You are on page 1of 89

HỘI ĐỒNG PHỐI HỢP PHỔ BIẾN,

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRUNG ƯƠNG

ĐẶC SAN
TUYÊN TRUYỀN PHÁP LUẬT
Số: 8/2014

CHỦ ĐỀ

MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ


VỀ QUY CHẾ NGƯỜI KHÔNG QUỐC TỊCH

HÀ NỘI - NĂM 2014

1
CHỦ ĐỀ

MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ


VỀ QUY CHẾ NGƯỜI KHÔNG QUỐC TỊCH

2
Phần thứ nhất

NỘI DUNG CÔNG ƯỚC 1954 VỀ QUY CHẾ

NGƯỜI KHÔNG QUỐC TỊCH

1. Bối cảnh ra đời và vai trò của công ước 1954

Trước giai đoạn 1950, không có sự phân biệt giữa những người không
quốc tịch và người tị nạn. Họ đều không nhận được sự bảo trợ từ quốc gia
gốc cũng như quốc gia mà họ tới cư trú sinh sống. Cả hai đối tượng này đều
nhận được sự bảo trợ quốc tế từ các tổ chức tị nạn quốc tế, đặc biệt là Cao ủy
Liên hiệp quốc về người tị nạn (tiếng anh: United Nations High
Commissioner for Refugees, viết tắt là UNHCR). Sau năm 1951, với sự ra
đời của Công ước 1951 về Quy chế người tị nạn, khái niệm người tị nạn đã
được quy định cụ thể trong hệ thống luật pháp quốc tế và người tị nạn đã
nhận được nhiều sự bảo hộ quốc tế hơn như đã được quy định trong Công
ước năm 1951. Tuy nhiên sau chiến tranh Thế giới thứ II, hàng nghìn người
đã phải rời bỏ nhà cửa, đi lánh nạn tại các nước khác và vì nhiều lý do đã
không chứng minh được mối liên hệ với nước gốc của mình. Người không
quốc tịch và quy chế dành cho người không quốc tịch chỉ được quy định cụ
thể trong hệ thống luật pháp quốc tế vào năm 1954 sau khi Công ước 1954 về
Quy chế người không quốc tịch được ký chính thức tại New York (trên thực
tế, Công ước 1954 ban đầu được dự thảo như là Nghị định thư của Công ước
1951 về Quy chế người tị nạn và nhằm mục đích thể hiện mối liên hệ giữa
người tị nạn và những người không quốc tịch. Trong thời gian này, do nhu
cầu cấp thiết là ổn định xã hội, bảo đảm an ninh công cộng và tái thiết sau
Chiến tranh Thế giới lần thứ II cũng như sự tan rã trong Tổ chức Quốc tế về
Người tị nạn (tiền thân của UNHCR), vấn đề người tị nạn và người lánh nạn
đã được ưu tiên giải quyết trước).

Công ước 1954 về quy chế của người không quốc tịch được Liên hiệp
quốc thông qua ngày 28/9/1954, có hiệu lực từ ngày 06/6/1960 (Phụ lục 1:
Công ước 1954 về quy chế của người không quốc tịch). Đây là văn kiện quốc
3
tế đầu tiên được thông qua điều chỉnh và cải thiện tình trạng pháp lý của
người không quốc tịch và bảo đảm cho những người không quốc tịch có các
quyền cơ bản và quyền tự do mà không bị phân biệt đối xử.

Công ước 1954 về quy chế của người không quốc tịch đã được thông
qua tại Hội nghị của Liên hiệp quốc về tình trạng người không quốc tịch, tổ
chức tại trụ sở của Liên hiệp quốc tại New York từ ngày 13 đến ngày
23/9/1954. Hội nghị đã được triệu tập theo Nghị quyết số 526A (XVII) ngày
26/4/1954 của Hội đồng kinh tế và xã hội của Liên hiệp quốc. Để phục vụ
cho luật cuối cùng, các ý kiến đóng góp và giải pháp đã được thông qua tại
Hội nghị và được ghi nhận tại trang 117, quyển 360 hệ thống các hiệp ước
của Liên hiệp quốc.

Công ước về quy chế (tình trạng – vị thế) của người không quốc tịch
năm 1954, với mục đích cải thiện tình trạng pháp lý của người không quốc
tịch nhằm nâng cao vị thế của những người không quốc tịch quy định các
điều khoản và các biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích của những người
không quốc tịch hiện đang sinh sống tại các quốc gia trên thế giới.

2. Một số điều khoản chính của công ước 1954

Công ước được quy định thành 6 chương với 42 điều và kèm theo 01 phụ
lục với 13 mục, quy định các nội dung cơ bản: định nghĩa người không quốc
tịch; đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của công ước; địa vị pháp lý và tài
sản của người không quốc tịch; các nguyên tắc áp dụng cho các quốc gia
thành viên tham gia Công ước để có những biện pháp thực hiện đối với người
không quốc tịch, đảm bảo việc những người không quốc tịch được đối xử
bình đẳng như những người có quốc tịch

Định nghĩa về người không quốc tịch: Điều 1 Công ước 1954 quy
định theo mục đích của Công ước, thuật ngữ “Người không quốc tịch” được
hiểu là một người không được bất kỳ quốc gia nào coi là công dân theo pháp
luật hiện hành của quốc gia đó.

4
Đây là một định nghĩa pháp lý khá chặt chẽ và khái quát. Nó không đi
sâu phân tích vào việc xác định thế nào là quốc tịch, đặc trưng của quốc
tịch, hay cách mà quốc tịch được cấp hoặc quyền được nhận quốc tịch; mà
chỉ hướng tới mô tả một thực tế pháp lý đơn giản, một hậu quả pháp luật
trong việc xác định ai là người có quốc tịch dựa theo quy định trong pháp
luật về quốc tịch hiện hành của các nước. Tuy nhiên, các quy định trong
Công ước cũng có những nguyên tắc liên quan đến việc xin, cho, mất và từ
chối quốc tịch – những nguyên tắc quan trọng trong việc xác định ai nên
được vào quốc tịch nếu áp dụng pháp luật.

Những người không được Công ước 1954 điều chỉnh: Công ước này
không áp dụng đối với:

- Những người mà vào thời điểm Công ước có hiệu lực, đang nhận sự
giúp đỡ của các cơ quan của Liên hợp quốc trừ Cao ủy Liên hợp quốc về
người tỵ nạn;

- Những người đã có những quyền và nghĩa vụ gắn với việc có quốc


tịch ở nước mà họ cư trú. Nói một cách khác, khi cá nhân đã có được quy chế
pháp lý tối đa có thể (quy chế tương đương với quy chế của công dân), việc
tham gia Công ước của nước đó với những quy định kém rộng rãi hơn so với
quy định người không quốc tịch được hưởng theo luật quốc gia, sẽ không làm
hỏng các quyền này. Tuy nhiên, phải nhận thức tầm quan trọng của chính
quốc tịch;

- Những người mà đối với họ có lý do để thực sự cho rằng:

+ Họ đã phạm tội ác chống lại hòa bình, tội ác chiến tranh hoặc tội ác
chống nhân loại;

+ Họ đã phạm tội nghiêm trọng phi chính trị bên ngoài nước mà họ
đang cư trú trước khi họ vào cư trú ở nước này;

+ Họ đã có những hành vi sai trái đi ngược lại mục đích và các


nguyên tắc của Liên hợp quốc

5
Những người đủ tư cách: Việc quyết định xem liệu một người có
được quyền hưởng lợi ích của Công ước này hay không do mỗi quốc gia
thành viên định đoạt phù hợp với các thủ tục quy định của riêng họ và có thể
được đưa ra tùy thuộc vào việc cho phép cư trú hợp pháp. Cao ủy Liên hợp
quốc về người tỵ nạn, nếu được yêu cầu, sẵn sàng đóng vai trò tư vấn trong
những thủ tục này, dựa trên kinh nghiệm của Văn phòng Cao ủy về những
vấn đề liên quan đến không quốc tịch và quốc tịch.

Những điều khoản liên quan đến vị thế của người không quốc tịch:
Công ước gồm những điều khoản về quyền và nghĩa vụ của người không
quốc tịch gắn với quy chế pháp lý của họ tại nước cư trú. Những quyền này
gồm quyền khiếu nại tại tòa án, quyền sở hữu tài sản và quyền tự do thực
hành tôn giáo. Các nghĩa vụ bao gồm tuân thủ pháp luật và các quy định của
nước cư trú. Công ước còn đề cập đến nhiều vấn đề có ảnh hưởng quan trọng
đến đời sống hàng ngày như làm việc có thu nhập, giáo dục phổ cập, được
cứu trợ xã hội, luật lao động và an sinh xã hội. Các nước ký kết được khuyến
khích dành cho người không quốc tịch cư trú hợp pháp trên lãnh thổ nước
mình tiêu chuẩn đối xử trong một số trường hợp ngang với tiêu chuẩn dành
cho công dân nước mình và trong những trường hợp khác ngang với công
dân nước ngoài hoặc người nước ngoài nói chung trong cùng hoàn cảnh.

Căn cước và giấy thông hành: Công ước quy định rằng một cá nhân
được công nhận là người không quốc tịch theo quy định của Công ước phải
được ký kết cấp căn cước và giấy thông hành. Việc cấp giấy thông hành
không có nghĩa là cấp quốc tịch, không làm thay đổi quy chế của cá nhân đó,
và không trao cho sự bảo hộ quốc gia hoặc quyền được bảo hộ ở cơ quan đại
diện ngoại giao hoặc lãnh sự. Tuy nhiên, các giấy tờ này đặt biệt quan trọng
đối với những người không quốc tịch trong việc tạo thuận lợi cho họ khi đi
đến các nước khác để học tập, làm việc, chữa bệnh và nhập cư. Phù hợp với
Phụ lục của Công ước, mỗi nước ký kết cam kết công nhận giá trị của giấy
thông hành do các nước ký kết khác cấp. Cao ủy Liên hợp quốc về người tỵ
nạn sẵn sàng cung cấp tư vấn kỹ thuật về việc cấp giấy tờ này.
6
Trục xuất: Người không quốc tịch không thể bị trục xuất, trừ khi có lý
do về an ninh quốc gia và trật tự công cộng. Việc trục xuất phải tuân theo đầy
đủ các quy trình pháp luật trừ khi có lý do bắt buộc về an ninh quốc gia. Nghị
quyết cuối cùng chỉ ra rằng nguyên tắc không đẩy trở lại khi có nguy cơ bị
ngược đãi là một nguyên tắc chung đã được chấp nhận. Vì thế, các nhà soạn
thảo đã không cảm thấy cần thiết phải khẳng định lại điều này trong các điều
khoản của một công ước được xây dựng để điều chỉnh Quy chế Người không
quốc tịch theo pháp luật.

Nhập quốc tịch: Quốc gia ký kết sẽ cố gắng tạo điều kiện thuận lợi
nhất có thể cho những người không quốc tịch hòa nhập và nhập quốc tịch. Cụ
thể, Quốc gia ký kết sẽ nỗ lực hết mình để đẩy nhanh quá trình nhập quốc
tịch trong đó bao gồm cả việc giảm phí và lệ phí khi có thể.

Giải quyết tranh chấp: Những tranh chấp giữa các Quốc gia thành
viên không giải quyết được bằng các biện pháp khác sẽ được đưa ra Tòa án
quốc tế khi một bên tranh chấp yêu cầu.

Bảo lưu: Thừa nhận một số điều kiện đặc biệt tồn tại ở mỗi quốc gia
khi phê chuẩn hoặc gia nhập, Công ước cho phép các nước ký kết bảo lưu
một số điều khoản nhất định. Việc bảo lưu có thể được thực hiện đối với bất
cứ điều khoản nào của Công ước trừ những điều khoản mà các nhà soạn thảo
xác định là có tính chất nên tảng của Công ước. Vì vậy, không được bảo lưu
đối với trường hợp ở Điều 1 (định nghĩa/loại trừ), Điều 3 (không phân biệt,
đối xử), Điều 4 (tự do tôn giáo), Điều 16(1) (tự do liên hệ với tòa án), và
Điều 33 đến Điều 42 (những điều khoản cuối cùng).

Nghị quyết cuối cùng: Nghị quyết cuối cùng khuyến nghị rằng mỗi
nước ký kết cần xem xét một cách cảm thông khả năng dành cho một người
được đối xử như sự đối xử mà Công ước dành cho những người không quốc
tịch khi những người này công nhận những lý do mà người đó đưa ra để từ bỏ
sự bảo hộ của nước mà họ là công dân. Khuyến nghị này được đưa thêm vào
nhân danh những người không quốc tịch trên thực tế, những người về mặt kỹ

7
thuật vẫn còn giữ quốc tịch nhưng không được hưởng các quyền lợi gắn với
quốc tịch, chẳng hạn như bảo hộ quốc gia.

3. Vai trò của Cao ủy của Liên hợp quốc về người tỵ nạn (UNHCR) đối
với vấn đề không quốc tịch

Cao ủy của Liên hợp quốc về người tỵ nạn luôn có trách nhiệm đối
với những người tỵ nạn không có quốc tịch, theo như chức năng được quy
định của mình về việc cung cấp sự bảo hộ quốc tế cũng như theo Công ước
năm 1951 về Địa vị của người tỵ nạn. Hơn thế nữa, trong những năm gần
đây, Văn phòng cao ủy đã được khuyến khích tìm cách tiến hành những
biện pháp phòng ngừa bằng việc giải quyết những nguyên nhân dẫn đến
việc di cư không tự nguyện. Rõ ràng, việc thực hiện một quốc tịch thật sự
và khả năng thực hiện những quyền gắn liền với quốc tịch đóng vai trò như
những nhân tố ổn định trong việc ngăn ngừa những sự dịch chuyển không tự
nguyện và do cưỡng ép giữa các quốc gia.

Có một mối liên hệ giữa việc mất và việc từ chối sự bảo hộ quốc gia
và việc tình trạng không quốc tịch là một khía cạnh quan trọng trong việc
bảo vệ những quyền của người thiểu số. Trong khi những quyền con người
cơ bản của người không quốc tịch về nguyên tắc là phải được tôn trọng tại
nước mà họ cư trú thực sự, rõ ràng là có những người không quốc tịch
không thể nhận được sự bảo hộ quốc gia cần thiết để có được một cuộc sống
ổn định. Việc ngăn ngừa và giảm tình trạng không quốc tịch và sự bảo hộ
đối với những người không quốc tịch là quan trọng cho việc ngăn ngừa
nguy cơ về tình trạng di cư trong tương lai.

Cao ủy của Liên hợp quốc về người tỵ nạn được Đại hội đồng Liên
hợp quốc trao cho nhiệm vụ hoàn thành chức năng được quy định theo
Điều 11 Công ước 1961 về giảm tình trạng không quốc tịch. Khi Công ước
năm 1961 có hiệu lực Cao ủy của Liên hợp quốc về người tỵ nạn được yêu
cầu tạm thời đảm nhiệm những nhiệm vụ theo quy định của Điều 11 “của
một cơ quan mà một người hưởng lợi ích từ Công ước này có thể đề nghị

8
giám sát những đòi hỏi và yêu cầu hỗ trợ của họ trong việc đưa vấn đề này
lên cơ quan có thẩm quyền thích hợp ”. Như là một cơ quan được chỉ định
để hoạt động với vai trò trung gian giữa các Quốc gia và những người
không quốc tịch theo như quy định Công ước năm 1961, Cao ủy của Liên
hợp quốc về người tỵ nạn có nhiệm vụ cung cấp những ý kiến chuyên môn
trong lĩnh vực luật quốc tịch của các Quốc gia thành viên. Những nguyên
tắc nêu trong Công ước năm 1961 có vai trò như một cơ sở thảm khảo để
xác định pháp luật quốc tế và đạt được sự đồng thuận quốc tế về vấn đề
quốc tịch và đã được đưa vào một loạt các điều ước và văn kiện quốc tế,
cũng như được đưa vào luật pháp quốc gia về quốc tịch.

Do vậy, trong khi có một số lượng nhỏ các Quốc gia ký Công ước năm
1961, những nguyên tắc được nêu ra trong Công ước lại gắn liền với pháp
luật quốc gia về quốc tịch và thực hiện tại rất nhiều Quốc gia, và đóng vai trò
như một phương tiện để đạt được sự đồng thuận về những tiêu chuẩn pháp lý
được áp dụng trong lĩnh vực quốc tịch đối với vấn đề người không quốc tịch.
Những tiêu chuẩn này bao gồm việc tránh tình trạng không quốc tịch và việc
trao quốc tịch cho những người có mối liên hệ thực sự hay quan hệ thích hợp
với một Quốc gia.

Cũng liên quan đến quan hệ của Cao ủy của Liên hợp quốc về người tỵ
nạn và các Quốc gia về vấn đề quốc tịch đó là Quyết định ngăn ngừa và giảm
tình trạng không quốc tịch và Bảo vệ người không quốc tịch, được Ủy ban
điều hành của Cao ủy và được Đại hội đồng Liên hợp quốc ủng hộ trong
Nghị quyết 50/152 ngày 09/02/1996. Đại hội đồng khuyến khích Cao ủy tiếp
tục các hoạt động của mình trong việc đại diện cho những người không quốc
tịch như là một phần của chức năng được quy định của mình trong việc cung
cấp sự bảo hộ quốc tế và tìm kiếm những biện pháp phòng ngừa, cũng như
những trách nhiệm theo như Nghị quyết của Đại hội đồng số 3274 (XXIV)
ngày 10/12/1974 và số 31/36 ngày 30/11/1976, và giờ đây: “Yêu cầu văn
phòng Cao ủy có cân nhắc đến số lượng hạn chế các Quốc gia tham gia
những văn kiện này, thúc đẩy việc gia nhập Công ước 1954 về Quy chế
9
người không quốc tịch và Công ước 1961 về giảm tình trạng không quốc tịch,
cũng như cung cấp những dịch vụ kỹ thuật và tư vấn liên quan đến việc
chuẩn bị và thực hiện luật pháp về quốc tịch của các Quốc gia liên quan”.

Để đạt được mục tiêu này, Cao ủy Liên hợp quốc về người tỵ nạn đã
cung cấp những tư vấn và hỗ trợ cho chính phủ và các cá nhân trong vấn đề
quốc tịch, trong đó bao gồm cả việc dự thảo và thực hiện luật pháp quốc gia
về quốc tịch. Văn phòng sẽ tiếp tục cung cấp các dịch vụ kỹ thuật và tư vấn
và tăng cường việc thực hiện những Công ước về người không quốc tịch như
một phần trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 11 của Công ước năm
1961,, cũng như trong việc đáp lại yêu cầu của Ủy ban điều hành của mình
để “cung cấp những dịch vụ kỹ thuật và tư vấn liên quan đến việc chuẩn bị và
thực hiện luật pháp quốc gia về quốc tịch”.

Cao ủy Liên hợp quốc về người tỵ nạn quan tâm đến luật pháp quốc gia
về quốc tịch và tình trạng di cư. Trong Nghị quyết năm 1996, Đại hội đồng
thể hiện sự quan ngại của mình về việc “người không quốc tịch, bao gồm cả
việc không có khả năng xác minh quốc tịch của một người, có thể dẫn đến
tình trạng di cư”. Việc thiếu một quốc tịch hiệu quả bao gồm cả bảo hộ quốc
gia cũng liên quan và có một loạt các án lệ trong đó tình trạng không quốc
tịch trên thực tế (de facto) được chỉ ra là có liên quan đến việc di cư dân
chúng. Trong khi một số người tỵ nạn là những người không quốc tịch theo
pháp luật (de jure), có rất nhiều người tỵ nạn là người không quốc tịch trên
thực tế (de facto), làm loại người không quốc tịch này. Hoặc nguy cơ hình
thành nó, trở thành một khối quan ngại cho Văn phòng.

4. Sự tham gia của các quốc gia trên thế giới đối với công ước 1954

Tính đến nay, ngoài 23 nước là thành viên sáng lập, hiện có thêm 62
quốc gia gia nhập. Trong số 23 nước là thành viên sáng lập, chỉ có 10 nước
sớm phê chuẩn công ước này là: Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Isarel, Italia,
Luxembourg, Hà Lan, Nauy và khối Liên hiệp Anh và Bắc Ai Len (từ năm
1954 đến 1964); một số nước phê chuẩn muộn hơn là: Thụy Sĩ, Thụy Điển,

10
Đức, Ecuador, Costarica (từ năm 1965 đến 1977); Brazil (năm 1996)
Guatemala (năm 2000); Liechtenstein (năm 2009); Phillipin (năm 2011);
Honduras (năm 2012) và có 03 quốc gia và vùng lãnh thổ chưa phê chuẩn
Công ước là: Colombia, Elsavador, Holy See.

Có 16 nước được thụ hưởng từ các quy định của Công ước này là:
Antigua và Barbuda; Barbados; Bosnia và Herzegovina; Botswana;
Croatia; Fiji; Kiribati; Lesotho; Montenegro; Serbia; Slovenia; quần đảo
St.Vincent và the Grenadines; Cộng hòa Macedonia; Trinidad và Tobago;
Zambia và Zimbabue.

Tại Châu Á: Tính đến năm 2012, có 04 nước và vùng lãnh thổ tham gia
Công ước là:

- Phillipines: tham gia ký kết công ước ngày 22/6/1955 và phê chuẩn
ngày 22/9/2011.

- Hàn Quốc: Gia nhập Công ước ngày 22/8/1962.

- Hồng Kông : Ngày 19/3/1962, với tư cách là vùng lãnh thổ thuộc
khối liên hiệp Anh và Bắc Ailen, Hồng Kông đã tham gia Công ước
này.

- Singapore: với tư cách là vùng lãnh thổ thuộc khối liên hiệp Anh và
Bắc Ailen cũng tham gia Công ước vào ngày 19/3/1962.

Hiện nay, Việt Nam và Lào là hai nước Đông Nam Á đang nghiên cứu
khả năng gia nhập Công ước 1954 về quy chế của người không quốc tịch
này.

11
Danh sách các nước sáng lập, tham gia, thụ hưởng, phê chuẩn Công
ước 1954 về quy chế người không quốc tịch: 1

STT Thành viên Nước Nước gia Nước được Nước phê
sáng lập nhập thừa chuẩn
(Signature (Accession hưởng (ratification)
) ) (succession
)

1 Albania 23/6/2003

2 Algeria 15/7/1964

3 Antigua và 25/10/1988
Barbuda

4 Argentina 01/6/1972

5 Armenia 18/5/1994

6 Australia 13/12/1973

7 Áo 08/02/2008

8 Azerbaijan 16/8/1996

9 Barbados 06/3/1972

10 Bỉ 28/9/1954 27/5/1960

11 Belize 14/9/2006

12 Benin 08/12/2011

13 Bolivia 06/10/1983

14 Bosnia và 01/91993

1
Tham khảo thêm tại địa chỉ: https://treaties.un.org/pages/ViewDetailsII.aspx?
&src=UNTSONLINE&mtdsg_no=V~3&chapter=5&Temp=mtdsg2&lang=en#3

12
Herzegovina

15 Botsoana 25/02/1969

16 Brazil 28/9/1954 13/8/1996

17 Bulgaria 22/3/2012

18 Burkina Faso 01/5/2012

19 Chad 12/8/1999

20 Colombia 30/12/195
4

21 Costa Rica 28/9/1954 02/11/1977

22 Côte d'Ivoire 03/10/2013

23 Croatia 12/10/1992

24 Cộng hòa 19/7/2004


Czech

25 Đan Mạch 28/9/1954 17/01/1956

26 Ecuador 28/9/1954 02/10/1970

27 El Salvador 28/9/1954

28 Fiji 12/6/1972

29 Phần Lan 10/10/1968

30 Pháp 12/01/195 08/3/1960


5

31 Georgia 23/12/2011

32 Đức 28/9/1954 26/10/1976

33 Hy Lạp 04/11/1975

34 Guatemala 28/9/1954 28/11/2000

13
35 Guinea 21/3/1962

36 Holy See 28/9/1954

37 Honduras 28/9/1954 01/10/2012

38 Hungary 21/11/2001

39 Ireland 17/12/1962

40 Israel 01/10/195 23/12/1958


4

41 Italy 20/10/195 03/12/1962


4

42 Kiribati 29/11/1983

43 Latvia 05/11/1999

44 Lesotho 04/11/1974

45 Liberia 11/09/1964

46 Libya 16/05/1989

47 Liechtenstein 28/9/1954 25/9/2009

48 Lithuania 07/02/2000

49 Luxembourg 28/10/195 27/6/1960


5

50 Madagascar 20/02/1962

51 Malawi 07/10/2009

52 Mexico 07/6/2000

53 Montenegro 23/10/2006

54 Hà Lan 28/9/1954 12/4/1962

55 Nicaragua 15/07/2013

14
56 Nigeria 20/9/2011

57 Na Uy 28/9/1954 19/11/1956

58 Panama 02/6/2011

59 Peru 23/01/2014

60 Philippines 22/6/1955 22/9/2011

61 Bồ Đào Nha 01/10/2012

62 Hàn Quốc 22/8/1962

63 Moldova 19/4/2012

64 Romania 27/01/2006

65 Rwanda 04/10/2006

66 Senegal 21/9/2005

67 Serbia 12/3/2001

68 Slovakia 03/4/2000

69 Slovenia 06/7/1992

70 Tây Ban Nha 12/5/1997

71 St.Vincent 27/4/1999
and the
Grenadines

72 Swaziland 16/11/1999

73 Thụy Điển 28/9/1954 02/4/1965

74 Thụy Sĩ 28/9/1954 03/7/1972

75 Cộng hòa 18/01/1994


Macedonia

76 Trinidad và 11/4/1966

15
Tobago

77 Tunisia 29/7/1969

78 Turkmenista 07/12/2011
n

79 Uganda 15/4/1965

80 Khối liên 28/9/1954 16/4/1959


hiệp Anh và
Bắc Ailen

81 Uruguay 02/4/2004

82 Zambia 01/11/1974

83 Zimbabwe 01/12/1998

16
Danh sách các vùng lãnh thổ tham gia Công ước 1954 về người không
quốc tịch 2

STT Thành viên Ngày nhần Vùng lãnh thổ


được thông
báo

1 Pháp 08/3/1960 - Một số khu vực thuộc Algeria,


Oases và Saoura

- Guadeloupe, Martinique và Guiana

- Năm vùng lãnh thổ ở nước ngoài


bao gồm: New Caledonia và các vùng
thuộc địa; khu vực Polynesia; khu
vực Somali, Comoro Archipelago;
Quần đảo St. Pierre và Miquelon

2 Hà Lan 12/4/1962 New Guinea và Suriname

3 Khối liên 14/4/1959 Quần đảo Channel và khu vực Isle of


hiệp Anh và Man
Bắc Ailen 07/12/1959 Vùng lãnh thổ toàn quyền của
Basutoland, khu vực bảo hộ thuộc
Bechuanaland và Swaziland

2
Tham khảo thêm tại địa chỉ: https://treaties.un.org/pages/ViewDetailsII.aspx?
&src=UNTSONLINE&mtdsg_no=V~3&chapter=5&Temp=mtdsg2&lang=en#3

17
09/12/1959 Liên bang Rhodesia và Nyasaland

19/3/1962 Bermuda; các khu vực thuộc vương


quốc Anh ở: Guiana, Honduras, quần
đảo Solomon được Anh bảo hộ, Quần
đảo Virgin; Thuộc địa Aden; Quần
đảo Falkland (Malvinas); Fiji;
Gambia; Quần đảo Gilbert và Ellice;
Hong Kong; Kenya; Malta;
Mauritius; Bắc Borneo; Nam Borneo;
St. Helena; Sarawak; Seychelles;
Singapore; Uganda; Tây Ấn và
Zanzibar

18
Phần thứ hai

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NGƯỜI KHÔNG QUỐC TỊCH

I. Khái niệm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với người
không quốc tịch sống trên lãnh thổ Việt Nam.

1. Khái niệm người không quốc tịch ở Việt Nam

Theo quan niệm quốc tế, tình trạng không quốc tịch có 2 dạng
chính: người không quốc tịch theo luật (du jure) nghĩa là một người không
xin được xác nhận quốc tịch hoặc không được coi là công dân của một
nước theo quy định của luật pháp nước đó và người không quốc tịch từ
thực tế (de factor) nghĩa là một người không thể có bất cứ giấy tờ gì để
chứng minh quốc tịch của mình.

Khoản 2 Điều 2 Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 đã giải thích cụm
từ “người không quốc tịch” là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng
không có quốc tịch nước ngoài. Thuật ngữ này vẫn tiếp tục được sử dụng lại
tại khoản 2 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008. Quan điểm và chính
sách của Nhà nước ta về hạn chế tình trạng không quốc tịch được thể hiện tại
Điều 8 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tạo điều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều
có quốc tịch và những người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam được
nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này”.

19
2. Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với người không quốc
tịch sống trên lãnh thổ Việt Nam

Quyền có quốc tịch là một trong những quyền nhân thân cơ bản của
con người. Ở Việt Nam, quyền này đã được ghi nhận tại Điều 17 Hiến pháp
năm 2013: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có
quốc tịch Việt Nam”. Điều 45, Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng khẳng định
“cá nhân có quyền có quốc tịch”.

Đối với người không quốc tịch, chính sách nhất quán của Nhà nước
Việt Nam được thể hiện tại Điều 8 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 và
tiếp tục được kế thừa trong Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008: “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo điều kiện cho trẻ em sinh ra trên
lãnh thể Việt Nam đều có quốc tịch và những người không quốc tịch thường
trú ở Việt Nam được nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này”.

Đối với trẻ em, quyền được khai sinh và có quốc tịch là một quyền cơ
bản đã được ghi nhận tại khoản 1 Điều 11 Luật giáo dục, bảo vệ và chăm sóc
trẻ em, theo đó, “trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc tịch”. Đặc biệt,
đối với những trẻ em khi sinh ra, vì một lý do nào đó mà quyền có quốc tịch
này có thể bị ảnh hưởng (do cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ đều là người không
có quốc tịch; trẻ bị bỏ rơi…) thì pháp luật về quốc tịch cũng đã dự liệu các
trường hợp này để đảm bảo mọi trẻ em khi sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam
đều có quốc tịch Việt Nam. Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã quy định:
“Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha
hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch hoặc
có mẹ là công dân Việt Nam con cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt
Nam” (Khoản 1 Điều 16). Đối với trường hợp trẻ em sinh ra trên lãnh thổ
Việt Nam mà khi sinh có cha mẹ đều là người không quốc tịch hoặc có mẹ là
người không quốc tịch (còn cha không rõ là ai), nhưng có nới thường trú tại
Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam (Điều 17). Ngay cả trường hợp trẻ sơ
sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha

20
mẹ là ai thì có quốc tịch Việt Nam (khoản 1 Điều 18). Những quy định này
phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã tham gia
đồng thời thể hiện chính sách nhất quán về quốc tịch của Nhà nước ta.

Đối với người không quốc tịch, Luật năm 2008 đã có một điều luật
riêng (Điều 22) quy định trình tự, thủ tục và hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt
Nam đối với người không quốc tịch không có đầy đủ các giấy tờ về nhân
thân nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thể Việt Nam từ 20 năm trở lên tính
đến ngày 01/7/2009. Quy trình này còn được quy định cụ thể tại các văn bản
hướng dẫn thi hành như: Điều 8 Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày
22/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Quốc tịch Việt Nam; Điều 7 Thông tư liên tịch số
05/2010/TTLT/BTP-BNG-BCA ngày 01/3/2010. Quy định về nhập quốc tịch
cho người không quốc tịch thuộc diện tại Điều 22 Luật năm 2008 đã thể hiện
rõ sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam tới những người không quốc tịch đã
sinh sống ổn định lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là những người không
quốc tịch, không có bất cừ giấy tờ chứng minh quốc tịch gì. Vì vậy, họ không
thể đáp ứng các điều kiện để làm hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam theo
diện thông thường. Vì vậy, mặc dù họ đã sống ở Việt Nam trong một thời
gian dài nhưng họ vẫn không thể làm thủ tục xin nhập quốc tịch Việt Nam
theo diện thông thường. Vì vậy, mặc dù họ đã sống ở Việt Nam trong một
thời gian dài nhưng họ vẫn không thể làm thủ tục xin nhập quốc tịch Việt
Nam. Chính điều này làm cho cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn. Việc họ
không phải là công dân Việt Nam hay công dân nước ngoài đã khiến họ bị
mất cơ hội có việc làm ổn định tại các cơ quan, tổ chức; con cái của họ sinh
ra gặp khó khăn trong việc học hành; bản thân những người này không được
đứng tên sở hữu nhà, đất và không được tham gia bất cứ một hoạt động chính
trị nào như bầu cử, ứng cử.

Như vậy, có thể nói, hệ thống pháp luật về quốc tịch của Việt Nam đã
có nhiều quy định liên quan đến vấn đề người không quốc tịch. Đặc biệt,
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã có những quy định về nhập quốc tịch
21
theo thủ tục đơn giản có người không quốc tịch đã thực sự có ý nghĩa đối với
cuộc sống của những người này. Quy định về nhập quốc tịch tại Điều 22 Luật
Quốc tịch Việt Nam đã thực sự giúp thay đổi địa vị pháp lý của những người
này, từ chỗ không có quốc tịch họ đã được nhập quốc tịch và được hưởng đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ của một công dân.

II. Tình hình người không quốc tịch trên lãnh thổ Việt Nam

Trong những năm qua, Bộ Tư pháp chủ động, tích cực trong việc giúp
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về quốc tịch, phối hợp với các Cơ
quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, Uỷ
ban nhân dân và Sở Tư pháp của các tỉnh, thành phố trực trung ương thụ lý,
xem xét, giải quyết một khối lượng rất lớn hồ sơ xin nhập, xin thôi, xin trở lại
quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, việc giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt
Nam trong nhiều năm qua chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân, số
lượng người nước ngoài, đặc biệt là số người không quốc tịch được nhập
quốc tịch Việt Nam là quá ít. Tính từ tháng 01 năm 1999 đến tháng 12 năm
2008, Bộ Tư pháp đã làm thủ tục trình Chủ tịch nước cho phép 296 trường
hợp được nhập quốc tịch Việt Nam, trong số đó chủ yếu là người Hoa hiện
đang sinh sống tập trung tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam và
người Campuchia tị nạn; số lượng người không quốc tịch sống ổn định từ
nhiều năm trên lãnh thổ Việt Nam được nhập quốc tịch Việt Nam là rất hạn
chế.

Người không quốc tịch cư trú trên lãnh thổ Việt Nam vẫn còn tồn đọng
từ nhiều năm nay. Theo nghiên cứu và báo cáo của các địa phương, có thể
khái quát nguời không quốc tịch ở Việt Nam thành 2 nhóm cơ bản là những
người tị nạn, người di cư tự do từ Campuchia đến sinh sống tại các tỉnh phía
Nam vànhững người từ Lào di cư tự do sang Việt Nam sống dọc 10 tỉnh biên
giới phía Tây. Ngoài ra còn có những người không quốc tịch từ Trung quốc
di cư sang Việt Nam sống tại các tỉnh biên giới phía Bắc và một số người đã
được thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài nhưng vì nhiều

22
lý do khác nhau họ không nhập được quốc tịch của nước đó, nay họ đang rơi
vào tình trạng không quốc tịch, về Việt Nam sinh sống (trở về từ Hàn Quốc,
Đài Loan, Đức, Tiệp…).

Những người tị nạn và di cư tự do từ Cam pu chia đến sinh sống tại các
tỉnh phía Nam:

Theo thống kê của các Sở Tư pháp các tỉnh phía Nam, từ những năm
1970 đến năm 1983 có hàng chục nghìn Việt kiều từ Campuchia, phụ nữ
Campuchia lấy chồng là bộ đội Việt Nam và khoảng 125.000 người
Campuchia tị nạn sang Việt Nam, tập trung chủ yếu tại một số địa phương
như: TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, An Giang, Đồng
Tháp, Tây Ninh v.v… Chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo các địa phương, cùng
với Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn (UNHCR) đã thành lập một số trại
ở một số tỉnh phía Nam để quản lý và giúp đỡ số người lánh nạn này. Sau khi
Pol Pốt bị lật đổ, với sự hỗ trợ của UNHCR, Chính phủ Việt Nam đã trao đổi
với Chính phủ Campuchia thu xếp cho đa số người tị nạn nêu trên hồi hương
về Campuchia, đồng thời một số được thu xếp cho đi tái định cư ở nước thứ
ba. Số còn lại khoảng 10.000 người chủ yếu là người gốc Việt Nam và gốc
Hoa vì không thể thu xếp đi định cư ở nước thứ ba nên họ đã ở lại Việt Nam
làm ăn, sinh sống.

Trong số người Campuchia tị nạn này, có rất ít người có thể xuất trình
được giấy tờ chứng minh quốc tịch Campuchia, còn hầu hết đều khồng có
bất cứ một loại giấy tờ pháp lý gì để chứng minh quốc tịch Campuchia hoặc
quốc tịch nước khác. Hiện tại quốc tịch của họ chỉ được xác định dựa trên
cơ sở giấy thường trú của người nước ngoài do cơ quan công an cấp và các
tài liệu tị nạn ghi lại lời khai là có quốc tịch Campuchia (kể cả người Hoa,
người Đài Loan cũng khai là có quốc tịch Campuchia, đăng ký tại các trại tỵ
nạn để được hưởng trợ cấp của cơ quan Cao uỷ Liên hợp quốc về người tị
nạn. Có không ít trường hợp người tị nạn có bố, mẹ, vợ, chồng là công dân
Việt Nam. Hầu hết những người trong số họ đều đã có công ăn việc làm,

23
giao tiếp bình thường bằng tiếng Việt, chấp hành tốt pháp luật Việt Nam, họ
đều có nguyện vọng xin nhập quốc tịch Việt Nam để ổn định, yên tâm, làm
ăn sinh sống lâu dài tại Việt Nam.

Người không quốc tịch từ Lào di cư tự do sang Việt Nam: Vấn đề


người Lào, người Lào gốc Việt di cư tự do sang cư trú ở các tỉnh có biên
giới với Lào đã tồn tại từ nhiều năm nay và vẫn còn đang tiếp diễn. Vấn đề
dân di cư ở khu vực biên giới rất phức tạp. Hầu hết đối tượng này đều có
cuộc sống khó khăn về kinh tế, trình độ dân trí thấp, không có bất cứ giấy tờ
gì để làm căn cứ xác định nhân thân của họ; quan niệm về hôn nhân còn đơn
giản, nặng về phong tục, tập quán; con sinh ra cũng không đăng ký khai
sinh. Theo số liệu thống kê được đưa ra trong Biên bản cuộc họp lần thứ
XVI giữa hai Đoàn đại biểu biên giới Việt Nam-Lào ký ngày 30/12/2006 tại
thủ đô Viêng Chăn, thì tổng số dân Lào di cư tự do sang Việt Nam được
thống kê sơ bộ là 5.188 người và 666 trường hợp kết hôn không giá thú
sống trên đất Việt Nam; tổng số dân Việt Nam di cư tự do sang Lào là 4.251
người và 992 trường hợp kết hôn không giá thú sống trên đất Lào.

Nguyên nhân của tình trạng người Lào di cư tự do sang Việt Nam và
người Việt Nam di cư tự do sang Lào là: dân cư hai bên biên giới có quan
hệ họ hàng, thân tộc, có tập quán du canh, du cư từ lâu đời; trình độ nhận
thức về biên giới quốc gia, chủ quyền lãnh thổ còn rất hạn chế; cơ sở hạ
tầng, điều kiện làm ăn sinh sống rất khó khăn, trong khi đó kinh tế, xã hội
của Việt Nam và Lào đang ngày càng được cải thiện, phát triển. Những yếu
tố đó đã tác động đến người dân của hai nước sống tại các tỉnh giáp biên di
cư tự do để làm ăn, sinh sống; mặt khác do thực hiện Hiệp định về Quy chế
biên giới Việt Nam – Lào dẫn đến việc dịch chuyển dân cư giữa một số địa
phương hai nước, phần lớn người dân trước đây mà Việt Nam bàn giao cho
Lào nay muốn quay trở lại Việt Nam cư trú ổn định lâu dài, xum họp với
dòng tộc và hưởng các chế độ ưu đãi của Việt Nam. Riêng số dân di cư từ
Lào sang Việt Nam hầu hết đều là những người lao động nghèo, có hoàn
cảnh kinh tế khó khăn, nói thông thạo tiếng Việt, tiếng địa phương. Về cơ
24
bản họ đều chấp hành tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước Việt Nam cũng như các quy định của địa phương, cần cù lao động
sản xuất. Trong số dân di cư tự do này có một số gia đình có công với cách
mạng, thuộc diện được hưởng chế độ chính sách của Nhà nước Việt Nam.
Hầu hết số bà con di cư từ Lào sang Việt Nam cũng đều có nguyện vọng
được nhập quốc tịch Việt Nam để ổn định và làm ăn, sinh sống lâu dài tại
Việt Nam.

Những người di cư tự do từ Trung Quốc sang Việt Nam sống tại các
tỉnh biên giới phía Bắc. Theo báo cáo sơ bộ của các tỉnh phía Bắc, trong
những năm qua, số người di cư tự do từ Việt Nam sang Trung Quốc và từ
Trung Quốc sang Việt Nam đã và đang diễn ra tự phát, ngày một tăng và
phức tạp. Có hàng trăm người Việt Nam sang Trung Quốc làm ăn sinh sống,
có con; nay họ trở về Việt Nam không có giấy tờ, rơi vào tình trạng không
quốc tịch. Bên cạnh đó, cũng có khá nhiều người từ Trung Quốc sang Việt
Nam qua con đường kết hôn, làm thuê, kinh doanh, thương mại; họ không
có giấy tờ tùy thân, không quốc tịch; một số đã bị chính quyền các tỉnh trục
xuất về Trung Quốc nhưng một thời gian sau họ trở lại, cư trú lì tại địa
phương. Theo phản ánh của các cơ quan công an, hiện có hàng chục ngàn
phụ nữ Việt Nam vượt qua biên giới Việt – Trung bằng đường tiểu ngạch,
chung sống với đàn ông Trung Quốc như vợ chồng, không đăng ký kết hôn,
sinh sống, sinh con; nhiều người trong số họ không có giấy tờ tùy thân, đem
con về Việt Nam trong tình trạng trẻ em cũng không có giấy tờ quốc tịch,
hộ tịch, giấy tờ tùy thân.

Những người đã thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước
ngoài nhưng vì nhiều lý do khác nhau họ không nhập được quốc tịch của
nước đó nay họ trở về Việt Nam sinh sống và rơi vào tình trạng không quốc
tịch. Hàng trăm phụ nữ Việt Nam, lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc đã làm
thủ tục xin thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch Trung Quốc (Đài
Loan), Hàn Quốc nhưng họ không được nhập vì nhiều lý do khác nhau
(chồng chết, ly hôn, ly thân, kết hôn giả, phạm tội, để thẻ cư trú quá hạn…),
25
họ bị bỏ rơi vào tình trạng không quốc tịch. Nhiều người trong số họ trở về
Việt Nam, đem theo những đứa trẻ không quốc tịch hoặc quốc tịch không rõ
ràng. Một số khác từ Đông Âu trở về, họ cũng đã thôi quốc tịch Việt Nam
nhưng vì nhiều lý do khác nhau, họ không được nhập quốc tịch của nước sở
tại.

III. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc gia nhập Công ước 1954

Ở Việt Nam, do các văn bản pháp luật chưa quy định đầy đủ các vấn đề
liên quan đến người không quốc tịch, dẫn đến cuộc sống của những người
này gặp nhiều khó khăn. Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định một số
điều về việc nhập quốc tich cho người không quốc tịch là nhằm giải quyết
tình trạn đã tồn tại nhiều năm ở nước ta đối với những người đã cư trú ổn
định từ 20 năm trở lên tính đến ngày Luật có hiệu lực. Tuy nhiên, tình trạng
người không quốc tịch không phải sẽ được giải quyết dứt điểm, nhất là đối
với những người không rõ ràng về quốc tịch, những người không quốc tịch
sống ổn định dưới 20 năm. Do các nguyên nhân khác nhau như xung đột
pháp luật, hoạch định biên giới, di cư tái phát, kết hôn không giá thú, nuôi
con nuôi… mà tình trạng không quốc tịch không thể giải quyết một cách dứt
điểm.

Do đó, Việt Nam nghiên cứu, xem xét việc gia nhập Công ước là cần
thiết và cũng phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước ta về công tác
nhân quyền trong thời gian tới, phù hợp với những quy định trong Luật quốc
tịch Việt Nam năm 2008 và Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc
tế năm 2005. Mục đích của Công ước 1954 là nhằm bảo đảm cho những
người không quốc tịch có các quyền cơ bản và quyền tự do mà không bị phân
biệt đối xử. Thông qua việc gia nhập công ước, các quy định của pháp luật
Việt Nam sẽ được hoàn thiện theo hướng có đầy đủ các quy định về các vấn
đề liên quan đến người không quốc tịch, dần dần tạo thuận lợi để họ chuẩn bị
các điều kiện để được nhập quốc tịch của nước sở tại. Qua đó, cuộc sống của

26
một người có thể ổn định và cải thiện hơn nếu người dân vì một lý do nào đó
bị rơi vào tình trạng không quốc tịch.

Gia nhập Công ước 1954 về quy chế người không quốc tịch có ý nghĩa
quan trọng vì nó tạo ra một khung tiêu chuẩn đối xử với người không quốc
tịch. Nó tạo ra cho cá nhân sự ổn định và bảo đảm một số quyền cơ bản cũng
như nhu cầu được đáp ứng, như quyền tiếp xúc với tòa án và quyền học hành.
Những nhân tố ổn định này bên cạnh việc cải thiện chất lượng cuộc sống cho
những người vẫn ở tình trạng không quốc tịch cũng như làm giảm tiềm năng
di cư trong tương lai.

IV. Quá trình nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế về quốc
tịch và người không quốc tịch trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập, quyền con người ngày càng thu
hút sự quan tâm của cộng đồng các quốc gia. Phát triển đất nước một cách
toàn diện, trước hết là vì con người, trong đó bảo đảm quyền con người là
tiêu chí quan trọng nhất trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Khái niệm “quốc tịch” ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến
lên chủ nghĩa tư bản, khái niệm này xuất hiện cùng với những tư tưởng tiến
bộ của các cuộc cách mạng tư sản về quyền con người. Quốc tịch là phạm trù
chính trị - pháp lý xác định mối liên hệ pháp lý giữa công dân với một quốc
gia nhất định. Mối liên hệ pháp lý này được biểu hiện ở tổng thể các quyền
và nghĩa vụ của người đó đối với quốc gia mà họ mang quốc tịch và tổng thể
quyền và nghĩa vụ của quốc gia đối với công dân mình. Quốc tịch gắn liền
với mỗi người từ khi sinh ra đến khi chết đi, là tiền đề để họ được hưởng các
quyền công dân và làm nghĩa vụ công dân đối với Nhà nước mà mình mang
quốc tịch.

Trong từng thời kỳ cách mạng, Nhà nước ta đều ban hành các văn bản
pháp luật quy định về quốc tịch cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử; cho đến
nay, đã có số lượng đáng kể các văn bản pháp luật về quốc tịch của Nhà nước
Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc phát huy sức mạnh của dân tộc, của
27
nhân dân trong công cuộc giải phóng đất nước trước đây và xây dựng, bảo vệ
tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.

Xét về mặt lập pháp, có thể phân sự phát triển của pháp luật Việt Nam
về quốc tịch thành 02 giai đoạn: từ năm 1945 đến năm 1975 và từ năm 1975
đến nay.

1. Văn bản pháp luật Việt Nam về quốc tịch từ năm 1945 đến năm 1975

Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa
nửa phong kiến, với chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp đất nước ta bị
chia cắt thành ba miền với ba chế độ cai trị và hệ thống pháp luật khác nhau.
Vấn đề quốc tịch và công dân vì thế không được quy định một cách rõ ràng
trong các văn bản pháp luật.

Cách mạng tháng Tám thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng
hoà ra đời. Lúc này, việc xác định một người có quốc tịch Việt Nam là vô
cùng quan trọng, có ý nghĩa chính trị to lớn để chuẩn bị cho cuộc Tổng
tuyển cử bầu Quốc Hội đầu tiên của Nhà nước Việt Nam. Chính vì thế, cùng
với việc ban hành các văn bản pháp luật về nhiều lĩnh vực khác nhau, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 53/SL ngày 20 tháng 10 năm
1945 quy định quốc tịch Việt Nam.

Sắc lệnh số 53/SL ngay tại Điều 3 đã khẳng định quyền bình đẳng về
quốc tịch Việt Nam giữa các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam
“Những dân tộc thiểu số ở nước Việt Nam như Thổ, Mán, Mường, Nùng,
Kha, Lolo,v.v…, có trụ sở nhất định trên lĩnh thổ nước Việt Nam, đều là
công dân Việt Nam”.

Về có quốc tịch Việt Nam, Điều 2 của Sắc lệnh này quy định các
trường hợp có quốc tịch Việt Nam do sinh ra: “Những người thuộc một trong
các hạng kể sau đây đều là công dân Việt Nam:

1- Cha là công dân Việt Nam;

28
2- Cha không rõ là ai hay không thuộc quốc tịch nào mà mẹ là công
dân Việt Nam;

3- Đẻ ở trên lĩnh thổ nước Việt Nam mà cha mẹ không rõ là ai hay


không thuộc một quốc tịch nào”.

Theo quy định này, việc xác định quốc tịch của trẻ em mới sinh được
dựa trên việc kết hợp nguyên tắc “Quyền huyết thống” và nguyên tắc “Quyền
nơi sinh” để hạn chế tối đa việc trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam bị rơi
vào tình trạng không quốc tịch.

Đồng thời, Sắc lệnh số 53/SL còn quy định về trường hợp có quốc tịch
Việt Nam do phục hồi quốc tịch: “Kể từ ngày ban hành sắc lệnh này, những
người Việt Nam đã vào dân Pháp, sẽ coi là công dân Việt Nam.

Những người ấy phải đến khai bỏ quốc tịch Pháp ở phòng Hộ tịch Toà
Thị chính của một trong những thành phố sau này: Hà Nội, Hải Phòng, Vinh,
Huế, Nha Trang, Sài Gòn, Biên Hoà hay ở một trong những nơi mà Uỷ ban
Bắc bộ, Trung bộ hay Nam bộ sẽ định sau” (Điều 4).

Thủ tục xin khai bỏ quốc tịch Pháp để trở lại quốc tịch Việt Nam vào
thời điểm đó được quy định rất đơn giản cho kịp ngày Tổng tuyển cử. Người
nào không ra khai sẽ mất quyền bầu cử.

Cùng với việc quy định về các trường hợp có quốc tịch Việt Nam, Sắc
lệnh số 53/SL còn quy định các trường hợp mất quốc tịch Việt Nam tại Điều
7. Công dân Việt Nam sẽ bị mất quốc tịch Việt Nam nếu thuộc một trong các
trường hợp:

1. Nhập một quốc tịch ngoại quốc;

2. Giữ một chức vụ gì ở ngoại quốc mà không chịu thôi, tuy đã được
Chính phủ cảnh cáo;

3. Làm một việc gì phạm đến nền độc lập và chính thể dân chủ cộng
hoà của nước Việt Nam.

29
Quy định về có quốc tịch do phục hồi quốc tịch cũng như các trường
hợp mất quốc tịch Việt Nam cho thấy ngay từ thời kỳ này, nhà nước Việt
Nam đã thực hiện chính sách một quốc tịch.

Tuy mới chỉ quy định một số vấn đề cơ bản nhất về quốc tịch nhưng
Sắc lệnh 53/SL được ban hành trong thời điểm đất nước ta vừa mới ra đời
nên có ý nghĩa chính trị to lớn, là bước chuẩn bị quan trọng cho cuộc Tổng
tuyển cử bầu Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.

Nhập quốc tịch Việt Nam cũng là một vấn đề rất quan trọng nhưng
chưa được quy định trong Sắc lệnh số 53/SL. Vì vậy, ngày 07/12/1945, Chủ
tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ban hành Sắc lệnh
số 73/SL quy định việc nhập quốc tịch Việt Nam. Sắc lệnh số 73/SL đã quy
định điều kiện cụ thể đối với những người ngoại quốc muốn nhập quốc tịch
Việt Nam (Điều 1): “Những người ngoại quốc muốn nhập quốc tịch Việt
Nam phải có những điều kiện sau đây:

1- Đủ 18 tuổi;

2- Đã ở 10 năm trên đất nước Việt Nam;

3- Có trú quán nhất định trong nước Việt Nam;

4- Biết tiếng nói Việt Nam;

5- Có hạnh kiểm tốt;

6- Nếu có vợ hay chồng là người ngoại quốc, thì phải được người vợ
hay chồng thoả thuận cho nhập quốc tịch Việt Nam”.

Cách thức xin nhập quốc tịch Việt Nam cũng được quy định cụ thể:
người xin phải đệ đơn lên Uỷ ban nhân dân tỉnh nơi mình ở, Uỷ ban tỉnh phải
điều tra và cho ý kiến rồi gửi lên Uỷ ban Kỳ, Uỷ ban Kỳ phê ý kiến rồi gửi
lên Bộ Tư pháp. Nếu Bộ Tư pháp chấp nhận thì ra sắc lệnh cho nhập quốc
tịch Việt Nam (Điều 4 Sắc lệnh số 73/SL). Việc quy định cụ thể trình tự, thủ
tục xin nhập quốc tịch Việt Nam nhìn chung là đơn giản, thuận tiện cho dân.

30
Sắc lệnh số 73/SL còn quy định rõ “Người đã nhập quốc tịch Việt Nam
được hưởng đủ quyền lợi và phải chịu tất cả trách nhiệm của một công dân
Việt Nam” (Điều 3).

Tháng 12/1946, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, nhân dân
ta lại bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đầy cam go, quyết
liệt. Trong hoàn cảnh đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ký và
ban hành Sắc lệnh số 215/SL ngày 20/8/1948 ấn định những quyền lợi đặc
biệt cho những người ngoại quốc giúp vào cuộc kháng chiến Việt Nam. Theo
đó, “những người có công trạng với cuộc kháng chiến thì được miễn điều
kiện thời hạn định trong Sắc lệnh số 73/SL ngày 07/12/1945 về sự xin gia
nhập quốc tịch Việt Nam”. Tại thời điểm này, cả nước ta đang tập trung sức
người sức của cho cuộc kháng chiến chống Pháp, Sắc lệnh số 215/SL đã thể
hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với những người ngoại quốc
có công giúp vào cuộc kháng chiến Việt Nam.

Cùng với việc ban hành các sắc lệnh quy định về nhiều lĩnh vực khác
nhau, sự ra đời của các sắc lệnh nói trên về quốc tịch đã đặt nền tảng pháp lý
quan trọng cho việc hình thành hệ thống các văn bản pháp luật về quốc tịch
nói riêng và hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam nói chung.

Năm 1954, Hiệp định Geneve về Việt Nam được ký kết, đất nước ta
bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt. Ngày
14/12/1959, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ký và ban hành
Sắc lệnh số 51/SL bãi bỏ Điều 5, 6 Sắc lệnh 53/SL ngày 20/10/1945. Theo
Sắc lệnh số 51/SL, “những phụ nữ Việt Nam lấy chồng có quốc tịch nước
ngoài trước ngày ban hành Sắc lệnh này vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Người
nào muốn theo quốc tịch của người chồng thì trong thời hạn 06 tháng kể từ
ngày ban hành Sắc lệnh này phải xin bỏ quốc tịch Việt Nam và phải được
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà cho phép”. Quy định này xét
dưới góc độ quyền công dân đã bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ,
phù hợp với quy định tại Điều 9 Hiến pháp năm 1946 “đàn bà ngang quyền

31
với đàn ông về mọi phương diện”. Đồng thời cũng khẳng định, quyền có
quốc tịch là quyền nhân thân của mỗi người, mỗi người đều có quyền quyết
định lựa chọn quốc tịch cho mình, người đàn bà khi lấy chồng ngoại quốc
vẫn có thể giữ quốc tịch gốc của mình nếu không có nguyện vọng theo quốc
tịch của chồng. Ngược lại, trong trường hợp họ muốn theo quốc tịch của
chồng thì phải xin bỏ quốc tịch Việt Nam và phải được Chính phủ cho phép.

Từ năm 1960, theo Luật Tổ chức Chính phủ, trong thành phần của
Chính phủ không có Bộ Tư pháp, các nhiệm vụ của Bộ Tư pháp được chuyển
giao cho Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối
cao và một phần cho chính quyền địa phương. Về lĩnh vực quốc tịch, ngày
08/02/1971 Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã
ban hành Nghị quyết số 1043/NQ-TVQHK6 về việc xin thôi hoặc nhập quốc
tịch Việt Nam, trong đó “giao cho Hội đồng Chính phủ xét và quyết định về
những trường hợp cụ thể xin vào hoặc xin thôi quốc tịch Việt Nam”.

Có thể khẳng định rằng, trước năm 1975, các vấn đề về quốc tịch chủ
yếu được quy định trong một số sắc lệnh và nghị quyết nêu trên. Mỗi văn bản
pháp luật chỉ giải quyết một vấn đề cụ thể do thực tiễn cách mạng lúc đó đặt
ra. Mặc dù vậy, như đã phân tích ở trên, các văn bản đó đã thể hiện rõ quan
điểm tiến bộ của Nhà nước Việt Nam đối với các vấn đề cơ bản về quốc tịch
như: bình đẳng giữa các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam về
quốc tịch Việt Nam, bảo đảm quyền của cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam
được có quốc tịch thông qua việc hạn chế tình trạng không quốc tịch, bình
đẳng giữa các công dân Việt Nam với nhau về quyền và nghĩa vụ công dân,
không kể người có quốc tịch gốc Việt Nam hay được nhập quốc tịch Việt
Nam… Rõ ràng, các quy định về quốc tịch trong các văn bản trên đã đặt nền
tảng ban đầu cho việc xây dựng và ban hành Luật quốc tịch Việt Nam ở giai
đoạn sau.

2. Pháp luật về quốc tịch Việt Nam từ năm 1975 đến nay

32
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi (30/4/1975), đất
nước ta hoàn toàn độc lập, non sông thu về một mối. Tại kỳ họp thứ 7,
phiên họp ngày 18/12/1980 Quốc hội khoá VI nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã chính thức thông qua bản Hiến pháp năm 1980. Hiến
pháp năm 1980 tại Điều 53 quy định: “Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam theo luật định”. Lần đầu
tiên, vấn đề quốc tịch của công dân Việt Nam được quy định trong Hiến
pháp – văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời
của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988.

Tại kỳ họp thứ 3, ngày 28/6/1988 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá VIII đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam, Luật có
hiệu lực thi hành từ ngày 15/7/1988. Đây là đạo luật đầu tiên của nhà nước
ta quy định khá đầy đủ các vấn đề về quốc tịch Việt Nam. Luật gồm 18
điều, chia thành 6 chương: Chương I: Những quy định chung; chương II:
Xác định có quốc tịch Việt Nam; chương III: Mất quốc tịch, trở lại quốc tịch
Việt Nam; chương IV: Quốc tịch trẻ em khi có sự thay đổi quốc tịch cha
mẹ, quốc tịch con nuôi; chương V: Thẩm quyền giải quyết các vấn đề về
quốc tịch; chương VI: Điều khoản cuối cùng. Luật quốc tịch Việt Nam năm
1988 đã quy định rõ tại Điều 3: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt
Nam”. Như vậy, Luật quốc tịch năm 1988 đã quy định nguyên tắc một quốc
tịch triệt để. Tuy thế, Luật năm 1988 chưa quy định cơ chế đảm bảo thực
hiện nguyên tắc này, do đó gây khó khăn trong việc thực thi pháp luật cũng
như để lại hậu quả pháp lý phức tạp trên thực tế.

Luật quốc tịch năm 1988 ra đời thay thế cho Sắc lệnh số 53/SL, Sắc
lệnh số 73/SL, Điều 6 Sắc lệnh số 215/SL, Sắc lệnh số 51/SL và Nghị quyết
số 1043-NQ/TVQH.

Để Luật quốc tịch 1988 thực sự đi vào cuộc sống, giải quyết được các
vấn đề vướng mắc về quốc tịch Việt Nam, ngày 05/02/1990, Hội đồng Bộ

33
trưởng đã ban hành Nghị định số 37/HĐBT quy định chi tiết thi hành Luật
quốc tịch Việt Nam. Tiếp theo đó, Chính phủ ban hành Nghị định số
06/1998/NĐ-CP ngày 14/01/1998 sửa đổi một số điều của Nghị định số
37/HĐBT. Nghị định số 37/HĐBT ngoài việc quy định chi tiết thi hành Luật
quốc tịch còn quy định cụ thể thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch như:
hồ sơ xin nhập, trở lại, thôi quốc tịch Việt Nam; nơi nộp hồ sơ; thời hạn và
quy trình giải quyết các việc về quốc tịch.

Có thể thấy, Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 đã luật hoá một cách
chính thức các quy định về quốc tịch Việt Nam, giải quyết được một số tồn
tại, vướng mắc trong thực tế về quốc tịch.

Tuy vậy, Luật quốc tịch năm 1988 được ban hành vào thời kỳ đầu của
công cuộc đổi mới nên đến giai đoạn sau những năm 1990 không đáp ứng
được chủ trương hội nhập quốc tế. Sự phát triển kinh tế xã hội, xu hướng hội
nhập quốc tế dẫn đến ngày càng có nhiều người nước ngoài vào làm ăn, sinh
sống tại Viêt Nam, công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài…Thêm
vào đó, sự ra đời của Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự năm 1995 đã đặt
ra yêu cầu cần phải cập nhật, hoàn thiện các quy định pháp luật về quốc tịch.

Trên cơ sở đó, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá X tại kỳ họp thứ 3 ngày 20/5/1998 đã thông qua Luật quốc tịch Việt
Nam và Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999.

Tiếp theo, ngày 13/11/2008, Quốc hội đã thông qua Luật quốc tịch Việt
Nam số 24/2008/QH12, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009. Luật Quốc
tịch Việt Nam hiện hành có nhiều quy định mới so với Luật quốc tịch Việt
Nam năm 1998. Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 với những sửa đổi cơ
bản phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay không chỉ góp
phần giải quyết triệt để các vấn đề vướng mắc trong lĩnh vực quốc tịch mà
còn tạo sự gắn bó mật thiết hơn nữa giữa Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

34
Những điểm mới trong Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã được
quy định theo hướng phù hợp với những vấn đề có liên quan trong các cam
kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, cụ
thể: Về nguyên tắc quốc tịch: (Điều 4): Từ khi thành lập nước đến nay,
pháp luật về quốc tịch của nhà nước ta luôn thực hiện theo nguyên tắc một
quốc tịch, nguyên tắc này trên thực tế đã và đang được thực hiện có hiệu
quả. Do đó, Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 vẫn tiếp tục kế thừa nguyên
tắc một quốc tịch. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập quốc tế, xu hướng
người Việt Nam ra nước ngoài sinh sống, làm việc, cũng như người gốc
Việt Nam trở về nước ngày càng nhiều; những người Việt Nam ở nước
ngoài khi muốn định cư tại một quốc gia nào đó thì rất cần phải được nhập
quốc tịch nước đó; có trường hợp vẫn mong muốn được giữ quốc tịch Việt
Nam nếu pháp luật nước đó cho phép; một số người gốc Việt Nam trờ về
nước đầu tư, sinh sống mong muốn được trở lại quốc tịch Việt Nam nhưng
vẫn muốn giữ quốc tịch nước ngoài. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng của bộ phận người Việt Nam nói trên, Quốc hội
tán thành với đề xuất của Chính phủ sửa đổi nguyên tắc về quốc tịch của
Nhà nước ta cho phù hợp với tình hình này. Điều 4 Luật Quốc tịch Việt
Nam năm 2008 sửa đổi tên Điều 3 của Luật năm 1998 thành “Nguyên tắc
quốc tịch” với nội dung “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch
Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Việc sửa đổi này,
một mặt nhằm đáp ứng nguyện vọng chính đáng của một bộ phận người
Việt Nam định cư ở nước ngoài mặc dù nhập quốc tịch nước ngoài nhưng
vẫn muốn được giữ quốc tịch Việt Nam, một số người gốc Việt Nam trở về
nước đầu tư, sinh sống mong muốn được trở lại quốc tịch Việt Nam nhưng
vẫn muốn giữ quốc tịch nước ngoài. Việc sửa đổi Điều 3 của Luật hiện hành
như vậy, cũng là để đảm bảo tính thống nhất và tính minh bạch và rõ ràng
trong các quy định của pháp luật về quốc tịch của Nhà nước ta. Việc khằng
định một số ngoại lệ có thể có hai quốc tịch không có nghĩa là từ bỏ nguyên

35
tắc một quốc tịch mà chỉ sửa đổi nguyên tắc này cho mềm dẻo hơn, phù hợp
với chính sách của Nhà nước ta về hội nhập quốc tế, đại đoàn kết dân tộc và
chính sách đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Những trường
hợp ngoại lệ có thể có hai quốc tịch là những trường hợp được Chủ tịch
nước cho phép giữ quốc tịch nước ngoài khi nhập quốc tịch Việt Nam
(khoản 3 Điều 19), được trở lại quốc tịch Việt Nam (khoản 5 Điều 23);
trường hợp quốc tịch của trẻ em là con nuôi (Điều 37) và trường hợp người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, kể cả những người đã nhập quốc tịch nước
ngoài mà vẫn có nguyên vọng giữ quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Điều 13).

Việc sửa đổi này, một nhằm đáp ứng nguyện vọng chính đáng của một
bộ phận người Việt Nam định cư ở nước ngoài mặc dù nhập quốc tịch nước
ngoài nhưng vẫn mong muốn được giữ quốc tịch Việt Nam; một số người
gốc Việt Nam trở về nước đầu tư, sinh sống mong muốn được trở lại quốc
tịch Việt Nam nhưng vẫn muốn giữ quốc tịch nước ngoài; những trẻ em được
nhận làm con nuôi có quốc tịch Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài
có điều kiện để lựa chọn quốc tịch khi đến tuổi trưởng thành; ngoài ra, những
người nước ngoài thuộc diện tài năng, có đóng góp lớn cho Nhà nước Việt
Nam thì cũng có thể được giữ quốc tịch nước ngoài khi được nhập quốc tịch
Việt Nam. Việc sửa đổi Điều 3 của Luật hiện hành như vậy, cũng là để bảo
đảm tính thống nhất và tính minh bạch và rõ ràng trong các quy định của
pháp luật về quốc tịch của nhà nước ta.

Về đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam: quy định “Người Việt Nam định
cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp
luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt
Nam” tại khoản 2 Điều 13 của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 là nội
dung mới được bổ sung nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày
26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước
ngoài là để thực hiện chủ trương khép lại quá khứ, củng cố và tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, xác định người Việt Nam định cư
ở nước ngoài là bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước bảo hộ
36
quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nhà nước
khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình, quê
hương, góp phần xây dựng quê hương đất nước. Quy định này cũng để làm
rõ hơn việc những người vẫn còn có quốc tịch Việt Nam đã được quy định
tại khoản 1 Điều này. Mặt khác, trường hợp người Việt Nam định cư ở nước
ngoài đã nhập quốc tịch của nước sở tại thì họ có quyền giữ quốc tịch Việt
Nam nếu pháp luật về quốc tịch của nước đó cho phép công dân có hai quốc
tịch. Trên thực tế, đối với bộ phận người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
việc phải đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam là để xác định rõ ràng tình trạng
quốc tịch của họ giúp cho công tác quản lý quốc tịch và bảo hộ công dân
Việt Nam ở nước ngoài hiệu quả hơn. Vì vậy, tiếp thu ý kiến của Đại biểu
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cho bổ sung quy định về việc
đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam tại khoản 2 Điều 13 và việc không cho
đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam cùng là căn cứ để xác định mất quốc tịch
Việt Nam theo khoản 3 Điều 26 của dự thảo Luật. Đây là một quy định mới
hoàn toàn so với Luật Quốc tịch năm 1998. Nghị quyết số 36-NQ/TW của
Bộ Chính trị đã đề ra chủ trương tăng cường bảo vệ quyền lợi chính đáng
của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và
thông lệ quốc tế. Tuy vậy, những năm qua cho thấy, do không xác định
được chính xác những ai trong số hơn 4,5 triệu người Việt Nam định cư ở
nước ngoài còn giữ quốc tịch Việt Nam nên công tác quản lý quốc tịch,
quản lý công dân cũng như thực hiện nhiệm vụ bảo hộ công dân của Nhà
nước ta ở nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Việc đăng ký giữ quốc tịch Việt
Nam là phù hợp với nguyện vọng của bà con ở nước ngoài, tạo điều kiện để
làm tốt công tác quản lý về quốc tịch, thực hiện nhiệm vụ bảo hộ công dân
cũng như các chính sách ngày càng mở rộng của Đảng và Nhà nước đối với
công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Luật quy định trong vòng 05 năm kể từ ngày Luật có hiệu lực, những
người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn giữ quốc tịch Việt Nam thì
37
phải đến đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Nếu hết thời
hạn 05 năm không làm thủ tục đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam thì người đó
đương nhiên bị mất quốc tịch Việt Nam theo quy định tại khoản 3 Điều 26.
Việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam có mối liên hệ rất chặt chẽ với việc
cấp giấy tờ chứng minh có quốc tịch Việt Nam thuộc trách nhiệm của cơ
quan nhà nước đối với công dân Việt Nam đã được quy định tại nhiều điều,
khoản trong Luật. Khi công dân bị mất giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt
Nam mà có đơn yêu cầu thì trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước là phải
cấp lại các giấy tờ này theo yêu cầu cùa họ. Đây là việc phải làm được các
cơ quan Nhà nước thực hiện thường xuyên.

Về giải quyết vấn đề nhập quốc tịch Việt Nam đối với người không
quốc tịch đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam:

Đây là một bộ phận khá lớn dân cư do nhiều lý do khác nhau (chiến
tranh, di canh, di cư, kết hôn) ở các tỉnh biên giới với Trung quốc, Lào,
Campuchia (trước ngày 01/7/1989), một số trường hợp đã di chuyển vào các
tỉnh, thành phố sâu trong lãnh thổ Việt Nam, đã có cuộc sống ổn định, đã có
thời gian khá lâu sống hòa nhập với cộng động xã hội Việt Nam mà không có
đầy đủ giấy tờ về nhân thân để chứng minh quốc tịch của mình; hầu hết họ là
những người dân lao động chất phác, không có vi pham pháp luật Việt Nam.

Tình trạng người không quốc tịch, người không rõ quốc tịch đang cư
trú trên lãnh thổ nước ta tương đối nhiều. Số cư dân này chủ yếu tập trung ở
một số tỉnh, thành phố phía Tây, phía Nam và Tây Nguyên, một số ít ở các
tỉnh phía Bắc. Do nước ta có chung đường biên giới trên đất liền với ba
nước láng giềng, qua nhiều năm chiến tranh nên việc di cư tự do qua biên
giới đã diễn ra dễ dàng và kéo dài, dẫn đến số dân không quốc tịch hoặc
không rõ quốc tịch cư trú trên lãnh thổ nước ta khá nhiều. Trải qua nhiều
năm cư trú, làm ăn, sinh sống ổn định trên lãnh thổ nước ta, đến nay số cư
dân này đã thực sự hòa nhập vào cộng động người Việt về mọi mặt đời
sống: sản xuất, sinh hoạt, học tập, hôn nhân…Nghề nghiệp của họ chủ yếu

38
là làm ruộng, làm rẫy, một số ít kinh doanh buôn bán nhỏ. Tuy nhiên về mặt
pháp lý, những người ngày cũng như các con, cháu của họ chưa được hưởng
quy chế công dân Việt Nam vì chưa xác định được quốc tịch Việt Nam.
Trong những năm gần đây, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành và
địa phương hữu quan cố gắng giải quyết các chính sách về y tế, giáo dục
cho số cư dân này… nhưng kết quả vẫn còn những hạn chế. Để bảo đảm
thực hiện nguyên tắc quốc tịch, Luật Quốc tịch năm 1998 và các văn bản
hướng dẫn thi hành đã quy định rất chặt chẽ về điều kiện, thủ tục, trình tự
giải quyết cho nhập quốc tịch Việt Nam hoàn toàn không phù hợp với hoàn
cảnh và điều kiện thực tế của số cư dân này. Thêm vào đó, do chúng ta bị gò
bó, không thể thoát ra khỏi tư duy một quốc tịch nên gặp nhiều khó khăn
trong việc tìm ra các giải pháp giải quyết cho số cư dân này nhập quốc tịch
Việt Nam.

Điều 22 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: “Người không
quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân, nhưng đã cư trú ổn
định trên lãnh thổ Việt Nam từ năm 20 trở lên tính đến ngày Luật này có hiệu
lực và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt
Nam theo trình tự, thủ tục hồ sơ do Chính phủ quy định”.

Như vậy, đối tượng này hưởng sự ưu tiên đối với hồ sơ, thủ tục giải
quyết cho gia nhập quốc tịch Việt Nam. Quốc hội giao cho Chính phủ sẽ
thông qua một Nghị định để quy định trình tự, thủ tục và hồ sơ xin gia nhập
quốc tịch Việt Nam theo hướng giảm các khâu trung gian trong quy trình
giải quyết công việc, đơn giản hóa các thủ tục, thời gian giải quyết các việc
về quốc tịch cũng sẽ được rút ngắn hơn, các giấy tờ, hồ sơ cũng sẽ được
giảm bớt đến mức tối thiểu, giải quyết hồ sơ theo diện tập thể hoặc theo
danh sách của gia đình, tạo thuận lợi cho người dân, miễn giảm lệ phí cho
những trường hợp là dân nghèo. Quy định này góp phần quan trọng vào việc
giải quyết một lần trong một thời hạn nhất định những tồn đọng lâu nay về
vấn đề quốc tịch với đối tượng là người đã thường trú ổn định trên lãnh thổ
Việt Nam cho đến thời điểm Luật này có hiệu lực.
39
Về quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt
Nam: Khoản 2 Điều 17 Luật Quốc tịch năm 1998 đã quy định về quốc tịch
của trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, theo đó “Trẻ em
khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, còn người khi là công dân
nước ngoài, thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản
của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con”. Tuy nhiên, trên thực tế
nảy sinh vấn đề, nếu tại thời điểm đăng ký khai sinh cho con mà cha mẹ
không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì đứa trẻ sẽ mang
quốc tịch của cha hay mẹ. Nhằm tháo gỡ vướng mắc này, Luật Quốc tịch
2008 đã bổ sung quy định “Trường hợp trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ
Việt Nam mà cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho
con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam”. Quy định này nhằm bảo vệ quyền
lợi cho trẻ em, hạn chế việc để trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam rơi vào
tình trạng không quốc tịch.

Về việc trở lại quốc tịch Việt Nam : So với các điều kiện được trở lại
quốc tịch Việt Nam quy định tại Điều 21 Luật Quốc tịch năm 1998, Luật
Quốc tịch năm 2008 đã quy định mở rộng thêm một số trường hợp được trở
lại quốc tịch Việt Nam, đó là: thực hiện đầu tư tại Việt Nam hoặc đã thôi
quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng không được nhập
quốc tịch nước ngoài. Quy định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho những
người gốc Việt Nam quy trở lại đầu tư về Việt Nam và muốn hưởng những
ưu đãi đầu tư như đối với công dân Việt Nam. Đồng thời cũng giải quyết
những vướng mắc hiện nay là nhiều trường hợp đã xin thôi quốc tịch Việt
Nam nhưng lại không được nhập quốc tịch nước ngoài. Luật Quốc tịch Việt
Nam năm 2008 cũng bổ sung điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam đối
với người bị tước quốc tịch Việt Nam, bổ sung quy định về tên gọi Việt Nam
của người xin trở lại quốc tịch Việt Nam và các trường hợp có thể được Chủ
tịch nước cho phép giữ quốc tịch nước ngoài.

V. Đánh giá cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập công ước
1954 của Liên hợp quốc về người không quốc tịch
40
Công ước 1954 về quy chế của người không quốc tịch được Liên hợp
quốc thông quan ngày 28/9/1954. Đây là văn kiện quốc tế đầu tiên điều
chỉnh và cải thiện tình trạng pháp lý của người không quốc tịch và bảo đảm
cho người không quốc tịch có các quyền cơ bản và quyền tự do mà không bị
phân biệt, đối xử.

Luật pháp quốc tế quy định quốc tịch là do nội luật của mỗi quốc gia
xác định và quy định đó phải phù hợp với nguyên tắc chung của luật pháp
quốc tế. Việc nghiên cứu, đề xuất Việt Nam tham gia Công ước 1954 về
người không quốc tịch là sự thể chế hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước về
công tác nhân quyền cũng như thực hiện cam kết của Việt Nam thực hiện các
khuyến nghị được Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc thông qua theo cơ
chế kiểm định định kỳ (UPR). Vấn đề này được xác định rõ trong Chỉ thị số
44-CT/TW ngày 20 tháng 7 năm 2010 của Ban Bí thư về công tác nhân
quyền trong tình hình mới; Quyết định số 366/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm
2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiển Chỉ
thị số 44 – CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư về công tác nhân quyền
trong tình hình mới và Công văn số 98/VPCP-NC ngày 27/01/2011 của Văn
phòng Chính phủ về việc phân công thực hiện các khuyến nghị được Hội
đồng Nhân quyền Liên hợp quốc thông qua theo cơ chế kiểm định định kỳ.
Mục tiêu của công tác này là năm được cơ bản số lượng người không quốc
tịch hiện nay đang sinh sống tại Việt Nam, có báo cáo đánh giá, phân tích về
thực trạng người không quốc tịch sống trên lãnh thổ Việt Nam, pháp luật hiện
hành của Việt Nam điều chỉnh các vấn đề liên quan đến những người không
quốc tịch này; nghiên cứu, đưa ra những lập luận thuyết phục, khẳng định
Việt Nam đủ điều kiện và cần thiết gia nhập Công ước quốc tế năm 1954 về
quy chế của người không quốc tịch, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét
quyết định.

1. Một số thuận lợi khi Việt Nam gia nhập Công ước 1954

41
- Công ước 1954 với mục đích cơ bản là bảo đảm cho những người
không quốc tịch được thực hiện các quyền cơ bản của con người đã được ghi
nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền 1948, khẳng định vị thế của nhóm người
này trong xã hội. Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam đặt biệt
quan tâm và đề cao vấn đề nhân quyền, thể hiện chủ trương xây dựng và từng
bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, bảo đảm phù hợp
với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của nước ta và các điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Do có mục tiêu cho nên các quy định của
Công ước 1954 hầu hết đều phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta. Đây chính là thuận lợi căn bản để Việt
Nam nghiên cứu khả năng gia nhập Công ước 1954. Điều 50 Hiến pháp năm
1992 đã quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể
hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và pháp luật”.

- Hệ thống pháp luật về quốc tịch của Việt Nam hiện hành đã tương đối
hoàn thiện. Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật này đã được ban hành trong thời gian qua đã có nhiều quy định
liên quan đến người không quốc tịch, trẻ em có cha, mẹ là người không quốc
tịch, trẻ em bị bỏ rơi, quy định riêng về việc nhập quốc tịch Việt Nam cho
người không quốc tịch cư trú ổn định từ 20 năm trở lên tính đến ngày
01/7/2019 với quy trình và thủ tục rút gọn, tạo điều kiện để người không
quốc tịch đã sinh sống ổn định trên lãnh thổ Việt Nam được nhập quốc tịch,
bảo đảm các quyền công dân cho họ. Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 cũng phù hợp với
những nguyên tắc, yêu cầu, thủ tục được quy định trong Công ước 1954.

Công ước năm 1954 chủ yếu quan tâm đến việc bảo vệ để người không
quốc tịch có thể sống một cuộc sống ổn định. Trong một số lĩnh vực quan
trọng pháp luật và thực tiễn của Việt Nam dương như đã phù hợp với các quy
định của Công ước 1954. Thứ nhất, khái niệm về người không quốc tịch có
trong Điều 3 của Luật Quốc tịch Việt Nam cũng là khái niệm tại Điều 1 của
42
Công ước 1954, hai khái niệm này có thể được hiểu một cách nhất quán.
Hơn nữa, tại Điều 19 và Điều 22 của Luật Quốc tịch Việt Nam quy định một
trình tự, thủ tục để có được quốc tịch Việt Nam cho người không quốc tịch,
phù hợp với Điều 32 của Công ước năm 1954.

- Gia nhập Công ước 1954, Việt Nam có thể được quan tâm ngày
càng tăng bởi các quốc gia tham gia Công ước 1954 nói riêng cũng như của
cộng đồng quốc tế nói chung. Việt Nam sẽ được đánh giá là nước đứng đầu
trong khu vực Châu Á giải quyết hiệu quả tình trạng người không quốc
tịch. Với những gì mà Việt Nam đã đạt được trong quá trình giải quyết tình
trạng người không quốc tịch, khi tham gia Công ước sẽ là một lợi thế thuận
lợi, có tính thuyết phục cao.

2. Những khó khăn khi Việt Nam gia nhập Công ước 1954

Hiện tại, pháp luật Việt Nam ngoài các văn bản pháp luật về quốc tịch
thì các văn bản pháp luật khác chưa có các quy định đồng bộ và đẩy đủ liên
quan đến địa vị pháp lý của người không quốc tịch, về cơ bản, quyền và
nghĩa vụ của công dân Việt Nam, công dân nước ngoài và người không quốc
tịch cư trú tại Việt Nam đều có quyền và nghĩa vụ như nhau, nhưng về một
số quyền và nghĩa vụ của công dân nước ngoài và người không quốc tịch bị
hạn chế hơn so với công dân Việt Nam.

Kết luận chung: “Mọi người đều có quyền có quốc tịch. Không ai có
thể bị tước quốc tịch một cách tùy tiện hoặc bị từ chối quyền được thay thế
đổi quốc tịch”. Đó là nội dung Điều 15 của Tuyên ngôn nhân quyền thế giới
năm 1948. Quyền có một quốc tịch và sự cần thiết phải đảm bảo thực hiện
một quốc tịch thực sự, một quốc tịch đóng vai trò cơ bản để thực hiện các
quyền khác, đã được phát triển theo tiến trình của thế kỷ này. Điều ngày có
thể đã được ghi nhận trong Công ước La haye 1930 về một số vấn đề liên
quan đến xung đột luật quốc tịch, được ban hành dưới sự bảo trợ của Hội
quốc liên sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Quyền có một quốc tịch là

43
quyền con người cơ bản đóng vai trò tiền đề cho việc giải quyết bất cứ vấn
đề hoặc vướng mắc nào gắn liền với quốc tịch.

Trong trường hợp mỗi người đều có quyền có một quốc tịch thì quyền
này sẽ được thực hiện ra sao, quốc tịch sẽ được cấp như thế nào? Luật pháp
quốc tế quy định điều đó là để cho mỗi quốc gia quyết định ai là công dân
nước mình theo luật pháp quốc gia hiện hành. Tuy nhiên, quyết định này phải
phù hợp với những nguyên tắc về luật pháp quốc tế và cụ thể là phải phù hợp
với những nguyên tắc về có, mất hoặc từ chối quốc tịch. Việc biên soạn
những nguyên tắc về quốc tịch trong các văn kiện quốc tế như Tuyên ngôn
nhân quyền thế giới là sự phát triển cơ bản trong luật pháp quốc tế.

Mặc dù đã có những phát triển to lớn trong luật pháp và thực tiễn
quốc tế về quốc tịch, nhưng hiện nay cộng đồng quốc tế đang phải đối diện
với vô số tình huống không quốc tịch và việc không có khả năng xác minh
quốc tịch. Vấn đề này xuất hiện cùng với việc thừa kế Nhà nước và việc nhà
nước mói hoặc nhà nước được phục hội thông qua pháp luật về quốc tịch,
nhưng người ta cũng thấy điều này ở những khu vực trên thế giới mà gần
đây không có sự thay đổi trong luật pháp và cũng không xảy ra việc chuyển
giao lãnh thổ. Nhũng người bị ảnh hưởng bao gồm những kiều dân cư trú
lâu dài ở một số nước, tộc người thiểu số và trong một số trường hợp là phụ
nữ và trẻ em, những người này rơi vào tình trạng không quốc tịch do chồng
hoặc cha họ là người không quốc tịch. Việt Nam cũng vậy, mặc dù đã có
những thành tựu to lớn trong việc giải quyết quốc tịch cho những người
không quốc tịch, tuy nhiên hiện nay vẫn còn tồn tại một số lượng người
không quốc tịch, chủ yếu tập trung tại các khu vực biên giới Việt Nam –
Lào, Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Campuchia.

Quốc tịch và khả năng để thực hiện những quyền gắn liền với quốc tịch
đóng vai trò như những nhân tố tạo ổn định và trợ giúp trong việc phòng
ngừa sự di cư ngoài ý muốn giữa các nước. Do đó, Công ước 1954 về Quy
chế người không quốc tịch mang một ý nghĩa chính trị, pháp lý về cùng to

44
lớn, phù hợp với những nguyên tắc trong Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008.
Công ước 1954 là công cụ mà cộng đồng quốc tế có thể tìm đến để giải quyết
những vấn đề nổi cộm và quan trọng liên quan đến quốc tịch.

Tham gia Công ước 1954 về quy chế người không quốc tịch là quan
trọng vì trang bị cho những cá nhân không quốc tịch những quyền cần thiết
để sống một cuộc sống ổn định. Để thực thi sau khi gia nhập Công ước này,
cũng như các nước tham gia khác, Việt Nam cần tham gia Công ước 1961 về
giảm tình trạng không quốc tịch để giúp giải quyết rất nhiều tình huống có
thể dẫn đến tình trạng không quốc tịch. Công ước 1961, hiện thân của những
nguyên tắc nói chung đã được luật pháp quốc tế chấp nhận, là công cụ tham
khảo hữu ích cho việc xây dựng pháp luật về quốc tịch và có thể giúp giải
quyết một số vấn đề xung đột pháp luật, bằng cách đó cho thấy quyết tâm
giảm tình trạng không quốc tịch của cộng đồng quốc tế. Bởi vậy, việc tăng
cường tham gia và phê chuẩn các văn kiện quốc tế này sẽ đóng vai trò thúc
đẩy Việt Nam và các nước hành động theo hướng làm giảm và có thể loại trừ
tình trạng không quốc tịch.

45
Phần thứ ba

THAM KHẢO VỀ TÌNH HÌNH NGƯỜI KHÔNG QUỐC TỊCH TẠI


MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

Hiện nay, ước tính có khoảng 10 triệu người không quốc tịch trên
toàn thế giới. Tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, người không quốc
tịch sinh sống khắp nơi trong khu vực. Thái Lan, Myanma và Malaisia là 3
quốc gia có đông người không quốc tịch nhất. Nguyên nhân chính khiến cho
các quốc gia này có đông người không quốc tịch là do có sự không đồng
nhất giữa pháp luật về quốc tịch và cách thức kê khai hộ tịch cũng như việc
thực hiện các công ước quốc tế về nhân quyền chưa đầy đủ bao gồm cả
những điều khoản cấm phân biệt đối xử.

1. Malaisia: Theo số liệu thống kê, hiện có khoảng 40.0000 người sinh
ra trên đất Malaisia gốc Tamils và gốc khác không quốc tịch. Những người
này trước đây di cư từ Ấn Độ trong thời gian người Anh đô hộ và hiện đang
sống ở Vùng nông thôn. Có thể có người không quốc tịch trọng số di dân gốc
Indonesia và philippine.

2. Mianma: Theo số liệu thống kê năm 2012, có khoảng 808,075


người không quốc tịch gốc Hồi giáo Rohingya ở miền Bắc bang Rakhine, thị
trấn Maungdaw, Buthidaung và Rathedaung.

3. Philippin: Theo số liệu thống kê, hiện nay Philippin có khoảng


6,015 người gốc Inddonessia có nguy cơ là người không quốc tịch tại phía
nam Mindanao.

4. Thái Lan: Theo số liệu thống kê, hiện Thái Lan có khoảng 506,197
người không quốc tịch thuộc các nhóm khác nhau. Những người sinh ra trên
đất Thái Lan, tổ tiên của họ di cư từ Trung Quốc, Cambidia, Lào, Myanmar
và Việt Nam. Họ đã sống ở Thái Lan hàng thế hệ và đã mất hết liên lạc với

46
quê cha đất tổ và không phải là công dân Thái. Phần lớn số họ là người
miền núi và dân số thiểu số.

Trong số 10 triệu người không quốc tịch, có khoảng 3,333,777 người


được UNHCR bảo hộ, tập trung chủ yếu ở một số nước như sau:

Châu Á Thái Bình Dương 1,427,952

Tây Phi 700,000

Châu Âu 681,225

Trung Đông và Bắc Phi 505,225

Đông và Sừng Châu Phi 20,000

Trung Phi và vùng Hồ Lớn 1,302

Nam Mỹ 24

* Kinh nghiệm của philippin với tư cách là thành viên tham gia ký kết,
phê chuẩn Công ước 1954

Philippin là quốc gia giải quyết vấn đề người không quốc tịch hiệu quả
nhất trong 6 quốc gia tham gia Công ước 1954 ở Châu Á – Thái Bình Dương.
Philippin đã ký kết Công ước 1954 vào năm 1955 và phê chuẩn Công
ước vào năm 1954 vào năm 2011.

Cũng giống như Việt Nam, họ tiến hành hội thảo, tiến hành lấy ý kiến
các bộ, ngành liên quan, phân tích pháp luật trong nước, trên cơ sở đó , họ
xem xét nội luật cần sửa đổi, bổ sung vấn đề gì cho phù hợp với pháp luật
quốc tế và Công ước 1954.

Philippin đã gia nhập Công ước 1961 về hạn chế tình trạng người
không quốc tịch. Sau khi phê chuẩn Công ước 1954, Philippin mới bắt đẩu
sửa đổi các văn bản cho phù hợp với tinh thần của Công ước 1954.

47
Phụ lục 1

CÔNG ƯỚC

VỀ VỊ THẾ CỦA NGƯỜI KHÔNG QUỐC TỊCH NĂM 19543

(Được thông qua tại Hội nghị các Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Liên Hợp
Quốc ngày 28/9/1954, tổ chức theo Nghị quyết 526(XVII) ngày 26/5/1954
của Hội đồng Kinh tế - Xã hội. Có hiệu lực từ ngày 6/6/1960 theo điều 39)

LỜI MỞ ĐẦU

Các Bên tham gia Công ước,

Xét rằng, Hiến chương Liên Hợp Quốc và Tuyên ngôn toàn thế giới về
quyền con người được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày
10/12/1948 đã khẳng định nguyên tắc mọi người được hưởng các quyền và tự
do cơ bản mà không bị phân biệt đối xử,

Xét rằng Liên Hợp Quốc, trong nhiều trường hợp, đã bày tỏ mối quan
tâm sâu sắc về những người không quốc tịch và đã nỗ lực để bảo đảm cho họ
thực hiện ở mức nhiều nhất có thể các quyền và tự do cơ bản nói trên,

Xét rằng, mới chỉ có những người không quốc tịch đồng thời là người
tị nạn được Công ước về Vị thế của Người tị nạn ngày 28/7/1951 bảo vệ, và
rằng, có nhiều người không quốc tịch không được Công ước trên bảo vệ,

Xét rằng, cần thiết phải qui định và nâng cao vị thế của những người
không quốc tịch bằng một thoả thuận quốc tế,

Đã thoả thuận như sau:

Chương I

NHỮNG ĐIỀU KHOẢN CHUNG

Điều 1: Định nghĩa thuật ngữ “người không quốc tịch”

3
Tham khảo thêm tại địa chỉ http://hr.law.vnu.edu.vn/cac_cong_uoc_chinh_ve_nhan_quyen?
order=field_shortname_value&sort=asc

48
1. Vì mục đích của Công ước này, thuật ngữ “người không quốc tịch”
có nghĩa là người không được coi là công dân của bất kỳ quốc gia nào theo
pháp luật hiện hành của quốc gia đó.

2. Công ước này không áp dụng:

(i) Đối với những người hiện đang được các cơ quan hay tổ chức của
Liên Hợp Quốc, ngoài Cao uỷ Liên Hợp Quốc về người tị nạn, bảo vệ hoặc
trợ giúp, chừng nào họ vẫn còn nhận được sự bảo vệ hay trợ giúp đó;

(ii) Đối với những người được các cơ quan có thẩm quyền của nước mà
họ cư trú công nhận có các quyền và nghĩa vụ gắn với việc có quốc tịch ở
nước đó;

(iii) Đối với những người mà có nhiều lý do nghiêm trọng liên quan
đến họ cho thấy rằng:

(a) Họ đã phạm tội chống hoà bình, tội ác chiến tranh hay tội ác chống
nhân loại, như đã được định nghĩa trong các văn kiện quốc tế được soạn thảo
về các tội ác này;

(b) Họ đã phạm một tội phi chính trị nghiêm trọng ở bên ngoài nước họ
cư trú trước khi được phép vào nước đó;

(c) Họ đã phạm tội vì những hành vi đi ngược lại những mục tiêu và
nguyên tắc của Liên Hợp Quốc.

Điều 2: Nghĩa vụ chung

Mỗi người không quốc tịch đều có những nghĩa vụ đối với đất nước
nơi người đó cư trú, những nghĩa vụ này đòi hỏi người đó phải tuân thủ các
quy định pháp luật của nước đó cũng như những biện pháp được áp dụng để
duy trì trật tự công cộng.

Điều 3: Không phân biệt đối xử

49
Các quốc gia thành viên phải áp dụng các quy định của Công ước này
đối với mọi người không quốc tịch, mà không có sự phân biệt về chủng tộc,
tôn giáo hay nguồn gốc quốc gia.

Điều 4: Tôn giáo

Các quốc gia thành viên phải dành cho những người không quốc tịch
trong phạm vi lãnh thổ của mình sự đối xử ít nhất cũng thuận lợi như sự đối
xử với công dân của nước mình về tự do thực hành tôn giáo và các tự do khác
liên quan đến việc giáo dục tôn giáo của con cái họ.

Điều 5: Các quyền được bảo đảm ngoài Công ước này

Không một quy định nào trong Công ước này sẽ được giải thích nhằm
làm tổn hại đến bất kỳ quyền và lợi ích nào được quốc gia thành viên dành
cho những người không quốc tịch ngoài các quyền được quy định trong Công
ước này.

Điều 6: Thuật ngữ “ trong những hoàn cảnh như nhau”

Với mục đích của công ước này, thuật ngữ “trong những hoàn cảnh
như nhau” hàm ý rằng bất kỳ những yêu cầu nào (kể cả những yêu cầu về
điều kiện và thời gian tạm trú hoặc thường trú) mà một cá nhân cụ thể sẽ phải
đáp ứng để hưởng những quyền liên quan nếu người đó không phải là người
không quốc tịch phải được người đó đáp ứng, ngoại trừ những yêu cầu mà
xét về bản chất, một người không quốc tịch không có khả năng thực hiện.

Điều 7: Miễn trừ nguyên tắc có đi có lại

1. Trừ khi Công ước này chứa nhiều điều khoản ưu đãi hơn, một quốc
gia thành viên phải dành cho những người không quốc tịch sự đối xử giống
như sự đối xử dành cho những người nước ngoài khác nói chung.

2. Sau khoảng thời gian cư trú 03 năm, tất cả những người không quốc
tịch sẽ được miễn áp dụng nguyên tắc pháp lý có đi có lại tại lãnh thổ của các
quốc gia thành viên.

50
3. Mỗi quốc gia thành viên phải tiếp tục dành cho những người không
quốc tịch những quyền và lợi ích mà họ đã được hưởng khi không áp dụng
nguyên tắc có đi có lại, tại thời điểm Công ước này bắt đầu có hiệu lực với
quốc gia đó.

4. Quốc gia thành viên sẽ xem xét một cách thuận lợi khả năng dành
cho những người không quốc tịch, khi không áp dụng nguyên tắc có đi có lại,
các quyền và lợi ích ngoài những quyền và lợi ích mà họ được hưởng theo
qui định tại khoản 2 và 3, đồng thời mở rộng việc miễn áp dụng nguyên tắc
có đi có lại đối với những người không quốc tịch mà không đáp ứng những
điều kiện được quy định tại khoản 2 và 3.

5. Các qui định của khoản 2 và 3 áp dụng đối với cả các quyền và lợi
ích được đề cập tại các điều 13, 18, 19, 21, và 22 của Công ước này cũng như
các quyền và lợi ích mà Công ước này không quy định.

Điều 8: Miễn trừ những biện pháp ngoại lệ

Liên quan đến những biện pháp ngoại lệ có thể được áp dụng chống lại
người, tài sản và lợi ích của những công dân hoặc những người trước đây là
công dân của một quốc gia khác, các quốc gia thành viên sẽ không áp dụng
những biện pháp đó đối với những ngưòi không quốc tịch nếu chỉ căn cứ vào
việc người đó trước đó đã có quốc tịch của quốc gia khác. Các quốc gia thành
viên, mà theo quy định pháp luật của mình, không được áp dụng nguyên tắc
chung được nêu tại điều này, trong các trường hợp thích hợp, sẽ dành những
miễn trừ có lợi cho những người không quốc tịch nói trên.

Điều 9: Những biện pháp tạm thời

Không một quy định nào trong Công ước này cản trở một quốc gia
thành viên, trong thời gian chiến tranh hay những hoàn cảnh nghiêm trọng và
ngoại lệ khác, áp dụng tạm thời những biện pháp được xem là cần thiết đối
với an ninh quốc gia trong trường hợp của một người cụ thể nào đó, trong
khi quốc gia thành viên xác định rằng người đó trên thực tế là người không

51
quốc tịch, và rằng sự tiếp tục những biện pháp như vậy là cần thiết trong
trường hợp của người đó vì lợi ích an ninh quốc gia.

Điều 10: Tiếp tục cư trú

1. Trường hợp một người đã bị buộc rời khỏi đất nước trong Chiến
tranh thế giới thứ hai và đã chuyển đến lãnh thổ của một quốc gia thành viên
và hiện đang cư trú ở đó, thì khoảng thời gian tạm trú bắt buộc đó phải được
xem xét là cư trú hợp pháp ở lãnh thổ đó.

2. Trường hợp một người trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã bị
buộc rời khỏi lãnh thổ của một quốc gia thành viên và trước ngày Công ước
có hiệu lực, đã quay trở lại quốc gia thành viên đó để tiếp tục cư trú, thì
khoảng thời gian cư trú trước và sau sự di chuyển bắt buộc đó sẽ được xem
như một khoảng thời gian cư trú liên tục, vì bất kỳ mục đích nào mà đòi hỏi
sự cư trú liên tục .

Điều 11: Những thuỷ thủ không có quốc tịch

Trường hợp những người không quốc tịch thường xuyên làm việc với
tư cách là thuỷ thủ trên tàu mang cờ của một quốc gia thành viên, quốc gia đó
phải xem xét với sự cảm thông đối với cơ nghiệp của những người đó trên
lãnh thổ của mình, và cấp giấy tờ thông hành cho họ hay giấy phép nhập cảnh
tạm thời vào lãnh thổ của mình, đặc biệt với mục đích tạo điều kiện thuận lợi
cho cơ nghiệp của họ ở một nước khác.

Chương II

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ

Điều 12: Vị thế cá nhân

1. Vị thế cá nhân của một người không quốc tịch sẽ được điều chỉnh
theo luật của nước người đó thường trú hoặc, nếu người đó không có nơi
thường trú, thì theo luật của nước mà người đó đang sống.

2. Các quyền mà một người không quốc tịch có được từ trước và phụ
thuộc vào vị thế cá nhân, đặc biệt là những quyền gắn liền với hôn nhân, sẽ
52
được quốc gia thành viên tôn trọng, với việc tuân thủ, nếu cần thiết, những
thủ tục mà pháp luật quốc gia đó yêu cầu, với điều kiện quyền nêu trên là
quyền đã được pháp luật của quốc gia, mà trước đó người này chưa trở thành
người không quốc tịch đã công nhận.

Điều 13: Động sản và bất động sản

Các quốc gia thành viên sẽ dành cho người không quốc tịch sự đối xử
càng thuận lợi càng tốt và, trong bất kì trường hợp nào, cũng không kém
thuận lợi hơn sự đối xử được dành cho người nước ngoài nói chung trong
những hoàn cảnh như nhau, đối với việc có được động sản và bất động sản và
những quyền khác gắn liền theo đó, cũng như với những hợp đồng cho thuê
và hợp đồng khác liên quan đến động sản và bất động sản.

Điều 14: Những quyền về nghệ thuật và sở hữu công nghiệp

Liên quan đến việc bảo vệ sở hữu công nghiệp, chẳng hạn như những
phát minh, thiết kế hay mẫu, nhãn hiệu hàng hóa, tên tthương mại và những
quyền về các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, một người không quốc
tịch sẽ được dành cho, tại nước nơi người đó thường trú, sự bảo họ tương tự
như công dân của nước đó. Tại lãnh thổ của bất kì quốc gia thành viên nào,
người đó sẽ được dành sự bảo hộ tương tự như công dân của quốc gia nơi người
đó thường trú.

Điều 15: Quyền lập hội

Đối với những tổ chức phi chính trị, phi lợi nhuận và các công đoàn,
các quốc gia thành viên sẽ dành cho những người không quốc tịch cư trú hợp
pháp trên lãnh thổ của mỉnh sự đối xử càng thuận lợi càng tốt và trong bất kì
trường hợp nào, cũng không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho những
người nước ngoài nói chung trong hoàn cảnh như nhau..

Điều 16: Tiếp cận toà án

1. Người không quốc tịch có quyền tự do tiếp cận các toà án ở lãnh thổ
của mọi quốc gia thành viên.

53
2. Người không quốc tịch được hưởng trên lãnh thổ của quốc gia thành
viên mà người đó thường trú sự đối xử tương tự như một công dân trong
những vấn đề gắn với việc tiếp cận toà án, kể cả sự trợ giúp pháp lý và miễn
tiền đặt cọc thi hành án và/hoặc án phí.

3. Đối với những vấn đề được đề cập tại khoản 2, một người không
quốc tịch, khi ở những nước khác không phải nước mà người đó thường trú
thì sẽ được dành cho sự đối xử như đối với công dân của nước người đó
thường trú.

Chương III

CÔNG VIỆC ĐƯỢC TRẢ LƯƠNG

Điều 17: Lao động ăn lương

1.Các quốc gia thành viên sẽ dành cho người không quốc tịch đang cư
trú hợp pháp tại lãnh thổ của mình sự đối xử càng thuận lợi càng tốt và, trong
bất kỳ trường hợp nào, cũng không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà quốc gia
thành viên dành cho những người nước ngoài trong hoàn cảnh như nhau, liên
quan đến quyền lao động được trả lương.

2. Các quốc gia thành viên phải xem xét với sự cảm thông việc nội luật
hoá các quyền của người không quốc tịch liên quan đến lao động được trả
lương với các quyền của công dân, và cụ thể là các quyền của những người
không quốc tịch đã đến lãnh thổ của quốc gia thành viên theo các chương
trình tuyển dụng lao động hay theo các kế hoạch nhập cư.

Điều 18: Lao động tự làm chủ

Các quốc gia thành viên sẽ dành cho người không quốc tịch cư trú hợp
pháp trên lãnh thổ của mình sự đối xử càng thuận lợi càng tốt, và trong bất
kỳ trường hợp nào, cũng không kém hơn sự đối xử được dành cho những
người nước ngoài nói chung trong hoàn cảnh như nhau, liên quan đến quyền
tham gia sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại
cho bản thân mình và thành lập các công ty thương mại và công nghiệp

54
Điều 19: Hành nghề tự do

Mỗi quốc gia thành viên sẽ dành cho những người không quốc tịch
đang cư trú hợp pháp tại lãnh thổ của mình nhưng có bằng cấp được các cơ
quan có thẩm quyền của quốc gia thành viên đó thừa nhận và đang mong
muốn hành nghề tự do, sự đối xử càng thuận lợi càng tốt và, trong bất kỳ
trường hợp nào, cũng không kém hơn sự đối xử được dành cho những người
nước ngoài nói chung trong những hoàn cảnh như nhau.

Chương IV

PHÚC LỢI

Điều 20: Chính sách phân phối

Nếu tồn tại hệ thống phân phối áp dụng cho phần lớn cư dân và hệ
thống này điều chỉnh sự phân phối chung các sản phẩm khan hiếm, những
người không quốc tịch sẽ được quốc gia thành viên dành cho sự đối xử như
đối với những công dân của mình.

Điều 21: Nhà ở

Về nhà ở, các quốc gia thành viên, trong chừng mực vấn đề này được
điều chỉnh bởi luật hay những qui định dưới luật hoặc dưới sự kiểm soát của
các cơ quan công quyền, sẽ dành cho những người không quốc tịch đang cư
trú hợp pháp trên lãnh thổ của mình sự đối xử càng thuận lợi càng tốt và,
trong bất kỳ trường hợp nào, cũng không kém hơn sự đối xử được dành cho
những người nước ngoài nói chung trong những hoàn cảnh như nhau.

Điều 22: Giáo dục công

1. Các quốc gia thành viên sẽ dành cho người không quốc tịch sự đối xử
tương tự như dành cho công dân của mình liên quan đến vấn đề giáo dục tiểu
học.

2. Các quốc gia thành viên sẽ dành cho người không quốc tịch sự đối
xử, càng thuận lợi càng tốt, và trong bất kỳ trường hợp nào, cũng không kém
hơn sự đối xử được dành cho những người nước ngoài nói chung trong
55
những hoàn cảnh như nhau, liên quan đến lĩnh vực giáo dục ngoài giáo dục
tiểu học và đặc biệt, đối với việc tiếp cận nền học vấn, việc thừa nhận các
chứng chỉ, chứng nhận, bằng cấp của các trường nước ngoài, sự miễn giảm
học phí và các khoản chi trả khác cũng như việc cấp học bổng.

Điều 23: Trợ cấp nhà nước

Các quốc gia thành viên sẽ dành cho những người không quốc tịch
đang cư trú hợp pháp ở lãnh thổ của mình sự đối xử tương tự như được dành
cho công dân của mình liên quan đến vấn đề về trợ cấp và trợ giúp nhà nước.

Điều 24: Pháp luật lao động và an sinh xã hội

1. Các quốc gia thành viên sẽ dành cho những người không quốc tịch
đang cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của mình sự đối xử tương tự như được
dành cho công dân của mình liên quan đến những vấn đề sau:

(a) Tiền lương kể cả những trợ cấp gia đình trong trường hợp những
trợ cấp này là một phần của tiền lương, thời gian làm việc, làm thêm giờ,
ngày nghỉ được trả lương, các hạn chế về làm việc tại gia, tuổi lao động tối
thiểu, học nghề và đào tạo nghề, lao động nữ và lao động thanh thiếu niên,
sự thụ hưởng những lợi ích từ thoả ước lao động tập thể trong chừng mực
những vấn đề này được điều chỉnh bởi luật hoặc những qui định dưới luật hay
dưới sự kiểm soát của các cơ quan hành chính.

(b) An sinh xã hội (những qui định pháp lý về tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, nghỉ sinh con, đau ốm, tàn tật, tuổi già, chết, thất nghiệp, trách
nhiệm gia đình và bất kỳ những bất trắc nào khác được hệ thống an sinh xã
hội bảo hiểm theo các qui định pháp luật quốc gia) theo theo những hạn chế
sau:

(i) Có thể có những dàn xếp phù hợp để duy trì những quyền đã có
được và những quyền đang trong quá trình hình thành;

(ii) Luật hoặc những qui định dưới luật của nước cư trú có thể qui định
những dàn xếp đặc biệt liên quan đến lợi ích hoặc một phần lợi ích có thể

56
được quỹ công chi trả toàn bộ, và liên quan đến những trợ cấp trả cho những
người không đáp ứng những điều kiện đóng góp theo qui định để được hưởng
hưu trí bình thường.

2. Quyền được bồi thường do một người không quốc tịch chết vì tai
nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp sẽ bị không ảnh hưởng vì lý do người
được hưởng lợi cư trú bên ngoài lãnh thổ của quốc gia thành viên.

3. Quốc gia thành viên sẽ dành cho những người không quốc tịch các
lợi ích của những thoả thuận được ký kết giữa họ hoặc có thể được ký kết
giữa họ trong tương lai, liên quan đến sự duy trì những quyền đã đạt được và
những quyền đang trong quá trình hình thành về an sinh xã hội, theo những
điều kiện áp dụng cho công dân của quốc gia ký kết thoả thuận liên quan.

4. Quốc gia thành viên phải sự xem xét với sự cảm thông việc mở rộng
cho những người không quốc tịch, ở mức độ có thể, những lợi ích của những
thoả thuận tương tự có thể sẽ có hiệu lực, vào bất kỳ thời điểm nào, giữa các
quốc gia thành viên và các quốc gia không thành viên.

Chương V

CÁC BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH

Điều 25: Trợ giúp hành chính

1. Khi một người không quốc tịch thực hiện một quyền mà thông
thường cần sự trợ giúp của các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài mà
người đó không thể có được, quốc gia thành viên mà người đó đang cư trú sẽ
thu xếp để giúp đỡ người đó bằng chính cơ quan có thẩm quyền của mình.

2. Cơ quan hay những cơ quan được đề cập tại khoản 1 sẽ cấp, hoặc
yêu cầu cấp dưới sự giám sát của các cơ quan đó, cho người không quốc tịch
các giấy tờ hoặc chứng nhận mà thông thường được cấp cho những người
nước ngoài bởi hoặc thông qua các cơ quan có thẩm quyền của nước họ.

3. Các giấy tờ hay những chứng nhận được cấp như vậy sẽ thay thế
những văn bản chính thức được cấp cho những người nước ngoài bởi hoặc
57
thông qua các cơ quan có thẩm quyền của nước họ, và sẽ có giá trị nếu không
có bằng chứng ngược lại.

4. Theo sự đối xử ngoại lệ có thể được dành cho người nghèo, các
khoản phí cũng có thể phải trả cho các dịch vụ nêu trên nhưng những khoản
phí như vậy sẽ ở mức vừa phải và tương xứng với mức phí mà công dân nước
quốc gia đó phải trả cho những dịch vụ tương tự.

5. Những quy định của điều này không làm ảnh hưởng đến các điều 27 và
28.

Điều 26: Tự do đi lại

Mỗi quốc gia thành viên sẽ dành cho người không quốc tịch cư trú hợp
pháp trên lãnh thổ của mình quyền được lựa chọn nơi cư trú và quyền tự do
đi lại trong lãnh thổ của mình và chịu sự điều chỉnh của bất kì quy định nào
áp dụng cho người nước ngoài nói chung trong những hoàn cảnh như nhau .

Điều 27: Giấy chứng minh

Các quốc gia thành viên sẽ cấp giấy chứng minh cho bất kì người
không quốc tịch nào trên lãnh thổ của mình mà không có giấy chứng minh có
giá trị pháp lý.

Điều 28. Giấy tờ thông hành

Các quốc gia thành viên sẽ cấp cho người không quốc tịch cư trú hợp
pháp trên lãnh thổ của mình những giấy tờ thông hành cần thiết cho mục đích
đi lại ngoài lãnh thổ của mình, trừ phi có những lí do cấp bách về an ninh
quốc gia hay trật tự công cộng đòi hỏi khác; và những quy định tại Phụ lục
của Công ước này sẽ áp dụng liên quan tới những giấy tờ đó. Các quốc gia
thành viên có thể cấp giấy tờ thông hành như vậy cho bất kì người không có
quốc tịch nào khác trên lãnh thổ của mình; các quốc gia thành viên, cụ thể,
phải xem xét với sự cảm thông đối với việc cấp giấy tờ thông hành như vậy
cho người không quốc tịch trên lãnh thổ của mình mà không thể có được một
giấy thông hành của đất nước nơi họ cư trú hợp pháp.

58
Điều 29. Phí tài chính.

1. Các quốc gia thành viên sẽ không ấn định đối với người không quốc
tịch những khoản lệ phí, phí hoặc thuế dưới bất kì hình thức nào, khác hoặc
cao hơn những khoản lệ phí, phí hoặc thuế đang thu hoặc có thể thu đối với
những công dân của mình trong những hoàn cảnh như nhau.

2. Không một quy định nào thuộc khoản trên cản trở việc áp dụng đối
với người không quốc tịch những quy định pháp luật về các khoản phí liên
quan đến việc cấp giấy tờ cho người nước ngoài, kể cả giấy chứng minh.

Điều 30. Di chuyển tài sản

1. Một quốc gia thành viên, phù hợp các quy định pháp luật của mình,
cho phép người không quốc tịch chuyển tài sản mà họ đã mang vào lãnh thổ
của mình đến một nước khác nơi họ đã được chấp nhận cho tái định cư.

2. Một quốc gia thành viên phải xem xét với sự cảm thông đơn xin
phép của người không quốc tịch về việc chuyển tài sản của họ bất cứ nơi nào
có thể mà cần thiết cho việc tái định cư ở một nước mà họ đã được chấp
nhận.

Điều 31: Trục xuất.

1. Các quốc gia thành viên sẽ không trục xuất một người không quốc
tịch cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của mình, ngoại trừ những lý do an ninh
hoặc trật tự công cộng.

2. Việc trục xuất một người không quốc tịch sẽ chỉ được thực hiện theo
một quyết định được đưa ra phù hợp với trình tự pháp luật hợp lệ. Trừ khi
những lý do cấp bách về an ninh quốc gia đòi hỏi khác, người không quốc
tịch sẽ được phép trình những bằng chứng để tự bào chữa, kháng cáo và có
người đại diện trước cơ quan có thẩm quyền hay trước một hoặc nhiều người
được cơ quan có thẩm quyền chỉ định.

3. Các quốc gia thành viên sẽ cho phép một người không quốc tịch như
vậy có một khoảng thời gian thích hợp để tìm kiếm sự chấp nhận cho cư trú
59
hợp pháp ở một nước khác. Các quốc gia thành viên bảo lưu quyền áp dụng
những biện pháp nội bộ được coi là cần thiết trong khoảng thời gian đó.

Điều 32: Nhập quốc tịch

Các quốc gia thành viên sẽ tạo điều kiện thuận lợi hết mức có thể cho
việc hoà nhập và nhập tịch của người không quốc tịch. Các quốc gia thành
viên cụ thể sẽ tiến hành mọi lỗ lực để xúc tiến thủ tục nhập tịch và giảm hết
mức có thể các khoản phí và chi phí cho những thủ tục như vậy.

Chương VI

Những điều khoản cuối cùng

Điều 33: Thông tin về pháp luật quốc gia.

Các quốc gia thành viên sẽ thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc
những quy định pháp luật mà mình có thể thông qua để bảo đảm thực hiện
Công ước này.

Điều 34. Giải quyết tranh chấp.

Bất kỳ tranh cấp nào giữa các quốc gia thành viên Công ước này liên
quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước, mà không thể được giải
quyết bằng những biện pháp khác sẽ được chuyển đến Toà án Công lý quốc
tế theo yêu cầu của bất kỳ một bên tranh chấp nào.

Điều 35. Ký, phê chuẩn và gia nhập.

1.Công ước này sẽ để ngỏ cho các quốc gia ký tại Trụ sở chính của
Liên Hợp Quốc cho đến ngày 31/12/1955.

2.Công ước sẽ để ngỏ cho các quốc gia sau đây ký:

(a) Bất kỳ quốc gia thành viên nào của Liên Hợp Quốc;

(b) Bất kỳ quốc gia nào được mời tham dự Hội nghị Liên Hợp Quốc về
Vị thế của người không quốc tịch;

(c) Bất kỳ quốc gia nào nhận được lời mời ký hoặc gia nhập của Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc.
60
3. Công ước phải được phê chuẩn và các văn kiện phê chuẩn phải được
nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.

4. Công ước để ngỏ cho việc gia nhập của các quốc gia được đề cập tại
khoản 2 điều này. Việc gia nhập sẽ có thực hiện bằng cách nộp lưu chiểu văn
kiện gia nhập cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.

Điều 36. Điều khoản áp dụng theo lãnh thổ.

1.Bất kỳ quốc gia nào, tại thời điểm ký, phê chuẩn hoặc gia nhập, phải
tuyên bố rằng Công ước này sẽ được áp dụng tại tất cả hoặc bất kỳ lãnh thổ
nào mà quốc gia đó có trách nhiệm về quan hệ quốc tế. Một tuyên bố như vậy
sẽ có hiệu lực khi công ước bắt đầu có hiệu lực đối với quốc gia liên quan.

2. Tại bất kỳ thời điểm nào sau đó, bất kỳ sự mở rộng áp dụng nào như
vậy sẽ được thực hiện bằng cách gửi thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc và sẽ có hiệu lực từ ngày thứ 90 sau ngày Tổng thư lý Liên Hợp Quốc
nhận được thông báo đó, hoặc tính từ ngày Công ước có hiệu lực đối với
quốc gia liên quan nếu thời điểm nào xảy ra muộn hơn.

3. Đối với những lãnh thổ mà công ước này không được mở rộng áp
dụng tại thời điểm ký hoặc phê chuẩn, gia nhập, mỗi quốc gia liên quan phải
xem xét khả năng tiến hành những bước cần thiết để mở rộng việc áp dụng
Công ước này ở những lãnh thổ đó, với sự chấp thuận của chính phủ những
lãnh thổ đó theo những thủ tục hiến định nếu cần thiết.

Điều 37. Điều khoản liên bang

Trong trường hợp quốc gia liên bang hoặc không đơn nhất, những quy
định sau đây sẽ được áp dụng:

(a) Đối với những quốc gia mà điều khoản của Công ước này nằm
trong thẩm quyền lập pháp của cơ quan lập pháp liên bang, thì nghĩa vụ của
chính phủ liên bang, trong chừng mực này, sẽ tương tự như những nghĩa vụ
của các quốc gia thành viên không phải là quốc gia liên bang.

61
(b) Đối với những quốc gia mà việc áp dụng những điều khoản của
công ước này nằm trong thẩm quyền lập pháp của các bang, các tỉnh mà theo
quy định của hệ thống hiến pháp liên bang, không có nghĩa vụ thực hiện cam
kết của liên bang thì chính phủ liên bang sẽ gửi những điều khoản của Công
ước này kèm theo những khuyến nghị tán thành để lưu ý các cơ quan có thẩm
quyền thích hơp của các bang, các trong thời gian sớm nhất có thể.

(c) Một quốc gia liên bang thành viên công ước này, theo đề nghị của
bất kỳ quốc gia thành viên nào khác thông qua Tổng thư ký Liên Hợp Quốc,
sẽ phải thông báo tình hình về pháp luật và thực tiễn của liên bang và các bộ
phân cấu thành của liên bang liên quan đến bất kỳ quy định cụ thể nào của
Công ước cho thấy mức độ hiệu lực mà hành động lập pháp hoặc hành động
khác đã trao cho quy định đó.

Điều 38. Bảo lưu

1.Tại thời điểm ký, phê chuẩn hay gia nhập, bất kỳ quốc gia nào đều có
thể thực hiện bảo lưu những điều khoản của Công ước, trừ các điều 1, 3, 4,
16 (1) và các điều từ 33 đến 42.

2. Bất kỳ quốc gia nào thực hiện bảo lưu phù hợp với khoản 1 của điều
này có thể rút lại bảo lưu tại bất cứ thời điểm nào bằng một thông báo gửi
cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.

Điều 39. Hiệu lực

1.Công ước này sẽ bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày thứ 90 sau ngày văn
kiện phê chuẩn hay gia nhập thứ sáu được nộp lưu chiểu.

2. Đối với mỗi quốc gia phê chuẩn hay gia nhập công ước này sau khi
văn kiện phê chuẩn hay gia nhập thứ sáu được lưu chiểu, Công ước sẽ bắt
đầu có hiệu lực kể từ ngày thứ 90 sau ngày văn kiện phê chuẩn hay gia nhập
của quốc gia đó được lưu chiểu.

Điều 40. Bãi ước

62
1. Bất kỳ quốc gia thành viên nào đều có thể rút khỏi Công ước này tại
bất kỳ thời điểm nào bằng một thông báo gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc.

2.Việc rút khỏi Công ước sẽ có hiệu lực đối với quốc gia thành viên
liên quan sau một năm kể từ ngày Tổng thư ký Liên Hợp Quốc nhận được
thông báo rút khỏi Công ước.

3. Bất kỳ các quốc gia nào đã tuyên bố hoặc thông báo theo quy định
tại điều 36, đều có thể, tại bất kỳ thời điểm nào sau đó, bằng thông báo gửi
đến Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, tuyên bố chấm dứt mở rộng việc áp dụng
Công ước đối với lãnh thổ đó sau một năm kể từ ngày Tổng thư ký nhận
được thông báo đó.

Điều 41. Xem xét lại.

1. Bất kỳ quốc gia nào đều có thể yêu cầu xem xét lại Công ước này tại
bất kỳ thời điểm nào bằng một thông báo gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc.

2. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc sẽ khuyến nghị các bước cần thực
hiện, nếu có, liên quan đến yêu cầu này.

Điều 42. Những thông báo của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc

Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ thông báo đến mọi quốc gia thành viên
Liên Hợp Quốc và những quốc gia không là thành viên của Liên Hợp Quốc
được đề cập tại điều 35 về:

(a) việc ký, phê chuẩn, gia nhập theo điều 35.

(b) các tuyên bố và thông báo theo điều 36.

(c) những bảo lưu và rút bảo lưu theo điều 38.

(d) ngày mà công ước này sẽ bắt đầu có hiệu lực theo điều 39.

(e) những tuyên bố rút khỏi Công ước và những thông báo theo điều
40.

63
(f) những yêu cầu xem xét lại Công ước theo điều 41.

Văn bản này đã được ký kết với sự chứng nhận của những người là đại
diện toàn quyền của các chính phủ ký tên dưới đây..

Để làm bằng, những người ký dưới đây, đã được các chính phủ ủy
quyền hợp lệ, đã ký Công ước ước này.

Làm tại New York, ngày 28/9/1954, bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và
tiếng Tây Ban Nha, các bản có giá trị như nhau và sẽ được lưu chiểu tại Cơ
quan lưu trữ của Liên Hợp Quốc và những bản sao được chứng thực sẽ được
chuyển đến tất cả các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc và các quốc gia
không là thành viên được đề cập đến tại điều 35.

Phụ lục

Mục 1.

1. Giấy thông hành được đề cập tại điều 28 của công ước này quy định
rằng người có những giấy tờ đó là một người không quốc tịch theo quy định
của Công ước ngày 28/9/1954.

2.Giấy tờ sẽ được làm ít nhất bằng hai ngôn ngữ, môt trong đó phải
bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.

3. Các quốc gia thành viên sẽ xem xét các đơn xin cấp giấy thông hành.

Mục 2.

Căn cứ vào những quy định của nước cấp giấy thông hành, giấy thông
hành của trẻ em có thể được ghi vào giấy thông hành của bố mẹ, hoặc trong
những trường hợp ngoại lệ, vào giấy thông hành của những người đã thành
niên khác.

Mục 3.

Chi phí cho việc cấp giấy thông hành sẽ không được cao hơn mức phí
thấp nhất để xin hộ chiếu của người có quốc tịch .

Mục 4.
64
Trong những trường hợp đặc biệt hay ngoại lệ, giấy thông hành được
cấp sẽ có giá trị pháp lý đối với một số lượng lớn nhất các nước có thể đến.

Mục 5.

Giấy thông hành sẽ có giá trị pháp lý không ít hơn ba tháng và không
vượt quá hai năm.

Mục 6.

1.Việc ra hạn hoặc làm mới giấy thông hành là công việc của cơ quan
đã cấp giấy thông hành, một khi người mang giấy thông hành vẫn chưa cư trú
hợp pháp tại một lãnh thổ khác mà vẫn cư trú hợp pháp tại lãnh thổ của cơ
quan được nói đến.Việc cấp một giấy thông hành mới trong cùng điều kiện
như nhau là công việc của cơ quan đã cấp giấy thông hành trước đó.

2. Những cơ quan ngoại giao hay lãnh sự có thể được uỷ quyền để ra


hạn giấy thông hành do chính phủ của những cơ quan đó cấp trong khoảng
thời gian không quá 06 tháng.

3. Các quốc gia thành viên phải có sự xem xét cảm thông trong việc
làm mới hoặc gia hạn giấy thông hành hay cấp giấy thông hành mới cho
những người không quốc tịch không còn cư trú hợp pháp tại lãnh thổ của họ
nhưng lại không thể được cấp giấy thông hành của đất nước mà họ cư trú
hợp pháp.

Mục 7.

Các quốc gia thành viên sẽ thừa nhận giá trị pháp lý của những giấy
thông hành được cấp phù hợp với quy định của điều 28 Công ước này.

Mục 8.

Các cơ quan có thẩm quyền của nước mà người không quốc tịch mong
muốn cư trú, nếu các cơ quan này đã chuẩn bị để chấp nhận người đó và nếu
có yêu cầu về chiếu khán, sẽ đính kèm chiếu khán vào giấy thông hành mà
người đó mang theo.

65
Mục 9.

1. Các quốc gia thành viên sẽ đảm nhận việc cấp chiếu khán quá cảnh
cho những người không quốc tịch đã có chiếu khán của lãnh thổ sẽ đến trong
chặng hành trình cuối cùng.

2. Việc cấp chiếu khán trên có thể bị từ chối về những lý do có thể


chứng minh cho việc từ chối chiếu khán đối với bất kỳ người nước ngoài nào.

Mục 10.

Các khoản phí cho việc cấp chiếu khán xuất cảnh, nhập cảnh và quá
cảnh không được cao hơn mức thấp nhất của các khoản phí về chiếu khán
cho những hội chiếu.

Mục 11.

Khi một người không quốc tịch đã được cư trú hợp pháp ở lãnh thổ của
một quốc gia thành viên khác thì trách nhiệm cấp giấy thông hành mới, theo
quy định tại điều 28, sẽ thuộc về các cơ quan có thẩm quyền của lãnh thổ mà
người không quốc tịch nộp đơn xin cấp.

Mục 12.

Cơ quan cấp giấy thông hành mới giữ lại giấy thông hành cũ và sẽ gửi
trả giấy thông hành cũ đến nước đã cấp nếu trong giấy thông hành cũ có ghi
rõ ràng giấy thông hành đó cần được gửi trả lại; nếu không, cơ quan cấp giấy
thông hành mới sẽ giữ và huỷ giấy thông hành đó.

Mục 13.

1. Giấy thông hành sẽ được cấp phù hợp với điều 28 của Công ước
này, trừ phi giấy thông hành đó bao gồm một tuyên bố ngược lại, cho phép
người mang nó có quyền nhiều lần trở lại lãnh thổ của quốc gia cấp giấy
thông hành tại bất kỳ thời điểm nào trong khoảng gian đó có giá trị. Trong
bất kỳ trường hợp nào, khoảng thời gian mà người mang giấy có thể trở lại
nước cấp giấy thông hành không dưới ba tháng, trừ phi nước mà người không

66
quốc tịch có nguyện vọng đến không đòi hỏi giấy thông hành phải phù hợp
với quyền trở lại.

2. Phụ thuộc vào những quy định của mục trên, một quốc gia thành
viên có thể yêu cầu người mang giấy thông hành tuân thủ những thủ tục có
thể được yêu cầu về việc xuất cảnh hay nhập cảnh vào lãnh thổ của mình

Mục 14.

Căn cứ vào những quy định của khoản 13, các quy định của Phụ lục này
không ảnh hưởng đến luật và những qui định điều chỉnh các điều kiện về việc
nhận vào, quá cảnh, cư trú và sinh sống, rời khỏi lãnh thổ của các quốc gia thành
viên.

Mục 15.

Không phải việc cấp giấy thông hành hay sự nhập cảnh được tiến hành
theo đó sẽ xác định hay ảnh hưởng đến vị thế người không quốc tịch, đặc biệt
về quốc tịch.

Muc 16.

Việc cấp giấy thông hành không cho phép, dưới bất kỳ hình thức nào,
người mang giấy được hưởng sự bảo hộ của những cơ quan ngoại giao hay
lãnh sự của nước cấp giấy, đồng thời không làm phát sinh quyền bảo vệ của
các cơ quan này.

67
Phụ lục 2

CÔNG ƯỚC

VỀ VỊ THẾ CỦA NGƯỜI TỊ NẠN NĂM 19514

Được thông qua tại Hội nghị các đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Liên
Hợp Quốc về vị thế của người tị nạn và người không quốc tịch ngày
28/7/1951, được tổ chức theo Nghị quyết số 429 (V) ngày 14/12/1950 của
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc,

Có hiệu lực từ ngày 22/4/1954, theo điều 43.

Lời nói đầu

Các quốc thành viên Công ước này,

Lưu ý rằng, Hiến chương Liên Hợp Quốc và Tuyên ngôn toàn thế giới về
quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày
10/12/1948 đã khẳng định nguyên tắc mọi người đều được hưởng các quyền
và tự do cơ bản, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào,

Lưu ý rằng, trong nhiều trường hợp, Liên Hợp Quốc đã bày tỏ sự quan tâm
sâu sắc đến những người tị nạn và đã có những nỗ lực to lớn nhằm bảo đảm
cho người tị nạn được hưởng các quyền và tự do cơ bản này ở mức độ rộng
rãi nhất có thể được,

Lưu ý rằng, cần thiết phải sửa đổi và hợp nhất những thoả thuận quốc tế
trước đó liên quan đến vị thế của người tị nạn và mở rộng phạm vi và sự bảo
vệ người tị nạn trong các văn kiện trước đó bằng một thoả thuận mới,

Lưu ý rằng, việc cho phép tị nạn có thể đặt ra những gánh nặng quá mức với
những quốc gia nhất định, và rằng, một giải pháp phù hợp cho vấn đề mà đã
được Liên Hợp Quốc nhìn nhận là có phạm vi và tính chất quốc tế, do đó,
không thể đạt được nếu không có sự hợp tác quốc tế,

4
Tham khảo thêm tại địa chỉ http://hr.law.vnu.edu.vn/cac_cong_uoc_chinh_ve_nhan_quyen?
order=field_shortname_value&sort=asc

68
Bày tỏ mong muốn rằng, tất cả các quốc gia, trên cơ sở thừa nhận tính chất
nhân đạo và xã hội của vấn đề người tị nạn, sẽ làm tất cả những gì có thể
trong phạm vi quyền hạn của mình để ngăn chặn không cho vấn đề này gây
nên sự căng thẳng giữa các quốc gia,

Ghi nhớ rằng, Cao uỷ Liên Hợp Quốc về người tị nạn được giao nhiệm vụ
giám sát việc thực hiện các công ước quốc tế về bảo vệ người tị nạn, và thừa
nhận rằng, các biện pháp có hiệu quả được đưa ra để giải quyết vấn đề này sẽ
phụ thuộc vào sự hợp tác giữa các quốc gia với Cao uỷ,

Đã nhất trí về các điều khoản sau:

Chương I

CÁC QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Định nghĩa "người tị nạn".

A- Nhằm những mục đích của Công ước này, khái niệm "người tị nạn" áp
dụng cho bất kỳ người nào mà:

1. Được công nhận là người tị nạn theo các Thoả ước ngày 12/5/1926 và ngày
30/6/1928 hoặc theo các Công ước ngày 28/10/1933 và ngày 10/2/1938, Nghị
định thư ngày 14/9/1939 hoặc theo Hiến chương của Tổ chức người tị nạn quốc
tế;

Các quyết định và tính không hợp lệ do Tổ chức người tị nạn quốc tế
ban hành trong giai đoạn hoạt động của Tổ chức này sẽ không gây trở ngại
cho việc công nhận vị thế người tị nạn của những người hội đủ các điều kiện
ghi trong đoạn 2 của mục này;

2. Do kết quả của các sự kiện xảy ra trước ngày 01/01/1951, và do sự sợ hãi
có cơ sở là sự bị ngược đãi vì những lý do chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, hoặc
do là thành viên của một nhóm xã hội cụ thể nào đó, hay vì quan điểm chính
trị, đang ở ngoài đất nước mà người đó có quốc tịch và không thể, hoặc, do
sự sợ hãi như vậy, không muốn tiếp nhận sự bảo vệ của quốc gia đó; hoặc
người không có quốc tịch đang sống ở ngoài quốc gia mà trước đó hä đã từng
69
cư trú do kết quả của những sự kiện đó mà không thể, hoặc do sự sợ hãi, mà
không muốn trở lại quốc gia đó.

Trong trường hợp một người có hai quốc tịch, khái niệm "quốc gia của
người có quốc tịch" có nghĩa là một trong các quốc gia trong đó người ấy là
công dân, và một người sẽ không được coi là thiếu sự bảo vệ của quốc gia mà
người đó có quốc tịch, nếu thiếu lý do hợp lệ dựa trên sự sợ hãi có căn cứ
khiến cho người đó không tận dụng sự bảo vệ của một trong những quốc gia
mà người đó là công dân.

B- Theo các mục đích của Công ước này, cụm từ "các sự kiện xảy ra trước
ngày 1/1/1951" ghi trong điều 1, mục A sẽ được hiểu là:

a- "Các sự kiện xảy ra ở Châu Âu trước ngµy 1/1/1951" hay

b- "Các sự kiện xảy ra ở Châu Âu hoặc nơi khác trước ngày 1/1/1951", và
mỗi quốc gia tham gia Công ước sẽ phải tuyên bố vào lúc ký, phê chuẩn hoặc
gia nhập, để xác định rõ bối cảnh nào mà quốc gia ấy áp dụng để phục vụ cho
mục đích thực thi các nghĩa vụ của mình theo Công ước này.

c- Bất kỳ quốc gia nào tham gia Công ước mà đã chấp nhận sự thay đổi ở
điểm (a) đều có thể mở rộng các nghĩa vụ của mình vào bất kỳ thời điểm nào
tới quy định ở điểm (b) bằng cách gửi một văn bản thông báo cho Tổng thư
ký Liên Hợp Quốc.

C- Công ước này sẽ không được áp dụng vói bất kỳ người nào nằm trong các
điều kiện ghi trong mục A, nếu:

1- Người ấy tự nguyện sử dụng lại sự bảo vệ của quốc gia mà mình


mang quốc tịch; hoặc

2- Sau khi mất quốc tịch, chính người ấy đã xin nhập lại được; hoặc

3- Người ấy đã nhập quốc tịch mới và được quốc gia mình mang quốc
tịch bảo vệ; hoặc

4- Người ấy đã tự nguyện tái định cư ở quốc gia mà người đã rời đi,


hoặc quốc gia bên ngoài mà người ấy vẫn còn sợ bị ngược đãi; hoặc
70
5- Do các hoàn cảnh có liên quan mà theo đó, việc người ấy được công
nhận là tị nạn không còn tồn tại nữa, và người ấy không thể cứ từ chối không
tiếp nhận sự bảo vệ của quốc gia mà mình mang quốc tịch nữa;

Quy định ở đoạn này sẽ không áp dụng với những người tị nạn nằm
trong mục A(1) của điều này, trừ khi người đó có thể dẫn ra được những lý
do có tính thuyết phục minh chứng cho việc từ chối không sử dụng sự bảo vệ
của quốc gia mà mình mang quốc tịch là do hậu quả của sự ngược đãi trước
đó;

6- Là người không có quốc tịch, nhưng do các hoàn cảnh có liên quan
mà dựa vào đó người ấy được công nhận là người tị nạn không còn tồn tại
nữa, và người ấy đã có thể trở về quốc gia mà trước đó mình đã sinh sống;

Quy định của đoạn này sẽ không áp dụng với những người tị nạn nằm
trong mục A (1) của điều này, trõ khi người đó có thể dẫn ra được những lý
do cho việc từ chối không trở về quốc gia mà trước kia người đó đã sinh sống
là do hậu quả của sự ngược đãi trước đó.

D- Công ước này sẽ không áp dụng với những người tị nạn nào mà hiện tại
đang nhận được sự bảo trợ hay sự giúp đỡ của các cơ quan hay tổ chức khác
của Liên Hợp Quốc mà không phải là Cao uỷ Liên Hợp Quốc về người tị
nạn.

Khi vì lý do nào đó sự bảo trợ ấy đã chấm dứt mà hoàn cảnh của những
người đó vẫn chưa được giải quyết dứt khoát theo các nghị quyết có liên
quan đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua, thì những người này
nghiễm nhiên có quyền được hưởng sự bảo vệ của Công ước này.

E- Công ước này sẽ không áp dụng víi những người nào được nhà đương cục
của quốc gia mà người đó đang cư trú công nhận là có các quyền và nghĩa vụ
gắn với việc nhập quốc tịch của quốc gia ấy.

F- Các điều khoản của Công ước này sẽ không áp dụng với bất kỳ người nào
mà có những lý do thực sự để có thể khẳng định rằng:

71
a- Người đó đã phạm tội chống lại hoà bình, tội ác chiến tranh hay tội
ác chống nhân loại, như đã được xác định trong các văn bản pháp luật quốc tế
được xây dựng để đề ra các quy định liên quan tới những tội ác ấy;

b- Người đó đã phạm những tội ác nghiêm trọng không liên quan đến
chính trị bên ngoài quốc gia đang tị nạn trước khi người đó được quốc gia
công nhận là người tị nạn;

c- Người đó đã có những hành động trái với các mục đích và nguyên
tắc của Liên Hợp Quốc.

Điều 2. Các nghĩa vụ phổ biến

Người tị nạn nào cũng phải có những nghĩa vụ đối với quốc gia mà
đang cưu mang họ, cụ thể là phải tuân thủ các luật, quy định cũng như các
biện pháp quy định để duy trì trật tự công cộng.

Điều 3. Không phân biệt đối xử

Các quốc gia thành viên Công ước phải áp dụng các điều khoản của
Công ước đối với những người tị nạn mà không có sự phân biệt đối xử về
chủng tộc, tôn giáo hay nguồn gốc dân tộc.

Điều 4. Tín ngưỡng

Các quốc gia thành viên Công ước phải đối xử với những người tị nạn
sống trên lãnh thổ của mình ít nhất cùng với điều kiện thuận lợi tương tự như
với công dân của họ liên quan đến vấn đề tự do thực hành tín ngưỡng và tự
do giáo dục tín ngưỡng cho con cái họ.

Điều 5. Các quyền lợi được ban cấp ngoài Công ước này

Không một điều nào trong Công ước này làm tổn hại đến những quyền
lợi mà Các quốc gia thành viên Công ước này ban cấp cho người tị nạn mà
được quy định trong các văn bản pháp luật khác, ngoài Công ước này.

Điều 6. Khái niệm "trong những hoàn cảnh giống nhau"

72
Theo mục đích của Công ước này, khái niệm "trong những hoàn cảnh
giống nhau" hàm nghiaa là bất kỳ yêu cầu nào (kể cả những yêu cầu xin kéo
dài thời gian và điều kiện lưu trú hay cư trú) mà một cá nhân nào đó phải đáp
ứng để được hưởng các quyền có liên quan, nếu người ấy không phải là
người tị nạn thì cũng phải thực hiện, trừ những yêu cầu mà do tính chất của
chúng, người tị nạn không có khả năng hoàn thành.

Điều 7. Việc miễn trừ khỏi nguyên tắc tương hỗ

1- Trừ khi Công ước này chứa đựng những khoản điều khoản thuận lợi
hơn, một quốc gia tham gia Công ước sẽ phải đối xử với những người tị nạn
như với những người nước ngoài.

2- Sau giai đoạn cư trú 3 năm, tất cả những người tị nạn sẽ được hưởng
sự miễn trừ việc áp dụng nguyên tắc tương hỗ luật pháp trên lãnh thổ của Các
quốc gia thành viên Công ước này.

3- Mỗi quốc gia tham gia Công ước sẽ tiếp tục ban cấp cho người tị nạn
những quyền và lợi ích mà họ đã được hưởng, trong trường hợp không có sự
tương hỗ pháp luật, vào thời điểm mà Công ước này có hiệu lực đối với quốc
gia đó.

4- Các quốc gia thành viên Công ước sẽ xem xét theo chiều hướng có
lợi khả năng ban cấp cho những người tị nạn, nếu thiếu sự tương hỗ pháp
luật, những quyền và lợi ích mà họ đã được hưởng, phù hợp với các khoản 2
và 3, và mở rộng sự miễn trừ áp dụng nguyên tắc tương hỗ pháp luật đối với
những người tị nạn không hội đủ những điều kiện ghi trong các khoản 2 và 3.

5. Các quy định trong các khoản 2 và 3 áp dụng cho cả các quyền và
lợi ích được nói đến trong các điều 13, 18, 19, 21, 22 của Công ước này và
các quyền và lợi ích khác mà Công ước này không quy định.

Điều 8. Việc miễn các biện pháp ngoại lệ

Các quốc gia thành viên Công ước sẽ không áp dụng những biện pháp
ngoại lệ mà có thể sử dụng để chống lại một người, hay tài sản hoặc lợi ích

73
của những kiều dân của một nước khác, đối với những người tị nạn mà về
mặt chính thức là công dân của quốc gia là đối tượng như vậy, chỉ bởi lý do
họ là công dân của nước ấy. Nếu luật pháp của quốc gia tham gia Công ước
không cho phép áp dụng nguyên tắc phổ biến quy định trong điều này thì
trong những trường hợp cụ thể, quốc gia đó cần phải quy định những ngoại lệ
cho những người tị nạn như vậy.

Điều 9. Các biện pháp tình thế

Khi có chiến tranh hay trong những hoàn cảnh nghiêm trọng và ngoại
lệ khác, không một điều nào trong Công ước này ngăn cản một quốc gia tham
gia Công ước không được thực hiện những biện pháp tình thế mà quốc gia đó
cho là hệ trọng với nền an ninh quốc gia, mà áp dụng đối với một người nào
đó đang chờ việc xác minh của quốc gia thành viên để khẳng định rằng người
đó có thực sự là người tị nạn hay không, cũng như việc tiếp tục các biện pháp
tình thế nếu được coi là cần thiết đối với trường hợp của người đó để bảo
đảm lợi ích của an ninh quốc gia.

Điều 10. Tính liên tục của sự cư trú

1- Trong trường hợp một người tị nạn buộc phải ra đi trong chiến tranh
thế giới thứ hai và bị chuyển đến lãnh thổ của một quốc gia tham gia Công
ước, và đang cư trú ở đó, thì giai đoạn phải cư trú bắt buộc ấy phải được coi
là thời gian cư trú hợp pháp của họ ở nước đó.

2- Trong trường hợp một người tị nạn bị buộc phải ra đi khỏi lãnh thổ
của một quốc gia tham gia Công ước trong chiến tranh thế giới thứ hai và đã
trở lại cư trú ở nước đó trước thời điểm có hiệu lực của Công ước, thì thời
gian cư trú trước và sau sự bắt buộc phải ra đi đó sẽ được xem như là một
giai đoạn liên tiếp, không gián đoạn, vì các mục đích cần thiết có liên quan.

Điều 11. Thuỷ thủ tị nạn

Trong trường hợp những người tị nạn là những người phục vụ thường
xuyên trong đoàn thuỷ thủ của các tầu thuỷ mang quốc kỳ của quốc gia tham

74
gia Công ước, thì quốc gia ấy sẽ phải xem xét với sự thiện cảm đối với việc
họ xin định cư trên lãnh thổ của mình, và víi việc cấp giấy phép đi lại hay
việc nhận họ tạm thời vào lãnh thổ của quốc gia mình, đặc biệt để nhằm mục
đích tạo điều kiện cho họ định cư tại một nước khác.

Chương II

VỊ THẾ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI TỊ NẠN

Điều 12. Vị thế cá nhân

1- Vị thế cá nhân của một người tị nạn sẽ được điều chỉnh bởi pháp
luật của quốc gia nguyên quán của người ấy, hay, nếu người ấy không có
nguyên quán, thì bởi pháp luật của quốc gia mà người ấy đang cư trú.

2- Các quyền lợi mà trước đó người tị nạn ấy có và phụ thuộc vào vị


thế cá nhân, cụ thể là các quyền lợi gắn với hôn nhân, phải được quốc gia
tham gia Công ước tôn trọng và bảo đảm thực hiện, nếu cần thiết, theo đúng
các quy tắc mà luật pháp quốc gia đó yêu cầu, với điều kiện là quyền lợi đang
nói đến được luật pháp quốc gia mà người đã không phải là người tị nạn công
nhận.

Điều 13. Động sản và bất động sản

Các quốc gia thành viên Công ước phải đối xử với người tị nạn với sự
thuận lợi trong chừng mực có thể được, và trong bất kỳ trường hợp nào cũng
không kém ưu ái hơn so với những thuận lợi dành cho người nước ngoài
trong cùng hoàn cảnh, trong các vấn đề về sở hữu bất động sản, động sản và
các quyền lợi khác có liên quan đến các vấn đề đó, và trong những vấn đề
liên quan đến thuê mướn và các hợp đồng có quan hệ tới bất động sản và
động sản.

Điều 14. Tác quyền về nghệ thuật và sở hữu trí tuệ

Đối với việc bảo vệ sở hữu công nghiệp, chẳng hạn như các phát minh,
các đồ án thiết kế hay mô hình, các biểu tượng giao dịch, tên giao dịch, và
việc bảo vệ các quyền liên quan đến các tác phẩm văn học, các công trình
75
khoa học và nghệ thuật, người tị nạn sẽ được hưởng sự bảo vệ giống như với
những công dân của quốc gia mà người ấy đang cư trú. Trong lãnh thổ của
một quốc gia thành viên khác của Công ước, người ấy cũng sẽ được ban cấp
sự bảo vệ giống như với những công dân của quốc gia mà người đó đang cư
trú.

Điều 15. Quyền lập hội

Đối với quyền thành lập, tham gia vào các hiệp hội và các nghiệp đoàn
phi chính trị và không vụ lợi thì Các quốc gia thành viên Công ước phải dành
sự đối xử ưu ái ở mức cao nhất đối với những người tị nạn cư trú hợp pháp
trên lãnh thổ của quốc gia mình như họ đã đối xử với những công dân nước
ngoài trong cùng hoàn cảnh.

Điều 16. Quyền tiếp cận với toà án

1- Người tị nạn được quyền tiếp cận tự do với các toà án tư pháp trên
lãnh thổ của tất cả Các quốc gia thành viên Công ước.

2- Người tị nạn phải được đối xử ngang bằng với công dân của nước
mà họ đang cư trú trong những vấn đề liên quan đến việc tiếp cận với toà án,
kể cả việc tiếp cận sự hỗ trợ pháp lý.

3- Người tị nạn ở những quốc gia không phải là quốc gia mà họ đang
cư trú được đối xử giống như những người có quốc tịch của quốc gia mà
người đó đang cư trú, liên quan đến những vấn đề được nói đến trong khoản
2 điều này.

Chương III

VIỆC LÀM MANG LẠI LỢI TỨC

Điều 17. Việc làm công ăn lương

1- Các quốc gia thành viên Công ước phải dành sự đối xử thuận lợi ở
mức cao nhất cho những người tị nạn cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của quốc
gia, tương tự như các điều kiện được dành cho các công dân nước ngoài

76
trong những hoàn cảnh tương tự, liên quan đến quyền tham gia vào các việc
làm công ăn lương.

2- Trong bất kỳ trường hợp nào, các biện pháp hạn chế áp đặt cho
những người nước ngoài hoặc cho công việc của những người nước ngoài để
bảo vệ thị trường lao động trong nước sẽ không được áp dụng với người tị
nạn mà đã được miễn áp dụng những biện pháp hạn chế đó vào thời điểm mà
Công ước này có hiệu lực với quốc gia có liên quan, hoặc những người mà
đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:

a- Đã cư trú ở quốc gia đó 3 năm;

b- Có vợ hoặc chồng mang quốc tịch của quốc gia mà mình đang cư
trú. Người tị nạn không được hưởng lợi thế của điều khoản này nếu như
người đó đã ly hôn.

c- Có một con hoặc nhiều hơn mang quốc tịch của quốc gia mà mình
đang cư trú.

3- Các quốc gia thành viên Công ước sẽ xem xét một cách có thiện
cảm để hợp nhất các quyền của tất cả những người tị nạn liên quan đến việc
làm mang lại lợi tức với các quyền về việc làm của công dân nước họ, và đặc
biệt là víi những người tị nạn đã vào lãnh thổ cña hä theo các chương trình
tuyển mộ lao động hoặc theo các chương trình nhập cư.

Điều 18. Việc làm tự làm chủ

Các quốc gia tham gia Công ước phải đối xử với người tị nạn với sự
thuận lợi trong chừng mực có thể, và trong bất kỳ trường hợp nào cũng
không kém ưu ái hơn so với đối xử với những người nước ngoài trong cùng
hoàn cảnh, về quyền tham gia theo cách tự làm chủ vào các lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại và thành lập các công ty
thương mại, công nghiệp.

Điều 19. Các ngành nghề tự do

77
1- Mỗi quốc gia tham gia Công ước phải công nhận văn bằng của
người tị nạn đang sinh sống hợp pháp trong lãnh thổ của mình khi các văn
bản này đã được các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đó công nhận, và
khi họ có nhu cầu hành nghề tự do thì phải đối xử với họ thuận lợi trong
chừng mực có thể, trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được đối xử với
họ kém ưu ái hơn so với những người nước ngoài trong cùng hoàn cảnh.

2- Các quốc gia thành viên Công ước sẽ sử dụng những cố gắng tối đa
phù hợp với luật pháp và hiến pháp của quốc gia mình để đảm bảo sự định cư
của những người tị nạn trên các lãnh thổ không phải là lãnh thổ độc lập, mà
trong các mối quan hệ quốc tế, các quốc gia đó có trách nhiệm quản lý.

Chương IV

PHÚC LỢI

Điều 20. Khẩu phần

Tại nước nào mà hệ thống phân phối theo nhân khẩu còn được duy trì
mà hệ thống này áp dụng cho phần lớn dân số và điều tiết sự phân phối chung
các sản phẩm cung cấp còn thiếu, thì người tị nạn phải được đối xử giống
như những công dân ở nơi đó.

Điều 21. Nhà ở

Đối với nhà ở, Các quốc gia thành viên Công ước, trong chừng mực
mà vấn đề bị ràng buộc bởi pháp luật hay các quy định hay lệ thuộc vào sự
kiểm soát của các cơ quan nhà nước, sẽ phải đối xử với người tị nạn đang
sinh sống trên lãnh thổ của mình trong một chừng mực ưu ái có thể và, trong
bất kỳ trường hợp nào, cũng không được đối xử với họ ít ưu ái hơn so với
người nước ngoài có cùng hoàn cảnh.

Điều 22. Giáo dục công cộng

1- Các quốc gia thành viên Công ước phải đối xử với người tị nạn
giống như với công dân nước mình trong lĩnh vực giáo dục tiểu học.

78
2- Các quốc gia thành viên Công ước phải đối xử với người tị nạn ưu ái
trong chừng mực có thể và, trong bất kỳ trường hợp nào, cũng không được
đối xử với họ kém ưu ái hơn so với những người nước ngoài có cùng hoàn
cảnh, trong lĩnh vực giáo dục bên ngoài lĩnh vực giáo dục tiểu học, cụ thể đối
với cơ hội tiếp cận với học tập, nghiên cứu, công nhận bằng cấp, chứng chỉ
của các trường học nước ngoài, việc miễn học phí và cấp học bổng.

Điều 23. Cứu trợ của nhà nước

Các quốc gia thành viên Công ước phải đối xử với những người tị nạn
đang sinh sống hợp pháp trong lãnh thổ của họ giống như những công dân
của nước mình trong việc cứu trợ và hỗ trợ của nhà nước.

Điều 24. Luật lao động và an ninh xã hội

Các quốc gia thành viên Công ước phải đối xử với những người tị nạn
đang sinh sống hợp pháp trong lãnh thổ của họ giống như với công dân của
nước mình trong những vấn đề sau đây:

a- Những vấn đề do luật pháp hay các quy định chi phối hay bị lệ thuộc
vào sự kiểm soát của các cơ quan hành chính như: sự trả công, giờ làm việc,
sự thoả thuận làm việc thêm giờ, nghỉ phép được trả lương, tuổi lao động tối
thiểu, thực tập và huấn luyện, công việc của phụ nữ và công việc của thanh
thiếu niên, quyền thoả ước tập thể;

b- An sinh xã hội (các quy định pháp lý liên quan đến trợ cấp tai nạn
nghề nghiệp, các bệnh nghề nghiệp, sinh đẻ, ốm đau, tàn tật, tuổi già, tử
vong, thất nghiệp, trách nhiệm gia đình và bất kỳ một sự rủi ro nào khác mà
theo luật pháp hay quy định của quốc gia đó sÏ được chương trình an sinh xã
hội bảo hiểm), chỉ phụ thuộc vào những hạn chế sau đây:

- Có thể có những thoả thuận phù hợp để duy trì các quyền đã có và
những quyền sẽ có trong quá trình;

- Luật pháp và những quy định của quốc gia mà người tị nạn đang cư
trú có thể quy định những sự thoả thuận đặc biệt liên quan đến các khoản trợ

79
cấp và các phần trợ cấp có thể trả toàn bộ được bằng quỹ của nhà nước, và
liên quan đến những khoản trợ cấp cho những người không hội nhập đủ các
điều kiện đóng góp theo quy định để cấp một khoản lương hưu.

2- Quyền bồi thường cho sự tử vong của người tị nạn do kết quả của
việc bị chấn thương trong khi đang làm việc hay do kết quả của bệnh nghề
nghiệp sẽ không bị ảnh hưởng, cho dù người hưởng lợi cư trú ở ngoài lãnh
thổ của quốc gia tham gia Công ước.

3. Các quốc gia thành viên Công ước phải mở rộng cho những người tị
nạn được hưởng các lợi ích từ những thoả thuận, kể cả những sự thoả thuận
giữa họ, hay những sự thoả thuận có thể được cam kết giữa họ trong tương
lai, liên quan đến việc duy trì những quyền đã có và các quyền sẽ có trong
quan hệ tới vấn đề an sinh xã hội, mµ chỉ bị lệ thuộc vào các điều kiện áp
dụng cho những công dân thuộc các quốc gia ký kết các hiệp định được nói
đến.

4. Các quốc gia thành viên Công ước phải xem xét một cách có thiện
cảm đối với việc mở rộng trong chừng mực có thể cho những người tị nạn
được hưởng những lợi ích của các thoả thuận tương tự mà bất kỳ lúc nào
cũng có thể có hiệu lực giữa Các quốc gia thành viên Công ước và các quốc
gia chưa tham gia Công ước.

Chương V

CÁC BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH

Điều 25. Hỗ trợ hành chính

1- Khi việc thực thi mét quyền của một người tị nạn thông thường cần
sự giúp đỡ của các nhà chức trách nước ngoài mà người tị nạn đã không thể
trông cậy vào sự giúp đỡ của họ được, thì các nước tham gia Công ước mà
người tị nạn đã đang cư trú phải sắp xếp để các cơ quan nước mình hoặc một
cơ quan quốc tế giúp đỡ người đó.

80
2. Cơ quan, hoặc các nhà đương cục được nói đến ở khoản 1 điều này,
sẽ phải chuyển hoặc tác động để chuyển, dưới sự giám sát của mình, tới
những người tị nạn các tài liệu hoặc chứng nhận như đã thường được chuyển
cho người nước ngoài bởi hoặc thông qua các nhà đương cục trong nước.

3- Các tài liệu hoặc chứng nhận được chuyển như vậy sẽ có giá trị như
các văn kiện chính thức được chuyển cho người nước ngoài bởi hoặc thông
qua các nhà đương cục trong nước, và sẽ được tin tưởng ở trong trường hợp
thiếu chứng cứ phản bác.

4- Tuỳ thuộc vào sự đối xử ngoại lệ có thể được ban cấp cho những
người nghèo khổ, cụ thể đặt ra các khoản lệ phí cho những dịch vụ được đề
cập trong điều này, nhưng các khoản lệ phí này phải vừa phải, tương xứng
với những khoản lệ phí thu của công dân trong nước cho những dịch vụ
tương tự.

5. Các điều khoản ghi trong điều này sẽ không làm phương hại đến các
quy định ở các điều 27, 28.

Điều 26. Tự do đi lại

Mỗi quốc gia tham gia Công ước phải cho những người tị nạn đang
sinh sống trong lãnh thổ của mình quyền lựa chọn nơi cư trú và tự do đi lại
trên lãnh thổ nước mình, tuân theo những quy định có thể áp dụng cho những
người nước ngoài có cùng hoàn cảnh.

Điều 27. Thẻ căn cước

Các quốc gia thành viên Công ước phải cấp căn cước cho bất kỳ người
tị nạn nào không có giấy tờ tuỳ thân hợp lệ đang ở trong lãnh thổ quốc gia họ.

Điều 28. Các giấy tờ đi lại

Các quốc gia thành viên Công ước phải cấp cho những người tị nạn
đang sinh sống hợp pháp trong lãnh thổ của họ những giấy tờ để có thể đi ra
ngoài lãnh thổ nước mình, trừ khi các lý do về an ninh quốc gia hay trật tự
công cộng không cho phép, và các điều khoản ghi trong danh mục của Công
81
ước này sẽ được áp dụng theo những giấy tờ đó. Các quốc gia thành viên
Công ước có thể cấp giấy tờ đi lại như vậy cho bất kỳ người tị nạn nào khác
trong lãnh thổ của họ, đặc biệt là họ phải xem xét một cách có thiện cảm việc
cấp phát giấy tờ đi lại như vậy cho những người tị nạn trong lãnh thổ của họ
mà không có khả năng nhận được giấy tờ đi lại từ quốc gia mà họ là công dân
hợp pháp.

2. Các giấy tờ đi lại cấp cho người tị nạn theo các thoả thuận quốc tế
trước đó của các nước thành viên sẽ được Các quốc gia thành viên Công ước
công nhận và đối xử như chúng đã được cấp theo các quy định ghi trong điều
này.

Điều 29. Những chi phí tài chính

1- Các quốc gia thành viên Công ước sẽ không được áp đặt với người tị
nạn những nhiệm vụ, những chi phí hay tiền thuế dưới bất kỳ hình thức nào
mà khác hoặc cao hơn so với những nhiệm vụ, những chi phí hay tiền thuế
được hoặc có thể được thu từ những công dân của nước họ trong những tình
huống tương tự.

2- Không một điểm nào trong đoạn trên liên quan đến người tị nạn có
tác dụng ngăn cản việc áp dụng luật pháp và những quy định liên quan đến
những chi phí cho việc cấp giấy tờ hành chính, kể cả chứng minh thư, cho
những người nước ngoài.

Điều 30. Chuyển dịch tài sản

1- Phù hợp với luật pháp và các quy định của quốc gia mình, một quốc
gia tham gia. Công ước phải cho phép những người tị nạn chuyển dịch những
tài sản mà họ đã mang vào lãnh thổ quốc gia đó sang lãnh thổ một nước khác
mà họ đã được nhận cho tái định cư.

2- Một Các quốc gia thành viên Công ước phải xem xét một cách có
thiện cảm đơn của người tị nạn xin phép chuyển dịch tài sản tới bất kỳ chỗ

82
nào cần thiết cho việc tái định cư ở một quốc gia khác mà họ đã được thu
nhận.

Điều 31. Những người tị nạn sinh sống bất hợp pháp trong quốc gia mà mình
đang tị nạn

1- Cho dù những người tị nạn đi vào hay có mặt bất hợp pháp ở lãnh
thổ quốc gia, Các quốc gia thành viên Công ước cũng không được áp dụng
bất kỳ hình phạt nào đối với những người đến trực tiếp từ một lãnh thổ nơi
mà đời sống và sự tự do của họ bị đe doạ theo khoản 2 điều 1, nếu như họ đi
vào hoặc có mặt trong lãnh thổ của các quốc gia ấy mà không được phép,
miễn là họ trình diện ngay lập tức với nhà đương cục và chỉ ra nguyên nhân
hợp lý cho việc đi vào hay có mặt bất hợp pháp của họ.

2- Các quốc gia thành viên Công ước không được áp dụng những hạn
chế đối với việc đi lại của người tị nạn ấy, trừ những trường hợp cần thiết và
những hạn chế này sẽ chỉ được áp dụng cho đến khi vị thế của họ ở trong
nước được hợp thức hoá, hoặc họ đã được một quốc gia khác thu nhận. Các
quốc gia thành viên Công ước phải cho phép những người tị nạn ấy một
khoảng thời gian hợp lý và tất cả những phương tiện cần thiết để có được sự
thu nhận của quốc gia khác.

Điều 32. Trục xuất

1- Các quốc gia thành viên Công ước không được trục xuất người tị
nạn đang ở một cách hợp pháp trong lãnh thổ của mình, ngoại trừ những lý
do về an ninh quốc gia hay trật tự công cộng.

2- Việc trục xuất một người tị nạn như vậy sẽ phải được quyết định
phù hợp với thủ tục luật pháp. Trừ khi có lý do cấp bách của an ninh quốc gia
yêu cầu, người tị nạn sẽ được phép đệ trình chứng cứ làm sáng tỏ về mình, và
được kháng nghị hay được phép trình bày mục đích này trước nhà đương cục
có thẩm quyền, hay trước một cá nhân hay những cá nhân được nhà đương
cục có thẩm quyền giao đặc trách vấn đề.

83
3- Các quốc gia thành viên Công ước phải cho phép người tị nạn đó
một khoảng thời gian hợp lý để người ấy tìm kiếm sự chấp nhận cho phép
nhập hợp pháp vào một quốc gia khác. Các quốc gia thành viên Công ước có
quyền áp dụng những biện pháp xử lý nội bộ trong thời gian đó, nếu như
những biện pháp đó được xem là cần thiết.

Điều 33. Cấm trục xuất hoặc hồi hương

1- Không một quốc gia nào tham gia Công ước được trục xuất hoặc bắt
người tị nạn hồi hương bằng bất kỳ hình thức nào đến biên giới thuộc những
lãnh thổ nơi mà cuộc sống hay sự tự do của người ấy bị đe doạ vì các lý do
chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, hay vì lý do là thành viên của các nhóm xã hội
nhất định, hay bởi quan điểm chính trị.

2- Tuy nhiên, người tị nạn có thể không được đòi các lợi ích ghi nhận
trong các điều khoản hiện hành, khi có những căn cứ có cơ sở cho thấy coi
người là một mối đe doạ cho nền an ninh của quốc gia nơi mà người đó đang
sống, hoặc sau khi người ấy đã bị kết án về một tội ác đặc biệt nghiêm trọng,
tạo nên nguy cơ cho cộng đồng tại quốc gia đó.

Điều 34. Nhập quốc tịch

Các quốc gia thành viên Công ước, trong chừng mực có thể, phải tạo
điều kiện cho người tị nạn nhập quốc tịch nước mình. Các nước phải cố gắng
hết sức để xúc tiến các hồ sơ xin gia nhập quốc tịch của người tị nạn, và trong
chừng mực có thể, giảm những chi phí cho những hồ sơ đó.

Chương VI

CÁC ĐIỀU KHOẢN THỰC THI

Điều 35. Hợp tác của các nhà đương cục trong nước với Liên Hợp Quốc

1. Các quốc gia thành viên Công ước cam kết hợp tác với Văn phòng
Cao uỷ Liên Hợp Quốc về người tị nạn, hoặc với bất kỳ một cơ quan kế
nhiệm nào khác của Liên Hợp Quốc, trong việc thực hiện các chức năng của

84
các cơ quan này, đặc biệt là phải tạo điều kiện thuận lợi cho công việc giám
sát việc áp dụng các điều khoản của Công ước của các cơ quan này.

2. Để giúp Văn phòng Cao uỷ Liên Hợp Quốc về người tị nạn hoặc bất
kỳ một cơ quan kế nhiệm nào khác có thể viết báo cáo cho các cơ quan có
thẩm quyền của Liên Hợp Quốc, các quốc gia thành viên Công ước cam kết
cung cấp các bản báo cáo theo hình thức phù hợp, có thông tin và các số liệu
thống kê theo yêu cầu, liên quan đến:

a. Điều kiện sống của những người tị nạn

b. Việc thực thi Công ước này, và

c. Luật pháp, những quy định và sắc lệnh đã có hiệu lực liên quan đến
người tị nạn.

Điều 36. Thông tin về luật pháp trong nước

Các quốc gia thành viên Công ước phải thông tin cho Tổng thư ký Liên
Hợp Quốc về pháp luật và những quy định mà họ ban hành nhằm áp dụng
Công ước này.

Điều 37. Quan hệ với các công ước trước đó

Không phương hại đến khoản 2 điều 28 của Công ước này, đối với các
quốc gia thành viên, Công ước này sẽ thay thế các Thoả thuận ngày 5/7/1922,
ngày 31/5/1924, ngày 12/5/1926, ngày 30/6/1928 và ngày 30/7/1935, các
Công ước ngày 28/10/1933 và ngày 10/2/1938, Nghị định thư ngày
14/9/1939 và Thoả thuận ngày 15/10/1946.

Chương VII

CÁC ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG

Điều 38. Giải quyết các tranh chấp

Bất kỳ một sự tranh chấp nào giữa các nước thành viên liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng Công ước mà không thể giải quyết được bằng các

85
biện pháp khác, thì sẽ chuyển đến Toà án Công lý quốc tế để phân xử theo đề
nghị của bất kỳ bên tranh chấp nào.

Điều 39. Ký, phê chuẩn và gia nhập

1- Công ước này sẽ được mở cho các quốc gia ký ở Giơ-ne-vơ ngày
28-7-1951, và sau đó uỷ thác cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Nó sẽ được
để ngỏ cho các quốc gia ký ở Văn phòng Liên Hợp Quốc ở châu Âu từ ngày
28/7 đến 31/8/1951 và sẽ được mở cho các quốc gia ký tại trụ sở Liên Hợp
Quốc từ ngày 17/9/1951 đến 31/12/1952.

2- Công ước này sẽ được mở cho các quốc gia thành viên của các quốc
gia thành viên của Liên Hợp Quốc, và cho bất kỳ một quốc gia nào khác
được mời dự Hội nghị gồm các đại sứ đặc mệnh toàn quyền về vị thế của
người tị nạn và những người không có quốc tịch, ký vào, nếu quốc gia nào
không dự Hội nghị thì sẽ được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc gửi giấy mời ký.

3- Công ước này sẽ được mở từ 28-7-21951 để các quốc gia được nói
đến trong 2 đoạn của điều này phê chuẩn và gia nhập. Việc phê chuẩn và gia
nhập sẽ có hiệu lực bằng cách gửi đơn cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.

Điều 40. Điều khoản áp dụng về lãnh thổ

1- Vào thời điểm ký, phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước, bất kỳ một
quốc gia nào cũng có thể công bố rằng viÖc ¸p dông Công ước sẽ được mở
rộng ra tất cả hoặc bất kỳ lãnh thổ nào mà trong các mối quan hệ quốc tế,
quốc gia ®ã có trách nhiệm quản lý. Chỉ khi Công ước có hiệu lực víi quốc
gia liên quan thì tuyên bố như vậy mới có hiệu lực trên các lãnh thổ đó.

2- Vào bất kỳ thời điểm nào sau đó, sự mở rộng sẽ được thực hiện bằng
cách gửi thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc và thông báo đó sẽ có
hiệu lực sau 19 ngày kể từ ngày Tổng thư ký Liên Hợp Quốc nhận được hoặc
kể từ ngày Công ước có hiệu lực víi quốc gia có liên quan.

3- Đối với những lãnh thổ mà Công ước này chưa được mở rộng tới
vào thời điểm ký, phê chuẩn hoặc gia nhập, thì mỗi quốc gia liên quan sẽ

86
phải xem xét khả năng thực hiện các biện pháp cần thiết để mở rộng việc áp
dụng Công ước này đến những lãnh thổ đó, và ở những nơi cần thiết, do
những lý do hợp hiến, thì việc mở rộng phải được sự chấp thuận của các
chính phủ thuộc các lãnh thổ ấy.

Điều 41. Điều khoản về liên bang

Trong trường hợp quốc gia thành viên của Công ước là một quốc gia
liên bang thì những điều khoản sau đây sẽ được áp dụng:

a- Đối với những điều ghi trong Công ước này nằm trong quyền hạn
pháp luật của cơ quan lập pháp liên bang, thì những nghĩa vụ của chính phủ
liên bang sẽ giống như những nghĩa vụ của chính phủ trong các quốc gia
không phải là liên bang tham gia vào Công ước;

b- Đối với những điều ghi trong Công ước này nằm trong quyền hạn
pháp luật của các tiểu bang hoặc các tỉnh thành viên mà không nằm trong
quyền hạn của hệ thống pháp luËt liên bang, thì vào thời điểm sớm nhất,
chính phủ liên bang sẽ phải chuyển những điều khoản ấy với khuyến nghị
ủng hộ để các cơ quan có thẩm quyền thuộc các tiểu ban hoặc các tỉnh đó
xem xét.

c- Theo đề nghị của bất kỳ quốc gia nào tham gia Công ước được
chuyển qua Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, quốc gia liên bang tham gia Công
ước phải cung cấp một bản tường trình về pháp luật và thông lệ của liên bang
và của các tiểu bang thành viên, liên quan ®Õn bất kỳ điều khoản nào của
Công ước, trong ®ã chỉ ra phạm vi mà hành động pháp luật hoặc bất kỳ một
hoạt động nào khác đã tạo hiệu lực cho điều khoản đó.

Điều 42. Bảo lưu

1- Vào thời điểm ký, phê chuẩn hay gia nhập, bất kỳ quốc gia nào cũng
có thể bảo lưu các điều ghi trong Công ước, trừ các điều 1, 3, 4, 16 (1), 33,
vµ các điều từ 36 đến 46.

87
2- Bất cứ quốc gia nào bảo lưu ý kiến theo đoạn 1 của điều này cũng có
thể rút lui ý kiến của mình vào bất kỳ thời điểm nào bằng cách gửi thông báo
cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.

Điều 43. Hiệu lực của Công ước

1- Công ước này sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 19 sau ngày văn kiện phê
chuẩn hoặc gia nhập thứ 6 được lưu chiểu.

- Đối với các quốc gia phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước sau khi văn
kiện phê chuẩn hoặc gia nhập thứ 6 được lưu chiểu, thì Công ước sẽ có hiệu
lực vào ngày thứ 19 sau ngày văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập của quốc gia
đó được lưu chiểu.

Điều 44. Bãi ước

1- Bất kỳ quốc gia nào tham gia Công ước cũng có thể bãi ước vào bất
kỳ thời điểm nào bằng cách gửi thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.

2- Sự bãi ước này sẽ có hiệu lực đối với quốc gia tham gia Công ước
có liên quan sau mét năm kể từ ngày Tổng thư ký Liên Hợp Quốc nhận được
bản thông báo đó.

3- Bất kỳ quốc gia nào ra tuyên bố hoặc thông báo ở điều 40 cũng có
thể tuyên bố vào bất kỳ thời điểm nào sau đó bằng cách gửi thông báo cho
Tổng thư ký Liên Hợp Quốc rằng Công ước sẽ không mở rộng tới lãnh thổ
đó và tuyên bố đó sẽ có hiệu lực sau mét năm, kể từ ngày Tổng thư ký Liên
Hợp Quốc nhận được bản thông báo.

Điều 45. Xem xét lại các Công ước

1- Bất kỳ quốc gia nào tham gia Công ước cũng có thể đề nghị xem xét
lại Công ước này vào bất kỳ thời điểm nào bằng cách gửi một bản thông báo
cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.

2- Đại hội đồng Liên Hợp Quốc sẽ đề ra biện pháp thực hiện liên quan
đến lời đề nghị đó, nếu cần thiết

88
Điều 46. Những thông báo của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc

- Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ thông báo cho tất cả các quốc gia
thành viên của Liên Hợp Quốc và các quốc gia không phải là thành viên
được nói đến trong điều 39, về:

(a) Những tuyên bố và thông báo theo mục b của điều 1;

(b) Việc ký, phê chuẩn và gia nhập theo điều 39;

(c) Những tuyên bố và thông báo theo mục b của điều 40;

(d) Sự bảo lưu và xin rút bảo lưu theo điều 42;

(e) Ngày Công ước này có hiệu lực theo điều 43;

(f) Những tuyên bố bãi ước và thông báo theo điều 44;

(g) Những yêu cầu xem xét lại Công ước này theo điều 45.

89

You might also like