Professional Documents
Culture Documents
Đột biến cấu trúc-số lượng NST
Đột biến cấu trúc-số lượng NST
Cơ chế hình thành thể đa bội lai giữa hai loài cải
củ và cải bắp trong thí nghiệm của Cacpesenko :
Thể đa bội lai tạo thành khi lai giữa hai loài
Raphanus vơi Brassica
Thể dị đa bội là kết quả của lai xa (lai khác loài)
và đa bội hóa. Quá trình hình thành thể đa bội
diễn ra trong tự nhiên khá nhiều, với các bằng
chứng là nhiều loài hiện tại đang tồn tại mang bộ
nhiễm sắc thể của 2 hay nhiều loài đang tồn tại.
Các bằng chứng cho thấy, các loài thực vật có
hoa hiện nay, đa số được hình thành bằng con
đường lai xa và đa bội hóa. Là kết quả của quá
trình dị đa bội.
Trong tự nhiên, thỉnh thoảng ta bắt gặp các cá
thể có số lượng nhiễm sắc thể không phải là bội
số của số nhiễm sắc thể đơn bội, do chúng bị
thừa hoặc thiếu một hoặc vài nhiễm sắc thể cụ
thể nào đó. Đó là các thể lệch bội hay thể dị bội
(aneuploids).
Đa bội lệch hay đa nhiễm
Sự thay đổi số lượng NST chỉ liên quan đến một
cặp hoặc một số cặp NST được gọi là đa bội thể
lệch.
Các dạng đa bội thể lệch:
+ Thể đơn nhiễm hay thể một (2n - 1)
+ Thể tam nhiễm hay thể ba (2n + 1)
+ Thể tứ nhiễm hay thể bốn (2n + 2)
+ Thể tam nhiễm kép (2n + 1 + 1)
+ Thể vô nhiễm hay thể không (2n - 2)
Ở thực vật, ví dụ điển hình đó là một loạt các thể ba với
những đặc tính kỳ lạ ở loài cà độc dược Datura
stramonium được Alfred Blakeslee nghiên cứu vào
khoảng năm 1920. Thực ra, người ta đã phát hiện được
tất cả các thể ba về từng nhiễm sắc thể trong số 12
nhiễm sắc thể khác nhau ở loài này; và mỗi thể ba có
một kiểu hình đặc trưng, thể hiện rõ nhất là ở vỏ quả.
Điều đó chứng tỏ các nhiễm sắc thể khác nhau có các
hiệu quả di truyền khác nhau lên tính trạng này. Các thể
ba cũng được nghiên cứu ở nhiều loài cây trồng như
ngô, lúa gạo và lúa mỳ nhằm xác định các nhiễm sắc
thể mang các gene khác nhau. Ở hình 3.28b còn cho
thấy hiệu quả di truyền của các thể khuyết nhiễm liên
quan 7 nhiễm sắc thể khác nhau đối với kiểu bông ở ba
giống lúa mỳ khác nhau (A, B và D).
(a) Quả bình thường của cà độc dược Datura (trên cùng) và 12 kiểu thể ba khác
nhau, mỗi kiểu có một vẻ ngoài và tên gọi khác nhau.
(b) Các thể khuyết nhiễm liên quan 7 nhiễm sắc thể khác nhau ở ba bộ gen lúa mỳ
(A, B và D) cho các hiệu quả di truyền khác nhau đối với kiểu hình bông so với dạng
bình thường (hình cuối).
Các thể đa bội lệch ở người:
Ở người nhiều hội chứng di truyền do các thể đa
bội lệch làm thay đổi số lượng cặp NST giới tính,
đưa đến các dạng: XXX (siêu nữ), XXY
(Klinefelter), OX (Turner), OY (chết)
+ Hội chứng Turner do Henry Turner mô tả đầu
tiên ở người nữ mất một NST X (OX), có công
thức 2n - 1 = 45. Hội chứng có nhiều biểu hiện
đặc trưng như lùn (chiều cao < 1,5 m), cơ q
uan sinh dục kém phát triển (không dậy thì),
kém thông minh ...
Đặc điểm hội chứng Turner (XO)
+ Hội chứng Klinefelter do Henry Klinefelter mô
tả ở những người nâm dư 1 NST X (XXY), công
thức 2n + 1 = 47. Hội chứng có những biểu hiện
đặc trưng như bất thụ, ngón tay, chân dài, phát
triển ngực, có tính nữ và suy giảm trí tuệ
+ Người siêu nữ (XXX)_ do dư một NST X, bộ
gen 2n + 1 = 47, thoái hóa, suy giảm trí tuệ.
+ Hội chứng Down do Langdon Down phát
hiện, thường là tam nhiễm ở cặp NST số 21
của người. Tỷ lệ xuất hiện khoảng 1/600 ở trẻ
sơ sinh. Người bệnh có một số biểu hiện đặc
trưng như: thoái hóa trí tuệ, mắt
giống mắt người Mông cổ. Có mối liên hệ
thuận giữa số trẻ sinh ra mắc bệnh Down và
tuổi của các bà mẹ. Tỷ lệ đó là 1/500 ở các bà
mẹ 20 - 30 tuổi, 1/300 ở các bè mẹ 40-45 tuổi
và 1/60 ở các bà mẹ lớn hơn 45 tuổi. Tuổi cha
hầu như không ảnh hưởng.
Những người mắc hội chứng XYY (có thể gọi là
"siêu nam"), xuất hiện với tần số khoảng 1/1.000
trong số các trẻ nam sơ sinh; những cá thể này
không có vẻ gì là bệnh tật, sức sống và sinh sản
bình thường. Các nghiên cứu xa hơn cho thấy
dường như những người này có khuynh hướng
phạm tội, có thể có tương quan tối thiểu với hành
vi. Tần số các cá thể XYY bị ngồi tù cao đáng kể
so với cộng đồng dân cư nói chung; tuy nhiên,
chưa tới 5% tổng số các cá thể XYY là được giáo
dục dạy dỗ đàng hoàng