You are on page 1of 11

KHỔ 1

“ Tây Tiến - tượng đài bất tử về người lính vô danh” Vũ Thu Phương. "Tây Tiến" là bài thơ
tiêu biểu cho đời thơ và thể hiện sâu sắc phong cách thơ Quang Dũng, một nghệ sĩ đa tài với
hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Có thể nói, tinh hoa của bài thơ được
hội tụ lại trong khổ thơ đầu tiên. Khổ thơ đã dựng lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mĩ lệ
của núi rừng miền Tây, nơi nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng” cùng đoàn quân Tây Tiến đã
từng hoạt động, chiến đấu.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây,súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Bài thơ "Tây Tiến" được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ đã rời khỏi
đơn vị cũ Tây Tiến, chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Tây Tiến là một đơn vị bộ
đội chống Pháp được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên
giới Việt Lào, tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn
hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rất rộng lớn trải dài từ Sơn la, Hòa Bình, miền tây Thanh
Hóa đến Sầm Nưa ( Lào) - là những nơi hiểm trở, hoang vu, rừng thiêng nước độc. Chiến sĩ
Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang
Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành
nhưng vẫn lạc quan, anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hòa
Bình thành lập Trung đoàn 52.
Bài thơ ra đời từ nỗi nhớ, kỉ niệm, hồi ức của Quang Dũng về đồng đội và địa bàn chiến đấu
cũ. Tác phẩm sau khi ra đời đã được bao thế hệ thanh niên và bạn yêu thơ truyền tay tìm đọc.
Đến năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ " Mây đầu ô" ( xuất bản 1986). Ban đầu bài thơ
có tên là " Nhớ Tây Tiến", sau đó tác giả chuyển lại thành " Tây Tiến". Nhan đề " Tây Tiến"
đảm bảo tính hàm súc của thơ, không cần phải trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ mà tình cảm ấy vẫn
hiện lên sâu sắc, thấm thía. Nhan đề còn làm nổi rõ hình tượng trung tâm của tác phẩm, đó là
hình tượng đoàn quân Tây Tiến. Việc bỏ đi từ "nhớ" đã vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến,
khiến cho hình ảnh người lính Tây Tiến trở thành bất tử trong thơ ca kháng chiến Việt Nam.
"Tây Tiến" là bài thơ in đậm phong cách tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ
Quang Dũng. Tác phẩm đã bộc lộ nỗi nhớ sâu sắc của nhà thơ với người lính Tây Tiến mang
vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng. Đoạn thơ thứ nhất đã tái dựng lại sống động bức tranh
thiên nhiên miền Tây với những khung cảnh, những chặng đường hành quân gian khổ, từ đó
hình ảnh những chiến sĩ Tây Tiến cũng lần lượt hiên ra.
Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng:
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Tiếng gọi "Tây Tiến ơi" bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc, cồn cào không kìm nén nổi. Đối
tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể, rõ ràng là : "sông Mã", "Tây Tiến", "rừng núi". Nỗi nhớ ấy
phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại hai lần từ " nhớ". " Nhớ chơi vơi" là nỗi nhớ
chập chờn hư thực, vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mang, đầy ám ảnh, vừa mở ra
không gian của tiềm thức, vừa như gợi ra không gian trập trùng của núi đèo rộng lớn. Cách
hiệp vần "ơi" làm câu thơ như ngân vang, phù hợp với biên độ của cảm xúc.
Hai câu thơ đầu đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi nhớ ấy
được cụ thể dần dần trong những vần thơ tiếp sau.
Hai câu thơ tiếp gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Hai câu thơ vừa tả thực, vừa sử dụng bút pháp lãng mạn.Những từ chỉ địa danh Sài Khao,
Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn, đầy lạ lẫm đối với người lính Tây Tiến. Sương mù vùng
cao dày đặc như trùm lấp bước chân, nuốt chửng cả đoàn binh vốn đang mỏi mệt, rệu rã vì
chặng đường dài gian khổ. Quang Dũng đã nhìn thấy và miêu tả một mảng hiện thực khuất
lấp trong thơ ca kháng chiến. Nhưng những người lính ấy, dù mệt mỏi mà tâm hồn vẫn trẻ
trung, hào hoa, lạc quan, yêu đời. Hình ảnh " hoa về trong đêm hơi" là hình ảnh đẹp giàu sức
gợi. Đó có thể là những ánh đuốc sáng lung linh của đoàn quân đang tiến về bản làng, cũng
có thể là hình ảnh đoàn quân từ rừng đi ra, trên tay vẫn cầm theo những đóa hoa rừng ngát
hương, mà đó cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như những bông hoa
rừng. Đoàn quân ấy hành quân trong một " đêm hơi" đầy huyền ảo, mơ hồ, bảng lảng khói
sương chốn rừng suối. Hai câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng.
Bốn câu thơ tiếp theo đặc tả địa hình hiểm trở của miền Tây:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời,
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy tượng hình "khúc khuỷu", " thăm thẳm", " heo hút", kết
hợp với cách ngắt nhịp 4/3 như chặt đôi câu thơ, mật độ thanh trắc dày đặc khiến câu thơ
trúc trắc gợi sự vất vả, nhọc nhằn. Những phép tu từ đó mở ra trong tâm tưởng người đọc ấn
tượng về sự gập ghềnh, hiểm trở, ẩn chứa bao bất trắc, nguy hiểm của núi cao, vực sâu nơi
núi rừng miền Tây. Hình ảnh " súng ngửi trời" là một nhân hóa táo bạo, đặc tả sự chót vót
của dốc núi. Người lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc, cảm tưởng như mũi súng có thể chạm
mây. Từ đó, ta cũng thấy được nét tinh nghịch khỏe khoắn, vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một
chặng đường hành quân vất vả, mệt nhọc của các anh lính Tây Tiến. Phép đối " ngàn thước
lên cao - ngàn thước xuống" càng nhấn mạnh độ gập ghềnh, hình sông thế núi trập trùng,
hiểm trở của thiên nhiên miền Tây. Ba câu thơ giàu chất hội họa, dựng lên bức tranh hoang
vu, dốc đèo đứt nối, hùng vĩ trên con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến. Câu thơ thứ tư
toàn bộ là bảy thanh bằng " Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi", vần mở "ơi" đặt cuối câu tạo
cảm giác nhẹ nhàng gợi ra những phút giây nghỉ ngơi thư giãn của người lính. Họ đứng trên
những đỉnh núi, thưởng thức chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, phóng tầm mắt,
thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông xa xôi. Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ dội
hoang vu, sự êm đềm của núi rừng, vừa gợi ra những cuộc hành quân vất vả nhọc mệt nhưng
đầy trẻ trung, yêu đời của các chàng trai Tây Tiến.
Người lính Tây Tiến không chỉ đối diện với dốc cao vực sâu mà còn phải chịu những mất
mát hi sinh:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
Cách nói tránh về cái chết "không bước nữa", "bỏ quên đời" gợi tư thế ngạo nghễ của người
lính Tây Tiến. Họ chủ động chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà
thôi. Tư thế hi sinh " gục lên súng mũ" đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng. Hình ảnh về
người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong "Dáng đứng Việt Nam" : " Và
anh chết trong khi đang đứng bắn- Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng". Câu thơ đã tiếp tục
cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Và người lính Tây Tiến tiếp
tục chịu sự thử thách của núi rừng miền Tây:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian" chiều chiều", "đêm đêm" kết hợp
với biện pháp nhân hóa " thác gầm thét", " cọp trêu người" đã nhấn mạnh vẻ bí hiểm, dữ
dội,hoang dã chứa đầy nguy hiểm, cái chết luôn luôn rình rập đe dọa người lính của núi rừng
miền Tây. Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng trong không gian mà còn kéo dài và lặp lại
thường xuyên theo thời gian. Hai câu thơ cuối đoạn lại đột ngột chuyển cảnh:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Núi cao rừng rậm lùi xa, chỉ còn lại hương vị ấm áp nghĩa tình quân dân lan tỏa từ nồi cơm
của các cô gái Thái. Từ cảm thán "Nhớ ôi" đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi nhớ da diết, ám ảnh
khôn khuây của Quang Dũng cũng như người lính Tây Tiến về đồng bào miền Tây. Nhà thơ
như nhói lòng khi hồi tưởng lại cảnh đoàn quân quây quần quanh nồi xôi nếp thơm lừng
đang bốc khói. Đó là những giây phút ấm áp ngắn ngủi nhưng lại dịu ngọt, tinh tế nên khắc
sâu mãi trong tâm trí nhà thơ. Cách kết hợp từ "mùa em" rất độc đáo, gợi những liên tưởng
đẹp, lãng mạn về những cô gái Thái vừa khỏe khoắn vừa dịu dàng mà đằm thắm yêu thương.
Hai câu thơ kết thúc đoạn một bài thơ Tây Tiến có âm điệu nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm giác
êm dịu, ấm áp, tạo tâm thế cho người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo.
Trong những đoạn thơ còn lại, nhà thơ Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về cảnh những đêm
liên hoan văn nghệ thắm thiết tình quân dân, những buổi chiều trên sông nước miền Tây thơ
mộng, hư ảo, hồi tưởng về chân dung tập thể những người lính Tây Tiến anh dũng, hào hoa.
Cuối bài thơ, Quang Dũng bộc lộ lời nguyện thề mãi gắn bó với miền Tây và đoàn quân Tây
Tiến.
Đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng khoáng của
nhà thơ Quang Dũng. Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu nhạc điệu, gây ấn tượng
táo bạo, dựng lên bức tranh sinh động, có chiều sâu về cảnh hành quân của đoàn quân Tây
Tiến trên cái nền thiên nhiên rừng núi hùng vĩ thơ mộng miền Tây. Dựng lên bức tượng đài
cao cả của những người chiến sĩ, anh hùng đã hi sinh vì dân tộc, vì Tổ Quốc. Qua đó, ta cảm
nhận được sự gắn bó sâu sắc, nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ Quang Dũng về những ngày
tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến - một thời mãi mãi để nhớ và tự hào.

KHỔ 2:
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”
Như Chế Lan Viên đã viết, lòng thương nhớ luôn dạt dào nơi trái tim khi ta đủ yêu, đủ gắn
bó. Nhà thơ Quang Dũng một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, là nhà thơ của xứ Đoài mây trắng,
là nghệ sĩ của những vần thơ giàu chất nhạc, chất họa cũng từng gắn bó với Tây Bắc, từng
“súng bên súng, đầu sát bên đầu” với những người đồng đội và chính những yêu thương đã
khơi nguồn nỗi nhớ, thôi thúc ông viết lên bài thơ Tây Tiến, thi phẩm nổi tiếng nhất của ông,
được bao nhiêu thế hệ bạn đọc yêu mến. Cảm xúc bao trùm bài thơ là nỗi nhớ trải theo
những cung đường dãi dầu mà mỹ lệ nơi đoàn binh Tây Tiến đã đi qua và để lại bao kỉ niệm
đẹp. Có những kỉ niệm thật dữ dội nhưng cũng có những kỉ niệm thật êm đềm. Kỉ niệm êm
đềm ấy giúp ta cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp lãng mạn của những người lính Tây Tiến thuở nào
hiện lên thật lung linh qua khổ thơ thứ hai.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Bài thơ được sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào cuối năm 1948- một năm sau khi Quang Dũng
rời đoàn binh Tây Tiến. Nỗi nhớ thương những người đồng chí đồng đội cùng những tháng
năm gắn bó với đoàn quân đã thôi thúc nhà thơ cầm bút ghi lại những cảm xúc chân thật, tự
nhiên, mãnh liệt, dâng trào.
Tây Tiến là một cuộc trường chinh vô cùng gian khổ. Nhưng vượt lên mọi khó khăn, tâm
hồn người lính Tây Tiến vẫn đầy chất lãng mạn và không phôi pha đi cái dáng vẻ của người
nghệ sĩ hào hoa. Sau chặng đường dài hành quân gian khổ, những người lính mang trong
mình tâm hồn nghệ sĩ ấy đã hòa nhập vào sinh hoạt bình dị mà đầy chất thơ cùng nhân dân
trên những nẻo đường hành quân. Không có chất nghệ sĩ bẩm sinh của chàng trai đất Thăng
Long nghìn năm văn hiến sẽ không có những giờ phút thăng hoa theo tiếng khèn, theo những
vũ điệu của đêm hội đuốc hoa.
Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến trước hết thể hiện ở tâm hồn mộng mơ, đa tình khi
đắm mình trong không khí của đêm liên hoan văn nghệ: “Doanh trại bừng lên
hội đuốc hoa”
Chỉ một từ “bừng” trong câu thơ mà nói lên được cả một cảm xúc dào dạt, phấn chấn. Đâu
chỉ là ánh sáng của ngọn lửa hồng lên, mà đó là sự bừng sáng trong tâm hồn, đó là niềm vui
rạng rỡ. Cảnh được miêu tả lại là cảnh hồi tưởng từ quá khứ nên “bừng” còn là bừng thức cả
một vùng kỷ niệm. Trong cái nhìn lãng mạn của người lính, đêm liên hoan văn nghệ trở
thành “đêm hội đuốc hoa”. “Đuốc” trước hết là những bó lửa đuốc được thắp lên trong đêm
liên hoan. “Đuốc hoa” là hình ảnh đẹp vừa tươi sáng, rực rỡ, ấm áp, vừa lung linh ảo huyền
thơ mộng, đó là cái tình, cái ý của những chàng trai trẻ tuổi trẻ lòng. “Đuốc hoa” từ hán còn
là hoa chúc, xa xôi gợi về lễ hợp cẩn lứa đôi. Vậy là tình quân dân cá nước cũng say đắm,
rạo rực như tình lứa đôi buổi đầu gặp mặt. Quả là một sự liên tưởng táo bạo, thú vị và đầy
bất ngờ. Đêm hội vừa đông đúc, vừa đông vui, vừa có vẻ tưng bừng náo nhiệt của những
đêm hội trai gái mở hội lòng.
Đang say sưa trong đêm hội liên hoan, người lính phải thốt lên:
“ Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
“Xiêm áo” là từ Hán Việt đủ để Quang Dũng diễn tả sự rực rỡ, lộng lẫy của người con gái
vùng sơn cước vừa như từ trang truyện cổ bước ra, vừa như từ trang đời bước lại. Từ “kìa”
bật lên bộc lộ cả một niềm thích thú , một sự say mê ngỡ ngàng, một cái nhìn đam mê
ngưỡng vọng trước vẻ đẹp đầy quyến rũ. Sự hóm hỉnh trẻ trung của người lính đã được thể
hiện một cách đầy tinh tế như thế. Cảnh quá khứ mà sống động như thực tại chứng tỏ những
kí ức về Tây Tiến trong lòng tác giả nguyên vẹn không một chút phai nhạt.
“Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Viết về nhạc nên câu thơ của Quang Dũng cũng đầy chất nhạc. Một thứ nhạc êm ái dìu dặt
khiến hồn ta lâng lâng bay bổng. Thứ nhạc ấy được tạo nên nhờ sự hòa phối thanh điệu tài
tình với thanh bằng là chủ yếu. Nhưng đó còn là một thứ nhạc đặc biệt khác ở ngoài lời, là
nhạc tâm hồn của những anh lính trẻ mộng mơ. “Hồn thơ” đã biến người lính thành thi sĩ,
còn “nàng thơ”- cảm hứng của những thi sĩ hào hoa đó là những sơn nữ vùng sơn cước
duyên dáng yêu kiều trong tiếng khèn “man điệu” quyến rũ gọi mời.
Người chiến binh ra đi chiến đấu với một tâm hồn nghệ sĩ. Họ cầm súng chiến đầu là vì hoàn
cảnh không thể khác được, còn về bản chất, họ thật sự là nghệ sĩ. Anh hùng mà nghệ sĩ , gian
khổ mà vẫn hào hoa, đó là những nét cơ bản trong tính cách con người Việt Nam mà những
chàng trai Hà Nội mang trong mình rất đậm. Phút chốc bao nhiêu gian khổ nhọc nhằn dọc
đường hành quân được gột sạch để chỉ còn tràn ngập trong hồn người chiến binh Tây Tiến
niềm bâng khuâng xao xuyến và những rung động đầy chất thơ.
Từ đêm lửa trại, Quang Dũng đột ngột chuyển cảnh về một miền sông nước Tây Bắc đầy
chất thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Chất nhạc, chất họa như được nhân lên trong những vần thơ sâu lắng gợi khung cảnh Châu
Mộc chiều sương. Nơi đoàn quân Tây Tiến đi qua, có những khung cảnh cực kỳ dữ dội, vất
vả, có những cảnh thật thơ mộng trữ tình. Có những buổi chiều oai linh thác gầm thét, có
những lúc sương lấp đoàn quân mỏi nhưng cũng có những Châu Mộc chiều sương đẹp bảng
lảng, mơ hồ. Nỗi nhớ Châu Mộc được gắn với không gian thời gian cụ thể. Thời gian là
“chiều”- khoảng thời gian gợi nỗi nhớ, gợi khát khao sum họp. Độc đáo trong câu thơ là đại
từ “ấy”, một từ vô danh về ngữ pháp nhưng hữu tình về ngữ nghĩa. Tố Hữu đã dùng từ “ấy”
để ghi lại thời khắc đáng nhớ:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”
Hay trong thơ Thế Lữ:

“Buổi ấy lòng ta nghe tiếng bạn


Ngàn năm chưa dễ đã ai quên”
Hai tiếng “chiều sương” kết hợp với đại từ phiếm định “ấy” vừa làm tăng thêm vẻ xa vắng
bâng khuâng, vừa khiến buổi chiều sương Châu Mộc hiện ra rõ ràng, không lẫn vào muôn
buổi chiều vô danh khác của loài người.
Trong nỗi nhớ về Châu Mộc, hình ảnh ngàn lau bỗng trở nên có hồn:
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
Câu thơ Quang Dũng gợi nhớ đến những vần thơ nổi tiếng trong bài “Lau biên giới” của nhà
thơ Chế Lan Viên:
“Ai lên biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh”
Nếu “lau” trong thơ Chế Lan Viên chủ yếu thiên về ấn tượng thị giác thì trong thơ Quang
Dũng lại nghiêng về những cảm nhận từ tâm hồn. Miêu tả hoa lau, Quang Dũng viết “hồn
lau” chứ không phải bờ lau hay triền lau. Bởi nếu như vậy thì chỉ tả hình sắc, còn “hồn lau”
hiện lên cả tâm hồn, linh hồn của Tây Bắc đại ngàn. Lau không còn vô tri vô cảm nữa, nó
làm thành hồn riêng của chiều sương Châu Mộc.
Tâm tình của con người không chỉ gửi vào hồn lau nẻo bến bờ mà còn trong những hình ảnh
duyên dáng đáng yêu của con người:“Có nhớ dáng người trên độc mộc”
Trên cái nền huyền ảo của sương và lau trắng, nổi bật lên dáng người lom khom trên con
thuyền độc mộc. Đó là cái dáng của những cô lái đò người Mèo, người Thái, cái dáng mềm
mại duyên dáng thật hợp với con thuyền độc mộc, hợp với bức tranh có sự hài hòa từ màu
sắc đến đường nét. Một lần nữa, Quang Dũng lại bật lên câu hỏi “có nhớ” làm câu thơ càng
thêm da diết, bâng khuâng.
Khép lại nỗi nhớ về buổi chiều sương Châu Mộc là một hình ảnh vô cùng ấn tượng:
“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
“Hoa” ở đây trước hết là hiện thực, là hoa rừng vì Tây Bắc là xứ sở của các loài hoa: hoa
đào, hoa mơ, “bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù núi khói Mèo đốt nương
xuân”. Miêu tả hoa, tác giả chọn “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” vì “đung đưa” chỉ
gợi lên chuyển động cơ học, có tính chất vật lý, còn “đong đưa” gợi bao nhiêu tình tứ, gọi
mời. Đến cả bông hoa rừng trên dòng nước lũ cũng không vô tình bởi nó được nhìn bằng cặp
mắt đa tình và mơ mộng của anh lính Tây Tiến. Nhưng bước vào thơ ca nói chung, thơ
Quang Dũng nói riêng thì hoa muôn đời là ẩn dụ cho cái đẹp, cho người con gái. Bóng hoa là
bóng người con gái trên thuyền soi xuống dòng nước, đong đưa tình tứ nhưng vẫn kín đáo,
duyên dáng. Như vậy, cái tình tứ của cảnh suy cho cùng là do người ngắm cảnh.
Như vậy, qua những kỉ niệm êm đềm, ngọt ngào về đêm liên hoan văn nghệ và cảnh Châu
Mộc chiều sương, ta càng cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến: mộng
mơ, đa tình, giàu rung cảm trước cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con người, trong hiện
thực nhiều gian khó, khốc liệt, họ luôn mơ về những điều tốt đẹp, về ngày mai chiến thắng.
Chất nhạc, chất họa, chất thơ đã hòa vào nhau, làm nên những vần thơ tuyệt đẹp. Đoạn thơ
đã góp phần làm nên thành công của cả bài thơ, đưa “Tây Tiến” xứng đáng với vị trí là một
trong những tác phẩm mở đầu xuất sắc của nền thơ cách mạng Việt Nam.

KHỔ 3:
Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nói “Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ
Tây Tiến ông không có điểm gì chug với những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một
hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến” Ông là một người thi sĩ đa tài, vừa viết thơ, vừa vẽ
tranh, lại có thể sáng tác kịch. Trong sự nghiệp thơ văn của mình, tác phẩm ông để lại không
ít nhưng nổi tiếng nhất có lẽ chính là tác phẩm Tây Tiến. Bài thơ là nỗi nhớ tha thiết của
Quang Dũng với miền Tây Bắc thân thương, với đồng đội của mình. Bài thơ đã làm nổi bật
lên một hồn thơ lãng mạn, sâu lắng, thấm đượm nghĩa tình, tinh thần dân tộc của Quang
Dũng, đặc biệt đoạn thơ khắc họa hình tượng người lính vô cùng đặc sắc:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Tây Tiến được Quang Dũng sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh trong nỗi nhớ đơn vị,
đồng đội của mình. Chính trong nỗi nhớ dạt dào ấy, ông đã khắc họa hình ảnh những người
lính Tây Tiến với những nét vẽ thật đẹp vừa hào hùng lại vừa lãng mạn.
Đọc những dòng thơ đầu tiên, hiện lên trước mắt người đọc là hình tượng người lính oai
hùng, lẫm liệt, đậm chất bi tráng:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
Đoàn binh Tây Tiến là đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào, đánh chặn các đợt tiến công biên giới Việt - Lào và Quang Dũng chính là đội
trưởng của đoàn quân ấy. Hai câu thơ đầu mở ra, giữa cái mỹ lệ, nên thơ của núi rừng, vẻ
đẹp của người lính cụ Hồ hiện lên thật bi tráng. Không phải những đoàn quân với những
người lính khỏe mạnh, trên đầu mang một màu tóc xanh của tuổi trẻ, đoàn quân của Quang
Dũng hiện lên thật kì dị lạ thường. Cả một đoàn quân tuổi đời còn trẻ măng nhưng ai cũng
"không mọc tóc". Vì đâu mà cả một đoàn binh lớn nhường ấy lại có điều dị thường đến vậy?
Phải chăng đây là kết quả của những cơn đói, cơn khát, của những trận sốt rét khủng khiếp
đã biến những người lính trẻ tuổi thành cả một "đoàn binh không mọc tóc" như vậy? Ngoại
hình tiều tụy, ốm yếu, đầu trọc, da xanh đã gợi lên trong lòng chúng ta biết bao sự bi thương.
Hình ảnh ấy tuy có gân guốc thế nhưng đó lại là cái hiện thực - một hiện thực thật trần trụi.
Các chiến sĩ Tây Tiến ngày đó phải hoạt động trong rừng núi phía Tây Bắc của Tổ quốc, nơi
rừng thiêng nước độc, nơi ấy có những trận sốt rét đến kinh người, và cả những ngày hành
quân đói rét vất vả nữa. Chúng ta cũng từng bắt gặp hình ảnh người lính với những trận sốt
rét mà vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình trong thơ của Chính Hữu:
"Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi"
Người lính Tây Tiến vẫn mang thêm chút đặc biệt hơn ở một phần nào đó. Phải chăng là
những mái tóc còn xanh chẳng còn nữa, những người lính trở thành cả "đoàn binh không
mọc tóc"? Đoàn quân đang trải qua những gian khổ, khó khăn, cản bước những bước tiến
hành quân của họ?
Nhưng nếu như ở câu trước hình tượng những người lính hiện lên thật trần trụi, bi thương thì
ngay ở câu thơ sau, người ta lại thấy Quang Dũng thể hiện hình ảnh những người lĩnh thật
oai phong:
"Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
"Quân xanh" ở đây phải chăng là những tán lá ngụy trang, là màu áo xanh người lính hay
chính là làn da xanh tái vì bệnh tật và đói rét của những chiến sĩ giải phóng quân? Một hình
ảnh hiện thực trần trụi được Quang Dũng đưa trực tiếp vào trong thơ. Chẳng hề có một sự
phóng đại hay cách điệu nào hết. Đó là hiện thực, là thực tại của những người lính đoàn quân
Tây Tiến. Thế nhưng, tuy có xanh xao, mệt mỏi, vất vả là thế, nhưng họ vẫn giữ vững tinh
thần "giữ oai hùm". Dù là nơi rừng thiêng nước độc, nhưng những người anh hùng giải
phóng quân vẫn giữ được tư thế hiên ngang, bất khuất, toát lên vẻ oai hùng như chúa sơn
lâm.
Hai câu đầu, hình tượng người lính của đoàn quân Tây Tiến hiện lên thật sống động biết bao.
Đoàn quân ấy đang đi giữa rừng xanh, đi giữa những núi rừng âm u hiểm trở và gặp biết bao
gian lao, vất vả, bệnh tật đói rét. Thế nhưng, các anh dù có thế nào vẫn giữ được một tư thế
hiên ngang, "oai hùm" giữa chốn rừng thiêng. Có thể nói, Quang Dũng đã đưa vào đây chất
liệu hiện thực - một hiện thực trần trụi và gửi vào đó một chút lãng mạn của thi ca.
Bước sang những câu thơ tiếp theo, người ta thấy hiện lên là vẻ đẹp tâm hồn của những
chiến sĩ ấy. Một vẻ đẹp tâm hồn mơ mộng, tràn trề sức xuân:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Tây Tiến là đoàn binh với thành phần chủ yếu là những người con đất Hà Thành, là những
học sinh, sinh viên đang còn tuổi chứa chan xuân xanh tươi đẹp, thế nên ẩn sau ngoại hình
xanh xao ấy là cả một bầu trời tâm hồn lãng mạn. Những người lính ấy đến với biên cương
bằng sức trẻ, bằng hoài bão, bằng khát vọng hòa bình. Họ nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc
mà lên đường tìm lại độc lập cho dân tộc bởi giặc ngoại xâm đã giày xéo quê hương đến tiêu
điều. Vậy nên, "mắt trừng" kia phải chăng chính là đôi mắt đang mở to, dõi theo kẻ thù,
quyết tâm thề sống chết với kẻ ngoại bang xâm lược? Đôi mắt trừng ấy cũng là sự căm hận
quân thù, sục sôi ý chí chiến đấu. Không chỉ vậy toát lên ý chí chiến đấu, đôi mắt ấy còn
"gửi mộng qua biên giới" đến với những nơi xa xôi, đến với Hà Nội thân yêu - nơi có người
thân, gia đình của những chàng trai Tây Tiến. "Mộng biên giới" - có chăng chính là giấc
mộng hòa bình, giấc mộng được chiến thắng trở về với quê hương, với gia đình, với người
thương của mình. Và đôi mắt ấy cũng không chỉ ánh lên khát vọng mà còn ánh lên cả cái
tình, cái cảm xúc yêu thương trong đó nữa.
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Đôi mắt ấy thao thức trong canh thâu, nhớ về một Hà Nội cổ kính, với phố phường, với gia
đình với cả "một dáng kiều thơm" trong trí nhớ. Là những người trí thức buông bỏ bút mực
nghiên, vác lên vai cây súng bảo vệ quê hương, thế nên những người lính Tây Tiến luôn giữ
trong mình cái vẻ hào hoa, lãng mạn của người trí thức ấy. Họ không như những anh lính
mộc mạc trong thơ Chính Hữu:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Chính "dáng kiều thơm" ấy là động lực để thôi thúc các anh hoàn thành nhiệm vụ cao cả của
mình. Đồng thời nó cũng là niềm khao khát của những người lính biên cương.
Sau mỗi chặng đường hành quân vất vả, phải chăng nỗi nhớ quê, nhớ người thương lại là
động lực mạnh mẽ, tiếp thêm sức lực cho các anh để các anh bằng tuổi trẻ, bằng khát vọng
của mình đem hòa bình lại cho những "dáng kiều thơm" kia? Quang Dũng cũng thật tinh tế,
bởi chỉ bằng hai câu thơ ngắn mà vẻ đẹp tâm hồn người lính Tây Tiến hiện lên thật hào hoa,
thật lãng mạn biết chừng nào. Và bốn câu thơ đầu của khổ thơ thứ ba, Quang Dũng đã làm
hiện lên trước mắt người đọc thật rõ ràng hình tượng người lính trong đoàn binh của mình.
Những người lính ấy vừa oai phong, vừa đẹp vẻ đẹp của khát vọng lại vừa tinh tế, lãng mạn
trong vẻ đẹp tâm hồn.
Trong chiến tranh, biết bao người lính đã ra đi với tuổi trẻ, với khát vọng hòa bình, nhưng lại
chẳng trở về. Người ta thường nói, chiến tranh vô thường, làm sao tránh được hi sinh, mất
mát:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Mất mát, hy sinh có lẽ là những điều hiển nhiên trong mỗi trận chiến. Thế nhưng đọc câu thơ
của Quang Dũng, người đọc chúng ta không khỏi xót xa trước những sự mất mát, hy sinh ấy.
Âm điệu của bốn câu trước thật hào hùng biết bao thì đến đây, không khí ấy chợt chùng
xuống sâu lắng. Trên mỗi chặng đường đi, những người lính lại lần lượt nằm xuống. Những
ngôi mộ của họ vô danh, nằm rải rác giữa biên cương, chốn rừng thiêng nước độc. Ở đây,
Quang Dũng chọn một từ ngữ Hán Việt "mồ viễn xứ" để diễn tả những cái chết của những
người con xa nhà. Họ phải nằm lại nơi đất khách quê người. Từ Hán Việt "mồ viễn xứ",
"biên cương" tạo nên không khí thật trang trọng, bi hùng như bài hùng ca tiễn biệt những
người lính. Họ ngã xuống nơi đây, trở thành những người lính vô danh góp một phần vào
nền độc lập của đất nước:
"Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước"
Thế nhưng dù có phải đối mặt với cái chết thì những người lính Tây Tiến vẫn quyết tâm ra đi
vì khát vọng hòa bình. Vì khát khao cháy bỏng ấy, họ nguyện hiến dâng cho Tổ quốc cả tuổi
thanh xuân, cả tính mạng của mình:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Một vẻ đẹp bi tráng đến thật lãng mạn! "Đời xanh" tức là tuổi thanh xuân của các anh, là tuổi
trẻ với bao khát vọng. Thế nhưng, vâng lời kêu gọi của Tổ quốc ra chiến trường diệt quân
thù, các anh quyết chí, đồng lòng ra đi, "chẳng tiếc" bất cứ điều gì cả. "Chẳng tiếc" - từ ấy
vang lên như một câu trả lời dứt khoát cho tiếng gọi của Tổ quốc vừa ngạo nghễ vừa bình
thản. Họ đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trong tim họ, chỉ có khát vọng hòa bình là đang
cháy bỏng. Đau thương nhưng lại chẳng hề bi lụy trước số phận của cuộc đời.
Vẫn trong âm hưởng hào hùng, trầm lắng đó, Quang Dũng lại kể tiếp về khát vọng được
cống hiến của Tổ quốc của những người lính đoàn quân Tây Tiền:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Họ là những người trẻ, hơn ai hết, họ hiểu được giá trị của thanh xuân, của những ước mơ,
khát vọng đời thường "dáng kiều thơm", thế nhưng được chết cho lý tưởng của đất nước thì
cũng thật là thiêng liêng, thật là cao đẹp. Người lính hy sinh, trên người đâu còn lại gì. Thế
nhưng, ở đây, Quang Dũng đã mỹ lệ hóa thành "áo bào". Tấm áo bào trước đây chỉ dành cho
vua chúa quý tộc thì nay được khoác lên người những người lính chiến. Tấm áo ấy như lời
vinh danh dành cho người lính vô danh đã ngã xuống, trở về với đất mẹ thân yêu. "Áo bào
thay chiếu" là lời nói bi tráng hóa, mỹ lệ hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Và cụm từ
"anh về đất" nghe sao có vẻ nhẹ nhàng, nhưng thực chất, đó chỉ là cách nói giảm nói tránh
nỗi đau xót, thương cảm vô hạn của Quang Dũng dành cho những người lính hy sinh mà
thôi. Với Quang Dũng, họ không chết, họ chỉ trở về với đất mẹ mà thôi. Bởi chúng ta sinh ra
từ đất thì sẽ lại trở về với đất mẹ.
Những người lính hy sinh ngã xuống, trở thành những nấm mồ vô danh viễn xứ, nhưng sự hy
sinh ấy không vô ích bởi nó góp phần tạo nên hòa bình cho đất nước, làm nên vinh quang
cho lịch sử nước nhà. Với những người lính Tây Tiến, con sông Mã là con sông lịch sử. Bởi
nó là chứng nhân của thời gian, là người bạn đồng hành của những người lính. Và giờ đây,
khi họ ngã xuống, nó "gầm" lên khúc tráng ca tiễn biệt người đồng đội của mình. Tiếng gầm
ấy như khúc nhạc tấu độc hành dành cho người lính để họ đi vào cõi bất tử.
Hai câu cuối của khổ ba, Quang Dũng liên tiếp sử dụng các từ ngữ Hán Việt. Nó vừa tạo nên
không khí trang trọng, hào hùng, tôn nghiêm khi nói về sự hy sinh của những người lính, vừa
tạo nên được vẻ đẹp bi tráng,lãng mạn, lẫm liệt của những người anh hùng xưa. Có thể nói,
hai câu thơ cuối đã mỹ lệ hóa cái chết của những chàng trai trẻ, thế nhưng sự mỹ lệ ấy hoàn
toàn vừa đủ để tôn lên sự hy sinh cao cả của các chàng trai tuổi mười tám ấy.
Đoạn thơ trên, Quang Dũng đã thể hiện vô cùng thành công nỗi nhớ thiên nhiên Tây Bắc hòa
quyện cùng nỗi nhớ đơn vị của mình. Ông cũng sử dụng liên tiếp rất nhiều hình ảnh đặc sắc
vừa nhạc vừa họa, những sự so sánh cường điệu tinh tế đồng thời xen lẫn với cảm hứng lãng
mạn để nói về đoàn quân của mình. Có thể nói, khổ thơ này là một trong những khổ thơ đặc
sắc nhất, kết tinh cho cả bài thơ Tây Tiến.

Khổ thơ thứ ba trong Tây Tiến của Quang Dũng là khổ thơ độc đáo nhất. Khuynh hướng sử
thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ
cảm xúc, tạo nên nhưng câu thơ “có hồn”. Dựng lên tượng đài bất tử được kết tinh từ âm
hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến về người lính Tây Tiến. Người lính ấy không chỉ là
những chàng trai trẻ tuổi hào hoa mà còn là những người anh hùng kiêu hãnh của đất nước.
Họ mang trong mình tình yêu quê hương, tình yêu đôi lứa, khát vọng hòa bình và lời thề
quyết tâm hiến dâng cho Tổ quốc. Đó là một lý tưởng thật cao đẹp, kiên trung, mỹ lệ. Và
Quang Dũng đã khắc họa thật thành công hình tượng người lính đó! Hình tượng người chiến
sĩ Tây Tiến mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.
“Anh Vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!”

You might also like