Professional Documents
Culture Documents
Văn 12
Văn 12
Đất nước – đề tài muôn thuở trong thi ca và nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn
nghệ sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh, tình yêu đối với đất nước lại càng tỏa sáng và
rực cháy trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Đoạn trích "Đất nước" của Nguyễn Khoa
Điềm được sáng tác trong bối cảnh ấy.
Khi nhắc đến văn chương thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta biết những nhà thơ
trong thời kỳ này như Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật... họ viết về hào khí
của cả một dân tộc:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
mà lòng phơi phới dậy tương lai.”
Một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn chương Việt Nam ngày ấy phải kể đến
một nhà thơ đã trưởng thành trong cuộc kháng chiến trường kỳ nhưng nhất định thắng lợi
của dân tộc – đó là Nguyễn Khoa Điềm.
Khi nói đến Nguyễn Khoa Điềm, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đều
không thể quên phong cách thơ ông là phong cách thơ trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa
Điềm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư của người
trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Một trong những kiệt tác của
Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến đoạn trích “Đất nước” thuộc chương V của “Trường ca mặt
đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm
1974.
Tác phẩm đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của nhân dân”, do nhân dân bảo
vệ và gìn giữ muôn đời trên cả 3 bình diện: chiều rộng của không gian địa lý chiều dài của
lịch sử và chiều sâu văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm những câu hỏi “Đất nước
này là do ai làm ra? Sẽ do ai bảo vệ và gìn giữ muôn đời?" Để trả lời cho những câu hỏi ấy,
Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của mình để đi tìm về cội nguồn của đất nước.
Khi nói đến vẻ đẹp của đất nước trên bình diện của chiều sâu văn hóa, ta phải hiểu văn hóa là
những giá trị mà con người ở 1 vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị tinh thần cũng có thể là
giá trị phi vật thể. Nguyễn Khoa Điềm nhìn nhận người Việt Nam không chỉ ra đi để bảo vệ
đất đai xứ sở mà còn truyền và bảo vệ cho nhau những hạt giống dân ta, những vẻ đẹp mang
đậm cốt cách của con người Việt Nam được truyền từ đời này sang đời khác, từ trái tim của
người già sang lồng ngực của người trẻ, đó là vẻ đẹp mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam ta.
Đất Nước bắt đầu từ một cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:
Cấu trúc câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” đã hữu hình hóa quá trình phát triển của
đất nước trong trường kì lịch sử, đất nước tựa như một sinh mệnh sống với nội lực mãnh liệt.
Nghệ thuật liệt kê là biện pháp chủ đạo quán xuyến toàn bộ bài thơ, góp phần khắc họa đất
nước bình dị, gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, đất nước hài hòa trong mối
quan hệ gia đình, làng xóm. Đất nước là một phần máu thịt trong kí ức của mỗi con người.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể”
Nhà thơ ngược dòng cảm xúc của mình về với những cái ngày xửa ngày xưa, đưa ta về
miền cổ tích diệu kì từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, tâm hồn ta, cho ta những bài
học nhân sinh về lẽ sống nhân hậu, sống nghĩa tình, sống yêu thương, đùm bọc, chở che
nhau.
“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn”
Đó là tục nhuộm răng, tục nhai trầu của người già. Đồng thời đó cũng là câu ca dao tục
ngữ “miếng trầu là đầu câu chuyện”, là sự tích trầu cau, là vẻ đẹp của người già Việt Nam.
Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt. Từ truyện ca dao, cổ tích đến tục ngữ, “miếng
trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương,
lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc. Tiếp đến, nhà thơ như một người hướng dẫn đưa ta trở
về làng Phù Đổng nghe lại sự tích Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân.
“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh dân ta trồng tre đánh giặc không chỉ được lặp lại 1 lần mà còn xuyên suốt 90 câu
thơ hình ảnh này được lặp lại tới ba lần, đó là biểu tượng cho truyền thống yêu nước, đánh
giặc giữ nước của nhân dân Việt Nam. Có thể thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian
đến tác phẩm thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần quật cường
đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Từ
“lớn lên” được dùng rất chính xác, rạo rực niềm tin, niềm tự hào dân tộc.
Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy từ về cội nguồn Đất Nước giàu chất triết
luận mà vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình
ảnh bình dị, thân thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong
đời sống mỗi người. Câu thơ: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” nhắc đến chúng ta nghe về thứ tập
tục làm nên nét riêng của người phụ nữ VN truyền thống.
Đất nước trưởng thành từ những giọt mồ hôi tần tảo dầm mưa dãi nắng. Hạt thóc, hạt gạo
thấm mồ hôi, thấm nhọc nhằn nuôi lớn biết bao những thế hệ. Đất nước lớn lên từ những
gian khổ của cha và từ những lo âu của mẹ: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối
mặn”. Đó là chất liệu của ca dao tục ngữ, đó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng đá, là lối sống
thủy chung, son sắt của những cặp vợ chồng Việt Nam.
Câu thơ “Cái kèo, cái cột thành tên” nói đến tục đặt tên con xấu cho dễ nuôi. Thủ pháp
nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ tám “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần,
sàng” chỉ ra những bước để tạo ra hạt gạo - một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn
bảo vệ hạt giống, cốt cách con người Việt Nam. Những vẻ đẹp do cha mẹ truyền cho con
tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho con cháu lối sống và
nếp nghĩ thông qua ca dao tục ngữ.
Và chính nhân dân là những người đã truyền lại những vẻ đẹp của đất nước, những nét
đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần tác giả nhận ra: “Đất Nước có từ ngày đó...”, ta
không biết ngày đó là ngày nào chỉ biết đó là từ rất xưa, rất xa. Chỉ biết rằng đất nước có từ
lúc những huyền thoại, truyền thuyết, từ lúc dân tộc hình thành phong tục tập quán, từ lúc
dân Việt mình không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng và dùng bàn tay lao
động để xây dựng đất nước.
“Ngày đó” vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ. Vậy là
Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh
giặc, biết trồng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung.
Như đã nói ở trên, Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, là một
trong những nhà thơ đã xẻ dọc chiều dài của mảnh đất hình tia chớp. Trước hết, khi nói về
chiều rộng của không gian địa lý ta phải hiểu địa lý là tất cả những yếu tố về mặt tự nhiên
trên một đơn vị diện tích lãnh thổ đất nước. Là một nhà thơ đã đi hết chiều dài của mảnh đất
hình chữ S, ông hiểu từng đại danh và vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất NướcNhững núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Ấn tượng ban đầu của chúng ta khi đọc tám câu thơ là ta như bị chìm ngập trong không
gian cổ tích diệu kỳ thần thoại. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, các sự tích như “núi vọng
phu”, hay “hòn Trống Mái”.
Một lần nữa tác giả như một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta trở về làng Phù Đổng
nghe sự tích thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân. Đó là truyền thống yêu nước của
nhân dân ta. Mỗi một dòng thơ tuy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung một kết cấu.
Mỗi dòng thơ đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng điệp từ “góp”.
Ta có thể chia đoạn thơ dọc theo từ “góp” sẽ được hai nửa diễn tả theo tương quan đối lập.
Nửa trước nói về nhân dân, lời thơ mộc mạc, bình dị, cảm xúc, có pha chút ngại ngùng, xót
thương. Trái lại, nửa sau từ “góp” lại nói về đất nước, lời thơ lộng lẫy những sắc màu muôn
hình vạn trạng. Nghệ thuật tương phản này chính là bài ca ca ngợi sự hi sinh của nhân dân để
tạo nên đất nước huy hoàng. Đằng sau mỗi địa danh là một tên gọi, đằng sau mỗi tên gọi là
một huyền thoại và sau những huyền thoại là cuộc đời của những con người. Nhân dân làm
nên đất nước, đó là những cặp vợ chồng thủy chung, là những anh hùng, những người lính
quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, là những người học trò nghèo nghiền bút, là ông Đốc, ông
Trang, bà Đen, bà Điểm... Hơn thế nữa, nhân dân còn là những cái tên bé nhỏ vô danh được
ẩn dụ bằng những hình ảnh con cóc, con gà.. Trong nhân dân còn có những nhân vật mà chỉ
nhắc đến ta đã thấy hùng vĩ thiêng liêng, ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh
“Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” phúc quanh núi Hy Cương hay
“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Nhân dân ta đa dạng là thế, đông đảo
là vậy mà chỉ làm một việc chung và thống nhất: góp sức chung lòng để xây dựng nên đất
nước Việt Nam ta. Nhà thơ sử dụng điệp từ “góp” thật ấn tượng, gợi sự kiên trì, bền bỉ, ý chí
thống nhất, tình đoàn kết trăm người chung một việc: góp phần kiến tạo nên không gian huy
hoàng cho nhân dân. Nhân dân đã góp sức, góp sự đoàn kết và góp cả máu xương, cả tính
mạng, góp tên tuổi, góp tài hoa. Nhờ đó mà thế hệ chúng ta mới có được một đất nước hữu
hình – đất nước của những anh hùng.
Nguyễn Khoa Điềm có nhắc đến những địa danh không tên. Có người đã từng nói “đất
hoang là đất không tên”. Việc đặt tên cho một địa danh là vô cùng quan trọng, không thể làm
tùy tiện. Có không ít những địa danh đã soi bóng trong thơ ca dân tộc nhằm ca ngợi núi sông
hùng vĩ, địa linh nhân kiệt.
Nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đi theo hướng đó, ông lại diễn tả sự sinh sôi của các địa
danh đó vì ở đó có lòng chung thủy, sự gắn bó, có máu xương, có tài hoa, có tên tuổi, có linh
hồn của nhân dân. Đây là kết quả của sự hi sinh bền bỉ to lớn của nhân dân. Có thể nói, tám
câu thơ đều đã giúp người đọc thấy được sự kỳ diệu của thế hệ trước. Nó giống như một
bông vàng chói lọi mà tổ quốc gọi công cho nhân dân – người đã hi sinh để làm nên tác
phẩm kỳ diệu là nhân dân ta.
Nếu như tám dòng thơ trước tưng bừng những màu sắc lấp lánh, hình tượng đầy chất thơ
thì bốn câu thơ sau lại là những cảm xúc chứa đựng đầy suy ngẫm của lối nói chính luận xen
lẫn sự trầm ngâm của một trí thức.
Trước hết ta đến với hai câu thơ:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”
Được viết liền mạch theo lối vắt dòng và diễn tả bằng lối phủ định để khẳng định. Nó
giống như một tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức tranh luận để khẳng định mạnh mẽ những
hi sinh to lớn của nhân dân. Tiếp đến, câu thơ thứ ba: “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu
ta cũng thấy” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ như không giấu nổi lòng
mình, bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh vĩ đại của nhân dân.
Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử dân tộc, bốn nghìn
lớp cha ông đều chiến đấu, đời cha đi trước, đời con đi sau, cha con đều là những đồng chí
đồng đội chiến đấu vì độc lập dân tộc. Kết thúc đọan thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng:
“Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...” bởi có sự chuyển đổi. Những câu thơ trước đó mỗi
dòng đều có từ mười ba đến mười lăm âm tiết nhưng ở câu thơ cuối lại chỉ vỏn vẹn trong tám
âm tiết. Đó như một sự trầm ngâm, một sự đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó,
nó còn được kết thúc bởi hai thanh bằng như một lời hạ giọng để suy tư in dấu vào âm
hưởng. Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ như một phút lặng của long người trước những xáo
trộn của tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là câu thơ thật hàm súc.
Cuộc đời của những con người tuy ngắn ngủi hữu hạn là thế nhưng lại hóa thành núi sông
ta, gởi những cái hùng vĩ vô hạn, vĩnh hằng bất biến. Đây chính là sự biến đổi phi thường
khẳng định nhân ta thật kỳ diệu! Họ chẳng những hóa thân để làm nên hình hài đất nước mà
còn làm nên linh hồn đất nước.
Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của lịch
sử. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà sử gia chính thống, là một quan đại thần
dưới triều Lê, ông là một nhà chép sử, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử
Việt Nam là sự tiếp nối của các triều đại, của các đời vua:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Nhưng ngược lại, Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia
chính thống. Đoạn thơ có lẽ mang đậm màu sắc lịch sử nhất trong toàn bộ thi phẩm này ta
phải kể đến: “Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước”
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con”
Nếu như Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính
thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu và
nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn lớp người Việt Nam
ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành
đồng chí chung câu quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của người dân Việt Nam.
Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh
hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của những con người vô danh:
“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”
Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời họ:
“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai
xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau
mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn
lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong giặc
ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi người yêu văn chương vọng lại
những vần thơ của Hoàng Trung Thông trong bài thơ “Báng súng”:
“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.
Chính nhân dân đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết
lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam thì đó là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân
dân. Cũng như vậy, ta lại nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ “Dáng đứng
Việt Nam” của Lê Anh Xuân:
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng
Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”
Không một dòng địa chỉ, cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng những con
người ấy vẫn nguyện ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở nguyện ngã xuống để “Tổ quốc bay lên
bát ngát mùa xuân”.
Hay như triết gia người Đức – Engels đã từng nói: “Nếu như không có máu, mồ hôi và
nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi,
điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước này là Đất
Nước của Nhân dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã trở về với
ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao, vẻ đẹp
tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, dân ca, truyện cổ : Đất
Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại. Câu thơ hai vế song song là một cách
định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà cũng thật độc đáo. Nền văn hóa của Đất Nước Việt
Nam là nền văn hóa của Nhân dân, do Nhân dân sáng tạo nên. Trong nền văn hóa ấy, ca dao
thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước, đặc biệt là đời sống tâm
hồn của nhân dân.
Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà
chỉ sử dụng ý tứ và hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng lại trở thành một câu
thơ, một ý thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài để từ đó khẳng định: Con người Việt
Nam say đắm trong tình yêu.
Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân gian
kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa
mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí,
giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay
bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn
đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc
của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.
Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta phần nào nhận thấy đặc điểm của phong cách thơ
Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận với trữ tình, giữa suy tưởng với cảm xúc
cùng ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng
đẹp chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm lòng sứ
điệp” để ta thêm yêu và tự hào vể Đất Nước Việt Nam 4000 năm lịch sử. Qua đó ta có thể
thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hoá, “Đất nước này là của nhân dân”, sẽ do nhân
dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chưng cất, lắng ủ và lên
men trong tiếng thơ của mình, vẻ đẹp duyên dáng nhuần nhị của những thi liệu văn hóa văn
học dân gian. Sự nhất quán trong toàn bộ đoạn thơ với những câu thơ dài ngắn đan xen nhau
như sự tan chảy của dòng cảm xúc, sự miên man của dòng suy tưởng. Xuyên suốt toàn bộ
bài thơ 2 chữ “Đất nước” luôn được viết hoa 1 cách trang trọng, lặp đi lặp lại tựa như 1 nốt
chủ âm trong bản trường ca về non sông gấm vóc. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu
nước và tinh thần tự hào dân tộc, cùng trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài
thơ được viết theo lối trường ca, kể lể, liệt kê, khó đọc khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn
Khoa Điềm thể hiện trong tác phẩm này ông xứng đáng là một trong số những nhà thơ tiêu
biểu của văn chương Việt Nam ngày ấy. Đồng thời, “Đất nước” cũng xứng đáng trở thành
hành trang tinh thần của người yêu văn chương suốt bấy nhiêu lâu nay về đề tài tình yêu quê
hương, tình yêu đất nước và có giá trị cho đến ngày hôm nay.
SÔNG HƯƠNG
1.Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút ký, tản văn. ông có 1 lối viết rất riêng.
Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú
về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí. Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc
tích, mê đắm và tài hoa. Tác phẩm của ông chủ yếu viết về Huế. Trong đó, tùy bút “Ai đã đặt
tên cho dòng sông?” thực sự là một trong những trang viết hay nhất của nhà văn về một dòng
sông mang bao huyền thoại đẹp – Sông Hương. (Nêu theo yêu cầu của đề bài)
II/ THÂN BÀI
- Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời: Được viết (1/1981) in trong tập ký cùng tên.
- Vị trí đoạn trích: Bài kí gồm 3 phần, đoạn trích nằm ở đoạn đầu của phần thứ nhất
* Nhan đề của tác phẩm: Tác phẩm mở đầu và kết thúc cũng bằng 1 câu hỏi.
+ Với nhan đề như vậy, tác giả muốn lưu ý mọi người về một cái tên đẹp của dòng sông và
cũng là cái cớ để tác giả ngợi ca vẻ đẹp của quê hương. Nhan đề gợi sự tò mò, mong muốn
khám phá của người đọc, vì thế đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn cho bài kí.
+ Với cách lý giải này tác giả muốn thể hiện tình yêu tha thiết của người dân có độ với dòng
sông quê hương đồng thời cũng thể hiện lòng biết ơn chân thành, sự thán phục, ngưỡng mộ
của tác giả và mọi người đối với những người khai phá mảnh đất này. Mặt khác không thể
trả lời vắn tắt trong một vài câu mà phải trả lời bằng cả bài kí dài ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ
của dòng sông
PHÂN TÍCH
Vẻ đẹp sông Hương được phát hiện, khám phá từ góc độ cảnh sắc thiên nhiên
(Địa lí)
a. Con sông Hương ở thượng nguồn
* Sông Hương ở trong dãy Trường Sơn hùng vĩ
- Sông Hương Trang và đẹp dữ dội, mãnh liệt Sông Hương là 1 bản trường ca của rừng già
và mang vẻ đẹp của 1 cô gái Di-gan:
- Sông Hương mang vẻ đẹp dịu dàng, say đắm: .
* Sông Hương qua khỏi dãy Trường Sơn hùng vĩ
- Sông Hương nhanh chóng “mang 1 sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa
của 1 vùng văn hóa xứ sở". Sông Hương giống như người mẹ hiền, mang phù sa màu mỡ bôi
tụ cho bản làng, quê hương.
- Sông Hương không muốn bộc lộ tâm hồn mình mà “đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa
khóa trong những hang đá ở chân núi Kim Phụng”. Đây là vẻ đẹp bí ẩn, sâu thẳm của dòng
sông, sông Hương như muốn không cho người đời biết rằng ở thượng nguồn nó cũng khoác
lên mình vẻ đẹp dữ dội, mãnh liệt và dịu dàng, say đắm.
b. Con sông Hương về đồng bằng
- Hành trình của sông Hương về Huế được xem như là hành trình tìm lại người yêu, tình
nhân của mình trong 1 câu chuyện nhuốm màu cổ tích. Trong cái nhìn tinh tế, đầy lãng mạn
của cái tôi tài hoa Hoàng Phủ Ngọc Tường thì hành trình này giống như 1 cuộc
tìm kiếm có ý thức của người con gái để gặp người tình nhân sau bao năm dài xa cách.
* Sông Hương tìm đến Huế
- Sông Hương đã thay dòng, đổi hướng liên tục trong hành trình tìm về với Huế:
+ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ví von “Phải nhiều thế kỉ đi qua, người tình mong đợi mới đến
đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại”.
+ “Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục,
vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Sự chuyên
dòng ấy, trong cách cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường giống như một cuộc tìm kiếm có
ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Vẫn những đường cong
mềm mại, sông Hương lại có sự chuyển mình: “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng
nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm
đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột về một hình cũng thật tròn về phía đông bắc,
ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế".
- Sắc nước sông Hương biến ảo:
+ Có lúc cảnh sắc sông Hương như bức tranh có đường nét, có hình khối với: “Sắc nước trở
nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những
điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy
dòng sông mềm như tấm lụa với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”.
+ Người đọc còn bắt gặp vẻ đẹp đa màu mà biến ảo, phản quang màu sắc của nền trời Tây
Nam thành phố: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
- Vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc:
+ Sông Hương lại có vẻ đẹp trầm mặc chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những
lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn.
+ Đó là vẻ đẹp mang màu sắc triết lí, cổ thì khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng
chuông chùa Thiên Mụ,
→Sông Hương qua cái nhìn lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường như 1 cô gái dịu dàng,
mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu theo tiếng gọi vang vọng từ trái tim
* Sông Hương gặp Huế
- Khi gặp Huế thì sông Hương vui tươi hẳn lên: Khi tìm đúng đường về, sông Hương
vuiNtươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long.
- Sông Hương kéo một nét thẳng thực yên tâm: Sông Hương kéo một nét thẳng thực yên
tâm theo hướng Tây Nam-Đông Bắc, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy hình ảnh "Chiếc cầu
trắng in ngắn trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”.
- Sông Hương uốn 1 cánh cung:Ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ
sang đến cửa Hến”. Nhà văn như thổi linh hồn vào cảnh vật, đường cong ấy làm cho dòng
sông như mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Đây là vẻ
e thẹn, ngượng ngùng khi gặp người tình mong đợi của mình, cả 2 đã thuận tình nền không
cần nói ra cũng đã đồng điệu, đồng cảm.
→Cuối cùng, sông Hương và Huế-2 người tình đã gặp nhau, cả 2 đã hòa làm 1, sống Hương
làm nên vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Huế, Huế làm nên vẻ đẹp trầm tư, sâu lắng của sông
Hương,
- Sông Hương mang nước đi khắp thành phố: Sông Hương cùng với những nhánh sông
đào mang nước đi tắm táp, nuôi sống khắp thành phố, tạo nên những miệt vườn xanh mướt.
Ở đây sông Hương cũng thay đổi tốc độ dòng chảy và chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh,
nó như muốn gắn bó và lưu lại mãi với nơi này. Sông Hương là con sông của tình yêu, của
nỗi nhớ, với vẻ đẹp trầm mặc trong câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo:
Sao thèm 1 điều gì xưa lắm
Thèm đọc lắm 1 đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng, bằng khói bằng sương.
- Sông Hương điệu chảy slow. Từ sông Hương xinh đẹp nhà văn liên tưởng tới nhiều con
sông trên thế giới như sóng Xen, sông Nê-va, sông Đa-nuýp...và nhận ra điểm tương đồng
giữa chúng là cùng chảy giữa lòng thành phố. Nhưng sông Hương khác với các
dòng sông khác là bởi vì nó vẫn giữ được những nét cổ kính và nếu sông Nê-va chảy nhanh
quá thì sông Hương lại rất chậm buồn như điệu Slow “đấy là điệu slow tình cảm dành riêng
cho Huế”. Tình cảm của dòng sông dành cho thành phố Huế cũng rất sâu
nặng. Sông Hương đang dùng dằng, đầy nhớ thương mà không muốn trôi đi về phía biên.
→Cuộc gặp gỡ của Huế và sông Hương được tác giả cảm nhận như cuộc hội ngộ của tác già
Sông Hương được tác giả khám phá, phát hiện từ góc độ tâm trạng SH đến với Huế như đến
với điểm hẹn của tình yêu sau 1 hành trình dài trở nên vui tươi và mềm mại sông Hương qua
cách so sánh đây mới lạ, đầy bất ngờ của nhà văn sông Hương trở nên có linh hồn, sự sống
như 1 cô gái si tình đang chìm đắm trong tình yêu.
* Sông Hương tạm biệt Huế:
- Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính Bắc, ôm lấy đảo cồn Hến quanh
năm mơ màng trong sương khói, xa dần về thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc
của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
- Dường như sông Hương không muốn xa thành phố: “Rồi như sực nhớ lại một điều gì đó
chưa kịp nói. Nó đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần
cuối ở góc Bao Vinh xưa cổ”. Trong con mắt của cái tôi tài hoa Hoàng Phủ Ngọc Tường thì
có 1 cái gì đó rất đỗi tự nhiên và rất giống con người ở đây, khi 1 lần nữa ông miêu tả con
sông Hương rời xa kinh thành Huế.
-Cuộc chia tay giữa sông Hương và kinh thành huế được nhà văn ví von sông Hương
giống như nàng Kiều chí tình trở lại tìm Kim Trọng. Vì thế nên nhìn “khúc quanh này"
thấy nó thật bất ngờ", Nhà Văn cảm nhận “khúc quanh" ấy giống như là nỗi vương vấn, cả
một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Đó là sự chí tình của Sông Hương trở lại để
nói một lời thề trước khi về biển cả", Tác giả liên hệ “Lời thề ấy vang vọng khắp khu vực
sông Hương thành giọng hò dân gian, ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi
chung tình với quê hương xứ sở".
→Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng nhiều điểm nhìn của các loại hình nghệ thuật khác
nhau để miêu tả sông Hương Cách tiếp cận đối tượng bằng nhiều ngành nghệ thuật như hội
họa, âm nhạc, nghệ thuật nhân hóa, so sánh đầy mới lạ, bất ngờ làm cho sông
Hương, xứ Huế trở nên có linh hồn, có sự sống. Đó là cuộc trở về, gặp gỡ của cô gái si tình -
sông Hương-đang say đắm trong tình yêu.
2.2. Vẻ đẹp sông Hương được khám phá dưới góc độ văn hóa
a. Sông Hương là dòng sông âm nhạc
-“Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya,..
- Quả đúng vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành trên mặt nước của
dòng sông này".
- Cũng từ đó ngòi bút tài hoa cộng với sự rung cảm mạnh mẽ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
nhớ tới Nguyễn Du Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến
trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Đây là cách liên tưởng độc đáo, tài
hoa mang đến cho người đọc một sự bồi hồi, xao xuyến.
- Sông Hương đã đem đến những câu hò man mác, mái nhì, mái đẩy hay ca nhã, nhạc
cung đình Huế trên sông. “Sông Hương đã trải qua ngàn đêm âm nhạc từ những du thuyền
trên sông của giới quý tộc xưa đến những đêm nhạc thính phòng”.
b, Sông Hương là dòng sông lịch sử
- Là 1 dòng sông anh hùng
+ Từ xa xưa: Là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng.
+ Thời trung đại: Sông Hương mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu
oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc.
+ Thế kỉ XVIII: Nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, gắn liền với tên tuổi của người
anh hùng Nguyễn Huệ. Nó đọng lại đến bầm da, tím máu “nó sống hết lịch sử bi tráng của
thế kỉ XIX”.
+ Thời chống Pháp: Nó đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiếncông
rung chuyển
+ Thời chống Mĩ: Nó chứng kiến cuộc nổi dậy tổng tiến công tết Mậu Thân 1968.
- Sông Hương cùng với thành phố Huế cũng chịu nhiều đau thương mất mát. Nó có 1 bề
dày lịch sử như người con gái anh hùng khi tổ quốc gọi nó tự biết hiện đời mình làm 1 chiến
công. SH là dòng sông của sử thi viết giữa màu lá cỏ xanh biếc. Sử thi mà trữ tình, bản tình
ca mà cũng là bản tình ca dịu dàng, tươi mát. Đó là nét độc đáo của xứ Huế, của sông Hương
được tác giả khám phá và khắc họa từ góc độ lịch sử,
2.3. Sông Hương là dòng sông văn hóa
- Màn sương khói trên sông Hương là màu áo điền lục, 1 sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong
tiết sương giáng.
- Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như 1 nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của
người xứ Huế rất dịu dàng và rất trầm tư
2.4. Sông Hương là dòng sông thi ca
- Là vẻ đẹp mơ màng Dòng sông trắng lá cây xanh trong thơ Tản Đà,
- Vẻ đẹp hùng tráng như kiếm dựng trời xanh của Cao Bá Quát.
- Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan
- Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu.
- Sông Hương cũng đem đến con thuyền chở đầy ánh trăng trong thơ của Hàn Mặc Tử hay cả
con sông dùng dằng không chảy trong thơ của Thu Bồn, cả cái đêm tàn bến Ngự day dứt
trong ánh nhạc buồn...cũng là cảm hứng bất tận phôi thai từ vẻ đẹp của dòng
sông Hương
→Với kiến thức uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lý giải vẻ đẹp văn hóa phong phú của
sông Hương, vẻ đẹp gắn liền với xứ Huế, với con người Huế. Vừa là bản tình ca dịu dàng,
sông Hương cũng là một bản hùng ca gắn liền với lịch sử oanh liệt của dân tộc.
“Sông Hương mang trong dòng chảy lững lờ 1 nét tâm sự của nghìn năm. Sông Hương là 1
dòng bình yên, thanh thản vô tận như 1 nét vẽ vĩnh hằng. Cảm ơn sông Hương, Xin cảm ơn
người đã đem cuộc đời mình dệt thành tâm hồn của tôi”. (Hoàng Phủ Ngọc
Tường)
2. Ý NÂNG CAO
a. Chất trí tuệ
- Hoàng Phủ Ngọc Tường vận dụng những am hiểu trong ca dao Huế vào bút kí của mình.
Bốn bề núi phủ mây phong/Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên, cho đến câu thơ của
Tản Đà Dòng sông trắng-lá cây xanh, thơ của Tố Hữu, Cao Bá Quát, Bà Huyện
Thanh Quan, Truyện Kiều.
- Những hiểu biết về phương diện địa lí để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ thượng nguồn,
đến đồng bằng, cho đến cố đô Huế
- Những hiểu biết về lịch sử văn hoá,
- Sự liên tưởng so sánh với các công trình kiến trúc của Hy Lạp, La Mã, nền văn minh Châu
Âu
- Những tác phẩm văn học Châu Âu, những lời nhận xét của các nhà khoa học nước ngoài.
b. Chất thơ
- Cách ví von, so sánh đầy chất thơ, mượt mà, ý vị. “Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần
trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Và giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên,
sông Hương uốn một cách cũng rất nhẹ sang đến Cồn Hiến, đường cong ấy làm cho dòng
sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Hay “Sông Hương là vậy, là
dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”
- Những câu văn có sự mài dũa, đẽo gọt kĩ càng, nhẹ nhàng như một câu thơ,
c. Hình tượng cái tôi tác giả
- Tác phẩm thể hiện tình yêu thiết tha, say đắm của tác giả đối với cảnh và người xứ Huế. Có
thể nói, tác phẩm là cuộc hành trình tâm hồn Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm về với cội nguồn
của xứ Huế, của những vẻ đẹp thiên nhiên mà tạo hóa đã ban tặng. Sông Hương -dòng sông
thơm “xao xuyến như da thịt, sâu thẳm như thời gian không chỉ là đối tượng thẩm mỹ là cảm
hứng cho Hoàng Phủ Ngọc Tường mà còn nhiều cây bút khác nữa.
- Tác phẩm như 1 món quà nhỏ thay cho tấm lòng thành của mà Hoàng Phủ Ngọc Tường
muốn tri ân và dâng tặng cho thiên nhiên và con người mình đất Cố Đô. Đây là bài kí dài
nhất và tâm huyết nhất của ông về Huế, ông đã mang cả tâm huyết để vẽ nên 1 dòng sông
như vốn có của nó-dòng sông lịch sử, văn hóa và huyền thoại,
- Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều
phép tu từ như: So sánh, nhân hóa, ẩn dụ, Có sự kết hợp hài hoà cảm xúc, trí tuệ, quan và
khách quan. Bút ký có sức liên tưởng kỳ diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lý,
lịch sử, văn hoá nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân.
3. ĐÁNH GIÁ
* Nghệ thuật
- Bài kí lột tả được vẻ đẹp đa dạng, phong phú của sông Hương, cũng là của xứ Huế, con
người Huế.
- Tình yêu thiết tha, say đắm của tác giả đối với cảnh và người nơi đây.
- Phong cách viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường phóng túng, tài hoa, giàu thông tin văn hoá,
địa lý, lịch sử, giàu chất trữ tình lãng mạn.
* Ý nghĩa văn bản
- Trích đoạn bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn
người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương,
- Hoàng Phủ Ngọc Tường xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về
Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình
yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.
II/ KẾT BÀI: Có thể nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã mang đến những phát hiện mới
lạ và độc đáo của sông Hương cho độc giả cả nước. Nó là một dòng sông man dại, hoang tàn
ở khúc thượng nguồn rồi lại trở nên mê đắm, thủy chung khi gặp được người tình trong
mộng của mình là xứ Huế. Sông Hương đi vào trong trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường
không vô tri vô giác mà nó còn có cảm xúc, có tình yêu. Tác phẩm đã thể hiện được tình yêu
quê hương, xứ sở nồng nàn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một ký giả nặng lòng với Huế:
Dòng sông ai đã đặt tên
Để người đi nhớ Huế mãi không quên
Xa con sông mang bao nhiêu nỗi nhớ
Người ở lại tháng năm đợi chờ.
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
MỞ BÀI:
Từ những năm 60 của thế kỷ trước, Lưu Quang Vũ đã khẳng định tên tuổi của mình bằng
việc sáng tác thơ ca, ngay từ đầu ông đã tạo được dấu ấn về một lối viết tài hoa, nồng nàn
cảm xúc toát lên tình yêu quê hương, đất nước tha thiết, mà Hoài Thanh đã từng nhận định
rằng “Thơ anh là một tiếng nói nhỏ nhẹ mà sâu”. Từ năm 1978, Lưu Quang Vũ bắt đầu
chuyển sang lĩnh vực sân khấu. Có thể khẳng định “Sân khấu mới là cảm hứng về con người
nghệ sĩ tài ba này’’.Cảm hứng hứng chủ đạo trong kịch Lưu Quang Vũ về con người, về cái
đẹp, cái thiện, cái tôi hoà tan trong cái ta. Ở đó tính thời sự được kết hợp với những vấn đề
muôn thuở của nhân loại mà tiêu biểu đó là vở "Hồn Trương Ba da hàng thịt’’. Đó là cuộc
giao tranh giữa cái thiện và cái ác, cuộc giao tranh này là muôn đời muôn kiếp từ khi khai
sinh cho đến ngày không còn trái đất thì vẫn còn giao tranh thiện ác. Cho nên có người đã
từng nói “kịch Lưu Quang Vũ là có tính vĩnh cửu’’
II/ THÂN BÀI
1. Ý KHÁI QUÁT
* Hoàn cảnh sáng tác và vị trí đoạn trích
- Lưu Quang Vũ viết vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt năm 1981, đến năm 1984 thì ra
mắt công chúng. Vở kịch dựa vào câu chuyện dân gian, nhưng đã có những thay đổi
- Vị trí đoạn trích: Đoạn trích thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch
- Điểm khác biệt:
+ Trong truyện dân gian, nhân vật Trương Ba tiếp tục sống bình thường, hạnh phúc khi được
nhập hồn vào thân xác anh hàng thịt. Ngắn gọn và đơn giản, truyện dân gian mang một tư
tưởng triết học có phần cơ bản đúng, nhưng chỉ để cao linh hồn, tuyệt đối hóa linh hồn,
không để ý đến mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn cơ bản.
- Vở kịch của Lưu Quang Vũ tại tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ, giày vò của
Trương Ba từ khi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Từ đó đưa đến những tư nướng
mới: Sự tồn tại độc lập của thân xác đối với linh hồn và khẳng định một quan niệm đúng đắn
về cách sống
* Tóm tắt tác phẩm
Trương Ba là một người là vườn và giỏi đánh cờ đã bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn
sửa sai, nên Nam Tào và Đế Thích cho Hồn Trương Ba sống lại và nhập vào các hàng thịt
mới chết. Trú nhờ trong các anh hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: Lý tưởng
sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ mà bản thân
Trương Ba thì đau khổ vì phải sống trái tự nhiên và giả tạo. Đặc biệt thân xác hàng thịt làm
Trương Ba nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn không phải chính bản thân ông.
Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự phiền toái do mượn thân xác của kẻ khác, Trương
Ba quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết.
* Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề Hồn Trương ba, da hàng thịt gợi cảm giác về độ vênh lệch của hai yếu tố quan
trọng trong một con người. Hồn là phần trừu tượng, da thịt thân xác là cái cụ thể, là cái bình
có thể chứa linh hồn, hồn nào xác ấy. Nhưng ở đây hồn người người này lại ở trong xác
người kia. Hồn và xác lại không tương hợp, tính cách, hành động, lối sống của Trương Ba và
anh hàng thịt trái ngược nhau. Tên gọi của vở kịch đã thâu tóm được những mâu thuẫn, xung
đột bên trong của một con người.
* Thông điệp của tác phẩm
- Được sống làm người thật là quý giá nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với
những giá trị mình muốn có và theo đuổi còn quý giá hơn.
- Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người ta được sống tự nhiên với sự hài hoà giữa tâm
hồn và thể xác.
2. PHÂN TÍCH (Bám sát đề bài)
2.1. Màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và xác hàng thịt
a. Hồn Trương Ba
- Tâm thế của hồn Trương Ba trong cuộc đối thoại: Lời thoại của Hồn Trương Ba ở đầu đoạn
trích đã bộc lộ rõ tâm trạng vừa chán ngán, vừa sợ hãi cái thân xác mà ông đang vay mượn:
“Tôi chán cái chỗ không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thọ kênh càng thô
lỗ này, ta bắt đầu sợ mi , ta muốn rời xa mi ngay tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù
riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát.
-Ước muốn của Hồn Trương Ba đã được thỏa nguyện. Sự phân tách và đối đầu giữa Hồn
Trương Ba và Xác hàng thịt trước hết có thể hiểu là sự tranh cãi quyết liệt giữa một bên là
Hồn Trương Ba (tượng trưng cho sự cao khiết, cho đạo đức, cho “phần Người” chân chính
của mỗi con người) và một bên là Xác hàng thịt (tượng trưng cho bản năng, cho những ham
muốn trần tục, là “phần Con” tầm thường ẩn nấp trong mỗi con người).
- Nội dung lời nói của Hồn Trương Ba:
+ Hồn có cơ hội bày tỏ tâm trạng uất ức, tức giận vì phải chung sống với Xác thô lỗ, tầm
thường, dung tục. Hồn cũng không che giấu sự coi thường, khinh bỉ đối với Xác, “kẻ âm u
đui mù, không cảm xúc, không tư tưởng, không có tiếng nói”..., kẻ có nhu cầu vật chất thấp
kém gần với con thú (thèm ăn ngon, thèm rượu thịt), sức mạnh thể chất gắn với sự tàn bạo...
+ Hồn cũng phủ nhận sự lệ thuộc của linh hồn vào xác thịt, khẳng định linh hồn có đời sống
riêng: “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”.
=> Tưởng rằng, Hồn sẽ phần nào giải tỏa được nỗi đau khổ bị dồn nén bấy lâu khi có cơ hội
cất lên tiếng nói của mình.
b. Xác hàng thịt
- Tâm thế của xác hàng thịt trong cuộc đối thoại: Xác không bị động, nhún nhường. Ngược
lại, Xác có thái độ khi thì ngạo nghễ, thách thức, khi thì ranh mãnh với những câu hỏi mang
tính phản biện đầy bỡn cợt, châm chọc.
- Nội dung lời nói của Xác hàng thịt:
+Xác âm u, đui mù nhưng có thể lấn át, sai khiến, thậm chí đồng hóa linh hồn cao khiết, Hồn
không thể còn nguyên vẹn, trong sạch, khi phải chung sống và chiều theo những đòi hỏi của
xác thịt dung tục (Hồn Trương Ba đã có cảm giác xao xuyến, khao khat khi đứng bên vợ
hàng thịt, đến nỗi chân tay run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại, đã có cảm xúc lâng lâng
trước các món ăn mà ông cho là dung tục như tiết canh, cô hũ, khấu đuôi, đã sử dụng vũ lực
mà ông cho là tàn bạo để tát thằng con toé máu mồm, máu mũi rõ ràng, Hồn Trương Ba đã
nhiễm những thói hư tật xấu của xác hàng thịt).
=> Như vậy, Hồn Trương Ba đau đớn, dằn vặt, khao khát khẳng định mình vẫn là mình,
nhưng cuối cùng phải thừa nhận rằng, mình đang sống nhờ thể xác kẻ khác và bị thể xác đó
điều khiển, dẫn đến sự tha hoá không có cách gì chuyển biến được. Bi kịch của Hồn Trương
Ba, vì thế, không những không được giải tỏa, mà còn trở nên đau đớn, xót xa hơn.
+ Trước đó, Hồn Trương Ba cho mình là cao khiết và coi thường, khinh bị Xác hàng thịt,
thậm chí uất ức vì phải chung sống với Xác hàng thịt. Nhưng Xác hàng thịt đã chỉ ra thói hư
tật xấu trong Hồn Trương Ba “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông cứ vịn vào có linh
hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn để rồi bỏ bê thân xác mãi khổ sở nhếch
nhác” và “làm xong điều xấu gì, ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết:
cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện”. Đồng thời, Xác
hàng thịt đã bày tỏ những bất công mà mình phải gánh chịu khi sống với linh hồn Trương
Ba: bị xúc phạm, bị bỏ bê nhếch nhác, khổ sở vì những lý do không chính đáng.
- Những lý lẽ và dẫn chứng mà Xác hàng thịt đưa ra khiến Hồn Trương Ba không thể phủ
nhận được.
c. Ý nghĩa
- Trước hết, ở góc độ Hồn Trương Ba, ta nhận ra khát vọng sống cao thượng, thánh thiện của
con người, khi bị những cám dỗ vật chất phàm tục làm cho tha hoá, biến chất. ở góc độ Xác
hàng thịt, ta nhận ra những nếp nghĩ sai lầm của con người: Đó là thói quen đề cao tinh thần
mà coi thường vật chất, tự ru ngủ mình trong những giấc mơ cao thượng mà quên đi rằng,
cần phải thiết lập mối quan hệ hoà hợp, gắn bó giữa chúng.
=> Như vậy, Hồn và Xác là những ẩn dụ nghệ thuật lớn, và cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác
là một tình huống kịch đặc sắc, tô đậm bi kịch “bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”, sự
thiếu hài hòa, không thống nhất trên các phương diện: Linh hồn và thể xác, vật chất và tinh
thần, nội dung và hình thức, bản năng và lý tưởng, cao cả và tầm thường ở mỗi con người.
- Kết thúc cuộc đối thoại, Hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt vọng trở về
cuộc sống trái với chính mình. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt,
ngồi lặng lẽ bên chồng” diễn tả cô đọng tính chất căng thẳng của xung đột kịch: Mâu thuẫn
không những không được giải quyết mà còn được đẩy lên đến một mức
2.2. Màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và người thân
- Người vợ mà ông rất mực thương yêu giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà
đi đâu cũng được... còn hơn là thế này” bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng cảm nhận
được: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.
- Cái Gái, cháu ông bây giờ không cần phải chú ý. Nó một mực khước từ tình thân tôi không
phải là cháu ông. Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu quý ông bao nhiêu thì bây giờ nó không
thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái Hàn xẻng” đã làm
“gây tiệt cải chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mà mảnh vườn của
ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái điều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong sốt
mê man ý cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “ông nội đời nào thô 2 lỗ, phũ phàng như
vậy. Nỗi giận dữ cái Gái biến thành sự xua đuổi quyết liệt “ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! lão
đồ tể, cút đi”. Người con dâu là người sâu sắc, chín chắc, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm
thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm khổ hơn xưa nhiều
lắm”. Những nỗi buồn đau trước cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không
thể bấm
→ bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó. Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không
đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn
thấy...mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả như lệch lạc, nhoà mờ dần đi.đến
nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa...”.
-Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ
đã nói ra thành lời bởi với họ ngày chôn xác Trường Ba xuống đất họ đau, họ khổ, nhưng
cũng không khổ bằng bây giờ”.
- Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình
đã khiến hồn Trương Ba không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với bản thân mình cứ lớn dần...
lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trảo. Đặc biệt sau hàng loạt câu hỏi có vẻ tuyệt vọng của
chị con dâu: “Thầy ơi, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ tốt lành như thầy của
chúng con ngày xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?” thì dường như hồn không thể chịu đựng hơn
được nữa.
Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi
đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát đầy
quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi, cái thân xác không phải của ta a...Nhưng lẽ nào ta tại phải
chịu thua mày”, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng lẽ không còn cách nào khác!”
Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn: Cách
nào khác? Không cần đến đời sống do mày đem lại! Không cần Đây là lời độc thoại có tính
chất quyết định tới hành động châm hương gọi Đế Thích một Cách dứt khoát.
2.3. Màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Đế Thích
a Hoàn cảnh đầu đến cuộc đối thoại
Tinh Và với người thân, bị người thân nghi ngờ, xa lánh.
-Trong tâm trạng đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình, trước cái chỗ ở
không phải của mình, Hồn Trương Ba khao khát tách xa, rời khỏi thể xác thô lỗ, “Ta chỉ
muốn rời xa mi tức khắc!”.
b. Diễn biến cuộc đối thoại
- Trương Ba nêu rõ nguyện vọng muốn được là mình toàn vẹn. Đế Thích không thể thỏa mãn
được ý muốn của Trương Ba vì xác của Trương Ba đã tan rữa trong bùn đất, Đế Thích
khuyên Trương Ba nên chấp nhận hoàn cảnh thực tại vì thế giới vốn không toàn vẹn
- Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích; trình bày quan niệm của mình về ý
nghĩa của cuộc sống và dứt khoát xin trả lại thân xác cho anh hàng thịt.
- Đế Thích muốn sửa sai bằng một giải pháp khác là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị
và đưa ra những lí lẽ để thuyết phục Trương Ba. Trương Ba tưởng tượng thấy bao nhiêu rắc
rối khi phải sống nhờ trong thể xác cu Tị. Trương Ba kiên quyết từ chối tái sinh trong thân
thể non nớt của cu Tị, không chấp nhận cảnh sống giả tạo; kêu gọi Đế Thích sửa sai bằng
một việc làm đúng, đó là cho cu
Tị được sống lại. Đế Thích cuối cùng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba, làm phép cho
anh hàng thịt, cu Tị sống lại và Trương Ba thì chết hẳn.
c. Ý nghĩa của triết lý “hãy sống là chính mình” mà tác Lưu Quang Vũ muốn thể hiện
- Muốn sống đúng là chính mình thì mỗi chúng ta cần phải biết hài hòa giữa việc chăm lo
cho linh hồn cũng như biết quý trọng và chăm sóc cho những nhu cầu thiết yếu của thể xác.
- Một loại chỉ biết trau chuốt vẻ ngoài và chạy theo những ham muốn vật chất mà không
chăm lo cho đời sống tâm hồn.
=> Thông qua xác và hồn Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng phải sống là chính mình đó mới
chính là hạnh phúc thật sự của con người.
d. Triết lý nhân sinh từ cuộc đối thoại
- Linh hồn và thể xác là hai mặt tồn tại không thể thiếu trong một con người, cả hai đều đáng
trân trọng. Một cuộc sống đích thực chân chính phải có sự hài hoà giữa linh hồn và thể xác
- Tác giả một mặt phê phán những dục vọng tầm thường, sự dung tục của con người,
mặt khác ông vạch ra quan niệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị vật chất và
những nhu cầu của thể xác.
- Con người cần có sự ý thức chiến thắng bản thân, chống lại những nghịch cảnh số phận,
chống lại sự giả tạo để bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách,
Ý NÂNG CAO
*Triết lí nhân sinh hay nhân sinh quan là vấn đề quan trọng đối với mỗi con người, là
toàn bộ những kinh nghiệm, cách nhìn nhận chung nhất về cuộc sống của con người và cũng
là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt mục tiêu, hành động của con người. Bên cạnh đó nhân sinh
quan còn là nguồn gốc của mọi suy nghĩ, hành vi và chi phối các hoạt động của con người
trong đời sống. Nói vắn tắt thì nó là cách người ta nhìn cuộc đời hay là cái đạo làm người
của người ta.
- Biểu hiện của triết lí nhân sinh thể hiện trong đoạn trích:
+ Linh hồn và thể xác là hai mặt tồn tại không thể thiếu trong một con người, cả hai đều
đáng trân trọng. Một cuộc sống đích thực chân chính phải có sự hài hoà giữa linh hồn và thể
xác.
+ Tác giả một mặt phê phán những dục vọng tầm thường, sự dung tục của con người, mặt
khác vạch ra quan niệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị vật chất và những
nhu cầu của thể xác.
+ Con người cần có sự ý thức chiến thắng bản thân, chống lại những nghịch cảnh số phận,
chống lại sự giả tạo để bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
- Triết lí nhân sinh mà Lưu Quang Vũ gửi gắm qua nhân vật.
– Được sống là một điều may mắn, nhưng sống như thế nào mới quan trọng
– Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, có được sự hoà hợp giữa
thể xác và linh hồn, giữa bên trong và bên ngoài, giữa nội dung và hình thức trong một thể
thống nhất toàn vẹn chứ không phải là cuộc sống chắp vá, bất nhất: “bên trong một đằng, bên
ngoài một nẻo”.
– Trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến thắng
nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Có như vậy chúng ta mới được là chính
mình toàn vẹn.
* Nhận xét chiều sâu triết lí về con người của nhà văn Lưu Quang Vũ.
- Màn thoại giữa Trương Ba và Đế Thích một lần nữa khắc sâu vấn đề trung tâm nhất, cốt
lõi nhất của toàn bộ tác phẩm, đó là việc người sống vẫn có sự hài hòa giữa linh hồn và thể
xác, giữa bên trong và bên ngoài. Việc một người vẫn còn đầy khao khát sống như Trương
Ba sau quá trình trăn trở, lựa chọn đã chối từ cả hai cơ hội được sống để nhận về mình cái
chết đã cho thấy để sống cho ra một người không hề dễ dàng. Người ta không thể sống bằng
bất cứ giá nào, người chỉ thực sự được là mình khi có sự thống nhất, hòa hợp giữa hoạt động
bên ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong.
- Tác giả không chỉ đặt ra vấn đề để người đọc trăn trở suy nghĩ mà đã đi đến trả lời cho câu
hỏi: sống như thế nào là sống có ý nghĩa? Trương Ba chết hẳn để đổi lại sự sống cho anh
hàng thịt, cho cu Tị, để đổi lấy tiếng cười và niềm hạnh phúc cho tất cả những người xung
quanh thì câu hỏi: sống như thế nào là có ý nghĩa đã được trả lời một cách rõ ràng: một sự
sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người không chỉ biết sống vì mình mà còn biết sống, biết vun
đắp, thậm chí biết hi sinh cho hạnh phúc của những người xung quanh. Rõ ràng ở đây nhà
văn đã đề cao lối sống vị tha, cao thượng. Đó cũng chính là lý do cho sự thay đổi đầy dụng ý
của tác giả khi biến một người nông dân chung chung trong truyện cổ dân gian thành một
người làm vườn
trongtácphẩmcủamình.Hìnhtượngngườilàmvườnchínhlàđạidiệnchonhữngngườibiết
vunxới,chămlochohạnhphúccủangườikhác.Ởkhíacạnhnàychúngtathấytưtưởngcủa
nhàvăndùtiếnbộvàmớimẻđếnđâuvẫncósựbắtrễsâuvàhoàntoànthốngnhấtvớitruyề
nthống,đạolýtốtđẹpcủadântộc.
* Bình luận khát vọng được sống là chính mình.
Trương Ba không chấp nhận sống chung với sự tầm thường giả dối của người khác, ông
muốn được sống thuận theo lẽ tự nhiên: trọn vẹn là mình hòa hợp linh hồn thể xác. Từ đó,
Tác giả muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta phải trang bị tri thức, kĩ năng, luôn chủ động,
linh hoạt trước những biến đổi của cuộc sống. Cần giữ vững cá tính, phong cách của bản
thân, sống hòa nhập nhưng không hòa tan, sống theo cá tính, phong cách riêng nhưng không
lập dị khác thường, con người sẽ có được hạnh phúc thực sự.
* Bình luận tác hại của lối sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo:
- Ðối với bản thân người có lối sống đó: dần dần sẽ bị tha hóa, ích kỉ, thực dụng, giả dối, suy
thoái nhân cách, đánh mất danh dự, lòng tự trọng.: tham nhũng, hối lộ, gây ra những tệ nạn
xã hội. Bị mọi người coi thường xa lánh.
- Ðối với cộng đồng: mất đoàn kết, hiểu lầm, mâu thuẫn, tranh giành, hãm hại nhau, kìm
hãm sự phát triển.
- Cách phòng tránh: Sống yêu thương nhân hậu vị tha, mạnh dạn dũng cảm đấu tranh với
biểu hiện tiêu cực, giả dối, bảo vệ người tốt.
4. ĐÁNH GIÁ
*. Nghệ thuật
-Xây dựng tình huống truyện kịch đầy căng thẳng đạt đến cao trào rồi giải quyết mâu thuẫn
một cách logic, hợp lí, thỏa đáng.
- Xây dựng đối thoại, độc thoại sắc nét, không chỉ giúp nhân vật bộc lộ bản chất, suy
nghĩ của cá nhân mình mà còn giúp cho người đọc, người xem suy ngẫm về những triết lí
được gửi gắm trong mỗi câu thoại của các nhân vật.
- Có kết hợp giữa những vấn đề thời sự và vấn đề muôn thuở: Đó là lối sống giả dối của con
người hiện đại, giữa những dục vọng thấp hèn với những khát khao cao cả....
* Ý nghĩa văn bản
- Gửi gắm thông điệp: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là
mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ
thật sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.
Nếu thiếu một trong hai yếu tố ấy, cuộc sống của con người không còn giá trị gì nữa. Con
người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch ảnh, với chính bản thân,chống lại sự
dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý
- Tuy vậy, con người ta cũng không nên chỉ chăm lo tới đời sống tâm hồn mà bỏ qua
những nhu cầu của thể xác. Bởi đó là những nhu cầu bản năng, đã tồn tại vốn dĩ bên
trong chúng ta. Con người ta cần phải dung hòa hai điều ấy.
III/ KẾT BÀI : Nhiều thập kỷ trôi qua, bạn đọc ngày nay được sống trong sự đổi mới toàn
diện trong khí thế vươn lên của đất nước và của dân tộc và chúng ta sẽ vẫn còn tìm thấy
những tầm ý nghĩa thú vị hàm ẩn trong vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” Thông qua
nhân vật Hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đặt ra những vấn đề thấm đẫm tư tưởng nhân
văn,không chỉ có ý nghĩa nhất thời mà còn có ý nghĩa muôn đời với tất cả mọi người.
VIỆT BẮC
Thơ Tố Hữu là những vần thơ thể hiện tiếng nói của dân tộc, của tâm hồn những con
người gắn bó sâu sắc với sự nghiệp cách mạng, với quê hương, với đất nước. Trong những
vần thơ ấy ta sẽ bắt gặp những tình cảm mến thương sâu sắc, trữ tình, xuất phát từ một trái
tim trung thành với dân tộc với nhân dân và tiêu biểu hơn cả là bài thơ Việt Bắc, một trong
những bài thơ hay nhất của Tố Hữu.
Tố Hữu (1920-2002), tên khai sinh là Nguyễn Duy Thành, quê ở xã Quảng Thọ, huyện
Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cái nôi của văn học dân gian. Tố Hữu là nhà thơ lớn, là
người tiên phong của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, thơ ông luôn gắn bó với những chặng
đường cách mạng của dân tộc. Phong cách thơ mang tính trữ tình chính trị vô cùng sâu sắc,
hướng đến những cái tôi chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn, cái tôi trong thơ
của ông luôn nhân danh Đảng, cộng đồng dân tộc, những vần thơ ấy vừa giàu nhạc điệu lại
mang tính dân tộc đậm đà.
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, gây chấn động địa cầu đã mở ra cho
nước ta một trang sử mới một kỷ nguyên mới. Sau khi kí hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954), miền
Bắc hoàn toàn được giải phóng, Pháp rút quân về nước. Tháng 10/1954, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra chỉ thị toàn bộ các cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc dời về thủ
đô. Từ đây, những người chiến sĩ cách mạng chia tay với miền rừng núi bạt ngàn để về xuôi,
bước sang một trang mới của cách mạng đất nước, Việt Bắc đã ra đời trong một hoàn cảnh
đặc biệt như vậy.
Mở đầu bài thơ với giọng thơ trữ tình, êm đềm tha thiết, nhà thơ đã thể hiện tình cảm của
người ở lại dành cho người ra đi.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tác giả sử dụng cặp xưng hô “mình-ta”, ở đây không phải đang nói đến xưng hô giữa
những đôi lứa yêu nhau hay cặp vợ chồng nào đó mà là lời đối đáp của những người cách
mạng với người dân Việt Bắc. Cách xưng hô ấy vừa mang tính dân tộc đậm đà lại thể hiện
được tính trữ tình chính trị sâu sắc trong thơ Tố Hữu, như tiếng nói trong tình yêu đôi lứa,
thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người đi kẻ ở, đầy ngậm ngùi, lưu luyến. “Mười lăm năm ấy
thiết tha mặn nồng”, sự gắn bó ấy không phải chỉ trong những năm kháng chiến chống Pháp
mà xuất phát từ những năm kháng chiến chống Nhật, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn
(1940). Một khoảng thời gian dài chiến đấu gian khổ, càng làm cho tình cảm giữa những
người chiến sĩ cách mạng và người dân Việt Bắc thêm sắt son, mặn nồng, thấm đượm ân
tình. Mười lăm năm là quãng thời gian không ngắn cũng chẳng dài nhưng nó đủ khiến cho
những cảm xúc biến thành hoài niệm, không thể nào lãng quên, như Chế Lan Viên từng viết
“Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông
nhớ nguồn?” , và đặc biệt nỗi nhớ ấy đã lan tỏa khắp núi rừng, phải yêu, phải gắn bó, phải
sống một trái tim chân tình biết mấy mới có thể có những cảm xúc thiết tha đến vậy?
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Từ phiếm chỉ “ai”, gợi nhiều cảm xúc, ở đây “ai” có thể là người ra đi, cũng có khi là
người ở lại. Từ láy “tha thiết” được lấy lại từ từ “thiết tha” đã khắc họa rõ ràng hơn tình cảm
của người ra đi và người ở lại, từ “bâng khuâng” và “bồn chồn” chất chứa nhiều tâm tình, ở
đó có niềm vui toàn thắng, niềm vui được về lại quê hương, đoàn tụ với gia đình; và ở đó
cũng ẩn chứa nhiều nỗi buồn, phải chia tay mảnh đất thấm đẫm nghĩa tình. “Áo chàm đưa
buổi phân ly”, hình ảnh chiếc áo có phần cổ điển, truyền thống thể hiện sự quyến luyến, là
hình ảnh hoán dụ của con người Việt Bắc, là màu áo nâu giản dị, hiền hòa, thể hiện vẻ đẹp
tâm hồn, linh hồn của người dân và núi rừng Tây Bắc, đang đưa tiễn người chiến sĩ cách
mạng. Câu “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”, nhịp thơ 3/4 như tạo một khoảng lặng
giữa lúc phân li ngậm ngùi, nhìn nhau mà nghẹn lòng, ngập ngừng không muốn nói điều chi,
để cảm xúc ấy phiêu lãng, len lỏi trong tâm hồn, thành kỷ niệm khó phai.
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trái bùi để rụng măng mai để già.”
Sau mỗi cụm từ “Mình đi”, “Mình về”, nhà thơ đã tinh tế đặt một dấu phẩy, đây chính là
giây phút, là khoảnh khắc ngưng đọng, để kỷ niệm ùa về trong tâm tưởng. Những kỷ niệm ấy
ngự trị trong từng khoảnh khắc thời gian “những ngày”, không gian “chiến khu”. Những
hình ảnh “mưa nguồn suối lũ”, “những mây cùng mù”, “miếng cơm chấm muối”, là hình ảnh
ẩn dụ cho những khó khăn gian khổ của người làm cách mạng những năm đầu kháng chiến
nơi núi rừng Việt Bắc, và chính những khó khăn ấy đã khiến cho nghĩa tình quân dân trở nên
thắm thiết, keo sơn. Biện pháp nhân hóa “rừng núi nhớ ai” như thổi vào khung cảnh núi rừng
nỗi nhớ nhung dạt dào, sâu thẳm, từ phiếm chỉ “ai” thấm đẫm bao cảm xúc ân tình. Những
cụm từ “trái bùi để rụng”, “măng mai để già” đã thể hiện nỗi buồn sâu thẳm, vắng lặng khi
người cách mạng về xuôi để lại núi rừng Tây Bắc chênh vênh, lạ lẫm khi nhịp sống đột ngột
thay đổi từ đông vui về vắng vẻ đìu hiu.
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Nỗi nhớ ấy càng được thể hiện rõ ràng hơn với từ “những nhà”, nghệ thuật đối lập trong
câu thơ “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, khẳng định một chân lý rằng càng khó khăn
gian khổ, thì tình nghĩa quân dân lại càng thêm đoàn kết gắn bó, sắt son một lòng. Những
người ở lại nhắc về kỷ niệm xưa cũ từ những ngày đầu mới quen, từ những năm còn kháng
chiến chống Nhật để kỷ niệm càng thêm khắc sâu vào tâm hồn người đi. Từ “mình” được lặp
lại trong câu thơ “Mình đi mình có nhớ mình” đã gợi nhắc đến câu ca dao “Ta với mình tuy
hai mà một” càng khẳng định sự gắn bó thiết tha. Những địa danh vô cùng quen thuộc với
người ra đi và cả người ở lại “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”, gợi nhắc lại những
kỷ niệm xưa cũ, hào hùng, sâu sắc tình cảm sâu sắc của những người chiến sĩ cách mạng với
người dân Tây Bắc.
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”
Lối đối đáp “mình-ta” tiếp tục được sử dụng, kết cấu “Ta với mình, mình với ta” tạo nên
lời đồng vọng tha thiết. Đến đây, ta cũng là mình, mình cũng như ta. Câu thơ “Lòng ta sau
trước mặn mà đinh ninh” đã thể hiện tình cảm thủy chung son sắt mà người cách mạng dành
cho mảnh đất Việt Bắc nghĩa tình, như một lời thề trong tình yêu đôi lứa. Biện pháp so sánh
trong câu “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...”, đã thể hiện một điều vô cùng
thiêng liêng và sâu sắc: Nghĩa tình của con người Việt Bắc thật trong trẻo, đong đầy không
có bao giờ có thể vơi cạn như tình yêu thương của lòng mẹ hiền với con cái của mình. Nhà
thơ đã so sánh nỗi nhớ ở đây giống như nỗi nhớ người yêu, để trữ tình hóa tình cảm cách
mạng, tình quân dân để tất cả trở nên tha thiết hơn, dịu ngọt hơn. Và cũng bởi lẽ nỗi nhớ
trong tình yêu là nỗi nhớ thẳm sâu và tha thiết nhất, từ nỗi nhớ ấy, Việt Bắc hiện ra với một
không gian thật thơ mộng, câu thơ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” đã thể hiện
nỗi nhớ lan tỏa trong không gian và ngự trị trong từng khoảnh khắc của thời gian, cả đêm lẫn
ngày. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.” gợi về một miền Việt Bắc mến
thương, nồng nàn, ấm áp. Điệp ngữ “nhớ từng” cho chúng ta những cảm nhận như nhà thơ
đang lật giở từng trang ký ức, Tố Hữu đã liệt kê những địa danh “sông Đáy, suối Lê” và đến
hai tiếng vơi đầy khép lại đoạn thơ thì đây không chỉ còn đơn thuần là địa danh mà là nơi
đong đầy kỷ niệm: Bao nhiêu nước, bao kỷ niệm đầy vơi, bao nghĩa tình ấm áp ngọt ngào.
“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...”
Cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi
dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng,
cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân
tình sâu thẳm. Hai tiếng “thương nhau”, thật nhẹ nhàng nhưng cũng thật sâu lắng, người đi
kẻ ở “Thương nhau chia củ sắn lùi”, “Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng” đã thể hiện những
tình cảm đùm bọc, chia sẻ, gắn bó khăng khít đậm đà nghĩa tình quân dân, chính sức mạnh
đoàn kết ấy đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh
người mẹ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, đây là một hình ảnh đẹp, gợi nhiều cảm xúc, từ
“cháy” rất giàu hình tượng nhấn mạnh nỗi vất vả gian lao của người mẹ trong kháng chiến.
Tác giả sử dụng điệp ngữ “Nhớ sao” là nỗi nhớ đầy cảm xúc cùng với đó là những hoạt động
ở chiến khu Việt Bắc: Lớp học i tờ, những giờ liên hoan, ca vang núi đèo, đã tạo nên một
không khí vui tươi thấm đẫm tình đoàn kết quân dân, thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng,
niềm tin cách mạng nhất định thắng lợi: Dù bom đạn, chiến tranh, đau thương, gian khổ,
quân và dân vẫn gắn bó với nhau trong khúc nhạc hân hoan, rộn ràng. Đoạn thơ rất giàu nhạc
điệu là khúc ca ca ngợi cuộc sống vẫn đẹp, nghĩa tình vẫn sâu chan chứa trong lòng người
cách mạng và núi rừng Việt Bắc thân thơ. Câu thơ cuối khép lại với tiếng mõ, tiếng chày,
tiếng suối xa gợi nhiều cảm xúc mênh mang, lan tỏa.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Bức tranh tứ bình hiện lên thật đẹp đẽ, câu hỏi tu từ “Ta về mình có nhớ ta”, chất chứa bao
nỗi niềm, là cái cớ để người ra đi bộc lộ bao nỗi nhớ nhung, bao yêu thương. Cụm từ “những
hoa cùng người” có kết cấu như một thành ngữ, trong nỗi nhớ của người ra đi, hoa là biểu
tượng cho thiên nhiên, một bức tranh thiên nhiên đẹp và thơ mộng. Mở đầu bức tranh là mùa
đông Việt Bắc, là mùa đông với “hoa chuối đỏ tươi” điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn của
núi rừng, tạo nên một bức tranh vô cùng sinh động và nhiều màu sắc, tạo cảm giác ấm áp xua
đi cái lạnh cắt da cắt thịt ở mảnh đất Việt Bắc.
Con người hiện ra trong tư thế lao động, rất đẹp rất kỳ vĩ, con người như chiếm lĩnh đỉnh
cao, hình ảnh được tạo nên bằng nghệ thuật hội tụ ánh sáng của nhiếp ảnh. Mùa xuân hiện ra
với cảnh “mơ nở trắng rừng”, vô cùng thơ mộng, tạo nên một bức tranh đẹp, ấm áp, lung
linh, hình ảnh con người cũng trong trong tư thế lao động “chuốt từng sợi giang”, động từ
“chuốt”, thể hiện một công việc cần cù, kiên nhẫn, tỉ mỉ, khắc họa vẻ đẹp của con người Việt
Nam trong kháng chiến. Tiếp đến là mùa hạ thật sinh động và tràn đầy sức sống, cảnh thiên
nhiên có thêm tiếng ve rộn rã ngân vang núi rừng và tràn đầy sắc vàng của rừng phách. Hình
ảnh “cô em gái hái măng một mình” thật đẹp và thơ mộng biết bao. Khép lại bức tranh tứ
bình là cảnh mùa thu, mùa thu hòa bình, mùa thu của cách mạng tháng tám thành công, mùa
thu năm 1954, tất cả đã được tượng trưng trong một vầng trăng rất đẹp. Câu thơ “Nhớ ai
tiếng hát ân tình thuỷ chung” vừa khép lại bức tranh tứ bình về cảnh và người Việt Bắc, đồng
thời cũng khép lại khúc tình ca hào hùng về cuộc kháng chiến.
Trong nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại đều không thể không nhắc đến những ngày
đầu của cuộc kháng chiến, đó là khi “Giặc đến giặc lùng”, từ “lùng” đã thể hiện sự nguy
hiểm của quân thù. “Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây” cùng với “Đất trời ta cả chiến khu
một lòng” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của thiên nhiên và con người trong cuộc kháng
chiến. Ở đây, thiên nhiên đã trở thành một sinh thể có linh hồn, chở che cho bộ đội, bủa vây
quân thù, hình ảnh “Núi giăng thành lũy sắt dày” kết hợp với kết cấu trùng điệp “Rừng che
bộ đội, rừng vây quân thù”, giàu sức gọi, góp phần thể hiện cho sức mạnh của dân tộc, sức
mạnh không thể bị hủy diệt. Điệp từ “nhớ” kết hợp với những cụm từ “nhớ từ”, “nhớ sang”,
những địa danh gắn liền với những chiến công, tất cả cho ta cảm nhận về nỗi nhớ trải dài
khắp chiến khu Việt Bắc. Lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh thơ sinh động cùng việc sử dụng những
biện pháp nghệ thuật tu từ đã giúp nhà thơ khẳng định sức mạnh vĩ đại của dân tộc, đồng
cũng bộc lộ nỗi nhớ và niềm tri ân sâu sắc đối với núi rừng Việt Bắc thấm đẫm tình thương.
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Câu thơ “Những đường Việt Bắc của ta” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của mảnh đất Việt
Bắc, của chiến khu Việt Bắc với nhân dân với đất nước bởi đây là quê hương cách mạng là
trái tim của cả nước trong những tháng ngày kháng chiến chống Pháp. Biện pháp nghệ thuật
tu từ so sánh “như là đất rung” kết hợp với hình ảnh “quân đi điệp điệp trùng trùng” đã thể
hiện sức mạnh vĩ đại của đoàn quân ra tiền tuyến, đoàn quân dài như vô tận rất kỳ vĩ và hào
hùng.
Câu thơ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” đã kết hợp ba biện pháp nghệ thuật tu từ ẩn
dụ, nhân hóa, hoán dụ, hình ảnh “ánh sao đầu súng” gợi nhắc đến hình ảnh “đầu súng trăng
treo” trong thơ của Chính Hữu và “súng ngửi trời” trong thơ Quang Dũng thể hiện tầm cao
của người lính, đây là một hình ảnh đẹp và rất giàu chất thơ. Hình ảnh đoàn dân công vô
cùng mạnh mẽ, đông đúc “đỏ đuốc từng đoàn”, “bước chân nát đá”, gợi nhắc đến thành ngữ
“Chân cứng đá mềm” khẳng định sức mạnh và sự vững chãi, bền bỉ của con người Việt Nam
trước bão tố chiến tranh. Trong đêm tối của chiến tranh, quân và dân ta luôn hướng về ngày
mai, luôn nuôi dưỡng niềm tin mãnh liệt về một ngày mai chiến thắng. Và cuối cùng tin vui
đã về trên khắp đất nước, những người chiến sĩ về Hà Nội, về miền xuôi, nhưng vẫn đọng lại
trong trái tim họ biết bao kỷ niệm, biết bao yêu thương, họ mang theo niềm vui toàn thắng
trong những ngày cuộc kháng chiến khép lại.
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
Những câu thơ cuối cùng khép lại đoạn trích là quang cảnh Việt Bắc sau chiến thắng Điện
Biên Phủ, khắp nơi hân hoan trong những màu sắc rực rỡ vui tươi của nắng vàng, của cờ đỏ.
Trung ương Đảng và Chính phủ thu xếp trở về thủ đô, trong không khí nhộn nhịp, miền Bắc
ngày một đổi mới với chính sách mới của Đảng và nhà nước “Giữ đê, phòng hạn, thu
lương/Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...”. Đồng thời đoạn thơ cũng là lời ngợi ca
những công lao vĩ đại của Bác Hồ kính yêu, là lời tri ân sâu sắc với miền núi rừng Việt Bắc
thân thương, dù mai này đã về thủ đô nhưng trong tim những người chiến sĩ cách mạng luôn
giữ một góc trong tim dành cho Việt Bắc, dành cho “Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.
Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình ca và
khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người kháng chiến
anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình cảm
tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa
tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắn nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào
hùng của dân tộc, những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những những trang sử
thấm đượm tình cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.