Professional Documents
Culture Documents
Bảo an có khả năng ngăn cản việc thông qua một nghị quyết không liên quan
đến thủ tục bằng một phiếu chống của mình kể cả khi tất cả các nước thành
viên khác, thường trực và không thường trực, bỏ phiếu tán thành. Nói cách
khác, đây là việc thực hiện nguyên tắc nhất trí giữa năm nước ủy viên thường
trực.
Quyền phủ quyết bắt nguồn từ Điều 27 của Hiến chương Liên Hợp Quốc, trong
đó nêu rõ:
1. Mỗi thành viên của Hội đồng Bảo an sẽ có một phiếu bầu.
2. Quyết định của Hội đồng Bảo an về các vấn đề thủ tục sẽ được đưa ra bằng
một cuộc bỏ phiếu khẳng định của năm thành viên.
3. Quyết định của Hội đồng Bảo an về tất cả các vấn đề khác sẽ được đưa ra
bằng một cuộc bỏ phiếu khẳng định của chín thành viên bao gồm cả phiếu bầu
đồng tình của các thành viên thường trực; với điều kiện, trong các quyết định
theo Chương VI, và theo khoản 3 của Điều 52, một bên tranh chấp sẽ không
tham gia bỏ phiếu.
[Syria] https://vi.wikipedia.org/wiki/Can_thi%E1%BB%87p_qu%C3%A2n_s
%E1%BB%B1_c%E1%BB%A7a_Nga_trong_n%E1%BB%99i_chi%E1%BA
%BFn_Syria
Tuy nhiên, việc hạn chế quyền phủ quyết sẽ có ngoại lệ nếu nó ảnh hưởng đến
lợi ích “sống còn” của một trong năm thành viên thường trực. Khi đó, hạn chế
quyền phủ quyết sẽ không được sử dụng, các Ủy viên sẽ được quyền bác bỏ
các vấn đề mà mình thấy là không đúng.
Phát biểu về vấn đề này, đại diện thường trực của Nga tại LHQ là ông Vitaly
Churkin nói rằng, muốn bãi bỏ quyền phủ quyết thì cần phải thay đổi Hiến
chương Liên Hợp Quốc và không ai trong số 5 thành viên thường trực sẽ phê
chuẩn một sửa đổi như vậy.
Với quyền phủ quyết trong tay, các nước ủy viên thường trực có thể ngăn Hội
đồng bảo an thông qua các nghị quyết bất lợi cho họ và đồng minh.
Không chỉ ngăn chặn Hội đồng bảo an ra quyết định, nước nắm quyền phủ
quyết có thể sử dụng đặc quyền này để tác động tới chương trình nghị sự của
Hội đồng bảo an, làm đòn bẩy mặc cả để định hình nội dung dự thảo nghị quyết
trước cả khi văn bản được soạn thảo.
Mỹ bảo vệ isarel
Trước tiên, nền chính trị thực dụng (realpolitik) vẫn là trung tâm trong cách
tiếp cận của Mỹ đối với an ninh và xung đột khu vực. Tại Trung Đông, tầm
nhìn chiến lược của Mỹ xoay quanh việc họ tăng cường ủng hộ các đồng minh
truyền thống như Israel và Saudi Arabia, nhằm kiềm chế "kẻ thù truyền kiếp" là
Iran.
Thông qua các số liệu cụ thể tại hai biểu trên, chúng ta thấy rằng trong thời kỳ
chiến tranh lạnh, hoạt động của Hội đồng Bảo an gần như bị tê liệt do các quốc
gia thực hiện quyền phủ quyết veto. Sau chiến tranh lạnh, tình hình đã cải thiện
hơn thể hiện qua mối tương quan giữa các nghị quyết được thông qua bởi Hội
đồng Bảo an và số lượng các lần sử dụng quyền phủ quyết veto của các uỷ viên
thường trực Hội đồng Bảo an.
Có thể chỉ ra vài trường hợp điển hình về việc sử dụng quyền phủ quyết veto
này : Liên Xô cũ sử dụng quyền phủ quyết veto để chống lại Nghị quyết năm
1980 lên án hành vi xâm lược Afghanistan ; Mỹ có hành động tương tự đối với
nghị quyết lên án việc ném bom bắn phá các bến cảng ở Nicaragua ; đối với
nghị quyết lên án hành vi xâm lược ở Panama ; trường hợp Mỹ ba lần liên tiếp
sử dụng quyền phủ quyết veto liên quan đến vấn đề nhà nước apacthai
Rhodesia năm 1977. Trong thực tiễn, quyền phủ quyết veto được các nước sử
dụng khi lợi ích của họ bị đe doạ, ảnh hưởng. Trong trường hợp vấn đề có ít
ảnh hưởng đến lợi ích của họ, sẽ chẳng có hành động nào được triển khai. Đã
có không ít các thảm hoạ nhận đạo đã bị “bỏ quên” do Hội đồng Bảo an bị tê
liệt trong thời kỳ chiến tranh lạnh, bên cạnh đó sau thời kỳ chiến tranh lạnh
mặc dù đã có những nghị quyết can thiệp vì mục đích nhân đạo của Hội đồng
Bảo an, tuy nhiên những nghị quyết đó không phải bao giờ cũng đến kịp thời
nhằm ngăn chặn các thảm hoạ nhân đạo do phụ thuộc vào ý chí và lợi ích chính
trị của các thành viên thường trực Hội đồng Bảo an. Đây cũng là lý do để một
số quốc gia muốn thực hiện quyền can thiệp đơn phương vịn vào vì cho rằng
khi Liên hợp quốc không hành động để đẩy lùi các thảm hoạ nhân đạo thì các
quốc gia có quyền đơn phương thực hiện hoạt động can thiệp này. Lý do trên
cho dù trái pháp luật quốc tế và bị cộng đồng quốc tế lên án nhiều nhưng nó lại
là phổ biến trong đa số các hoạt động can thiệp nhân đạo đã diễn ra. Khi các
quốc gia đơn phương can thiệp nhân đạo vào quốc gia khác thì hậu quả thật
khôn lường vì hoạt động đó không được pháp luật quốc tế điều chỉnh và nó
thường được tiến hành vì lợi ích, mục tiêu chính trị, kinh tế…của
Cơ chế phủ quyết trực tiếp dẫn tới thế bế tắc của Hội đồng Bảo an trong nhiều
vấn đề lớn của thế giới khi một hoặc nhiều nước ủy viên sử dụng quyền lực
này. Một minh chứng sinh động nhất cho vấn đề quyền phủ quyết là tình hình
chiến sự tại Ukraine.
Kể từ khi chiến sự bùng phát ngày 24/2 năm ngoái, Hội đồng Bảo an Liên Hợp
Quốc đã tổ chức hàng chục phiên họp công khai về tình hình Ukraine. Nhưng
sau hơn 1 năm, cơ quan quyền lực nhất của Liên hợp quốc vẫn không thể thông
qua một nghị quyết nào giúp tìm ra giải pháp cho cuộc xung đột. Điều này cho
thấy sự bế tắc của Hội đồng Bảo an trong những tình huống khẩn cấp, bởi 5 ủy
viên thường trực nắm trong tay quyền phủ quyết có thể ngăn cản mọi quyết
định của cơ quan này.
Việc loại bỏ quyền Veto trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc là một vấn
đề phức tạp với nhiều tranh luận.
Quyền Veto cản trở việc giải quyết các cuộc xung đột quốc tế. Ví dụ, Nga
đã sử dụng quyền Veto để ngăn chặn các hành động chống lại Syria, khiến cho
cuộc nội chiến ở Syria kéo dài và gây ra nhiều đau khổ cho người dân.
Quyền Veto tạo ra sự bất công trong Liên Hợp Quốc. 5 nước Ủy viên
thường trực (Mỹ, Nga, Trung Quốc, Anh, Pháp) có quyền Veto, trong khi các
quốc gia khác không có. Điều này khiến cho 5 nước Ủy viên thường trực có
quyền lực lớn hơn các quốc gia khác.
Quyền Veto có thể bị lạm dụng để bảo vệ lợi ích quốc gia của một số quốc
gia, bất chấp lợi ích chung của cộng đồng quốc tế.
Quyền Veto giúp bảo vệ quyền lợi của các quốc gia lớn. Nếu không có
quyền Veto, các quốc gia lớn có thể bị áp đặt bởi các quốc gia nhỏ hơn.
Quyền Veto giúp duy trì sự đoàn kết trong Hội đồng Bảo an. Nếu không có
quyền Veto, các quốc gia có thể dễ dàng bỏ phiếu chống lại nhau, dẫn đến sự
chia rẽ trong Hội đồng Bảo an.
Loại bỏ quyền Veto có thể dẫn đến sự bất ổn trong hệ thống quốc
tế. Quyền Veto là một phần quan trọng của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Loại
bỏ quyền Veto có thể dẫn đến những thay đổi lớn trong hệ thống quốc tế, điều
này có thể gây ra sự bất ổn.
Sự thay đổi trong hệ thống quốc tế. Nếu hệ thống quốc tế trở nên công bằng
và hợp tác hơn, thì việc bỏ quyền phủ quyết có thể dễ dàng được chấp nhận
hơn.
Sự đồng thuận của các quốc gia. Việc bỏ quyền phủ quyết chỉ có thể thực
hiện được nếu có sự đồng thuận của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia Ủy
viên thường trực.
Những điểm hạn chế, bất cập của quyền phủ quyết của các quốc gia thuộc
Hội Đồng Bảo An:
1. Cản trở việc giải quyết các cuộc xung đột quốc tế:
Ví dụ, Nga đã sử dụng quyền phủ quyết để ngăn chặn các hành động chống lại
Syria, khiến cho cuộc nội chiến ở Syria kéo dài và gây ra nhiều đau khổ cho
người dân.
Quyền phủ quyết cũng được sử dụng để bảo vệ các quốc gia vi phạm luật nhân
quyền, khiến cho việc trừng phạt những quốc gia này trở nên khó khăn.
5 nước Ủy viên thường trực (Mỹ, Nga, Trung Quốc, Anh, Pháp) có quyền phủ
quyết, trong khi các quốc gia khác không có.
Điều này khiến cho 5 nước Ủy viên thường trực có quyền lực lớn hơn các quốc
gia khác, và có thể áp đặt ý chí của mình lên các quốc gia nhỏ hơn.
Quyền phủ quyết có thể được sử dụng để bảo vệ lợi ích quốc gia của một số
quốc gia, bất chấp lợi ích chung của cộng đồng quốc tế.
Ví dụ, Mỹ đã sử dụng quyền phủ quyết để bảo vệ Israel, bất chấp việc Israel vi
phạm luật quốc tế.
Việc sử dụng quyền phủ quyết có thể dẫn đến sự bất đồng giữa các quốc gia
trong Hội đồng Bảo an.
Điều này có thể làm tê liệt hoạt động của Hội đồng Bảo an và khiến cho việc
giải quyết các vấn đề quốc tế trở nên khó khăn hơn.
Quyền phủ quyết là một phần quan trọng của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Loại bỏ quyền phủ quyết có thể dẫn đến những thay đổi lớn trong hệ thống
quốc tế, điều này có thể gây ra sự bất ổn.
Quyền phủ quyết có thể được sử dụng để ngăn chặn các cải cách cần thiết cho
Liên Hợp Quốc.
Quyền phủ quyết có thể được sử dụng để bảo vệ các chế độ độc tài.
Có thể đề xuất các quy định để hạn chế việc sử dụng quyền phủ quyết, ví dụ
như chỉ cho phép sử dụng quyền phủ quyết trong một số trường hợp nhất định.
Cũng có thể đề xuất quy định yêu cầu các quốc gia phải giải thích lý do khi sử
dụng quyền phủ quyết.
2. Mở rộng Hội đồng Bảo an:
Việc mở rộng Hội đồng Bảo an để bao gồm nhiều quốc gia hơn có thể giúp
giảm bớt ảnh hưởng của các quốc gia có quyền phủ quyết.
Tuy nhiên, việc mở rộng Hội đồng Bảo an cũng có thể dẫn đến một số vấn đề
khác, ví dụ như làm cho việc ra quyết định trở nên khó khăn hơn.
3. Tăng cường vai trò của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc:
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc có thể đóng vai trò quan trọng hơn trong việc giải
quyết các vấn đề quốc tế, nếu được trao nhiều quyền lực hơn.
Ví dụ, Đại hội đồng có thể được trao quyền để bỏ phiếu bác bỏ quyết định sử
dụng quyền phủ quyết của Hội đồng Bảo an.
Việc tăng cường hợp tác quốc tế có thể giúp giải quyết các vấn đề quốc tế một
cách hiệu quả hơn, mà không cần đến việc sử dụng quyền phủ quyết.
Các quốc gia có thể hợp tác để giải quyết các vấn đề như xung đột quốc tế, vi
phạm luật nhân quyền, và biến đổi khí hậu.
Bỏ quyền phủ quyết của các quốc gia thuộc Hội Đồng Bảo An: Bất cập và
thay thế
Gây mất cân bằng quyền lực: Việc bỏ quyền phủ quyết có thể dẫn đến sự mất
cân bằng quyền lực trong Hội đồng Bảo an, khiến các quốc gia lớn có ảnh
hưởng chi phối hơn.
Yếu kém hiệu quả: Loại bỏ quyền phủ quyết có thể khiến việc ra quyết định
trong Hội đồng Bảo an trở nên khó khăn hơn, do các quốc gia có thể dễ dàng
phản đối nhau.
Gây bất ổn: Thay đổi cấu trúc quyền lực lâu đời của Hội đồng Bảo an có thể
dẫn đến bất ổn trong hệ thống quốc tế.
Thay thế quyền phủ quyết bằng các hình thức bỏ phiếu khác:
Bỏ phiếu đa số: Hình thức này có thể giúp giải quyết vấn đề bế tắc do quyền
phủ quyết, nhưng có thể khiến các quốc gia nhỏ cảm thấy bị áp đặt bởi các
quốc gia lớn.
Bỏ phiếu có trọng số: Hình thức này có thể cân bằng quyền lực giữa các quốc
gia, nhưng có thể dẫn đến tranh cãi về cách thức phân bổ trọng số.
Quyết định bằng đồng thuận: Hình thức này khuyến khích sự hợp tác và tìm
kiếm giải pháp chung, nhưng có thể tốn thời gian và khó đạt được thỏa thuận.