You are on page 1of 76

Câu 1: . Quan điểm duy vật Maxit về vật chất. Ý nghĩa phương pháp luận.

Quan niệm về vật chất:


Chủ nghĩa duy vật mácxít đã có quan niệm đúng đắn nhất về vật chất. Đã có sự
phát triển quan niệm này và hoàn thiện nó từng bước tùy thuộc vào yêu cầu của lịch sử từ
C.Mác, Ph.Ăngghen đến V.I.Lênin.
+ C.Mác có quan niệm về vật chất: quan hệ sản xuất không có một nguyên tử vật
chất nào nhưng nó vẫn là vật chất (Tư bản). Tức là C.Mác đã có quan niệm về tính khách
quan của vật chất…
+ Quan niệm của Ph.Ăngghen về vật chất trong “Biện chứng của tự nhiên”:
“Thực thể, vật chất không phải cái gì khác hơn là tổng số những vật thể từ đó người
ta rút ra khai niệm ấy bằng con đường trừu tượng hóa…”… “vật chất” chỉ là “sự tóm tắt
trong đó chúng ta tập hợp theo những thuộc tính chung…, rất nhiều sự vật khác nhau có
thể cảm biết được bằng giác quan”1.
“…vật chất, với tính cách là vật chất, là một sáng tạo thuần túy của tư duy và là một
sự trừu tượng. Chúng ta bỏ qua những sự khác nhau về chất của những sự vật, khi chúng
ta gộp chúng, với tư cách là những vật tồn tại hữu hình, vào khái niệm vật chất. Do đó,
khác với những vật chất nhất định và đang tồn tại, vật chất với tính cách là vật chất, không
có sự tồn tại cảm tính”2 (Tức vật chất với tính cách là “vật” khái quát trừu tượng).
Khi khoa học tự nhiên tìm ra …
Vật chất tồn tại khách quan, nó là cái tự có không thể sáng tạo ra được. Ph.Ăngghen
có viết: “vật chất đối diện với chúng ta như một cái gì có sẵn, một cái gì không thể sáng
tạo ra, cũng không thể tiêu diệt được” 3. Và, “vật chất và vận động là không thể sáng tạo ra
được và không thể bị tiêu diệt được tức là chúng ta nói rằng thế giới tồn tại như một sự
tiến lên vô hạn…”4.

1
C.Mác – Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG-ST, H.1994, tr.726 – 727.
2
C.Mác – Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG-ST, H.1994, tr.751.
3
C.Mác – Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG-ST, H.1994, tr.520.
4
C.Mác – Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG-ST, H.1994, tr.728.
+ V.I.Lênin:
 Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”5.
 Nội hàm của định nghĩa: Tiêu chí để xác định vật chất (Nội hàm của phạm trù
triết học hẹp nên ngoại diên rộng)
- “là một phạm trù triết học”: Một số ý kiến không đưa nội dung này vào tiêu chí để xác định vật
chất . Bởi khi xác định nó là tiêu chí thì nó phải là công cụ để xác định tính chất của nó…

- “chỉ thực tại khách quan”: Nghĩa thứ nhất là chỉ cái đang tồn tại với loài người với cảm giác của
con người. Khác nữa là khách quan là bản tính tồn tại khách quan của các sự vật – đây là tiêu chí
cơ sở, là cái căn bản nhất để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì là ý thức…
- “đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”

- “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” – trùng với tiêu chí “thực tại khách quan”

 Phân tích định nghĩa


+“vật chất là một phạm trù triết học” dùng để phân biệt vật chất trong triết học
với khái niệm vật chất trong các khoa học cụ thể, vật chất trong đời thường hàng
ngày là có giới hạn, có sinh ra và mất đi; còn vật chất trong triết học là không
sinh ra không mất đi, vô tận, vô hạn, nó luôn vận động biến đổi chuyển hóa
không ngừng từ dạng này sang dạng khác
+Vật chất là “thực tại khách quan”, là có thật, đang tồn tại và không phụ thuộc
vào ý chí chủ quan và “ tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”, thế giới vật chất
tồn tại thông qua các sự vật hiện tượng cụ thể vô cùng phong phú và đa dạng
nhưng chúng đều có thuộc tính chung là tồn tại khách quan ( thực tại khách
quan), độc lập với ý thức của con người và thế giới loài người, đây là thuộc tính
quan trọng nhất của thế giới vật chất để phân biệt với đâu không phải là vật chất
trong tự nhiên và XH ( để phân biệt được những hiện tượng vật chất và những
hiện tượng không phải vật chất ).

5
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1980, t.18, tr.151.
+“ Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”, điều này nói lên rằng thực tại
khách quan (vật chất ) có trước, cảm giác của con người có sau. Cảm giác của
con người có thể “chép lại, chụp lại, phản ánh” được thực tại khách quan (VC).
Như vậy, thực tại khách quan( VC) không tồn tại trừu tượng được mà tồn tại
thông qua các dạng cụ thể của mình và bằng cảm giác ( ý thức), bằng cảm giác
( ý thức ) con người có thể nhận thức được. Điều này có nghĩa là “ thực tại khách
quan” (VC) là một nội dung khách quan, nguồn gốc khách quan của những cảm
giác ( YT) của con người.
Vật chất tồn tại không huyền bí mà nó là “thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh“.
Điều này khẳng định con người có khả năng nhận thức thế giới vật chất, chỉ có
những điều chưa biết chứ không thể có những điều không biết.

Ta thấy Vật chất trong định nghĩa của V.I.Lênin phải được hiểu theo nghĩa triết học,
nghĩa là nó mang tính khái quát cao, phản ánh tất cả những dạng tồn tại cụ thể của vật
chất. Vật chất có nhiều thuộc tính nhưng thuộc tính cơ bản nhất là “thực tại khách quan” –
tức là tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người và loài người. Thuộc tính này là
tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt cái gì thuộc vật chất, cái gì không thuộc vật chất. Định
nghĩa về vật chất của V.I.Lênin cũng khẳng định tư duy của con người có thể nhận thức
được vật chất. Rõ ràng, định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin đã khắc phục được hạn chế
của những quan niệm siêu hình, máy móc về vật chất của các nhà duy vật trước đó. Đồng
thời bác bỏ được thuyết không thể biết cũng như mọi biểu hiện của quan niệm duy tâm về
vật chất.
* Ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lênin:
-Định nghĩa vật chất của Lenin đã giải quyết được vấn đề cơ bản của triết học theo quan
điểm duy vật macxit là VC có trước, ý thức có sau, VC quyết định ý thức, và con người có
thể nhận thức thế giới.
-Định nghĩa là cơ sở khoa học để đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm cả duy tâm
chủ quan lẫn duy tâm khách quan, tôn giáo và những quan điểm sai lầm của tôn giáo và
chủ nghĩa duy vật siêu hình về vấn đề cơ bản của triết học.
-Định nghĩa này đã liên kết Chủ nghĩa duy vật biện chứng với Chủ nghĩa duy vật lịch sử
thành một thể thống nhất (vật chất trong tự nhiên, vật chất trong xã hội đều là những dạng
cụ thể của vật chất mà thôi, đều là thực tại khách quan).
-Định nghĩa vật chất của Lênin cũng trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa
học cho các nhà khoa học nghiên cứu thế giới vật chất, động viên cổ vũ họ tin ở khả năng
nhận thức của con người, tiếp tục đi sâu, khám phá những thuộc tính mới của vật chất.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong nhận thức và trong hành động, muốn đạt kết quả tốt phải luôn luôn xuất phát từ
thực tế khách quan, từ điều kiện vật chất, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan
và lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.
Liên hệ bản thân cá nhân :
- Định nghĩa đã giúp cho bản thân nhận thức và xác định nhân tố vật chất ( là phạm trù
triết học ) trong đời sống xã hội một cách đầy đủ và đúng đắn.
- Vì vật chất có trước, quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn “ phải
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”, cụ thể :
-Phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan đã và đang có làm cơ sở cho mọi hành
động của mình, không được lấy ý muốn chủ quan làm điểm xuất phát.
-Khi đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cho địa
phương mình, cho cơ quan, đơn vị của mình phải nắm chắc tình hình thực tế khách quan
thì mới nêu ra mục đích, chủ trương đúng và sẽ đi đến thắng lợi trong hoạt động thực tiễn.
-Chống thái độ chủ quan, duy ý chí, nóng vội, bất chấp qui luật khách quan, không quan
tâm đến điều kiện vật chất khách quan, tùy tiện, phiến diện, lấy ý muốn, nguyện vọng cảm
tính làm xuất phát điểm cho chủ trương chính sách, hậu quả là đường lối không hiện thực,
không tưởng và tất yếu sẽ đi đén thất bại trong hoạt động thực tiễn.
- Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động
của con người, nên cần phải phát huy tính tích cực, tính sáng tạo của ýh tức bằng cách
nâng cao trình độ nhận thức hiện thực khách quan và vận dụng chúng trong hoạt động
thực tiễn.
- Con người có khả năng nhận thức thế giới vật chất, chỉ có những điều chưa biết chứ
không thể có những điều không biết, điều này yêu cầu mỗi chúng ta phải không ngừng học
tập nâng cao trình độ về lý luận, về chuyên môn để khám phá thế giới vật chất.
Ví dụ : Trong hoạt động khám chữa bệnh của người thầy thuốc, khi người thầy thuốc thăm
khám kỹ người bệnh trên lâm sàng, hỏi bệnh kỹ càng, nắm bắt được tâm lý, tâm tư của
người bệnh; đọc kỹ các kết quả cận lâm sàng cùng với sự thường xuyên học tập nâng cao
trình độ chuyên môn ( qua đào tạo, qua học tập kinh nghiệm ở đồng nghiệp . . . ) thì chắc
chắn việc điều trị sẽ chính xác đem lại kết quả tốt cho người bệnh.

Tham khảo:
Trong hành động thực tiễn luôn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật
khách quan và hành động theo quy luật khách quan. Chúng ta không thể lấy mong muốn
chủ quan thay cho thực tế khách quan, không thể hành động trước không đúng quy luật.
Vì như vậy sẽ phải trả giá.
Quan điểm khách quan cũng yêu cầu trong hoạt động thực tiễn phải biết phát huy
tính năng động, sáng tạo của ý thức, tinh thần trong cải tạo thế giới. Nghĩa là phải cố gắng,
tích cực vươn lên, biết phát huy tối đa lực lượng vật chất hiện có. Đồng thời cũng phải
tránh không rơi vào chủ nghĩa khách quan, tức là trông chờ, thụ động, ỷ lại điều kiện
khách quan, không cố gắng, tích cực vượt khó vươn lên.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta cùng với việc coi trọng phát triển kinh
tế, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân đã rất chú trọng phát triển văn hóa với tư cách
nền tảng tinh thần xã hội.
Quan điểm khách quan cũng yêu cầu phải chống bệnh chủ quan, duy ý chí, tuyệt đối
hóa ý thức, tinh thần trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta trước đổi mới (1986) cho thấy, chúng ta đã mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí
trong xây dựng mục tiêu, bước đi xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Khắc phục những sai lầm chủ quan này, trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã
xuất phát từ thực tiễn nước ta vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin , tư tưởng Hồ Chí
Minh, đề ra đường lối phát triển kinh tế - xã hội phù hợp. Do vậy, mọi mặt đời sống của
nhân dân được nâng lên, vị thế của đất nước được nâng cao.
Câu 2: . Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Ý nghĩa phương pháp luận. Vận
dụng phương pháp luận trong công tác.

Khái niệm thực tiễn


Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng thực tiễn là hoạt động nhận thức, hoạt động
tinh thần. Các nhà tôn giáo cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của những lực lượng siêu
nhiên là thực tiễn. Có nhà triết học duy vật trước Mác cho hoạt động thực nghiệm khoa
học là thực tiễn. Đây là quan niệm đúng nhưng chưa đầy đủ.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho thực tiễn là hoạt động vật chất – cảm tính, mang
tính lịch sử, có mục đích của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Từ quan niệm
này của triết học duy vật biện chứng về thực tiễn, chúng ta thấy thực tiễn có ba đặc trưng
sau:
Một là, thực tiễn không phải là tất cả hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt
động vật chất – cảm tính. Đó là những hoạt động mà con người phải sử dụng công cụ vật
chất, lực lượng vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm thay đổi chúng. Ví dụ,
hoạt động sản xuất ra của cải vật chất như xây nhà; làm thủy lợi; đắp đê; cày ruộng, v.v..
Hai là, thực tiễn là những hoạt động có tính lịch sử - xã hội. Nghĩa là hoạt động
thực tiễn là hoạt động của con người, diễn ra trong xã hội với sự tham giam của đông đảo
người, và trải qua những giai đoạn lịch sử phát triển nhất định.
Ba là, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích – nhằm trực tiếp cải tạo tự nhiên và
xã hội phục vụ con người tiến bộ. Đặc trưng này nói lên tính mục đích, tính tự giác của
hoạt động thực tiễn.
Có ba hình thức thực tiễn cơ bản: Một là, sản xuất vật chất. Đó là những hoạt động
sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và trao đổi của con người. Hai là,
những hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động cải tạo các quan hệ chính trị - xã hội. Chẳng
hạn như đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh giai cấp, míttinh, biểu tình, v.v.. Ba là,
hoạt động thực nghiệm khoa học. Đây là hình thức đặc biệt, bởi lẽ, trong thực nghiệm
khoa học, con người chủ động tạo ra những điều kiện nhân tạo để vận dụng thành tựu
khoa học, công nghệ vào nhận thức và cải tạo thế giới. Ba hình thức thực tiễn này liên hệ,
tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định, hai hình
thức kia có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất.
. Khái niệm lý luận
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý luận là hệ thống những tri thức được khái
quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính
quy luật của các sự vật hiện tượng trong thế giới và được biểu đạt bằng hệ thống nguyên
lý, quy luật, phạm trù.
Lý luận có những đặc trung:
Thứ nhất, lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lôgíc chặt chẽ.
Thứ hai, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn. Không có tri
thức kinh nghiệm thực tiễn thì không có cơ sở để khái quát thành lý luận.
Thứ ba, lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất sự vật, hiện tượng.
*. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
-Vai trò của thực tiễn đối với lý luận
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, lý luận. Thông qua và bằng hoạt động
thực tiễn con người tác động vào sự vật làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy
luật. Trên cơ sở đó con người có hiểu biết về chúng. Nghĩa là thực tiễn cung cấp “vật liệu”
cho nhận thức. Không có thực tiễn thì không thể có nhận thức. Ví dụ, chính đo đạc ruộng
đất trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hi Lạp – La Mã cổ đại là cơ sở cho định lý Talét,
Pitago, v.v. ra đời.
Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời. Nói khác đi,
chính thực tiễn là người đặt hàng cho nhận thức phải giải quyết. Trên cơ sở đó thúc đẩy
nhận thức phát triển. Ví dụ, dịch cúm gà H5N1 đặt ra cho nhân loại nhiệm vụ nghiên cứu
chế tạo vắc xin cho loại dịch cúm này.
Thực tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan của con người (ví dụ, thông qua sản xuất,
chiến đấu những cơ quan cảm giác như thính giác, thị giác, v.v. được rèn luyện). Các cơ
quan cảm giác được rèn luyện sẽ tạo ra cơ sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả hơn, đúng
đắn hơn.
Thực tiễn còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc hỗ trợ con người nhận thức hiệu
quả hơn. Ví dụ, kính thiên văn, hàn thử biểu, máy vi tính, v.v. đều sản xuất, chế tạo trong
sản xuất vật chất. Nhờ những công cụ, máy móc này mà con người nhận thức sự vật chính
xác hơn, đúng đắn hơn. Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức phát triển.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức của con người bị chi phối
bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại. Ngay từ thuở mông muội, để sống con người phải tìm
hiểu thế giới xung quanh, tức là để sống, con người phải nhận thức. Nghĩa là ngay từ khi
con người xuất hiện trên trái đất, nhận thức của con người đã bị chi phối bởi nhu cầu thực
tiễn.
Những tri thức, kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng
vào thực tiễn phục vụ con người. Nói khác đi, chính thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá giá trị
của tri thức – kết quả của nhận thức.
Nếu nhận thức không vì thực tiễn mà vì cá nhân, vì chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa
thành tích thì nhận thức sớm muộn sẽ mất phương hướng.
Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, lý luận. Theo triết học
duy vật biện chứng, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thông
qua thực tiễn, con người mới “vật chất hóa” được tri thức, “hiện thực hóa” được tư tưởng.
Thông qua quá trình đó, con người có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Phải hiểu
thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý một cách biện chứng, nghĩa là nó vừa có tính tuyệt đối, vừa
có tính tương đối. Tính tuyệt đội thể hiện ở chỗ, thực tiễn ở những giai đoạn lịch sử cụ thể
là tiêu chuẩn khách quan duy nhất có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương
đối thể hiện ở chỗ, bản thân thực tiễn đổi thay thì nhận thức cũng phải đổi thay cho phù
hợp. Nghĩa là những tri thức đã đạt được trước đây hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm
thông qua thực tiễn.
- Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Nhờ những đặc trưng ưu
trội so với tri thức kinh nghiệm mà lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động thực
tiễn của con người. Lý luận khoa học, thông qua hoạt động thực tiễn của người góp phần
làm biến đổi thế giới khách quan và biến đổi chính thực tiễn.
Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng
để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng.
Lý luận đóng vai trò định hướng, dự báo cho hoạt động thực tiễn, giúp hoạt động
thực tiễn chủ động, tự giác, giúp cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo, chủ động,
tự giác hơn.
*. Ý nghĩa phương pháp luận
Phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm
thực tiễn yêu cầu:
Một là, nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người, xuất phát từ
thực tiễn địa phương, ngành, đất nước.
Hai là, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành.
Ba là, phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện phát triển lý
luận cũng như chủ trương, đường lối chính sách. Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm
tra sự đúng sai của lý luận.
Trong hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm
(khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm thực tiễn, coi thường, hạ
thấp lý luận) và bệnh giáo điều (khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa lý
luận, coi thường hạ thấp kinh nghiệm thực tiễn; hoặc vận dụng kinh nghiệm của người
khác, ngành khác, địa phương khác, nước khác không tính tới điều kiện thực tiễn cụ thể
của mình).
Trong công tác, mỗi cán bộ phải gương mẫu thực hiện phương châm “nói đi đôi với
làm”, tránh nói một đằng, làm một nẻo; nói nhiều làm ít; nói mà không làm. v.v..
Câu 3: Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự phát triển xã hội. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu vấn đề đó.
Trong lịch sử tư tưởng có nhiều cách tiếp cận khác nhau giải thích về sự vận động,
phát triển của lịch sử nhân loại. Nhưng những cách tiếp cận đó về cơ bản chưa giải thích
đúng bản chất của sự vận động, phát triển của lịch sử loài người, chỉ đến khi lý luận hình
thái kinh tế - xã hội ra đời mới cho chúng ta phương pháp hoàn bị, sâu sắc giải thích về sự
vận động, phát triển của lịch sử. Học thuyết đó vạch ra những quy luật chung của sự vận
động lịch sử xã hội. Ngày nay thế giới đang có những biến đổi vô cùng to lớn, sâu sắc,
nhưng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị.
Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và của xã hội loài người. Đó là
quá trình hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con người.
Khẳng định điều đó, Ph.Ăngghen viết: “Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài
người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại
sản xuất”6.
Sự sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất bản
thân con người. Xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được nếu không có quá
trình thường xuyên sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Trong sản xuất xã hội, sản xuất vật chất giữ vai trò nền tảng. Sản xuất vật chất là
quá trình lao động của con người. Trong quá trình đó, con người sử dụng công cụ lao động
tác động (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất để thoả mãn
nhu cầu của mình.
Sản xuất vất chất là một loại hình hoạt động thực tiễn với mục đích cải biến các đối tượng của
giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại, phát triển của con người và xã hội.
- Phương thức sản xuất dùng để chỉ những cách thức mà con người sử dụng để tiến hành
quá trình sản xuất vật chất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
Mỗi xã hội ở một giai đoạn nhất định đều có một PTSX của nó với những đặc điểm riêng.
6
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1998, t.34, tr.241
b. Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại, phát triển của
xã hội
- Vai trò của sản xuất vật chất:
Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và
xã hội; là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người;
nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển xã hội.
+ Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và của lịch sử là: khả năng sống. Muốn
sống, cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo... Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên của
con người là việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, đồng thời sản xuất ra
đời sống vật chất.
Việc "sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất
ra chính đời sống vất chất của mình".
+ Để tiến hành sản xuất vật chất, con người tất yếu phải thiết lập nên những quan hệ nhất
định với nhau, đó là quan hệ sản xuất và trên cơ sở những quan hệ sản xuất này mà làm phát
sinh những mối quan hệ khác: chính trị, đạo đức, pháp luật..
+ Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi
xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình.
+ Sản xuất vật chất không ngừng phát trỉên. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự
biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao.
Như vây, sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội, suy đến cùng có nguyên nhân
từ tình trạng phát triển c?a nền sản xuất của xã hội. Do đó, để giải thích và giải quyết đúng đắn
các vấn đề của đời sống xã hội thì cần phải tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ tình trạng phát
triển của nền sản xuất vật chát của xã hội mà căn bản là từ tình trạng phát triển của phương thức
sản xuất của nó.
- Vai trò của phương thức sản xuất: các thời đại kinh tế khác nhau căn bản không phải ở
chỗ nó sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ nó được tiến hành bằng cách nào với công cụ gì.
Sự phát thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất phản ánh xu hướng tất yếu
khách quan của quá trình phát triển xã hộ loài người từ thấp đến cao.
- Tính thống nhất và tính đa dạng của quá trình biến đổi, phát triển các phương thức sản
xuất trong lịch sử
Tính thống nhất thể hiện: tính tuần tự trong quá trình thay thế và phát triển của các PTSX là
quy luật chung trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại.
Tính đa dạng thể hiện: tuỳ điều kiện khách quan và chủ quan mà có thể có những biểu hiện
đa dạng về con đường phát triển của nó ở mỗi vùng, mỗi quốc gia có thể khác nhau về sự phát
triển tuần tự hoặc bỏ qua một hoặc một số PTSX nào đó tiến thẳng lên PTSX cao hơn.
- ý nghĩa phương pháp luận( tự liên hệ nơi đơn vị công tác)
Lịch sử mỗi cộng đồng người có sự phát triển đa dạng, phong phú khác nhau song lịch sử
vẫn tuân theo xu hướng chung là phát triển theo chiều hướng đi lên từ PTSX ở trình độ thấp lên
trình độ cao hơn.
Để thúc đẩy PTSX phát triển cần tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của LLSX, LLSX phát
triển kéo theo sự phát triển của PTSX từ thấp đến cao.
Câu 4: . Đấu tranh giai cấp, vai trò của đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai
cấp. Quan điểm của Đảng ta về đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay.

ĐẤU TRANH GIAI CẤP


1. Các quan điểm trước Mác
- Các quan niệm thời cổ đại của Trung Quốc;
- Các quan điểm của Tômát More, Rútxô, Xanh Xi-mông – quyền sở hữu là cơ sở
của kiến trúc xã hội,...;
- Nguồn gốc sâu xa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trực
tiếp là sự đối lập nhau về mặt lợi ích không thể điều hòa được.
2. Quan điểm mácxít
2.1. Nguồn gốc
Nguyên nhân kinh tế: Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất (với đại diện là những lực
lượng, giai cấp tiến bộ) với quan hệ sản xuất (với đại diện là các giai cấp thống trị, bảo
thủ) là nguyên nhân sâu xa; nguyên nhân trực tiếp là mâu thuẫn về mặt lợi ích cơ bản của
các giai cấp cơ bản trong xã hội có giai cấp.
2.2. Định nghĩa (Lênin đưa ra trong xã hội có giai cấp đối kháng).
C.Mác đã đưa ra trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”: “Lịch sử tất cả các xã
hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả và
phường hội và thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn luôn
đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc
ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo cách
mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau”7.

7
C.Mác – Ph.Ăngghen (1995): Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG – ST, Hà Nội, trang. 596.
- V.I.Lênin định nghĩa: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân
này chống lại một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết
quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và
bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những
người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”8.
“một bộ phận nhân dân này” = Quần chúng nhân dân = Những người bị áp bức bóc
lột, lao động, làm thuê…
Trong quá trình của cuộc đấu tranh giai cấp, mỗi giai cấp đều tập hợp những lực
lượng, những giai cấp và những tầng lớp khác nhau trong xã hội về phía mình. Sự liên kết
giữa các giai cấp khác nhau để đấu tranh cho mục tiêu chung là liên minh giai cấp. Các
giai cấp có lợi ích cơ bản không đối kháng thường liên minh với nhau. Đó là sự liên minh
căn bản, lâu dài, có ý nghĩa chiến lược. Có những hoàn cảnh buộc các giai cấp có lợi ích
cơ bản đối lập nhau phải liên minh với nhau để đối phó với kẻ thù chung hay vì mục tiêu
chung tạm thời nào đó. Sự liên minh đó có tính chất sách lược, không lâu dài. Các giai cấp
bóc lột khi đã lỗi thời thường liên minh với các lực lượng phản động để chống lại các lực
lượng tiến bộ của xã hội. Giai cấp công nhân, nông dân và trí thức thường liên minh trong
các cuộc cách mạng của giai cấp vô sản và nó trở thành nguyên tắc của cuộc cách mạng
này, bảo đảm cho cuộc cách mạng có thể giành được thắng lợi toàn diện và triệt để. Vì
vậy, liên minh giai cấp là một yếu tố quan trọng mà các giai cấp thường
Như vậy, cuộc đấu tranh giai cấp thực chất là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi
ích cơ bản đối lập nhau. V.I.Lênin có công hệ thống hóa và nhấn mạnh mặt đối lập chủ
yếu trong mâu thuẫn. Chính mặt này là động lực của xã hội.
Từ định nghĩa này cần chú ý:
- Đây là một kiểu định nghĩa bằng hai lực lượng đối lập => Đấu tranh giai cấp là
đấu tranh giữa Ai (một bộ phận nhân dân này ) với ai (bộ phận khác)? Ai với ai là những
giai cấp được xác lập trong những quan hệ kinh tế nhất định không điều hòa được, hay nói
8
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M. 1979, t.7, tr. 237-238.
cách khác là do lợi ích cơ bản đối lập nhau. Lợi ích cơ bản đối lập nhau không thể điều
hòa được là bắt nguồn từ quan hệ kinh tế khách quan, chứ không phải do ý chí chủ quan
của các giai cấp.
Nông dân với công nhân cũng có mâu thuẫn, nhưng mâu thuẫn không cơ bản, chỉ
đối lập nhau về lợi ích không cơ bản, nên không dẫn đến đấu tranh giai cấp.
Khái quát lại, không phải là hai giai cấp khác nhau là đấu tranh với nhau, mà là hai
giai cấp đối lập nhau về lợi ích không thể điều hòa được.
Vậy từ đây suy ra, thực chất đấu tranh giai cấp là đấu tranh của những tập đoàn
người có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không điều hòa được.
- Như vậy có thể định nghĩa đấu tranh giai cấp sau khi giành chính quyền như sau:
Đấu tranh giai cấp đây là đấu tranh của những giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập
nhau, sự phát triển của giai cấp này là sự vi phạm lợi ích của giai cấp khác (theo nghĩa
hẹp).
Theo nghĩa rộng, đấu tranh giai cấp (của giai cấp vô sản) là tất cả những hành
vi nào gắn với cái chung nhằm xây dựng, xác lập, bảo vệ, phát triển một chế độ xã hội
mới chiến thắng chế độ cũ (chế độ tư bản chủ nghĩa) thì đều nằm trong phạm trù đấu
tranh giai cấp.
Ví dụ: chống tệ nạn xã hội có phải đấu tranh giai cấp không? chống tham nhũng có
phải đấu tranh giai cấp không? chống tội phạm, chống ma túy?...
Thời gian qua trong đấu tranh giai cấp có những lệch lạc gì?
- Một thời gian dài hiểu chung chung đấu tranh giai cấp, hiểu chung chung giáo
điều, chỉ nhấn mạnh chống kẻ thù, mà mục tiêu kinh tế không rõ, ta có nhiều sai lầm cơ
bản trong lĩnh vực này. Nói đấu tranh giai cấp nhưng sản xuất không phát triển, số lượng
hàng hóa tăng nhưng chất lượng không tăng, không hiệu quả.
- Một thời gian dài sự hoài nghi mất tin tưởng của người dân một cách nghiêm
trọng.
V.I.Lênin khẳng định, suy cho cùng chiến thắng của đấu tranh giai cấp là chiến
thắng của cách tổ chức lao động đem lại năng suất lao động cao hơn. => Khi năng suất lao
động chưa thắng được năng suất lao động của chủ nghĩa tư bản thì khả năng phục hồi của
chủ nghĩa tư bản vẫn diễn ra.
Kiểm điểm lại trong quá trình đấu tranh giai cấp, ta chỉ chú ý đến kẻ thù của giai
cấp, không chú ý xây dựng bộ máy để bộ máy yếu từ bên trong, điều mà bệnh kêu ngạo
cộng sản V.I.Lênin đã nhắc đến.

*. Chú ý
- Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp. Với nghĩa là, đấu
tranh giai cấp là nhằm thay đổi phương thức sản xuất, và từ thay đổi (đổi mới) phương
thức sản xuất dẫn đến thay đổi (đổi mới) toàn bộ những quan hệ trong đời sống xã hội làm
cho xã hội phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội xã hội này sang hình thái
kinh tế - xã hội cao hơn.
Về động lực:
1) Nói đấu tranh giai cấp mà không dẫn đến kết quả khách quan là đổi mới phương
thức sản xuất, là phát triển sản xuất thì chẳng có nghĩa gì. Động lực ở đây được hiểu là
“một trong những động lực”
2) Nói động lực của xã hội phát triển, thì phát triển trước hết là sản xuất phát triển,
hay nói cách khác sản xuất phát triển đến đâu thì cơ sở cho xã hội phát triển đến đó.
3) Hiểu động lực phải gắn với điều kiện lịch sử cụ thể. Chủ nô dân chủ chống chủ
nô quý tộc bị chi phối bởi cuộc đấu tranh của người nô lệ chống chủ nô, cuộc đấu tranh
này không phải là động lực.
- Đấu tranh giai cấp không phải là trừu tượng, mà là thông qua những hành động cụ
thể của những con người cụ thể. Tuy nhiên, những hành động cụ thể ấy chỉ là đấu tranh
giai cấp khi nó gắn với cái chung nhằm lật đổ giai cấp thống trị thì nó mới nằm trong
phạm trù đấu tranh giai cấp.
- Đấu tranh giai cấp từ thấp đến cao, trong đó đấu tranh chính trị là cao nhất.
+ Đấu tranh kinh tế
+ Đấu tranh tư tưởng – chống tư tưởng tư sản, bảo vệ chủ nghĩa Mác.
+ Đấu tranh chính trị
Sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền thì cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục,
nhưng với điều kiện mới, nội dung mới, hình thức mới.
Đây là nội dung, hình thức đấu tranh phức tạp với nội dung phong phú, đối tượng
phức tạp. Vì vẫn còn đối lập nhau vì lợi ích cơ bản.
Còn về điều kiện mới: kinh tế - năng lực tổ chức quản lý kinh tế, quản lý xã hội yếu
(yếu tố chủ quan), năng lực này yếu chính do cái khách quan chi phối – chưa có giai cấp
nào quản lý kinh tế, quản lý xã hội mà chưa làm chủ sở hữu.
b. quan điểm của Đảng ta về đấu tranh GC
Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là tất yếu.
Thực chất đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là đấu tranh chống khuynh hướng
tự phát tư bản chủ nghĩa và các thế lực thù địch với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình
trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức bất công, đấu
tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân
tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Đồng thời, Đảng ta cũng khẳng định: động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn
kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh
đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng của các
thành phần kinh tế của toàn xã hội.
Nhiệm vụ:
1) Đấu tranh trấn áp giai cấp bóc lột đã bị lật đổ = phương thức bạo lực pháp chế
hành chính.
2) Tạo ra những tác động có hiệu quả của giai cấp vô sản với những giai cấp không
vô sản, những tầng lớp trung gian, tách họ ra khỏi ảnh hưởng tư sản, dẫn dắt họ theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
3) Đấu tranh để phân hóa giai cấp tư sản và sử dụng những chuyên gia, trí thức tư
sản vào xây dựng xã hội mới để chiến thắng xã hội cũ, thì nó đều nằm trong phạm trù đấu
tranh giai cấp.
- Chống lại quan điểm sai cho đấu tranh giai cấp là: kích động, âm mưu, đấu đá, trả
thù. Đặc biệt là các nước đang phát triển, chưa phát triển thường có quan điểm cực đoan.
- Trong tư tưởng của cán bộ nói chung (cả các nước xã hội chủ nghĩa) nhấn mạnh sự
trả thù, lòng căm thù trong đấu tranh giai cấp mà quên, hoặc coi nhẹ mục tiêu đổi mới
phương thức sản xuất.
- Sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền, đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục nhưng
với hình thức và nội dung mới.
Câu 5: Hai thuộc tính và mối quan hệ giữa 2 thuộc tính của hàng hóa. Ý nghĩa của
việc nghiên cứu 2 thuộc tính của hàng hóa đối với sự phát triển kinh tế ở nước ta hiện
nay (chủ yếu là kinh tế thị trường).
Khái niệm : HÀng Hóa.
Hàng hóa là một vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào
quá trình tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán.
Có nhiều cách phân loại hàng hóa như: hàng hóa vật thể, hàng hóa phi vật thể; hàng
hóa tiêu dùng, hàng hóa phục vụ sản xuất, v.v..
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức sản xuất, mà trong đó sản phẩm làm ra không
phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng cho người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Mqh:
Hai thuộc tính của hàng hóa
1.1.2.1. Giá trị sử dụng của hàng hóa
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu
nào đó của con người (như gạo để nấu cơm, vải để mặc, xe đạp để đi, v.v.).
Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công
dụng đó (tính có ích đó) làm cho hàng hóa có giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của
khoa học – công nghệ và của lực lượng sản xuất nói chung. Xã hội càng tiến bộ, lực lượng
sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử
dụng càng phong phú, chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội, vì giá trị sử dụng của hàng
hóa không phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho
xã hội, thông qua trao đổi, mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn
quan tâm đến nhu cầu xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của xã
hội.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá trị.
1.1.2.2. Giá trị của hàng hóa
Muốn hiểu được giá trị của hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi
trước hết là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng khác nhau.
Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc.
Để trao đổi với nhau, trước hết chúng phải có giá trị sử dụng khác nhau (vải để may
quần áo, thóc để làm thức ăn). Đồng thời, giữa chúng lại có thể trao đổi được với nhau vì
giữa chúng tồn tại điểm chung: đều là sản phẩm của lao động, đều được kết tinh bởi lao
động. Nhờ đó, chúng có thể trao đổi cho nhau.
Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa. Chất của giá trị là lao động. Lượng của giá trị là số lượng lao động
của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị
trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị. Vì vậy, một hàng hóa dù giá trị sử dụng cao,
nhưng nếu hao phí lao động tạo ra nó ít thì giá trị trao đổi thấp và ngược lại.
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa
Hai thuộc tính của hàng hóa vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn nhau.
Thống nhất vì chúng tồn tại đồng thời trong một hàng hóa. Tức là một vật phẩm
phải có đầy đủ hai thuộc tính này mới trở thành hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc
tính trên thì vật phẩm không là hàng hóa.
Mâu thuẫn thể hiện ở chỗ, khi là giá trị sử dụng thì các hàng hóa không đồng nhất
về chất; nhưng khi là giá trị thì chúng lại đồng nhất về chất (đều là kết tinh của lao động).
Việc thực hiện hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị thường không đồng thời về không
gian và thời gian. Đứng về phía người sản xuất, cái mà anh ta cần là giá trị, nhưng họ phải
tạo ra giá sử dụng; ngược lại, người tiêu dùng lại cần giá trị sử dụng, nhưng anh ta phải có
giá trị, tức là phải có tiền để thanh toán. Nó được thể hiện thành mâu thuẫn giữa sản xuất
và tiêu dùng, giữa cung và cầu.
 Liên hệ:
- Trước khi đổi mới, chúng ta không thừa nhận kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, kinh tssd thị trường do đó hàng hóa nói chung, hàng hóa SLĐ không được quan tâm
chú ý; nó tự phát, vân hành, có những ảnh tiêu cực và tích cực (không nhiều) như phân
phối theo bình quân, bao cấp ...
Hiện nay chúng ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
hàng hóa sức lao động và thị trường sức lao động bắt đầu sôi động và biểu hiện rõ nét nhất
là công ty xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và tư nhân...
+ Tích cực: đó là sản xuất phát triển, kinh tế xã hội khởi sắc, hàng hóa phong
phú, đa dạng… đời sống nhân dân tăng, cải thiện do thu nhập tăng , phân phối tốt hơn…
+ Tiêu cực: > phân hóa giàu nghèo rõ nét
>đình công, bãi công diễn ra liên tục
+ Nguyên nhân: có nhiều nhưng trong đó có vấn đề giá cả sức lao động (Tiền
lương – tiền thưởng) không phản ảnh đúng quy luật giá trị
+ Phương hướng tới: xây dựng, hình thành rõ nét đầu đủ KTTT, trong đó thị
trường SLĐ phải quan tâm điều tiết… định hướng XHCN.
(Tham khảo)
KT thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế phát triển cao của kinh tế hàng hoá
mà mọi yếu tố đầu vào và đầu ra đều được thực hiện qua thị trường.
KT thị trường định hướng XHCN là một hình thức tổ chức kinh tế vừa dựa trên các
quy luật của thị trường vừa dựa trên các nguyên tắc và bản chất của CNXH, hai nhân tố
đan xen tác động lẫn nhau, tồn tại trong nhau.
Sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta được xác định trên cơ sở khái quát lại quá trình đổi mới qua ba nấc thang
sau : Trước Đại hội Đảng VI (năm 1986); Từ Đại hội Đảng VI đến Đại hội Đảng VIII
(1986-2000) và Từ Đại hội Đảng IX đến nay.
2.1. Giai đoạn trước Đại hội VI (1986)
Nền kinh tế vận hành trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp.Hệ
quả :
+ Nền kinh tế bị rối loạn, lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.
+ Lực lượng SX bị trói buộc; quan hệ sản xuất trở thành lực cản phát triển.
+ Đời sống nhân dân khó khăn, hàng hóa thiếu thốn, nghèo nàn, chất lượng, mẫu
mã hàng hóa kém...đất nước rơi vào khủng hoảng làm gia tăng áp lực đổi mới toàn diện cơ
chế kinh tế.
2.2. Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến hết Đại hội VIII (2001)
Đổi mới toàn diện cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội dung chính là
từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, tức là có sự quản lý nhà nước XHCN có
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Khẳng định các yếu tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế hàng hoá như :
+ Các thành phần kinh tế với các loại hình sở hữu khác nhau, cùng tồn tại lâu dài,
trong đó, sở hữu toàn dân và tập thể là nền tảng, kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo.
+ Tạo điều kiện và khuyến khích sự phát triển của các DN thuộc mọi thành phần
kinh tế phi nhà nước; đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài.
+ Thừa nhận cạnh tranh bình đẳng, giảm độc quyền và đặc quyền trong kinh doanh.
Xoá bỏ ngăn sông cấm chợ, cho phép tự do giao lưu hàng hoá, thống nhất thị trường cả
nước.
- Mở cửa kinh tế và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hoá, đa
dạng hoá quan hệ với thế giới, chủ trương làm bạn với tất cả các nước, biến nền kinh tế
nước ta thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới và khu vực.
Nhờ đổi mới, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; nền kinh tế
tăng trưởng khá nhanh và vững chắc, tạo nên những chuyển biến cơ bản trong phát
triển kinh tế - xã hội; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng; giữ vững độc lập chủ
quyền và an ninh quốc gia, tạo chuyển biến mạnh trong quá trình CNH, HĐH đất
nước, cải thiện đáng kể đời sống các tầng lớp nhân dân, đạt thành tích có ấn tượng
về xoá đói giảm nghèo và phát triển con người.
3-Từ Đại hội Đảng IX(2001) đến nay.
Chuyển từ nhận thức thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý kinh tế sang
nhận thức thị trường là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội. Đại hội IX khái quát mô
hình nền kinh tế thị trường của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH: “Đảng và Nhà
nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”
Theo đánh giá và khẳng định trong các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và XI.
Khái quát các thành tựu mà nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN đạt được :
Một là: Đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tăng trưởng kinh tế nhanh
và ổn định.
Hai là: Tạo dựng được những tiền đề cần thiết cho sự phát triển sự nghiệp CN hoá,
HĐ hoá đất nước; cải thiện một bước kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy
phát triển kinh tế và đời sống nhân dân; hệ thống giáo dục, khoa học công nghệ phát triển
khá.
Ba là: Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực để phát huy tiềm năng của từng
ngành, từng vùng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bốn là: Kinh tế đối ngoại được mở rộng và phát triển, khả năng hội nhập khu vực
và thế giới được tăng cường. An ninh quốc phòng được giữ vững.
Năm là: Thành quả của xã hội về xoá đói giảm nghèo.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, đi đúng
hướng và tôn trọng đúng quy luật khách quan, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Câu 6: Tính tất yếu khách quan của tích lũy tư bản và những nhân tố ảnh
hưởng đến quy mô tích lũy tư bản. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với sự
phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay.

Bản chất của tích lũy tư bản


Tư bản là quan hệ sản xuất xã hội được tái sản xuất không ngừng trong chủ nghĩa tư
bản. Việc duy trì tư bản được thể hiện thông qua tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghĩa.
Tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô
như cũ, tức là toàn bộ giá trị thặng dư đã được nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân. Kết quả
nghiên cứu tái sản xuất giản đơn cho thấy, nguồn gốc của tư bản khả biến là do công nhân
làm thuê ứng trước cho nhà tư bản, công nhân làm thuê phụ thuộc vào nhà tư bản không
những trong mà cả ngoài quá trình sản xuất, giá trị thặng dư là yếu tố quyết định đối với
sự duy trì, bảo tồn tư bản.
Tuy nhiên, tư bản không những được bảo tồn mà còn không ngừng lớn lên, thể hiện
thông qua tích lũy tư bản trong quá trình tái sản xuất mở rộng. Để thực hiện tái sản xuất
mở rộng phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản bất biến phụ thêm và tư bản
khả biến phụ thêm, do đó tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư. Nghiên cứu tái sản
xuất mở rộng cho thấy, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư, đồng
thời diễn ra sự chuyển hóa các quy luật sở hữu của nền sản xuất hàng hóa thành các quy
luật chiếm hữu tư bản chủ nghĩa.
Nhờ có tích lũy tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không những trở thành
thống trị, mà còn không ngừng mở rộng sự thống trị đó.
- Những nhân tố quyết định quy mô tích lũy
Quy mô tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư thu được và tỷ lệ phân
chia giá trị thặng dư thành tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Từ đó, các nhân tố
quyết định quy mô tích lũy bao gồm:
Thứ nhất, nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư bằng cách cắt xén tiền công, tăng thời
gian sử dụng tư liệu lao động trong ngày thông qua các biện pháp như kéo dài ngày lao
động, tăng ca, tăng kíp. Việc nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư sẽ làm tăng khối lượng giá
trị thặng dư nói chung, từ đó làm tăng phần giá trị thặng dư dành cho tích lũy.
Thứ hai, nâng cao sức sản xuất của lao động. Việc nâng cao sức sản xuất của lao
động dẫn tới làm giảm giá trị hàng hóa, một mặt giúp cho nhà tư bản có thể dành thêm giá
trị thặng dư cho tích lũy, mặt khác giúp cho nhà tư bản có thể mở rộng quy mô sản xuất
với lượng tư bản đầu tư như trước.
Thứ ba, chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Tư bản
sử dụng là khối lượng giá trị những tư liệu lao động mà toàn bộ quy mô hiện vật của
chúng đều hoạt động trong quá trình sản xuất sản phẩm; còn tư bản tiêu dùng là phần giá
trị những tư liệu lao động ấy được chuyển vào sản phẩm dưới dạng khấu hao. Trong quá
trình hoạt động của tư bản sử dụng, lượng giá trị khấu hao ngày càng tăng và có thể sử
dụng để tái đầu tư mở rộng sản xuất khi chưa cần phải tái tạo lại toàn bộ tư bản sử dụng.
Thứ tư, đại lượng tư bản ứng trước. Đại lượng tư bản ứng trước càng lớn thì giá trị
thặng dư càng nhiều, khả năng tích lũy để tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và theo
chiều sâu càng lớn.
-. Quy luật phổ biến của tích lũy tư bản
Quá trình tích lũy tư bản dẫn đến một loạt các hậu quả, thể hiện các quy luật phổ
biến của tích lũy tư bản, bao gồm:
Thứ nhất, cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng. Trình độ kỹ thuật của sản xuất
tư bản chủ nghĩa thể hiện thông qua cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Cấu tạo kỹ thuật biểu
hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng những
tư liệu sản xuất đó. Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng ra những lượng tư bản bất
biến và khả biến theo những tỷ lệ nhất định, thể hiện cấu tạo giá trị của tư bản. Trong quá
trình vận động của tư bản, cấu tạo giá trị của tư bản có thể thay đổi dưới tác động của sự
thay đổi giá cả các yếu tố sản xuất, hoặc do sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản được quyết định bởi cấu tạo kỹ
thuật của tư bản và phản ánh những sự thay đổi cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Cùng với sự
phát triển của đại công nghiệp, cấu tạo hữu cơ của tư bản có xu hướng không ngừng tăng
lên.
Thứ hai, tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng. Tích tụ tư bản là việc tăng quy
mô tư bản cá biệt bằng tích lũy của từng nhà tư bản riêng rẽ, nó là kết quả tất yếu của tích
lũy. Tích tụ tư bản, một mặt, là yêu cầu của việc mở rộng sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật; mặt khác, sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng dư trong quá trình phát triển của
sản xuất tư bản chủ nghĩa lại tạo khả năng thực tế cho tích lũy tư bản.
Sự phát triển của tích tụ tư bản thúc đẩy cạnh tranh, dẫn tới xuất hiện sự hợp nhất
một số nhà tư bản nhỏ thành tư bản cá biệt lớn. Đó là tập trung tư bản. Tập trung tư bản có
thể diễn ra bằng con đường tự nguyện hay cưỡng bức. Trong quá trình tích lũy tư bản, tích
tụ và tập trung tư bản luôn thúc đẩy lẫn nhau, có vai trò to lớn trong việc chuyển sản xuất
nhỏ thành sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba, tích lũy tư bản dẫn tới quá trình bần cùng hóa giai cấp công nhân làm thuê.
Cùng với sự gia tăng quy mô sản xuất và cấu tạo hữu cơ của tư bản, tư bản khả biến có xu
hướng giảm tương đối so với tư bản bất biến, dẫn tới nguy cơ thừa nhân khẩu dưới các
hình thức nhân khẩu thừa lưu động, nhân khẩu thừa tiềm tàng và nhân khẩu thừa ngưng
trệ. Do đó, quá trình tích lũy tư bản có tính hai mặt, một mặt thể hiện tích lũy về sự giàu
sang về phía giai cấp tư sản, và mặt khác tích lũy sự bần cùng về phía giai cấp công nhân
làm thuê.
Bần cùng hóa giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới hai hình thái là bần cùng
hóa tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối. Bần cùng hóa tương đối là cùng với đà tăng
trưởng lực lượng sản xuất, phần sản phẩm phân phối cho giai cấp công nhân làm thuê tuy
có tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm tương đối so với phần dành cho giai cấp tư sản. Bần
cùng hóa tuyệt đối thể hiện sự tụt giảm tuyệt đối về mức sống của giai cấp công nhân làm
thuê. Bần cùng hóa tuyệt đối thường xuất hiện đối với bộ phận giai cấp công nhân làm
thuê đang thất nghiệp và đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê trong các điều kiện
kinh tế khó khăn, đặc biệt trong khủng hoảng kinh tế.
Ý nghĩa. Liện hệ đại hội 9, 10, 11.
Câu 8: . Lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, những nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất
lợi nhuận. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với sự phát triển nền kinh tế
nước ta hiện nay.

Lợi nhuận
- Khái niệm lợi nhuận.
Khi giá trị hàng hóa biểu hiện thành: W = k + m thì giá trị thặng dư không còn biểu
hiện rõ nguồn gốc thực sự của nó. Với hình thái mới giá trị thặng dư biểu hiện ra như hoặc
là phần dôi ra của giá trị - hàng hóa ngoài chi phí sản xuất; hoặc là phần lớn thêm của số
tư bản đã được chi phí, từ lưu thông; hoặc là phần giá trị tăng thêm của toàn bộ tư bản, do
bản thân tư bản sinh ra.
Giá trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, mang hình
thái chuyển hóa là lợi nhuận, do đó là hình thái biểu hiện, hình thái chuyển hóa của giá trị
thặng dư trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Khác với giá trị thặng dư, lợi nhuận không
phản ánh mối quan hệ bóc lột mà chỉ thể hiện sự lời lãi của đầu tư tư bản. Lợi nhuận được
ký hiệu là p.
- Vai trò của lợi nhuận.
Giá trị thặng dư là cơ sở tồn tại và làm giàu của các nhà tư bản. Các hoạt động sản
xuất kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa đều hướng tới chiếm đoạt giá trị thặng dư. Tuy
nhiên, giá trị thặng dư lại biểu hiện ra thông qua hình thái chuyển hóa là lợi nhuận. Kết
quả cuối cùng thể hiện kinh doanh có hiệu quả là phải thu được lợi nhuận, cho nên lợi
nhuận chính là mục tiêu, động cơ, động lực của hoạt động sản xuất, kinh doanh tư bản chủ
nghĩa.
-. Tỷ suất lợi nhuận
Khái niệm tỷ suất lợi nhuận: là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và toàn bộ giá trị tư
bản ứng trước.
Tỷ suất lợi nhuận được ký hiệu là p’ và được tính theo công thức:
Tỷ suất lợi nhuận thường được tính hàng năm, từ đó hình thành khái niệm tỷ suất
lợi nhuận hàng năm.
Mặc dù lợi nhuận có vai trò quan trọng đối với kinh doanh tư bản chủ nghĩa, vì sự
hiện diện của nó thể hiện hiệu quả kinh tế, tuy nhiên so với lợi nhuận thì tỷ suất lợi nhuận
phản ánh đầy đủ mức độ hiệu quả kinh doanh. Chính vì vậy, không phải lợi nhuận số đo
tuyệt đối, mà là tỷ suất lợi nhuận với tư cách là số đo tương đối của lợi nhuận, đã trở thành
động cơ quan trọng nhất của hoạt động cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. C.Mác viết: “Quy luật
cơ bản của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, mà cho mãi đến ngày nay khoa kinh tế chính trị
học vẫn không hiểu được, và là quy luật điều tiết tỷ suất lợi nhuận chung và cái gọi là
những giá cả sản xuất do tỷ suất lợi nhuận chung quy định, như sau này chúng ta sẽ thấy,
là dựa trên sự chênh lệch giữa giá trị của hàng hóa và chi phí sản xuất của nó, và dựa trên
khả năng bán hàng hóa dưới giá trị của nó mà vẫn lợi nhuận, khả năng này là do sự chênh
lệch nói trên sinh ra”9.
Như vậy, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận là những phạm trù thể hiện lợi ích kinh tế của
nhà tư bản trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, từ đó các nhà tư bản muốn làm giàu và làm
giàu nhanh cần phải tìm ra cách thức để có được tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Vai trò của lợi
nhuận được chính các học giả tư sản đánh giá như sau: “Tư bản tránh sự ồn ào và cãi cọ,
và có bản tính rụt rè. Đó là sự thật, nhưng chưa phải là tất cả sự thật. Tư bản sợ tình trạng
không có lợi nhuận hoặc sợ lợi nhuận quá ít, cũng như giới tự nhiên sợ chân không. Với
một lợi nhuận thích đáng thì nhà tư bản trở nên can đảm. Được đảm bảo 10 phần trăm lợi
nhuận thì người ta có thể dùng vào đâu cũng được; được 20 phần trăm thì nó hoạt bát hẳn
lên; được 50 phần trăm thì nó trở nên thật sự táo bạo; được 100 phần trăm thì nó chà đạp
lên mọi luật lệ của loài người; được 300 phần trăm thì không còn tội ác nào là nó không

9
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.67.
dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ. Nếu sự ồn ào và cãi cọ đem lại lợi nhuận thì tư bản
khuyến khích cả hai. Chứng cớ là: buôn lậu và buôn nô lệ”10.
-Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận
Qua phân tích về lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận, C.Mác đã chỉ ra các nhân tố ảnh
hưởng đến tỷ suất lợi nhuận mà các nhà tư bản đã tìm mọi cách để tận dụng những hoạt
động tích cực của chúng nhằm làm tăng tỷ suất lợi nhuận:
Thứ nhất, tỷ suất giá trị thặng dư.
Sự gia tăng của tỷ suất giá trị thặng dư sẽ có tác động trực tiếp làm tăng tỷ suất lợi
nhuận. Do đó để tăng tỷ suất lợi nhuận trước hết cần áp dụng tất cả các biện pháp làm tăng
tỷ suất giá trị thặng dư, đặc biệt kết hợp áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối thông qua kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động với phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư tương đối thông qua tăng năng suất lao động, kết hợp giữa tái sản
xuất mở rộng theo chiều rộng và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu, trong đó trong dài
hạn cần tăng cường nâng cao năng suất lao động trên cơ sở tái sản xuất mở rộng theo
chiều sâu.
Trước đây, do nhận thức không đầy đủ về các phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư, đã hình thành quan niệm phổ biến rằng, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
trong chủ nghĩa xã hội không còn sản xuất giá trị thặng dư, không nên áp dụng phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối vì nó bất công, trái với bản chất của xã hội mới.
Nếu áp dụng thì chỉ nên chú trọng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Quan
niệm không đầy đủ này xuất phát từ nhận thức sản xuất giá trị thặng dư với tư cách là tính
đặc thù riêng có của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nên đã không thấy được rằng,
sự hình thành và phát triển của các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cũng chính là sự
phát triển của sản xuất xã hội nói chung, trong các phương pháp này cũng có những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản, mà trong xây dựng xã hội mới cũng
cần phải kế thừa, vận dụng.
10
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.23, tr.1056.
Thực tiễn phát triển kinh tế ngày nay ở nước ta cho thấy, cả ba yếu tố là thời gian
lao động, cường độ lao động và năng suất lao động đều là quan trọng, cần được sử dụng
phù hợp để nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, đặc
biệt là doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, các yếu tố thời gian lao động và cường độ lao động có
thể áp dụng ngay lập tức với những điều kiện hiện có và sẽ cho kết quả tích cực trong thời
gian tương đối ngắn thông qua các biện pháp về tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh một
cách khoa học. Còn yếu tố năng suất lao động thì phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác như
trình độ của người lao động, kỹ thuật, công nghệ của sản xuất, v.v. mà những yếu tố này
nhìn chung khó có thể thay đổi nhanh, do đó, tăng năng suất lao động là hướng cần chú
trọng, đặc biệt trong dài hạn.
Thứ hai, thời gian chu chuyển tư bản.
Lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận với tư cách là kết quả phản ánh hiệu quả kinh doanh
được tính toán cho từng đơn vị thời gian nhất định. Thông thường các chỉ tiêu này được
tính cho thời gian của một năm hoạt động kinh doanh. Từ đây, theo lý luận tuần hoàn và
chu chuyển của tư bản, cơ sở của hiệu quả kinh doanh là sự vận động liên tục, không gián
đoạn của hoạt động sản xuất kinh doanh, thể hiện yêu cầu phải phối kết hợp ăn khớp nhịp
nhàng tất cả các khâu, các giai đoạn của toàn bộ quá trình tái sản xuất với tư cách là quá
trình chuyển hóa liên tục của tư bản từ hình thái chức năng này sang hình thái chức năng
khác.
Còn mức độ hiệu quả kinh doanh cụ thể lại được quyết định bởi tốc độ chu chuyển
của tư bản. C.Mác chỉ rõ: “Sự rút ngắn thời gian chu chuyển hay rút ngắn một trong hai bộ
phận của thời gian chu chuyển – thời gian sản xuất và lưu thông – làm tăng thêm khối
lượng giá trị thặng dư sản xuất ra như thế nào. Nhưng vì tỷ suất lợi nhuận chỉ biểu hiện cái
tỷ lệ giữa khối lượng giá trị thặng dư được sản xuất ra và tổng tư bản ứng trước đã dùng
để sản xuất ra khối lượng giá trị thặng dư đó, nên rõ ràng là mọi sự rút ngắn như thế sẽ
nâng cao tỷ suất lợi nhuận lên”11.
Từ đây, có thể thấy các biện pháp rút ngắn thời gian chu chuyển của tư bản đều là
các biện pháp nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Thời gian chu chuyển của tư bản có kết cấu gồm
thời gian sản xuất và thời gian lưu thông, do đó các biện pháp rút ngắn từng khoảng thời
gian này đều có tác động tích cực tới nâng cao tỷ suất lợi nhuận
Để rút ngắn thời gian sản xuất, cần nghiên cứu kỹ kết cấu của khoảng thời gian này
đối với từng loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, nhìn chung thời gian sản
xuất trong nền kinh tế thị trường có thể phân chia thành ba khoảng thời gian chủ yếu là
thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất.
Thời gian lao động là khoảng thời gian có sự tác động trực tiếp của sức lao động tới
tư liệu sản xuất. Độ dài của khoảng thời gian này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tính chất
của ngành sản xuất, tác động của các quá trình tự nhiên tới quá trình chuyển hóa của đối
tượng lao động thành sản phẩm, công nghệ sử dụng để sản xuất, trình độ nguồn nhân lực,
trình độ tổ chức sản xuất, kinh doanh, v.v. Vì vậy, để rút ngắn khoảng thời gian này cần sử
dụng các biện pháp như lựa chọn ngành, nghề kinh doanh phù hợp, ứng dụng tiến bộ công
nghệ hiện đại, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh trong điều
kiện cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, áp dụng các phương pháp quản lý tiên
tiến, v.v..
Thời gian gián đoạn lao động là khoảng thời gian vẫn diễn ra quá trình sản xuất
song không có sự tham gia trực tiếp của con người. Độ dài của khoảng thời gian này cũng
khác nhau tùy thuộc vào tính chất của ngành sản xuất, tác động của tự nhiên tới đối tượng
lao động, trình độ ứng dụng tiến bộ công nghệ, v.v.. Biện pháp chủ yếu để giảm khoảng
thời gian này là ứng dụng tiến bộ công nghệ để đẩy nhanh quá trình chuyển hóa đối tượng
lao động thành sản phẩm.

11
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.115.
Thời gian dự trữ sản xuất là khoảng thời gian các yếu tố sản xuất, đặc biệt là đối
tượng lao động đã được mua về, sẵn sàng tham gia vào sản xuất, song chưa đi vào sản
xuất mà tồn tại dưới dạng dự trữ. Trong nền kinh tế thị trường, dự trữ sản xuất đầy đủ luôn
là điều kiện quan trọng để đảm bảo cho hoạt động sản xuất có thể thực hiện liên tục không
ngừng, không bị rối loạn. Dự trữ sản xuất thừa sẽ gây lãng phí, giảm hiệu quả kinh doanh.
Khoảng thời gian mà các yếu tố sản xuất nằm dưới dạng dự trữ sản xuất dài hay ngắn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như tình hình thị trường, trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh, v.v.
trong đó năng lực và trình độ quản lý sản xuất là rất quan trọng.
Như vậy, căn cứ vào các nhân tố ảnh hưởng tới từng khoảng thời gian sản xuất như
đã nêu trên, để rút ngắn thời gian sản xuất cần phải thực hiện đồng bộ các nhiều pháp.
Tổng hợp lại, C.Mác cho rằng: “Biện pháp chính để rút ngắn thời gian sản xuất là tăng
năng suất lao động”12.
Thời gian lưu thông cũng gồm nhiều khoảng như thời gian mua, thời gian bán, thời
gian vận chuyển, bảo quản, nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại. Do vậy, độ dài
của thời gian lưu thông cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tình hình thị trường, khoảng
cách từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ, trình độ phát triển của các ngành kết cấu hạ tầng kinh
tế như giao thông, thông tin liên lạc, tính chất và chất lượng sản phẩm, v.v.. Từ đó, để rút
ngắn thời gian lưu thông cũng cần phải thực hiện nhiều biện pháp từ nghiên cứu thị
trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức hệ thống kinh doanh, phân phối, xúc tiến
thương mại, cải thiện các điều kiện về kết cấu hạ tầng, v.v.. Trong điều kiện giao thông
còn nhiều khó khăn, trình độ phát triển của các ngành giao thông vận tải chưa cao, C.Mác
cho rằng: “Biện pháp chính để rút ngắn thời gian lưu thông là cải tiến các phương tiện
giao thông”13.
Từ sự phân tích tác động của chu chuyển tư bản tới tỷ suất lợi nhuận, C.Mác khẳng
định: “Với những tư bản có cùng một cấu tạo tính theo phần trăm như nhau, có một tỷ suất

12
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.116.
13
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.116.
giá trị thặng dư và ngày lao động giống nhau, thì các tỷ suất lợi nhuận của hai tư bản đều
tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của chúng”14.
Thứ ba, tiết kiệm tư bản bất biến.
Vì tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ giữa lợi nhuận và tư bản ứng ra, cho nên tiết kiệm tư
bản rõ ràng có tác động tới tăng tỷ suất lợi nhuận. Tư bản ứng ra gồm tư bản bất biến và tư
bản khả biến. Tư bản khả biến là nhân tố quyết định giá trị thặng dư, nhưng bản thân nó
lại được quyết định bởi giá trị sức lao động, do đó việc giảm tư bản khả biến luôn là điều
khó khăn, đặc biệt luôn phải đối mặt với phong trào công nhân. Còn tư bản bất biến luôn
đóng vai trò là điều kiện cần thiết cho sản xuất giá trị thặng dư, song không trực tiếp tạo ra
giá trị thặng dư. Theo sự phát triển của sản xuất, tư bản bất biến có xu hướng tăng lên cả
tuyệt đối và tương đối, nhưng đồng thời cũng hình thành các điều kiện để tiết kiệm bộ
phận tư bản này, nhờ đó sẽ làm tăng tỷ suất lợi nhuận. C.Mác đã chỉ ra những biện pháp
tiết kiệm tư bản bất biến mà các nhà tư bản trong thế kỷ XIX đã sử dụng để nâng cao tỷ
suất lợi nhuận, bao gồm:
Một là, kéo dài lao động thặng dư, và do đó kéo dài ngày lao động, trong khi tư bản
khả biến vẫn y nguyên làm cho tỷ suất lợi nhuận tăng lên, bởi lẽ các khoản chi phí như
thuế, tiền bảo hiểm, tiền lương của các loại nhân viên thường trực, sự mất giá của máy
móc, và nhiều khoản chi phí khác của một công xưởng, vẫn không thay đổi dù ngày lao
động dài hơn hay ngắn đi. Còn khi sản xuất thu hẹp lại thì những chi phí đó tăng lên, làm
cho tỷ suất lợi nhuận giảm đi15.
Hai là, “Tiết kiệm về những điều kiện sản xuất đặc trưng cho nền sản xuất quy mô
lớn với tư cách là những điều kiện của lao động xã hội – thực hiện được do tập trung tư
liệu sản xuất và sử dụng tư liệu sản xuất trên quy mô lớn, - đòi hỏi phải có một điều kiện
căn bản là sự tập trung và sự hoạt động chung của một số công nhân, tức là đòi hỏi phải có
sự kết hợp xã hội của lao động”16.
14
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.118.
15
Xem C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr. 125 – 127.
16
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.128.
Ba là, “biến những chất thải của sản xuất, những cái gọi là phế liệu, trở lại thành
những yếu tố sản xuất mới”.17
Bốn là, sự nâng cao năng suất lao động trong ngành chế tạo tư liệu lao động và đối
tượng lao động làm cho các yếu tố này rẻ đi18.
Năm là, “tiết kiệm nhờ thường xuyên cải tiến thiết bị máy móc mà có, cụ thể là do:
1) sự cải tiến những chất liệu làm máy móc, chẳng hạn như dùng sắt thay gỗ; 2) sự hạ giá
của máy móc nhờ cải tiến việc chế tạo máy móc nói chung; thành thử mặc dù giá trị của
bộ phận cố định của tư bản bất biến không ngừng tăng lên với sự phát triển của lao động
trên quy mô lớn, nhưng giá trị ấy tăng lên hoàn toàn không theo cùng một mức độ đó; 3)
những sự cải tiến đặc biệt khiến cho người ta có thể sử dụng những máy móc sẵn có một
cách hiệu quả hơn và ít tốn hơn, chẳng hạn như việc cải tiến những nồi súp-de, v.v., mà
dưới đây chúng ta sẽ bàn lại tỉ mỉ hơn; 4) việc giảm bớt phế liệu bằng cách sử dụng những
máy móc tốt hơn”19.
Sáu là, tiết kiệm trong sử dụng bản thân tư bản bất biến nhờ mua được nguyên vật
liệu có chất lượng tốt, nhờ sự rèn luyện và đào tạo của công nhân, nhờ vào kỷ luật mà nhà
tư bản bắt người công nhân lao động kết hợp phải tuân theo và hơn thế nữa còn nhờ vào
việc làm giả mạo các yếu tố sản xuất20.
Bảy là, sử dụng những điều kiện lao động của công nhân một cách tiết kiệm21.
Tám là, tiết kiệm nhờ những phát minh.
Khi phân tích về các biện pháp tiết kiệm tư bản bất biến để làm tăng tỷ suất lợi
nhuận, C.Mác nhắc nhở rằng những biện pháp này nhìn chung chỉ thể hiện tác dụng tích
cực rõ rệt trong điều kiện lao động tập thể với quy mô lớn 22. Đồng thời, tiết kiệm nhờ phát
minh cũng chứa đựng rủi ro lớn đối với những chủ thể ứng dụng lần đầu tiên, bởi lẽ:
“Trong việc sản xuất một thứ máy mới, thì chi phí để sản xuất ra chiếc máy mới đầu tiên
17
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.128.
18
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.129.
19
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.131.
20
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.133 – 135.
21
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.135 – 141.
22
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.159.
chênh lệch rất nhiều so với chi phí để sản xuất ra những chiếc máy sau (…) Những chi phí
để quản lý một xưởng áp dụng đầu tiên những phát minh mới, bao giờ cũng cao hơn rất
nhiều so với những chi phí của những xưởng sau này mọc lên trên những đống gạch vụn
của nó”23. Theo ông: “Điều đó đúng đến nỗi, thường thường những nhà kinh doanh đầu
tiên áp dụng những phát minh mới hay thất bại, và chỉ những người kế tục họ mới phát tài,
vì những người này hưởng được với giá rẻ cả nhà xưởng lẫn máy móc, v.v.. Chính vì vậy,
trong phần lớn các trường hợp, những nhà tư bản – tiền tệ kém cỏi nhất và tồi tệ nhất lại là
những kẻ được hưởng lợi nhiều nhất về tất cả những tiến bộ mới của lao động chung và
của trí tuệ loài người, về sự áp dụng có tính chất xã hội những sự tiến bộ đó bằng lao động
kết hợp”24.
Thứ tư, sự vận động của giá cả nguyên liệu.
Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là nền kinh tế mở, do đó ngoại thương có
vai trò quan trọng đối với quá trình tái sản xuất và tỷ suất lợi nhuận của từng quốc gia.
“Ngoại thương ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận, ngay cả trong trường hợp ta gác lại
không kể đến mọi ảnh hưởng của ngoại thương đối với tiền công bằng cách làm cho giá cả
những tư liệu sinh hoạt cần thiết giảm xuống. Cụ thể là ngoại thương ảnh hưởng đến giá
cả nguyên liệu và vật liệu phụ dùng trong công nghiệp hay nông nghiệp (…) Do đó, chúng
ta thấy rằng việc bãi bỏ thuế quan đánh vào nguyên liệu có một tầm quan trọng to lớn như
thế nào đối với công nghiệp”25.
Phân tích chu chuyển tư bản lưu động cho thấy, “giá trị của nguyên liệu và vật liệu
phụ mà người ta tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm, chuyển toàn bộ và ngay một lần vào
giá trị của sản phẩm đó, còn giá trị của những yếu tố tư bản cố định thì chỉ chuyển dần dần
mỗi lần một ít vào sản phẩm theo với sự hao mòn của những yếu tố ấy. Do đó, so với giá
cả tư bản cố định thì giá cả của nguyên liệu ảnh hưởng đến giá cả của sản phẩm trên một

23
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.164.
24
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.164 – 165.
25
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.169.
mức độ lớn hơn nhiều, tuy rằng tỷ suất lợi nhuận là do tổng số giá trị của tư bản đã bỏ ra
quyết định”26.
Thứ năm, sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Dưới tác động của tích lũy tư bản trong điều kiện cạnh tranh nhằm thu lợi nhuận
cao, sức sản xuất của lao động ngày càng được nâng cao thể hiện sự gia tăng không ngừng
của cấu tạo hữu cơ tư bản. Tuy nhiên, sự gia tăng không ngừng của cấu tạo hữu cơ tư bản
lại có sự tác động trái ngược với mục tiêu của kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Theo C.Mác,
giới hạn đó “bộc lộ ra như sau: 1) Tỷ suất lợi nhuận giảm xuống do sức sản xuất của lao
động phát triển, là một quy luật, quy luật này đến một lúc nào đó thì xung đột gay gắt với
bản thân sự phát triển của sức sản xuất của lao động, cho nên luôn luôn phải có những
cuộc khủng hoảng để khắc phục sự xung đột đó”27.
“Quyết định sự mở rộng hay thu hẹp sản xuất không phải là cái tỷ lệ giữa sản xuất
và những nhu cầu của xã hội, những nhu cầu của những con người đã phát triển về mặt xã
hội, mà là sự chiếm đoạt lao động không được trả công ấy với lao động đã vật hóa nói
chung”28.
Từ đó, “mâu thuẫn giữa quyền lực xã hội chung, mà tư bản chuyển biến thành, với
quyền lực tư nhân của những nhà tư bản cá biệt đối với những điều kiện sản xuất xã hội
ấy, ngày càng trở nên gay gắt và đòi hỏi phải thủ tiêu quan hệ ấy, vì nó đồng thời đòi hỏi
rằng những điều kiện sản xuất ấy cũng phải chuyển thành những điều kiện sản xuất chung,
tập thể, xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và
phương thức thực hiện sự phát triển ấy quyết định sự cải biến đó”29.
Như vậy, có nhiều nhân tố làm tăng tỷ suất lợi nhuận mà các nhà tư bản trước đây
và cả ngày nay đã sử dụng để làm giàu. Những nhân tố đó cũng cần được nhận thức và
vận dụng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, đặc

26
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.170.
27
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.392.
28
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.393.
29
C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, t.25, phần I, tr.401.
biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng rộng và sâu. Tuy nhiên từ phân tích
tác động của nhân tố cấu tạo hữu cơ tư bản, có thể hình thành nhận thức không đúng, rằng
trong thực tiễn thì các ngành có cấu tạo hữu cơ tư bản cao, đặc biệt là những ngành đi đầu
về khoa học, công nghệ sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp. Do đó, từ phân tích lợi nhuận, tỷ suất
lợi nhuận với tư cách là hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư,
C.Mác đã đi tới luận giải về biểu hiện của quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản
với tư cách là sức mạnh chi phối điều tiết các hoạt động kinh tế chủ yếu của các nhà tư bản
thông qua phân phối và thực hiện lợi ích của tư bản trong điều kiện kinh tế thị trường dưới
hình thái quy luật lợi nhuận bình quân.
Ý nghĩa( tự liên hệ theo tinh thần đại hội X và XI.)
Câu 9: Những nội dung cơ bản về vấn đề các thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên CNXH. Liên hệ với Việt Nam (nêu về thời kỳ quá độ lên CNXH: những
yếu tố bên trong là gì? Quy luật chung; lý giải vì sao phải thực hiện nền kinh tế nhiều
thành phần. Nêu thành phần kinh tế hiện nay của Việt Nam theo văn kiện Đại hội
Đảng).

Xem lại trong giáo trình có hết rồi.


Tham khảo:
. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI
. Đi lên chủ nghĩa xã hội là xu thế thời đại và khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh lịch sử cụ
thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng Việt Nam có thể và cần phải đi
lên chủ nghĩa xã hội. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng ngày 11-2-1951, Người viết: “Cách mạng Tháng Mười thành công. Cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô thành công. Cách mạng Trung Quốc thành công. Những thành
công vĩ đại ấy đã mở đường cho sự thành công của cách mạng nước ta và nhiều nước khác
trên thế giới”30.
Để chứng minh cho luận điểm trên, Hồ Chí Minh đã viện dẫn kinh nghiệm của một
số nước châu Á. Người viết: “Sau khi đã thoát khỏi ách thực dân, các nước xã hội chủ
nghĩa đã bắt tay vào giải quyết những vấn đề xã hội do sự phát triển của cách mạng đề ra.
Họ đã phát triển theo chủ nghĩa xã hội và đã chứng thực trong đời sống sự đúng đắn luận
điểm của Lênin về khả năng các nước lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa không qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, trong điều kiện có nước xã hội chủ nghĩa đi trước giúp
đỡ. Trong một thời gian tương đối ngắn, các nước ấy đang xây dựng nền công nghiệp dân

30
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.6, tr.175 – 176.
tộc tự chủ có khả năng cung cấp những hàng tiêu dùng và trang bị tư liệu sản xuất cho nền
kinh tế quốc dân”31.
Từ đó, trong bài Trả lời phỏng vấn của nhà báo I-ô-cô Mát-xu-ô-ca, Người đã khẳng
định rõ con đường phát triển của nhân dân Việt Nam: “Chúng tôi xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong hoàn cảnh một nước vốn là thuộc địa, một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến
tranh xâm lược tàn phá. Hoàn cảnh ấy, cố nhiên gây cho chúng tôi rất nhiều khó khăn. Song,
những thắng lợi bước đầu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cho phép chúng tôi
tin tưởng chắc chắn ở sự cần thiết và khả năng của một nước như nước Việt Nam tiến lên
chủ nghĩa xã hội một cách thắng lợi không phải qua con đường phát triển tư bản chủ
nghĩa”32.
. Tính quy luật chung của xã hội loài người và con đường phát triển khác nhau của
các dân tộc tùy hoàn cảnh
Trong lựa chọn con đường phát triển của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận
dụng sáng tạo nguyên lý kết hợp cái phổ biến với cái đặc thù. Người khẳng định rõ mặc dù
sự phát triển của xã hội loài người tuân theo tính quy luật chung, song các dân tộc tùy vào
hoàn cảnh cụ thể có thể lựa chọn con đường phát triển riêng của mình. Trong tác phẩm
Thường thức chính trị, Người viết: “Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế
độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) – nói chung thì loài
người phát triển theo quy luật nhất định như vậy. Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc
phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng
sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã
hội (cộng sản) – như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta, v.v..”33.
Từ đó, Việt Nam có thể và cần phải lựa chọn con đường riêng phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của mình. Trong bài Nói chuyện tại lớp hướng dẫn giáo viên cấp 2,
cấp 3 và hội nghị sư phạm, Người chỉ rõ: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có
31
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.10, tr.432 – 433.
32
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.11, tr.312.
33
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.7, tr.247.
phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác. Các cô, các chú có thảo luận về Đại hội
Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX không? Đại hội đã chỉ cho ta thấy ta có thể đi con
đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”34.
. Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều hình thức sở hữu và
thành phần kinh tế
Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
nền kinh tế nhiều thành phần vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ ra
những thành phần kinh tế trong vùng tự do trước năm 1945 ở Việt Nam bao gồm:
“- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô.
- Kinh tế quốc doanh, có tính chất chủ nghĩa xã hội. Vì tài sản các xí nghiệp ấy là
của chung của nhân dân, của Nhà nước, chứ không phải của riêng. Trong các xí nghiệp
quốc doanh thì xưởng trưởng, công trình sư, và công nhân đều có quyền tham gia quản lý,
đều là chủ nhân. Việc sản xuất thì do lãnh đạo thống nhất của Chính phủ nhân dân.
- Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội.
Nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để bán những thứ mình sản
xuất không phải kinh qua các người con buôn, không bị họ bóc lột.
Các hội đổi công ở nông thôn, cũng là một loại hợp tác xã.
- Kinh tế cá nhân của nông dân và thợ thủ công nghệ, họ thường tự túc ít có gì bán,
và cũng ít khi mua gì. Đó là một thứ kinh tế lạc hậu.
- Kinh tế tư bản của tư nhân. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp
phần vào xây dựng kinh tế.
- Kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do
Nhà nước lãnh đạo. Trong loại này, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản. Tư bản của
Nhà nước là chủ nghĩa xã hội”35.

34
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.8, tr.227.
35
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.7, tr.221.
Sau năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra những hình thức sở hữu chính trong nền kinh tế Việt Nam ở miền Bắc bao
gồm: sở hữu của nhà nước tức là của toàn dân; sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể
của nhân dân lao động; sở hữu của người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở
hữu của nhà tư bản36. Tương ứng với các hình thức sở hữu đó là nền kinh tế nhiều thành
phần, bao gồm: “Năm loại kinh tế khác nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã,
tức nửa chủ nghĩa xã hội).
D- Tư bản của tư nhân.
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh
tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”37.
. Thời kỳ quá độ lâu dài, gian khó và phức tạp
Một chế độ này biến đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go,
kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái
tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển. Kết quả là cái mới, cái đang tiến bộ
nhất định thắng. Vấn đề này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến trong nhiều bài
nói, bài viết.
Trong bài Diễn văn khai mạc lớp Lý luận khóa 1 Trường Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu
sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong
lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và
thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ,

36
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.9, tr.588.
37
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.7, tr.247 – 248.
xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế
chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công
nghiệp. Chúng ta phải dần dần tập thể hóa nông nghiệp. Chúng ta phải tiến hành cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư nhân, đối với thủ công nghiệp. Chúng ta phải biến
một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”38.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người ở nước
ta, nhằm đưa lại đời sống ấm no cho toàn dân ta. Đó là một cuộc cách mạng vĩ đại và vẻ
vang nhất trong lịch sử loài người, nhưng đồng thời cũng là một cuộc cách mạng gay go,
phức tạp và khó khăn nhất. Mỗi người chúng ta phải chuẩn bị tư tưởng và nghị lực để vượt
qua mọi thử thách và hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng này.
Trong bài Nói chuyện tại lớp hướng dẫn giáo viên cấp 2, cấp 3 và Hội nghị sư
phạm, Hồ Chí Minh khẳng định: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội, không thể một sớm một
chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục. Đó là công tác chung của tất cả mọi
người, của cả thầy giáo. Phải hiểu chính sách của Chính phủ và của Đảng, phải thảo luận
rồi tuyên truyền cho chính sách, phải giải thích cho dân hiểu, làm được như thế là gần lên
chủ nghĩa xã hội rồi”39.
Trong bài Nói chuyện với cán bộ công nhân nhà máy dệt Nam Định, Người nêu rõ:
“Tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải muốn là tức khắc có, mà phải làm thế nào cho nó
tiến lên, tức là phải lao động, lao động thiết thực. Tất cả mọi người phải lao động. Có lao
động thì mới có ăn. Không lao động thì không có ăn. Lao động nhiều hưởng nhiều, lao
động ít hưởng ít”40.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiệm vụ
quan trọng nhất cả chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật và chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện
đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng
38
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.8, tr.493 – 494.
39
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.8, tr.228.
40
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.8, tr.338.
ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ
chốt và lâu dài”41.
4. VẬN DỤNG VÀO VIỆT NAM
. Về tính tất yếu khác quan của sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam luôn khẳng định con đường đi lên của đất nước
là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trước những năm đổi mới đã
xuất hiện không ít khó khăn, thách thức như đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng trầm trọng, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, Đảng và dân
tộc ta vẫn kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi mới không phải thay đổi lựa
chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường khác, mà là thay đổi cách thức,
bước đi trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với xu thế mới của thế giới và
hoàn cảnh đặc thù của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta khẳng định: Ngày nay đã có
những điều kiện để hiểu biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ là một tất yếu khách
quan, và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi
nước. Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất
nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó
khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ
đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến thúc thượng
tầng. Đó là một thời kỳ đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội
chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm giải quyết
vấn đề “ai thắng ai”, v.v..
41
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.10, tr.13.
Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên là xây dựng
những tiền đề chính trị, xã hội cần thiết để triển khai công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
trên quy mô lớn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định: Đi lên chủ
nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta. Chúng ta phê phán khuyết điểm, sai lầm
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng không quan niệm những lệch lạc đó là
khuyết tật của bản thân chế độ, coi khuyết điểm là tất cả, phủ định thành tựu, từ đó dao
động về mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi mới không phải là thay đổi
mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng những
quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp
thích hợp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nêu rõ: Con đường đi lên của nước ta
là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: Tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Mặc dù hiện tại, chủ nghĩa tư bản vẫn còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là
một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư
bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với
chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày
càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. “Chính sự
vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ
quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản (…). Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”42.
Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phải tạo ra những cơ sở chủ yếu của
chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Những cơ sở chủ yếu của chủ nghĩa xã hội với tư
cách là chế độ kinh tế - xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản được thể hiện cả trên phương diện
lực lượng sản xuất cũng như quan hệ sản xuất.
Thứ nhất, về lực lượng sản xuất, chủ nghĩa xã hội cần có cơ sở vật chất kỹ thuật và
người lao động với trình độ có khả năng tạo ra năng suất lao động cao hơn so với chủ
nghĩa tư bản. Do đó, nhiệm vụ về phát triển lực lượng sản xuất lên tầm cao mới là vô cùng
quan trọng. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Không có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng
trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có một tổ chức nhà nước có
kế hoạch khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo hết sức nghiêm ngặt một tiêu
chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và phân phối sản phẩm, thì không thể nói đến
chủ nghĩa xã hội được”43. Để có lực lượng lao động mới, đủ khả năng làm chủ những tư
liệu sản xuất hiện đại, V.I.Lênin cho rằng cần thực hiện cách mạng văn hóa, không ngừng
nâng cao trình độ văn hóa cho người lao động.
Để rút ngắn quá trình này, V.I.Lênin cho rằng cần phải học tập chuyên gia tư sản:
“Người cộng sản không được sợ “học” các chuyên gia tư sản, kể cả những thương gia,
những nhà tư bản nhỏ tham gia hợp tác xã và các nhà tư bản khác… hãy làm tốt hơn các
chuyên gia tư sản làm việc bên cạnh mình; hãy biết dùng cách này hay cách khác mà đẩy
mạnh nông nghiệp, công nghiệp lên, mà phát triển sự trao đổi giữa nông nghiệp và công
nghiệp. Chớ nên suy tính về “học phí”, chớ có sợ phải trả đắt, miễn là thu được kết quả
tốt”44.

42
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tr.68 –
69.
43
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1978, t.43, tr.253.
44
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1978, t.43, tr.295.
Thứ hai, về quan hệ sản xuất. Trong điều kiện nền kinh tế quá độ là nền kinh tế
nhiều thành phần, V.I.Lênin khẳng định: Không thể quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội
mà phải qua con đường gián tiếp, không thể “quá vội vàng, thẳng tuột, không được chuẩn
bị”45. Xây dựng quan hệ sản xuất mới thông qua con đường gián tiếp là chủ nghĩa tư bản
nhà nước. V.I.Lênin chỉ rõ: Để chuẩn bị việc chuyển sang chủ nghĩa cộng sản, thì cần thiết
phải có một loạt những bước quá độ như chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội.
Bước quá độ thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước được thể hiện trong Chính sách
kinh tế mới mà việc trao đổi hàng hóa được coi là “đòn xeo chủ yếu” 46, trong đó cần thiết
phải có sự nhượng bộ tạm thời và cục bộ đối với chủ nghĩa tư bản nhằm phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất, từng bước xã hội hóa sản xuất trong thực tế. V.I.Lênin cũng chỉ ra một
số hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước như tô nhượng, hợp tác xã, đại lý, cho thuê xí
nghiệp, khu mỏ, rừng núi…47
Trong xây dựng quan hệ sản xuất mới, V.I.Lênin đặc biệt chú trọng công tác quản lý.
Người viết: “Từ chủ nghĩa tư bản tiểu tư sản đi đến chủ nghĩa tư bản nhà nước với quy mô
lớn cũng như đi đến chủ nghĩa xã hội, đều trải qua cùng một con đường, thông qua cùng
một cái trạm trung gian, đó là “sự kiểm kê và kiểm soát của toàn dân đối với sản xuất và
phân phối sản phẩm”. Ai không hiểu được điểm ấy thì người đó sẽ mắc phải sai lầm không
thể tha thứ được trên vấn đề kinh tế, hoặc là không biết tình hình thực tế, không nhìn thấy
sự vật hiện có, không biết nhìn thẳng vào sự thật, hoặc chỉ tự hạn chế ở chỗ đem “chủ nghĩa
tư bản” đối lập một cách trừu tượng với “chủ nghĩa xã hội”, chứ không nghiên cứu những
tình hình cụ thể và các giai đoạn của sự quá độ ấy trong lúc này ở nước ta”48.
Để đảm bảo thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đặc
biệt coi trọng việc cải tổ bộ máy nhà nước49.

45
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1978, t.43, tr.445.
46
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1978, t.43, tr.400.
47
Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1978, t.43, tr.270 – 274.
48
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1978, t.43, tr.254 – 255.
49
Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1978, t.45, tr.442 – 443.
Câu 10: Quan niệm về giai cấp công nhân của Chủ nghĩa Mac Lênin (chủ
yếu nêu giai cấp công nhân trong CNTB). Điều kiện khách quan, quy định sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân. Liên hệ vai trò lịch sử của giai cấp công nhân Việt
Nam (Định nghĩa giai cấp công nhân Việt Nam là gì (NQTW 6); sứ mệnh lịch sử, đặc
điểm riêng của giai cấp công nhân Việt Nam).

1.1. Quan niệm về giai cấp công nhân


a.Quan niệm của C. Mác và Ph. Ăng ghen về giai cấp công nhân
Hoàn cảnh: Về mặt lịch sử, giai cấp công nhân xuất hiện cùng cuộc cách mạng công
nghiệp đầu tiên được khởi đầu từ nước Anh từ giữa thế kỷ XVII, sau đó lan rộng ra cả thế
giới. Việc ứng dụng máy móc vào quá trình sản xuất, dịch vụ và phân công lại lao động
theo hướng xã hội hóa là nội dung cơ bản. Ph. Ăngghen viết: “Giai cấp vô sản là do cuộc
cách mạng công nghiệp sản sinh ra; cuộc cách mạng này xảy ra ở Anh vào nửa sau của thế
kỷ trước, và sau đó tái diễn ở tất cả các nước văn minh trên thế giới. Sở dĩ có cuộc cách
mạng đó, là do có sự phát minh ra máy hơi nước, các thứ máy kéo sợi, máy dệt và hàng
loạt những thiết bị máy móc khác”50.
Trong những nghiên cứu của C. Mác và Ph. Ăngghen, giai cấp công nhân được
phản ánh từ nhiều góc độ, bằng các khái niệm: giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công
nhân đại công nghiệp, giai cấp công nhân thành thị, giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện
đại, giai cấp làm thuê hiện đại, v.v.. Các khái niệm này phản ánh địa vị, đặc điểm kinh tế,
chính trị - xã hội của giai cấp công nhân.
Quan niệm cơ bản về giai cấp công nhân của C. Mác – Ph. Ăngghen có thể được
khái quát như sau:
Giai cấp công nhân hiện đại là sản phẩm và là chủ thể của “đại công nghiệp” tức là
công nghiệp hóa theo cách gọi đương thời. “Giai cấp vô sản là do cuộc cách mạng công
nghiệp sản sinh ra”51. “Công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy
móc vậy… Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại” 52. Do làm
việc và sống trong xã hội công nghiệp, giai cấp công nhân được rèn luyện tác phong công
nghiệp, lối sống và nhiều phẩm chất như hợp tác, đoàn kết, kỷ luật, vị tha, v.v.. Những
phẩm chất đó lại là tiền đề cho một giai cấp cách mạng và lãnh đạo cách mạng.

50
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995, t4, tr.457.
51
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995, t4, tr.457.
52
C. Mác và Ph.11.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản và phương thức bóc lột giá trị
thặng dư cũng là những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của giai cấp công nhân. “Điều kiện
tồn tại của tư bản là lao động làm thuê” 53. Giai cấp công nhân là chủ thể của hàng hóa sức
lao động, cái mà nhờ nó, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa mới có được giá trị thặng dư.
“Giai cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất
của bản thân, nên buộc phải bán sức lao động của mình để sống” 54. Mặt khác vì mục tiêu
tăng thêm lợi nhuận, giai cấp tư sản có nhu cầu ngày càng tăng về sức lao động của giai
cấp công nhân. “Tư bản, tức là cái sở hữu bóc lột lao động làm thuê, cái sở hữu chỉ có thể
tăng thêm với điều kiện là phải sản xuất ra lao động làm thuê mới để lại bóc lột lao động
làm thuê đó…”55.
Sản xuất vật chất bao giờ cũng là yếu tố quyết định nhất cho tồn tại xã hội. Do gắn
liền với quá trình sản xuất vật chất bằng phương thức công nghiệp – giai cấp công nhân là
lực lượng sản xuất hàng đầu, là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất và là giai
cấp quyết định quá trình phát triển của xã hội hiện đại. Địa vị của họ là giai cấp bị lệ thuộc
vào quá trình sản xuất giá trị thặng dư và quy luật cung cầu của thị trường sức lao động.
“Họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với
mức độ như nhau”56.
Xung đột về lợi ích cơ bản giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản nảy sinh từ
quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản và chế độ bóc lột giá trị thặng dư là nguyên nhân cơ
bản của đấu tranh giai cấp hiện đại. Mâu thuẫn cơ bản này là không thể điều hòa và chỉ có
thể được giải quyết bằng việc xóa bỏ chế độ bóc lột giá trị thặng dư, trên cơ sở xác lập
một quan hệ sản xuất mang tính chất công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu. Chính lực
lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa ngày càng cao đã chỉ ra biện pháp giải quyết ấy.
“Như vậy, cùng với sự phát triển của đại công nghiệp… giai cấp tư sản sản sinh ra những
người đào huyệt chôn chính nó”57.
Từ đó rút ra Khái niệm về giai cấp CN :
+ GCCN là một giai cấp mà lao động sản xuất của họ chủ yếu ở lĩnh vực sản xuất vật chất
gắn với nền công nghiệp ngày càng hiện đại; là giai cấp quyết định nhất đối với sự tồn tại và phát
triển xã hội, đại biểu của phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại ngày nay.
+ Phân tích khái niệm:

53
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995, t4, tr.612
54
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995, t4, tr 596
55
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995, t4, tr 616
56
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995, t4, tr 605
57
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995, t4, tr 613
- Họ là những người lao động theo phương thức SX hiện đại; Phương thức SX công
nghiệp.
- Địa vị XH của họ trong XH TB là làm thuê, bị nhà TB bóc lột giá trị thặng dư. Họ có vai
trò lịch sử là trung tâm của thời đại ngày nay, thay thế vai trò của giai cấp tư sản.
- Có hai thuộc tính cơ bản cơ bản để xác định giai cấp công nhân :
.Về phương thức sản xuất, GCCN là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận
hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp, ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
.Về vị trí của GCCN trong quan hệ sản xuất TBCN, họ là những người không có tư liệu
sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Chính
thuộc tính này đã biến giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản.
- Giai cấp công nhân là giai cấp ra đời và phát triển gắn với sự ra đời và phát triển của nền
đại công nghiệp, sự biến đổi của giai cấp công nhân diễn ra thường xuyên, liên tục, cả về số
lượng, chất lượng, đặc biệt biến đổi về cơ cấu.
Sau CM vô sản thành công, GCCN lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới – xã hội XHCN. GCCN cùng với toàn thể nhân dân lao động làm chủ tư liệu sản
xuất, sản phẩm thặng dư do họ tạo ra làm nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội
XHCN, CSCN.

b. Điều kiện khách quan quy định SMLS của GCCN


* Địa vị KT-XH khách quan của GCCN chỉ ra rằng giai cấp công nhân là giai cấp gắn với
LLSX tiên tiến nhất dưới CNTB. Và với tính chất như vậy, là lực lượng quyết định phá vỡ
QHSXTBCN.
Sau khi giành được chính quyền; GCCN - đại biểu cho sự phát triển tất yếu của lịch sử, là
người duy nhất có khả năng lãnh đạo XH xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đồng thời cũng là giai cấp duy nhất có mục tiêu, lợi ích
phù hợp với đông đảo nhân dân lao động. Do đó, đây có thể coi là điều kiện cốt lõi quy định
SMLS của GCCN.
+ Đặc điểm chính trị - XH của GCCN, tạo khả năng để giai cấp công nhân hoàn thành
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.
+ Các giai cấp và tầng lớp trung gian: Đó là các giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức,
tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công cá thể …
Từ sự phân tích địa vị kinh tế - xã hội, đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp và tầng
lớp trung gian có thể kết luận: chỉ duy nhất giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản, từng bước xây dựng CNXH, CSCN trên phạm vi toàn thế giới.
Tham khảo: Địa vị kinh tế xã hội của GCCN:
Những đặc điểm của GCCN chúng ta đã nghiên cứu kỹ. Đó là: tính tiên tiến, hiện
đại; tinh thần cách mạng triệt để; tinh thần quốc tế cao cả và trong sáng, có hệ tư tưởng của mình
là Chủ nghĩa Mác - Lênin và có Đảng tiền phong lãnh đạo. Đặc biệt quan trọng là GCCN đại diện
cho phương thức sản xuất mới, hiện đại, mang tính chất xã hội hoá ngày càng cao.
Chính những đặc điểm chung đó đã quy định một cách khách quan: chỉ có duy nhất
GCCN có SMLS xoá bỏ CNTB, từng bước xây dựng CNXH, CNCS trên phạm vi toàn thế giới.
Vậy, tại sao giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức không có SMLS đó?
Giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là những người tư hữu nhỏ, cũng bị GCTS
áp bức bóc lột nên cũng tham gia vào đấu tranh chống GCTS. Nhưng họ không có khả năng chủ
động hoặc lãnh đạo cách mạng lật đổ CNTB xây dựng CNXH. Bởi vì:
+ Giai cấp nông dân không đại diện cho một LLSX - PTSX tiên tiến, họ là
những người tư hữu nhỏ về điều kiện tự nhiên dẫn đến sự phân hoá về mặt xã hội, do đó phân
tán trong hành động. Về mặt hệ tư tưởng, giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng độc lập mà
chịu sự quy định của hệ tư tưởng giai cấp thống trị xã hội.
+ Tầng lớp trí thức (không gọi họ là một giai cấp bởi vì họ không có quan hệ rõ
ràng về sở hữu) là tầng lớp đóng vai trò quan trọng trong nền sản xuất vì nó có nhiều yếu tố quy
định năng suất lao động cũng như tốc độ phát triển của lao động. Tuy nhiên, tầng lớp trí thức
không đại diện cho PTSX riêng, có hệ tư tưởng không thống nhất, không có đảng chính trị
riêng do đứng trên lập trường giai cấp khác nhau (VD: trí thức tư sản thì theo lập trường của
GCTS, trí thức vô sản thì theo lập trường của giai cấp vô sản).
Như vậy, cả giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức không đại diện cho một PTSX tiên tiến,
không có hệ tư tưởng độc lập nên dù ra đời từ lâu nhưng không thể có SMLS và chỉ có GCCN mới có
SMLS. Vì vậy, GCND và tầng lớp trí thức phải đi theo GCCN, chịu sự lãnh đạo của GCCN để làm cuộc
cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người.

* Mâu thuẫn cơ bản của PTSX TBCN :


Quá trình vận động của Phương thức sản xuất khách quan đặt ra nhu cầu thay đổi QHSX
TBCN. Sự tồn tại của chế độ TBCN tất yếu dẫn đến cách mạng XHCN do GCCN lãnh đạo và tổ
chức thực hiện.
- Mâu thuẫn cơ bản về phương thức sản xuất, tất yếu dẫn đến cách mạng XHCN:Trong
chế độ TBCN, mâu thuẫn khách quan giữa LLSX ngày càng xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu
tư nhân TBCN về TLSX, biểu hiện ra thành mâu thuẫn giữa GCCN với GCTS là mâu thuẫn cơ
bản của chủ nghĩa tư bản.
(Các đồng chí sẽ được học trong bài "Xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam")
Mâu thuẫn cơ bản đó trong CNTB ngày càng gay gắt và không thể giải quyết triệt
để trong khuôn khổ CNTB. Chỉ có cách mạng XHCN mới có thể giải quyết được triệt để mâu
thuẫn đó. Và GCCN chính là giai cấp có sứ mệnh lãnh đạo, tổ chức cuộc cách mạng đó, xây dựng
xã hội mới - xã hội XHCN, CSCN.
Hiện nay, GCTS nhiều nước có điều chỉnh để thích nghi mà tiếp tục tồn tại, phát triển. Đó
chỉ là tạm thời giải quyết mâu thuẫn về lợi ích trước mắt với GCCN. Chưa bao giờ GCTS vì con
người và không bao giờ từ bỏ lợi ích cố hữu của mình. Nếu có sự "chăm lo" tới con người (tăng
lương, giảm giờ làm, khen thưởng, cho vay cổ phần,…) thì cũng chỉ bởi vì công nhân là phương tiện
để làm tăng lợi nhuận và cho chúng thoả sức bóc lột mà thôi, hoặc là vì để giảm tính căng thẳng của
xã hội do các cuộc biểu tình, đình công của công nhân, hoặc để cố tình tạo ra tầng lớp công nhân
quý tộc làm lạc hướng phong trào đấu tranh của GCCN. Từ đó, ta có thể kết luận: CNTB dù có "trợ
cấp thất nghiệp", "quan tâm xã hội",…vẫn không có khả năng, điều kiện, mục đích giải quyết triệt để
vấn đề thất nghiệp, nghèo khổ cho GCCN. Đó là chưa kể đến hàng trăm, hàng ngàn những tệ nạn xã
hội phức tạp ngày nay nảy sinh trong CNTB.
VD: Ở Mỹ, vẫn có khoảng 38 triệu người sống dưới mức nghèo khổ, 16 triệu người
không có việc làm, 6 triệu người không có nhà ở,…Cũng ở Mỹ, tệ phân biệt chủng tộc vẫn tồn tại
ngang nhiên. Theo thống kê, cứ 2 trẻ em da đen thì 1 phải sống trong cảnh nghèo tuyệt đối, trong
35,7 triệu người nghèo có 30% là người da đen. Tội ác bạo lực tràn lan…
Mâu thuẫn cơ bản đó trong CNTB là mâu thuẫn bản chất, ngày càng gay
gắt và không thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ CNTB.
Chỉ có cách mạng XHCN mới có thể giải quyết được triệt để mâu thuẫn đó.
- Mâu thuẫn cơ bản đối lập về lợi ích giữa GCCN và GCTS chỉ có thể giải quyết
bằng quá trình thực hiện nội dung chính trị của SMLS của GCCN.
* Nhu cầu phát triển nhanh, nhân bản và bền vững của thế giới hiện đại cũng là
điều kiện khách quan quy định SMLS của GCCN.
Nền sản xuất công nghiệp hiện đại vừa đòi hỏi GCCN nâng cao trình độ không
ngừng, vừa là một điều kiện trực tiếp nhất cung cấp ngày càng nhiều nhận thức văn hóa,
khoa học,…cho GCCN.
Trong thời đại ngày nay, khoa học, công nghệ và kỹ thuật phát triển như vũ bão,
toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ,…đòi hỏi GCCN các nước phải giỏi về chuyên môn, có
khả năng ứng dụng nhanh và hiệu quả những thành tựu khoa học - công nghệ, có khả năng sáng
tạo ra công nghệ mới, thì sự nghiệp CNH, HĐH của đất nước đó sẽ sớm thành công. Do vậy, yêu
cầu người công nhân phải có những kiến thức mới là một điều kiện quy định SMLS của GCCN.
VD: Trước đây, người công nhân chỉ chế tạo ra chiếc máy đánh chữ với đặc điểm
khi đánh văn bản phải gõ thật mạnh, nhiều thao tác, nên vừa đau tay, vừa tốn thời gian. Không
lưu được văn bản trên máy, đánh sai phải bỏ không sửa được. Từ khi, người công nhân đã chế
tạo ra chiếc máy vi tính thì đã thay thế và loại bỏ hoàn toàn chiếc máy đánh chữ. Nó cho phép
chúng ta tìm kiếm được mọi thông tin, giải hàng triệu phép tính trong một phút, xử lý văn bản
nhanh và thuận lợi hơn,...
Đặc biệt, nước ta đang trong quá trình CNH, HĐH, nếu GCCN Việt Nam không có
tri thức để lựa chọn công nghệ hiện đại thì Việt Nam sẽ chỉ là "bãi thải" cho việc chuyển giao
những công nghệ lạc hậu để rồi ngày càng tụt hậu và phụ thuộc vào các nước tư bản. Do đó,
nâng cao trình độ về văn hóa, khoa học, công nghệ, chính trị - xã hội... cho GCCN Việt Nam là
một tất yếu khách quan trong thời đại ngày nay.
Nền công nghiệp hiện đại ngày càng phát triển, làm cho GCCN ngày càng
đông đảo và hiện đại hơn.
Khi nền công nghiệp hiện đại ngày càng phát triển, đã làm biến đổi cơ cấu
kinh tế, khoa học kỹ thuật...nó làm cho các giai cấp và tầng lớp khác cũng biến đổi theo, gia nhập
và gắn bó với GCCN làm cho GCCN ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Trong đó, trí
thức ngày càng giác ngộ gia nhập GCCN làm cho chất lượng GCCN tăng lên.
VD: Ở thế kỷ XIX, GCCN mới có 19 triệu người chiếm 2 % lực lượng lao động xã
hội, chủ yếu trực tiếp với máy, còn hiện nay, GCCN đã có khoảng 1 tỷ người, chiếm gần 80 %
lực lượng lao động toàn thế giới, chỉ có 30% trực tiếp với máy móc. Trình độ đại học và trên đại
học chiếm 60%. Cá biệt có những nước công nhân có trình độ đại học trên 90%.
Ở Việt Nam, quá trình CNH - HĐH đất nước, đặc biệt là chủ trương công nghiệp
hóa nông nghiệp nông thôn, làm cho nông thôn ngày càng phát triển đã làm biến đổi cơ cấu lao
động ở nước ta. Việc đưa các nhà máy công nghiệp về nông thôn, cũng như việc cải tiến kỹ thuật
làm cho lao động nông nghiệp dư thừa đã bổ sung một cách tự nhiên GCND vào GCCN; cũng
như trong thời đại ngày nay, khoa học, công nghệ ngày càng phát triển đã thu hút một lượng lớn
trí thức gia nhập và gắn bó với giai cấp công nhân, làm hiện đại hóa GCCN như: các chuyên gia
kinh tế, các kỹ thuật viên... trong các nhà máy hóa dầu, gian khoan, các khu chế xuất...
Tóm lại, từ sự phân tích trên cho ta thấy, từ CNTB lên CNXH là một tất yếu lịch
sử.
c. KN GCCNVN :
- Quan niệm mới về GCCN Việt Nam : “giai cấp công nhân Việt Nam là một lực
lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc,
làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp,
hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”58.
- SMLS của GCCN Việt Nam:

“ GCCNVN là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động
chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công
nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”.
Theo văn kiện BCH Trung ương khóa X : “ G/c CN nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn : Là
giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản VN; giai cấp đại diện
cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Hơn 80 năm xây dựng và trưởng thành, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân đã lãnh
đạo giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vượt qua muôn ngàn khó khăn, thử thách, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Việt Nam, đó là:
Thứ nhất: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã xoá bỏ chế độ thực
dân, nửa phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
Thứ hai: Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc,
đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực
hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thứ ba: Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn Việt
Nam.
Với những thắng lợi đó, Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một
quốc gia độc lập tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi,
có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã
trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc
hậu, đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
- Thực trạng GCCN Việt Nam

58
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị Quốc
gia, H.2008, tr.43.
Qua quá trình phát triển, trưởng thành, đặc biệt là qua 25 năm đổi mới, GCCN Việt
Nam đã có bước phát triển lớn mạnh, trưởng thành về chất và có những đóng góp to lớn
vào quá trình đổi mới của đất nước. Biểu hiện:
+ Những mặt tích cực và thuận lợi trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt Nam:
GCCN Việt Nam là sản phẩm của quá trình công nghiệp hoá, lại mang những nét
đặc thù riêng trong dân tộc, ra đời trong lần khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, vừa
chịu sự bóc lột của bọn thực dân, vừa chịu cảnh nô lệ mất nước ; do vậy có ý thức sâu sắc
giữa gắn bó lợi ích của giai cấp với lợi ích của dân tộc
.Quá trình đấu tranh của GCCN là quá trình GCCN từng bước trưởng thành về lý
luận và thực tiễn, số lượng, chất lượng…. Khi nước ta hòa bình, tiến lên CNXH. Lần đầu
tiên GCCN VN làm chủ được vận mệnh của mình và từng bước khẳng định vị thế cơ bản
của mình trong xã hội
VD : Hiện nay, cả nước ta có khoảng 9,5 triệu công nhân chiếm khoảng 11% dân số
và 1/4 lực lượng lao động toàn xã hội.
Thực tiễn cách mạng nước ta đã cho thấy: kể từ khi ra đời cho đến nay, GCCN tăng
nhanh về số lượng.
Năm 1914, nước ta có khoảng 10 vạn đến năm 1929 có 22 vạn, chiếm 1,2% dân số;
Đến trước năm 1985 có 3,38 triệu người, chiếm 16% lực lượng lao động xã hội; đến năm
1999 có 6,3 triệu người; năm 2000 là 7.639.994 người, chiếm 9% dân số, 16% lao động xã
hội và tính đến đầu năm 2008 có 9,5 triệu người chiếm 11% dân số và 21% lực lượng lao
động xã hội. GCCN có mặt ở mọi thành phần kinh tế từ doanh nghiệp nhà nước, tập thể,
đến doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Hàng năm đã tạo ra khối lượng sản phẩm công nghiệp chiếm 40% tổng sản phẩm của
xã hội, đảm bảo trên 60% ngân sách nhà nước.
+ Đội ngũ công nhân, lao động ngày càng đa dạng về cơ cấu ngành nghề, với trình
độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp được nâng lên đáng kể.
VD : Bên cạnh một số ngành công nghiệp truyền thống: cơ khí, luyện kim, khai thác
than,…Nay xuất hiện thêm nhiều ngành nghề mới thậm chí trở thành ngành mũi nhọn: dầu
khí, hàng không, hàng hải, điện tử - tin học. Nhiều ngành dịch vụ công nghiệp quan trọng
phát triển nhanh như: tài chính, ngân hàng, chuyển giao công nghệ,…đóng vai trò quan
trọng trong phát triển công nghiệp.
Công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%, ngành
dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, các ngành khác chiếm 4,8%. Riêng các cơ sở kinh tế
cá thể công nhân chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ và thương mại chiếm
66,67%; 33,33% còn lại làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
VD : Hàng chục vạn cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh, công nhân bậc cao và thợ giỏi đã năng động, sáng tạo, có nhiều sáng kiến
có giá trị cao được áp dụng.
+ Chất lượng GCCN Việt Nam được nâng lên cả về trình độ học vấn và giác ngộ lý
luận chính trị.
Về trình độ lý luận chính trị và sự giác ngộ chính trị, đông đảo công nhân Việt Nam
đều tin tưởng và ủng hộ đường lối đổi mới, đường lối CNH,HĐH và đường lối phát triển
kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, nhất trí cao với việc
từ bỏ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, ủng hộ việc tổ chức và sắp xếp lại sản
xuất, lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, mặc dù biết rõ việc này làm ảnh hưởng
đến mỗi người.
Trình độ kỹ thuật - tay nghề, trình độ văn hoá của công nhân trong những năm qua
được nâng lên đáng kể do sự phát triển của giáo dục, dạy nghề và yêu cầu ngày càng cao về
chuyên môn kỹ thuật của nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
VD: Theo điều tra của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, số công nhân có trình
độ học vấn phổ thông tăng từ 42,54% năm 1985 lên 62,2% năm 2000 lên 76% năm 2002
và 80% năm 2006. Tỷ lệ công nhân được đào tạo năm 2005 chỉ khoảng 26% đến năm
2006 tăng lên 31%.
+ Đời sống mọi mặt của công nhân đã được cải thiện đáng kể.
VD : Trong cả nước, mỗi năm có hơn một triệu lao động được bổ sung vào đội ngũ
công nhân. Nhìn chung, đời sống mọi mặt của công nhân (chủ yếu là công nhân các doanh
nghiệp nhà nước, công nhân các khu vực lao động ngành nghề truyền thống) đã được cải
thiện đáng kể. Mức thu nhập của công nhân luôn tăng lên theo từng năm, cũng như trong
từng loại hình kinh tế.
Theo vụ thống kê công nghiệp của tổng cục thông kê: Doanh nghiệp nhà nước
Trung ương năm 1998 thu nhập bình quân của người công nhân là 1 triệu 045 nghìn đồng
thì đến năm 2002 đã tăng lên 1 triệu 285 nghìn đồng; tương tự, doanh nghiệp nhà nước địa
phương năm 1998 thu nhập bình quân của người công nhân là 657 nghìn đồng thì đến năm
2002 mức thu nhập bình quân tăng lên 742 nghìn đồng; và ở các thành phân kinh tế khác
tuy có mức độ tăng khác nhau, nhưng nhìn chung thu nhập của người công nhân liên tục
tăng qua các năm.

- Những vấn đề đang đặt ra với giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
+ Đối với vai trò lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội,
Hiện nay đang có mâu thuẫn giữa yêu cầu tiền phong, đi đầu trong sự nghiệp lãnh
đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội với hiện trạng còn nhiều bất cập về trình độ văn hóa,
tay nghề và giác ngộ chính trị trong một bộ phận lớn công nhân nước ta. Đây cũng là một
điểm nghẽn lớn – điểm nghẽn về nhân lực trong sự nghiệp đổi mới, cần được giải quyết.
+ Đối với vai trò đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, hiện trạng của giai cấp công nhân
nước ta cũng còn nhiều bất cập, hạn chế.
Năng lực làm chủ khoa học và công nghệ của công nhân, năng lực lãnh đạo tổ chức,
quản lý của Đảng và của Nhà nước, năng lực quản lý và kinh doanh của các doanh nghiệp
Nhà nước, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa hoàn thiện, v.v..
Những bất cập hạn chế trên vừa cản trở, vừa mâu thuẫn với vị thế, vai trò của giai cấp
công nhân nước ta.
+ Đối với vai trò là hạt nhân của khối liên minh công – nông – trí thức và đại đoàn
kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân nước ta hiện nay cũng còn khá nhiều bất cập trước
hai lực cản lớn là mặt trái của cơ chế thị trường và năng lực tổ chức quản lý của bản
thân.
Hiện trạng đổi mới còn thiếu nhiều những điển hình thực hiện tốt khối liên minh,
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức; những vấn đề bức xúc
của thực tiễn, nội dung và phương thức liên minh chậm đổi mới, v.v.. đang làm ảnh hưởng
đến khối liên minh và đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đối với quá trình xây dựng, phát triển giai cấp công nhân nước ta, vấn đề đặt ra là
độ chênh lệch giữa hiện trạng và tầm vóc, vị thế cần phải có: quá trình đổi mới, phát triển
kinh tế - xã hội đã mở ra một giai đoạn lịch sử mới trong sự phát triển của giai cấp công
nhân; tuy nhiên những hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến việc làm, đời sống và tư tưởng, tình cảm của công nhân. Đảng có chú trọng
xây dựng giai cấp công nhân; nhưng quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai
trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới. Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp
luật xây dựng giai cấp công nhân; nhưng những chính sách, pháp luật này vẫn còn nhiều
hạn chế, bất cập. Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác có nhiều đóng góp tích
cực vào việc xây dựng giai cấp công nhân; nhưng hiệu quả chưa cao, còn nhiều yếu kém.
Bản thân giai cấp công nhân đã có nhiều nỗ lực vươn lên; nhưng chưa đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, v.v..
Tóm lại: Xét từ góc độ phát triển là tình huống đồng thời, khi được giải quyết cũng
là những động lực thúc đẩy sự phát triển của giai cấp công nhân nước ta. Vai trò lãnh đạo
đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, vai trò đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức; yêu cầu chuyển đổi căn bản nền kinh tế từ phát
triển bề rộng sang kết hợp với phát triển chiều sâu, yêu cầu giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, tránh tụt hậu trong cơ chế kinh tế thị trường nhiều thành phần và hội nhập kinh
tế quốc tế đang tạo ra những tác động nhiều chiều với sự phát triển của giai cấp công nhân
Việt Nam. Mặt khác, trong tình trạng chậm phát triển của đất nước, thiếu nhiều cơ sở kinh
tế kỹ thuật cho công nghiệp, môi trường xã hội có nhiều điểm không thuận lợi trong quá
trình hiện đại hóa, v.v.. đã khiến cho việc giải quyết các vấn đề đó không dễ dàng và mau
chóng. Nó đòi hỏi giai cấp công nhân Việt Nam và toàn Đảng, toàn dân phải có nỗ lực bứt
phá lớn để hướng tới đích 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Các nhu cầu thực tiễn trên buộc giai cấp công nhân Việt Nam phát triển để đáp ứng
yêu cầu của tình hình mới.
Liên hệ với Đảng và nhà nước.
Quan điểm chỉ đạo trong xây dựng giai cấp công nghiệp Việt Nam
+ Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua
đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất
tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự lớn mạnh
của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi
mới, CNH, HĐH đất nước.
+ Xây dựng GCCN lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng, phát huy sức mạnh
của liên minh GCCN với GC nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, của
tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc - động lực chủ
yếu của sự phát triển đất nước, đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với
GCCN trên toàn thế giới.
+ Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Xử lý đúng
đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và
chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo hài hoà lợi ích giữa công nhân, người sử
dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của công nhân, quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai
cấp công nhân.
+ Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí
thức hoá giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt quan tâm xây dựng thế
hệ công nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực
và quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng
cốt của giai cấp công nhân.
+ Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân, sự tham gia
đóng góp tích cực của người sử dụng lao động; trong đó, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm
lo xây dựng giai cấp công nhân. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn liền với
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng tổ chức
Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị - xã hội.
VD: Ở Việt Nam, hiện nay chúng ta đang xây dựng và phát triển nền kinh thị trường
với đa dạng các loại hình kinh tế như: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh thế tư bản
nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Bộ phận GCCN
đang làm viêc trong các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài là những người đang làm thuê cho nhà tư bản và không thể
tránh khỏi việc bị bóc lột giá trị thặng dư.
Biểu hiện cụ thể ở chỗ chúng ta luôn duy trì chế độ công hữu về các TLSX chủ yếu
của xã hội, do GCCN và nhân dân lao động quản lý và sử dụng mà cụ thể là chúng ta giao
cho các tổng công ty, các tập đoàn lớn của nhà nước, đại diện cho nhà nước và toàn thể
nhân dân quản lý, sử dụng, sản xuất và kinh doanh để thu lợi nhuận, nộp nghân sách cho
nhà nước.
VD: Hiện nay chúng ta có 8 tập đoàn và 96 tổng công ty lớn của nhà nước hoạt
động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. 8 tập đoàn lớn của nhà nước bao gồm (TĐ
Bưu chính – Viễn thông - VNPT, TĐ Than - Khoáng sản - vinacomin, TĐ Dầu khí -
PetroviệtNam, TĐ Điện lực - EVN, TĐ Công nghiệp tàu thủy - Vinashin, TĐ Dệt may -
Phương hướng
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát
triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ
học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động; đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bảo vệ
quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân”59.
Từ nay đến năm 2020 phải phấn đấu quyết liệt để đạt được sự chuyển biến tối đa về
các mặt sau đây:
- Hình thành và triển khai thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn
mạnh gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập quốc tế.
- Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân,
tạo được chuyển biến thật sự mạnh mẽ và rõ rệt trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của công nhân (vấn đề nhà ở tại các khu công nghiệp, tiền lương và thu nhập, bảo
hiểm xã hội, nơi sinh hoạt văn hóa, cơ sở nuôi dạy trẻ, v.v.) tương xứng với những thành
quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp công
nhân. Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong các loại hình doanh
nghiệp.
- Có bước tiến về đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển đất nước, nhất là những ngành công nghiệp
mới. Tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào tạo; chú trọng đào tạo nghề cho công nhân từ
nông dân và nữ công nhân.
- Nâng cao hơn về giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật, tác
phong công nghiệp và kỷ luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh trong công nhân,
nhất là công nhân trẻ.
- Tăng tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân. Tăng số
lượng và chất lượng cơ sở Đảng trong các loại hình doanh nghiệp; sớm thành lập tổ chức
cơ sở Đảng ở những doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ Đảng; đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức đảng tại doanh nghiệp phù hợp với từng
thành phần kinh tế.

Giải pháp cơ bản để xây dựng phát triển giai cấp công nhân Việt Nam

59
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2011, tr.49.
- Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công nhân
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hóa giai cấp
công nhân.
- Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc
cho giai cấp công nhân.
- Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân; chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần cho công nhân.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các
tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân.

Câu 12: . Nội dung kinh tế của liên minh Công - Nông - Trí trong thời kỳ
quá độ lên CNXH. Liên hệ việc thực hiện nội dung đó ở Việt Nam hiện nay. Giải
thích để thực hiện tốt nội dung kinh tế của liên minh Công - Nông - Trí trong giai
đoạn hiện nay.

a/ Định nghĩa:
Liên minh công- nông- trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH là sự đoàn kết, hợp
lực, liên kết... giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức nhằm
thực hiện nhiệm vụ, giải quyết các vấn đề vì lợi ích không chỉ cho một lực lượng mà còn
cho cả các lực lượng tham gia, đồng thời góp phần vào sự nghiệp chung xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
B Nội dung kinh tế của liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội
- Là sự liên kết, hợp tác của công nhân, nông dân, trí thức để xây dựng nền kinh
tế mới XHCN
Ở nước ta: Thực chất là đảm bảo nghĩa vụ và quyền lợi kinh tế cho công nhân,
nông dân, trí thức thông qua giải quyết các vấn đề cụ thể:
+ Xác định và đáp ứng những nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức
VD: Ở các giai đoạn khác nhau có những thay đổi khác nhau, nhưng tổng thể vẫn
nằm trong điều kiện của nền kinh tế theo định hướng XHCN. Ở thời kỳ đất nước còn trong
giai đoạn chiến tranh, chúng ta dồn sức phục vụ tiền tuyến, mọi hoạt động kinh tế đều
hướng đến mục tiêu là nhằm đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng. Trong giai đoạn hiện
nay, chúng ta đổi mới, phát triển nhằm tạo dựng cơ sở hạ tầng vững chắc để tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
- Xác định đáp ứng đúng nhu cầu kinh tế : giai cấp công nhân, giai cấp nông dân,
tầng lớp trí thức trong cơ cấu kinh tế thống nhất, những nhu cầu này có thể thay đổi theo
từng giai đoạn
+ Công nhân - công nghiệp
+ Nông dân - nông nghiệp
+ Trí thức - khoa học, công nghệ
- Xây dựng cơ cấu công nông nghiệp hợp lý từ địa phương đến trung ương. Hai
ngành kinh tế cơ bản trở thành cơ cấu hiện đại hoá là thể hiện sự liên minh chặt chẽ của
công - nông - trí thức.
- Phát triển giao lưu kinh tế giữa các giai cấp và các tầng lớp, giữa các vùng kinh tế
trong nước, giữa Việt Nam và quốc tế, trên cơ sở bình đẳng hợp tác
+ Các vùng kinh tế
Đồng bằng - miền núi
Thành thị - nông thôn
+ Đảm bảo lợi ích chính đáng trong quá trình trao đổi sản phẩm
- Từng bước đa dạng hoá hình thức sở hữu và sử dụng tư liệu sản xuất, từng bước
hình thành quan hệ sản xuất mới, kinh tế nhà nước phải vươn lên làm chủ đạo nền kinh tế
quốc dân.
+ Cải tạo quan hệ sản xuất phải có hình thức bước đi phù hợp
+ Bảo đảm phát triển kinh tế, ổn định đời sống
- Ở nước nông nghiệp nội dung kinh tế của liên minh nổi lên mối quan hệ giữa nhà
nước và nông dân, nông thôn chủ yếu là thông qua hệ thống chính sách khuyến nông theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ trung ương đến cơ sở.
+ Luật, chính sách, cơ chế… về sở hữu đất đai, rừng biển.
Thực tế - hợp lý - công bằng
Miễn giảm đúng việc, đúng nơi - đúng lúc - đúng đối tượng
- Tư tưởng Hồ Chí Minh :
" Thuế không chỉ là nghĩa vụ của dân đối với xã hội, thuế còn phải để khuyến
khích sản xuất. Do đó thuế phải được tính toán khoa học "
+ Trong di chúc của Người ghi miễn thuế cho nông dân 1 năm
+ Kỳ họp quốc hội khoá XI miễn thuế cho nông dân 10 năm
+ Luật, chính sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn
Vốn kết cấu hạ tầng, kỹ thuật
Kiến thức sản xuất, kinh doanh, cán bộ …
Ví dụ : hiện nay trên cả nước, Sơn la…
+ Luật, chính sách giá cả nhất là sự trợ giúp thoả đáng
Giá nông sản với giá vật tư
Trợ giá nông sản
Giảm lãi suất vốn đầu tư
" Được mùa người nông dân cũng khóc
Mất mùa nông dân cũng khóc "
Tóm lại :
Nếu xem nhẹ nội dung kinh tế thì liên minh công nông trí thức sẽ đi chệch
hướng, vì nội dung cơ bản nhất của liên minh kinh tế là công nghiệp hoá, hiện đại hoá để
xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội
 Nhiệm vụ và giải pháp
 Đối với giai cấp công nhân
 Quan điểm chỉ đạo trong xây dựng giai cấp công nhân
 - Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông
qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương
thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân
là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
 Mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân đến 2020
 - Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính
trị vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho
tinh hoa văn hoá của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến
phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước; có
tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế; thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Nói chung, trong các doanh nghiệp đều có tổ chức cơ sở đảng, công
đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên
Việt Nam.
 Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
 -Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công nhân
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
 -Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hoá giai cấp
công nhân
 -Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân
tộc cho giai cấp công nhân
 -Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật
để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân; chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần cho công nhân
 *. Đối với giai cấp nông dân
 Quan điểm:
 - Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng
quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị,
đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo
vệ môi trường sinh thái của đất nước.
 - Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự
chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định,
hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đàm đà bản sắc dân tộc, tạo
động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời
sống nông dân.
 Mục tiêu
 - Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài
hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó
khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên
tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.
Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững,
sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh
cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
 - Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển
mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn
 - Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô
thị
 - Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn lực, phát triển
nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân
 -Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh
của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân
 Nhiệm vụ:
 - Hoàn thành cơ bản việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch đất đai, quy
hoạch phát triển nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp, khu công nghiệp và quy
hoạch chuyên ngành theo vùng. Triển khai nhanh công tác quy hoạch xây dựng
nông thôn gắn với quy hoạch phát triển đô thị.
 - Tổ chức tốt việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) về
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên trên địa bàn nông thôn; củng cố bộ máy quản lý nhà
nước về nông nghiệp.
 * Đối với đội ngũ trí thức
 - Mục tiêu : Ðến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng
cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng bước
tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và
thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với
Ðảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh công - nông - trí.
 - Quan điểm chỉ đạo: Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt
quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp
nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo
của Ðảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Ðầu tư xây dựng đội
ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững.
 -Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
 - Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức
 - Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức
 - Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức
 - Ðề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các
hội của trí thức
 - Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Ðảng đối với đội ngũ trí thức
 TÓM LẠI: Ngoài việc xây dựng các giai tầng. Điều kiện tiên quyết để làm nên
thắng lợi là cần phải thực hiện được liên minh công - nông – trí mới thực hiện
được các nhiệm vụ và giải pháp nêu trên.
 2. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
và tăng cường hoạt động khuyến nông là phương hướng căn bản và quan
trọng để thực hiện liên minh công – nông – trí thức ở nước ta hiện nay
 Hiện nay nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát
triển kinh tế thị trường, hội nhập sâu vào kinh tế thế giới trong điều kiện khoa
học công nghệ thế giới phát triển hết sức nhanh chóng. Điều đó đòi hỏi phát triển
mạnh mẽ kinh tế công nghiệp và nông nghiệp, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa
thành thị và nông thôn, bảo đảm lợi ích của nông dân, từng bước đưa nông dân
lao động vào những hợp tác sản xuất từ thấp đến cao theo định hướng xã hội chủ
nghĩa bảo đảm đời sống vật chất và nâng cao dần trình độ văn hoá, khoa học - kĩ
thuật, ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho công nông, đó là những phương
hướng và nội dung cơ bản để duy trì và củng cố khối LMCN.
 VD: Vừa qua Ở Nam Định, một mô hình liên kết giữa nhà nông và nhà doanh
nghiệp đã đem lại những lợi ích thiết thực cho nông dân: Người nông dân cho
thuê đất rồi lại làm thuê trên chính mảnh đất của mình: Tạo ra sự tập trung sản
xuất, vừa giúp người dân có thu nhập thường xuyên với mức khá, vừa giúp nhà
doanh nghiệp có điều kiện đều tư sản xuất trên quy mô lớn với việc áp dụng
nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đây là mô hình được người nông
dân hết sức hưởng ứng và thực hiện trên thực tế.
 3. Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở và thực hiện tốt Quy chế và
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở là góp phần quan trọng tăng cường
liên minh công – nông – trí thức trong giai đoạn hiện nay
 - Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận
động nhân dân, trong đó có khối liên minh về chấp hành và thực thi đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước
 - Nội dung đổi mới để nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở (theo tinh
thần văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH TW khóa IX)
 4. Phát hiện, hoàn thiện và nhân rộng những mô hình liên minh công – nông
– trí thức trong thực tiễn
 - Trong thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước, có rất nhiều hình thức mới về liên
minh nảy sinh, khi mới bắt đẩu có thể còn có khiếm khuyết, chưa rõ ràng
 - Nếu nghiên cứu, thấy triển vọng thì cần sớm quan tâm, tác động để có được
những mô hình, ngọn cờ thực sự trong liên minh công – nông – trí thức.
 - Mô hình được quan tâm và nhân rộng nhiều nơi: “Liên kết 4 nhà: Nhà nông –
Nhà doanh nghiệp – Nhà khoa học – Nhà nước
 - Áp dụng các hình thức liên minh cần sáng tạo, tiếp tục hoàn thiện, nhân rộng
để phát huy giá trị.
 5. Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức nghề
nghiệp của công nhân, nông dân và trí thức là góp phần trực tiếp tăng cường liên
minh công – nông – trí thức hiện nay
 - Tổ chức của công nhân: Công đoàn, nghiệp đoàn....
 - Tổ chức của nông dân: Hội nông dân, Hội khuyến nông
 - Tổ chức của trí thức: Liên hiệp các hội Khoa học – kỹ thuật, Liên hiệp các Hội
văn học nghệ thuật
 - Các đoàn thể có vai trò quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng
rãi công – nông – trí thức; đại diện cho quyền và lợi ích của công – nông – trí
thức; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, các chương trình
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh vào cuộc sống, góp phần đồng
thuận xã hội và các giai tầng
 - Nhà nước ban hành cơ chế để thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội
 - Các cấp ủy Đảng, chính quyền tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe ý kiến của các tổ
chức phản ánh
 - Thực hiện tốt Luật Mặt trận tổ quốc VN, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở mọi
cấp để các giai tầng tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và Hệ thống chính trị
 - Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị, các tổ chức
nghề nghiệp của công – nông – trí thức
câu11. Giải thích sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa
như một quá trình tự nhiên để từ đó lý giải tính tất yếu sự lựa chọn con
đường lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua Tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Như bất cứ hình thái KT-XH nào, hình thái KT-XH CSCN cũng có quá trình ra đời,
phát triển qua các giai đoạn khác nhau.
Dựa trên quan điểm khoa học, căn cứ vào trình độ phát triển của LLSX và QHSX
cùng KTTT tương ứng.
C.Mác-Ph.Ănghen không những phân chia lịch sử xã hội loài người thành các
HTKT-XH, mà còn phân các hình thái KT-XH thành các giai đoạn phát triển nhất định.
Mỗi giai đoạn ấy tương ứng với một thời gian khác nhau.
-Xã hội XHCN phát triển qua 2 giai đoạn cơ bản:
C.Mác gọi: Giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp
Giai đoạn sau hay giai đoạn cao.
Lênin gọi: Gọi giai đoạn đầu là CNXH hay XHCN
Gọi giai đoạn cao là CNCS hay CSCN.
+Giai đoạn thấp (CNXH,XHCN) C.Mác khẳng định “Cái XH mà chúng ta nói ở
đây không phải là một XH CSCN đã phát triển trên cơ sở chính nó, mà trái lại XHCSCN
vừa thoát thai từ TBCN. Dó đó là một XH về phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần-còn
mang những dấu vết của XH cũ mà nó lọt lòng”
Do đó giai đoạn đầu (đặc biệt là thời kỳ đầu) là giai đoạn cải biến CM, giai đoạn quá
độ chính trị lâu dài, gay go, phức tạp, từng bước khắc phục và xóa bỏ những dấu vết của
xã hội cũ hình thành và phát triển những cơ sở những nhân tố kinh tế, xã hội, văn hóa của
xã hội mới.
Công cụ để thực hiện những cuộc cải biến CM trong giai đoạn thấp không gì khác
hơn là nhà nước chuyên chuyến vô sản, Nhà nước chuyên chính vô sản là đặc trưng là đặc
trưng chính trị bản chất nhất của thời kỳ cải biến CM từ CNTB lên CNXH.
+Giai đoạn cao (CNCS, CSCN) con người không lệ thuộc vào sự phân công lao
động, lao động trong thời ký này không chỉ là phương tiện kiếm sống mà nó trở thành nhu
cầu của con người.
Mác- Ănghen đã dự báo khoa học về giai đoạn cao:
- LLSX phát triển cao, năng xuất lao động cao, của cải dồi dào ..
- Sở hữu toàn dân là hình thức sở hữu phổ biến
- Nguyên tắc phân phối theo nhu cầu được thực hiện
- Không còn sự khắc biệt lao động trí óc và lao động chân tay
- Xã hội tự quản thay thế nhà nước
- Con người được bình dẳng , thự do phát triển toàn diện
Tất cả những đặc trưng trên ở giai đoạn cao mơi chỉ là dự báo khoa học,
lịch sử phát triển của xã hội loài người minh chứng bổ sung hoàn thiện những dự
báo đó

b.Sự ra đời và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa như
một quá trình lịch sử tự nhiên.

 Hình thái kinh tế -xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là một tất yếu khách quan
mang tính quy luật .
 Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất ( Đây là nguồn gốc kinh tế dẫn tới sự ra đời và phát triển của xã hội cộng sản chủ
nghĩa ) Lịch sử phát triển của XH loài người là lịch sử phát triển của các hình thái
kinh tế -xã hội, trong đó PTSX là nền tảng. PTSX là sự thống nhất biện chứng của
LLSX và QHSX, trong đó sự phát triển của LLSX đóng vai trò quyết định. Khi
LLSX phát triển đến trình độ nào đó, QHSX cũ không còn phù hợp sẽ gây ra sự cản trở
LLSX thì sẽ diễn ra quá trình phá vỡ QHSX cũ, lạc hậu hình thành QHSX mới tiến bộ và
do đó kéo theo sự thay đổi PTSX, kéo theo sự thay đổi HTKH-XH theo hướng tiến bộ
hơn. Bởi vì, LLSX (con người và công cụ lao động) là yếu tố động, nó phát triển một cách
khách quan, còn QHSX (sở hữu, quản lý, phân phối) mang tính ổn định tương đối (đọc lại
cuốn giáo trình màu hồng)
 Quy lụât cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng :

-Câu hỏi : Đồng chí cho biết CSHT là gì?KTTT là gì?


Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ những QHSX hợp thành kết cấu kinh tế của một XH nhất
định.CSHT của một XH: QHSX thống trị, QHSX tàn dư và QHSX mầm mống của XH
tương lai.
Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…cùng với những thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng
phái, giáo hội, các đoàn thể,…được hình thành trên CSHT nhất định.
=>CSHT luôn vận động và phát triển khách quan, còn KTTT ổn định hơn phụ thuộc
vào giai cấp thống trị xã hội. Do vậy, giai cấp thống trị thiết lập nhà nước để bảo vệ sự
thống trị của mình. Do vây
+Trong xã hội có giai cấp thì nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng
Nhà nước là tổ chức XH và quyền lực được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực
hiện quyền lực chính trị của mình, thông qua đường đối, chủ trương, chính sách, tư
tưởng…của giai cấp thống trị.
Do vậy, khi nhìn vào NN ta biết ngay đó là NN của giai cấp nào.
+HTKT-XH CSCN chỉ có thể ra đời với điều kiện phải xoá bỏ KTTT TBCN, mà
cốt lõi là NN tư sản bằng cuộc cách mạng xã hội XHCN.
tại sao HTKT-XH CSCN ra đời phải xóa bỏ Nhà nước tư sản ?
Trong XH TBCN, kiến trúc thượng tầng TBCN nòng cốt là nhà nước TS, luôn bảo
về QHSX tư bản, bảo vệ lợi ích của GCTS bằng mọi thủ đoạn, mọi biện pháp. Trên lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, bằng cả biện pháp hòa bình (pháp luật, thuế, bầu
cử…) và bạo lực (xâm lược, trấn áp…)
tại sao HTKT-XH CSCN ra đời phải thông qua cuộc CM XHCN?.
Bởi vì : Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX trong TBCN biểu hiện về mặt chính trị
-XH là mâu thuẫn giữa GCCN người đại diện cho LLSX xã hội hoá cao với GCTS đại
diện QHSX TBCN ngày càng trở nên ngay gắt XH chỉ có thể tiếp tục phát triển khi mâu
thuẫn cơ bản đó được giải quyết triệt để thông qua quá trình CM XHCN.
Lịch sử đã chứng minh PTSX TBCN hình thành trong lòng xã hội phong kiến từ
cuối thế kỷ XV ở châu Âu nhưng chỉ có thể ra đời và phát triển mạnh mẽ sau CM TS xoá
bỏ hoàn toàn QHSX cùng với sự thống trị của giai cấp địa chủ , quý tộc.
Ở các nước TBCN nền kinh tế phát triển cao, đội ngũ GCCN đông, chiếm tỉ lệ lao
động và có trình độ tay nghề giỏi nhưng chưa diễn ra CM XHCN là bởi những nước này
đảng Cộng sản chưa phát huy được vai trò lãnh đạo.
Giống như các giai cấp thống trị bóc lột trước đây, cho đến nay G/C TS cũng chưa
tự nguyện trao quyền lực chính trị và lợi ích cơ bản cho giai cấp khác ở đây là GCCN.
Hơn thế nữa. GCTS câu kết, thỏa hiệp với nhau để giành lại những nơi mà GCCN, NDLĐ
đã giành được chính quyền như ở Liên Xô, Đông Âu.
=>CM XHCN nổ ra thành công thì sẽ thiết lập nhà nước XHCN, bởi vì nhà nước là
vấn đề cơ bản của mọi cuộc CM, nhà nước XHCN là vấn đề cơ bản của CM XHCN, nhà
nước XHCN ra đời đánh dấu sự ra đời của HTKT-XH CSCN Như vậy : Suy cho
cùng ,cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới những hình thức khác nhau dều là quy luật chung
của quá trình giải quyết mâu thuẫn về quan hệ lơi ích giai cấp giữa giai cấp công nhân với
giai cấp tư sản .
 Hình thái kinh tế - xã hội công sản chủ nghĩa ra đời và phát triển là kết quả hoạt
động sáng tạo của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đảng tiên
phong của giai cấp công nhân .

Không có sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng cộng sản thì không thể có
thắng lợi của CM XHCN, không có sự ra đời và phát triển của XH XHCN.
Trước khi có thì các phong trào đấu tranh manh tính tự phát  các vấn đề kinh tế:
Tăng cương, giảm giờ…
Khi có Đảng lãnh đạo các phong trào đấu tranh mang tính tự giácCác vấn đề XH
VD: Ở Việt Nam trước khi ĐCSVN ra đời các phong trào đấu tranh đều thất bại vì
không có chủ trương, đường lối đấu tranh đúng đắn…nên thất bại. Khi có Đảng lãnh đạo
các phong trào đấu tranh thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân lao động, có
sự liên kết chặt chẽ với nhau….=>CM đến thắng lợi
V.I. Lênin “hãy cho tôi một tổ chức tôi đảo ngược lại nước Nga”
+Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đảm bảo tính tự giác cao cho các hoạt động GCCN
và NDLĐ, vừa là quy luật, vừa là nguyên tắc chính trị của quá trình hình thành và phát
triển của XHCSCN.
+Nâng cao vai trò vai trò và năng lực lãnh đạo của ĐCS trong hệ thống chính trị, bộ
phận cốt yếu là nhà nước, càng có tầm quan trọng đặc biệt.
+Sự lãnh đạo của Đảng nhằm làm cho nhà nước XHCN không ngừng tăng cường vai
trò và năng lực quản lý của mình trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng phát huy
quyền làm chủ của NDLĐ, đảm bảo thực hiện hiệu quả cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà nước
quản lý và nhân dân lao động làm chủ - cơ chế vận hành XHCN
=>Xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng –Nhà nước với GCCN và NDLĐ
trong khối đại đoàn kết toàn dân; khối đại đoàn kết toàn dân do ĐCS lãnh đạo trở thành
động lực xã hội chủ yếu cho sự phát triển của XH XHCN.

 Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời và phát triển là quá
trình lâu dài, khó khăn, quanh co, phức tạp.
- Cả lý luận và thực tiễn đã chỉ ra quá trình xây dựng CNXH là một con
đường không thể thẳng tắp, mà là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp theo quy
luật khách quan của nó.
Câu hỏi: Tại sao sự ra đời CSCNvà phát triển là một quá trình lâu dài và khó khăn,
quanh co, phức tạp?
+Trong qua trình xây dựng XCNXH chúng ta vừa phải đấu tranh với các thế lực
phản động vừa tiến hành xây dựng. Các thế lực thù địch, đặc biệtGCTS không bao giờ tự
nguyện, chịu khuất phục.
+Xây dựng CNXH trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội
+Khó vì chưa có tiền lệ, nên gặp rất nhiều khó khăn cả trong lý luận và thực tiễn…
VD: Liên Xô sau 72 năm xây dựng, là thành trì của CNXH đến những năm 90 thì
sụp đổ. Nguyên nhân sụp đổ của Liên xô :
=> Nguyên nhân chủ quan.
=> Nguyên nhân trực tiếp.
Hay như Việt Nam chúng ta chẳng hạn mô hình XHCN mà nhân dân ta xây dựng
được xác định tại Đại hội VII gồm 6 đặc trưng, đến đại hội X, XI là 8 đặc trưng…
=> Các quy luật ra đời của hình thái KT-XHCSCN hợp thành quy luật thống nhất
biện chứng. Trong đó quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX là quy
luật chung nhất, phổ biến nhất, vừa mang nội dung kinh tế, vừa mang nội dung chính trị -
xã hội.

TÓM LẠI:
Các quy luật ra đời của hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa hợp
thành hệ thống quy luật thống nhất , biện chứng trong đó quy luật “ Quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” là quy luật chung nhất ,phổ biến nhất
vừa mang nội dung kinh tế , vừa mang nội dung chính trị- xã hội .
CNXH là một trong hai giai đoạn HTKH-XH CSCN, quá trình xây dựng CNXH là
một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp nhưng sẽ công, bởi nó phù hợp với quy luật,
khát vọng, ước mơ của nhân loại tiến bộ. Những thành tựu to lớn mà CNXH đạt được góp
phần quan trọng vào tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại tiến. Do vậy việc nghiên
cứu XH XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, là một vấn đề đặc biệt quan
trọng, góp phần vào việc tổng kết, đánh giá thực tiễn quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN phải được tiến hành thường xuyên, để bổ sung và rút kinh nghiệm cả trong lý
luận và thực tiễn. Hướng tới xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam công cuộc đổi mới đã đạt được
những thành tựu to lớn được cả nhân dân thế giới nghi nhận.
Đánh giá về thành công của quá trình đổi mới, Đại hội lần thứ X Đảng ta khẳng
định: “Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng
tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH
ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận và công cuộc đổi mới, về xã hội
XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành những nét cơ bản”.

You might also like