với phường
thì được bầu từ 21-30 người.
- Thường trực HDND cấp xã bao gồm: 1 chủ tịch HDND cấp xã, 1 phó chủ tịch HDND cấp xã và 2
ủy viên thường trực (là 2 trưởng ban của HDND cấp xã).
 Như vây, thường trực HDND cấp xã luôn luôn có 4 người.
- HDND cấp xã được thành lập 2 ban sau đây: ban pháp chế và ban kinh tế - xã hội  đứng đầu mỗi
ban là trưởng ban (theo luật cũ 2015 thì thường trực HDND cấp xã chỉ có 2 người: chủ tịch và phó
chủ tịch, còn theo luật 2019 thì có thêm 2 ủy viên thường trực (là trưởng ban)).
* Một số lưu ý quan trọng chuyên nghiên cứu về thường trực HDND:
Trong các chức danh thường trực HDND thì có 1 chức danh duy nhất là bắt buộc phải hoạt động
chuyên trách đó là Phó chủ tịch HDND, còn chủ tịch HDND và các ủy viên thường trực (là trưởng
các ban) có thể kiêm chức (là hoạt động kiêm nhiệm). Giải thích:
- Chủ tịch HDND có thể kiêm chức là bởi vì ở nước ta hiện nay tại một số địa phương có tình trạng
cơ cấu cán bộ như sau: bí thư cấp ủy đảng ở đâu sẽ làm luôn chủ tịch HDND ở đó  việc kiêm chức
này chỉ áp dụng ở một số địa phương (chứ không phải tất cả).
VD: ở TPHCM và HN bí thư thành ủy và chủ tịch HDND là 2 người khác nhau, nhưng ở địa
phương khác là 1 người  Tại sao TPHCM và HN lại không kiêm chức ?. Bởi vì ở TPHCM và HN
muốn ngồi vào ghế bí thư thành ủy thì phải là Ủy viên Bộ chính trị, mà làm Ủy viên Bộ chính trị thì
công việc rất nhiều (cơ quan đầu não của đảng và cơ quan quyền lực) nếu kiêm chức thì sẽ làm
không nổi.
Ý nghĩa của việc bí thư cấp ủy Đảng và làm luôn chủ tịch HDND:
- Tăng cường được sự lãnh đạo của đảng, tinh giảm bộ máy, và đặc biệt có khả năng làm tăng cường
tiếng nói, vị thế, vai trò của chủ tịch HDND ở địa phương nhất là trong bối cảnh hiện nay ở nước ta,
chủ tịch HDND khá hình thức (có tiếng mà không có miếng, nói không ai nghe)

Còn trưởng các ban của HDND cũng có thể kiêm chức bởi vì hiện nay Đảng và nhà nước ta có
chủ trương sẽ sáp nhập 1 số cơ quan của Đảng với 1 số cơ quan của HDND.
VD: Ban tuyên giáo hay ban văn hóa tư tưởng (ban tuyên giáo do thành ủy lập, nhiệm vụ là chăm lo
văn hóa, tư tưởng, suy nghĩ, lí luận của các đảng viên trong TPHCM) sắp tới có thể nhập với ban
văn hóa – xã hội của TP => chức năng na ná nhau nên sắp tới 2 ban này có thể sáp nhập vào nhau.
Vì vậy trưởng ban văn hóa – xã hội của HDND TPHCM đồng thời là trưởng ban văn hóa tư tưởng
của thành ủy (kiêm chức: 1 người làm 2 chức vụ).
 Tóm lại, chỉ có 1 chức danh duy nhất là Phó chủ tịch HDND bắt buộc phải hoạt động
chuyên trách (thầy nói câu này thầy cho vô đề thi)
C. ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC CẤP
I. VỊ TRÍ VÀ TÍNH CHẤT PHÁP LÝ CỦA UBND CÁC CẤP điều 114 HP 2013
- Có 2 tính chất:
1. UBND là một cơ quan chấp hành của HDND cùng cấp
a) Cách thành lập: UBND là do HDND cùng cấp bầu ra, cụ thể như sau:
- HDND sẽ bầu UBND trong số các đại biểu HDND theo sự giới thiệu của chủ tịch HDND cùng
cấp.
- HDND bầu các Phó chủ tịch và Ủy viên UBND cùng cấp theo sự giới thiệu của Chủ tịch UBND
cùng cấp (những chức danh này không bắt buộc phải là địa biểu HDND)
b) UBND phải chấp hành những đường lối chủ trương trong các Nghị quyết của HDND cùng cấp
(có 2 đường lối)
- UBND không được phủ quyết các Nghị quyết của HDND cùng cấp
- UBND phải ban hành những văn bản như là quyết định, chỉ thị để mà hướng dẫn thi hành các
đường lối chủ trương và thi hành điều đó trong thực tế cuộc sống.
- Họp, tìm những biện pháp hữu hiệu để thi hành những đường lối chủ trương của HDND trong thực
tế cuộc sống.
c) UBND phải báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước HDND cùng cấp
- Chất vấn, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên của UBND cùng cấp.
- HDND còn có quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với các thành viên của UBND cùng cấp.
- HDND còn được quyền ra Nghị quyết để bãi bỏ 1 phần hoặc toàn bộ những văn bản sai trái của
UBND và chủ tịch UBND cùng cấp.
2. UBND còn là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương:
UBND được lập ra để điều hành quản lý tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, là phương diện
hoạt động thường xuyên chủ yếu và là chức năng của UBND. Vì vậy UBND được xếp vào hệ thống
những cơ quan có chức năng quản lý (hay còn gọi là hệ thống hành chính). Và để đảm bảo sự thống
suốt trong hệ thống hành chính (trên nói, dưới nghe):
- Về cách thành lập: UBND cấp nào là do HDND cùng cấp bầu nhưng kết quả bầu Chủ tịch và Phó
chủ tịch UBND thì phải được Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp phê (Thủ tướng phê đối với cấp
tỉnh).
- Về hoạt động: vừa phải chấp hành đường lối chủ trương trong các Nghị quyết của HDND cùng
cấp, vừa chấp hành mệnh lệnh và sự chỉ đạo của Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp.
- Về báo cáo công tác và chịu trách nhiệm: UBND phải vừa báo cáo công tác và chịu trách nhiệm
trước HDND cùng cấp, Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp, cụ thể là:
+ Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp có quyền tạm giao quyền điều động, đình chỉ công tác, cho thôi
làm nhiệm vụ, cách chức đối với Chủ tịch và Phó chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp
+ Chủ tịch UBND cấp trên còn có quyền phê chuẩn, miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với Chủ tịch và Phó
chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp.
+ Chủ tịch UBND cấp trên còn có quyền đình chỉ thi hành và bãi bỏ các văn bản trái pháp luật của
UBND và chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp
Từ sự phân tích Đ.114 của HP 2013 ta thấy rằng UBND là 1 cơ quan tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc song trùng trực thuộc (trực thuộc 2 chiều): UBND vừa lệ thuộc vào HDND cùng cấp
theo chiều ngang, vừa lệ thuộc vào cơ quan hành chính cấp trên theo chiều dọc. Lí do: bởi vì nếu chỉ
trói buộc UBND vào 1 chiều nào đó thôi thì đều có thể dẫn đến những bất cập nhất định:
+ Nếu chúng ta trói buộc UBND vào HDND cùng cấp thì bất cập sẽ là UBND cấp trên nói, UBND
cấp dưới không nghe => hệ thống hành chính không thông suốt => không quản lý được.
+ Giả sử nếu chỉ trói buộc UBND vào cơ quan hành chính cấp trên mà thôi => HDND trở nên vô
nghĩa và trái với nguyên lý nhà nước của dân. Xuất phát từ những lí do trên mà các nhà làm luật
quyết định trói buộc UBND vào 2 chiều với lập luận cho rằng: 50% cơ thể của UB thuộc về HDND
cùng cấp, 50% thuộc về UB cấp trên. Tuy nhiên, việc trói buộc UBND vào cùng lúc cả 2 chiều chỉ
là giải pháp có tính chất tình thế, nửa vời, không triệt để. Vì thế nó đã gây ra nhiều bất cập trong tổ
chức và hoạt động của UBND trong thực tế: cho đến trước năm 2015 nhà làm luật rất lúng túng
không thể đặt ra được 1 quy định nào để giải quyết tình huống nếu Chủ tịch UB cấp trên không phê
chuẩn kết quả bầu Chủ tịch và Phó chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp của HDND cấp dưới, trên
thực tế vì không có quy định nên ở VN tổ chức UBND mình rất rắc rối. Mãi đến luật năm 2015, các
nhà làm luật đã rất cố gắng, nỗ lực đặt ra những quy định để xử lí tình huống này nhưng mà nó cũng
không xử lí triệt để được: Luật 2015 quy định Chủ tịch UBND nhận được kết quả bầu Chủ tịch và
Phó chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp thì trong thời hạn 20 ngày để phê chuẩn. Nếu không phê
chuẩn thì phải giải thích rõ văn bản vì sao không phê và đề nghị HDND cấp dưới bầu lại chức danh
không được phê => Quy định này được hiểu là nếu UBND cấp dưới đã bầu Chủ tịch và Phó chủ tịch
UBND đủ và đáp ứng hết đủ những điều kiện mà luật quy định và bầu đúng thủ tục, đúng quy định
thì ông Chủ tịch UBND cấp trên phải phê. Tuy nhiên, điều đáng nói là ở VN hiện nay chúng ta chưa
dám quy định một cách rõ ràng và cụ thể những điều kiện tiêu chuẩn. Bởi vì nếu chúng ta quy định
quá rõ điều kiện tiêu chuẩn thì khó cơ cấu cán bộ, thực tiễn ở VN chúng ta đã trải qua những cuộc
chiến tranh dài nên là phải bố trí những người có công cách mạng, đảng viên ưu tú (thực tế có
những người có học hành, bằng cấp, trình độ nhưng quản lý không tốt) => Nếu không quy định rõ
điều kiện tiêu chuẩn thì khả năng xảy ra mâu thuẫn giữa UB cấp trên và cấp dưới (luật 2015 chỉ có
gắng xử lí thôi chứ không triệt để được).
II. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA UBND CÁC CẤP
1. Cơ cấu tổ chức của UBND cấp tỉnh:
a) Thành viên:
- Chủ tịch UBND cấp tỉnh: đây là người đứng đầu lãnh đạo, điều hành.
- Phó chủ tịch UBND cấp tỉnh: đối với đơn vị hành chính cấp tỉnh đặc biệt như TPHCM và HN thì
không quá 5, còn đối với đơn vị hành chính cấp tỉnh loại I thì không quá 4, còn đối với đơn vị hành
chính cấp tỉnh loại II, II không quá 3.
- Các Ủy viên của UBND cấp tỉnh: là Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, Ủy
viên phụ trách quân sự và Ủy viên phụ trách công an.
b) Cơ quan cấu thành: UBND cấp tỉnh được cấu thành bởi các cơ quan chuyên môn và đứng đầu các
cơ quan chuyên môn là Thủ trưởng cơ quan chuyên môn là do Chủ tịch UBND cấp tỉnh bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức. Cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh hiện này là các Sở và ngang Sở
=> đứng đầu là các Giám đốc Sở và tương đương Giám đốc Sở => Theo quy định hiện nay, mỗi 1
tỉnh sẽ thành lập từ 17-20 sở, trong đó có 17 sở bắt buộc và 3 sở đặc thù (sở quy hoạch kiến trúc
(HN và TPHM), sở ngoại vụ (chỉ được lập ra ở những tỉnh có đường biên giới chung với nước ngoài
hoặc nhiều người nước ngoài sinh sống) và ban dân tộc) (công an là quân đội không là cơ quan
chuyên môn, được tính riêng và đặc thù).
2. Cơ cấu tổ chức của UBND cấp huyện
a) Thành viên:
- Chủ tịch UBND cấp huyện
- Các phó chủ tịch: loại I có không quá 3, loại II, III không quá 2.
- Các Ủy viên là Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, Ủy viên phụ trách quân
sự và Ủy viên phụ trách công an của huyện đó.
b) Cơ quan cấu thành: được cấu thành bởi các cơ quan chuyên môn là các Phòng và tương đương
với Phòng => mỗi huyện có ít nhất 10 Phòng và ngoài ra là 12 Phòng => Trưởng phòng là do Chủ
tịch UBND cấp huyện bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
3. Cơ cấu tổ chức của UBND cấp xã
a) Thành viên:
- Chủ tịch UBND cấp xã.
- Các phó chủ tịch: loại I, II thì có không quá 2, loại III thì có 1.
- Ủy viên phụ trách quân đội và Ủy viên phụ trách công an.
b) Cơ quan cấu thành: UBND xã không thành lập ra các cơ quan chuyên môn, mà có những công
chức chuyên môn thực hiện nhiệm vụ quản lí.
* LƯU Ý:
(1) Đối với ngành công an và quân đội có tính chất an ninh đặc thù và vì vậy không coi nó là cơ
quan chuyên môn thuộc UB. Người đứng đầu của 2 cơ quan này không do Chủ tịch UBND cùng
cấp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức mà do Bộ trưởng Bộ công an, Bộ trưởng Bộ quốc phòng bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo chiều dọc từ trên xuống => Vì 2 ngành này có tính chất an ninh,
để đảm bảo sự thống nhất cao trong ngành nên nó thuộc quyền bổ nhiệm của Bộ trưởng.
(2) Theo quy định hiện này chủ tịch HDND phải là đại biểu HDND cùng cấp, còn các thành viên
khác thì không cần thiết. Tuy nhiên trong 2 trường hợp sau đây Chủ tích UB cũng không cần là đại
biểu HDND cùng cấp:
- Bị cấp trên điều động từ nơi khác về, trong trường hợp giữa nhiệm kì mà khuyết chủ tịch UB thì
HDND sẽ bầu 1 Phó chủ tịch hoặc 1 Ủy viên UB để thay thế => Phó chủ tịch và ủy viên UB ngay từ
đầu không bắt buộc là đại biểu HDND. (chủ tịch UB chỉ là đại biểu đầu nhiệm kì mà thôi).
III. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHỦ TỊCH UBND
1. Về nhân sự
- Chủ tịch UBND được quyền đề nghị HDND cùng cấp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với Phó chủ
tịch và ủy viên UBND cùng cấp.
- Chủ tịch UBND được quyền phê chuẩn kết quả bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với Phó chủ tịch
UBND cấp dưới trực tiếp.
- Chủ tịch UBND được quyền tạm giao quyền Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp lúc
UBND cấp dưới không họp.
- Được quyền điều động, đình chỉ công tác, cách chức, cho thôi làm nhiệm vụ đối với Chủ tịch và
Phó chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp.
- Được quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với tất cả các Thủ trưởng cơ quan chuyên môn
và cấp phó của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh.
* Lưu ý: Chủ tịch UB cấp trên không có quyền bổ nhiệm đối với Chủ tịch, phó chủ tịch UB cấp
dưới trực tiếp. Vì vậy nếu có nhận định cho rằng “Chủ tịch UB cấp trên mà có quyền bổ nhiệm Chủ
tịch, phó chủ tịch UB cấp dưới trực tiếp” => SAI.
2. Quyền về mặt văn bản
- Được quyền ban hành 2 loại văn bản: quyết định và chỉ thị
- Được quyền đình chỉ thi hành và bãi bỏ các văn bản sai trái pháp lý của UBND và chủ trưởng
UBND cấp dưới trực tiếp và của thủ trưởng UB chuyên môn cấp mình (cùng cấp).
- Được quyền đình chỉ thi hành các nghị quyết sai trái của HDND cấp dưới trực tiếp, đề nghị HDND
cùng cấp bãi bỏ.
* Lưu ý: Nếu là chủ tịch UBND TPHCM mà phát hiện UBND của quận 1 mà ban hành văn bản sai
trái thì chủ tịch UB thành phố đinh chỉ và bãi bỏ luôn vì UBND quận 1 là cơ quan hành chính, nằm
trong hệ thống hành chính, chịu sự quản lí trực tiếp của UBND TPHCM. Nhưng phát hiện HDND
quận 1 mà ban hành nghị quyết sai thì chỉ được đình chỉ thi hành và phải đề nghị HDND TPHCM
bãi bỏ vì HDND quận 1 là cơ quan dân cử do nhân dân trong quận bầu ra, không do Chủ tịch UB TP
thành lập, con nhà hàng xóm nên chỉ được đình chỉ thi hành rồi giao cho HDND TPHCM giải
quyết.

You might also like