Professional Documents
Culture Documents
Hệ Thống Văn Bản Pháp Luật Môn Công Pháp Quốc Tế
Hệ Thống Văn Bản Pháp Luật Môn Công Pháp Quốc Tế
THÀNH VIÊN
Điều 3: Những quốc gia đã tham dự hội nghị tại thành phố San Francisco hay là trước đó đã ký vào bản tuyên ngôn Liên hợp
quốc ngày 1-1-1942, nay đã ký và phê chuẩn Hiến chương này theo điều 110, đều là thành viên đầu tiên của Liên hợp quốc.
Điều 4:
1. Tất cả các quốc gia yêu chuộng hoà bình khác thừa nhận những nghĩa vụ quy định trong Hiến chương này và được Liên
hợp quốc xét có đủ khả năng và tự nguyện làm tròn những nghĩa vụ ấy, đều có thể trở thành thành viên của Liên hợp quốc;
2. Việc kết nạp bất cứ một quốc gia nào nói trên vào Liên hợp quốc sẽ được tiến hành bằng nghị quyết của Đại hội đồng,
theo kiến nghị của Hội đồng bảo an;
Điều 5: Nếu thành viên Liên hợp quốc nào bị Hội đồng bảo an áp dụng một biện pháp phòng ngừa hay cưỡng chế thì Đại hội
đồng có quyền, theo kiến nghị của Hội đồng bảo an, đình chỉ việc sử dụng các quyền và ưu đãi của thành viên đó. Việc sử
dụng các quyền ưu đãi đó có thể được Hội đồng bảo an cho phục hồi.
Điều 6: Nếu một thành viên Liên hợp quốc vi phạm một cách có hệ thống những nguyên tắc nêu trong Hiến chương này thì
có thể bị Đại hội đồng khai trừ khỏi Liên hợp quốc, theo kiến nghị của Hội đồng bảo an.
Chương III:
CÁC CƠ QUAN
Điều 7:
Các cơ quan chính của Liên hợp quốc là: Đại hội đồng, Hội đồng bảo an, Hội đồng kinh tế và xã hội, Hội đồng quản thác,
Toà án quốc tế và Ban thư ký;
Những cơ quan giúp việc nếu xét thấy cần thiết, có thể được thành lập phù hợp theo Hiến chương này.
Điều 8: Liên hợp quốc không định ra một sự hạn chế nào đối với nam giới hoặc phụ nữ, trong những điều kiện ngang nhau,
đảm nhiệm mọi chức vụ trong các cơ quan chính và các cơ quan giúp việc của Liên hợp quốc.
Chương IV:
HÀNH ĐỘNG TRONG TRƯỜNG HỢP HOÀ BÌNH BỊ ĐE DOẠ, BỊ PHÁ HOẠI
HOẶC CÓ HÀNH VI XÂM LƯỢC
Điều 39: Hội đồng bảo an xác định thực tại mọi sự đe dọa hoà bình, phá hoại hoà bình hoặc hành vi xâm lược và đưa ra
những kiến nghị hoặc quyết định các biện pháp nào nên áp dụng phù hợp với các điều 41 và 42 để duy trì hoặc khôi phục
hoà bình và an ninh quốc tế.
Điều 40: Để ngăn chặn tình thế trở nên nghiêm trọng hơn, Hội đồng bảo an có thẩm quyền, trước khi đưa ra những kiến nghị
hoặc quyết định áp dụng các biện pháp ghi tại điều 39, yêu cầu các bên đương sự thi hành các biện pháp tạm thời mà Hội
đồng Bản an xét thấy cần thiết hoặc nên làm. Những biện pháp tạm thời đó phải không phương hại gì đến các quyền, nguyện
vọng hoặc tình trạng của các bên hữu quan. Trong trường hợp các biện pháp tạm thời ấy không được thi hành, Hội đồng bảo
an phải lưu ý thích đáng đến việc không thi hành những biện pháp tạm thời ấy.
Điều 41: Hội đồng bảo an có thẩm quyền quyết định những biện pháp nào phải được áp dụng mà không sử dụng vũ lực để
thực hiện các nghị quyết của Hội đồng, và có thể yêu cầu các thành viên của Liên hợp quốc áp dụng những biện pháp ấy.
Các biện pháp này có thể là cắt đứt toàn bộ hay từng phần quan hệ kinh tế, đường sắt, đường biển, hàng không, bưu chính,
điện tín, vô tuyến điện và các phương tiện thông tin khác, kể cả việc cắt đứt quan hệ ngoại giao.
Điều 42: Nếu Hội đồng bảo an nhận thấy những biện pháp nói ở điều 41 là không thích hợp, hoặc tỏ ra là không thích hợp,
thì Hội đồng bảo an có quyền áp dụng mọi hành động của hải, lục, không quân mà Hội đồng bảo an xét thấy cần thiết cho
việc duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế. Những hành động này có thể là những cuộc biểu dương lực lượng,
phong toả và những cuộc hành quân khác, do các lực lượng hải, lục, không quân của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc
thực hiện.
Điều 43:
1. Để góp phần vào việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, theo yêu cầu của Hội đồng bảo an và phù hợp với những thỏa
thuận đặc biệt hoặc các thỏa thuận cần thiết cho việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, tất cả các quốc gia thành viên Liên
hợp quốc có nghĩa vụ cung cấp cho Hội đồng bảo an những lực lượng vũ trang, sự yểm trợ, và mọi phương tiện khác, kể cả
cho quân đội Liên hợp quốc qua lãnh thổ của mình.
2. Những thỏa thuận nói trên sẽ ấn định số lượng và binh chủng quân đội, mức độ chuẩn bị, sự bố trí và tính chất các phương
tiện dịch vụ và giúp đỡ trang bị cho quân đội này.
3. Các cuộc đàm phán về ký kết một hay những thỏa thuận nói trên sẽ được tiến hành trong thời gian càng sớm càng tốt, theo
sáng kiến của Hội đồng bảo an. Các điều ước này sẽ được ký kết giữa Hội đồng bảo an với những thành viên của Liên hợp
quốc và phải được các quốc gia ký kết phê chuẩn theo quy định trong Hiến pháp của từng quốc gia.
Điều 44: Khi Hội đồng bảo an đã quyết định dùng vũ lực, thì trước khi yêu cầu một thành viên có đại diện ở Hội đồng bảo
an cung cấp các lực lượng vũ trang để thi hành những nghĩa vụ đã cam kết theo điều 43, Hội đồng bảo an phải mời thành
viên đó, nếu họ muốn, tham gia việc định ra những nghị quyết của Hội đồng bảo an về sử dụng lực lượng vũ trang của thành
viên ấy.
Điều 45: Với mục đích đảm bảo cho Liên hợp quốc có thể áp dụng những biện pháp quân sự khẩn cấp, các thành viên phải
đặt một số phi đội không quân vào tư thế sẵn sàng chiến đấu nhằm phối hợp các hành động quốc tế có tính chất cưỡng chế.
Số lượng, mức độ chuẩn bị và kế hoạch phối hợp hành động của các phi đội này sẽ được Hội đồng bảo an, với sự giúp đỡ
của Ủy ban tham mưu quân sự, ấn định theo những thỏa thuận đặc biệt nói ở điều 43.
Điều 46: Những kế hoạch sử dụng lực lượng vũ trang sẽ do Hội đồng bảo an đề ra với sự giúp đỡ của Ủy ban tham mưu
quân sự.
Điều 47:
1. Ủy ban tham mưu quân sự được thành lập làm tư vấn và giúp Hội đồng bảo an để duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, về
việc sử dụng và chỉ huy những lực lượng quân sự đặt dưới quyền điều hành của Hội đồng bảo an, cũng như về vấn đề hạn
chế vũ trang và giải trừ quân bị.
2. Ủy ban tham mưu quân sự gồm có các tham mưu trưởng của các Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an hay đại diện của
các tham mưu trưởng ấy. Ủy ban tham mưu quân sự có thể mời bất cứ thành viên nào của Liên hợp quốc không có đại diện
thường trực trong Ủy ban hợp tác với mình, khi xét thấy cần thiết có sự tham gia của thành viên này vào trong công việc của
Ủy ban, để Ủy ban tham mưu thực hiện được nhiệm vụ của mình.
3. Dưới quyền của Hội đồng bảo an, Ủy ban tham mưu quân sự chịu trách nhiệm về việc chỉ huy chiến lược tất cả những lực
lượng vũ trang thuộc quyền điều hành của Hội đồng bảo an. Những vấn đề về việc chỉ huy các lực lượng ấy sẽ được quy
định cụ thể sau.
4. Ủy ban tham mưu quân sự, theo sự đồng ý của Hội đồng bảo an và sau khi tham khảo ý kiến của các tổ chức, khu vực hữu
quan, có thể lập ra các tiểu ban khu vực.
Điều 48:
1. Những hành động cần thiết cho việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng bảo an để duy trì hoà bình và an ninh quốc
tế sẽ do tất cả các thành viên hay một số thành viên của Liên hợp quốc áp dụng tùy theo nhận định của Hội đồng bảo an.
2. Những nghị quyết ấy sẽ do các thành viên của Liên hợp quốc trực tiếp thi hành hay thi hành bằng những hành động của họ
trong các tổ chức quốc tế hữu quan mà họ là thành viên.
Điều 49: Các thành viên Liên hợp quốc cần phải hợp tác tương trợ lẫn nhau trong việc thi hành các biện pháp đã được Hội
đồng bảo an quyết định.
Điều 50: Nếu Hội đồng bảo an áp dụng những biện pháp đề phòng hoặc cưỡng bức với một quốc gia nào đó, bất cứ một
quốc gia nào khác dù là thành viên của Liên hợp quốc hay không, nếu gặp khó khăn đặc biệt về kinh tế, do sự thi hành
những biện pháp nói trên gây ra, có quyền đề xuất lên Hội đồng bảo an về việc giải quyết những khó khăn ấy.
Điều 51: Không có một điều khoản nào trong Hiến chương này làm tổn hại đến quyền tự vệ cá nhân hay tập thể chính đáng
trong trường hợp thành viên Liên hợp quốc bị tấn công vũ trang cho đến khi Hội đồng bảo an chưa áp dụng được những biện
pháp cần thiết để duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Những biện pháp mà các thành viên Liên hợp quốc áp dụng trong việc
bảo vệ quyền tự vệ chính đáng ấy phải được báo ngay cho Hội đồng bảo an và không được gây ảnh hưởng gì đến quyền hạn
và trách nhiệm của Hội đồng bảo an, chiểu theo Hiến chương này, đối với việc Hội đồng bảo an áp dụng bất kỳ lúc nào
những hành động mà Hội đồng thấy cần thiết để duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế.
Chương VIII:
TÒA ÁN QUỐC TẾ
Điều 92: Tòa án quốc tế là cơ quan tư pháp chính của Liên hợp quốc. Tòa án này hoạt động theo một qui chế xây dựng trên
cơ sở qui chế của Tòa án quốc tế thường trực. Qui chế của Tòa án quốc tế kèm theo Hiến chương này là một bộ phận cấu
thành của Hiến chương.
Điều 93:
1. Tất cả những thành viên Liên hợp quốc đương nhiên tham gia qui chế Tòa án quốc tế.
2. Những quốc gia không phải là thành viên Liên hợp quốc có thể tham gia qui chế Tòa án quốc tế với những điều kiện do
Đại hội đồng qui định, theo kiến nghị của Hội đồng bảo an trong từng trường hợp một.
Điều 94:
1. Một thành viên Liên hợp quốc cam kết tuân theo phán quyết của Tòa án quốc tế trong mọi vụ tranh chấp mà thành viên ấy
là đương sự.
2. Nếu một bên đương sự trong một vụ tranh chấp không thi hành những nghĩa vụ mà họ phải chấp hành theo phán quyết của
Tòa án, thì bên kia có thể khiếu nại với Hội đồng bảo an. Hội đồng bảo an nếu thấy cần thiết có thể có kiến nghị hoặc quyết
định những biện pháp để làm cho phán quyết này được chấp hành.
Điều 95: Không có điều khoản nào của Hiến chương này ngăn cản những thành viên Liên hợp quốc đưa những vụ tranh
chấp của họ ra xét xử trước các tòa án khác, chiếu theo những điều ước hiện có, hoặc có thể được ký kết sau này.
Điều 96:
1. Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an có thể hỏi ý kiến của Tòa án quốc tế về mọi vấn đề pháp lý. Ý kiến của Tòa án quốc tế
không có tính cách ràng buộc hay Hội đồng bảo an.
2. Tất cả các cơ quan khác của Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn, trong một lúc nào đó, được Đại hội đồng cho
phép cũng có quyền hỏi ý kiến Tòa án quốc tế về những vấn đề pháp lý có thể đặt ra trong phạm vi hoạt động của họ. Ý kiến
ấy cũng không ràng buộc các cơ quan và tổ chức ấy.
Chương XV:
BAN THƯ KÝ
Điều 97: Ban thư ký có một Tổng thư ký và một số nhân viên tùy theo nhu cầu của Liên hợp quốc. Tổng thư ký do Đại hội
đồng bổ nhiệm, theo kiến nghị của Hội đồng bảo an. Tổng thư ký là viên chức cao cấp nhất của tổ chức Liên hợp quốc.
Điều 98: Tổng thư ký hoạt động với tư cách đó trong tất cả các cuộc họp của Đại hội đồng, của Hội đồng bảo an, Hội đồng
kinh tế và xã hội và của hdqt. Tổng thư ký trình Đại hội đồng bản báo cáo hàng năm về hoạt động của Liên hợp quốc.
Điều 99: Tổng thư ký có thể lưu ý Hội đồng bảo an đến mọi việc, theo ý kiến mình, có thể đe dọa việc duy trì hòa bình và an
ninh quốc tế.
Điều 100:
1. Trong khi chấp hành nhiệm vụ, Tổng thư ký và các nhân viên không được thỉnh cầu hay chấp nhận những chỉ thị của bất
cứ một Chính phủ nào hoặc của một nhà chức trách nào ngoài Liên hợp quốc. Tổng thư ký và các nhân viên sẽ tránh mọi
hành động trái với địa vị viên chức quốc tế của họ và chỉ chịu trách nhiệm trước Liên hợp quốc.
2. Mỗi thành viên Liên hợp quốc cam kết tôn trọng tính chất đặc biệt quốc tế của những chức vụ của Tổng thư ký và của các
nhân viên và không tìm cách làm ảnh hưởng đến họ trong khi họ thừa hành nhiệm vụ của mình.
Điều 101:
1. Tổng thư ký bổ nhiệm các nhân viên của mình theo những qui chế do Đại hội đồng ấn định.
2. Một số nhân viên riêng biệt được bổ nhiệm để phục vụ một cách thường xuyên cho Hội đồng kinh tế và xã hội, Hội đồng
quản thác và nếu cần cho các cơ quan khác của Liên hợp quốc. Số nhân viên ấy thuộc biên chế của Ban thư ký.
3. Điều chủ yếu trong việc tuyển dụng và trong việc qui định điều kiện sử dụng nhân viên phải là sự cần thiết đảm bảo cho
Liên hợp quốc có những người phục vụ có nhiều khả năng về công tác, có tài năng và sự liêm khiết. Phải chú ý một cách
thích đáng đến tầm quan trọng của việc tuyển dụng nhân viên trên một cơ sở địa lý càng rộng rãi càng tốt.
Chương XVI:
PHẦN MỞ ĐẦU
Điều 1. Phạm vi của Công ước này
Công ước này áp dụng cho các điều ước giữa các quốc gia.
Điều 2. Những thuật ngữ được sử dụng
1. Theo mục đích của Công ước này
a) Thuật ngữ “điều ước” dùng để chỉ một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật
quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và
với bất kể tên gọi riêng của nó là gì.
b) Những thuật ngữ “phê chuẩn”, “chấp thuận”, “phê duyệt”, “gia nhập” dùng để chỉ, tùy từng trường hợp, một hành vi quốc
tế của quốc gia, như tên vừa kể, theo đó quốc gia xác nhận sự đồng ý của mình, trên phương diện quốc tế, chịu sự ràng buộc
của một điều ước.
c) Thuật ngữ “thư ủy quyền” dùng để chỉ một văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm của một quốc gia chỉ định một hoặc
nhiều người để thay mặt mình trong việc đàm phán, thông qua hoặc xác thực văn bản của một điều ước để ghi nhận sự đồng
ý của quốc gia mình chịu sự ràng buộc của một điều ước hoặc để thi hành mọi công việc khác có liên quan tới một điều ước.
d) Thuật ngữ “bảo lưu” dùng để chỉ một tuyên bố đơn phương, bất kể cách viết hoặc tên gọi như thế nào, của một quốc gia
đưa ra khi ký kết, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập một điều ước, nhằm qua đó loại bỏ hoặc sửa đổi hiệu lực
pháp lý của một số quy định của điều ước trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia đó.
e) Thuật ngữ “quốc gia tham gia đàm phán” dùng để chỉ một quốc gia đã tham gia vào việc soạn thảo và thông qua văn bản
của điều ước.
f) Thuật ngữ “quốc gia ký kết” dùng để chỉ một quốc gia đã đồng ý chịu sự ràng buộc của điều ước, dù điều ước đã có hiệu
lực hay chưa có hiệu lực.
g) Thuật ngữ “một bên” dùng để chỉ một quốc gia đã đồng ý chịu sự ràng buộc của điều ước và đối với quốc gia này điều
ước có hiệu lực.
h) Thuật ngữ “quốc gia thứ ba” dùng để chỉ một quốc gia không phải là một bên của điều ước.
i) Thuật ngữ “tổ chức quốc tế” dùng để chỉ một tổ chức liên chính phủ.
2. Những quy định của khoản 1 về những thuật ngữ được sử dụng trong Công ước này được hiểu không phương hại đến việc
sử dụng những thuật ngữ đó, đến nghĩa mà những thuật ngữ này có thể có trong pháp luật trong nước của mỗi quốc gia.
Điều 3. Những hiệp định quốc tế không thuộc phạm vi của Công ước này.
Việc Công ước này không áp dụng đối với các hiệp định quốc tế được ký kết giữa các quốc gia và các chủ thể khác của pháp
luật quốc tế, hoặc giữa các chủ thể khác của pháp luật quốc tế với nhau, cũng như không áp dụng đối với những hiệp định
quốc tế không thành văn, sẽ không phương hại gì đến.
a) Giá trị pháp lý của các hiệp định đó;
b) Việc áp dụng tất cả các quy tắc nêu trong Công ước này đối với các Hiệp định nói trên; các Hiệp định này sẽ phải tuân thủ
các quy tắc đó, theo tinh thần của pháp luật quốc tế mà không phụ thuộc vào Công ước này;
c) Việc áp dụng Công ước này đối với các quan hệ giữa các quốc gia được những hiệp định quốc tế điều chỉnh, trong đó có
cả sự tham gia của các chủ thể của pháp luật quốc tế vào các hiệp định đó.
Điều 4. Tính chất không hồi tố của Công ước này
Không làm phương hại đến việc áp dụng các quy tắc ghi trong Công ước này mà theo đó các điều ước được pháp luật quốc
tế điều chỉnh không phụ thuộc vào Công ước này. Công ước này chỉ áp dụng đối với các điều ước đã được ký kết giữa các
quốc gia sau khi Công ước này có hiệu lực đối với các quốc gia đó.
Điều 5. Những điều ước về việc thành lập tổ chức quốc tế và những điều ước được thông qua trong một tổ chức quốc
tế
Công ước này áp dụng đối với tất cả các điều ước là văn kiện thành lập một tổ chức quốc tế và đối với tất cả các điều ước
được thông qua trong một tổ chức quốc tế, không làm phương hại đến các quy tắc riêng của tổ chức quốc tế đó.
Phần II.
VIỆC TÔN TRỌNG, THI HÀNH VÀ GIẢI THÍCH CÁC ĐIỀU ƯỚC
Tiết 1. VIỆC TÔN TRỌNG CÁC ĐIỀU ƯỚC
Điều 26. Pacta sunt servanda
Mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia và phải được các bên thi hành với thiện chí.
Điều 27. Pháp luật trong nước và việc tôn trọng các điều ước
Một bên không thể viện dẫn những quy định của pháp luật trong nước của mình làm lý do cho việc không thi hành một điều
ước. Quy tắc này không phương hại gì đến các quy định của Điều 46.
Tiết 2. VIỆC THI HÀNH CÁC ĐIỀU ƯỚC
Điều 28. Tính không hồi tố của các điều ước
Những quy định của một điều ước sẽ không ràng buộc đối với các bên về mọi hành vi hay sự kiện xảy ra trước ngày điều
ước đó có hiệu lực, trừ khi có một ý định khác xuất phát từ điều ước hoặc được thể hiện bằng một cách khác.
Điều 29. Phạm vi lãnh thổ thi hành các điều ước
Một điều ước sẽ ràng buộc mỗi bên trong phạm vi toàn lãnh thổ của bên đó, trừ khi có một ý định khác xuất phát từ điều ước
hoặc thể hiện bằng một cách khác.
Điều 30. Việc thi hành một điều ước kế tiếp về cùng một vấn đề
1. Không phương hại đến các quy định của Điều 103 Hiến chương Liên hiệp quốc, những quyền và nghĩa vụ của các quốc
gia tham gia các điều ước về cùng một vấn đề sẽ được xác định phù hợp với các khoản dưới đây:
2. Khi một điều ước quy định rõ rằng nó phụ thuộc vào hoặc không được xem là mâu thuẫn với một điều ước đã có trước đó
hoặc sẽ có sau đó thì những quy định của điều ước có trước hoặc sau đó sẽ có giá trị.
3. Khi tất cả các bên tham gia điều ước trước cũng là các bên của điều ước sau, mà điều ước trước không thể bị coi là chấm
dứt hoặc tạm đình chỉ việc thi hành chiểu theo Điều 59, thì điều ước trước sẽ chỉ được thi hành trong chừng mực mà các quy
định của nó phù hợp với các quy định của điều ước sau.
4. Khi không phải tất cả các bên tham gia điều ước trước đều tham gia điều ước sau:
a) Trong quan hệ giữa các quốc gia tham gia cả hai điều ước, quy tắc áp dụng là quy tắc được nêu ra ở khoản 3;
b) Trong quan hệ giữa một quốc gia tham gia cả hai điều ước và một quốc gia chỉ tham gia một trong hai điều ước đó, thì các
quyền và nghĩa vụ tương hỗ giữa họ sẽ được điều chỉnh bởi điều ước mà trong đó cả hai đều là thành viên.
5. Khoản 4 được áp dụng không phương hại đến các quy định của Điều 41, hoặc đến vấn đề chấm dứt hoặc tạm đình chỉ việc
thi hành một điều ước chiểu theo Điều 60, hoặc đến vấn đề trách nhiệm của một quốc gia có thể phát sinh từ việc ký kết hay
thi hành một điều ước mà những quy định của nó là mâu thuẫn với những nghĩa vụ đã cam kết đối với quốc gia khác theo
một điều ước khác.
Tiết 3. VIỆC GIẢI THÍCH ĐIỀU ƯỚC
Điều 31. Quy tắc chung về việc giải thích
1. Một điều ước cần được giải thích với thiện chí phù hợp với nghĩa thông thường được nêu đối với những thuật ngữ của
điều ước trong nguyên bản của chúng và chú trọng đến đối tượng và mục đích của điều ước.
2. Phần nội dung để giải thích một điều ước, ngoài chính nội dung văn bản, gồm lời nói đầu và các phụ lục, sẽ bao gồm:
a) Mọi thỏa thuận liên quan đến điều ước đã được tất cả các bên tham gia tán thành trong dịp ký kết điều ước;
b) Mọi văn kiện do một hoặc nhiều bên đưa ra trong dịp ký kết điều ước và được các bên khác chấp thuận là một văn kiện có
liên quan đến điều ước.
3. Cùng với nội dung văn bản, sẽ phải tính đến:
a) Mọi thỏa thuận sau này giữa các bên về việc giải thích điều ước hoặc về việc thi hành các quy định của điều ước;
b) Mọi thực tiễn sau này trong khi thực hiện điều ước được các bên thỏa thuận liên quan đến việc giải thích điều ước;
c) Mọi quy tắc thích hợp của pháp luật quốc tế áp dụng trong các quan hệ giữa các bên.
4. Một thuật ngữ sẽ được hiểu với nghĩa riêng biệt nếu có sự xác định rằng đó là ý định của các bên.
Điều 32. Những cách giải thích bổ sung
Có thể dựa thêm vào những cách giải thích bổ sung, kể cả những công việc trù bị điều ước và hoàn cảnh ký kết điều ước,
nhằm khẳng định nghĩa theo như việc thi hành Điều 31, hoặc để xác định nghĩa khi giải thích phù hợp với Điều 31:
a) Khi nghĩa là mập mờ hay khó hiểu; hoặc
b) Khi dẫn đến một kết quả rõ ràng là phi lý hay không hợp lý.
Điều 33. Việc giải thích các điều ước được xác thực bằng hai hay nhiều ngôn ngữ.
1. Khi một điều ước được xác thực bằng hai hay nhiều ngôn ngữ, văn bản trong mỗi ngôn ngữ đều có giá trị như nhau, trừ
khi điều ước có quy định khác hoặc các bên đồng ý trong trường hợp có sự khác biệt thì chỉ một văn bản nhất định có giá trị.
2. Bản dịch một điều ước sang một ngôn ngữ khác với một trong những ngôn ngữ mà văn bản đã được xác thực sẽ chỉ được
xem là văn bản xác thực nếu điều ước có quy định như vậy hoặc các bên đã thỏa thuận như vậy.
3. Các thuật ngữ của một điều ước xác định là có cùng một nghĩa trong những văn bản xác thực.
4. Trừ trường hợp theo đó một văn bản nhất định có giá trị trội hơn, phù hợp các quy định của khoản 1, khi việc so sánh các
văn bản đã được xác thực cho thấy có một sự khác biệt về nghĩa mà việc áp dụng các Điều 31 và 32 không thể giải quyết
được thì người ta sẽ áp dụng nghĩa nào phù hợp một cách tốt nhất với các văn bản đó, có tính đến đối tượng và mục đích của
điều ước.
Tiết 4. CÁC ĐIỀU ƯỚC VÀ CÁC QUỐC GIA THỨ BA
Điều 34. Quy tắc chung đối với các quốc gia thứ ba
Một điều ước không tạo ra nghĩa vụ hay quyền hạn nào cho một quốc gia thứ ba, nếu không có sự đồng ý của quốc gia đó.
Điều 35. Các điều ước quy định nghĩa vụ cho các quốc gia thứ ba
Một nghĩa vụ sẽ phát sinh cho một quốc gia thứ ba theo một quy định của một điều ước nếu các bên tham gia điều ước đồng
ý đặt ra nghĩa vụ thông qua quy định này và nếu quốc gia thứ ba chấp thuận rõ ràng nghĩa vụ đó bằng văn bản.
Điều 36. Các điều ước quy định quyền cho các quốc gia thứ ba
1. Một quyền sẽ phát sinh cho một quốc gia thứ ba theo một quy định của một điều ước nếu các bên tham gia điều ước đồng
ý trao quyền đó cho quốc gia thứ ba hoặc cho một nhóm quốc gia trong đó có quốc gia thứ ba hoặc cho tất cả các quốc gia và
nếu quốc gia thứ ba đó đồng ý. Sự đồng ý được cho là kéo dài chừng nào không có dấu hiệu gì trái lại trừ khi điều ước có
quy định khác.
2. Một quốc gia, khi thực hiện một quyền phù hợp với Khoản 1, phải tuân thủ các điều kiện cho việc thi hành quyền đó được
quy định trong điều ước hoặc được xác định là phù hợp với điều ước.
Điều 37. Hủy bỏ hoặc sửa đổi các quyền hoặc nghĩa vụ của các quốc gia thứ ba.
1. Trong trường hợp một nghĩa vụ phát sinh cho một quốc gia thứ ba chiểu theo Điều 35, thì nghĩa vụ đó sẽ không thể bị hủy
bỏ hoặc sửa đổi nếu không có sự đồng ý của các bên tham gia điều ước và của quốc gia thứ ba, trừ khi có sự thể hiện rõ ràng
rằng có thỏa thuận khác có liên quan.
2. Trong trường hợp một quyền phát sinh cho một quốc gia thứ ba chiểu theo Điều 36, thì quyền đó không thể bị hủy bỏ
hoặc sửa đổi bởi các bên nếu không có sự thể hiện rõ là có ý định theo đó quyền này không thể bị hủy bỏ hoặc sửa đổi mà
không có sự đồng ý của quốc gia thứ ba.
Điều 38. Các quy tắc của một điều ước trở thành ràng buộc đối với quốc gia thứ ba thông qua một tập quán quốc tế.
Không có một quy định nào trong các Điều 34 và 37 chống lại việc một quy tắc được nêu ra trong một điều ước trở thành
ràng buộc đối với một quốc gia thứ ba với tính chất là một quy tắc tập quán của pháp luật quốc tế khi nó được thừa nhận như
vậy.
Phần IV.
SỰ VÔ HIỆU, CHẤM DỨT VÀ TẠM ĐÌNH CHỈ VIỆC THI HÀNH ĐIỀU ƯỚC
Tiết 1. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 42. Hiệu lực và việc duy trì hiệu lực của các điều ước
1. Giá trị hiệu lực của một điều ước hoặc của sự đồng ý của một quốc gia chịu sự ràng buộc của một điều ước sẽ không thể
bị bác bỏ nếu không phải là thông qua việc áp dụng Công ước này.
2. Việc chấm dứt, từ bỏ hoặc rút khỏi một điều ước của một bên sẽ không thể có cơ sở nếu không phải là kết quả của việc áp
dụng các quy định của điều ước đó hoặc của Công ước này. Quy định này cũng được áp dụng đối với tạm đình chỉ việc thi
hành một điều ước.
Điều 43. Những nghĩa vụ do luật quốc tế áp đặt không phụ thuộc vào một điều ước
Sự vô hiệu, chấm dứt hoặc từ bỏ một điều ước, việc một bên rút khỏi tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước một khi là kết
quả của việc áp dụng các quy định của điều ước đó hoặc của các quy định của Công ước này, sẽ hoàn toàn không làm tổn hại
đến nhiệm vụ phải thi hành mọi nghĩa vụ nêu trong điều ước được luật quốc tế quy định không phụ thuộc vào điều ước đó.
Điều 44. Tính không thể phân chia của các quy định của một điều ước
1. Quyền của một bên, theo quy định của một điều ước hoặc được suy ra từ Điều 56, cho việc rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc
thi hành điều ước đó sẽ không thể được thực thi nếu không phải là đối với toàn bộ điều ước, trừ khi điều ước đó có quy định
khác hoặc các bên có thỏa thuận khác.
2. Một lý do làm vô hiệu hoặc chấm dứt một điều ước, cho việc rút khỏi của một trong các bên hoặc làm tạm đình chỉ việc
thi hành điều ước sẽ không thể được nêu lên nếu không phải là đối với toàn bộ điều ước, trừ những trường hợp được quy
định trong các khoản dưới đây hoặc tại Điều 60.
3. Nếu lý do trên đây chỉ nhằm vào một số điều khoản nhất định, thì không thể được nêu lên nếu không phải là đối với
những điều khoản đó khi:
a) Những điều khoản này tách khỏi phần còn lại của điều ước trong việc thi hành chúng;
b) Xuất phát từ điều ước hoặc thể hiện bằng một hình thức rõ ràng bằng việc chấp thuận những điều khoản đó không phải là
cơ sở chủ yếu cho sự đồng ý của một hoặc các bên tham gia điều ước chịu sự ràng buộc của toàn bộ điều ước; và
c) Việc duy trì thi hành phần còn lại của điều ước không phải là sự bất công.
4. Trong những trường hợp quy định tại các Điều 49 và 50, quốc gia có quyền nêu lên sự man trá hoặc việc mua chuộc, nhận
hối lộ đối với toàn bộ điều ước hoặc trong trường hợp quy định tại khoản 3, chỉ đối với một số điều khoản nhất định.
5. Đối với những trường hợp quy định tại các điều 51, 52 và 53 sẽ không chấp nhận sự phân chia các quy định của một điều
ước.
Điều 45. Việc mất quyền nêu lên lý do làm vô hiệu, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước
Một quốc gia sẽ không còn có thể nêu lên lý do làm mất hiệu lực một điều ước, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc thi
hành điều ước đó theo tinh thần của những quy định của các điều từ Điều 46 đến Điều 50 hoặc của các Điều 60 và 62, nếu,
sau khi biết rõ các sự kiện, quốc gia đó vẫn:
a) Chấp thuận một cách rõ ràng rằng điều ước, tùy từng trường hợp, là có giá trị, còn hiệu lực hoặc tiếp tục việc thi hành điều
ước đó; hoặc
b) Biểu hiện thái độ, tùy từng trường hợp, phải được xem là họ đã chấp thuận là điều ước vẫn có giá trị, tiếp tục có hiệu lực
hoặc tiếp tục được thi hành.
Tiết 2. SỰ VÔ HIỆU CỦA CÁC ĐIỀU ƯỚC
Điều 46. Các quy định của luật trong nước về thẩm quyền ký kết các điều ước
1. Việc một quốc gia đồng ý chịu sự ràng buộc của một điều ước được thể hiện trái với một quy định của luật trong nước về
thẩm quyền ký kết điều ước sẽ không thể được nêu lên như là một khiếm khuyết của việc đồng ý của họ, trừ khi sự vi phạm
đó là quá rõ ràng và liên quan đến một quy phạm có tính chất cơ bản của luật trong nước của quốc gia đó.
2. Một vi phạm là quá rõ ràng nếu vi phạm đó thể hiện một cách khách quan đối với mọi quốc gia khi xử trí về vấn đề này là
phù hợp với thực tế thông thường và với thiện chí.
Điều 47. Việc hạn chế đặc biệt quyền bày tỏ sự đồng ý của một quốc gia
Nếu những quyền của một đại diện cho việc thể hiện sự đồng ý của quốc gia đó chịu sự ràng buộc của một điều ước là đối
tượng của một sự hạn chế đặc biệt, thì việc không tôn trọng của đại diện đó đối với những hạn chế đó sẽ không thể được
quốc gia đó nêu lên như là một khiếm khuyết của sự đồng ý, trừ khi việc hạn chế ấy đã được thông báo cho các quốc gia
khác tham gia đàm phán trước khi bày tỏ sự đồng ý đó.
Điều 48. Sai lầm
1. Một quốc gia có thể nêu lên một sai lầm trong một điều ước như là một khiếm khuyết của sự đồng ý của mình chịu sự
ràng buộc của một điều ước, nếu sự sai lầm liên quan đến một sự kiện hay một hoàn cảnh mà quốc gia đó cho là đã tồn tại và
thời điểm điều ước được ký kết và được xem là một cơ sở chủ yếu của sự đồng ý của mình chịu sự ràng buộc của điều ước.
2. Khoản 1 sẽ không được áp dụng nếu quốc gia đề cập đã góp phần vào sai lầm đó bằng thái độ xử sự của mình khi những
hoàn cảnh đặc biệt đó đã ở mức độ làm cho quốc gia đó phải lưu ý về khả năng xảy ra sai lầm.
3. Một sai lầm chỉ liên quan đến soạn thảo văn bản của một điều ước sẽ không ảnh hưởng đến giá trị hiệu lực của nó; trong
trường hợp sẽ áp dụng Điều 79.
Điều 49. Man trá
Nếu một quốc gia đi đến quyết định ký kết một điều ước do việc xử sự dối trá của một quốc gia tham gia đàm phán khác, thì
quốc gia đó có thể nêu lên sự man trá này như là khiếm khuyết của sự đồng ý của mình chịu sự ràng buộc của điều ước.
Điều 50. Việc mua chuộc, nhận hối lộ đại diện của quốc gia
Nếu việc bày tỏ sự đồng ý của một quốc gia chịu sự ràng buộc của một điều ước đạt được bằng việc mua chuộc, nhận hối lộ
của đại diện của mình, gây ra do hành vi trực tiếp hay gián tiếp của quốc gia tham gia đàm phán khác, thì quốc gia đó có thể
nêu lên sự tham nhũng này như là một khiếm khuyết của sự đồng ý của mình chịu sự ràng buộc của điều ước.
Điều 51. Sự cưỡng ép đối với đại diện của một quốc gia
Việc bày tỏ sự đồng ý của một quốc gia chịu sự ràng buộc của một điều ước đạt được do sự cưỡng ép đối với đại diện của
quốc gia đó bằng những hành động hay sự đe dọa đối với người đó, sẽ hoàn toàn không có giá trị pháp lý.
Điều 52. Sự cưỡng ép đối với một quốc gia bằng việc đe dọa hay sử dụng vũ lực
Mọi điều ước, mà việc ký kết đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực trái với những nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã
được ghi trong Hiến chương Liên hiệp quốc, đều là vô hiệu.
Điều 53. Các điều ước xung đột với một quy phạm bắt buộc của pháp luật quốc tế chung
Mọi điều ước mà khi được ký kết xung đột với một quy phạm bắt buộc của pháp luật quốc tế chung đều là vô hiệu. Nhằm
mục đích của Công ước này, một quy phạm bắt buộc của pháp luật quốc tế chung là một quy phạm được toàn thể cộng đồng
các quốc gia chấp thuận và công nhận là một quy phạm không thể vi phạm và chỉ có thể sửa đổi bằng một quy phạm mới
khác của pháp luật quốc tế chung có cùng tính chất.
Tiết 3. VIỆC CHẤM DỨT VÀ TẠM ĐÌNH CHỈ VIỆC THI HÀNH CÁC ĐIỀU ƯỚC
Điều 54. Việc chấm dứt hoặc rút khỏi một điều ước theo các quy định của điều ước đó hoặc do sự đồng ý của các bên.
Việc chấm dứt hoặc rút khỏi một điều ước của một bên có thể diễn ra:
a) Chiểu theo các quy định của điều ước; hoặc
b) Vào bất kỳ thời điểm nào, do sự đồng ý của tất cả các bên sau khi đã tham khảo ý kiến của các quốc gia ký kết khác.
Điều 55. Việc giảm số lượng các bên tham gia một điều ước nhiều bên tới nhỏ hơn số lượng cần thiết để điều ước có
hiệu lực
Một điều ước nhiều bên sẽ không chấm dứt chỉ vì lý do duy nhất là số lượng các bên trở nên thấp hơn số lượng cần thiết để
điều ước có hiệu lực, trừ khi điều ước có quy định khác.
Điều 56. Việc từ bỏ hoặc rút khỏi một điều ước trong trường hợp điều ước không có quy định về việc chấm dứt, từ bỏ
hoặc rút khỏi điều ước đó.
1. Một điều ước không có những quy định về việc chấm dứt của nó cũng như việc từ bỏ hoặc rút khỏi điều ước đó sẽ không
thể là đối tượng của việc từ bỏ hoặc rút khỏi trừ khi:
a) Có sự biểu hiện rõ ràng ý định của các bên chấp thuận khả năng từ bỏ hoặc rút khỏi điều ước; hoặc
b) Quyền từ bỏ hoặc rút khỏi có thể được suy ra từ bản chất của điều ước đó.
2. Một bên sẽ phải thông báo, ít nhất là trước 12 tháng, ý định từ bỏ hoặc rút khỏi điều ước chiểu theo khoản 1.
Điều 57. Tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước theo các quy định của điều ước đó hoặc do sự đồng ý của các bên.
Việc thi hành một điều ước sẽ có thể bị tạm đình chỉ đối với tất cả các bên hoặc đối với một bên xác định:
a) Chiểu theo các quy định của điều ước; hoặc
b) Vào bất cứ thời điểm nào, do sự đồng ý của tất cả các bên sau khi đã tham khảo ý kiến của các quốc gia ký kết khác.
Điều 58. Tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước nhiều bên do thỏa thuận của chỉ một số bên
1. Hai hay nhiều bên tham gia một điều ước nhiều bên có thể ký kết một hiệp định có mục đích đình chỉ tạm thời việc thi
hành các quy định của điều ước chỉ trong quan hệ giữa họ với nhau:
a) Nếu khả năng cho việc tạm đình chỉ như thế được điều ước quy định; hoặc
b) Nếu việc tạm đình chỉ như thế không bị điều ước ngăn cấm, với điều kiện là:
(i). Không xâm phạm tới việc các bên hưởng quyền theo điều ước cũng như tới việc thi hành những nghĩa vụ của họ; và
(ii). Không mâu thuẫn với đối tượng và mục đích của điều ước.
2. Trong trường hợp ghi ở điểm a khoản 1, trừ khi điều ước có quy định khác, những bên nói trên phải thông báo cho các bên
khác có ý định ký kết hiệp định của mình và các quy định của điều ước mà họ có ý định tạm đình chỉ việc thi hành.
Điều 59. Chấm dứt hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước do hậu quả của việc ký kết một điều ước sau:
1. Một điều ước được xem là chấm dứt nếu tất cả các bên tham gia điều ước đó ký kết sau đó một điều ước về cùng một vấn
đề và:
a) Xuất phát từ điều ước sau hoặc có sự thể hiện bằng cách khác rõ rằng theo ý định của các bên vấn đề thực chất phải được
điều ước sau điều chỉnh; hoặc
b) Những quy định của điều ước sau mâu thuẫn với các quy định của điều ước trước đến mức mà không thể thi hành cả hai
cùng một lúc.
2. Việc thi hành điều ước trước sẽ chỉ được xem là tạm thời bị đình chỉ nếu đó là việc xuất phát từ điều ước sau hoặc có sự
thể hiện rõ bằng cách khác rằng đó là ý định của các bên.
Điều 60. Chấm dứt hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước do hậu quả của việc vi phạm
1. Một sự vi phạm nghiêm trọng một điều ước hai bên bởi một trong các bên sẽ tạo cho bên kia quyền nêu lên sự vi phạm đó
như là lý do cho việc chấm dứt hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ điều ước.
2. Một sự vi phạm nghiêm trọng điều ước nhiều bên bởi một trong các bên sẽ tạo quyền:
a) Cho các bên khác, tiến hành theo một thỏa thuận chung, tạm đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ hoặc chấm dứt
điều ước:
(i). Trong quan hệ giữa các bên đó với quốc gia vi phạm; hoặc
(ii). Giữa tất cả các bên;
b) Cho một bên bị thiệt hại đặc biệt do vi phạm, nêu lên sự vi phạm đó như là lý do cho việc tạm đình chỉ thi hành một phần
hoặc toàn bộ điều ước trong quan hệ giữa bên này và quốc gia vi phạm;
c) Cho bất kỳ bên nào, mà không phải là quốc gia vi phạm, nêu lên sự vi phạm như là lý do cho việc tạm đình chỉ thi hành
một phần hoặc toàn bộ điều ước quan hệ với bên đó, trong trường hợp này một vi phạm nghiêm trọng các quy định của điều
ước bởi một bên sẽ gây ra thay đổi triệt để tình hình của mỗi bên liên quan đến việc thi hành sau đó những nghĩa vụ theo
điều ước.
3. Theo quy định của điều luật này, vi phạm điều ước bị coi là nghiêm trọng:
a) Một sự khước từ điều ước không theo các quy định của Công ước này; hoặc
b) Sự vi phạm một quy định căn bản cho việc thực hiện đối tượng hoặc mục đích của điều ước.
4. Các điều khoản trên sẽ được hiểu không phương hại đến các quy định của điều ước được áp dụng trong trường hợp vi
phạm.
5. Các quy định từ khoản 1 đến khoản 3 sẽ không áp dụng đối với các quy định nhằm bảo hộ quyền con người trong các điều
ước có tính chất nhân đạo, mà đặc biệt là đối với các quy định cấm tất cả các hình thức báo thù liên quan đến những người
được bảo hộ bởi các điều ước như thế.
Điều 61. Việc không có khả năng tiếp tục thi hành điều ước
1. Một bên có thể nêu lên việc không thể thi hành một điều ước là lý do cho việc chấm dứt hoặc rút khỏi điều ước đó nếu
việc không thể thi hành đó là do một đối tượng cần thiết cho việc thi hành điều ước đó bị mất đi hoặc bị tiêu hủy hoàn toàn.
Nếu việc không thể thi hành đó là tạm thời, thì nó chỉ có thể được nêu lên làm lý do cho việc tạm đình chỉ việc thi hành điều
ước đó.
2. Một bên không thể nêu lên việc không thể thi hành một điều ước làm lý do để chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc
thi hành điều ước đó, nếu việc không thể thi hành đó là kết quả của chính bên nêu lên nó, đối với một nghĩa vụ phát sinh từ
điều ước hoặc bất cứ nghĩa vụ quốc tế nào khác đối với bất cứ bên nào khác tham gia điều ước.
Điều 62. Sự thay đổi cơ bản hoàn cảnh
1. Một sự thay đổi cơ bản các hoàn cảnh so với hoàn cảnh đã tồn tại vào thời điểm ký kết một điều ước và không được các
bên dự kiến không thể được nêu lên làm lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi điều ước trừ khi:
a) Sự tồn tại của các hoàn cảnh đó là cơ sở chủ yếu của sự đồng ý của các bên chịu sự ràng buộc của điều ước; và
b) Sự thay đổi đó làm biến đổi một cách cơ bản phạm vi của những nghĩa vụ mà các bên vẫn còn phải thi hành theo điều
ước.
2. Một sự thay đổi cơ bản các hoàn cảnh sẽ không thể được nêu lên làm lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi một điều ước:
a) Nếu đó là một điều ước quy định về đường biên giới; hoặc
b) Nếu sự thay đổi cơ bản là kết quả của một sự vi phạm của chính bên nêu lên nó, đối với một nghĩa vụ phát sinh từ điều
ước hoặc tất cả những nghĩa vụ quốc tế khác đối với bất kỳ bên tham gia điều ước.
3. Theo quy định của những khoản trên đây, khi một trong các bên có thể nêu lên một sự thay đổi cơ bản các hoàn cảnh như
là lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi điều ước, sẽ cũng có thể nêu lên sự thay đổi đó như là lý do để tạm đình chỉ việc thi hành
điều ước.
Điều 63. Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự
Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự giữa các bên tham gia một điều ước sẽ không ảnh hưởng đến các quan hệ pháp
lý do điều ước đặt ra giữa các bên đó, trừ khi trong một mức độ nhất định, sự tồn tại của quan hệ ngoại giao và lãnh sự là
không thể thiếu cho việc thi hành điều ước.
Điều 64. Nảy sinh một quy phạm mới bắt buộc trong pháp luật quốc tế chung (Jus cogens)
Nếu một quy phạm mới bắt buộc của pháp luật quốc tế chung nảy sinh, thì mọi điều ước hiện hữu mâu thuẫn với quy phạm
đó sẽ trở thành vô hiệu và sẽ chấm dứt.
Tiết 4. THỦ TỤC
Điều 65. Thủ tục cho việc tuyên vô hiệu, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước
1. Trên cơ sở các quy định của Công ước này, bên nêu lên một khiếm khuyết của sự đồng ý của mình chịu sự ràng buộc của
một điều ước hoặc một lý do nhằm phủ nhận giá trị hiệu lực của một điều ước, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc thi
hành điều ước đó, sẽ phải thông báo ý định của mình cho các bên khác. Trong thông báo phải ghi rõ các biện pháp dự định
thực hiện đối với điều ước và lý do áp dụng các biện pháp đó.
2. Trừ các trường hợp đặc biệt khẩn cấp, nếu sau một thời hạn không dưới ba tháng kể từ ngày nhận được thông báo, mà
không có bên nào phản đối, thì bên thông báo có thể thực hiện các biện pháp mà mình dự kiến, theo các thể thức quy định ở
Điều 67.
3. Tuy nhiên, nếu có một sự phản đối của một bên nào khác thì các bên sẽ phải tìm kiếm một giải pháp ghi tại Điều 33 của
Hiến chương Liên hiệp quốc.
4. Không có điểm nào trong các khoản trên ảnh hưởng đến các quyền hoặc nghĩa vụ của các bên đối với bất kỳ quy định nào
đang có hiệu lực giữa họ với nhau về việc giải quyết tranh chấp.
5. Không phương hại đến quy định của Điều 45, việc một quốc gia không thông báo theo quy định của khoản 1 sẽ không cản
trở quốc gia đó gửi thông báo đó để trả lời một bên khác khi bên này yêu cầu thi hành điều ước hoặc nêu lên việc vi phạm
điều ước.
Điều 66. Thủ tục giải quyết về tư pháp, trọng tài và hòa giải
Nếu trong vòng 12 tháng sau ngày có sự phản đối mà không đi đến một giải pháp nào chiểu theo khoản 3 Điều 65, thì sẽ áp
dụng thủ tục sau đây:
a) Bất cứ một bên nào trong một vụ tranh chấp có liên quan đến việc thi hành hay giải thích Điều 53 hoặc Điều 64 đều có
thể, thông qua một đơn kiện bằng văn bản, trao cho Tòa án quốc tế quyết định, trừ khi các bên cùng thỏa thuận đưa vụ tranh
chấp cho trọng tài giải quyết.
b) Bất kỳ một bên nào trong một vụ tranh chấp có liên quan đến việc thi hành hay giải thích một điều khoản bất kỳ nào khác
của phần V của Công ước này đều có thể bắt đầu thủ tục quy định ở Phụ lục của Công ước bằng cách gửi một đơn yêu cầu
về vấn đề này cho Tổng thư ký Liên hiệp quốc.
Điều 67. Những văn kiện nhằm tuyên bố sự vô hiệu, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước
1. Thông báo quy định tại khoản 1 Điều 65 sẽ phải được làm thành văn bản.
2. Mọi văn bản nhằm tuyên bố sự vô hiệu, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước, chiểu theo các
quy định của Điều ước hoặc khoản 2 hoặc 3 của Điều 65, sẽ phải được ghi vào một văn kiện để thông báo cho các bên khác.
Nếu văn kiện thông báo do nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ ngoại giao ký, thì có thể yêu
cầu đại diện của quốc gia có thông báo xuất trình thư ủy quyền.
Điều 68. Hủy bỏ các thông báo và những văn kiện quy định ở các Điều 65 và 67
Các thông báo hoặc những văn kiện quy định tại các Điều 65 và 67 có thể bị hủy bỏ bất kỳ thời điểm nào trước khi nó có
hiệu lực.
Tiết 5. HẬU QUẢ CỦA SỰ VÔ HIỆU, CHẤM DỨT HOẶC TẠM ĐÌNH CHỈ VIỆC THI HÀNH MỘT ĐIỀU ƯỚC
Điều 69. Hậu quả của sự vô hiệu của một điều ước
1. Một điều ước là vô hiệu nếu như sự vô hiệu đó được xác định theo Công ước này. Các quy định của một điều ước vô hiệu
là không có hiệu lực pháp lý.
2. Tuy nhiên, nếu có những hành vi đã thực hiện trên cơ sở của một điều ước như vậy thì:
a) Mỗi bên đều có thể yêu cầu bất kỳ một bên nào khác, ở mức độ có thể, xác định tình hình có thể đã xảy ra trong quan hệ
giữa họ với nhau nếu như những hành vi trên không được thực hiện.
b) Những hành vi đã được thực hiện một cách có thiện chí trước khi sự vô hiệu của điều ước được nêu lên sẽ không bị coi là
phi pháp chỉ vì sự vô hiệu của điều ước.
3. Trong các trường hợp thuộc các điều 40, 50, 51 hoặc 52, thì sẽ không áp dụng khoản 2 đối với bên chịu trách nhiệm về
hành vi man trá, hành vi gây tham nhũng, cưỡng ép.
4. Trong trường hợp mà sự đồng ý của một quốc gia xác định chịu sự ràng buộc của một điều ước nhiều bên là khiếm
khuyết, thì quy tắc trên đây sẽ được áp dụng trong quan hệ giữa quốc gia đó và các bên khác tham gia điều ước.
Điều 70. Hậu quả của việc chấm dứt một điều ước
1. Trừ khi điều ước có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác, việc chấm dứt một điều ước trên cơ sở các quy định
của điều ước đó hoặc chiểu theo Công ước này sẽ:
a) Miễn trừ cho các bên nghĩa vụ phải tiếp tục thi hành điều ước;
b) Không xâm phạm đến bất cứ quyền, nghĩa vụ hoặc tình huống pháp lý nào của các bên được tạo ra do việc thi hành điều
ước, trước khi điều ước chấm dứt.
2. Khi một quốc gia từ bỏ hoặc rút khỏi một điều ước nhiều bên, khoản 1 sẽ được áp dụng trong quan hệ giữa quốc gia ấy và
mỗi bên tham gia điều ước kể từ ngày việc từ bỏ hoặc rút khỏi điều ước có hiệu lực.
Điều 71. Hậu quả của sự vô hiệu của một điều ước do xung đột với một quy tắc bắt buộc của pháp luật quốc tế chung
1. Khi một điều ước bị coi là vô hiệu theo Điều 53, các bên sẽ phải:
a) Loại trừ trong một chừng mực có thể hậu quả của mọi hành vi đã được thực hiện trên cơ sở một quy định xung đột với
một quy phạm bắt buộc của pháp luật quốc tế chung.
b) Điều chỉnh các quan hệ tương hỗ giữa họ cho phù hợp với quy phạm bắt buộc của luật quốc tế chung này.
2. Trong trường hợp một điều ước trở thành vô hiệu và chấm dứt chiểu theo Điều 64, thì việc chấm dứt điều ước sẽ:
a) Miễn trừ cho các bên nghĩa vụ phải tiếp tục thi hành điều ước;
b) Không xâm phạm đến bất kỳ quyền, nghĩa vụ hoặc tình huống pháp lý nào của các bên được tạo do việc thi hành điều ước
trước khi điều ước chấm dứt; tuy nhiên những quyền, nghĩa vụ và tình huống pháp lý này chỉ có thể duy trì trong những
chừng mực mà bản thân của việc duy trì đó không xung đột với quy phạm mới bắt buộc của pháp luật quốc tế chung.
Điều 72. Hậu quả của việc tạm đình chỉ thi hành một điều ước
1. Trừ khi điều ước có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác, việc tạm đình chỉ thi hành một điều ước trên cơ sở
quy định của điều ước đó hoặc chiểu theo Công ước này sẽ:
a) Miễn trừ cho các bên là đối tượng của việc tạm đình chỉ thi hành điều ước nghĩa vụ thi hành điều ước đó trong quan hệ
tương hỗ của họ trong thời hạn tạm đình chỉ;
b) Mặt khác, không phương hại đến các quan hệ pháp lý do điều ước quy định giữa các bên.
2. Trong thời hạn tạm đình chỉ việc thi hành điều ước, các bên sẽ phải tránh không có bất kỳ một hành vi nào nhằm cản trở
việc thi hành trở lại điều ước.
Phần VI.
CÁC CƠ QUAN LƯU CHIỂU, THÔNG BÁO, VIỆC SỬA CHỮA VÀ VIỆC ĐĂNG
KÝ
Điều 76. Các cơ quan lưu chiểu các điều ước
1. Việc chỉ định các cơ quan lưu chiểu một điều ước có thể do các quốc gia tham gia đàm phán tiến hành hoặc được ghi trong
điều ước hoặc theo một cách khác. Cơ quan lưu chiểu có thể là một hay nhiều quốc gia, một tổ chức quốc tế hay một viên
chức hành chính trưởng của tổ chức đó.
2. Các chức năng của cơ quan lưu chiểu một điều ước mang tính chất quốc tế và cơ quan này có nghĩa vụ phải hành động
một cách vô tư khi thực hiện các chức năng của mình. Đặc biệt, khi một điều ước không có hiệu lực giữa một số bên, hoặc
khi xuất hiện một sự bất đồng giữa một quốc gia với một cơ quan lưu chiểu liên quan đến việc thi hành các chức năng của cơ
quan này, sẽ không ảnh hưởng đến các nghĩa vụ đó của cơ quan lưu chiểu.
Điều 77. Chức năng của cơ quan lưu chiểu
1. Trừ khi điều ước có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác, các chức năng chủ yếu của cơ quan lưu chiểu gồm:
a) Bảo quản văn bản gốc của điều ước và những thư ủy quyền gửi cho cơ quan lưu chiểu;
b) Lập các bản sao có chứng thực đúng như văn bản gốc và lập mọi văn bản khác của điều ước bằng các ngôn ngữ khác nhau
do yêu cầu có thể của điều ước và gửi các bản đó cho các bên tham gia và cho các quốc gia có tư cách để trở thành các bên
của điều ước;
c) Tiếp nhận mọi chữ ký vào điều ước, tiếp nhận và bảo quản mọi văn kiện, mọi thông báo hay thông tin có liên quan đến
điều ước;
d) Kiểm tra xem một chữ ký, hoặc văn kiện, thông báo hay thông tin liên quan đến điều ước có hợp thể thức và đúng hay
không và nếu cần thì chỉ ra ví dụ cần lưu ý các quốc gia hữu quan về vấn đề đó;
e) Thông báo cho bên tham gia điều ước và các quốc gia có tư cách để tham gia điều ước về những văn kiện thông báo và
thông tin liên quan đến điều ước;
f) Thông báo cho các quốc gia có tư cách để tham gia điều ước này và số lượng chữ ký hoặc các văn kiện phê chuẩn, chấp
thuận, phê duyệt hay gia nhập cần thiết để điều ước có hiệu lực đã được tiếp nhận hoặc lưu chiểu;
g) Đăng ký điều ước tại Ban thư ký của Liên hiệp quốc;
h) Thực hiện các chức năng được quy định trong các điều khoản khác của Công ước này.
2. Khi xảy ra một bất đồng giữa một quốc gia và cơ quan lưu chiểu về việc thực hiện các chức năng của cơ quan này, thì cơ
quan lưu chiểu sẽ phải lưu ý vấn đề đó với các quốc gia ký kết và các quốc gia tham gia điều ước, hoặc khi cần thiết thì lưu ý
cơ quan có thẩm quyền của tổ chức quốc tế hữu quan.
Điều 78. Thông báo và thông tin
Trừ những trường hợp điều ước hoặc Công ước này có quy định khác, một thông báo hay thông tin mà một quốc gia phải
làm theo Công ước này sẽ:
a) Được chuyển trực tiếp; nếu không có cơ quan lưu chiểu, đến các quốc gia mà thông báo hay thông tin phải chuyển đến
hoặc nếu có cơ quan lưu chiểu thì chuyển cho cơ quan lưu chiểu này;
b) Chỉ được coi là quốc gia hữu quan đã hoàn thành việc thông tin, thông báo khi quốc gia mà thông tin hay thông báo phải
chuyển đến đã nhận được thông tin hoặc thông báo đó hoặc cơ quan đã nhận được thông tin hoặc thông báo đó;
c) Nếu chuyển cho cơ quan lưu chiểu thì quốc gia nhận được thông tin hay thông báo chỉ coi là đã nhận được kể từ khi quốc
gia đó nhận được thông báo của cơ quan lưu chiểu như đã quy định ở điểm e khoản 1 Điều 77.
Điều 79. Việc sửa chữa những sai lầm trong các văn bản điều ước hoặc trong các bản sao đã chứng thực
1. Nếu, sau khi xác thực văn bản một điều ước, các quốc gia ký kết và các quốc gia tham gia nhất trí thấy văn bản có sai lầm,
thì sẽ tiến hành sửa chữa sai lầm bằng một trong các biện pháp sau đây, trừ khi các quốc gia đó quyết định một cách sửa
chữa khác:
a) Chữa văn bản theo nghĩa thích hợp và những vị đại diện được ủy quyền cho thể thức đó ký tắt vào chỗ sửa chữa;
b) Lập một văn kiện hay trao đổi các văn kiện trong đó ghi nhận là việc sửa chữa đã được thỏa thuận đưa vào trong văn bản;
c) Lập một văn bản toàn bộ điều ước đã được sửa chữa theo đúng thủ tục đã áp dụng đối với văn bản gốc.
2. Trừ một điều ước có cơ quan lưu chiểu thì cơ quan lưu chiểu này thông báo cho các quốc gia ký kết và các quốc gia tham
gia biết sai lầm và đề nghị sửa chữa sai lầm đó và sẽ định ra một thời hạn thích hợp cho việc lập ra các phản đối đối với việc
sửa chữa đã được đề nghị. Kết thúc thời hạn đã định:
a) Nếu không có một phản đối nào được đưa ra thì cơ quan lưu chiểu sẽ tiến hành việc sửa chữa và ký tắt vào chỗ sửa chữa
của văn bản, và sẽ lập một biên bản về việc sửa chữa văn bản và gửi bản sao cho các bên tham gia điều ước và cho các quốc
gia có tư cách để tham gia điều ước;
b) Nếu có việc phản đối được đưa ra thì cơ quan lưu chiểu sẽ thông báo việc phản đối đó cho các quốc gia ký kết và các quốc
gia tham gia.
3. Những quy tắc ghi trong các khoản 1 và 2 cũng sẽ được áp dụng khi văn bản đã được xác thực bằng hai hay nhiều ngôn
ngữ và khi phát hiện có điểm không hoàn toàn như nhau mà theo thảo thuận của các quốc gia ký kết và các quốc gia tham
gia, nó cần được sửa chữa.
4. Văn bản đã sửa chữa sẽ thay thế ab intio (trên nguyên tắc) đối với văn bản có sai lầm, trừ khi các quốc gia ký kết và các
quốc gia tham gia có các quyết định khác.
5. Việc sửa chữa văn bản một điều ước đã được đăng ký sẽ phải được thông báo cho Ban thư ký Liên hiệp quốc.
6. Khi phát hiện một sai lầm trong một bản sao đã chứng thực thì cơ quan lưu chiểu sẽ phải lập một biên bản sửa chữa và gửi
bản sao cho các quốc gia ký kết và các quốc gia tham gia.
Điều 80. Việc đăng ký và công bố điều ước
1. Các điều ước, sau khi có hiệu lực, sẽ được chuyển đến Ban thư ký Liên hiệp quốc để đăng ký hoặc lưu trữ và ghi vào danh
bạ, tùy từng trường hợp, cũng như để công bố.
2. Việc chỉ định một cơ quan lưu chiểu sẽ cho phép cơ quan đó thực hiện những hành động quy định ở khoản trên.
Phần VIII.
HIỆU LỰC, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG, GIA HẠN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
Điều 52. Hiệu lực của điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của điều ước quốc tế đó hoặc
theo thỏa thuận giữa bên Việt Nam và bên ký kết nước ngoài.
Điều 53. Áp dụng tạm thời điều ước quốc tế
1. Điều ước quốc tế hoặc một phần của điều ước quốc tế có thể được áp dụng tạm thời trong thời gian hoàn thành thủ tục để
điều ước quốc tế có hiệu lực theo quy định của điều ước quốc tế đó hoặc theo thỏa thuận giữa bên Việt Nam và bên ký kết
nước ngoài.
2. Việc áp dụng tạm thời điều ước quốc tế chấm dứt nếu bên Việt Nam thông báo cho bên ký kết nước ngoài hoặc bên ký kết
nước ngoài thông báo cho bên Việt Nam về việc chấm dứt áp dụng tạm thời điều ước quốc tế đó, trừ trường hợp điều ước
quốc tế có quy định khác hoặc bên Việt Nam và bên ký kết nước ngoài có thỏa thuận khác.
3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định ký điều ước quốc tế có quyền quyết định áp dụng tạm thời và chấm dứt áp
dụng tạm thời điều ước quốc tế đó.
4. Hồ sơ trình về việc chấm dứt áp dụng tạm thời điều ước quốc tế tương tự hồ sơ quy định tại Điều 16 và Điều 17 của Luật
này.
Điều 54. Sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế
1. Điều ước quốc tế được sửa đổi, bổ sung, gia hạn theo quy định của điều ước quốc tế đó hoặc theo thỏa thuận giữa bên Việt
Nam và bên ký kết nước ngoài.
2. Việc ký kết điều ước quốc tế mới để sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế được thực hiện theo quy định tại Chương
II của Luật này.
3. Thẩm quyền quyết định sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế trong trường hợp không ký kết điều ước quốc tế mới để
sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế được quy định như sau:
a) Quốc hội quyết định sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế do Quốc hội phê chuẩn hoặc quyết định gia nhập;
b) Chủ tịch nước quyết định sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế do Chủ tịch nước phê chuẩn hoặc quyết định gia
nhập;
c) Chính phủ quyết định sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế do Chính phủ quyết định phê duyệt, gia nhập hoặc ký
nhưng không phải phê chuẩn, phê duyệt.
4. Văn bản quyết định sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế bao gồm các nội dung sau đây:
a) Tên của điều ước quốc tế được sửa đổi, bổ sung, gia hạn; thời gian, địa điểm ký và thời điểm có hiệu lực;
b) Nội dung sửa đổi, bổ sung, thời gian gia hạn điều ước quốc tế;
c) Trách nhiệm của cơ quan đề xuất, Bộ Ngoại giao và cơ quan, tổ chức có liên quan.
5. Trình tự, thủ tục quyết định sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế được thực hiện như sau:
a) Cơ quan đề xuất có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan
trước khi trình Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế;
b) Chính phủ quyết định sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế quy định tại điểm c khoản 3 Điều này; trình Chủ tịch
nước quyết định sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế quy định tại điểm b khoản 3 Điều này;
c) Chủ tịch nước quyết định sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế quy định tại điểm b khoản 3 Điều này; trình Quốc hội
quyết định sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế quy định tại điểm a khoản 3 Điều này;
d) Quốc hội quyết định sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế quy định tại điểm a khoản 3 Điều này theo trình tự, thủ tục
tương tự trình tự, thủ tục phê chuẩn điều ước quốc tế quy định tại các điều 32, 33, 34, 35 và 36 của Luật này.
6. Hồ sơ trình về việc sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế trong trường hợp không ký kết điều ước quốc tế mới để sửa
đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế bao gồm:
a) Tờ trình của cơ quan trình, trong đó nêu rõ mục đích, yêu cầu, cơ sở pháp lý và hậu quả pháp lý của việc sửa đổi, bổ sung,
gia hạn điều ước quốc tế;
b) Ý kiến của Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan; báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến của cơ quan, tổ
chức; kiến nghị biện pháp xử lý;
c) Văn bản điều ước quốc tế;
d) Đề nghị về việc sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế của bên ký kết nước ngoài hoặc cơ quan nhà nước có liên quan
của Việt Nam.
Điều 55. Chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế
1. Việc chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế được thực hiện
theo quy định của điều ước quốc tế đó hoặc theo thỏa thuận giữa bên Việt Nam và bên ký kết nước ngoài.
2. Thẩm quyền quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế được quy định như
sau:
a) Quốc hội quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế mà Quốc hội phê chuẩn
hoặc quyết định gia nhập.
Trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch nước, Chính phủ quyết định tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế do Chủ tịch nước,
Chính phủ quyết định ký và Quốc hội phê chuẩn, sau đó báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất;
b) Chủ tịch nước quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế mà Chủ tịch nước
phê chuẩn hoặc quyết định gia nhập;
c) Chính phủ quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế mà Chính phủ quyết
định phê duyệt, gia nhập hoặc ký nhưng không phải phê chuẩn, phê duyệt.
3. Văn bản quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế bao gồm các nội dung sau
đây:
a) Tên của điều ước quốc tế bị chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện; thời gian, địa điểm ký và thời hạn
có hiệu lực;
b) Trách nhiệm của cơ quan đề xuất, Bộ Ngoại giao và cơ quan, tổ chức có liên quan.
4. Hồ sơ trình, trình tự, thủ tục quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế được
thực hiện tương tự hồ sơ trình, trình tự, thủ tục quyết định sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế quy định tại khoản 5 và
khoản 6 Điều 54 của Luật này.
Điều 56. Thông báo liên quan đến hiệu lực của điều ước quốc tế
Bộ Ngoại giao thông báo cho các cơ quan nhà nước có liên quan các nội dung sau đây:
1. Thông báo về ngày có hiệu lực của điều ước quốc tế trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông tin về việc điều
ước quốc tế có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
2. Thông báo về ngày có hiệu lực của tuyên bố bảo lưu của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chấp nhận hoặc phản
đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài, rút bảo lưu hoặc rút phản đối bảo lưu đối với điều ước quốc tế nhiều bên trong thời
hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của cơ quan lưu chiểu điều ước quốc tế nhiều bên;
3. Thông báo về ngày chấm dứt áp dụng tạm thời điều ước quốc tế, về việc sửa đổi, bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế, việc
chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày việc chấm dứt
áp dụng tạm thời, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế có
hiệu lực.
Chương V
LƯU CHIỂU, LƯU TRỮ, SAO LỤC, ĐĂNG TẢI ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
Điều 57. Lưu chiểu điều ước quốc tế nhiều bên
Bộ Ngoại giao thực hiện việc lưu chiểu điều ước quốc tế nhiều bên trong trường hợp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được chỉ định là cơ quan lưu chiểu điều ước quốc tế đó.
Điều 58. Lưu trữ điều ước quốc tế
1. Bộ Ngoại giao lưu trữ bản chính điều ước quốc tế hai bên; bản sao điều ước quốc tế nhiều bên mà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên được cơ quan lưu chiểu chứng thực; văn kiện phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước
quốc tế; giấy ủy quyền đàm phán, ký điều ước quốc tế; giấy ủy nhiệm tham dự hội nghị quốc tế và các văn kiện khác có liên
quan.
2. Cơ quan đề xuất có trách nhiệm gửi Bộ Ngoại giao bản chính hoặc bản sao được chứng thực và bản dịch bằng tiếng Việt
của điều ước quốc tế, giấy ủy quyền đàm phán, ký điều ước quốc tế của phía nước ngoài theo thời hạn quy định tại Điều 26
và Điều 46 của Luật này.
Điều 59. Sao lục điều ước quốc tế
1. Bộ Ngoại giao sao lục điều ước quốc tế có hiệu lực gửi Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ để báo cáo, gửi cơ quan, tổ
chức có liên quan để thực hiện, gửi cơ quan Công báo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản chính điều ước quốc
tế hai bên và thông tin về việc điều ước quốc tế có hiệu lực.
2. Bộ Ngoại giao sao lục điều ước quốc tế có hiệu lực gửi Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ để báo cáo, gửi cơ quan, tổ
chức có liên quan để thực hiện, gửi cơ quan Công báo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao điều ước quốc tế
nhiều bên có chứng thực của cơ quan lưu chiểu và thông báo của cơ quan lưu chiểu điều ước quốc tế nhiều bên về hiệu lực
của điều ước quốc tế nhiều bên đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 60. Đăng tải điều ước quốc tế
1. Điều ước quốc tế có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được đăng tải trên Công báo nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cổng thông tin điện tử của cơ quan đề xuất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác giữa
bên Việt Nam và bên ký kết nước ngoài hoặc có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong trường hợp có yêu cầu không đăng tải điều ước quốc tế, cơ quan đề xuất trình Thủ tướng Chính phủ quyết định sau
khi lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan. Cơ quan đề xuất có trách
nhiệm thông báo nội dung phải thực hiện cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp thực hiện quy định có liên quan của
điều ước quốc tế.
2. Cơ quan Công báo đăng tải điều ước quốc tế trên Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày nhận được bản sao điều ước quốc tế có hiệu lực do Bộ Ngoại giao gửi.
3. Cơ quan đề xuất đăng tải điều ước quốc tế trên Cổng thông tin điện tử của cơ quan mình trong thời hạn 05 ngày kể từ
ngày nhận được bản sao điều ước quốc tế có hiệu lực do Bộ Ngoại giao gửi. Trong trường hợp điều ước quốc tế chỉ được ký
bằng tiếng nước ngoài thì phải đăng tải cả bản dịch điều ước quốc tế bằng tiếng Việt.
4. Bộ Ngoại giao đăng tải điều ước quốc tế trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Ngoại giao trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày
sao lục điều ước quốc tế theo quy định tại Điều 59 của Luật này.
Điều 61. Cấp bản sao điều ước quốc tế
Bộ Ngoại giao cấp bản sao điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên được lưu trữ, lưu
chiểu tại Bộ Ngoại giao cho cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật có liên quan.
Điều 62. Cơ sở dữ liệu về điều ước quốc tế
Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng và vận hành Cơ sở dữ liệu về điều ước quốc tế
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Toàn văn điều ước quốc tế, thông tin về hiệu lực của điều ước quốc tế được đăng tải theo quy định tại khoản 1 Điều 60 của
Luật này được công khai trên Cơ sở dữ liệu về điều ước quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chương VI
THAY ĐỔI QUỐC TỊCH CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ CỦA CON NUÔI
Điều 35. Quốc tịch của con chưa thành niên khi cha mẹ được nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam
1. Khi có sự thay đổi về quốc tịch do nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam của cha mẹ thì quốc tịch của con chưa thành
niên sinh sống cùng với cha mẹ cũng được thay đổi theo quốc tịch của họ.
2. Khi chỉ cha hoặc mẹ được nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam thì con chưa thành niên sinh sống cùng với người đó
cũng có quốc tịch Việt Nam hoặc mất quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ.
Trường hợp cha hoặc mẹ được nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam thì con chưa thành niên sinh sống cùng với người đó cũng có
quốc tịch Việt Nam, nếu cha mẹ không thỏa thuận bằng văn bản về việc giữ quốc tịch nước ngoài của người con.
3. Sự thay đổi quốc tịch của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải
được sự đồng ý bằng văn bản của người đó.
Điều 36. Quốc tịch của con chưa thành niên khi cha mẹ bị tước quốc tịch Việt Nam hoặc bị hủy bỏ Quyết định cho
nhập quốc tịch Việt Nam
Khi cha mẹ hoặc một trong hai người bị tước quốc tịch Việt Nam hoặc bị hủy bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam
thì quốc tịch của con chưa thành niên không thay đổi.
Điều 37. Quốc tịch của con nuôi chưa thành niên
1. Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi thì vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.
2. Trẻ em là người nước ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì có quốc tịch Việt Nam, kể từ ngày được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam công nhận việc nuôi con nuôi.
3. Trẻ em là người nước ngoài được cha mẹ mà một người là công dân Việt Nam, còn người kia là người nước ngoài nhận
làm con nuôi thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam của cha mẹ nuôi và được miễn các
điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật này.
4. Sự thay đổi quốc tịch của con nuôi từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được sự đồng ý bằng văn bản của người đó.
CHƯƠNG V
LUẬT
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quốc tịch Việt Nam số 24/2008/QH12.
Điều 1.
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quốc tịch Việt Nam:
1. Điều 13 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 13. Người có quốc tịch Việt Nam
1. Người có quốc tịch Việt Nam bao gồm người đang có quốc tịch Việt Nam cho đến ngày Luật này có hiệu lực và người có
quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này.
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày
Luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa mất quốc tịch Việt Nam mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam
theo quy định tại Điều 11 của Luật này thì đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để được xác định có quốc
tịch Việt Nam và cấp Hộ chiếu Việt Nam.
Chính phủ quy định chi tiết khoản này."
2. Bãi bỏ khoản 3 Điều 26.
Điều 2.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày công bố.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 24 tháng 6
năm 2014.
CÔNG ƯỚC VIÊN
NGÀY 18 THÁNG 4 NĂM 1961 VỀ QUAN HỆ NGOẠI GIAO
Các nước tham gia Công ước này.
Nhắc lại rằng, từ thời xưa, nhân dân tất cả các nước đã thừa nhận quy chế các viên chức ngoại giao;
Ý thức rõ những mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên hiệp quốc về bình đẳng chủ quyền của các nước, về việc duy
trì hoà bình và an ninh quốc tế và về sự phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nhà nước;
Tin chắc rằng việc ký kết một Công ước quốc tế về quan hệ ngoại giao, các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao sẽ góp phần
vào việc phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nước, không phụ thuộc vào chế độ nhà nước và xã hội khác nhau của họ;
Nhận thức rằng mục đích của các quyền ưu đãi và miễn trừ đó không phải để làm lợi cho các cá nhân mà để bảo đảm cho các
cơ quan đại diện ngoại giao thực hiện có hiệu quả các chức năng của họ, với tư cách là đại diện cho các nước;
Khẳng định rằng các quy phạm của luật tập quán quốc tế sẽ tiếp tục điều chỉnh những vấn đề không được quy định trực tiếp
trong các điều khoản của Công ước này;
Đã thoả thuận như sau:
Điều 1
Trong Công ước này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
a) "Người đứng đầu cơ quan đại diện" là người được Nước cử đi giao cho nhiệm vụ hoạt động với tư cách đó;
b) "Các thành viên của cơ quan đại diện" là người đứng đầu cơ quan đại diện và các cán bộ nhân viên của cơ quan đại diện;
c) "Các cán bộ nhân viên của cơ quan đại diện" là các cán bộ ngoại giao, các nhân viên hành chính và kỹ thuật và các nhân
viên phục vụ của cơ quan đại diện;
d) "Các cán bộ ngoại giao" là các thành viên của cơ quan đại diện có hàm ngoại giao;
e) "Viên chức ngoại giao" là người đứng đầu cơ quan đại diện hay một cán bộ ngoại giao của cơ quan đại diện;
f) "Các nhân viên hành chính và kỹ thuật" là các thành viên của cơ quan đại diện thực hiện các công việc hành chính và kỹ
thuật của cơ quan đại diện;
g) "Các nhân viên phục vụ" là các thành viên cơ quan đại diện thực hiện các công việc phục vụ nội bộ của cơ quan đại diện;
h) "Người phục vụ riêng" là người thực hiện các công việc phục vụ riêng cho thành viên của cơ quan đại diện và không phải
là nhân viên của Nước cử đi;
i) "Trụ sở của cơ quan đại diện" là toà nhà hoặc bộ phận của toà nhà và đất đai phụ thuộc, không kể người sở hữu là ai, được
dùng vào mục đích của cơ quan đại diện, kể cả nhà ở của người đứng đầu cơ quan đại diện.
Điều 2
Việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa các nước và việc lập các cơ quan đại diện ngoại giao thường trú được tiến hành theo
sự thoả thuận giữa các bên với nhau.
Điều 3
1. Chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao cụ thể gồm có:
a) Đại diện cho Nước cử đi tại Nước tiếp nhận;
b) Bảo vệ quyền lợi của Nước cử đi và của công dân Nước cử đi tại Nước tiếp nhận trong phạm vi cho phép của luật quốc tế;
c) Đàm phán với Chính phủ Nước tiếp nhận;
d) Tìm hiểu bằng mọi cách hợp pháp các điều kiện và các sự kiện tại Nước tiếp nhận và báo cáo với Chính phủ của Nước cử
đi;
e) Thúc đẩy quan hệ hữu nghị và phát triển quan hệ kinh tế, văn hoá và khoa học giữa Nước cử đi và Nước tiếp nhận.
2. Không một điều khoản nào của Công ước này có thể được giải thích như có ý ngăn cản cơ quan đại diện ngoại giao thi
hành các chức năng lãnh sự.
Điều 4
1. Nước cử đi phải nắm chắc rằng người mình định bổ nhiệm làm người đứng đầu cơ quan đại diện tại Nước tiếp nhận đã
được nước đó chấp thuận.
2. Nước tiếp nhận không bắt buộc phải cho Nước cử đi biết lý do việc từ chối chấp thuận.
Điều 5
1. Nước cử đi, sau khi thông báo hợp lệ cho các nước tiếp nhận hữu quan, có thể bổ nhiệm một người đứng đầu cơ quan đại
diện hoặc cử bất cứ một cán bộ ngoại giao nào, tuỳ theo trường hợp tại một hoặc nhiều nước, trừ khi trong số các nước tiếp
nhận có nước phản đối một cách rõ ràng.
2. Nếu Nước cử đi bổ nhiệm một người đứng đầu cơ quan đại diện tại một hay nhiều nước khác thì Nước cử đi có thể lập
một cơ quan đại diện ngoại giao do một đại biện lâm thời phụ trách tại mỗi nước, nơi mà người đứng đầu cơ quan đại diện
không có trụ sở thường trú.
3. Người đứng đầu cơ quan đại diện hay bất cứ một cán bộ ngoại giao nào của cơ quan đại diện có thể đại diện cho Nước cử
đi bên cạnh bất cứ một tổ chức quốc tế nào.
Điều 6
Hai hay nhiều nước có thể bổ nhiệm cùng một người làm người đứng đầu cơ quan đại diện tại một nước khác, nếu nước tiếp
nhận không phản đối việc đó.
Điều 7
Ngoài các trường hợp đã quy định ở các Điều 5, 8, 9, 11 Nước cử đi được tự do cử các thành viên của cơ quan đại diện. Đối
với các tuỳ viên quân sự, hải quân hoặc không quân, Nước tiếp nhận có thể yêu cầu được thông báo trước họ tên những
người này để chấp nhận.
Điều 8
1. Các cán bộ ngoại giao của cơ quan đại diện về nguyên tắc, là công dân Nước cử đi
2. Cán bộ ngoại giao của cơ quan đại diện không thể là công dân của Nước tiếp nhận, trừ khi có sự đồng ý của nước này. Tuy
nhiên, Nước tiếp nhận có thể huỷ bỏ sự đồng ý đó bất cứ lúc nào.
3. Nước tiếp nhận có thể dành cho mình quyền đó đối với những người là công dân nước thứ ba và không đồng thời là công
dân Nước cử đi.
Điều 9
1. Nước tiếp nhận có thể, vào bất cứ lúc và không phải nêu lý do về quyết định của mình, báo cho Nước cử đi rằng người
đứng đầu cơ quan đại diện hay bất cứ một cán bộ ngoại giao nào của cơ quan đại diện là "persona non grata" (người không
được hoan nghênh) hoặc bất cứ một thành viên nào khác của cơ quan đại diện là người không được chấp nhận. Khi đó, Nước
cử đi sẽ, tuỳ theo trường hợp, hoặc gọi người đó về , hoặc chấm dứt chức vụ của người đó trong cơ quan đại diện. Một người
có thể bị tuyên bố "persona non grata" hoặc không được chấp nhận trước khi đến lãnh thổ Nước tiếp nhận.
2. Nếu Nước cử đi từ chối thi hành hoặc không thi hành trong một thời hạn hợp lý những nghĩa vụ của mình nêu ở Đoạn 1
Điều này, Nước tiếp nhận có thể từ chối thừa nhận người đó là thành viên của cơ quan đại diện.
Điều 10
1. Bộ Ngoại giao hoặc một Bộ nào khác đã được thoả thuận của Nước tiếp nhận được thông báo về:
a) Việc cử các thành viên của cơ quan đại diện, việc họ đến và đi hẳn hoặc việc họ thôi giữ chức vụ trong cơ quan đại diện;
b) Việc đến và đi hẳn của một người thuộc gia đình một thành viên của cơ quan đại diện và, nếu có, việc một người trở thành
hoặc thôi không còn là người thuộc gia đình một thành viên của cơ quan đại diện;
c) Việc đến và đi hẳn của những người phục vụ riêng cho những người nêu ở Đoạn a trên đây và, nếu có, việc họ thôi không
phục vụ những người đó nữa;
d) Việc tuyển dụng và cho thôi việc những người cư trú tại nước tiếp nhận với tư cách là thành viên của cơ quan đại diện
hoặc với tư cách là người phục vụ riêng được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ.
2. Mỗi khi có thể được, phải thông báo trước việc đến và đi hẳn.
Điều 11
1. Khi không có thoả thuận cụ thể về số lượng cán bộ nhân viên của cơ quan đại diện, Nước tiếp nhận có thể yêu cầu giữ con
số đó trong giới hạn mà nước đó cho là hợp lý và bình thường, căn cứ vào hoàn cảnh, điều kiện của Nước tiếp nhận và các
nhu cầu của cơ quan đại diện.
2. Nước tiếp nhận cũng có thể, theo những lý do nêu trên và không có sự phân biệt đối xử, từ chối nhận những viên chức
thuộc một loại nào đó.
Điều 12
Nếu không được Nước tiếp nhận chấp thuận một cách rõ ràng từ trước, Nước cử đi không được lập các văn phòng thuộc cơ
quan đại diện tại các địa phương khác ngoài nơi cơ quan đại diện đóng.
Điều 13
1. Người đứng đầu cơ quan đại diện được coi là đã nhậm chức tại Nước tiếp nhận kể từ khi đã trình thư uỷ nhiệm hoặc kể từ
khi đã thông báo là đã đến và đã trao một bản sao y thư uỷ nhiệm cho Bộ Ngoại giao Nước tiếp nhận hoặc một Bộ nào khác
đã được thoả thuận, theo thực tiễn hiện hành ở Nước tiếp nhận và thực tiễn đó phải được áp dụng một cách nhất quán.
2. Thứ tự trình thư uỷ nhiệm hoặc trao bản sao y thư này được xác định căn cứ vào ngày và giờ đến của người đứng đầu cơ
quan đại diện.
Điều 14
1. Những người đứng đầu cơ quan đại diện được phân làm ba cấp như sau:
a) Cấp Đại sứ hoặc Đại sứ của Giáo hoàng được bổ nhiệm bên cạnh Nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu cơ quan đại
diện có hàm tương đương;
b) Cấp Công sứ hoặc Công sứ của Giáo hoàng được bổ nhiệm bên cạnh Nguyên thủ quốc gia:
c) Cấp đại biện được bổ nhiệm bên cạnh Bộ trưởng Ngoại giao.
2. Trừ những việc liên quan đến ngôi thứ và nghi thức, không được có sự phân biệt nào giữa những người đứng đầu cơ quan
đại diện vì cấp bậc của họ.
Điều 15
Các nước thoả thuận với nhau về việc người đứng đầu cơ quan đại diện của mình thuộc cấp nào.
Điều 16
1. Người đứng đầu cơ quan đại diện giữ trình tự ngôi thứ ở từng cấp căn cứ vào ngày và giờ nhậm chức, theo Điều 13.
2. Những sửa đổi trong thư uỷ nhiệm của người đứng đầu cơ quan đại diện, nếu không đề cập đến việc thay đổi về cấp,
không ảnh hưởng gì đến ngôi thứ của họ.
3. Điều này không ảnh hưởng gì đến các tập tục tại Nước tiếp nhận đối với ngôi thứ của người đại diện Toà thánh Va-ti-căng.
Điều 17
Trình tự ngôi thứ giữa các bọ ngoại giao của cơ quan đại diện do người đứng đầu cơ quan đại diện thông báo cho Bộ Ngoại
giao hoặc một bộ nào khác được thoả thuận.
Điều 18
Ở mỗi nước thủ tục áp dụng cho việc tiếp đón những người đứng đầu cơ quan đại diện phải nhất quán ở từng cấp.
Điều 19
1. Nếu chức vị người đứng đầu cơ quan đại diện bị khuyết hoặc nếu người đứng đầu cơ quan đại diện không thể thực hiện
chức năng của mình thì một đại diện lâm thời sẽ tạm thời là người đứng đầu cơ quan đại diện. Họ tên của đại biện lâm thời
đó, hoặc do người đứng đầu cơ quan đại diện, hoặc, nếu người đứng đầu cơ quan đại diện không làm được, do Bộ Ngoại
giao Nước cử đi thông báo cho Bộ ngoại giao Nước tiếp nhận hoặc một Bộ nào khác đã được thoả thuận.
2. Trong trường hợp không một cán bộ ngoại giao nào của cơ quan đại diện có mặt tại Nước tiếp nhận, Nước cử đi có thể,
với sự đồng ý của Nước tiếp nhận, chỉ định một nhân viên hành chính và kỹ thuật điều hành công việc hành chính hàng ngày
của cơ quan đại diện.
Điều 20
Cơ quan đại diện và người đứng đầu cơ quan đại diện có quyền treo quốc kỳ và quốc huy của Nước cử đi trên các trụ sở của
cơ quan đại diện, kể cả trên nhà ở và các phương tiện đi lại của người đứng đầu cơ quan đại diện.
Điều 21
1. Nước tiếp nhận cần phải, hoặc tạo điều kiện dễ dàng để Nước cử đi có được trên lãnh thổ và phù hợp với luật pháp Nước
tiếp nhận, trụ sở cần thiết cho cơ quan đại diện, hoặc giúp Nước cử đi có trụ sở bằng một cách khác.
2. Nếu cần, Nước tiếp nhận cũng phải giúp các cơ quan đại diện có chỗ ở thích hợp cho thanh viên của họ.
Điều 22
1. Trụ sở của cơ quan đại diện là bất khả xâm phạm. Chính quyền Nước tiếp nhận không được vào nơi đó nếu không có sự
đồng ý của người đứng đầu cơ quan đại diện.
2. Nước tiếp nhận có nghĩa vụ đặc biệt thi hành mọi biện pháp thích đáng để ngăn chặn việc xâm nhập hoặc làm hư hại trụ
sở của cơ quan đại diện, việc phá rối sự yên tĩnh hoặc làm tổn hại đến phẩm cách của cơ quan đại diện.
3. Trụ sở của cơ quan đại diện, đồ đạc và tài sản khác ở trong đó cũng như các phương tiện đi lại của cơ quan đại diện không
thể bị lục soát, trưng dụng, tịch thu hoặc đem xử lý.
Điều 23
1. Nước cử đi và người đứng đầu cơ quan đại diện được miễn tất cả các thứ thuế và lệ phí của Nhà nước, khu vực hay thành
phố đánh vào trụ sở của cơ quan đại diện mà họ là người sở hữu hay người thuê, trừ các loại thuế và lệ phí là các khoản thu
về các dịch vụ cụ thể.
2. Việc miễn thuế nêu trong điều này không áp dụng cho các loại thuế và lệ phí mà theo luật lệ của Nước tiếp nhận do những
người giao dịch với Nước cử đi hay với người đứng đầu cơ quan đại diện phải trả.
Điều 24
Hồ sơ và tài liệu của cơ quan đại diện là bất khả xâm phạm bất cứ vào lúc nào và bất kỳ để ở đâu.
Điều 25
Nước tiếp nhận dành mọi sự dễ dàng để cơ quan đại diện thực hiện các chức năng của họ.
Điều 26
Không trái với luật lệ của mình về các khu vực mà việc ra vào bị cấm hoặc phải theo quy định vì lý do an ninh quốc gia,
Nước tiếp nhận phải bảo đảm cho tất cả các thành viên của cơ quan đại diện được tự do đi lại trên lãnh thổ của mình.
Điều 27
1. Nước tiếp nhận phải cho phép và bảo vệ việc tự do thông tin liên lạc của cơ quan đại diện về mọi việc công. Khi liên lạc
với Chính phủ cũng như với các cơ quan đại diện khác và các cơ quan lãnh sự của nước mình đóng bất kỳ ở đâu, cơ quan đại
diện Nước cử đi có thể dùng mọi phương tiện thông tin liên lạc thích hợp, kể cả giao thông viên ngoại giao và điện tín bằng
mật mã hay số hiệu. Tuy nhiên, chỉ khi nào được Nước tiếp nhận đồng ý, cơ quan đại diện mới được đặt và sử dụng đài phát
vô tuyến.
2. Thư tín về việc công của cơ quan đại diện là bất khả xâm phạm. "Thư tín về việc công" được hiểu là mọi thư tín có liên
quan đến cơ quan đại diện và các chức năng của cơ quan đại diện.
3. Túi ngoại giao không thể bị mở hoặc bị giữ lại.
4. Những kiện tạo thành túi ngoại giao phải mang các dấu hiệu bên ngoài dễ thấy, chỉ rõ tính chất của các kiện này và chỉ
được chứa dựng những tài liệu ngoại giao hay những đồ vật dùng vào việc công.
5. Giao thông viên ngoại giao phải mang theo giấy tờ chính thức chứng nhận tư cách của họ, ghi rõ số kiện tạo thành túi
ngoại giao và khi thi hành chức năng của mình, họ được Nước tiếp nhận bảo hộ. Họ được hưởng quyền bất khả xâm phạm
về thân thể và không bị bắt hoặc bị giam giữ dưới bất kỳ hình thức nào.
6. Nước cử đi hay cơ quan đại diện có thể cử giao thông viên ngoại giao ad hoc (được chỉ định theo từng việc). Trong trường
hợp đó, những quy định ở Đoạn 5 của Điều này cũng được áp dụng, nhưng ngay sau khi giao thông viên trao túi cho mình
phụ trách cho người nhận thì các quyền miễn trừ đã nêu sẽ không được áp dụng nữa.
7. Túi ngoại giao có thể được giao cho người chỉ huy máy bay dân dụng sẽ hạ cánh tại một sân bay được phép đến. Người
chỉ huy này phải mang theo giấy tờ chính thức ghi rõ số kiện tạo thành túi ngoại giao, nhưng người đó không được coi là
giao thông viên ngoại giao. Cơ quan đại diện có thể cử một thành viên của mình đến nhận túi ngoại giao một cách trực tiếp
và không bị cản trở từ tay người chỉ huy máy bay đó.
Điều 28
Các khoản tiền mà cơ quan đại diện thu trong việc tiến hành các công việc được miễn mọi thứ thuế và lệ phí.
Điều 29
Thân thể của viên chức ngoại giao là bất khả xâm phạm. Họ không thể bị bắt hoặc bị giam giữ dưới bất cứ hình thức nào.
Nước tiếp nhận cần có sự đối xử trọng thị xứng đáng với họ và áp dụng mọi biện pháp thích đáng để ngăn chặn mọi hành vi
xúc phạm đến thân thể, tự do hay phẩm cách của họ.
Điều 30
1. Nhà riêng của viên chức ngoại giao cũng được hưởng quyền bất khả xâm phạm và được bảo vệ như trụ sở của cơ quan đại
diện.
2. Tài liệu, thư tín và, trừ những trường hợp nêu ở Đoạn 3 của Điều 31, tài sản của họ cũng được hưởng quyền bất khả xâm
phạm
Điều 31
1. Viên chức ngoại giao được hưởng quyền miễn trừ xét xử về hình sự của Nước tiếp nhận. Họ cũng được hưởng quyền miễn
trừ xét xử về dân sự và hành chính, trừ những trường hợp sau:
a) Một vụ kiện về tài sản liên quan đến bất động sản tư nhân nằm trên lãnh thổ Nước tiếp nhận, nếu như viên chức ngoại
giao sở hữu bất động sản đó không trên danh nghĩa Nước cử đi vì các mục đích của cơ quan đại diện.
b) Một vụ kiện liên quan đến việc thừa kế, trong đó viên chức ngoại giao đứng tên là người thực hiện di chúc, người bảo hộ,
người thừa kế hoặc người thừa tự với tư cách cá nhân chứ không phải nhân danh Nước cử đi.
c) Một vụ kiện liên quan đến bất cứ hoạt động nghề nghiệp hoặc thương mại nào mà viên chức ngoại giao tiến hành ở Nước
tiếp nhận ngoài phạm vi những chức năng chính thức của họ.
2. Viên chức ngoại giao không bắt buộc phải ra làm chứng.
3. Không được có bất cứ một biện pháp xử lý nào đối với viên chức ngoại giao, trừ những trường hợp nêu ở các điểm a, b và
c trong Đoạn 1 của Điều này và việc xử lý đó cần được tiến hành sao cho không vi phạm đến quyền bất khả xâm phạm về
thân thể hoặc nhà ở của họ.
4. Quyền được miễn trừ xét xử của một viên chức ngoại giao đối với pháp luật Nước tiếp nhận không miễn trừ cho người đó
đối với pháp luật Nước cử đi.
Điều 32
1. Nước cử đi có thể từ bỏ quyền miễn trừ xét xử của các viên chức ngoại giao và của những người được quyền miễn trừ
theo Điều 37.
2. Việc từ bỏ này bao giờ cũng phải rõ ràng.
3. Nếu một viên chức ngoại giao hay một người được hưởng quyền miễn trừ xét xử theo Điều 37 đứng ra phát đơn kiện,
người đó sẽ không còn được quyền viện dẫn quyền miễn từ xét xử đối với mọi đơn phản kiện có liên quan trực tiếp đến đơn
kiện trước.
4. Việc từ bỏ quyền miễn trừ xét xử trong một vị kiện về dân sự hoặc hành chính không được coi như bao hàm cả việc từ bỏ
quyền miễn trừ đối với những biện pháp thi hành án. Về việc này cần phải có sự từ bỏ riêng.
Điều 33
1. Viên chức ngoại giao được miễn thực hiện các quy định hiện hành về chế độ bảo hiểm ở Nước tiếp nhận đối với các công
việc phục vụ cho Nước cử đi, trừ các quy định ở Đoạn 3 Điều này.
2. Việc miễn trừ nêu ở Đoạn 1 của Điều này cũng được áp dụng đối với những người phục vụ riêng của các viên chức ngoại
giao, với điều kiện:
a) Họ không phải là công dân Nước tiếp nhận hay không có nơi cư trú thường xuyên ở Nước này.
b) Họ phải tuân theo các quy định hiện hành về bảo hiểm xã hội ở Nước cử đi hay ở một Nước thứ ba.
3. Viên chức ngoại giao thuê những người phục vụ không được hưởng quyền miễn trừ nêu ở Đoạn 2 của Điều này phải tuân
theo những nghĩa vụ mà các điều khoản về bảo hiểm xã hội của Nước tiếp nhận quy định đối với người thuê nhân công.
4. Việc miễn trừ nêu ở các Đoạn 1 và 2 của Điều này không loại trừ việc tự nguyện tham gia chế độ bảo hiểm xã hội của
Nước tiếp nhận, miễn là việc tham gia đó được Nước này cho phép.
5. Những quy định của Điều này không ảnh hưởng đến các hiệp định hai bên hay nhiều bên về bảo hiểm xã hội đã được ký
từ trước và không cản trở việc ký các hiệp định như vậy về sau.
Điều 34
Viên chức ngoại giao được miễn mọi thứ thuế và lệ phí của Nhà nước, khu vực hay thành phố đánh vào người hoặc hiện vật,
trừ:
a) Thuế gián thu, là thuế thông thường vẫn được tính gộp vào giá hàng hoá hoặc công dịch vụ;
b) Thuế và lệ phí đối với bất động sản tư nhân nằm trên lãnh thổ Nước tiếp nhận, nếu viên chức ngoại giao không sở hữu bất
động sản đó trên danh nghĩa Nước cử đi để phục vụ cho cơ quan đại diện.
c) Thuế và lệ phí thừa kế do Nước tiếp nhận thu, trừ những quy định nêu ở Đoạn 4 của Điều 39.
d) Thuế và lệ phí đánh vào các khoản thu nhập tư nhân có nguồn gốc ở Nước tiếp nhận và thuế đánh vào vốn đầu tư các cơ
sở thương mại đóng tại Nước tiếp nhận.
e) Thuế và lệ phí thu về việc trả công các dịch vụ cụ thể;
f) Các lệ phí trước bạ, chứng thư, toà án, cầm cố và cước tem về bất động sản, trừ các quy định nêu ở Điều 23.
Điều 35
Nước tiếp nhận phải miễn cho viên chức ngoại giao mọi nghĩa vụ lao động và Nhà nước bất luận mang tính chất nào và
những nghĩa vụ quân sự như trưng dụng, các thứ đảm phụ và việc cung cấp nơi ở cho quân đội.
Điều 36
1. Phù hợp với luật pháp và các quy định của mình, Nước tiếp nhận cho phép nhập khẩu và miễn thuế quan, các loại thuế và
các khoản thu khác có liên quan, trừ các khoản thu về lưu kho, vận chuyển và các dịch vụ tương tự, đối với:
a) Các đồ vật dùng vào việc công của cơ quan đại diện;
b) Các đồ vật dùng riêng cho viên chức ngoại giao hay cho các thành viên trong gia đình cùng sống chung với họ, kể cả
những đồ vật dùng vào việc bố trí nơi ở.
2. Hành lý cá nhân của viên chức ngoại giao được miễn khám xét, trừ phi có những lý do xác đáng để cho rằng hành lý đó
chứa đựng những đồ vật không thuộc loại được hưởng sự ưu đãi nêu ở Đoạn 1 Điều này hay thuộc loại mà luật pháp Nước
tiếp nhận cấm nhập khẩu hay xuất khẩu hay phải tuân theo chế độ kiểm dịch của Nước tiếp nhận. Trong trường hợp đó, việc
khám xét chỉ được tiến hành trước mặt viên chức ngoại giao hoặc người được uỷ quyền đại diện cho họ.
Điều 37
1. Các thành viên gia đình của viên chức ngoại giao cùng sống chung với người đó, nếu không phải là công dân Nước tiếp
nhận, được hưởng những quyền ưu đãi và miễn trừ nêu trong các Điều từ 29 đến 36.
2. Các nhân viên hành chính và kỹ thuật của cơ quan đại diện cũng như các thành viên gia định cùng sống chung với họ, nếu
không phải là công dân Nước tiếp nhận hoặc không có nơi cư trú thường xuyên ở nước này, được hưởng những quyền ưu đãi
và miễn trừ nêu trong các Điều từ 29 đến 35; tuy nhiên quyền miễn trừ xét xử về dân sự và hành chính đối với luật pháp của
Nước tiếp nhận nêu ở Đoạn 1 Điều 31 không áp dụng cho những hành vi ngoài việc thi hành chức năng của họ. Họ cũng
được hưởng các quyền ưu đãi nêu ở Đoạn 1 của Điều 36 đối với những đồ vật nhập khẩu dùng vào việc bố trí nơi ở lần đầu
của họ.
3. Các nhân viên phục vụ của cơ quan đại diện không phải là công dân Nước tiếp nhận hoặc không có nơi cư trú thường
xuyên ở nước này được hưởng những quyền miễn trừ đối với những hành vi trong khi thi hành chức năng của họ và được
miễn các thứ thuế và lệ phí đánh vào tiền lương mà họ lĩnh về công việc đã làm và được hưởng những quyền miễn trừ nêu ở
Điều 33.
4. Những người không phải là công dân Nước tiếp nhận hoặc không có nơi cư trú thường xuyên ở Nước này phục vụ riêng
cho các thành viên của cơ quan đại diện được miễn các thứ thuế và lệ phí đánh vào tiền lương mà họ lĩnh về công việc đã
làm. Về các mặt khác, họ chỉ được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ trong phạm vi được Nước tiếp nhận cho phép. Tuy
nhiên, Nước tiếp nhận nên thực hiện quyền xét xử của mình đối với những người này sao cho không cản trở quá đáng việc
thực hiện các chức năng của cơ quan đại diện.
Điều 38
1. Trừ phi được Nước tiếp nhận cho hưởng thêm các quyền ưu đãi và miễn trừ, viên chức ngoại giao có quốc tịch Nước tiếp
nhận hoặc có nơi cư trú thường xuyên ở Nước này chỉ được hưởng quyền miễn trừ xét xử và quyền bất khả xâm phạm đối
với những hành vi chính thức trong khi thi hành các chức năng của họ.
2. Những thành viên khác của cơ quan đại diện và những người phục vụ riêng là công dân Nước tiếp nhận hoặc có nơi cư trú
thường xuyên ở nước đó chỉ được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ trong phạm vi được nước đó công nhận. Tuy nhiên,
Nước tiếp nhận phải thi hành quyền xét xử của mình đối với những người này sao cho không cản trở quá đáng việc thực hiện
các chức năng của cơ quan đại diện.
Điều 39
1. Người được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ có được các quyền đó từ khi vào lãnh thổ Nước tiếp nhận để nhận chức; nếu
người đó đã có mặt trên lãnh thổ Nước tiếp nhận thì kể từ khi thông báo về việc bổ nhiệm người đó cho Bộ Ngoại giao hay
một Bộ nào khác đã được thoả thuận.
2. Khi chức năng của một người được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ chấm dứt thì thông thường các quyền ưu đãi và
miễn trừ đó cũng chấm dứt vào lúc người đó rời khỏi Nước tiếp nhận, hoặc vào lúc kết thúc một thời hạn hợp lý dành cho họ
vì mục đích đó, ngay cả khi có xung đột vũ trang. Tuy nhiên, đối với những hành vi của người này trong khi thi hành chức
năng của mình với tư cách là thành viên của cơ quan đại diện, quyền miễn trừ vẫn tiếp tục tồn tại
3. Trong trường hợp một thành viên của cơ quan đại diện chết, các thành viên gia đình họ tiếp tục được hưởng các quyền ưu
đãi và miễn trừ mà họ có quyền hưởng cho đến lúc kết thúc một thời hạn hợp lý dành cho họ để rời khỏi lãnh thổ Nước tiếp
nhận.
4. Trong trường hợp một thành viên của cơ quan đại diện không phải là công dân Nước tiếp nhận hoặc không có nơi cư trú
thường xuyên ở Nước này hay một người trong gia đình cùng sống chung với họ chết. Nước tiếp nhận cho phép mang đi
những động sản của người đã chết, trừ tài sản đã có được ở nước này là những thứ bị cấm xuất khẩu vào lúc người đó chết.
Sẽ không thu thuế và lệ phí thừa kế đối với các động sản sở dĩ đã có ở Nước tiếp nhận chỉ vì do người chết đã có mặt tại
Nước này với tư cách là một thành viên của cơ quan đại diện hay là thành viên gia đình một thành viên của cơ quan đại diện
Điều 40
1. Nếu viên chức ngoại giao đi qua hoặc đang ở trên lãnh thổ một nước thứ ba mà nước này đã cấp thị thực cho người đó,
trong trường hợp cần phải có thị thực, để đi nhận chức hoặc để trở lại nhiệm sở của họ, hoặc để về nước thì nước thứ ba cho
người đó hưởng quyền bất khả xâm phạm và mọi quyền miễn trừ cần thiết khác của họ đi qua hoặc trở về. Nước thứ ba cũng
làm như thế đối với những thành viên gia đình của viên chức ngoại giao đó được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại
giao đó khi cùng đi với họ hoặc đi riêng để đến với họ hoặc để về nước.
2. Trong những điều kiện tương tự như những điều kiện nêu ở Đoạn 1 của Điều này, nước thứ ba không được cản trở việc đi
qua lãnh thổ mình của các nhân viên hành chính và kỹ thuật hoặc nhân viên phục vụ của cơ quan đại diện và thành viên gia
đình họ.
3. Nước thứ ba phải dành cho thư tín và các truyền thông chính thức khác khi quá cảnh, kể cả các điện tín bằng mật mã hoặc
số hiệu, quyền tự do và sự bảo hộ như ở Nước tiếp nhận. Nước thứ ba phải dành cho giao thông viên ngoại giao đã được cấp
thị thực hộ chiếu, trong trường hợp cần phải có thị thực, và cho túi ngoại giao khi quá cảnh quyền bất khả xâm phạm và sự
bảo hộ như Nước tiếp nhận dành cho giao thông viên ngoại giao và túi ngoại giao đó.
4. Những nghĩa vụ của nước thứ ba được nêu trong các Đoạn 1, 2 và 3 của Điều này, cũng được áp dụng đối với những
người nêu trong các đoạn đó, cũng như đối với các truyền thông chính thức và túi ngoại giao khi ở trên lãnh thổ Nước thứ ba
vì lý do bất khả kháng.
Điều 41
1. Không làm phương hại đến các quyền ưu đãi và miễn trừ của mình, tất cả những người hưởng các quyền đó có nghĩa vụ
lớn trong luật lệ của Nước tiếp nhận. Họ cũng có nghĩa vụ không được can thiệp vào công việc nội bộ của Nước tiếp nhận.
2. Mọi công việc chính thức với Nước tiếp nhận do Nước cử đi giao cho cơ quan đại diện đều phải được tiến hành với Bộ
Ngoại giao Nước tiếp nhận hoặc thông qua Bộ Ngoại giao hay một Bộ nào khác đã được thoả thuận.
3. Trụ sở của cơ quan đại diện không được đem sử dụng một cách không phù hợp với các chức năng của cơ quan đại diện đã
được nêu trong Công ước này hoặc trong những quy phạm khác của công pháp quốc tế, hoặc trong những hiệp định riêng
hiện hành giữa Nước cử đi và Nước tiếp nhận.
Điều 42
Viên chức ngoại giao không được tiến hành ở Nước tiếp nhận một hoạt động nghề nghiệp hoặc thương mại nào nhằm mục
đích kiếm lợi riêng.
Điều 43
Các chức năng của viên chức ngoại giao chấm dứt trong những trường hợp sau đây:
a) Nước cử đi thông báo cho Nước tiếp nhận rằng những chức năng của viên chức ngoại giao đó đã chấm dứt;
b) Nước tiếp nhận thông báo cho Nước cử đi, theo Đoạn 2 của Điều 9 rằng nước này từ chối việc thừa nhận viên chức ngoại
giao đó là thành viên của cơ quan đại diện.
Điều 44
Nước tiếp nhận, ngay cả trong trường hợp có xung đột vũ trang, phải dành sự giúp đỡ cần thiết để những người được hưởng
các quyền ưu đãi và miễn trừ không phải là công dân Nước tiếp nhận, cũng như các thành viên gia đình họ, không phân biệt
quốc tịch nào, được rời khỏi lãnh thổ Nước tiếp nhận trong thời hạn sớm nhất. Đặc biệt, nếu cần, Nước tiếp nhận phải dành
cho họ các phương tiện vận chuyển cần thiết cho bản thân họ và tài sản của họ.
Điều 45
Trong trường hợp quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị cắt đứt hoặc cơ quan đại diện được rút về hẳn hoặc tạm thời:
a) Nước tiếp nhận, ngay cả trường hợp có xung đột vũ trang, phải tôn trọng và bảo vệ trụ sở cùng với tài sản và hồ sơ của cơ
quan đại diện;
b) Nước cử đi có thể giao việc bảo quản trụ sở của cơ quan đại diện và những tài sản hồ sơ ở trong đó cho một nước thứ ba
mà Nước tiếp nhận có thể chấp nhận được;
c) Nước cử đi có thể giao việc bảo vệ các quyền lợi của mình và của công dân mình cho một nước thứ ba mà Nước tiếp nhận
có thể chấp nhận được.
Điều 46
Với sự đồng ý của Nước tiếp nhận và theo yêu cầu của một nước thứ ba không có đại diện ở nước này. Nước cử đi có thể
đảm nhiệm việc bảo vệ tạm thời các quyền lợi của nước thứ ba và của công dân nước đó.
Điều 47
1. Khi áp dụng các điều khoản của Công ước này, Nước tiếp nhận không được phân biệt đối xử giữa các nước.
2. Tuy nhiên, sẽ không coi là phân biệt đối xử nếu;
a) Nước tiếp nhận áp dụng một cách hạn chế một điều khoản nào đó của Công ước này bởi vì điều khoản đó cũng được áp
dụng như vậy đối với cơ quan đại diện của họ tại Nước cử đi;
b) Các nước cho nhau hưởng, theo tập quán hoặc theo thoả thuận, một quy chế thuận lợi hơn so với yêu cầu của những điều
khoản của Công ước này.
Điều 48
Công ước này để ngỏ cho việc ký của tất cả các nước thành viên của Liên hiệp quốc hoặc của một tổ chức chuyên môn, cũng
như của các nước tham gia Quy chế của Toà án quốc tế hoặc của bất cứ một nước nào khác được Đại hội đồng Liên hợp
quốc mời tham gia Công ước, theo cách thức sau: cho đến ngày 31 tháng 10 năm 1961, ký, tại Bộ Ngoại giao Liên bang của
nước Áo và sau đó đến ngày 31 tháng 3 năm 1962, ký tại Trụ sở Liên hợp quốc ở Niu Yoóc.
Điều 49
Công ước này cần được phê chuẩn, các thư phê chuẩn nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.
Điều 50
Công ước này để ngỏ cho việc gia nhập của bất cứ nước nào thuộc một trong bốn loại nêu trên ở Điều 48. Các văn kiện gia
nhập nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.
Điều 51
1. Công ước này bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày thứ ba mươi tiếp theo sau ngày văn kiện phê chuẩn hay gia nhập thứ hai
mươi hai được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.
2. Đối với mỗi nước sẽ phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước sau khi văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập thứ hai mươi hai đã
được nộp lưu chiểu Công ước sẽ có hiệu lực kể từ ngày thứ ba mươi sau ngày nước này nộp lưu chiểu văn kiện phê chuẩn
hoặc gia nhập của mình.
Điều 52
Tổng thư ký Liên hợp quốc thông báo cho tất cả các nước thuộc một trong bốn loại nêu ở Điều 48;
a) Việc các nước đã ký Công ước này và nộp lưu chiểu các văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập theo các Điều 48, 49 và 50.
b) Ngày Công ước có hiệu lực, theo Điều 51.
Điều 53
Nguyên bản Công ước này, được lập bằng các thứ tiếng Anh, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Pháp và Nga có giá trị như nhau, sẽ
được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên hợp quốc và Tổng thư ký sẽ gửi bảo sao có xác nhận y bản chính cho tất cả các
nước thuộc một trong bốn loại nêu ở Điều 48.
Để làm bằng, các đại diện được uỷ quyền hợp lệ ký tên dưới đây, đã ký vào công ước này.
Làm tại Viên, ngày mười tám tháng tư năm một nghìn chín trăm sáu mươi mốt.
CÔNG ƯỚC VIÊN
CỦA BỘ NGOẠI GIAO NGÀY 24 THÁNG 4 NĂM 1963 VỀ QUAN HỆ LÃNH SỰ
Các nước ký kết công ước này
Nhắc lại rằng quan hệ lãnh sự đã được thiết lập giữa các dân tộc từ lâu đời.
Ghi nhận các Mục đích và Nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc về bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, về duy trì
hoà bình và an ninh quốc tế, về thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các nước,
Xét thấy Hội nghị của Liên hợp quốc về quan hệ và các quyền miễn trừ ngoại giao đã thông qua Công ước Viên về quan hệ
ngoại giao và để ngỏ cho việc ký kết từ 18 tháng 4 năm 1961,
Tin rằng một Công ước quốc tế về quan hệ lãnh sự, quyền ưu đãi và miễn trừ lãnh sự cũng sẽ góp phần phát triển quan hệ
hữu nghị giữa các nước, không phân biệt chế độ lập pháp và xã hội khác nhau.
Nhận thức rằng mục đích của những quyền ưu đãi và miễn trừ lãnh sự không phải là để làm lợi cho cá nhân mà là để đảm
bảo cho các cơ quan lãnh sự thay mặt nước mình thi hành có hiệu quả các chức năng,
Khẳng định rằng những quy phạm của luật tập quán quốc tế tiếp tục điều chỉnh các vấn đề mà các điều khảo của Công ước
này không quy định rõ ràng,
Đã thoả thuận như sau:
Điều 1: Định nghĩa
1. Vì mục đích của Công ước này, những thuật ngữ dưới đây có nghĩa như sau:
a) "Cơ quan lãnh sự" có nghĩa là Tổng lãnh sự quán, Lãnh sự quán, Phó lãnh sự quán hoặc Đại lý lãnh sự quán;
b) "Khu vực lãnh sự" có nghĩa là khu vực dành cho một cơ quan lãnh sự để thực hiện chức năng lãnh sự;
c) "Người đứng đầu cơ quan lãnh sự" có nghĩa là người được bổ nhiệm hoạt động trên cương vị đó;
d) "Viên chức lãnh sự" có nghĩa là bất cứ người nào, kể cả người đứng đầu cơ quan lãnh sự, được uỷ nhiệm thực hiện các
chức năng lãnh sự trên cương vị đó;
e) "Nhân viên lãnh sự" có nghĩa là bất cứ người nào được tuyển dụng làm công việc hành chính hoặc kỹ thuật trong cơ quan
lãnh sự;
f) "Nhân viên phục vụ" có nghĩa là bất cứ người nào được tuyển dụng làm công việc phục vụ nội bộ trong cơ quan lãnh sự;
g) "Thành viên cơ quan lãnh sự" có nghĩa là viên chức lãnh sự, nhân viên lãnh sự và nhân viên phục vụ;
h) "Cán bộ nhân viên biên chế cơ quan lãnh sự" có nghĩa là các viên chức lãnh sự, ngoài người đứng đầu cơ quan lãnh sự,
nhân viên lãnh sự và nhân viên phục vụ;
i) "Nhân viên phục vụ riêng" có nghĩa là người chỉ làm thuê riêng cho một thành viên cơ quan lãnh sự;
j) "Trụ sở cơ quan lãnh sự" có nghĩa là các toà nhà hoặc những phần của các toà nhà và phần đất phụ thuộc, không phân biệt
quyền sở hữu, chỉ sử dụng cho các mục đích của cơ quan lãnh sự;
k) "Hồ sơ lưu trữ lãnh sự" bao gồm tất cả giấy tờ, tài liệu, thư từ, sách phim, băng ghi âm và sổ ghi chép của cơ quan lãnh
sự, cùng với mật mã, phiếu chỉ dẫn, và bất cứ vật dụng nào dùng để bảo quản hay giữ gìn các thứ đó.
2. Viên chức lãnh sự gồm hai loại: Viên chức lãnh sự chuyên nghiệp và viên chức lãnh sự danh dự. Những điều quy định ở
Chương II của Công ước này áp dụng cho các cơ quan lãnh sự do những viên chức lãnh sự chuyên nghiệp đứng đầu; những
điều quy định ở Chương III áp dụng cho những cơ quan lãnh sự do viên chức lãnh sự danh dự đứng đầu.
3. Qui chế riêng đối với những thành viên cơ quan lãnh sự là công dân Nước tiếp nhận lãnh sự hoặc là người thường trú tại
đó do Điều 71 của Công ước này điều chỉnh.
Chương 1:
Điều 1. Tòa án quốc tế được thành lập theo Hiến chương Liên hợp quốc là cơ quan xét xử chính của Liên hợp quốc, được tổ
chức và hoạt động theo đúng các nghị quyết dưới đây của bản quy chế này.
Chương 1.
TỔ CHỨC TÒA ÁN
Điều 2. Tòa án có cơ cấu là một hội đồng các thẩm phán độc lập, được lựa chọn, không căn cứ quốc tịch, trong số những
người có phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng các yêu cầu đề ra ở quốc gia họ để chỉ định vụ xét xử cao nhất, hoặc là những luật
gia có uy tín lớn trong lĩnh vực luật quốc tế.
Điều 3.
1. Tòa án được cấu tạo gồm 15 người, trong đó không thể có 2 công dân của cùng một quốc gia.
2. Người có thể được xem xét để đưa vào thành phần của Tòa án, như công dân của một quốc gia, được coi là công dân của
chính quốc gia đó, mà ở quốc gia ấy công dân này thường xuyên sử dụng các quyền công dân và các quyền chính trị của
mình.
Điều 4.
1. Các ủy viên Tòa án được Đại hội đồng và Hội đồng bảo an lựa chọn trong số những người có tên trong danh sách theo đề
nghị của các tiểu ban dân tộc của Pháp viện thường trực quốc tế phù hợp với những nguyên tắc dưới đây.
2. Đối với các thành viên Liên hợp quốc không có đại diện trong Pháp viện Quốc tế thì các ứng cử viên do các tiểu ban dân
tộc được các chính phủ của họ ủy quyền đưa ra, phải tuân thủ các điều kiện đã được điều 44 Công ước Lahay năm 1907 về
việc giải quyết bằng phương pháp hòa bình các cuộc xung đột quốc tế quy định đối với các thành viên của Pháp viện thường
trực quốc tế.
3. Những điều kiện mà trong đó các quốc gia thành viên của quy chế này, nhưng lại không phải là thành viên của Liên hiệp
quốc, có thể tham gia vào việc lựa chọn thành viên của Tòa án, được Đại hội đồng, nếu không có một điều ước đặc biệt, quy
định theo sự giới thiệu của Hội đồng bảo an.
Điều 5.
1. Ít nhất là trong vòng 3 tháng, trước khi bầu cử Tổng thư ký liên hiệp quốc gửi cho các ủy viên Pháp viện thường trực quốc
tế của các quốc gia thành viên của quy chế này và cho các ủy viên của các tiểu ban dân tộc được chỉ định theo điểm 2 của
điều 1 văn bản đề nghị để mỗi một tiểu ban dân tộc, trong khoảng thời hạn quy định, đưa ra những ứng cử viên có thể nhận
nhiệm vụ của ủy viên Tòa án.
2. Không một tiểu ban nào được đưa ra quá 4 ứng cử viên, trong đó không quá 2 ứng viên có cùng quốc tịch của một quốc
gia được tiểu ban đại diện. Số lượng ứng cử viên được tiểu ban đưa ra trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được vượt
quá 2 lần số ghế bầu.
Điều 6. Điều cần thiết là mỗi tiểu ban trước khi đưa ra các ứng cử viên, phải hỏi ý kiến các cơ quan xét xử cao nhất, các
khoa luật, các trường Cao đẳng tư pháp và các viện Hàn lâm của các quốc gia đó cũng như các phân viện của các viện Hàn
lâm quốc tế chuyên nghiên cứu về luật.
Điều 7.
1. Tổng thư ký Liên hiệp quốc lập danh sách theo thứ tự ABC tất cả những người được đề cử, trừ những trường hợp đã nói ở
điểm 2 của Điều 12, chỉ được bầu những người có tên trong danh sách đó.
2. Tổng thư ký trình bản danh sách lên Đại hội đồng và Hội đồng bảo an.
Điều 8. Đại hội đồng và Hội đồng bảo an khi bầu cử ủy viên Tòa án hoàn toàn độc lập nhau.
Điều 9. Khi bầu cử các cử tri cần phải cân nhắc không những chỉ mỗi ứng cử viên nói riêng phải thỏa mãn tất cả những yêu
cầu đã nêu ra mà toàn bộ cơ cấu thành phần các thẩm phán nói chung cần phải đảm bảo đại diện của các hình thái văn hóa
chủ yếu nhất và các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới.
Điều 10.
1. Những người được coi là trúng cử là những ứng cử viên được tuyệt đại đa số phiếu bầu cử ở cả Đại hội đồng cũng như ở
cả Hội đồng bảo an.
2. Bất cứ việc biểu quyết nào ở Hội đồng bảo an, cả khi bầu thẩm phán cũng như khi chỉ định ủy viên uỷ ban phối hợp đã
được nêu ở điều 12 đều được tiến hành không có sự phân biệt bất kỳ nào giữa các ủy viên thường trực và không thường trực
của Hội đồng bảo an.
3. Trong trường hợp nếu như tuyệt đại đa số phiếu cả ở Đại hội đồng cũng như ở Hội đồng bảo an, chọn nhiều công dân của
cùng một quốc gia trùng nhau thì người được công nhận trúng cử là người nhiều tuổi hơn
Điều 11. Nếu sau phiên họp thứ nhất triệu tập để bầu cử có một hoặc vài ghế trống thì phải triệu tập phiên thứ hai, trong
trường hợp cần thiết phải triệu tập phiên thứ ba.
Điều 12.
1. Nếu sau phiên thứ 3 có một hay vài ghế trống thì trong bất kỳ thời gian nào, theo yêu cầu của Đại hội đồng hay Hội đồng
bảo an, ủy ban phối hợp có thể được triệu tập với thành phần gồm 6 ủy viên: 3 ủy viên theo sự chỉ định của Đại hội đồng, 3
ủy viên theo sự chỉ định của Hội đồng bảo an để bầu lấy một người thế vào mỗi ghế trống với số phiếu chiếm tuyệt đại đa số
và đệ trình người được đề cử lên Đại hội đồng và Hội đồng bảo an xem xét.
2. Nếu ủy ban phối hợp nhất trí để một người nào đó ứng cử mà thỏa mãn mọi yêu cầu thì tên người đó có thể được ghi vào
danh sách ứng cử viên ở điều 7.
3. Khi ủy ban phối hợp thấy rằng việc bầu cử không tổ chức được thì lúc đó các thành viên của Tòa án đã được bầu cử bước
vào giai đoạn đã được Hội đồng bảo an quy định, lựa chọn các thành viên của Tòa án trong số các ứng cử viên có số phiếu
trùng nhau hoặc ở Đại hội đồng hoặc ở Hội đồng bảo an để thế vào ghế trống.
4. Trong trường hợp phiếu của các thẩm phán bằng nhau thì phiếu của người có số tuổi cao hơn sẽ có ưu thế.
Điều 13.
1. Các thành viên của Tòa án được bầu cử cho thời hạn 9 năm và có thể được bầu lại, tuy nhiên với một điều kiện là thời hạn
toàn quyền của 5 thẩm phán khóa đầu tiên sẽ hết sau 3 năm và thời hạn toàn quyền của 5 thẩm phán kia sẽ hết sau 6 năm.
2. Tổng thư ký ngay sau khi kết thúc bầu cử khóa đầu tiên, phải xác định bằng cách rút thăm ai trong số các thẩm phán được
trúng cử vào các nhiệm kỳ 3 năm và 6 năm đã nêu trên.
3. Các thành viên của Tòa án tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của mình cho đến khi họ được thay, thậm chí sau khi bị thay thế họ
phải có nhiệm vụ kết thúc những việc đang làm dở.
4. Trong trường hợp thành viên tòa án đệ đơn về hưu, đơn đó được gửi đến cho Chủ tịch Tòa án để chuyển cho Tổng thư ký.
Sau khi Tổng thư ký nhận được đơn thì vị trí đó coi như khuyết.
Điều 14. Những ghế trống được bổ sung theo trình tự đã được quy định đối với lần bầu cử đầu và phải tuân theo các nguyên
tắc dưới đây: trong vòng một tháng sau khi có ghế khuyết, Tổng thư ký gửi giấy mời như đã nêu ở điều 5, còn ngày bầu cử
do Hội đồng bảo an ấn định.
Điều 15. Thành viên của Tòa án được bầu để thay thế một thành viên khác mà thời hạn toàn quyền của người đó chưa hết
vẫn ở trọng trách cho đến khi mãn hạn của người mình thay thế.
Điều 16.
1. Thành viên Tòa án không được thực hiện một nhiệm vụ chính hoặc hành chính nào và không tự cho mình làm một việc
nào khác có tính chất nghề nghiệp.
2. Những điều nghi vấn về vấn đề này do Tòa án xác định và giải quyết.
Điều 17.
1. Không một người nào trong số các thành viên của Tòa án được làm nhiệm vụ chánh án, luật sư hay trạng sư trong bất kỳ
vụ án nào.
2. Không một người nào trong số các thành viên của Tòa án được tham gia vào việc giải quyết một vụ việc mà trước đó
trong vụ việc này người đó từng tham gia với tư cách là chủ tịch, luật sư hay trạng sư cho một trong các bên, hoặc là thành
viên của Tòa án quốc gia hay Tòa án quốc tế, là nhân viên của ủy ban điều tra hay các tư cách nào khác.
3. Những nghi ngờ về vấn đề này được Tòa án xác định và giải quyết.
Điều 18.
1. Thành viên của Tòa án không được bỏ nhiệm vụ, trừ khi theo ý kiến nhất trí của các thành viên khác, thành viên đó không
còn thỏa mãn các yêu cầu đã nêu ra.
2. Về việc này, Tổng thư ký phải được thư ký của Tòa án thông báo
3. Ngay sau khi nhận được thông báo, ghế đó coi là khuyết.
Điều 19. Các thành viên của Tòa án trong khi thực hiện nhiệm vụ xét xử được sử dụng quyền ưu đãi và quyền bất khả xâm
phạm về ngoại giao.
Điều 20. Mỗi thành viên của Tòa án có nghĩa vụ trước khi nhận nhiệm vụ phải trịnh trọng tuyên bố trong phiên họp công
khai của Tòa án là sẽ thừa hành nhiệm vụ một cách vô tư và tận tình.
Điều 21.
1. Tòa án bầu chủ tịch và phó chủ tịch, nhiệm kỳ 3 năm, Chủ tịch và phó chủ tịch có thể được bầu lại.
2. Tòa án cử thư ký của mình và có thể áp dụng những biện pháp để cử những người giữ những trách nhiệm khác cần thiết
như thế.
Điều 22.
1. Trụ sở của Tòa án là La Hay. Tuy nhiên điều đó không cản trở việc Tòa án có thể họp hay thực hiện chức năng của mình ở
các địa điểm khác trong mọi trường hợp mà Tòa án xét thấy chỗ đó là cần thiết.
2. Chủ tịch và thư ký Tòa án phải ở tại trụ sở của Tòa án.
Điều 23.
1. Tòa án họp thường kỳ ngoại trừ trong những kỳ nghỉ mà thời hạn và thời điểm các kỳ nghỉ này do Tòa án xác định.
2. Ủy viên Tòa án có quyền nghỉ phép theo định kỳ, thời hạn và thời điểm do Tòa án quy định trong đó có sự lưu ý về
khoảng cách từ La Hay, đến quê quán của mỗi thẩm phán.
3. Các ủy viên của Tòa án có nghĩa vụ chịu sự điều hành của Tòa án trong bất kỳ thời gian nào, trừ thời gian đang nghỉ phép
và vắng mặt do ốm đau hoặc do những lý do nghiêm trọng khác cần được giải thích cho chủ tịch Tòa án biết.
Điều 24.
1. Nếu vì một lý do nào đặc biệt đó thành viên của Tòa án thấy rằng họ không cần phải tham gia vào việc giải quyết một vụ
việc nhất định thì báo cáo điều đó cho Chủ tịch.
2. Nếu Chủ tịch Tòa án nhận thấy rằng một thành viên nào đó của Tòa án vì một lý do đặc biệt nào đó không cần thiết phải
tham gia vào việc họp bàn về một vụ việc nhất định thì Chủ tịch báo trước cho thành viên về điều đó.
3. Nếu trong vấn đề này nảy sinh sự bất đồng giữa Chủ tịch và ủy viên của Tòa án thì sự bất đồng này sẽ được Tòa án xác
định và giải quyết.
Điều 25.
1. Ngoài những trường hợp đã nêu trong quy chế này, Tòa án họp phiên toàn thể.
2. Trong điều kiện mà số lượng thẩm phán có mặt để lập Tòa án không dưới 11 người, quy chế này của Tòa án có thể cho
phép là một hay vài thẩm phán, do hoàn cảnh riêng có thể tham dự, vào các phiên họp một cách hợp lệ.
3. Số lượng thẩm phán hợp lệ để lập phiên họp xét xử là 9 người.
Điều 26.
1. Mức độ cần thiết Tòa án có thể lập ra một hay nhiều ban gồm 3 thẩm phán hay nhiều hơn nữa theo sự suy xét của Tòa án
để phân tích các phạm trù nhất định của vụ việc, chẳng hạn, vụ việc về lao động và các vụ việc liên quan đến quá cảnh và
liên lạc.
2. Tòa án, bất kỳ trong thời gian nào, có thể thành lập một ban để phân tích một vụ việc nhất đỉnh. Số lượng thẩm phán để
thành lập một ban như vậy do Tòa án quy định với sự nhất trí của các bên.
3. Các vụ việc sẽ được các ban nêu trong điều này, nghe và giải quyết nếu như các bên yêu cầu.
Điều 27. Quyết định, nghị quyết của một số các ban nêu ở điều 26 và 29 được coi là quyết định, nghị quyết của Tòa án.
Điều 28. Các ban đã nêu ở điều 26 và 29, với sự đồng ý của các bên, có thể họp và thực hiện nhiệm vụ của mình ở các địa
điểm khác ngoài La Hay.
Điều 29. Nhằm mục đích thúc đẩy việc giải quyết các vụ việc, mỗi năm Tòa án lập ra một ban có thành phần gồm 5 thẩm
phán, theo yêu cầu của các bên, ban này có thể xem xét giải quyết vụ việc theo trình tự xét xử sơ bộ. Được chọn thêm 2 thẩm
phán để thay những thẩm phán thấy mình không có thể tham gia vào các phiên họp.
Điều 30.
1. Tòa án vạch ra nội quy quy định nguyên tắc thực hiện chức năng của mình, Tòa án còn quy định các nguyên tắc xét xử.
2. Trong nội quy của Tòa án có thể nêu lên việc tham gia của các phụ phẩm vào các phiên họp của Tòa án hay của các ban
của Tòa án những không có quyền biểu quyết.
Điều 31.
1. Các Thẩm phán có quốc tịch của một trong các bên được quyền tham gia vào các phiên họp về một vụ việc đang được Toà
án tiến hành.
2. Nếu trong thành phần có mặt xét xử của một Thẩm phán có quốc tịch của một bên thì bên kia có thể cử một người theo sự
lựa chọn của mình để tham gia vào việc xét xử. Người đó được lựa chọn trong số những người được đưa ra ứng cử theo như
đã nêu ở điều 4 và 5.
3, Nếu trong thành phần có mặt xét xử không có một Thẩm phán nào của các bên thì mỗi bên có thể chọn Thẩm phán theo
như đã nêu ở điểm 2 của điều này.
4. Quyết nghị của điều này được áp dụng trong trường hợp đã được nêu ở các điều 26 và 29, trong trường hợp ấy Chủ tịch
yêu cầu một hay, trong trường hợp cần thiết, 2 thành viên của Tòa án trong thành phần của các ban dành chỗ của mình cho
ủy viên của Toà án có quốc tịch của các bên hữu quan; hay khi những người này vắng mặt, trong trường hợp không thể tham
gia, sẽ dành chỗ cho các thẩm phán được các bên lựa chọn.
5. Nếu ở một bên có một vấn đề chung thì các bên, do điều đó có liên quan đến việc áp dụng các nghị quyết trước, được xem
như là một bên. Trong trường hợp có các mối nghi ngờ về vấn đề này thì nó sẽ được Tòa án xác định và giải quyết.
6. Các thẩm phán được lựa chọn theo điểm 2, 3, 4 của điều này cần phải thỏa mãn các điều kiện đòi hỏi của điều 2 và điểm 2
của điều 17 và các điều 20, 24 của bản quy chế này. Họ được tham gia một cách bình đẳng với các đồng sự của họ trong việc
tham gia nghị quyết.
Điều 32.
1. Các ủy viên của Tòa án lĩnh lương cả năm.
2. Chủ tịch Tòa án lĩnh phụ cấp đặc biệt cả năm.
3. Phó Chủ tịch lĩnh phụ cấp đặc biệt từng ngày trong thời gian thừa hành chức vụ Chủ tịch.
4. Những Thẩm phán được lựa chọn theo như đã nêu ở điều 31 mà không phải là ủy viên của Tòa án thì lĩnh thù lao từng
ngày của họ thừa hành nhiệm vụ chức trách của mình.
5. Các khoản lương, phụ cấp, thù lao do Đại hội đồng ấn định. Nó có thể ít hơn trong thời gian phục vụ.
6. Lương của thư ký do Đại hội đồng ấn định theo đề xuất của Tòa án.
7. Các nguyên tắc do Đại hội đồng đặt ra quy định các điều kiện trong đó các ủy viên của Tòa án và thư ký Tòa án được
hưởng tiền hưu trí khi họ về hưu cũng như các điều kiện mà các ủy viên và thư ký Tòa án lĩnh phí tổn đi đường.
8. Các khoản lương, phụ cấp, thù lao đã nêu ở trên đây được miễn mọi khoản đóng góp.
Điều 33. Liên hợp quốc chịu chi phí của Tòa án theo như Đại hội đồng đã quy định.
Chương 2.
SỬA ĐỔI
Điều 69. Những sửa đổi quy chế này được đưa vào theo đúng trình tự đã được Hiến chương Liên hợp quốc nêu lên đối với
việc sửa đổi quy chế, tuy nhiên, phải tuân theo tất cả những nguyên tắc mà có thể được Đại hội đồng quy định theo đề nghị
của Hội đồng bảo an về việc tham gia của các quốc gia không phải là thành viên của Liên hợp quốc nhưng lại là thành viên
của quy chế.
Điều 70. Tòa án có quyền đề nghị những điều sửa đổi quy chế này mà Tòa án xét cần thiết, phải báo cáo bằng văn bản những
điều đó cho Tổng thư ký để tiếp tục xem xét phù hợp với các nguyên tắc đã được trình bày ở điều 69.