You are on page 1of 17

Lớp 9A4 - Năm học 2023 - 2024

VĂN BẢN HOÀNG LÊ


NHẤT THỐNG CHÍ
(Ngô Gia Văn Phái)
I .TÁC GIẢ
Nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả
Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà tây cũ. Đây là
dòng họ lớn nổi tiếng đỗ cao và có tài văn chương.
+ Ngô Thì Chí (1753 - 1788) làm quan dưới thời
vua lê Chiêu Thống
+ Ngô Thì Du (1772 – 1840) làm quan dưới triều
Nguyễn.
+ Họ là những người trung thành với nhà Lê.
II. TÁC PHẨM
1. Hoàn cảnh sáng tác: Khoảng cuối thế kỉ XVIII
đầu thế kỉ XIX , chế độ phong kiến VN khủng hoảng
trầm trọng với nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra
mà tiêu biểu là phong trào Tây Sơn.
2. Thể loại (Thể chí)
Là một loại văn ghi chép sự vật, sự việc, con người
và cũng có thể xem đây một cuốn tiểu thuyết lịch sử
theo kết cấu chương hồi.
3. Nhan đề:
Hoàng Lê nhất thống chí là ghi chép về sự thống nhất
vào thời vua Lê diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê.
4. Khái quát nội dung và nghệ thuật
* Nội dung:

1
- Với quan niệm đúng đắn về lịch sử và niềm tự hòa
dân tộc, các tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí đã tái
hiện lại hình ảnh người anh hùng Quang Trung –
Nguyễn Huệ với chiến công thần tốc – đại phá quân
Thanh. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số
phận bi thảm của vua tôi Lê Chiêu Thống.
* Nghệ thuật:
- Truyện kể xen kẽ với miêu tả một cách sinh động,
cụ thể gây ấn tượng mạnh với người đọc.
5. Tóm tắt hồi 14
- Trước thế mạnh quân giặc, quân Tây Sơn ở Thăng
Long rút về Tam Điệp và cho người vào Phú Xuân
cấp báo với Nguyễn Huệ.
- Nhận được tin, ngày 21/11 Nguyễn Huệ liền tổ chức
lại lực lượng chia quân thành hai đạo thủy, bộ.
- Ngày 25/12 lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là
Quang Trung, trực tiếp chỉ huy hai đạo quân tiến ra
Bắc
- Ngày 29/12, quân Tây Sơn đến Nghệ An. Quang
Trung dừng lại một ngày hỏi ý kiến của la sơn phu tử
Nguyễn Thiếp về việc đánh giặc và tuyển thêm một
vạn binh. Mở cuộc duyệt binh lớn và truyền lời phủ
dụ.
- Ngày 30/12, quân Tây Sơn ra đến Tam Điệp – Biện
Sơn hội quân cùng tướng Sở và Lân. Quang Trung
khẳng định chẳng quá 10 ngày có thể đuổi được quân
thanh. Và cũng trong ngày 30 khi giặc giã còn chưa

2
yên, binh đao hãy còn mà Quang Trung đã nghĩ đến
kế sách xây dựng đất nước 10 năm sau chiến tranh.
Ông còn mở cuộc khao quân và hẹn mùng 7 sẽ vào
Thăng Long mở tiệc lớn.

- Ngày mùng 5 tết, nghĩa quân tiến đánh đồn Ngọc


Hồi, quân giặc chống trả quyết liệt nhưng cuối cùng
phải đầu hàng. Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử. Tôn Sĩ
Nghị phải tháo chạy về nước. Lê Chiêu Thống cùng
gia quyến chạy trốn theo giặc.
III. PHÂN TÍCH
A. Hình tượng người anh hùng Quang Trung
Câu chủ đề:
Trong hồi thứ 14 của tác phẩm Hoàng
Lê nhất chí của Ngô Gia Văn Phái, hình
tượng người anh hùng Quang Trung hiện
lên thật cao đẹp với khí phách hào hùng,
trí tuệ sáng suốt , tầm nhìn xa trông rộng
và tài thao lược hơn người
1. Trước hết Quang Trung là một người hành
động mạnh mẽ, quyết đoán:
Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn là
người hành động một cách xông xáo nhanh gọn có
chủ đích và rất quả quyết.

3
- Nghe tin giặc chiếm thành Thăng Long mất cả một
vùng đất đai rộng lớn ông giận lắm. Ông không hề
nao núng “định thân chinh cầm quân đi ngay”
- Chỉ trong vòng hơn 1 tháng, ông đã làm được nhiều
việc lớn :
+Tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, dốc
xuất đại binh ra Bắc, gặp gỡ người cống sĩ ở huyện
La Sơn
+ Tuyển mộ binh sĩ.
+ Mở cuộc duyệt binh lớn tại Nghệ An
với lời phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch tấn công và kế
hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
2. Đó là con người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:
- Ngay khi mấy chục vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị
hùng hổ kéo vào nước ta, thế giặc mạnh, tình thế
khẩn cấp, vận mệnh đất nước đang ở thế “ngàn cân
treo sợi tóc”, Nguyễn Huệ quyết định lên ngôi hoàng
đế để chính danh, lấy hiệu là Quang Trung (25 tháng
chạp năm 1788)
- Việc lên ngôi đã được tính kĩ với mục đích thống
nhất nội bộ, hội tụ anh tài và quan trọng hơn là để
yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, được nhân
dân ủng hộ.

4
* Sáng suốt trong việc phân tích tình hình tương
quan lực lượng giữa ta và địch (Thể hiện rõ trong
lời phủ dụ tướng sĩ lúc lên đường tại Nghệ An)
- Quang Trung khẳng định chủ quyền dân tộc “Đất
nào sao ấy người phương Bắc không phải nòi giống
nước ta, bụng dạ ắt khác”.
- Lên án hành động xâm lăng phi nghĩa của giặc “Từ
đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc
nước ta , giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình
không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”.
- Quang Trung đã nhắc lại truyền thống chống giặc
ngoại xâm của dân tộc để khích lệ tướng sĩ dưới
quyền bằng những tấm gương chiến đấu dũng cảm
chống giặc ngoại xâm giành độc lập của cha ông từ
ngàn xưa như: “Đời Hán có Trưng nữ Vương, đời
Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên
có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ”.
- Kêu gọi nhân dân đồng tâm hiệp lực.
- Quang Trung đã dự kiến việc Lê Chiêu Thống về
nước có thể làm một số người phù Lê “thay lòng đổi
dạ” với mình nên ông có lời dụ quan lính chí tình
vừa nghiêm khắc. Đề ra kỉ luật nghiêm minh với
những kẻ ăn ở hai lòng “các người đều là những
người có lương tri, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp
lực để dựng lên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở
hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết chết
ngay tức khắc, không tha một ai”.

5
* Sáng suốt trong việc xét đoán và dùng người:
- Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của
Quang Trung với Sở và Lân ta thấy rõ ông am hiểu
tình thế buộc phải rút quân của hai vị tướng này.
Đúng ra thì “quân thua chém tướng” nhưng ông rất
hiểu họ, sức mình ít không địch nổi quân hùng tướng
mạnh của nhà Thanh nên mới phải bỏ Thăng Long
rút về Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Vậy Sở và
Lân không bị trừng phạt mà còn được khen ngợi.
- Đối với Ngô Thì Nhậm, ông đánh giá cao và sử
dụng như một vị quân sĩ “đa mưu túc trí”. Việc Sở và
Lân rút chạy Quang Trung cũng đoán do Nhậm chủ
mưu, vừa để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự
chủ quan. Ông tính đến việc dùng Nhậm là người biết
dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao.
-> Quang Trung là vị vua rất hiểu tướng sĩ, khen
chê đúng người, đúng việc ân uy rạch ròi.

3. Quang Trung là người có Ý chí quyết thắng và


tầm nhìn xa trông rộng:
- Ông luôn tin ở mình, tin ở chính nghĩa của dân tộc,
tin tưởng và khẳng định chắc chắn vào chiến thắng.
Mới khởi binh đánh giặc , chưa giành được đất nào
vậy mà Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “
Phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, đã biết thắng
giặc trong 10 ngày, và dự kiến cả ngày chiến thắng

6
“Bất quá chưa tới mươi ngày là xong”, đã khao binh
trước và hẹn mùng 7 ăn tết ở Thăng Long .
- Quang Trung đã tính cả kế hoạch sau chiến thắng,
tìm cách ngoại giao với giặc để có thể dẹp được binh
đao cho ta yên ổn nuôi dưỡng lực lượng.
( Đang ngồi trên lưng ngựa, Quang Trung đã nói với
Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 năm
tới ta hòa bình lo đánh giặc. Đối với địch, thường thì
biết thắng việc binh đao không thể dứt ngay được vì
xỉ nhục của nước lớn còn đó. Nếu “chờ 10 năm nữa
ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ
nước giàu quân mạnh thì ta sợ gì chúng”).

4. Quang Trung là vị tướng có tài thao lược hơn


người, một bậc kì tài về quân sự
- Cách sắp xếp quân lính của nhà vua trong cuộc
duyệt binh ở Nghệ An rất hợp lí “ đem số thân quân
ở Thuận Hóa, Quảng Nam chia làm bốn doanh
tiền, hậu, tả, hữu,còn sổ lính mới tuyển ở Nghệ An
thì làm trung quân”. Số thân quân đã có kinh
nghiệm tác chiến sẽ vừa bao bọc giữ vững phòng
tuyến vừa tiện việc huấn luyện cho số quân mới
tuyển. Chi tiết ấy tuy nhỏ nhưng cũng đã nói lên cái
tài của người cầm quân biết suy nghĩ thấu đáo, cẩn
trọng từng chút một.

7
-Tài dụng binh như thần của Quang Trung được
khắc họa nổi bật và rõ nét nhất qua cuộc hành quân
thần tốc có một không hai trong lịch sử dân tộc khiến
cho kẻ thù bị bất ngờ và người đời sau đầy kinh ngạc.
Vừa hành quân vừa đánh giặc mà Quang Trung
hoạch định kế hoạch từ 25 tháng chạp đến mùng 7
tháng giêng sẽ vào ăn tết ở thành Thăn Long, trong
thực tế đã vượt mức 2 ngày.
- Hành quân liên tục như vậy nhưng cơ nào đội ấy
vẫn chỉnh tề. Đội quân đó không phải toàn lính thiện
chiến ( có cả lính mới) nhưng dưới sự chỉ huy tài tình
của Quang Trung, họ đã trở thành một đội quân dũng
mãnh. “Tướng ở trên trời xuống, quân ở dưới đất
chui lên”. Đánh đâu thắng đó, đánh áp đảo quân thù
và tất cả đều chớp nhoáng.
- Linh hoạt trong kế sách đánh giặc, ở mỗi trận đánh
chọn phương lược tiến đánh khác nhau nhưn rất phù
hợp và hiệu quả: Trận Phú Xuyên đánh bí mật, trận
Hạ Hồi dùng cách đánh mưu lược táo bạo, trận
Ngọc Hồi dùng cách đánh giáp lá cả nhưng mưu trí
mạnh mẽ.
5. Quang Trung - vị vua lẫm liệt trong chiến trận:
- Vua Quang Trung tự mình hoạch định kế hoạch
đánh giặc, tự mình thống lĩnh một mũi tiên phong,
cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha nơi chiến trận.

8
- Hình ảnh Quang Trung lẫm liệt qua chi tiết: Trong
cảnh khói tỏa mù trời cách gang tấc không thấy gì
nổi bật hình ảnh vua cưỡi voi đi đốc thúc với tấm áo
bào đã sạm đen khói súng.
-> Ông chính là linh hồn của trận đánh, của chiến
thắng vĩ đại.
Câu kết đoạn (Tổng phân hợp – Qui nạp)
Như vậy, bằng những lời văn chân thực, kể chuyện xen
kẽ với miêu tả một cách sinh động, cụ thể gây ấn
tượng mạnh với người đọc. Qua hồi thứ 14 của Hoàng lê
nhất thống chí, các tác giả đã khắc họa thành công hình
tượng vua Quang Trung – một vị vua yêu nước, sáng suốt
nhạy bén và có tầm nhìn xa trông rộng, tài thao lược hơn
người, bậc kì tài quân sự, xây dựng hình tượng này, các tác
giả đã gửi gắm vào đó sự cảm phục trước tài năng, đức độ
của vua Quang Trung và niềm tự hào sâu sắc về lịch sử của
nước nhà.
Câu kết đoạn (Diễn dịch)
Như vậy, bằng những lời văn chân thực, kể chuyện xen kẽ
với miêu tả một cách sinh động, cụ thể gây ấn tượng
mạnh với người đọc. Qua hồi thứ 14 của Hoàng lê nhất
thống chí, các tác giả đã gửi gắm vào đó sự cảm phục trước
tài năng, đức độ của vua Quang Trung và niềm tự hào sâu
sắc về lịch sử của nước nhà. Tình cảm ấy thật đáng trân
trọng.

9
Như vậy, bằng những lời văn chân thực, hồi thứ 14 của
Hoàng lê nhất thống chí đã khắc họa thành công hình tượng
vua Quang Trung. Vua Quang Trung là hình ảnh
sáng ngời, biểu tượng cho tinh thần và sức
mạnh quật cường cho ý chí độc lập tự chủ
của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh ấy mãi
mãi khắc ghi trong chúng từ niềm tự hào
về truyền thống đấu tranh bất khuất của
dân tộc ta và lòng biết ơn sâu sắc người
con ưu tú của cả dân tộc

Kết luận: Các tác giả Ngô Gia Văn Phái mặc dù
mang tư tưởng chính thống, trung thành với nhà Lê
nhưng với thái độ tôn trọng lịch sử, sống giữa những
biến động của thời đại, họ nhận rõ sự thối nát, hèn
kém của vua Lê - chúa Trịnh. Đồng thời cũng không
thể phủ nhận được công lao cũng như tài năng của
anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ. Và với ý thức
dân tộc cao họ đã tao nên những trang viết chân thực
và hay về người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Mặt
khác chính Nguyễn Huệ cũng là một hình ảnh đẹp,
tiêu biểu cho khí phách dân tộc và tinh thần dân chủ
của nhân dân nên đã tạo ra cảm hứng cho các tác giả
với những trang văn đẹp.

---------------------HẾT--------------------

10
B. SỰ THẢM HẠI CỦA QUÂN TƯỚNG NHÀ
THANH VÀ SỐ PHẬN BI THẢM CỦA VUA TÔI
LÊ CHIÊU THỐNG
a. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh
*Tôn Sỹ Nghi kiêu căng, tự mãn, chủ quan:
- Kéo quân vào Thăng Long dễ dàng “ngày đi đêm nghỉ”
như “đi trên đất bằng”, cho là vô sự, không đề phòng gì, chỉ
lảng vảng ở bờ sông, lấy thanh thế suông để dọa dẫm.
- Hơn nữa y còn là một tên tướng bất tài, cầm quân mà
không biết tình hình thực hư ra sao. Dù được vua tôi Lê
Chiêu Thống báo trước, y vẫn không chút đề phòng suốt
mấy ngày Tết “chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng,
không hề lo chi đến việc bất chắc”, cho quân lính mặc sức
vui chơi.
- Khi quân Tây Sơn đánh đến nơi, tướng sợ mất mật,
ngựa không kịp đóng yên, người kịp mặc giáp … chuồn
trước qua cầu phao, quân thì lúc lâm trận “ai nấy đều
rụng rời, sợ hãi, xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán loạn,
giày xéo lên nhau mà chết”, “quân sĩ các doanh nghe
thấy đều hoảng hốt, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua
cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất
nhiều”, “đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn
không chảy được nữa”. Cả đội binh hùng, tướng mạnh,
chỉ quen diễu võ dương oai bây giờ chỉ còn biết tháo
chạy, mạnh ai nấy chạy, “đêm ngày đi gấp, không dám
nghỉ ngơi”.

11
- Quân lúc lâm nguy , thì ai nấy đều rụng rời, sợ hãi, xin
hàng hoặc “ tan tác bỏ chạy tranh nhau qua cầu sông,
xô đẩy nhau rơi xuống mà chết nhiều… sông Nhị Hà vì
thế tắc nghẽn không chạy được nữa”.
* Nghệ thuật:
- Kể chuyện xen kẽ với những chi tiết tả thực, cụ thể,
sống động với nhịp điệu nhanh , dồn dập, gấp gáp, gợi
sự hoảng hốt của kẻ thù.
- Ngòi bút miêu tả khách quan nhưng vẫn hàm chứa tâm
trạng hả hê sung sướng của người viết, cũng như của cả
dân tộc trước chiến thắng của vua Quang Trung.
b. Số phận bi thảm của bọn vua tôi Lê Chiêu Thống
phản nước, hại dân
- Lê Chiêu Thống và bề tôi trung thành của ông đã vì
lợi ích của dòng họ mà đem vận mệnh đất nước đặt vào
tay kẻ thù xâm lược. Họ phải chịu đựng nỗi sỉ nhục của
kẻ đi cầu cạnh, van xin. Không còn tư cách quân vương
và kết cục cũng phải chịu chung số phận bi thảm của
kẻ vong quốc : + Lê Chiêu Thống cùng với bè tôi
thân tín chạy bán sống bán chết, cướp cả thuyền của dân
để qua sông luôn mấy ngày không ăn.
+ Phải gửi gắm xương tàn nơi đất khách
quê người .
*Nghệ thuật: Kể xen với miêu tả nhưng ngòi bút lại
đậm chất xót thương của bề tôi trung thành với nhà Lê .
*So sánh: Ngòi bút của tác giả khi miêu tả hai cuộc
tháo chạy có gì khác biệt,giải thích.

12
- Tất cả đều tả thực với những chi tiết cụ thể nhưng âm
hưởng lại khác nhau.
+ Đoạn trên : Tả sự nhanh, mạnh, hối hả
“ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo
giáp” , “tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang
sông”.
Ngòi bút miêu tả khách quan nhưng vẫn hàm chứa tâm
trạng hả hê …
+ Đoạn sau : Nhịp điệu chậm hơn, tác giả đã
dừng lại miêu tả tỉ mỉ những giọt nước mắt thương cảm
của người thổ hào. Nước mắt tủi hổ của vua Lê Chiêu
Thống. Và cuộc thiết đãi thịnh tình của kẻ bề tôi, âm
hưởng có phần ngậm ngùi, chua xót. Là cựu thần của
nhà Lê, các tác giả không thể ngủi lòng trước sụ sụp đổ
của một vương triều mà mình đã từng phụng thờ. Mặc
dù, biết đó là kết cục không tránh khỏi.
---------------Hết------------
-
ĐOẠN VĂN THAM KHẢO VỀ HÌNH ẢNH VỊ VUA
LẪM LIỆT TRONG TRẬN ĐỊA

* Câu chủ đề:


Hình ảnh Quang Trung - vị vua lẫm liệt trong
chiến trận đã được khắc họa nổi bật và rõ nét qua
đoạn trích trong tác phẩm Hoàng Lê Nhất thống chí
của Ngô Gia Văn Phái.
* Triển khai:

13
- Vua Quang Trung thân chinh cầm quân không phải
chỉ trên danh nghĩa. Ông làm tổng chỉ huy chiến dịch
thật sự, hoạch định từ đường lối chiến lược chiến
thuật tổ chức đạo quân đến tự mình thống lĩnh một
mũi tiên phong cưỡi voi đi đốc thúc xông pha nơi
chiến trận, bày mưu tính kế.
- Đội quân của vua Quang Trung không phải hoàn
toàn là lính thiện chiến lại vừa trải qua nhữn ngày
hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi. Vậy
mà dưới sự lãnh đạo tài giỏi của Quang Trung họ đã
đánh những trận thật đẹp, giành chiến thắng áp đảo
kẻ thù:
+ Bắt hết quân do thám của địch ở Phú
Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ.
+ Vây kín làng Hà Hồi, “ Quân lính luân
phiên dạ ran” làm cho lính trong đồn “ ai nấy rụng ra
sợ hãi” xin hàng.
+ Khi công phá đồn Ngọc Hồi quân
lính lấy ván ghép phủ rơm ngâm nước, dàn trận chữ
nhất tiến đánh. Khi giáp lá cà thì quăng ván xuống
đất ai nấy đều cần dao gắn chém bừa. Những người
cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới, khí thế
của đội quân này làm cho kẻ thù kinh hồn bạc vía,
chúng tưởng như tướng ở trên trời rơi xuống quân
chui từ dưới đất lên.
- Đặc biệt hình ảnh người anh hùng được khắc
họa oai phong lẫm liệt trong trận đánh đồn Ngọc

14
Hồi. Trong cảnh khói tỏa mù trời, cách gang tấc
không thấy gì, nổi bật hình ảnh nhà vua với tấm áo
bào đỏ đã sạm đen thuốc súng cưỡi voi đích thân chỉ
huy trận đánh, xông pha cùng tướng sĩ làm cho kẻ thù
khiếp vía. Đây là hình ảnh đẹp của một vị hoàng đế
quả cảm, tài năng, ông đã trở thành linh hồn của cuộc
kháng liệt chống ngoại xâm.
* Câu kết đoạn :
Quang Trung là hình ảnh sáng ngời, biểu tượng
cho tinh thần và sức mạnh quật cường cho ý chí
độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh ấy
mãi mãi khắc ghi trong chúng từ niềm tự hào về
truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc ta và
lòng biết ơn sâu sắc người con ưu tú của cả dân
tộc

------------------Hết--------------

15
ĐOẠN VĂN TÀI DỤNG BINH NHƯ THẦN CỦA
VUA QUANG TRUNG

* Câu chủ đề: Tài dụng binh như thần của vua
Quang Trung đã được khắc họa nổi bật và rõ nét qua
đoạn trích trong tác phẩm Hoàng Lê Nhất thống chí
của Ngô Gia Văn Phái.
Triển khai:
- Ông đã tiến hành một cuộc hành quân thần tốc
khiến cho kẻ thù khiến cho kẻ thù bị bất ngờ và người
đời sau đầy kinh ngạc.
+ Vừa hành quân vừa đánh giặc mà Quang
Trung hoạch định kế hoạch từ 25 tháng chạp đến
mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở thành Thăn Long,
trong thực tế đã vượt mức 2 ngày.
+ 25 tháng chạp xuất quân ở Phú
Xuân(Huế), 30 tháng chạp hội quân ở Tam Điệp
(Ninh Bình), cách Huế 500 km
+ Đêm 30 tháng chạp tiến quân từ Tam
Điệp, vừa hành quân vừa đánh giặc, trưa mùng 5 đã
vào đến Thăng Long + hành quân xa nhưng đội quân
vẫ chỉnh tề bởi tài tổ chức của người cầm quân.
-Cách đánh linh hoạt, sáng tạo:
+ Đêm 30: vượt sông Gián diệt đồn tiền tiêu, bắt
quân do thám, đảm bảo bí mật, bất ngờ

16
+ Đêm mùng 3: hạ đồn Hà Hồi bằng lối đánh nghi
binh “ lặng lẽ vây kín làng ấy” “ bắc loa truyền gọi,
tiếng quân lính dạ ran...” khiến giặc trong đồn “rụng
rời sợ hãi, liền xin ra hàng”
+ Mờ sáng mùng 5: hạ đồn Ngọc Hồi , dùng các tấm
ván tẩm rơm ướt “dàn trận chữ nhất” tiến sát chân
đồn vừa không hao tổn lực lượng, tránh được súng
phun lửa, vừa tiến sát chân đồn, đánh giáp lá cà “câm
dao ngăn chém bừa”...
+ Tấn công kết hợp chặn đường rút chạy “sai một
toán quân theo bờ đề Yên Duyên...làm nghi binh phía
đông”, quân Thanh chạy về “càng thêm hoảng sợ”,
nhìn thấy quân voi giặc “trốn xuống đầm Mực” “ bị
quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết hàng vạn
người”
Câu kết đoạn:
Với nghệ thuật trần thuật theo diễn biến sự việc,
miêu tả nhân vật qua việc làm, hình ảnh.
Tác giả đã cho ta thấy vua Quang Trung chính là linh
hồn của trận đánh, tài cầm quân của ông mang tính
quyết định cho thắng lợi của cuộc đại phá quân
Thanh, cảm phục và biết ơn tài năng quân sự kiệt
xuất của người anh hùng Quang Trung.

------------------Hết--------------

17

You might also like