Professional Documents
Culture Documents
Bàn Về Tính Thống Nhất Của Quyền Lực Nhà Nước Và Sự Phân Công, Phối Hợp Trong Việc Thực Hiện Các Quyền Lập Pháp, Hành Pháp Và Tư Pháp
Bàn Về Tính Thống Nhất Của Quyền Lực Nhà Nước Và Sự Phân Công, Phối Hợp Trong Việc Thực Hiện Các Quyền Lập Pháp, Hành Pháp Và Tư Pháp
nhau, được kết tinh bằng các phương pháp đặc thù, biểu hiện dưới các hình thức
hết sức phong phú, đa dạng, tinh tế và được hợp pháp hoá bằng các nguyên tắc
pháp lí.
3. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước
Thống nhất là một trong những thuộc tính cơ bản của quyền lực nhà nước.
Thuộc tính này xuất phát từ những cơ sở sau:
Về nguồn gốc, quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự thân mà bắt
nguồn từ quyền lực nhân dân, nhân danh quyền lực nhân dân và luôn chịu sự
kiểm soát của quyền lực nhân dân. Về bản chất và cội nguồn xã hội thì quyền
lực nhà nước là một chỉnh thể thống nhất, không thể chia cắt thành các bộ phân
biệt lập.
Sự tương tác giữa quyền và lực, tính chất và đặc điểm của quyền lực nhà
nước tự nó đã đòi hỏi quyền lực nhà nước phải được tổ chức thống nhất. Vì thế,
trong bất cứ quốc gia nào bộ máy quyền lực nhà nước cũng được tổ chức với
mục tiêu bảo đảm tính thống nhất tối đa của quyền lực trong khả năng, điều kiện
cho phép. Cũng chính vì vậy mà bộ máy quyền lực đó thường do một lực lượng
mạnh nhất nắm giữ. Khi một đảng chính trị nắm giữ quyền lực nhà nước thì có
điều kiện để bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước.
Tính thống nhất quyền lực nhà nước hoàn toàn không phải là sự tập trung
quyền lực. Tính thống nhất là thuộc tính thể hiện bản chất quyền lực còn tập
trung quyền lực hay phân tán quyền lực là phương thức, cơ chế tổ chức và thực
thi nội dung quyền lực. Quyền lực nhà nước bao giờ cũng có tính thống nhất
nhưng cách thức và cơ chế tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước thì rất khác
nhau.
4. Sự phân định tương đối của quyền lực nhà nước
Nếu như tính thống nhất của quyền lực nhà nước là vấn đề tất yếu và xuyên
suốt quá trình tồn tại và phát triển của quyền lực nhà nước thì sự phân định
tương đối của quyền lực nhà nước cũng xuất phát từ nhu cầu có tính khách quan.
Có thể giải thích về điều này như sau:
Lúc đầu, khi quy mô nhà nước còn nhỏ, phương pháp dân chủ trực tiếp
được sử dụng một cách phổ biến thì quyền lực nhà nước rất gần với quyền lực
nhân dân, vì thế, vấn đề phân định và phân công quyền lực chưa trở thành nhu
TRƯƠNG THỊ MỸ TRÚC – 2353801015216
22 BÀI TẠP CHÍ
cầu bức xúc. Tuy nhiên, phải đến khi chế độ phong kiến bị lật đổ thì tư tưởng về
phân định quyền lực để chống độc đoán, chuyên quyền mới có điều kiện để thực
hiện.
Việc phân định các bộ phận của quyền lực nhà nước để làm cơ sở cho việc
phân công lao động khoa học là hết sức cần thiết. Hiện nay, thuyết phân lập
quyền lực thành ba bộ phận quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp được
thừa nhận rộng rãi trên thế giới và nhiều nước đã vận dụng lí thuyết này để tổ
chức bộ máy quyền lực của nhà nước mình. Song, sự cần thiết phải xem xét sự
phân định quyền lực một cách đầy đủ hơn theo quan điểm kết hợp yếu tố truyền
thống và hiện đại.
5. Sự giới hạn, tương tác giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
và sự cần thiết phải có sự phân công phối hợp trong việc thực hiện các
quyền
Quyền lập pháp theo nghĩa chung nhất là quyền làm ra pháp luật và là
quyền lực thiêng liêng. Quyền lập pháp được giao cho cơ quan đại diện cao nhất
do nhân nhân dân bầu ra (quốc hội, nghị viện - sau đây gọi chung là quốc hội) vì
quốc hội được thành lập ra bằng phương pháp dân chủ trực tiếp và rộng rãi nhất,
các đại biểu của quốc hội do cử tri bầu ra và bãi miễn, quyền lực của quốc hội là
sự tiếp theo gần nhất của quyền lực nhân nhân dân và do đó quốc hội được xác
định là cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước.
Quyền hành pháp được hiểu là quyền thi hành (chấp hành) pháp luật và
quyền này được giao cho các cơ quan hành chính nhà nước (chính phủ, các
bộ...). Chính vì thế, quyền lực của cơ quan hành chính nhà nước mặc dù bị giới
hạn bởi những khuôn khổ pháp luật do cơ quan lập pháp đề ra nhưng phạm vi
các quyền của bộ máy hành pháp lại rất rộng lớn và đòi hỏi bộ máy đó phải là cơ
cấu lớn nhất của bộ máy nhà nước, được tổ chức theo những nguyên tắc đặc thù,
bảo đảm thực hiện một cách thống nhất, thông suốt và rộng khắp trên toàn lãnh
thổ
Quyền tư pháp, nghĩa chung nhất là quyền tài phán và quyền này được giao
cho toà án. Cơ quan thực hành quyền tư pháp đặc trưng tính độc lập của toà án,
khi xét xử thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nhưng nguyên tắc này tự
nó đã giả định rằng pháp luật mà cơ quan lập pháp đề ra là đúng và đủ.
Tóm lại, các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là những bộ phận quyền
lực nhà nước. Vì vậy, giải pháp tốt nhất và có ý nghĩa tực tiễn nhất là trên cơ sở
xác định rõ tính chất, đặc điểm, nội dung, hình thức và phương pháp biểu hiện
đặc thù của mỗi loại quyền lực để xây dựng cơ sở khoa học cho việc tìm ra mức
độ hợp lí trong việc phân công và phối hợp thực hiện có hiệu quả cao nhất mỗi
loại quyền lực đó nói riêng và quyền lực nhà nước nói chung.
2.So sánh giữa tác giả Lê Minh Tâm và tác giả Nguyễn Minh Đoan về “quyền
lực nhà nước”
*Sự giống nhau:
- Về tính thống nhất: Thống nhất là một trong những thuộc tính cơ bản của
quyền lực nhà nước, xuất phát từ nhu cầu khách quan. Quyền lực nhà nước được
sinh ra do nhu cầu phân công lao động xã hội, nhu cầu quản lý xã hội từ phía nhà
nước. Đồng thời, bộ máy nhà nước vẫn luôn phải là một cơ chế thống nhất nắm giữ
và thực hiện quyền lực nhà nước.
- Về sự phân công: Sự phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện quyền lực nhà nước cũng chỉ mang tính chất tương đối (không phân công
tách biệt một cách tuyệt đối). Sự phân định tương đối của quyền lực nhà nước
cũng xuất phát từ nhu cầu có tính khách quan. Quyền lực nhà nước cơ bản bao
gồm ba thứ quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc phân biệt các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp, không đơn thuần chỉ là sự phân công lao động
quyền lực mà còn có ý nghĩa quyền lực kiềm chế quyền lực (giám sát, kiểm
soát, chế ước lẫn nhau giữa các quyền lực).
- Về sự phối hợp: Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước là để bảo đảm thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu chung của cả bộ máy nhà nước. Sự phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước có tác dụng
chế ước, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước để tránh nguy cơ lạm
dụng quyền lực. Các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là những bộ phận
quyền lực nhà nước. Mỗi bộ phận đều có sự độc lập nhất định nhưng giữa chúng
luôn có sự tác động qua lại, đan xen và hoà quyện với nhau.
*Sự khác nhau:
Lê Minh Tâm Nguyễn Minh Đoan
Sự phân công quyền lực diễn ra theo Việc phân định quyền lực nhà nước
TRƯƠNG THỊ MỸ TRÚC – 2353801015216
22 BÀI TẠP CHÍ
nhiều chiều khác nhau: theo chiều thành các bộ phận, nhánh, chủ yếu là
ngang, theo chiều dọc. theo chiều ngang giữa các cơ quan
cùng cấp.
Nguyên nhân cử sự phối hợp quyền Xuất phát từ tinh thống nhất của
lực nhà nước: Không được đề cập rõ. quyền lực ở mục đích, chức năng
cũng như nhiệm vụ từ đó yêu cầu phải
có sự phối hợp chặt chê.
Sự phối hợp và tương tác giữa các Giữa các cơ quan nhà nước có sự chế
quyền được đề cập nhưng chưa rõ ước, kiểm soát lẫn nhau. Có sự phối
ràng và chi tiết hợp giữa nhiều cơ quan để cùng thực
hiện một nhiệm vụ, công việc.
cạnh đó quyền lực nhà nước vẫn chưa được khắc họa một cách tỉ mỉ nhất vì thế
cần được nghiên cứu nhiều hơn.