Professional Documents
Culture Documents
đột biến số lượng NST
đột biến số lượng NST
-Theo những bài trước đã học, ta đã được biết là NST đóng vai trò quan
trọng trong việc lưu trữ, bảo quản và truyền đạt thông tin di truyền. Vậy
nếu cơ thể mang số lượng NST bị đột biến về số lượng thì sẽ đem lại hậu
quả gì, ta hãy tìm hiểu ngay sau đây:
2/ Thể dị bội và hậu quả
- Nhìn hình và nêu sự khác biệt giữa quả cây cà độc dược lưỡng
bội bình thường và quả của các cây dị bội:
+ Ở hình trên, chúng ta 13 quả của cây cà độc dược được đánh số
thứ tự lần lượt từ 1-13.
+ Trong đó, quả 1 là quả của cây lưỡng bội bình thường mang bộ
NST là 2n=24 (có nghĩa cây bình thường có 24 chiếc NST chia
thành 12 cặp tương đồng) và quả 2-13 là quả của các cây dị bội
(tức là đã bị đột biến lệch bội), chúng mang bộ NST ba nhiễm
(hay còn gọi là 2n+1), bộ NST này có 12 cặp NST nhưng trong đó
1 cặp NST có 3 chiếc (có nghĩa số lượng NST đã tăng thêm 1
chiếc), khiến cho mỗi bộ NST đều chúa 25 chiếc.
- So sánh:
- Khi so sánh quả bình thường với quả của cây bị đột biến lệch
bội, ta có kết quả như sau:
+ Về kích thước: quả 4, 5, 8, 10, 11, 12, 13 có kích thước nhỏ hơn
quả ban đầu. Quả 6 và 9 có kích thước lớn hơn so với quả thường.
+ Về hình dáng: quả 5, 10, 11 lại có hình tròn so với hình bầu dục
của quả bình thường.
+ Về kích thước gai: quả 2, 3, 9 có gai dài hơn quả bình thường.
+ Ta thấy, các quả từ 2-13 đều có những đặc điểm về ngoại hình
không giống với quả bình thường. Điều này xảy ra là do các quả
từ 2-13 là quả của cây đã bị đột biến lệch bội, khiến cho số lượng
NST trong bộ NST của chúng bị thay đổi (từ 2n thành 2n+1), dẫn
đến những thay đổi về hình thái. Ta gọi cơ thể của các cây bị đột
biến này là thể dị bội.
→ Từ 2 ví dụ trên, ta thấy các hậu quả đột biến lệch bội gây ra
cho con người là rất tai hại. Vì vậy, hiện tại có nhiều công nghệ
có thể chuẩn đoán liên quan đến các bệnh về đột biến số lượng
NST ở thai nhi nhằm tránh các tình trạng đau lòng kể trên.
+ Như vậy, ta đã biết được biết về đột biến lệch bội, thể dị bội và
những hậu quả nó gây ra trên thực vật và con người. Bây giờ, ta
sẽ tìm hiểu tại sao thể dị bội lại có thể phát sinh được.
3/ Sự phát sinh thể dị bội
+ Như ta đã được học ở các bài trước, trong quá trình giảm phân,
mỗi NST của cặp tương đồng phân li về mỗi cực, qua đó hình
thành giao tử bình thường (n) và qua thụ tinh 2 giao tử bình
thường n kết hợp với nhau tạo ra hợp tử 2n bình thường. Nhưng
nếu mỗi NST trong cặp tương đồng không phân li đồng đều về
mỗi cực, làm xuất hiện trường hợp 1 giao tử chứa 2 chiếc NST
còn giao tử còn lại không chứ NST nào thì chuyện gì sẽ xảy ra với
hợp tử? → câu trả lời là ở hợp tử sẽ xuất hiện trường hợp bị đột
biến về số lượng NST.
+ Như vậy, cơ chế phát sinh thể dị bội được giải thích qua sơ đồ
sau:
+ Ở sơ đồ trên, ta có 2 tế bào tham gia tạo giao tử đều có cùng vai
trò phát sinh giao tử, nên ở đây có thể là tế bào sinh dục đực đến
từ bố hoặc tế bào sinh dục cái đến từ mẹ (nếu 1 tế bào là đến từ bố
thì tế bào còn lại sẽ đến từ mẹ). Ta hãy chú ý đến tế bào phía bên
phải, trong giảm phân của tế bào này, do tác động của các tác
nhân lí hoá trong môi trường (như là do tia phóng xạ, tia tử ngoại,
các hoá chất gây đột biến) hoặc là do rối loạn trao đổi chất nội bào
mà 1 cặp NST tương đồng không phân li, khiến cho cả hai chiếc
NST cùng đi về 1 cực, kết quả là xuất hiện 2 giao tử không bình
thường, 1 giao tử chứa 2 chiếc NST (n+1) và 1 giao tử không
chứa NST nào (n−1). Qua quá trình thụ tinh thì 2 giao tử đó kết
hợp với 2 giao tử bình thường (n) của tế bào phía bên trái tạo ra 1
hợp tử chứa 3 chiếc NST (thể ba 2n+1) và 1 hợp tử chỉ chứa 1
chiếc NST (thể một 2n−1) và như vậy thể dị bội đã được phát
sinh.
+ Qua sơ đồ về sự phát sinh của thể ba (2n+1) và thể một (2n−1) ở
trên, ta rút ra kết luận về cơ chế phát sinh của thể dị bội:
→ Thể dị bội phát sinh thường do sự không phân li của một hay
một số cặp NST trong giảm phân tạo ra các loại giao tử thừa hay
thiếu một vài NST. Các loại giao tử này kết hợp với giao tử bình
thường sẽ tạo ra các thể lệch bội.