You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM

Họ và tên SV: Phùng Kiều Chi


Lớp tín chỉ: LLNL1107(223)CLC_18
Mã SV: 11231508

GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU

.
HÀ NỘI, NĂM 2024

1
MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................................ 3


NỘI DUNG .................................................................................................................... 3
PHẦN 1: LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM .................................................................... 4
I. HỆ THỐNG CƠ SỞ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI .................................................................................... 4
1. Cơ sở kinh tế - xã hội .......................................................................................... 4
2. Cơ sở chính trị - xã hội ........................................................................................ 4
3. Cơ sở văn hóa ...................................................................................................... 4
4. Chế độ hôn nhân tiến bộ...................................................................................... 5
II. XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ............................................................................................. 6
1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội .. 6
2. Biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình ......................................... 6
3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình ............................................................ 8
4. Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội..................................................................................... 8
PHẦN 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM ....................................... 10
I. Thực trạng vấn đề gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH tại Việt Nam .. 10
1. Những thành tựu đạt được sau gần 40 năm xây dựng gia đình Việt Nam trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ...................................................................... 10
2. Đánh giá thực trạng ........................................................................................... 12
3. Nguyên nhân của thực trang ............................................................................. 14
II. Đề xuất giải pháp ............................................................................................... 14
III. Liên hệ bản thân: ............................................................................................. 15
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................... 18

2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội là một đề tài cấp thiết
cần được nghiên cứu và làm rõ để có góc nhìn sâu rộng về vấn đề gia đình trong xã
hội hiện nay. Trong bối cảnh Việt Nam đang trải qua những biến đổi mạnh mẽ, từ quá
trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đến sự phát triển văn hóa và kinh tế, vai trò và cấu
trúc của gia đình cũng đang chịu ảnh hưởng đáng kể.
Đề tài "Vấn đề gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và liên hệ thực
tiễn tại Việt Nam" tập trung vào việc nghiên cứu các cơ sở, sự thay đổi và xu hướng
mới đối với gia đình trong giai đoạn này. Bài tiểu luận sẽ tìm hiểu về sự biến đổi của
cấu trúc gia đình, vai trò của vợ chồng, phụ huynh và con cái, cũng như những thách
thức đặt ra đối với sự ổn định và hạnh phúc gia đình. Liên kết với thực tiễn tại Việt
Nam, nghiên cứu này sẽ đi sâu vào phân tích tình hình gia đình hiện nay, từ các vấn đề
như hôn nhân, giáo dục con cái, đến ảnh hưởng của công nghiệp hóa và đô thị hóa đối
với môi trường sống gia đình. Đồng thời, bài viết cũng sẽ đề xuất những giải pháp và
chính sách cần thiết để thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của gia đình trong bối cảnh
mới này.
Để nghiên cứu toàn diện về vấn đề, bài tiểu luận được sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích – tổng hợp lý, phương pháp thu thập số
liệu thứ cấp…Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa to lớn, không chỉ nhằm đưa ra những
cơ sở lý luận mà còn giúp em củng cố những kiến thức trong học phần Chủ nghĩa xã
hội khoa học, vận dụng kiến thức để làm rõ các vấn đề về gia đình – xã hội.

3
NỘI DUNG
PHẦN 1: LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM

I. HỆ THỐNG CƠ SỞ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Cơ sở kinh tế - xã hội
Cơ sở kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ của lực lượng
sản xuất là quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa.
Nguồn gốc của sự áp bức, bóc lột và bất bình đẳng trong xã hội và gia đình dần dần
bị xóa bỏ, tạo cơ sở kinh tế cho việc xây dựng quan hệ bình đẳng trong gia đình và giải
phóng phụ nữ trong xã hội
Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đồng thời cũng là cơ sở để biến lao động
tư nhân trong gia đình thành lao động xã hội trực tiếp, người phụ nữ dù tham gia lao
động xã hội hay tham gia lao động gia đình thì lao động của họ đóng góp cho sự vận
động và phát triển, tiến bộ của xã hội. Do vậy, phụ nữ có địa vị bình đẳng với đàn ông
trong xã hội.
2. Cơ sở chính trị - xã hội
Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao động
được thực hiện quyền lực của mình không có sự phân biệt giữa nam và nữ.
Nhà nước là công cụ xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ, lạc hậu đè nặng lên vai người phụ
nữ, đồng thời thực hiện việc giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nhà nước
xã hội chủ nghĩa với tính cách là cơ sở của việc xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện rõ nét nhất vai trò của hệ thống pháp luật, trong đó có
Luật hôn nhân và gia đình cùng với hệ thống chính sách xã hội đảm bảo lợi ích của các
thành viên trong gia đình, đảm bảo sự bình đẳng giới, chính sách dân số, việc làm, y tế,
bảo hiểm xã hội... Hệ thống pháp luật và chính sách xã hội đó vừa định hướng, vừa thúc
đầy quá trình hình thành gia đình mới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
3. Cơ sở văn hóa
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với những biến đổi căn bản trong
đời sống chính trị, kinh tế, thì đời sống văn hóa, tinh thần cũng không ngừng biến đổi.
4
Những giá trị văn hóa được xây dựng trên nền tảng hệ tư tưởng chính trị của giai
cấp công nhân từng bước hình thành và dần dần giữ vai trò chi phối nền tảng văn hóa,
tinh thần của xã hội, đồng thời những yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, lối sống lạc
hậu do xã hội cũ để lại từng bước bị loại bỏ.
Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ góp phần nâng cao
trình độ dân trí, kiến thức khoa học và công nghệ của xã hội, đồng thời cũng cung cấp
cho các thành viên trong gia đình kiến thức, nhận thức mới, làm nền tảng cho sự hình
thành những giá trị, chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa không đi liền với cơ sở kinh tế, chính
trị, thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, không đạt hiệu quả cao
4. Chế độ hôn nhân tiến bộ
Thứ nhất, hôn nhân tự nguyện.
Hôn nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Đây là bước
phát triển tất yếu của tình yêu nam nữ. Hôn nhân tự nguyện đảm bảo cho nam, nữ có
quyền tự đo trong việc lựa chọn người kết hôn, không chấp nhận sự áp đặt của cha mẹ.
Tất nhiên, hôn nhân tự nguyện không bác bỏ việc cha mẹ quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ
con cái có nhận thức đúng, có trách nhiệm trong việc kết hôn.
Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm cả quyền tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam và nữ
không còn nữa. Tuy nhiên, hôn nhân tiến bộ không khuyến khích việc ly hôn, vì ly hôn
để lại hậu quả nhất định cho xã hội, cho cả vợ, chồng và đặc biệt là con cái. Vì vậy, cần
ngăn chặn những trường hợp nông nổi khi ly hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền
ly hôn và những lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.
Thứ hai, hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
Hôn nhân một vợ một chồng là kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu.
Thực hiện hôn nhân một vợ một chồng là điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình, đồng
thời cũng phù hợp với quy luật tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm, đạo đức con
người.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một
chồng là thực hiện sự giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tôn trọng lẫn
nhau giữa vợ và chồng. Trong đó, vợ và chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau
về mọi vấn đề của cuộc sống gia đình, được tự do lựa chọn những vấn đề riêng, chính
đáng đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những vấn đề chung của gia
đình như ăn, ở, nuôi dạy con cái... nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc.
Thứ ba, hôn nhân được đảm bảo về pháp lý
5
Quan hệ hôn nhân, gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng tư của mỗi gia đình
mà là quan hệ xã hội. Khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức là đã đưa quan
hệ riêng bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận của xã hội, điều đó được
biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân.
Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân là thể hiện sự tôn trọng trong tình yêu,
trách nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia tình và xã hội và ngược
lại. Đây cũng là biện pháp ngăn chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự do kết hôn, tự
do ly hôn để thỏa mãn những nhu cầu không chính đáng, để bảo vệ hạnh phúc của cá
nhân và gia đình.
Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn và tự
do ly hôn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực hiện những quyền đó một cách đầy
đủ nhất.
II. XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Gia đình Việt Nam ngày nay có thể được coi là "gia đình quá độ" trong bước chuyển
biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại. Trong quá trình
này, sự giải thể của cấu trúc gia đình truyền thống và sự hình thành hình thái mới là một
tất yếu.
Quy mô gia đình ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số thành
viên trong gia đình trở nên ít đi. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ có hai thế hệ cùng sống
chung: cha mẹ - con cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như trước, cá biệt còn
có số ít gia đình đơn thân, nhưng phổ biến nhất vẫn là loại gia đình hạt nhân nhỏ.
2. Biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình
a. Chức năng tái sản xuất ra con người:
Đây là chức năng đặc thù của gia đình. Với những thành tựu của y học hiện đại việc
sinh đẻ hiện nay được các gia đình tiến hành một cách chủ động, tự giác khi xác định
số lượng con cái và thời điểm sinh con.
Trong gia đình Việt Nam truyền thông trước đây, do ảnh hưởng của phong tục, tập
quán và nhu cầu sản xuất nông nghiệp, nhu cầu về con cái thể hiện trên ba phương diện:
phải có con, càng đông con càng tốt và nhất thiết phải có con trai nối dõi thì ngày nay,
nhu cầu ấy đã có những thay đổi căn bản, thể hiện ở việc giảm mức sinh của phụ nữ,
giảm số con mong muốn và giảm nhu cầu nhất thiết phải có con trai của các cặp vợ
chồng.

6
Trong gia đình hiện đại, sự bền vững của hôn nhân phụ thuộc rất nhiều vào các yếu
tố tâm lý, tình cảm, kinh tế, chứ không phải chỉ là các yếu tố có con hay không có con,
có con trai hay không có con trai như gia đình truyền thống.
b. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:
Xét một cách khái quát cho đến nay kinh tế gia đình đã có hau bước truyền mang
tính bước ngoặt:
Thứ nhất, từ kinh tế tự cấp tự túc thành kinh tế hàng hóa, tức là từ một đơn vị kinh
tố khép kín sản xuất để đáp ứng nhu cầu của gia đình thành đơn vị mà sản xuất chủ yếu
để đáp ứng nhu cầu của người khác hay của xã hội.
Thứ hai, từ đơn vị kinh tế mà đặc trưng là sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu của
thị trường quốc gia thành tổ chức kinh tế của nên kinh tế thị trường hiện đại đáp ứng
nhu cầu của thị trường toàn cầu.
Hiện nay, kinh tế gia đình đang trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Sự phát triển của kinh tế hàng hóa và nguồn thu nhập bằng tiền của gia đình
tăng lên làm cho gia đình không chỉ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất ra của cải
vật chất và sức lao động cho xã hội mà còn trở thành một đơn vị tiêu dùng quan trọng
của xã hội.
c. Chức năng giáo dục (xã hội hóa)
Nếu như trước đây giáo dục gia đình là nền tảng cho giáo dục xã hội thì hiện nay
giáo dục xã hội bao trùm và định hướng cho giáo dục gia đình, cả 2 đều đề cao giá trị
đạo đức và sự hy sinh của cá nhân cho cộng đồng.
Về phương diện các xu hướng phát triển của giáo dục gia đình, các cha mẹ có xu
hướng tăng cường đầu tư tài chính và mở rộng dần các nội dung giáo dục cho con trẻ,
trang bị cho con kỹ lưỡng những kiến thức để hòa nhập với thế giới.
Tuy nhiên, một số thách thức trong quá trình phát triển điển hình như việc đã bắt
đầu xuất hiện những yếu tố tiêu cực như vai trò trong gia đình giảm sút dần và niềm
tin vào giáo dục xã hội suy giảm. Chính vì vậy đã khiến cho vai trò xã hội hóa giáo
dục trẻ em của gia đình giảm sút và xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội tồn tại ở trẻ em. Và
để giải quyết cho vấn đề ấy, chúng ta cần sự phối hợp giữa gia đình và xã hội để giáo
dục con em và những giải pháp nâng cao hơn trong giáo dục gia đình.
d. Chức năng thỏa mãn nhu nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm:
Trước đây gia đình dựa trên nghĩa vụ, tình cảm và sự hi sinh cá nhân tuy nhiên
hiện nay, gia đình đã là sự hòa hợp tình cảm, đảm bảo hạnh phúc cho mọi thành viên
trong cuộc sống chung.

7
Một số thách thức các gia đình sẽ phải đối mặt như việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em
và người cao tuổi hay khi tỷ lệ gia đình chỉ có con tăng làm kém phong phú hơn do
thiếu đi tình cảm của anh, chị em trong cuộc sống gia đình.
Tác động công nghiệp hóa, toàn cầu hóa dẫn đến sự phân hóa gia đình giàu nghèo
ngày càng sâu sắc, cần Nhà nước khẩn trương đưa ra những chính sách hỗ trợ, khắc
phục tình trạng này
Đó vấn đề đặt ra là cần phải thay đổi tâm lý truyền thống về vai trò của con trai tạo
dựng quan điểm bình đẳng giữa con trai và con gái trong trách nhiệm nuôi dữơng
chăm sóc cha mẹ già và thờ phụng tổ tiên. Đồng thời cũng cần có các giải pháp bảo
đảm an toàn tình dục, giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản, củng cố chức năng xã hội
hóa gia đình, xây dựng chuẩn mực, mô hình mới về giáo dục gia đình và giải quyết
mâu thuẫn giữa nhu cầu tự do của phụ nữ để đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa các thành
viên trong gia đình cũng như lợi ích giữa gia đình và xã hội.
3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình
Trong thực tế, hôn nhân và gia đình Việt Nam đang phải đối mặt với những thách
thức, biến đổi lớn như: quan hệ vợ chồng - gia đình lỏng lẻo; gia tăng tỷ lệ ly hôn, ly
thân, ngoại tình, quan hệ tình dực trước hôn nhân và ngoài hôn nhân, chung sống không
kết hôn. Đồng thời, xuất hiện nhiều bi kịch, thảm án gia đình, người già cô đơn, trẻ em
sống ích kỷ, bạo hành trong gia đình. Hệ lụy là giá trị truyền thống trong gia đình bị coi
nhẹ, gia đình truyền thống bị phá vỡ, lung lay và hiện tượng gia tăng số hộ gia đình đơn
thân, độc thân…
Trong gia đình truyền thống, người chồng là trụ cột của gia đình. Tuy nhiên hiện
nay, ngoài mô hình người đàn ông - người chồng làm chủ gia đình ra thì còn có ít nhất
hai mô hình khác cùng tồn tại. Đó là mô hình người phụ nữ - người vợ làm chủ gia đình
và mô hình cả hai vợ chồng cùng làm chủ gia đình. Ngoài ra, mô hình người chủ gia
đình phải là người kiếm ra nhiều tiền cho thấy một đòi hỏi mới về phẩm chất của người
lãnh đạo gia đình trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế.
4. Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của xã hội về xây
dựng và phát triển gia đình Việt Nam.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền để các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức
đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò và tầm quan trọng
của gia đình và nhiệm vụ xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam hiện nay

8
Từ đó coi đây là một trong những động lực quan trọng quyết định thành công sự
phát triển bền vững kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế hộ
gia đình.
Xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội để góp phần củng cố,
ổn định và phát triển kinh tế gia đình Chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển kinh tế gia
đình cho các gia đình liệt sĩ, gia đình thương binh, bệnh binh, gia định các dân tộc ít
người, gia đình nghèo, gia đình đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Thứ ba, kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu những
tiến bộ của nhân loại về gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
Bước vào thời kỳ mới gia đình truyền thống bộc lộ cả những mặt tích cực và tiêu
cực. Nhà nước cũng như các cơ quan văn hóa cần phải xác định, duy trì những nét đẹp
có ích; đồng thời, tìm ra những hạn chế và tiến tới khắc phục những hủ tục của gia đình
cũ.
Xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay là xây dựng mô hình gia đình hiện đại, phù
hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
vừa phải kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình
Việt Nam, vừa kết hợp với những giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại để phù hợp với
sự vận động phát triển tất yếu của xã hội.
Thứ tư, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn
hóa.
Gia đình văn hóa là một mô hình gia đình tiến bộ, một danh hiệu hay chỉ tiêu mà gia
đình Việt Nam mong muốn hướng đến, đó là: gia đình ấm no, hòa thuận, tiến bộ, khỏe
mạnh và hạnh phúc; thực hiện tốt nghĩa vụ công dân; thực hiện kế hoạch hóa gia đình;
đoàn kết tương trợ trong cộng đồng dân cư.
Đến nay, xây dựng gia đình văn hóa đã trở thành phong trào thi đua có độ bao phủ
hầu hết các địa phương ở Việt Nam. Phong trào xây dựng gia đình văn hóa đã thực sự
tác động đến nền tảng gia đình với những quy tắc ứng xử tốt đẹp, phát huy giá trị đạo
đức truyền thống của gia đình Việt Nam. Do vậy, để phát triển gia đình Việt Nam hiện
nay cần tiếp tục nghiên cứu, nhân rộng xây dựng các mô hình gia đình văn hóa trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với những giá trị mới tiên tiến cần tiếp thu và dự
báo những biến đối về gia đình trong thời kỳ mới, đề xuất hướng giải quyết những thách
thức trong lĩnh vực gia đình.

9
PHẦN 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM
I. Thực trạng vấn đề gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH tại Việt Nam
Nhận thức được vai trò to lớn của gia đình, Đảng và Nhà nước ta cũng luôn quan
tâm chăm lo, xây dựng, phát triển gia đình ấm no, tự do, phồn vinh, hạnh phúc, đảm
bảo tiến bộ và văn minh. Trong văn kiện các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII
hầu như đều nhắc đến và nhấn mạnh vai trò của gia đình đối với sự hình thành nhân
cách của mỗi con người, bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc, xây dựng và phát triển
đất nước.

Nguồn: Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam

Đảng đã khẳng định: “Xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn
minh; xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với
giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới". Muốn xây dựng con
người Việt Nam hiện đại với những phẩm chất tốt đẹp, đáp ứng yêu cầu của thời đại,
muốn chấn hưng văn hóa, tạo sức mạnh mềm phát triển đất nước và đặc biệt muốn thực
hiện khát vọng của dân tộc: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc. Chúng ta phải tập trung xây dựng “hạt nhân”, “tế
bào” của xã hội chính là gia đình.
1. Những thành tựu đạt được sau gần 40 năm xây dựng gia đình Việt Nam trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
*Về mặt kinh tế
Theo Ngân hàng Thế giới, những thành tựu sau hơn 35 năm qua đã thúc đẩy phát
triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo trên thế
giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Quy mô GDP không ngừng được mở

10
rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong
ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt
Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Trong bối cảnh đó, kinh
tế hộ gia đình thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự tăng trưởng tổng thu
nhập quốc dân hằng năm. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới ở cơ sở phát triển.
Ngày càng có nhiều gia đình văn hóa, khu phố văn hóa, làng văn hóa, cụm dân cư văn
hóa, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Công tác xóa đói, giảm
nghèo, giải quyết việc làm đã giúp cho hàng triệu gia đình thoát nghèo và nâng cao mức
sống.

Nguồn: Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam

*Về mặt pháp luật


Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho các gia đình nghèo, đặc biệt khó
khăn, gia đình có công với cách mạng, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống
còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn
nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã đạt được những thành tích đáng kể, góp phần xây
dựng gia đình hạnh phúc, xã hội ngày càng ổn định và phát triển. Những giá trị nhân
văn mới, tiêu biểu là bình đẳng giới và quyền trẻ em, vai trò của người phụ nữ trong gia
đình và xã hội ngày càng được đề cao. Những năm qua, việc thành lập cơ quan quản lý
nhà nước về gia đình và lấy ngày 28/6 hằng năm là Ngày Gia đình Việt Nam đã khẳng
định vai trò của gia đình đối với sự phát triển xã hội và sự quan tâm của xã hội đối với
gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
*Về mặt xã hội

11
Cùng với sự phát triển dân số là quá trình hạt nhân hóa gia đình. Hai xu hướng này
diễn ra song song, làm tăng số lượng gia đình Việt Nam sau hơn 35 năm đổi mới đất
nước. Sau 30 năm, số lượng hộ gia đình nước ta năm 2019 tăng gấp 2,07 lần so với năm
1989. Việc thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội về gia đình cùng với nhận thức
của người dân được nâng cao đã tạo nên xu hướng gia đình hạt nhân có quy mô nhỏ.
Độ tuổi kết hôn tăng dần trong ba thập niên qua. Năm 2009, tuổi kết hôn trung bình
lần đầu của nam giới là 26,2 và của nữ là 22,8, chênh lệch 3,4 năm. Số liệu tổng điều
tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2019 cho thấy, tuổi kết hôn trung bình lần đầu là
25,2 tuổi, tăng 0,7 tuổi so với năm 2009. Như vậy, sau 10 năm, độ tuổi kết hôn trung
bình lần đầu của nam và nữ đều tăng: trong đó nam tăng 1,0 tuổi và nữ tăng 0,3 tuổi.
Điều này cho thấy sự khác biệt giới trong độ tuổi kết hôn và khác về mức độ gia tăng
độ tuổi kết hôn trung bình lần đầu của nam và nữ.

Nguồn: Tạp chí Cộng sản

Những thành tựu của khoa học và công nghệ nói chung và trong lĩnh vực y học nói
riêng tạo nên những tiến bộ trong công tác gia đình. Trong những năm qua, Việt Nam
đã đạt được những thành tựu ấn tượng về khoa học và công nghệ trong y học, có một
số thành công sánh ngang các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Sự tiến bộ của
khoa học và công nghệ đáp ứng nhu cầu có con của những cặp vợ chồng hiếm muộn,
nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe các tầng lớp dân cư, nâng cao tuổi thọ của người
dân, giảm tỷ lệ tử vong của người mẹ và con, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho hàng
triệu gia đình.
2. Đánh giá thực trạng
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế tạo ra nhiều
cơ hội, đồng thời cũng đặt gia đình và công tác gia đình trước nhiều khó khăn, thách
thức bao gồm:

12
Thứ nhất, vẫn còn có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình. Tảo hôn
vẫn là hiện tượng đáng lo ngại ở nhiều dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, không ít gia đình
dân tộc thiểu số ở một số địa phương thuộc vùng miền núi vẫn còn hôn nhân cận huyết.
Điều này ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng giống nòi của thế hệ
tương lai.
Thứ hai, một bộ phận các cặp vợ chồng vẫn còn ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam,
dẫn đến mất cân bằng giới tính khi sinh, để lại những hậu quả xã hội ở nhiều lĩnh vực
kinh tế, hôn nhân gia đình, an ninh, trật tự xã hội.
Thứ ba, xu hướng sinh ít con và tuổi thọ gia tăng là các yếu tố thúc đẩy già hóa
nhanh. Việt Nam hiện đang là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất
trong khu vực Đông Nam Á. Sự gia tăng gia đình có người cao tuổi, đặc biệt là người
cao tuổi sống một mình, là vấn đề xã hội rất cần có sự quan tâm và hoàn thiện chính
sách chăm sóc người cao tuổi, gia đình người cao tuổi.
Thứ tư, một số gia đình có biểu hiện coi trọng chức năng kinh tế, sao nhãng chức
năng giáo dục con cái. Gia đình có xu hướng nhường dần chức năng giáo dục cho nhà
trường.
Thứ năm, mặc dù mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình có xu hướng dân
chủ và bình đẳng hơn trước, nhưng vẫn còn tình trạng bạo lực gia đình, đặc biệt là bạo
lực của chồng đối với vợ. Bên cạnh những nguyên nhân do bất bình đẳng giới, ngoại
tình, rượu chè, cờ bạc, thì cần phải nói thêm một nguyên nhân quan trọng nữa là đa số
người vợ khi bị bạo lực lại tự nhận mình có lỗi, chứ không phải lỗi của người chồng có
hành vi bạo lực.
Thứ sáu, vẫn còn hiện tượng làm mẹ ở tuổi vị thành niên. Trên phạm vi toàn quốc,
phụ nữ chưa thành niên sinh con chiếm tỷ trọng 3,3‰, trong đó cao nhất ở Trung du và
miền núi phía Bắc (9,7‰). Tình trạng ly hôn, ly thân, chung sống không kết hôn, quan
hệ tình dục và nạo phá thai trước hôn nhân gia tăng đã để lại những hậu quả nghiêm
trọng về nhiều mặt đối với gia đình và xã hội. Tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em,
trẻ em bị xâm hại, trẻ em phải lang thang kiếm sống, trẻ em vi phạm pháp luật vẫn là
vấn đề xã hội nhức nhối. Các tệ nạn ma túy, cờ bạc, rượu chè, mại dâm vẫn đặt nhiều
gia đình trước nguy cơ đổ vỡ.
Thứ bảy, mặt trái của cơ chế thị trường và lối sống thực dụng tác động mạnh tới
các giá trị đạo đức truyền thống và lối sống lành mạnh. Nhiều giá trị đạo đức truyền
thống tốt đẹp của gia đình như hiếu nghĩa, thủy chung, kính trên, nhường dưới đang có
biểu hiện xuống cấp. Những xung đột giữa các thế hệ về lối sống và việc chăm sóc, nuôi
dưỡng người cao tuổi đang đặt ra những thách thức mới.

13
3. Nguyên nhân của thực trang
*Nguyên nhân khách quan
Mặt trái của cơ chế thị trường và lối sống thực dụng đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến
các giá trị đạo đức truyền thống và lối sống lành mạnh của gia đình. Sự phân hóa giàu
nghèo tiếp tục gây ra nhiều vấn đề cho gia đình. Chính sách về gia đình chưa được trọng
tâm và không hiệu quả trong nhiều trường hợp. Sự phối hợp giữa các ngành trong giải
quyết vấn đề của gia đình vẫn chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Bộ máy tổ chức và
quản lý về gia đình chưa thống nhất và ổn định.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế tạo ra những
hiện tượng phức tạp và tiêu cực đối với gia đình, đặc biệt là sự đồng nhất hóa giá trị
truyền thống và lối sống. Sự phát triển kinh tế không cân đối, ô nhiễm môi trường, buôn
bán phụ nữ và trẻ em, bạo lực gia đình, cùng với các tệ nạn xã hội khác, đều ảnh hưởng
xấu đến môi trường sống và sức khỏe của gia đình.
*Nguyên nhân chủ quan
Gia đình Việt Nam đang trải qua nhiều biến đổi về quy mô, cấu trúc và chức năng.
Có sự xuất hiện và tồn tại của nhiều loại hình gia đình, song song với mô hình gia đình
truyền thống. Khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư và các vùng địa lý ngày
càng lớn. Tình trạng này tạo ra thách thức trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống.
Việt Nam đang trải qua giai đoạn dân số vàng, cùng với chuẩn bị cho giai đoạn dân
số già hóa. Tỷ lệ gia đình trẻ, gia đình khuyết thế, và gia đình chỉ có người cao tuổi tăng
lên, gây ra những thách thức xã hội, kinh tế và văn hóa.
Một số gia đình bị ảnh hưởng bởi lối sống thực dụng, dẫn đến việc mải mê kiếm tiền
mà bỏ qua thời gian dành cho gia đình và giáo dục con cái. Cũng có những gia đình mất
đi tinh thần nhân ái và truyền thống văn hóa, dẫn đến sự lạnh lùng và vô cảm trong mối
quan hệ gia đình.
II. Đề xuất giải pháp
Thứ nhất, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác gia đình: Cần đẩy mạnh lãnh đạo
và chỉ đạo từ các cấp ủy đảng, chính quyền, công đoàn và các đoàn thể xã hội. Phải lồng
ghép công tác gia đình vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và kế hoạch 5
năm của các cấp, từ trung ương đến cơ sở. Để làm được điều này, cần có đội ngũ làm
công tác gia đình được nâng cao trình độ chuyên môn và nguồn kinh phí phù hợp.
Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về gia đình:
Cần rà soát lại hệ thống pháp luật và chính sách liên quan đến gia đình để điều chỉnh và
hoàn thiện phù hợp với thực tiễn xã hội. Đồng thời, phát triển hệ thống dịch vụ xã hội

14
liên quan đến gia đình và quan tâm hơn đến các gia đình chính sách và những gia đình
bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác nhau.
Thứ ba, đa dạng quan điểm về gia đình: Bên cạnh quan niệm về gia đình theo Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do
hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này” (khoản 2, Điều 3). Cần chấp
nhận và đa dạng hóa quan điểm về gia đình phù hợp với thực tế đa dạng của xã hội hiện
nay. Phải coi những dạng thức gia đình mới là một phần của sự đa dạng và không xem
chúng là bất thường.
Thứ tư, xây dựng gia đình phải luôn gắn với sự nghiệp giải phóng phụ nữ: Xây dựng
gia đình và công tác gia đình cần phải gắn liền với sự nghiệp giải phóng phụ nữ và tiến
trình bình đẳng giới. Cần loại bỏ những tư tưởng lạc hậu và xem xét lại vai trò của phụ
nữ trong gia đình và xã hội.
Thứ năm, đa dạng hóa các loại hình tuyên truyền và nâng cao chất lượng truyền
thông, giáo dục gia đình: Xây dựng gia đình và công tác gia đình cần phải gắn liền với
sự nghiệp giải phóng phụ nữ và tiến trình bình đẳng giới. Cần loại bỏ những tư tưởng
lạc hậu và xem xét lại vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Thứ sáu, tăng cường công tác nghiên cứu, điều tra, khảo sát toàn diện về gia
đình: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật liên quan đến gia đình
dựa trên những nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu về gia đình không chỉ giúp làm sáng
tỏ về quy luật tự nhiên của gia đình mà còn đề xuất các chính sách phù hợp.
Bên cạnh việc thực hiện đồng bộ tất cả các giải pháp, vấn đề mấu chốt vẫn là phải
nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi người dân, mỗi thành viên trong gia đình
về vai trò, vị trí của gia đình, của việc xây dựng hệ giá trị gia đình đối với sự phát triển
của mỗi con người cũng như của đất nước, từ đó biến thành những hành động cụ thể,
thiết thực để xây dựng, gìn giữ “tổ ấm” của chính mình.
III. Liên hệ bản thân:
Là một sinh viên Đại học Kinh tế Quốc dân và là một thành viên trong gia đình nhỏ
của mình, em nhận thức được tầm quan trọng về vai trò của thế hệ trẻ đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, bản thân em cần có trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa
vụ của mình trong quá trình xây dựng gia đình tại Việt Nam. Gia đình không chỉ là nơi
mình có thể tìm được sự ủng hộ và chia sẻ mà còn là nơi gắn kết, nuôi dưỡng giá trị
truyền thống và giáo dục đạo đức. Bởi vậy bản thân em nhận thấy mình cần: Cân bằng
giữa công việc cá nhân và thời gian cho gia đình; tham gia vào các hoạt động gia đình,
chia sẻ trách nhiệm với các thành viên khác trong việc chăm sóc và hỗ trợ gia đình bao

15
gồm việc giúp đỡ trong công việc nhà, chăm sóc người thân, hoặc hỗ trợ tài chính nếu
có thể; xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt đẹp với các thành viên trong gia đình, luôn
lắng nghe và tôn trọng ý kiến của mọi người và sẵn sàng hỗ trợ người thân trong mọi
tình huống; không tham gia vào các tệ nạn xã hội và không ngừng học hỏi và phát triển
bản thân để trở thành một công dân tốt, một tấm gương tốt, đảm bảo ổn định tài chính
của tương lai gia đình sau này.

16
KẾT LUẬN
Xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa là nội dung quan trọng
khi nghiên cứu về chủ nghĩa Mác-Lenin, có vai trò và ý nghĩa to lớn trong quá trình xây
dựng và phát triển đất nước. Trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng
gia đình đặt ra những yêu cầu cao về sự đảm bảo bình đẳng và tự do cho mỗi thành viên
trong gia đình. Bằng cách tôn trọng và thúc đẩy bình đẳng giữa vợ chồng, gia đình trở
nên vững mạnh hơn và có khả năng thích ứng tốt hơn với thách thức của xã hội hiện
đại. Đồng thời, việc thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân giúp củng cố sự ổn định
và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, từ đó góp phần vào sự phát triển ổn
định và bền vững của xã hội. Cần nắm rõ lý luận này để thực hiện đúng vai trò của mỗi
cá nhân trong công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội. Trong chỉ thị của Đảng và nhà nước
ta nêu rõ "Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, môi trường lưu giữ, giáo
dục, trao truyền các giá trị văn hóa dân tộc cho các thành viên trong gia đình. Xây
dựng gia đình hạnh phúc chính là tạo nền tảng để xây dựng xã hội hạnh phúc, là vấn
đề hết sức hệ trọng của dân tộc ta. Công tác xây dựng gia đình vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển bền vững đất nước". Với tinh thần đó, bản thân em nhận thấy
mình cần nỗ lực hơn nữa về mọi mặt để phát huy vai trò của một công dân gương mẫu,
từ những kiến thức lý luận biến thành những hành động cụ thể, thiết thực để xây dựng,
gìn giữ “tổ ấm” của mình.

17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật
2. Bài giảng Slide của thầy Nguyễn Văn Hậu
3. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/825283/xay-
dung-gia-dinh-viet-nam--nhung-thanh-tuu-noi-bat%2C-van-de-dat-ra-va-giai-phap-
chinh-sach.aspx
4. https://dangcongsan.vn/multimedia/mega-story/bai-4-phat-huy-vai-tro-cua-gia-
dinh-trong-viec-xay-dung-cac-he-gia-tri-viet-nam-thoi-ky-moi-628879.html
6. Một số nguồn Internet khác

18

You might also like