Professional Documents
Culture Documents
Vua Hàm Nghi - nhà điêu khắc, ảnh chụp tại Pháp năm 1935 - Ảnh tư liệu
Vua Thành Thái trong triều phục - Ảnh tư liệu
Vua Duy Tân trong một cuộc mittinh ủng hộ Mặt trận Bình dân Pháp năm 1936 tại đảo
Réunion - Ảnh tư liệu
Đi tìm dấu tích ba vua là tên gọi bộ phim ký sự lịch sử nhiều tập này (dự kiến 60 tập,
mỗi tập 10 phút). Phim đã đi được nửa chặng đường, do Công ty BHD và Hãng Phim truyền hình
TP.HCM phối hợp thực hiện.
Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 10-3-2008, một đoàn làm phim tinh gọn gồm nhà văn
Nguyễn Hồ, nhà thơ Nguyễn Duy, nhà văn Ngô Thảo, đạo diễn Đào Anh Dũng, quay phim
Nguyễn Hữu Tuấn… xuất phát từ Sài Gòn ra Huế. Từ đó là những cuộc điền dã miệt mài không
ngày nghỉ, qua suốt mấy tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Thanh Hoá đến Hà Nội… Cho
đến ngày 12-4-2008, phần quay tư liệu trong nước về ba vị vua cơ bản hoàn thành. Chiều 20-5, tại
Đài truyền hình TP.HCM, lễ ra mắt đoàn làm phim đã diễn ra xúc động trước ngày đoàn lên
đường sang Pháp để tiếp tục phần quay ở các địa danh gắn với hoạt động của ba vị vua như Paris,
làng Thonac (Pháp), đảo Réunion (lãnh địa hải ngoại Pháp)…
Yêu nước và dấn thân
Nhà văn Nguyễn Hồ - tác giả kịch bản Đi tìm dấu tích ba vua - cho rằng nói Hàm Nghi,
Thành Thái, Duy Tân là ba vị vua yêu nước quả không sai. Nhưng nói cho đúng hơn thì có lẽ phải
dùng từ dấn thân. Bởi theo lịch sử các triều vua VN, đâu chỉ có ba vị vua này mới yêu nước.
Dấn thân dù bị phận lưu đày, đó là phẩm cách nổi trội của các vị vua Hàm Nghi, Thành
Thái, Duy Tân. Khi giở lại lịch sử, chúng ta đều thấy ba vị lên ngôi trong hoàn cảnh hết sức trớ
trêu - nước mất, rơi vào tay thực dân Pháp. Các triều vua mất nước đều diễn ra rất ngắn ngủi: Dục
Đức ba ngày, Hiệp Hoà bốn tháng, Kiến Phước bảy tháng.
Cả ba vua này đều bị bức tử, và những vị vua lập ra thay thế đều còn rất trẻ: Hàm Nghi
13 tuổi, Thành Thái 10 tuổi, Duy Tân 8 tuổi. Nhà văn Nguyễn Hồ nhấn mạnh: "Họ được lập ra để
làm bù nhìn, nhưng khí chất của họ lại là những con người yêu nước quật cường. Họ thà chấp
nhận bị phế truất lưu đày chứ không chịu làm vua nô lệ. Điều ấy khiến tôi suy nghĩ, ray rứt mãi,
nhất là khi đi làm phim Ký sự Tân Đảo, ghé thăm nơi chôn cất vua Hàm Nghi ở làng Thonac,
vùng Aquitaine nước Pháp"…
Vua Hàm Nghi phát Hịch Cần Vương ở Tân Sở (Quảng Trị) chống Pháp trong ba năm,
sau bị Pháp bắt đày sang Alger. Vua Thành Thái với những tư tưởng cấp tiến không thoả hiệp với
Pháp, bị đày đến đảo Réunion. Vua Duy Tân cũng như vua cha Thành Thái muốn làm một vị vua
trưởng thành có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi tin tức và ý kiến với Chính
phủ Pháp cũng bị đày đến Réunion… Lòng yêu nước dấn thân của họ lịch sử đã nêu rõ. Nhưng
còn nhiều chi tiết ngoại sử phong phú gợi nhắc những trắc ẩn và bài học về lòng yêu nước nồng
nàn vẫn còn như mới hôm nay.
Cụ Lê Khắc Tùng (trái) - người được giao cất giữ kho báu của vua Hàm Nghi từ năm
2008-2009, sau khi được chuyển giao từ cụ Trần Văn Nhung
Lòng dân
Các thành viên trong đoàn làm phim đều cho rằng chưa bao giờ họ tham gia một hành
trình mà gặp nhiều may mắn như thế. Ví như mỗi khi đến các chùa chiền, lăng tẩm, mỗi khi xin
phép mở kho để quay những hiện vật, họ đều phải thông qua một "thủ tục" là xin xăm. Nếu quẻ
dương thì mở cửa, quẻ âm… thì về. Lần nào gieo quẻ cũng thắc thỏm lo nhưng lần nào cũng gặp
may. "Có lẽ việc làm của chúng tôi hợp lòng dân nên gặp nhiều may mắn" - nhà văn Nguyễn Hồ
nói vui.
Dấu tích các triều vua không chỉ có trong sử mà còn nằm ở lòng dân rất sâu đậm là
điều có thật. Có rất nhiều câu chuyện xúc động vẫn đang diễn ra hằng ngày. Như chuyện những
người dân xã Phú Gia (huyện Hương Khê, Hà Tĩnh) luân phiên giữ gìn nguyên vẹn các báu vật
của vua Hàm Nghi suốt 123 năm qua.
"Năm 1885, vua Hàm Nghi lập căn cứ chống Pháp và hạ chiếu Cần Vương tại sơn
phòng Hương Khê. Nhà vua ban tặng dân làng Phú Gia một số kỷ vật, trong đó có long bào, kiếm
báu, voi vàng và một số đồ ngự dụng. Mỗi năm, bô lão nơi đây lại bầu ra một cụ đạo chủ, thay
phiên nhau cất giữ kho báu ấy trong nhà tranh vách đất đơn sơ. Qua nhiều đận tao loạn, trộm
cướp; qua thời giặc Pháp, giặc Nhật; qua cả cái thời cực đoan "chống phong kiến", chính quyền
địa phương bắt giao nộp kho báu cho Nhà nước quản lý nhưng các bô lão kiên quyết cưỡng lại,
cho dù có cụ bị tống giam" - nhà thơ Nguyễn Duy trong vai trò người dẫn chuyện - viết lời bình
xúc động kể lại, rồi không quên nhắc thêm: "Hôm ghi hình bốn cụ đạo chủ còn sống, chúng tôi
hỏi: Nhờ đâu mà các cụ giữ được như vậy?… Một cụ trả lời: Nhờ lòng dân, các bác ạ!".
Hành trình tìm dấu tích ba vua như thế không chỉ được tái hiện qua trang sử mà còn
tìm thấy trong lòng dân, bằng sự thật, không phải là huyền thoại.
TRẦN NHÃ THỤY
Theo đạo diễn Đào Anh Dũng: "Bộ phim được thực hiện theo phong cách "nối mạng"
giữa quá khứ và hiện tại, đan cài giữa tư liệu lịch sử và nhân chứng sống, kết hợp thông tin chính
luận và cách kể chuyện điền dã tự nhiên… Tất cả sẽ là những câu chuyện trên đường như mới xảy
ra ngày hôm qua. Điều "đại hồng phúc" mà đoàn làm phim có được là thu thập được hàng trăm
chi tiết ngoại sử sinh động, điều này sẽ giúp chúng tôi có những thước phim cô đọng đến mức tối
đa".
Dự kiến phim sẽ phát sóng vào tháng 10-2008.
Tưởng niệm
(Được tin lễ cải táng di hài vua Duy Tân ở Huế mà có thơ rằng)
Cụ Nguyễn Phúc Bảo Hiền (phải) - cháu nội vua Thành Thái - và nhà thơ Nguyễn Duy
- Ảnh: Nguyễn Hồ
Ước chi tới bến sông Hương
Đốt nhang mà lạy nắm xương lưu đày
Thế là đã trở về đây
Một con người tận chân mây cuối trời.
Tấm thân phiêu dạt quê người
Linh hồn vẫn ở lại nơi quê nhà
Ngai vàng vừa cũ vừa xa
Ánh vàng vương miện cũng là hư không.
Mặt trời vẫn mọc đằng đông
Lăng minh quân vẫn dựng trong lòng người
Bao triều vua phế đi rồi
Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ!
(TP.HCM, tháng 4-1987)
NGUYỄN DUY
______________________
Hai tác phẩm của vua Duy Tân
Vua Duy Tân - Ảnh tư liệu
Trân trọng giới thiệu cùng đông đảo bạn đọc cả hai tác phẩm của Duy Tân - Vĩnh San
qua bản dịch của Nguyên Ngọc: Tác phẩm Biến tấu trên cây đàn lia vỡ nát đoạt Giải nhất cuộc thi
văn học do Viện Hàn lâm Réunion(1) tổ chức năm 1924 và tác phẩm Tiếng nói vạn vật.
Trả lời phỏng vấn của chúng tôi, tháng 3-2008, nhà văn Nguyên Ngọc kể một kỉ niệm
"không thể nào quên" về cựu hoàng Duy Tân: "Ngày còn học ở quê, mình được đọc một bài văn
Pháp ngữ của Duy Tân, in trên tờ báo chuyên lưu hành trong các nhà trường, kiểu như tờ Học báo.
Bài văn hay đến mức mình thuộc lòng, đến nay vẫn còn thuộc, Ce que dit la voix des choses -
Tiếng nói của vạn vật…". Và ông đọc vanh vách một đoạn dài.
Tôi đề nghị ông dịch thành văn bản để dùng trong phim "Đi tìm dấu tích ba vua lưu
đày". Ông hứa sẽ dịch.
Tháng 6, tới đảo Reunion, lãnh địa hải ngoại của Pháp ở nam Ấn Độ Dương, thuộc
châu Phi, chúng tôi được nghe khá nhiều chuyện hay và lạ, thậm chí kỳ lạ, của hai cha con cựu
hoàng Thành Thái - Duy Tân thời họ bị lưu đày tại đây. Vua cha Thành Thái là người bất hợp tác
với Pháp, ít giao du, không sinh hoạt cộng đồng.
Còn Duy Tân thì khác, hội nhập với thế giới hiện đại, học giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp,
kỹ thuật điện tử, lắp ráp radio, chơi đua ngựa, chơi đàn vĩ cầm, làm thơ, viết văn đăng báo và tham
gia nhiều hoạt động xã hội, giao thiệp rộng rãi… Riêng về thành tựu văn chương, Duy Tân đã
từng đoạt giải nhất cuộc thi văn năm 1924 của Viện Hàn lâm Reunion với tác phẩm Variations sur
une lyre brisée (Khúc biến tấu trên cây đàn lia vỡ nát). Còn "bài thơ văn xuôi" Ce que la voix des
choses thì được lưu hành trong nhà trường Pháp ngữ như một bài văn mẫu.
Chúng tôi đã chụp ảnh nguyên bản cả hai tác phẩm nói trên, gửi cho nhà văn Nguyên
Ngọc, và đã nhận được bản dịch Việt ngữ của ông kèm theo lời phân trần: "Không thể nào dịch
hay bằng nguyên tác được!".
NGUYỄN DUY
…
Biến tấu trên cây đàn lia vỡ nát
Ôi, tiếng róc rách rỉ rả của vòi nước mới khiến tôi day dứt làm sao! Trong đêm khuya
tiếng động ấy tràn vào đầu tôi, gõ vào tai tôi, nạo vào thần kinh tôi như một cành mộc tặc… Tôi
buồn… Ý nghĩ của tôi quay cuồng.
Vầng sáng tròn khiêm nhường nơi ngọn đèn nhỏ của tôi đứng yên một chỗ như cố sức
làm cho lòng tôi yên tĩnh. Hoài công thôi, tôi muốn đắm mình trong bí ẩn của Koenigsmark, văn
xuôi của Pierre Benoit cũng khiến tôi chán chê chẳng khác gì những câu thơ trường phái Parnasse
của Leconte de Lisle mà tôi đã cố uống lấy cho say.
Người đàn bà điên trong nhà không còn ở đấy nữa; bà ta, là người đã trang sức cho các
câu và điểm tô cho các từ vẻ đẹp ta vẫn mong tìm, đã bỏ đi đâu mất rồi. Mới lúc nãy đây thôi, bà
còn chăm chú theo rõi các trang sách của tôi… Vậy mà đột nhiên, bà bỏ ra đi.
Một con chó tru lên ở đâu đó. Một con chó lai ghẻ lở, gầy đét vì phải nhịn bữa suốt đời.
Thường nhìn thấy nó, ngủ trên một đống rác hay ngờ vực rõi theo những cử chỉ của một người
qua đường. Hai sườn chảy sệ của nó đã bao lần phải chịu những cú đá, đầu nó chi chít vết sẹo là
bằng chứng hùng hồn của những lần bị ném đá.
Nó vừa tru lên, con chó ấy. Vì sao? Nó than thở nổi bất công của số phận với ai kia vậy,
nó tin ở điều gì khi thét lên tiếng kêu càng khiến hai sườn nó thêm đau?
Vì sao mà nó tru lên thế?
Ôi, nào ta có biết được!
Bao giờ cũng vậy trong ta có một kẻ khác âu lo và tìm kiếm.
Có thể đấy chính là cuộc hành trình đến chốn hoàn thiện, bởi chúng ta đã bị kết án là có
thể trở nên hoàn thiện.
Tiếng chó tru đã tắt.
Dòng suy nghĩ của tôi đã trở lại. Quẩn quanh trong căn phòng này. Tôi vẫn buồn.
Lạ quá chừng!
Bí ẩn của một con ngươi mắt mở ra quá rộng đang nhìn ta, giấu sau hai hàng mi, một
nụ cười ta không biết muốn nói gì đây hay tiếng kêu của một con vật, tràn đầy hy vọng hay đau
đớn hay cả tiếc nuối nữa, chỉ chừng đó thôi đã đủ để khiến ta buồn, một nỗi buồn không sao tìm ra
được nguyên cớ.
Tuy nhiên, ai biết được đây?
Trong tiềm thức tăm tối nơi đôi lúc cái tôi toàn vẹn của ta ẩn náu, có chăng một nỗi
niềm nào đó mà ký ức nhuốm trí óc ta một màu u tối?
Ta nhớ lại…
Vâng, bây giờ ta đã hiểu vì sao trái tim ta đập nhịp ủ ê thế này trong lồng ngực ta.
Nó nhớ lại nổi đau do những nan lồng đã chặn đứng cánh bay tung của nó ra bầu trời
đầy tràn ánh sáng.
Vâng, vậy đó…
Ta ngồi dưới chân một thân cây đầy rêu, cành lá còn giữ những giọt sương, rung rinh
trong gió sớm. Toàn bộ cánh đồng quê trẻ lại sau một giấc ngủ đêm, trải ra giữa các đồi núi như
một tấm áo choàng ngày hội. Trong giây phút ấy, ta tận hưởng một niềm vui thú được tham dự
vào cuộc bừng thức của cỏ cây và muông thú.
Tựa vào tay mẹ, cô gái ấy đi qua…
Khi ánh tóc đen nhánh của cô khuất sau khúc quanh của con đường thôn dã, ta vẫn còn
dõi theo trong khoảng trống không khuôn mặt thoáng hiện của cô. Lặng người, ta hổn hển đuổi
theo một ảo ảnh. Tiếng hót nhẹ nhàng của một con chim đâu đó ở bên trên khiến ta ngước mắt
nhìn lên.
Một người đàn ông đi qua và phá tan mất niềm hứng khởi…
Ta rời bỏ niềm cô đơn của cây cối để trở về trong niềm cô đơn của con người.
Ngày tháng theo nhau rơi chìm vào hố sâu của quá khứ…
Một buổi sớm, trước khi mặt trời còn chưa rạng, ta hít thở không khí trong mát và mơ
màng chẳng biết đến điều chi, đến một điều gì đó xa xôi, và tuy vậy do sự hiện diện của nó lại làm
dịu bớt bóng tối đượm xanh của buổi chớm bình minh. Trên vầng trời cao kia, những ngôi sao run
rẩy, cảm thấy đã gần đến lúc chúng không còn long lanh được nữa.
Một con gà trống cất tiếng gáy vang lừng, một khúc hoan ca mừng tình yêu, sự sống và
ánh sáng.
Những con gà trống khác, được tiếng kèn sớm ấy đánh thức, đáp lời.
Mọi vật đều yên tĩnh; quấn một vấn khăn mây, các ngọn núi trông như những hiệp sĩ
trang trọng trong một hội nghị bàn tròn kỳ diệu vào đêm thức thụ phong kỵ sĩ, hay như những thủ
lĩnh thổ dân Nam Mỹ đang họp hội đồng tướng lĩnh chiến tranh, họ ngồi trong làn khói toả ra từ
chiếc ống điếu dài. Chung quanh các thủ lĩnh, những ngọn núi nhọn hoắt là những vệ sĩ đứng
canh.
Mọi người còn đang yên giấc. Trong giấc ngủ, nhân loại quay về cái thời kỳ khi những
dục vọng ngốc nghếch còn chưa huỷ hoại sự hài hoà của con người và tạo vật.
An tịnh mênh mông…
Mây từ từ sáng lên và tản ra; không khí trong suốt hơn và bầu trời bớt tối đi.
Đột ngột, ở phía bên trái, một đỉnh núi nhuốm màu hồng vàng rực, rồi lần lượt tất cả
các đỉnh núi nối tiếp cùng sáng lên một màu long lanh.
Dẫu chẳng muốn, tâm trí con người bỗng mở rộng ra trước cảnh bình minh ấy, một bản
giao hưởng sắc màu trong đó tất cả các pha đều gợi lên cùng một cảm giác hùng vĩ và nguôi
ngoai.
Khối núi oai nghiêm nơi tầm nhìn của tôi dừng lại lần lượt trở màu tím, rồi hồng, rồi
đỏ, vàng óng và cuối cùng chói lọi một màu trắng trong veo chẳng gì sánh được.
Vạn vật đều thức dậy; khu rừng, mới lúc nãy, chỉ khẽ rì rào, bây giờ dang rộng các
cành cây cho ánh sáng vuốt ve.
Ta rõi nhìn…
Được tham dự sự bừng nở của ngày, ta cảm thấy vượt qua được mọi nỗi thống khổ của
thế gian.
Đôi mắt ta, vui mừng, ngắm nhìn các sắc màu rực rỡ của những đoá hoa trên nền xanh
tràn trề của cảnh vật. Ngay sát hai bên một lối đi, hai hàng rào hoa đào gai kéo dài một dải trắng.
Ta rõi nhìn…
Một run rẩy nhẹ… như là một mối hiểm nguy bất ngờ hay một mong ước quá đỗi bồn
chồn.
Giữa lối đi, kia là nàng đang thức dậy…
Song, có ai biết, suốt những ngày qua từ khi sự xuất hiện của nàng giữa những hàng
cây khiến ta chú ý, ý nghĩ của ta chẳng mấy vấn vương niềm mong ước được gặp lại nàng…
Đối với một số người, lối mòn của bệnh hoài nghi và thói quen mỉa mai tất cả, khiến
cho tác động của xúc cảm trở nên khó khăn. Trong thế tự vệ đạo đức, hoài nghi là tự khoác cho
mình một chiếc áo giáp, mỉa mai là giữ lấy tay khiên. Nhưng không thể cứ lúc nào cũng trang bị
đầy vũ khí; sẽ đến một lúc nào đó ta cảm thấy mình đã an toàn, ta cởi bỏ áo giáp, mà thật kiên
cường ta từng đến ngạt thở trong ấy mà vẫn cười, và tới lúc đó ta sẽ rất dễ bị tổn thương dù chỉ
bởi một cái chích nhẹ hay một vuốt ve thoảng qua.
Ngoài ra còn có những phút mà vẻ tráng lệ mênh mông của bầu trời buộc ta quên bẵng
đi mặt đất, và lại cũng còn có những giây phút khi tiếng rền rĩ của một chiếc phong cầm lải nhải
một bản tình ca nghe được từ ngày xưa bỗng khiến ta nới lỏng cuộc canh giữ quyết liệt từng bố trí
chặt chẽ quanh tâm hồn mình. Buổi sáng hôm đó ta bị tước hết vũ khí. Những cánh hoa đang bừng
nở rạo rực trước mắt ta kia làm trào lên trên đôi môi ta niềm khát khao được nếm chất mật tuyệt
diệu, ẩn sâu trong những đoá hoa, mới mẻ xiết bao sau một đêm say ngủ.
Nhìn thấy nàng là hoàn tất tác động của buổi bình minh.
Ta tìm giữa màu xanh đón mừng ngày mới ấy điều bí ẩn của sự tương cận khiến con
người mơ tưởng trước những vật thể câm lặng kia và bỗng nhiên cộng vào bí ẩn của vạn vật lại có
thêm bí ẩn của con người.
Tại sao trước khuôn mặt nhìn nghiêng nào đã rõ kia ta bỗng cảm thấy khát khao vô
cùng được đứng bên khung cửa sổ nọ, ở đấy mãi, mãi suốt bao nhiêu thế kỷ và ta mong ước biết
bao mọi sự sẽ vĩnh viễn tuyệt đối bất động, để cho ở nơi ấy cái bóng nhỏ nhoi kia sẽ chẳng bao
giờ biến mất?
Cũng giống như những người lên cơn sốt nghe đau nhức trong mình mà đoán được cơn
kịch phát đang đến gần, ta cảm thấy điều gì sẽ đến với ta từ buổi sáng ở nước Tây Ban Nha rộng
lớn này nơi ta xây những lâu đài.
Dẫu giữa các hàng thông
Có một nòng súng tịt
Thì nơi kia các con thỏ
Vẫn rên rỉ: Thôi hết rồi!
Rostand
Còn kháng cự làm gì nữa, khi ta đã trúng đạn mất rồi?
Tốt hơn cả là để cho cơn đau cứ thế mà tiếp diễn và bởi vì ta biết nó chẳng làm chết
người đâu, thôi thì cứ mặc vậy.
Đầu óc ta cứ vậy mà lý lẽ, sẵn sàng khỏi ngay mọi căn bệnh, nhưng là theo lối của nhà
giải phẫu bẻ đi một cái xương, lấy cớ là để nắn cho nó thẳng lại!
DUY TÂN - VĨNH SAN
______________________
Tiếng nói của vạn vật
Tôi yêu tiếng rì rào của gió khi gió hát hay than khóc trong các cành cây. Tôi yêu
những lời tâm sự du dương của gió với cây rừng, với sóng biển, với sao trời.
Nhưng còn hơn thế nhiều, ru đưa hồn tôi, khiến tôi rạo rực, yêu thích, là tiếng nói lớn
của đại dương, lời than thở lan khắp vũ trụ cất lên trong vắng lặng của đêm khuya tựa một bản
tụng ca bất tận.
Giữa mùa hè, khi tôi lưu lại bên bãi biển, những đêm thao thức, tôi rất thích được nghe
các biến tấu của tiếng nói ấy. Trong những đêm thanh vắng, tưởng như đấy là tiếng thở của một vị
thần Léviathan đang thiêm thiếp, vào những lúc khác, tiếng nói ấy bỗng vang lừng, gào thét, đầy
đe doạ trong cơn gầm rú của bão tố.
Tiếng ru đưa hay tiếng thở than của vũ trụ phải chăng chính là âm vang dội lại của
những dục vọng trần thế, tiếng ca hào hùng và tiếng thét của một thế giới tiềm ẩn? Chúng biểu lộ,
lúc thì niềm vui hay nổi đau, lúc thì nỗi lo sợ hay sự hung bạo, khi là niềm dịu dàng hay cơn giận
dữ.
Đấy là một bản hoà tấu hân hoan hay đau đớn trào dâng thành những rung động, những
đợt sóng truyền lan cho đến cõi vô tận để rồi hoà tan trong bản giao hưởng vĩ đại những người trai
trẻ trên khắp thế gian và khơi nguồn cảm hứng cho bậc thiên tài. Chính vì thế mà chúng gây cho
ta những cảm giác không sao có thể cắt nghĩa và sâu xa, bởi chúng tái hiện và thâu tóm toàn bộ
cuộc sống của con người trong những hoá thân vĩnh cửu của nó.
Toàn bộ tự nhiên mênh mông là một nguồn phát lộ cho tâm hồn những ai biết nhìn
thấy, biết cảm nhận, biết thấu hiểu. Những hơi thở của đất và của nước, những phát xạ của thế giới
các thiên hà, tất cả đều nói về niềm bí ẩn của cuộc sống và số phận vĩnh hằng.
Nhưng chính trong niềm an tịnh của của những lúc cô đơn, những tiếng nói bí ẩn kia
mới thổ lộ hết với những ai biết chăm chú và trầm tư. Chính vì thế mà các nhà thơ, các nhà văn,
các nhà tư tưởng thường thích lui tới các ngôi đền của tự nhiên, những chốn ẩn dật giấu kín, xa
các đô thành, nơi nguồn cảm hứng bùng lên và sự thần giao trở nên sâu kín hơn cả.
Gió nói gì kia khi khua động cành lá? Ngọn núi cao có vầng trán kiêu hãnh kia, chiếc
hồ kia, khu rừng kia, giòng thác kia đang nói với ta những gì? Tất cả đều cất cao lời: "Hãy ngợi ca
Thượng đế, hỡi Linh hồn con người, và hãy gắng sức mà vươn cho đến được nơi Người!". Vươn
cho đến được với Người, đấy là mục đích của sự sống và của mọi cuộc đời, hãy học lấy tình yêu,
đấy là bí mật của hạnh phúc, hãy học biết đau khổ, đấy là bí quyết của sự thanh lọc, của con
đường đến với ánh sáng. Nỗi đau là chị em của niềm vui, cả hai hoà tạo nên sự hài hoà, bổ sung
và làm đẹp cho nhau.
Hãy học lấy nghệ thuật tự nhận thức về mình và làm chủ những năng lực tiềm tàng và
ẩn dấu. Bằng con đường đó, ngươi sẽ khám phá ra điều bí ẩn của Vũ trụ và các động lực của nó.
Vẻ tráng lệ của công trình thần thánh sẽ bộc lộ trong chính ta và trong mọi vật".
DUY TÂN - VĨNH SAN, nhà văn
______________________
Chuyện hai vua lưu đày ở đảo Réunion
TTO - Không chịu ách bảo hộ của thực dân, vua Thành Thái phải giả điên để chuẩn bị
nổi dậy chống Pháp và rồi bị phát hiện. Đến lượt Duy Tân, vị ấu chúa yêu nước cũng bị bắt vì đã
liên kết với Việt Nam Quang Phục hội chuẩn bị nổi dậy chống Pháp. Đầu tháng 11-1916, hai vị
vua yêu nước đã bị buộc phải lên chuyến tàu Guadiana lưu đày biệt xứ tận đảo Réunion, châu
Phi…
"Mệ" Bảo Hiền, cháu nội vua Thành Thái đang dẫn đầu đám rước sang dâng hương
lên mộ vua trong lễ giỗ
Một câu chuyện về chuyến lưu đày này đã được hoàng tử Vĩnh Giu kể lại lúc còn sống:
"Hồi đó chính quyền đảo (Réunion) tổ chức đua ngựa. Tất cả có tám nài, nhưng dòng tộc vua An
Nam có đến ba nài là Vĩnh Chương, Vĩnh Khôi và Vĩnh San (Duy Tân), còn lại là người Pháp.
Sau lệnh xuất phát cả ba nài VN đều dẫn đầu và giành hết giải thưởng. Ngồi cạnh thị trưởng Saint
Dennis tôi nghe rõ mồn một câu vua cha Thành Thái nói với ông ta: "VN đã thắng Pháp rồi!". Đã
vậy anh Duy Tân từ mình ngựa nhảy xuống còn nói thêm với cha Thành Thái, nhưng cốt để cho
ngài thị trưởng nghe: "Không phải riêng gì gia đình ta, mà là cả dân tộc VN đã thắng Pháp!". Thị
trưởng nghe xong giận tím người".
Vua Thành Thái - Giấy rách giữ lề
Theo lời ông Vĩnh Giu, khi sang đến đảo, chính quyền Pháp bố trí gia đình hai cựu
hoàng là Thành Thái và Duy Tân mỗi gia đình một biệt thự cùng các khoản phí sinh hoạt khác,
nhưng với hai điều kiện: không được tự tiện ra sân bay, bến cảng và tất cả vật dụng trong nhà nếu
hư hỏng phải báo cáo với toàn quyền để thay mới. Thượng hoàng Thành Thái không chấp nhận
điều kiện trên nên chỉ ở trong hai năm, sau đó ông đưa gia đình ra ở tại một ngôi nhà gỗ rộng lớn
ở bên ngoài.
Hoàng tử út Vĩnh Cầu thì cho biết nhà vua trong mọi hành động của mình đều bất hợp
tác với Pháp. "Chú tôi (một cách gọi bố của người Huế - NV) không thích người Pháp nên ông
không cho chúng tôi đi học trường Pháp, không cho giao thiệp với trẻ em Pháp, buồn lắm. Chúng
tôi tự học chữ, đến lớp học nghề thợ nề, thợ mộc, thợ máy, chỉ chơi với người Tàu, người Chà Và,
người bản xứ".
Cựu hoàng còn đề ra một số nguyên tắc bắt buộc gia đình phải tuân theo như: dịp lễ, tết
phải mặc quốc phục, phải hành xử và noi theo một số phong tục của người Việt, và nhất là phải
giữ gìn tiếng nói dân tộc.
Các vị hoàng tử cũng cho biết khoản trợ cấp lưu đày cho vua rất ít ỏi, nhưng cựu hoàng
Thành Thái không bao giờ yêu cầu tăng thêm trợ cấp. Gia đình do đó sống rất chật vật, thậm chí
vua từng lâm vào cảnh bị đòi tiền nhà, chủ đến đòi nợ…
Để nuôi sống cả gia đình đến hơn 20 người, nhà vua đứng ra mở tiệm may yên ngựa.
Sản phẩm của vua vừa đẹp, vừa bền, lại rẻ được rất nhiều khách hàng bản xứ và người Tây tìm
mua. Ông Trần Tiễn Dương, cháu của đại thần Trần Tiễn Thành trong lần được gặp cựu hoàng tại
Réunion sau Thế chiến II, kể lại lời vua Thành Thái rằng: "(Người) Tây cứ hỏi tau yên ngựa ngài
làm bằng chi mà tốt như ri? Thì mở ra là biết ngay mà hắn không dám mở, cứ hỏi hoài, dễ ghét!".
Lễ giỗ lần thứ 54 của vua Thành Thái được Nguyễn Phước tộc tổ chức tại An Lăng -
Huế hôm 24-3-2008
Người thủ từ An Lăng (lăng ba vua Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân tại Huế) hiện là
"mệ" Nguyễn Phước Bảo Hiền - cháu nội vua Thành Thái. Ông kể về giai đoạn vua Thành Thái
vừa hồi hương: "Sau 31 năm bị lưu đày, năm 1947, nhờ sự vận động của vợ chồng bà công chúa
thứ 16 là Lương Nhàn và ông luật sư Vương Quang Nhường, Ngài được về nước và sống tại Vũng
Tàu, tôi nhiều lần từ Huế vào thăm và ở lại cùng Ngài.
Một lần, Quốc trưởng Bảo Đại cùng một vị tướng Pháp và phái đoàn Việt Nam cộng
hoà, tổng cộng khoảng 40 người đến thăm. Bảo Đại lúc ấy tặng quà và rất nhiều tiền cho đức bác,
nhưng Ngài chỉ chấp nhận nhận quà, còn tiền thì từ chối thẳng thừng. Ngài nói đại ý: "Đây không
phải là tiền của cháu mà là tiền của nhà nước, cũng tức là tiền của dân, cháu cầm về mà dùng vào
những việc có lợi cho dân!".
Đến năm 1953 Ngài mới được phép về Huế, tôi theo Ngài trong suốt một tháng trời,
Ngài đi thăm rất nhiều bà con, các vị tiền bối và con cháu của những vị công thần của triều đình
Huế ngày xưa. Vào lại miền Nam không lâu sau, vào ngày 24-3-1954, Ngài qua đời và được quốc
trưởng và con cháu dòng tộc đưa về táng tại đây (An Lăng - gần lăng mộ vua Dục Đức)".
Vua Duy Tân - Loại bỏ tạp chất trong nước
Với vua Duy Tân, từ sau khi người vợ Mai Thị Vàng không chịu được thuỷ thổ nơi đất
khách xin về nước, cựu hoàng lao vào học hành và hoạt động nhằm tìm cách thoát khỏi hòn đảo
lưu đày hòng mong về nước "lo cho dân, canh tân xứ sở, giành lại độc lập".
Tại hòn đảo tù đày này, cuộc sống của Duy Tân cũng vất vả chẳng kém vua cha. Theo
lời kể của người "vợ đầm" Fernande Antier: "Không biết nấu ăn, với số tiền trợ cấp hàng tháng
gửi từ VN sang không cho phép cựu hoàng nhờ người giúp việc. Gia đình tôi nấu cơm tháng cho
học sinh, cựu hoàng đến dùng và từ đó chúng tôi quen nhau".
Mộ vua Duy Tân tại An Lăng. Di hài của cựu hoàng Duy Tân được đưa về cải táng tại
Huế vào ngày 6-4-1987. Ảnh: THÁI LỘC
Cựu hoàng Duy Tân rất chịu khó học hành, ông theo học Pháp ngữ, Anh ngữ, học nghề
và mở cửa hiệu thiết kế vô tuyến điện để mưu sinh. Cựu hoàng cũng viết văn bằng Pháp ngữ, và
được đánh giá ở trình độ rất cao, như nhận xét của tác giả E.P Thébault trong cuốn Số mạng bi
thảm của một hoàng đế An Nam: "Vua Duy Tân am tường hoàn toàn ngôn ngữ Pháp và Ngài để
lại cho chúng ta những bức thư có lối hành văn rất thanh nhã". Nữ nhà báo Pháp Revest viết:
"Ngài tháo ráp một máy vô tuyến điện cũng dễ dàng như đọc một bài diễn văn, với một ngôn ngữ
tuyệt hảo".
Năm 1936, cựu hoàng Duy Tân gửi thư cho chính phủ Pháp đề nghị được sang sống ở
Pháp nhưng không được trả lời. Đến 1942, cựu hoàng tham gia phái kháng chiến Pháp chống phát
xít của tướng De Gaulle bằng tài năng sử dụng vô tuyến, và đã gia nhập quân đội Pháp khi
Réunion thay đổi chính quyền sang tay của tướng De Gaulle.
Tác giả Hoàng Trọng Thược, trong Hồ sơ Duy Tân, cho biết "vị nguyên thủ nước Pháp
(De Gaulle) đã quyết định đặt Ngài vào lại ngôi vị hoàng đế ở Việt Nam" tại cuộc tiếp chính thức
cựu hoàng lần đầu tiên hôm 14-12-1945.
"Tôi đã được biết một cách chắc chắn nước Pháp và Chính phủ Pháp đã thừa nhận
quyền của chúng ta được độc lập và chỉ chờ cơ hội thuận tiện là tuyên bố quyền đó" - cựu
hoàng đã ghi lại trong một quyển ghi chép. Điều này được chứng minh qua trang hồi ký của De
Gaulle: "Để đạt những cứu cánh có thể hữu ích, tôi để ngỏ một dự tính bí mật. Đó là việc cung cấp
cho cựu hoàng đế Duy Tân phương tiện để tái xuất hiện, nếu người kế vị và thân thích của ngài là
Bảo Đại tỏ ra không theo kịp thời cuộc".
Ngày 25-12-1945, trên đường từ Paris về Réunion, máy bay chở cựu hoàng Duy Tân
đâm vào núi và ông tử nạn trên bầu trời Trung Phi, và được an táng tại M'BaiKi - Cộng hoà
Centrafricaine.
Chính quyền Pháp đương thời cho dù đã mở hai cuộc điều tra và kết luận không có dấu
hiệu đây là một cuộc mưu sát, nhưng đến nay vụ tai nạn vẫn còn là nghi vấn lịch sử chưa có lời
giải đáp.
Cũng đã có rất nhiều hoài nghi về tính thuyết phục trong việc cựu hoàng Duy Tân bắt
tay với chính quyền De Gaulle với mong muốn đòi độc lập thống nhất nước nhà. Tuy nhiên nhìn
lại cuộc đời tranh đấu của cựu hoàng Duy Tân, chúng ta không thể không nhớ đến câu chuyện từ
thời ông còn trị vì, trong một lần đi nghỉ mát tại cửa Tùng (Quảng Trị): Ông hỏi: Tay bẩn lấy nước
mà rửa, thế nước bẩn lấy chi mà rửa? Rồi ấu chúa tự trả lời: Nước bẩn thì phải loại bỏ tất cả
những chất bẩn trong nước ra ngoài.
Lý tưởng ấy theo ông suốt trọn cuộc đời.
Năm 1956, cùng với hai vị vua cách mạng Hàm Nghi và Thành Thái, vua Duy Tân
được thiết án thờ tại Thế Tổ miếu - hoàng thành Huế. Ngày 6-4-1987, di hài cựu hoàng Duy Tân
được đưa về cải táng tại An Lăng - TP Huế.
THÁI LỘC
"Riêng về phần tôi, lòng yêu quê hương không cho phép tôi để ngỏ cửa cho bất cứ một
cuộc tranh chấp nội bộ nào. Điều mà tôi mong muốn là tất cả các con dân VN ý thức được rằng họ
là một quốc gia và ý thức ấy sẽ thúc đẩy họ dựng lên một nước xứng danh là quốc gia".
Trích đoạn cuối Di chúc chính trị của Vĩnh San - Duy Tân, đăng trên nhật báo Combat
của Pháp ngày 16-7-1947.
______________________
Nhà thơ Nguyễn Duy: "Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ"
Lao Động số 161, ngày 16/07/2008
Nguyễn Duy gặp bà Vĩnh San Andree Marie Gisele - con gái út của Cựu hoàng Duy
Tân - tại đảo Réunion.
(LĐ) - Câu thơ của Nguyễn Duy mở đầu cho kịch bản phim "Đi tìm dấu tích 3 vua lưu
đày" của Đài Truyền hình TPHCM tới tận các nơi vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân từng ở.
Sau chuyến đi Pháp và đảo Réunion trở về, nhà thơ Nguyễn Duy - người viết lời bình
cho bộ phim dài kỳ này - vẫn chưa hết xúc động: "Đây là câu chuyện lớn về cách hành xử của
người đời".
Cuộc hành trình vừa qua mang lại cho ông suy ngẫm gì mới?
- Ba cựu hoàng là những người đầy khí phách. Đặc biệt là Hàm Nghi, Duy Tân. Hàm
Nghi là ông hoàng hội nhập được với thế giới thượng lưu của Algeria và Pháp, rất được người địa
phương kính trọng. Ông là hoạ sĩ, nhà điêu khắc, mở triển lãm ở Paris năm 1926, được báo chí
Pháp quan tâm. Ông quen biết nhiều văn nghệ sĩ Pháp thời bấy giờ. Hai nhà văn nữ Judith Gautier
(Pháp) và Tachiana Lvovna (Nga) từng làm thơ, viết sách về ông.
Vua Duy Tân trở thành một nhà hoạt động xã hội, có khiếu về âm nhạc, văn chương.
Hai bài văn của ông được nhiều người Pháp biết đến là "Khúc biến tấu trên cây đàn lia vỡ nát"
(giải nhất văn chương cuộc thi của Viện Hàn lâm Réunion 1924) và "Tiếng nói của vạn vật" (được
phổ biến rộng rãi trong sách học tiếng Pháp kinh điển).
Ngoài ra, ông tự học về kỹ thuật radio, lắp ráp máy thu thanh… để sau này được dân
đảo Réunion nhờ lắp đặt hệ thống loa phát thông tin của Thế chiến thứ hai. Tướng De Gaulle từng
tìm gặp ông hội kiến vào năm 1945, trong chính sách đưa Duy Tân về thay Bảo Đại, nhưng không
thành. Chúng tôi chụp được những văn bản trong kho lưu trữ hải ngoại Pháp về cuộc gặp gỡ trên.
Xúc động hơn cả là cuộc viếng mộ Hàm Nghi ở miền nam nước Pháp và gặp gỡ hậu
duệ của hai ông Thành Thái, Duy Tân ở Réunion. Bên đó, hậu duệ của các ông có lập hội "Những
người bạn VN", gây quỹ từ thiện gửi về cho đồng bào.
Chúng tôi gặp được những cụ ông, cụ bà ngoài 90 tuổi gốc VN và họ đã giúp đỡ đoàn
làm phim nhiệt tình, cùng nhiều nhà sử học Pháp - những người chuyên nghiên cứu về Đông
Dương và VN. Đặc biệt, nhờ mối quan hệ của các giáo sư Việt kiều, Viện Lưu trữ hải ngoại Pháp
đã mở cửa kho tư liệu về Đông Dương cho đoàn làm phim mà không lấy tiền (ở VN, tại kho lưu
trữ quốc gia và kho tư liệu phim, mỗi phút quay phim tư liệu chúng tôi đều phải trả tiền). Trong đó
có nhiều tư liệu quý giá.
Tóm lại, chúng tôi còn tiếp tục đi tìm, có những cái đã tìm thấy, sẽ được tìm thấy và có
những cái không bao giờ tìm thấy nữa…
Vì sao lại khơi dòng lịch sử bị nghẽn - có thể tạm gọi như vậy về triều Nguyễn - vào
thời điểm này, thưa ông?
- Lịch sử có cách đi của nó. Cho đến bây giờ, nhiều người biết rằng nhà Nguyễn có
công lớn đối với nước nhà, nhưng không hiểu tại sao và từ lúc nào, lại bị biến dạng, bị hạ thấp
một cách oan sai về thang bậc giá trị lịch sử và văn hoá. Cho đến nay, đã có 10 hội thảo về nhà
Nguyễn, nhưng chỉ là hội thảo khu vực, để nhìn nhận về một góc của vấn đề lịch sử thời ấy.
Sắp tới, vào tháng 10, lần đầu tiên mới có một hội thảo quốc gia mang tính quốc tế - do
Hội Khoa học lịch sử VN phối hợp với tỉnh Thanh Hoá - tổ chức với chủ đề "Chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn", nhằm kỷ niệm 450 năm ngày Chúa Nguyễn Hoàng đi mở đất. Cùng với hội
thảo này, hy vọng bộ phim của chúng tôi có đóng góp một chút gì đó, dù rất nhỏ, xây dựng một
cái nhìn mới về nhà Nguyễn. Bởi lẽ, nếu không công tâm với lịch sử thì sẽ không thực thi được
công bằng xã hội.
Tôi đã từng đặt vấn đề này trong chùm bài "Quê nhà yêu dấu" in số Tết 2006. Trong đó
nhấn mạnh: Thu phục nhân tâm, đoàn kết dân tộc thì hãy chọn những gì tốt đẹp của cha ông mà
tôn vinh, truyền bá. Minh bạch với quá khứ là phẩm chất tối thiểu của đạo lý.
Minh Thi ghi
______________________
De Gaulle và Duy Tân
Bùi Trọng Liễu
Cập nhật : 14/03/2007 13:54
Trong bài viết về ngày 19/12/1946, tác giả Bùi Trọng Liễu đã nói tới dự định của tướng
De Gaulle đưa ông Vĩnh San (cựu hoàng Duy Tân) về Việt Nam. Dưới đây, Diễn Đàn xin giới
thiệu bài viết của tác giả về câu chuyện ấy. Toàn văn bài này đã được công bố trong cuốn "Tự sự
cuả người xa quê hương" (Chuyện gia đình và ngoài đời), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.
Trước đó, một phần đã được đăng trên Đoàn Kết số 397, 1987, và Tổ Quốc, 4-1988 dưới bút hiệu
H.B.
Nhân việc đưa hài cốt cựu hoàng Duy Tân về nước
Bùi Trọng Liễu
Tháng tư 1987, báo chí ở Việt Nam đăng tin đưa hài cốt cựu hoàng Duy Tân về nước
chôn tại lăng xây ở Huế (2). Những người Việt Nam lớn tuổi hẳn còn nhớ biến cố xảy ra năm 1916.
Nhưng dù ở lớp tuổi nào, không chắc mấy ai đã rõ những sự việc xảy ra năm 1945. Trong bài này,
tôi xin chỉ nhắc lướt qua về sự việc năm 1916 vì đã có nhiều sách báo viết về việc này, mà chủ yếu
là nói đến những sự việc thuộc "đoạn sau", qua những tài liệu mà tôi được đọc.
Vua đầu tiên, Dục Đức, vừa được đặt lên ngai vàng ba ngày, đã bị hạ bệ và tống giam,
bỏ đói đến chết trong ngục tối. Thi hài ông được cuốn vào một manh chiếu, giao hai người khiêng
đi chôn. Giữa đường, dây quang đứt, nhà vua xấu số được chôn ngay tại chỗ.
Địa điểm nấm mồ “thiên táng” bên đường ấy, 17 năm sau, đã trở thành An Lăng bây
giờ. Nhờ một cơ hội lịch sử hy hữu và bất ngờ, sáu năm sau khi vua Dục Đức qua đời, con trai
ông bỗng được nhấc lên ngai vàng, lấy hiệu là Thành Thái. Và đến năm Thành Thái thứ 11, khu
lăng mộ An Lăng của vua cha được xây cất như ngày nay.
Nhưng rồi cuộc đời vua con Thành Thái cũng chẳng suôn sẻ gì. Là một con người
thông minh, có lòng yêu nước và gần gũi dân chúng, ông sớm tỏ ra không cam chịu làm hoàng đế
phục vụ ngoại bang, luôn tìm cách chống đối, bất phục tùng. Mười tám năm sau, năm 1907, chính
quyền thực dân Pháp không thể chịu đựng lâu hơn nữa đã kiếm cớ ép ông thoái vị và đưa đi an trí
ở Ô Cấp (Vũng Tàu ngày nay).
Nối gót vua cha, lên ngôi vào năm 1907, vua Duy Tân chống Pháp còn mạnh mẽ hơn.
Năm 1916, nhà vua cùng Thái Phiên và Trần Cao Vân tham gia cuộc khởi nghĩa không thành, bị
Pháp bắt. Thế rồi năm đó, cả hai cha con, hai vị vua chỉ vì tội “yêu nước thương nòi”, đã cùng bị
dẫn xuống tàu lênh đênh biển cả, đày đến tận đảo quốc Réunion Phi châu xa xôi. Hai cha con cùng
sống ở đó ba mươi năm trường trong nỗi u hoài cố quốc.
Dục Đức - Thành Thái - Duy Tân quả là một dòng vua có số phận bi thảm nhất trong
toàn bộ triều đại nhà Nguyễn.
Riêng vua Thành Thái và vua Duy Tân, dù sao, cũng được phần nào an ủi, khi kết thúc
cuộc đời, hai vị được về nằm cạnh nhau trong lòng đất quê hương, trong vòng tay ấm áp của Tổ
quốc, trong trái tim kính trọng và ngưỡng mộ của mọi con dân Việt Nam.
…Sứ mệnh lịch sử dân tộc giao cho hậu thế chúng ta biết nhận ra trong bức tranh thời
đại đầy biến động và phức tạp ấy những điểm tối, sáng đan xen nhau. Đan xen giữa những vị
hoàng đế công trạng khác nhau, thậm chí tương phản nhau đối với dân tộc. Đan xen mặt tốt và
mặt xấu, công lao và tội lỗi trong cả bản thân một nhân vật lịch sử.…Quá khứ chờ đợi thế hệ đang
sống một sự cư xử công bằng.
Vỡ lòng hai chữ “yêu nước”…
Ở Huế, vẫn còn truyền tụng những câu chuyện mang màu sắc huyền thoại, nhiều câu
hò, bài vè về hai vị vua yêu nước Duy Tân, Thành Thái.
Thế hệ chúng tôi cũng đã từng lớn lên trong tiếng ru:
“Đứng trước Văn Lâu
Ai ngồi ai câu
Ai sầu ai thảm
Ai thương ai cảm
Ai nhớ ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy động lòng nước non.
Lời ru day dứt và thương xót một nhà vua trẻ luôn u hoài với đất nước đang trong cảnh
nô lệ.
Và vẫn nhớ những câu đối thoại (hỏi và tự trả lời) đặc sắc của vua Duy Tân: Hỏi: Tay
nhớp (bẩn) lấy nước mà rửa. Nước nhớp lấy chi mà rửa?. Trả lời: Lấy máu (gươm) mà rửa!”. Khí
phách một Duy Tân tuổi trẻ mà chí lớn ấy đã từng lay động tâm can các lớp thanh niên con cháu.
Những lời ru, những câu chuyện kể về các vị vua ái quốc Duy Tân, Thành Thái tự lúc nào đã thấm
sâu vào tâm hồn non trẻ thế hệ chúng tôi hai chữ “yêu nước”.
Về cựu hoàng Thành Thái, nhiều người lứa tuổi chúng tôi ở Huế còn nhớ một sự kiện,
trước khi qua đời một năm, năm 1953, ông được phép từ Sài Gòn ra Huế, về An Lăng thăm mộ
thân phụ, thân mẫu. Nhiều học sinh thời đó, trong đó có học sinh Trường trung học Khải
Định chúng tôi (tức Trường Quốc học bây giờ) khi biết được tin này đã rủ nhau đi đón vị cựu
hoàng yêu nước, tỏ lòng ngưỡng mộ và tôn kính, dù biết rằng xung quanh không ít những con mắt
lính tráng và mật thám Pháp.
Sự xuất hiện của cựu hoàng Thành Thái như hâm nóng thêm tinh thần chống đối chế độ
thực dân và hướng về kháng chiến trong tầng lớp thanh niên học sinh yêu nước đất cố đô. Giữa
lúc đó, bao nhiêu cảnh bất bình hàng ngày diễn ra, lính Pháp chiếm nhà thờ và trường học làm đồn
bốt và nhà tù, đốt phá nhà cửa và làng xóm, bắt bớ và bắn giết nhiều người ruột thịt và đồng bào
mình. Trong trường, thỉnh thoảng bùng lên một số bài giảng của các vị thầy đáng kính: Tôn Thất
Dương Kỵ, Nguyễn Hữu Ba v.v… ẩn chứa lòng yêu nước, thổi thêm ngọn lửa “lên đàng” trong
trái tim của nhiều học sinh thành phố.
Họ càng sôi sục khi nghe tin một số bạn bè bị bắt bớ, tra tấn và náo nức khi biết được
một vài nhóm học sinh nữa lại lặng lẽ rời xa mái trường, theo “tiếng gọi thiêng” đi lên chiến khu.
Rồi Hiệp định Geneve 1954 ký kết, đất nước chia làm hai miền. Nhiều học sinh thuộc
lứa tuổi chúng tôi theo sự hưóng dẫn của tổ chức, từng tốp nhanh chóng rời thành phố, theo nhiều
ngả khác nhau đi ra phía bắc, đến nơi không còn bóng ngoại xâm, để học hành, may mắn được hít
thở không khí hoà bình, độc lập.
Ngót mấy mươi năm phiêu bạt, tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc còn có cơ hội trở về
thành phố quê hương, nơi đã lớn lên và ra đi. May mắn thăm lại An Lăng, được đứng trước mộ
phần các vị vua yêu nước Thành Thái và Duy Tân, cúi đầu thầm nói lời biết ơn các bậc “tiền
nhân”, những người đã lưu cho hậu thế bài học vỡ lòng đầu đời quí giá, bài học về lòng yêu nước.
Công bằng với quá khứ
Trở lại cố đô, thăm các đền đài lăng tẩm, với nhiều người cũng là một dịp để đối diện
với quá khứ và suy ngẫm về những ứng xử của thế hệ hôm nay. Với tôi, điều day dứt và mong mỏi
nhất là về các vị vua yêu nước Thành Thái và Duy Tân.
Qua nhiều năm tháng và đời người, trong con tim mỗi người dân cố đô, những con
người Việt Nam vẫn khắc sâu niềm sùng kính đối với hai vị.
Bởi vậy, khó tránh được sự chạnh lòng, bâng khuâng khi đứng trước ngôi mộ đơn sơ,
vắng lạnh của các vị ở An Lăng. Càng không bình an trong lòng khi các di tích trong, ngoài thành
phố Huế đã và đang được tiếp tục trùng tu, nhưng những nơi này vẫn còn ít bàn tay chăm lo, tôn
tạo.
Mộ vua Thành Thái. Ảnh: Thuỷ Tiên
Khi viết bài này, tôi vẫn băn khoăn biết đâu bây giờ trong ấy đã đổi thay. Liền gọi điện
bảo đứa cháu đang ở Huế, đến ngay An Lăng chụp mấy tấm hình gửi ra. Nhưng qua những tấm
hình mới nguyên, tình hình chưa có gì đổi khác. Những nấm mộ các cựu hoàng Thành Thái và
Duy Tân vẫn vậy. Cổng vào thăm mộ hai vị vẫn đóng chặt và vắng bóng người. Một mái hiên rách
xệ chưa ai sửa lại v.v…
Có phải một dự án tôn tạo đã có, nhưng vẫn chưa được bắt đầu? Chắc ai cũng mong
sớm được thấy sự “bắt đầu” này. Dĩ nhiên, không ai lại ảo tưởng một ngày nào đó lăng mộ hai vị
vua yêu nước sẽ cũng bề thế hoành tráng như các vị vua tiền bối khác. Đây là chuyện không công
bằng của số phận, của lịch sử, thế hệ chúng ta không thể làm gì khác.
Chỉ mong một điều giản dị hơn, thế hệ đang sống săn sóc, chăm chút để khu lăng mộ
của hai vị vua Thành Thái và Duy Tân đàng hoàng hơn, xứng đáng với vị trí của các vị trong lịch
sử, đáp ứng sự thành kính của lòng người dân Việt Nam. Các cấp quản lý nên tạo thuận lợi để
người dân có thể thăm viếng, tỏ lòng tri ân các bậc tiền bối và ôn lại bài học làm người Việt Nam,
không bao giờ xưa cũ.
Ông Vĩnh Giu cùng Bảo Bời (phải) và 2 chắt ngoại, tháng 2-2006. Ảnh: SN
Sau bài “Gặp Hoàng tử cuối cùng của vua Thành Thái” kể về ông Nguyễn Phước Vĩnh
Giu đang sống ở Cần Thơ, Nhiều bạn đọc muốn biết thêm cuộc sống của ông trong thời gian theo
vua Thành Thái sang đảo Réunion của Pháp. Tiền Phong sẽ cố gắng phác họa thêm những nét đời
của vị Hoàng tử triều Nguyễn.
Một buổi sáng giữa tháng 2-2006, tôi trở lại nhà ông. Quãng 10 giờ ông đi tập thể dục,
uống cà phê với bạn già trong xóm mới về. Quần âu, áo sơ mi nịt gọn ghẽ, ông thay dép bằng đôi
giày đen rồi mới trịnh trọng ngồi tiếp khách.
Tôi nhắc lại sự gần gũi, thương dân của vua Thành Thái. Năm 1904 còn trên ngai vàng,
vua Thành Thái đi thăm đồng bào bị mất mùa ở Thanh Hóa, thương dân vô hạn đã làm bài thơ chữ
Hán, tạm dịch:
Văn võ xênh xang áo cẩm bào/Riêng phần trẫm nặng gánh gian lao/Ba ly rượu ngọt
dân hòa máu/Một chén trà thơm nước đúc cao/Giọt lệ trời sa người sướt mướt/Khúc ca vang lẫn
tiếng kêu gào/Thương nòi xót giống trông ai đó/Thời buổi can qua biết nói sao.
Vì thương dân, bài Pháp mà năm 1916 vua Thành Thái bị đày sang đảo Réunion. Tôi
hỏi ông Vĩnh Giu: “Vợ con vua Thành Thái có những ai đi theo?”.
Ông Vĩnh Giu trả lời: “Có 2 người vợ là chị em ruột, bà Gia Triệu, bà Chí Lạc cùng 3
người con của 2 bà. Lên đảo, 2 bà sinh thêm 9 người con nữa. Tôi được sinh ra ở đảo năm 1922.
Ở đây chưa kể đoàn của vua Duy Tân là anh tôi, cũng bị đày sang đảo Réunion”.
Tìm hiểu vấn đề những ai theo vua Thành Thái về nước năm 1947? Ông Vĩnh Giu cho
biết: “Những người con sinh ở Việt Nam thì ở lại đảo còn những người sinh ở đảo đều theo vua
cha Thành Thái về nước”.
Ông Vĩnh Giu cho tôi xem mấy tấm ảnh về những người cháu gọi ông bằng chú hiện
đang sống trên đảo: Con gái của ông Vĩnh Chương (ông Vĩnh Chương ở lại đảo).
Lúc đầu tôi hiểu, những người ở lại đảo do có vợ, chồng, con cái đề huề, thế nhưng gợi
chuyện ông Vĩnh Giu thì lại biết nhiều người về nước theo vua Thành Thái cũng đã có vợ, chồng,
con trên đảo. Tôi hỏi ông Vĩnh Giu, ông cười: “Tôi cũng có 2 con trên đảo”.
Người yêu của ông Vĩnh Giu là cô gái gốc Pakistan, tên Magaritte Morugama, nhân
viên kế toán của một Cty xuất nhập khẩu có trụ sở đối diện với nhà của ông.
Họ yêu nhau say đắm và sinh được 2 con trai vào năm 1944, 1946. Nhưng tình duyên
của họ không được vua Thành Thái chấp nhận (vua Thành Thái ghét Tây) nên khi về Việt Nam,
ông Vĩnh Giu không được đưa theo.
Vua Thành Thái rất nghiêm khắc. Ở đảo xa lạ song con cái sinh ra đều được dạy tiếng
Việt chu đáo và trong nhà chỉ nói tiếng Việt. Khi mới sang đảo, chính quyền Pháp bố trí cho vua
Thành Thái và vua Duy Tân mỗi người một ngôi biệt thự, chu cấp chi phí sinh hoạt đầy đủ.
Tuy nhiên, có 2 điều kiện: Không được tự tiện ra sân bay, bến cảng và vật dụng trong
nhà hư hỏng phải giữ lại báo cáo để đổi thứ mới. Vua Thành Thái không chấp nhận nên ở được 2
năm, ông mướn một trang trại có căn nhà gỗ rộng lớn, đưa gia đình ra ở.
Ảnh: Vua Thành Thái bế Nguyễn Phước Bảo Bời, con trai của ông Vĩnh Giu, lúc mới
sinh năm 1951 (chụp lại ảnh tư liệu gia đình)
Ông Vĩnh Giu sinh ra trong căn nhà gỗ này, tình yêu với cô kế toán diễn ra trước cổng
căn nhà gỗ. Lúc nhỏ, ông theo anh trai đi học chữ ở trường dòng (con cháu hoàng tộc nhưng từ
đời ông Vĩnh Giu về sau lại theo đạo Thiên Chúa), lớn lên sang cơ quan công chánh học nghề và
đã hành nghề cầu đường trên đảo.
Anh em ông là những trang công tử khỏe mạnh, gan góc, từng lập chuồng nuôi ngựa và
tham gia đua ngựa có bận cả 3 anh em cùng thắng giòn giã. 21 tuổi các ông mới được vua Thành
Thái cho phép tự do ra ngoài và viết thư hẹn hò yêu đương và các ông đã làm nhiều cô gái trên
đảo say mê.
Tình yêu trên đảo Réunion của ông Vĩnh Giu phải vượt qua nhiều khó khăn. Trong nhà
không được vua cha chấp thuận, ngoài xã hội bị nhiều kẻ cản ngăn. Nhất là ở Cty lại có anh kế
toán trưởng đang theo đuổi cô Magaritte Morugama. Anh này người Trung Quốc và có lần đã
mướn một tay dao búa tính trừ khử ông. Ông Vĩnh Giu nhớ lại nói: “Nhờ cái kìm lò rèn mà tôi
thoát chết”.
Kẻ được thuê giết ông Vĩnh Giu, không úp mở gì, nhắn đến ông: Buổi sáng ấy, nếu đi
làm qua ngã tư quen thuộc ấy sẽ không còn đường trở về! Ông Vĩnh Giu rất lo song lại không thể
tránh bởi tránh một buổi chứ đâu tránh được quanh năm.
Lòng tự trọng cũng thôi thúc, ông kiếm một cái kìm của thợ rèn dùng gắp sắt trong lò
có cán dài làm vũ khí tự vệ và giắt vào lưng. Chuẩn bị ra đi thì trời đổ mưa, ông khoác ni lông lên
người, trùm cả cây kìm.
Từ xa, ông đã thấy tay dao búa đứng đợi. Ông trấn tĩnh bước tới rồi đi qua ngã tư…êm
ru. Tay dao búa không động thủ. Về sau, ông mới biết là cái kìm lò rèn đội áo mưa sau lưng khiến
tên kia ngỡ ông có súng nên không dám ra tay.
Ảnh: Con gái út của ông Vĩnh Chương, cô Gisèle (trái) cùng 2 con gái là Evelyne và
Nagali hiện sống trên đảo Réunion (chụp lại ảnh tư liệu gia đình)
Ông về nước, năm 1958 nhận được thư của con trai đầu Augrustin báo tin mẹ và em
trai cậu đã qua đời. Lúc đó, ông còn khá giả, muốn gửi ít tiền sang cho con nhưng chế độ Diệm
không cho, bảo là chưa thiết lập bang giao. Cũng từ đó, ông bặt tin con.
Trong câu chuyện, mỗi lần nhắc đến 2 chữ “lưu đày”, ông Vĩnh Giu lại giải thích: “Lưu
đày nhà vua, để cắt đứt liên hệ giữa vua Thành Thái với dân, còn điều kiện sinh sống vẫn được
bảo đảm đầy đủ.
Đảo Réunion là nơi lưu đày nhiều nhà yêu nước trong khối thuộc địa của Pháp, đảo chỉ
có nửa triệu dân mà còn có vua Ma Rốc và vua một số nước khác.
Năm 1947, gia đình chúng tôi về nước bằng tàu thủy, mười mấy người ở phòng thượng
hạng có bác sỹ chăm sóc, ăn uống dùng ly chén bằng bạc. Chuyến đi đúng một tháng”.
Về nước, từ tháng 6-1948 đến tháng 7-1949, ông Vĩnh Giu được Pháp bố trí làm phó
giám thị một nhà tù giam chính trị phạm ở Vũng Tàu. Ông làm nhiều việc nới lỏng chế độ hà khắc
giúp cho tù nhân đỡ khổ.
Với tù nhân nữ, ông cho tắm ngày 2 lần và mở cửa thông gió phòng giam. Với tù nhân
biết tiếng Pháp, ông đưa lên làm việc ở văn phòng và những người này đã tổ chức liên lạc, tiếp tế
rất tốt cho cả trại tù.
Chỉ một năm, thực dân Pháp phát hiện việc làm của ông, lập tức đưa ông xuống Cần
Thơ. Năm 1950 ông cưới vợ ở Cần Thơ, từ đó ít nhắc đến đảo Réunion, cho đến nay nếu không có
báo chí gợi lại.
Nguyễn Phước Bảo Bời cho biết: Không phải ai hỏi chuyện ông cũng kể. Có người hỏi
ông có cần giúp đỡ gì không, ông vẫn im lặng. Ai thương ông già cả, bệnh tật, giúp đỡ thì ông
nhận còn ông không xin xỏ, “đề xuất, kiến nghị”.
Trong câu chuyện với tôi, ông Vĩnh Giu đặc biệt tỏ lòng kính trọng, biết ơn nguyên
Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Khi nghe tin “Hoàng tử ở xóm nghèo”, nguyên Thủ tướng đến thăm
ngay, đến sáng sớm và chờ ông Vĩnh Giu đi tập thể dục về.
Ông Vĩnh Giu kể: “Có người không hiểu tại sao ông Kiệt đến thăm tôi? Họ không biết
lãnh đạo là chăn dân, mà chăn dân thì trước hết phải lo ăn lo ở cho dân.
Ông Kiệt trò chuyện, biết hoàn cảnh của tôi liền bảo phải lo thêm chỗ ở để đưa bớt con
cháu ra khỏi nơi chật chội và tôi mới được mua rẻ một căn nhà”.
Tôi hỏi: “Khi gặp ông, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói câu gì đầu tiên?”. Ông Vĩnh
Giu vui vẻ: “Bắt tay tôi, ông Kiệt nói ngay: Chuyện cũ bỏ qua hết đi!”.
Cần Thơ tháng 2-2006.
Ông Nguyễn Phước Vĩnh Giu tha thiết nói: Họ của ông chính xác là Nguyễn Phước,
nhưng trong nhiều sách báo, kể cả sách lịch sử lại viết Nguyễn Phúc. Tuy Phước và Phúc có một
nghĩa, song viết không đúng như thế đã gây cho ông nhiều khó khăn trong quan hệ, nhất là những
việc liên quan đến giấy tờ đòi hỏi tính pháp lý chặt chẽ. Gia đình ông có số điện thọai:
071.812430.
Sáu Nghệ
______________________
Chuyện con vua Thành Thái ở Cần Thơ
Các anh em của vua Thành Thái và các ông thầy (phụ đạo) .
Thành Thái lên ngôi khi mới 10 tuổi theo dụng ý của thực dân Pháp. Tuy nhiên, vị
hoàng đế còn ấu thơ trước sau vẫn một lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần kháng Pháp quyết liệt.
Những năm tháng bị lưu đày
Trong cuộc chiến không cân sức với Pháp, vua Thành Thái bị phế truất với lý do “tâm
thần”, bị đày trên đảo Réunion ở châu Phi từ năm 1916 đến năm 1947. Trong chuyến đi định
mệnh ấy, cùng chấp nhận thân phận với ông có 2 phi tần, cũng là chị em ruột tuổi đôi mươi, đó là:
hoàng phi Giai Triệu và hoàng phi Chí Lạc.
Hoàng phi Chí Lạc có nhũ danh là Hồ Thị Mừng được vua Thành Thái sủng ái nhất bởi
sự chung thủy, tận tụy và cam chịu của người con gái xứ Huế gia giáo. Bà đã hạ sinh cho ông 9
người con là: Vĩnh Lưu, Lương Mỹ, Vĩnh Quỳnh, Lương Hảo, Vĩnh Khôi, Lương Thâm, Vĩnh
Giu, Vĩnh Cần và Lương Cầm.
Những người con ấy tuy được liệt vào hàng hoàng thân, nhưng chưa lần nào có diễm
phúc được sống trong nhung lụa của hoàng cung. Tuổi ấu thơ của họ đã qua đi với những người
bạn không cùng chủng tộc trên hòn đảo châu Phi xa lạ.
Nhằm hướng những đứa con xa xứ về cội nguồn, bà Chí Lạc đã trực tiếp dạy tiếng
Việt, chữ Việt cho con, dạy cả những nhạc cụ của dân tộc như đàn cò, sáo. Bà Chí Lạc là người
trực tiếp đảm nhận vai trò đầu bếp cho cả gia đình trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi phương tiện.
Dù cuộc sống rất khó khăn, vua Thành Thái vẫn giáo dục con cái một cách nghiêm
khắc. Ông dạy các con rằng: “Chúng ta sống đừng đòi hỏi cho mình rồi khinh chê người. Hãy
sống thật với mình đừng phô trương và tự đắc. Rồi người đời sẽ đánh giá mình một cách công
minh”.
Ông đã tự phân công cho tất cả những người con từ nhỏ đến lớn đảm nhận công việc
trong gia đình. Các chị Lương Mỹ, Lương Hảo phụ mẹ việc bếp núc. Vĩnh Quỳnh lo vườn tược;
Vĩnh Khôi làm cận vệ cho ông, Vĩnh Giu đảm nhận lo phần trầu cau, điểm tâm sáng; Lương
Thâm, Vĩnh Cầu, Lương Cầm phụ dọn dẹp nhà cửa...
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chịu áp lực của nhân dân, đặc biệt sự vận
động không mệt mỏi của vợ chồng luật sư Vương Quang Nhường (con gái và con rể cựu hoàng
Thành Thái), thực dân Pháp phải buông tha cho cựu hoàng Thành Thái.
Đầu tháng 5-1947, toàn bộ gia quyến của cựu hoàng đã trở về Việt Nam và được an trí
tại Villa Anna - Cap Saint Jacques (Vũng Tàu) với sự giám sát tầm xa của chính quyền bảo hộ.
Hồi ức của hoàng tử Vĩnh Giu
Hoàng tử Vĩnh Giu ngụ trong con hẻm 166 đường Phan Đình Phùng (phường An Lạc,
Ninh Kiều, TP Cần Thơ). Căn nhà nhỏ với diện tích 2,5 x 10 m là nơi sinh sống của một vị hoàng
tử, con của nhà vua yêu nước Thành Thái. Tiếp chúng tôi trong một căn phòng hẹp và tối, ông cố
nhớ lại những quãng đời đã được chôn vùi trong lớp bụi thời gian...
“Tôi sinh năm 1922 tại số nhà 92, một căn nhà thuê ở Saint Denis, đảo Réunion. Ba tôi
khi đến đảo đã từ chối sự ban ơn của Pháp là được ở trong một villa sang trọng, ông chỉ chấp nhận
ở trong một căn nhà thuê của một người dân sống tại đó.
Đây là năm sinh thật của tôi được ba tôi ghi chép gửi về Tôn Nhơn phủ. Riêng với chế
độ thực dân, ông lại khai rằng tôi sinh ngày 3-12-1924. Tôi lớn lên với chúng bạn toàn người Phi,
nói toàn tiếng Pháp, nhưng khi về nhà thì ba má tôi lại buộc nói tiếng Việt.
Tôi được ba tôi cho học trong một chủng viện Thiên Chúa giáo tên là Saint Denis dành
cho người nghèo và người bản địa. Về nhà, má tôi ngoài việc bếp núc còn đảm nhận vai trò cô
giáo dạy anh chị em tôi học chữ Việt và học nhạc.
Ba má tôi rất đông con, hồi trước khi đi đày má tôi đã có 3 người con. Anh thứ nhất của
tôi không đi theo vì má tôi mới sinh thì ông bà ngoại nhận về nuôi. Sau anh tôi lớn lên đi theo
cách mạng, hiện có một người con trai là Bảo Phối đang sống ở Huế. Ba tôi được đưa đi an trí ở
Vũng Tàu thì má tôi cũng vừa kịp sinh thêm hai người con.
Ở đảo, má tôi sinh được 7 người con nữa, trong đó có tôi. Ở nhà, ba tôi luôn hướng
chúng tôi vào công việc, mỗi người đảm nhận một nhiệm vụ khác nhau tùy thuộc vào lứa tuổi. Tôi
được giao cho nhiệm vụ lo bữa ăn sáng và tìm nguồn trầu cau cho ông.
Chuyện thức ăn sáng tuy vất vả nhưng có thể lo được, còn tìm ra lá trầu là chuyện vô
cùng khó khăn. Ở đảo Réunion, chỉ có vài hộ gia đình trồng trầu làm kiểng, tôi đến đó và liên hệ
với họ để mua. Những lúc họ không bán, tôi phải vào rừng, leo lên núi cao để hái trầu hoang về
cho ba tôi.
Thói quen của ba tôi là đi đâu ông tính thời gian bằng miếng trầu têm, chẳng hạn khi
đến chơi với một người bạn, ông bảo tôi têm cho 4 miếng trầu, dùng hết 4 miếng là ông về. Ở đảo
không có cau, má tôi phải nhờ người ở Huế mua cau khô gửi sang.
Khi tôi vừa tròn 12 tuổi, một hôm cùng ba má đi dạo, ba tôi cầm tay tôi nói: “Một ngày
nào đó khi trở lại Việt Nam, con sẽ đi trên những con đường quê hương, sẽ đọc thấy những con
đường mang tên Thành Thái, Duy Tân, dù hôm nay con vẫn chưa biết Thành Thái và Duy Tân là
ai. Rồi lịch sử và nhân dân sẽ ghi nhận và chứng minh cho con biết”. Đến khi trưởng thành, tôi
mới biết ba tôi là vua Thành Thái và anh tôi là vua Duy Tân, cả hai người đều bị lưu đày trên đảo
Réunion này.
Khi tôi chuẩn bị đi thực tập thì nhận được tin chính quyền bảo hộ cho gia đình tôi trở
về Việt Nam bằng tàu thủy. Tôi sống chung với ba má được 3 năm thì chính quyền bảo hộ đề nghị
ba má cho phép tôi làm việc phụ tá cảnh sát trưởng Vũng Tàu.
Ngày tôi đi làm, ba căn dặn: “Con đừng bao giờ cộng tác với Pháp và chính quyền bù
nhìn. Chế độ ấy không do dân lập ra, nó chỉ do bên ngoại quốc dựng nên, thế nào rồi cũng sụp đổ,
đừng bao giờ can dự”. Tôi vào làm được vài hôm, sau đó bị chuyển về làm cai ngục tại nhà giam
Vũng Tàu, chuyên quản lý các phạm nhân hoạt động chính trị.
Tôi rất ngưỡng mộ những người có tinh thần chống Pháp nên đã đề nghị cho phép hai
phạm nhân được phụ với tôi trong việc quản lý vấn đề ăn uống. Với những phạm nhân chính trị
nữ, tôi đã đấu tranh cho phép họ được tắm một ngày một lần và được ăn uống tốt hơn.
Năm 1949, tôi bị đưa xuống tận miệt Vị Thanh, Hỏa Lựu, Kinh Một Ngàn, tham gia
đội cầu đường của khu Nam Công Chánh, Cần Thơ. Mục tiêu của chế độ tay sai là muốn nhờ tay
cách mạng hoặc các đảng phái khác giết tôi, không thì ở vùng chướng khí, muỗi mòng, dịch bệnh,
tôi cũng khó bảo toàn được tính mạng.
Nhưng mọi chuyện đã không như bọn chúng tính, tôi vẫn làm việc an toàn với sự đùm
bọc của nhân dân, những chiến sĩ cách mạng và trở về Cần Thơ bình yên. Tại Cần Thơ, tôi tiếp tục
làm việc trong ngành công chánh và sống tại khu tập thể chung cư Công Chánh (nay là chung cư
Ngô Hữu Hạnh).
Đến năm 1951, tôi chính thức kết hôn với bạn cùng nghề là Lý Ngọc Hoa. Chúng tôi
sinh được 7 người con là Thanh Cát, Bảo Bồi, Bảo Thọ, Bảo Cao, Bảo Lộc, Bảo Hoàng và Bảo
Tài. Tưởng cuộc sống đã bình yên, nhưng chính quyền bảo hộ luôn tìm cách gây khó khăn để rồi
con tôi không ai được học hành đến nơi đến chốn.
Để có tiền nuôi con, ngoài giờ làm việc, ban đêm tôi đến các quán bar chơi nhạc kiếm
tiền. Năm 1975, cả gia đình tôi về sống nhờ căn nhà chật hẹp của mẹ vợ tôi ở hẻm 166 Phan Đình
Phùng cho đến nay cùng 7 người con và chục đứa cháu”.
Những hoàng thân chạy... xe ôm
Anh là hoàng thân Nguyễn Phúc Bảo Thọ, con thứ 3 của hoàng tử Vĩnh Giu. Trong căn
nhà nhỏ hẹp có đến gần 20 nhân khẩu, chỉ trừ Bảo Bồi là có việc làm ổn định và ra ở riêng, còn lại
đều hành nghề... chạy xe ôm.
Anh Bảo Hoàng tâm sự: “Nhà khó khăn lắm, các anh em không có việc làm ổn định,
đều chọn nghề chạy xe ôm làm phương tiện kiếm sống. Ai cũng chỉ mơ ước có một chiếc xe chạy
cho đàng hoàng vì gần như 5 anh em đều phải đi thuê xe để về chạy, khổ lắm”.
Tôi đặt câu hỏi: “Nghe nói nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt có đến thăm và hứa sẽ tác
động với tỉnh Cần Thơ về trường hợp khó khăn của gia đình, vậy đến bây giờ gia đình đã nhận
được chế độ nào chưa?”.
Anh Bảo Bồi buồn buồn đáp: “Có gì đâu, chúng tôi vẫn đang chờ. Tôi nóng lòng nên
xin ba tôi làm đơn gửi lên Cty nhà đất để giúp đỡ. Anh Châu - Giám đốc Cty - vì đồng cảm với
khó khăn của gia đình nên đã đồng ý bán một căn nhà tái định cư theo diện chính sách với giá là
100 triệu đồng, trả nhiều lần. Vợ chồng tôi đã dành dụm được 20 triệu đồng để tổ chức đám cưới
cho con trai, nhưng đành hoãn lại, lấy tiền đóng tiền nhà, hiện vẫn còn nợ 80 triệu đồng...”.
Chiều Tây Đô tắt nắng, tôi về lại nhà nghỉ, vẫn thấy hoàng thân Bảo Thọ đang kiên
nhẫn ngồi trên chiếc xe gắn máy cũ kỹ luôn miệng mời khách đi xe. Phía bên kia đường Phan
Đình Phùng có một ông già 85 tuổi đang hai tay lần mò đường vào hẻm 166 với những bước đi
nhẫn nại, dò tìm.
Có phải ai cũng nhận ra rằng con người có những bước đi lững thững ấy là chứng nhân
của một thời kỳ lịch sử, hậu duệ của một vị vua yêu nước chống Pháp đã chịu nhiều thiệt thòi, giờ
chỉ còn là một người lao động nghèo giữa lòng thành phố đang vươn mình bắt nhịp với cuộc sống
hiện đại.
Lịch sử luôn công minh trong việc phán xét, nhưng trước mắt thiết nghĩ chúng ta cần
có một tấm lòng đối với những hậu duệ còn lại của nhà vua yêu nước như Thành Thái. Âu đó
cũng là nét đẹp nhân bản của dân tộc ta!
Theo DNSG cuối tuần
______________________
Vua Duy Tân với mối tình dang dở
Tác giả: Võ Thu Tịnh
1. Vua Duy Tân với mối tình dang dở
Vua Duy Tân là một anh hùng cứu quốc của dân tộc ta. Trong lịch sử đông tây kim cổ
chưa thấy có một vị vua nào trẻ tuổi, bỗng hy sinh ngai vàng bệ ngọc để dấn thân vào một cuộc
khởi nghĩa giải phóng đất nước như vua Duy Tân. Mà cũng ít khi thấy một loạt có ba vị vua liên
tiếp nhau, trong vòng ba chục năm (1885 đến 1916), nổi lên chống đuổi xâm lăng để nhận lấy
cảnh lưu đày khổ nhục như các vua Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân nước ta!
Thế mà sự nghiệp của các vị vua này, nói chung, của Duy Tân cũng như mối tình dang
dở của nhà vua nói riêng, lại không được mấy người biết đến. Có lẽ một phần, cũng vì những tài
liệu liên quan đến "cách mạng" trong thời ngoại thuộc đều bị tiêu huỷ, không ai dám tàng trử.
Chỉ gần đây Hoàng Trọng Thược, trong Hồ sơ vua Duy Tân, đã dày công sưu khảo,
đưa ra ánh sáng một giai đoạn đen tối của nước ta mà các sách lịch sử chỉ nói phớt qua hoặc
không hề đá động đến. Chúng tôi hết sức tán thành ý kiến của giáo sư Nguyễn Xuân Vinh (bút
hiệu Toàn Phong) được dẫn ra trong bài tựa của Hồ sơ vua Duy Tân:
"Lần đầu tiên chúng ta có một hồ sơ đầy đủ về vua Duy Tân. Phải quảng bá sự sưu tầm
của ông Thược đến đại chúng".
Bối cảnh lịch sử
Năm 1885, Bắc kỳ bị Pháp đánh chiếm. Trong triều Huế, các quan chia thành hai phe:
phe chủ hoà có Trần Tiển Thành và Nguyễn Hữu Độ, phe chủ chiến có Tôn Thất Thuyết và
Nguyễn Văn Tường. Nguyễn Văn Tường ra mặt ngoại giao khéo léo với Pháp để Tôn Thất Thuyết
ngầm huy động toàn dân kháng chiến. Với danh nghĩa phụ chính, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn
Văn Tường nắm hết quyền hành, triệt hạ những người chủ hoà.
Trước đó, vua Kiến Phúc mất (ngày 7 tháng 4 năm Giáp Thân - 1884), em là Hàm Nghi
12 tuổi kế ngôi, Khâm sứ Pháp tại Huế là Rheinart trách cứ triều đình ta sao không xin phép nước
Pháp. Đại tá Guerrier đem 600 quân cùng một đội pháo binh, từ Bắc vào Huế để thị uy. Triều đình
phải làm lại lễ tấn phong Hàm Nghi, để Rheinart và Guerrier đến dự, Pháp mới chịu rút quân về
Hà Nội.
Vì phong trào giải phóng nổi lên khắp nơi, thống tướng De Courcy vừa sang đến Hà
Nội, liền kéo 1000 quân vào Huế ngày 18 tháng tư năm Ất Dậu (1885) nói là để hội thương với ta,
có ý nhân dịp này bắt Tôn Thất Thuyết là người đang ngầm yểm trợ kháng chiến. Thuyết biết
được, cáo ốm không đến dự. De Courcy bảo ốm cũng phải nằm cáng mà sang sứ quán Pháp. Qua
ngày 22 tháng tư Ất Dậu (5-7-1885), Pháp mở tiệc khao quân, để sáng hôm sau vây bộ Binh bắt
Thuyết, thì vào 1 giờ đêm hôm ấy, Thuyết ra lệnh tấn công vào đồn Mang Cá và sứ quán Pháp.
Cuộc tấn công thất bại, Pháp phản công, quân ta bị thua, Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra
Tân Sở, dựng cờ kháng Pháp, xuống hịch Cần Vương, văn thân nghĩa sĩ khắp nơi hưởng ứng nhiệt
liệt.
Ở kinh đô (Huế) Pháp đưa Đồng Khánh lên ngôi và mãi đến mấy năm sau, (1888),
Pháp mua chuộc được một cận vệ của Hàm Nghi là Trương Quang Ngọc người Mường, mới bắt
được nhà vua, đày đi Algérie.
Cũng vào năm 1888, Đồng Khánh mất, Pháp đưa Thành Thái 10 tuổi, kế vị. Lớn lên
Thành Thái tỏ ý tự lập, và thường phản đối chính phủ Pháp. Có lần vua định trốn sang Tàu, nhưng
việc bại lộ, bị bắt lại. Từ đó, vì bị Pháp kiểm soát chặt chẽ từng hành động, Thành Thái làm ra vẻ
mất trí để nguỵ trang. Năm 1907, biết được Thành Thái liên lạc với Kỳ Ngoại Hầu Cường Để ở
ngoại quốc, Pháp lấy cớ nhà vua bị điên, buộc các quan trong triều dâng biểu yêu cầu vua từ chức.
Tất cả đều đồng ý, trừ Ngô Đình Khả (thân sinh Ngô Đình Diệm), không chịu ký. Sĩ phu miền
Trung có câu: "Phế vua không Khả"(58).
Pháp đặt hoàng tử Vĩnh San, con của Thành Thái, 8 tuổi, lên ngôi, vương hiệu Duy
Tân. Duy Tân thông minh và có chí khí. Năm 1908, ở Trung Kỳ phong trào Duy Tân dân chúng
nổi lên xin xâu, chống thuế, bị đàn áp dữ dội. Lúc đó vua mới 9 tuổi, mà đã phán với đình thần
rằng: "Nếu trong nước hay có loạn là vì nhân dân bị thiếu thốn. Từ nay sắp tới, lương bổng của ta
500$ một tháng, ta chỉ lãnh 200$ thôi, giao cho các thầy 300$ đem giúp đỡ những kẻ nghèo
khó"(59).
Có lần vua hỏi Hồ Đắc Trung, thượng thư bộ Học: "Thày nghĩ sao về người Pháp đô hộ
ta?". Trung tâu: "Chúng ta bị trị còn biết nói gì nữa! Xin Hoàng thượng thận trọng, cố gắng học
hành, đường còn dài, còn nhiều vận hội mới"(60).
Vào năm 1913, nghe tin Khâm sứ Mahé đem người đến đào mả vua Tự Đức để lấy
vàng ngọc châu báu, Duy Tân tức tốc thân hành đến ngăn chận, nhưng tới nơi thì đã muộn, mọi
việc đã xong xuôi. Ngày sau, Duy Tân viết thư cho chính phủ Pháp hạch tội và yêu cầu khiển
trách những viên chức đã lộng hành, nhờ Toàn Quyền Pháp chuyển. Viên Toàn Quyền không
chuyển, mà còn đích thân đem thư ấy vào cung đưa cho Hoàng thái hậu, mẹ đích của vua, bà là
con gái Cần chánh đại học sĩ Nguyễn Thân, tuy không có con, song vẫn có thế lực lớn trong triều.
Bà đòi vua vào cung, buộc vua xin lỗi viên Toàn Quyền Pháp. Bất đắc dĩ Duy Tân phải bấm bụng
tuân theo(61).
Đầu năm 1914, Duy Tân họp các vị thượng thư, chỉ thị cho hai người phải qua Pháp
trình Tổng thống Pháp một dự án sửa đổi bản hiệp ước Pháp-Nam Patenôtre đã bị Pháp vi phạm
rất nhiều. Không vị nào dám nhận sứ mạng này. Thượng thư Huỳnh Côn lại đi mách với Hoàng
thái hậu để Bà la rầy nhà vua một cách gắt gao.
Về sau, trong một buổi học chữ Hán với thượng thư Huỳnh Côn, Duy Tân phàn nàn:
"Không có ông thượng thư nào chịu nghe ta cả. Ta làm vua chỉ có hư danh thôi!". Huỳnh Côn tức
tốc đi mời Chủ tịch hội đồng và Thượng thư bộ Hình đến. Duy Tân lặp lại câu đã nói đó. Vừa
Nguyễn Hữu Bài đi ngang qua, nghe được, tâu: "Ngài muốn đánh Pháp, nhưng Ngài lấy gì mà
đánh? Ngài không có tài chánh mà cũng không có quân đội?" Nhà vua làm thinh một chốc, rồi nổi
giận la to lên: "Lúc này chính là lúc phải xúi dân nổi dậy, lúc mà nước Pháp đang lâm chiến" (62).
Về mối tình dở dang của vua Duy Tân
Sư bà Diệu Không, đã kể lại trong hồi ký "Vua Duy Tân và gia đình Hồ Đắc Trung"
(chưa xuất bản), đại khái như sau:
"Năm 1914, vua Duy Tân ra nghỉ mát ở cửa Tùng (Quảng Trị), thân sinh tôi là Hồ Đắc
Trung theo hầu. Nhà vua lúc đó lối 15 tuổi, muốn có bạn chơi cùng lứa, nên truyền thân sinh tôi
dẫn thêm anh chị em chúng tôi (hai anh tôi 15 và 16 tuổi, học sinh trường Albert Sarraut Hà Nội,
chị tôi 13 tuổi, tôi 10 tuổi) cùng đi theo cho vui.
"Mỗi buổi sáng, mặt trời vừa mọc, vua cho đòi đám trẻ đến để cùng đi ra biển bơi lội.
Thân sinh tôi căn dặn chúng tôi phải giữ lễ vua tôi, không được tự do cười nói như đối với người
thường, nhưng nhà vua lại rất dung dị, gọi các anh tôi bằng anh, gọi tôi bằng em. Ngài ít nói
chuyện với chị tôi. Mỗi khi vui đùa cùng hai anh tôi và tôi, ở những trò chơi con nít, vua chỉ nhìn
chị tôi mà không mời chơi. Khi nào Ngài cũng tỏ ra vui vẻ, song vẫn nghiêm trang. Chúng tôi rất
mến Ngài, nhưng vẫn không dám cười đùa nhiều, sợ thân sinh chúng tôi quở.
"Tôi còn nhớ một hôm chơi bắt còng (dã tràng) ở bãi biển. Ai bắt được nhiều sẽ được
thưởng. Ngài bắt được con nào thì thả con nấy. Chúng tôi lấy làm lạ. Ngài bảo: "Bắt chúng lên cạn
chúng sẽ chết, chi bằng thả cho chúng được tự do bơi lội, ta nhìn xem cũng vui rồi ". Thế là chúng
tôi cũng đua nhau mà thả hết. Ngài lấy làm thích chí, khi thấy mấy con còng lội tung tăng, Ngài
nói với hai anh tôi: "Ai bỏ tù chúng ta, chắc chúng ta sẽ khổ sở, vì khi mất tự do là mất tất cả".
Nói vậy rồi, Ngài thở dài kém vui. Nhưng sau đó, Ngài lại hồn nhiên như tuổi trẻ chúng tôi và lại
vui đùa như cũ.
"Mùa hè gần mãn, vua tôi bịn rịn lúc chia tay. Chị tôi ứa lệ nhìn Ngài. Ngài bảo nhỏ
tôi:
- Dỗ chị đi em, rồi sang năm chúng ta sẽ gặp nhau lại.
"Năm sau gần đến hè, chị tôi xin đi theo chúng tôi ra cửa Tùng. Thân sinh tôi bảo:
- Con đã lớn rồi, phải ở nhà với mẹ, không được đi nữa.
"Thế là chị tôi phải ở nhà, khóc sưng cả mắt. Khi ra đến cửa Tùng, gặp lại chúng tôi,
Ngài hỏi:
- Sao thiếu mất một người?
Tôi tâu:
- Mẹ chúng tôi bắt chị tôi ở nhà, chị ấy khóc quá sá.
Ngài nói: Thật là tội nghiệp cho chị ấy!
Mãn hè một tháng, một hôm có người thị vệ đến xin ảnh chị tôi đem vào nội cho hai
ngài Thái hậu xem mặt. Một tuần sau, hai Ngài cho đòi thầy mẹ tôi vào chầu và sau đó, tôi thấy
kiệu vua đệ ra nhà tôi một đôi bông tai và một đôi vòng vàng cho chị tôi, thầy mẹ tôi quỳ lễ bái
lãnh. Đó là "lễ hỏi" của vua dành cho chị tôi. Chị tôi cũng ra lạy tạ ân vua hạ cố.
"Vào khoảng tháng 12 năm 1915, một hôm thầy tôi ở triều về gọi mẹ tôi vào buồng nói
rất khẽ và nghe tiếng ngập ngừng như đè nén hơi thở để khỏi bật ra tiếng khóc. Năm ấy tôi đã 12
tuổi mà cũng đã tinh ý, giả bộ xô cửa bước vào tự nhiên, thấy mẹ tôi mắt đỏ hoe và bảo tôi ra gọi
chị tôi vào.
Trông thấy chị tôi, thân sinh tôi nói:
- Con vào lấy đôi vòng và đôi bông tai ra đây để mẹ con đem vào Nội dâng lại cho vua
vì Ngài Ngự muốn từ hôn, mặc dù chỉ còn hai tháng nữa là đem con vô Nội.
Chị tôi nghe nói điếng cả người, tưởng như trời sập cũng không bằng, lâu lắm mới
chạy đi lấy đồ vàng đưa cho tôi đem vào, chớ không vô phòng thân sinh tôi nữa. Thân sinh tôi nói
là Ngài Ngự có ban rằng: "Thầy hãy an ủi con gái của thầy và gả ngay cho người khác, đừng để cô
ấy buồn tội nghiệp. Thầy nên hiểu vì tôi thương cả gia đình thầy, nên mới phải từ hôn với người
mà ta mến từ hai năm nay".
Thân sinh tôi nói thêm rằng: Ngài Ngự bảo phải đưa ngay vào Nội một thiếu nữ khác
mà tôi phải chọn lấy. Bà xem ai đáng giới thiệu không?
Mẹ tôi đáp: Có cô con gái ông Phụ đạo Mai Khắc Đôn, tuy không đẹp lắm, song có đức
hạnh. Ông vào tâu xem.
Một tuần lễ sau, lễ hỏi nhà vua lại đem đến nhà ông Phụ đạo họ Mai (63). Và ngày 30-01-
1916, lễ "Nạp Phi" được tổ chức trọng thể tại bộ Lễ, đúng với kỳ hạn triều đình đã rao báo (64).
Vì sao có sự thay đổi đột ngột như thế?
Có phải do những chính biến đương thời chăng?
Nguyên là từ năm 1912, kỳ bộ Quang Phục Hội của Phan Bội Châu, do Thái Phiên phụ
trách đã bắt đầu chuẩn bị bạo động đánh Pháp. Đến năm 1914, Pháp chiến tranh với Đức, đó là cơ
hội thuận tiện để dân ta vùng lên tranh đấu cho độc lập nước nhà. Hàng chục ngàn lính Việt mà
Pháp tuyển mộ để gửi sang "mẫu quốc", phần lớn đã được cách mạng ta kết nạp làm "nghĩa binh",
sẵn sàng ứng tiếp lúc lâm sự. Tại đồn Mang Cá (Huế), Trần Quang Trứ (thư ký toà Công sứ Pháp
ở Huế) vận động viên đại tá lính Lê Dương (gốc người Đức) để nội ứng chỉ huy 3.000 lính mộ,
lính khố xanh, lính khố vàng. Trong thành nội Tôn Thất Đề và đội trưởng Nguyễn Quang Siêu đốc
suất các đội thân binh, thị vệ trấn giữ hoàng thành. Trần Đại Trinh điều động lính tập giữ toà
Khâm sứ Pháp quay súng giúp nghĩa quân. Một đội cảm tử Nam Ngãi hiệp cùng dân quân phụ cận
kinh thành công hảm cho được toà Khâm sứ.
Ở các tỉnh Quảng Trị, Đà Nẳng, Hội An, Quảng Nam, Tam Kỳ, Quảng ngãi, Bình Định,
ngoài các lực lượng chính thức (lính tập, lính mộ) đã kết nạp được, còn có nghĩa quân võ trang với
vũ khí trợ giúp từ bên ngoài đưa vào.
Cờ khởi nghĩa sẽ nền đỏ với 5 ngôi sao trắng, lấy ý nghĩa "Ngũ tinh tụ tĩnh" ở Kinh
Dịch.
Phan Bội Châu đang bị Long Tế Quang bắt giam tại Trung quốc đã bí mật gửi Mai Sơn
Nguyễn Thượng Hiền sang Xiêm liên lạc với lãnh sự Đức. Lãnh sự Đức biếu một vạn đồng bạc
Xiêm và hứa nếu hoạt động có tiếng vang ra để chính phủ Đức được biết, thì sẽ có viện trợ chính
thức nhiều hơn(65).
Thái Phiên và Trần Cao Vân giả làm người đi câu, vào hồ trong thành Nội dâng kế
hoạch lên, vua Duy Tân đồng ý tất cả. Duy vua lo ngại Pháp sớm đưa 3.000 lính mộ ở Mang Cá
(mà cách mạng đã kết nạp dược) xuống tàu sang Pháp, nên hạ chỉ hối thúc hành sự. Ngày khởi
nghĩa định vào một giờ sáng ngày mồng 3 tháng 5 năm 1916, Thái Phiên và Trần Cao Vân điều
động chiếm giữ kinh đô, và rước Duy Tân ra khỏi hoàng thành, thành công sẽ rước vua về trở lại.
Nhưng trước đó một ngày, có tên lính khố xanh ta đã chiêu dụ được, bảo với anh nó là
Võ Huệ làm lính giản ở dinh Án Sát Quảng Ngãi ngày ấy liệu mà xin nghỉ kẻo đây rồi sẽ có loạn.
Án Sát Phạm Liệu sinh nghi tra hỏi, Huệ sợ nên khai ra. Phạm Liệu trình với công sứ De Tastes.
De Tastes mật điện ra Huế. Khâm sứ Charles ra lệnh thâu tất cả súng đạn, tập trung hết thảy binh
lính lại, và điện cho các tỉnh biết để đề phòng.
Trần Quang Trứ, người có công lớn chiêu dụ lính ở đồn Mang Cá, thấy lệnh thu súng,
cắm trại, biết việc đã bị lộ, liền đi đến bến Thương Bạc lúc 11 giờ đêm gặp vua Duy Tân đã cải
trang theo lối thường dân, có Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu hộ vệ, xuống thuyền của Thái
Phiên và Trần Cao Vân đến rước. Trứ liền đi vòng ra ngã sau vào toà Khâm Sứ tố giác.
Cuộc khởi nghĩa bị thất bại, Thái Phiên và Trần Cao Vân định đưa vua đi tắt đường núi
về địa điểm đã định là Bà Nà ở Quảng Nam, nhưng vua bị mệt, tạm nghỉ lại một ngôi chùa bên
núi Ngũ Phong, gần vùng Nam Giao. Sáng sau, khi nhà vua đang sửa soạn lên đường, thì có Le
Fol, Đổng lý văn phòng toà Khâm, Sogny chánh mật thám Huế, Lanneluc, giám binh với 21 lính
khố xanh và Trần Quang Trứ, còn bên ta có Võ Liêm, Tá Lý bộ Lễ và Hồ Hành, đội cơ, với một
toán lính Nam triều, đến bắt. Duy Tân vẫn bình thản, đối đáp như khi còn ở trong triều. Gặp vua,
Le Fol trịnh trọng cất mũ chào:
- Tâu Hoàng Thượng, Ngài ngự giá dạo chơi xong rồi chứ?
Duy Tân nhún vai đáp:
- Các ông chả hiểu được đâu!
Trần Quang Trứ tiến đến hỏi:
- Tâu Hoàng Thượng, tôi là người cùng Trần Cao Vân hội kiến Hoàng Thượng tối qua
ở bên Thương Bạc, chẳng hay Hoàng Thượng có nhớ không?
Vua nhìn Trứ một cách khinh bỉ:
- Phải, ta nhớ mi, đồ phản quốc!
Rồi vua ngoảnh mặt quay sang chỗ khác. Triều thần gặp vua, vừa mừng vừa tủi, năn nỉ
vua trở về Nội, Duy Tân khẳng khái từ chối, thà chịu bị bắt, nhất định không quay lại hoàng cung.
Lính dương lọng rước, Duy Tân không cho và đi bộ đến chiếc xe của Pháp đưa vua về giữ ở đồn
Mang Cá. Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu bị còng tay dẫn về Huế
tống giam, đến ngày 16- 4-1916, cả bốn vị bị chém tại An Hoà (cách Huế vài cây số).
Tại các tỉnh cũng xảy ra nhiều việc thảm sát như thế: Ở Quảng Ngãi hai cụ Tú Ngung,
cử Suỵ cùng một số đông dồng chí bị tội tử hình, 200 người bị đày đi Côn Lôn. Ở Quảng Nam
cũng rất nhiều người bị liên luỵ, Phan Thành Tài và một số tử hình, hoặc đày đi Lao Bão, Thái
Nguyên, Côn Lôn như y sĩ tân học Lê Đình Dương, Lý trưởng Lê Cơ, Tú tài Trương Bá Huy, Đỗ
Tự.. Pháp khám phá nhiều tài liệu tổ chức chính phủ, quân nhu, quân phục, các ấn tín… Ở Quảng
Trị, Khoá Bão bị tra tấn khốn đốn. Các tỉnh khác hưởng ứng chậm nên không bị đàn áp gì nhiều.
Về bản án Duy Tân
Khi còn trong ngục, Trần Cao Vân lo cho vua Duy Tân bị sát hại, nên viết thư trần tình
cùng thượng thư Hồ Đắc Trung là người đang phụ trách thảo bản án xử vua. Thư viết trên cuộn
giấy quyến hút thuốc, bí mật trao người chuyển đi, nhận lãnh hết công việc bạo động xảy ra đều
do ông và Thái Phiên xúc sử. Cuối thư ông khẩn khoản Hồ Đắc Trung tìm cách cứu vua, có câu:
"Trung là ai? Nghĩa là ai? Cân đai võng lọng là ai? Thà để cô thần tử biệt!
"Trời còn đó! đất còn đó! Xã tắc sơn hà còn đó! Mong cho thánh thượng sinh toàn! "
Sư Bà Diệu Không kể lại rằng:
"Vì mảnh giấy ấy mà thân sinh tôi bị bắt giam mấy ngày ở toà Khâm để điều tra. Nếu
không nhờ vua Duy Tân khai giải cứu, ắt thân sinh tôi phải chung một số phận, với các ông Trần
Cao Vân."
Sư Bà thuật lại lời khai của vua Duy Tân khi bị Pháp cật vấn như sau:
"Hỏi: Ngài nghĩ sao về mảnh giấy này?
"Đáp: Ông Trần Cao Vân làm việc lớn không thành, sợ tội bị tử hình nên cầu cứu với
ông Hồ Đắc Trung.
"Hỏi: Vì lẽ gì trước kia Ngài từ hôn với tiểu thư nhà họ Hồ?
"Đáp: Vì tôi thương ông ấy đông con, sợ ông ấy bị liên luỵ. Vả lại, các đồng chí của tôi
khuyên tôi nên tránh gia đình ấy để bảo mật.
"Hỏi: Vì lẽ gì ông Trần Cao Vân lại bảo đưa mảnh giấy này cho ông Hồ Đắc Trung?
"Đáp: Vì ông Hồ Đắc Trung hay cứu người như đã cứu 42 nhà cách mạng ở tỉnh Quảng
Nam năm 1908 trong vụ dân "xin xâu" lúc ông ấy làm tổng đốc ở đấy.
"Hỏi: Ngài có bảo đảm là ông Hồ Đắc Trung vô tội trong vụ khởi loạn này không?
"Đáp: Tôi xin hoàn toàn bảo đảm cho ông ấy.
"Thế là mấy ngày sau, thân sinh tôi được Pháp trả lại tự do. Triều đình uỷ cho thân sinh
tôi soạn thảo bản án Duy Tân. Nội dung bản án đại khái như sau:
"Vua Duy Tân còn nhỏ tuổi, tuy rất thông minh song còn cạn nghĩ, bị bọn người mưu
phản kích thích lòng ái quốc nên nghe theo. Nếu đúng tuổi trưởng thành thì tội Ngài rất nặng,
song Ngài còn vị thành niên, tưởng không đáng trách mà nên thương tình.
"Đứng về phía chính phủ Bảo hộ, thì Ngài can tội "phản nghịch", nhưng đứng về phía
chính phủ Nam triều, thì Ngài là một ông vua biết thương dân và được lòng dân. Như vậy, luận về
tội, thì quả thật Ngài có tội đối với chính phủ Bảo hộ, còn đối với nhân dân Việt Nam, thì Ngài
không có tội gì cả.
"Vậy nên xét tình mà truất phế Ngài và để cho Ngài được tự do trở về với danh vị một
hoàng tử như trước. Như thế lòng dân mới khỏi oán thán chính phủ Pháp là khắc nghiệt… "
"Bản án này được Pháp chấp thuận, nên tuy bị đưa đi đày ở đảo Réunion gần Phi Châu,
Ngài vẫn giữ tước vị hoàng tử…
"Về sau, thân sinh tôi gả chị tôi cho vua Khải Định, nên mới được tin dùng như trước.
Tuy được gả cho vua mới, nhưng tình người con gái vẫn còn quyến luyến vua cũ không nguôi…
"(66)
Năm 1925, Khải Định mất, thọ hơn 40 tuổi, Duy Tân từ đảo Réunion, gửi về hai câu
điếu:
"Ông vội bỏ đi đâu, bỏ tiền, bỏ bạc, bỏ vợ, bỏ con, bỏ thầy tu, hát bội, bỏ hết trần
duyên trong một lúc.
"Tôi may còn lại đó, còn trời, còn đất, còn nước, còn non, còn anh hùng, hào kiệt, còn
nhiều vận hội giữa năm châu".
Về lá bài Duy Tân
Vận hội ấy, phải chăng là cuộc hội ngộ ngày 14 tháng 12 năm 1945 với Đại tướng
Charles de Gaulle để chọn "lá bài Duy Tân" giải quyết vấn đề Việt Nam:
Tướng De Gaulle quyết định đặt Hoàng tử trở lại ngôi Hoàng đế Việt Nam, ba kỳ thống
nhất, dưới một chính thể trung ương hoàn toàn tự do cai trị và tổ chức nền kinh tế của minh. Pháp
đảm nhận phòng thủ biên cương cho Việt Nam trong một thời hạn nào đó sẽ được minh định, để
cất gánh nặng cho ta việc tạo lập một quân đội khi Việt Nam chưa đủ phương tiện để duy trì và
tăng cường nó(67). Tướng De Gaulle sẽ đích thân đưa Hoàng tử hồi loan vào đầu tháng 3 năm
1946… chẳng may, trên đường về thăm gia đình ở đảo Réunion, Ngài tử nạn máy bay ngày 26-12-
1945 gần Bangui thuộc Trung Phi"(68).
Tai nạn hay có mưu sát? Một bạn thân của vua Duy Tân là ẸP. Thébault cho biết trước
khi rời Paris để về đảo Réunion thăm vợ con, Hoàng tử Vĩnh San có tiết lộ rằng: "Nước Anh
chống lại việc tôi về Việt Nam và họ đã đề nghị tặng tôi 30 triệu nếu tôi từ bỏ ý định ấy ". Nhưng
các cuộc điều tra cho đến nay chưa ngã ngũ ra sao cả (69).
*
Cuộc đời của vua Duy Tân đã bao lần dang dở. Dang dở vì đã hy sinh mối tình đầu để
tránh mối hoạ tày đình có thể xảy ra cho toàn gia người mình yêu, dang dở vì đã hy sinh ngai vàng
của mình cho tiền đồ chung của đất nước, nạn nhân muôn thuở của tình đời phản trắc, của định
mệnh khắc khe.
Nhưng đây là một trong muôn ngàn hy sinh khác của toàn dân đã đâng hiến trên bàn
thờ Độc Lập cho đất nưóc chúng ta.
VÕ THU TỊNH (Paris)
______________________
“Giải mã” số phận bi thảm của một vị vua chống pháp.
Kỳ 1: Chống Pháp từ tuổi còn thơ
12:14 PM, 01/05/2008
Trong suốt thời gian cả dân tộc Việt Nam bị kìm kẹp dưới ách đô hộ của thực dân
Pháp, bên cạnh những ông vua như Tự Đức nhu nhược, thiếu quyết đoán, Khải Định, Bảo Đại chỉ
còn là những vị vua không có thực quyền, vẫn có những vị vua một lòng chống Pháp, không chịu
khuất phục ngoại bang. Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân là 3 vị vua không chịu nhượng bộ,
chống lại thực dân Pháp và bị đi đày ở Reunion và Algeri.
Chân dung vua Duy Tân khi lên ngôi vua
Tuy nhiên trong số 3 vị vua trên, vua Duy Tân là người chúng tôi muốn đề cập đến
trong bài viết này, bởi vì số phận của ông có nhiều điều nghi vấn cho đến tận bây giờ.
Sau khi vua Thành Thái tỏ thái độ chống Tây và bị truất phế, thực dân Pháp muốn tìm
một người kế vị phải còn nhỏ tuổi để dễ sai khiến và không dám chống đối. Khâm sứ Lévecque
vào Hoàng cung cầm danh sách của các Hoàng tử con Vua Thành Thái để. .. chọn vua, lúc điểm
danh thì thiếu mất Vĩnh San. Thì ra Hoàng tử Vĩnh San đang chui dưới gầm giường bắt dế. Do
không kịp đưa về nhà tắm rửa, nên Vĩnh San được ra mắt trong tình trạng mặt mày lem luốc, quần
áo ướt đẫm mồ hôi. Thoạt trông, Lévecque đồng ý ngay vì thấy đứa bé mặt mày dơ dáy, nhìn nhút
nhát và có vẻ như... đần độn, chắc dễ sai khiến sau này (!?). Thế là đại diện nước Pháp chọn Vĩnh
San làm Vua khi mới 7 tuổi, sau khai tăng lên thành tám tuổi. Cái tên Duy Tân được triều thần đặt
cho vì muốn tưởng nhớ đến vua Thành Thái với giấc mộng đổi mới không thành.
Chân dung vua Duy Tân trước khi mất
Thế nhưng, người Pháp đã lầm! Ngay sau lễ Tôn Vương một ngày (5-9-1907), vua Duy
Tân đã tỏ ra khác hẳn, nhà vua không hề có một cử chỉ nhút nhát sợ Tây, ông đã tiếp viên quan
toàn quyền Đông Dương thẳng bằng tiếng Pháp với một vẻ tự tin. Một nhà báo Pháp đã thuật lại là
"... Một ngày lên ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám". Thái độ chống Pháp
của vua Duy Tân sớm bộc lộ ngay khi còn nhỏ. Có rất nhiều giai thoại kể về điều này. Một lần nhà
vua ra bãi tắm Cửa Tùng nghỉ mát, tay chân dính cát. Thị vệ bưng chậu nước cho vua rửa. Vua
vừa rửa vừa hỏi:
- Khi tay bẩn thì lấy nước mà rửa, khi nước bẩn thì lấy chi mà rửa?
Người thị vệ chưa biết trả lời ra sao thì vua nói:
- Nước bẩn thì phải tìm cách trừ khử những chất ngoại lai lẫn vào trong đó, hiểu
không?
Viên thị vệ sợ quá, không biết nói ra sao. Năm vua 12 tuổi, khi đến dự yến ở Tòa Khâm
sứ, một viên cố đạo Pháp giỏi cả tiếng Việt lẫn tiếng Hán, thấy vua vẻ mặt khôi ngô bèn đưa ra
câu đối "Rút ruột ông Vua, tam phân thiên hạ". Đây là một câu chiết tự, chữ Vương khi bỏ đi nét
Cổn ở giữa thành chữ Tam, vừa mượn tích Tam Quốc, vừa ám chỉ việc chia nước Việt Nam thành
3 kỳ. Không chút bối rối, vua Duy Tân đối lại ngay "Chặt đầu thằng Tây, Tứ hải giao huynh", vua
cũng đối lại bằng một câu chiết tự, chữ Tây bỏ bớt phần đầu phía trên trở thành chữ Tứ. Tuy vế
sau chưa thật hoàn chỉnh nhưng đã thể hiện chí khí chống Pháp dứt khoát của nhà Vua.
Năm 1912, Khâm sứ Mahe đã mở chiến dịch tìm vàng ở Huế, thậm chí đào cả lăng vua
Tự Đức để tìm vàng. Trừ đại thần Nguyễn Hữu Bài, cả triều đình đều nhắm mắt làm ngơ. Vua
Duy Tân nổi giận đóng cửa Hoàng cung tuyên bố không giao tiếp với người Pháp cho đến khi
Mahe bị toàn quyền Alber Saurre khiển trách. Tuy nhiên với Nguyễn Hữu Bài, một đại thần lớn
vua Duy Tân cũng bày tỏ sự thất vọng, một lần đi câu ở Phú Văn Lâu, vua Duy Tân ra vế đối
"Ngồi trên nước mà không ngăn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần". Nguyễn Hữu Bài đối
lại: "Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó". Vua Duy Tân cho rằng
Nguyễn Hữu Bài là người cam chịu trước số mạng.
Vua Duy Tân cũng nhiều lần bày tỏ sự phản kháng, năm 13 tuổi vua muốn cử ông
Nguyễn Hữu Bài sang Pháp để yêu cầu duyệt lại hiệp ước Patenôtre ký năm 1884 vì ông cảm thấy
việc thi hành của hiệp ước ấy không đúng với những điều kiện mà hai bên đã ký kết với nhau.
Năm 15 tuổi, Vua Duy Tân đã triệu tập cả sáu ông đại thần trong Phụ Chính, bắt buộc các vị phải
ký vào biên bản để đích thân Vua sẽ cầm qua trình với tòa Khâm sứ nhưng đều không thành vì
Triều đình đều sợ Pháp nên đã báo cho Thái Hậu can vua. Những việc này khiến vua Duy Tân
không còn tin tưởng triều đình trong việc chống Pháp nữa. Có lần các quan lại đang can gián vua
Duy Tân, Nguyễn Hữu Bài đi ngang qua, bèn vào tâu vua: "Bệ hạ muốn chống Pháp nhưng lấy gì
chống họ? Bệ hạ không có quân đội, bệ hạ cũng không có tài chính!". Vua Duy Tân ngẫm nghĩ rồi
nói: "Vậy thì phải kêu gọi dân chúng nổi dậy đánh Pháp". Quan điểm khởi nghĩa chống Pháp dựa
vào dân chúng của vua dường như đã manh nha từ lúc này.
plaquettes d’argent”
Tạm dịch:
“Từ nhiều mùa thu qua, người Pháp đã cắm
chân ở nơi đây
Những tên man rợ này càng bốc lên mùi hôi thối.
(…)
Cả cha và con đều cùng chịu một số phận
(…)
Tội nghiệp cho những vị anh hùng nầy đã
xông pha đầu tên mũi súng.
Họ chẳng biết sợ hòn đạn hay lưỡi kiếm.
(…)
Hổ thay cho những thần dân kia nhiều lần
đã phản bội đất nuớc,
Cốt đoạt cho được chiếc mũ vàng và chiếc
bài bằng bạc”.
Trong những ngày bị lưu đày ở đảo Réunion, để chứng tỏ người Việt Nam không thua
chi người Pháp, vua Duy Tân đã cố gắng rèn luyện học tập Pháp ngữ. Ông tỏ ra đã thành công
trong lĩnh vực nầy. Người ta đã mời ông tham gia vào những tổ chức văn học sáng giá nhất ở
Réunion. Vua Duy Tân đã diễn tả tâm trạng u uất của mình qua nhiều tác phẩm được người đương
thời hết lời ca ngợi. Xin trích một đoạn mà nhiều độc giả học tiếng Pháp trước đây đã thuộc lòng:
CE QUE DIT LA VOIX DES CHOSES
J’aime la murmure de la brise, quand elle chante ou pleure dans les branches. J’aime
les confidences harmonieuses du vent aux arbres de la forêt, aux vagues de la mer, aux étoiles du
firmament. Mais plus encore ce qui me berce, me ravit, m’enchante, c’est la grand de voix de
l’Océan, la plainte universelle qui retentit dans le silence de la nuit comme un hymme sans fin.
Lorsqu’au coeur de l’été, je séjourne aux bords des plages, je me plais à écouter dans l’insommie
les variations de cette grand voix. Dans les nuit paisibles, on dirait la respiration d’un l’éviathan
endormi à d’autres heures, la voix s’enfle, gronde, devient menasante dans le fracas de la tempête.
Bửu Ý chuyển qua Việt ngữ:
Ta yêu tiếng nói thì thào của cơn gió thoảng, khi gió reo ca hay than thở trên cành. Ta
yêu lời tâm sự du dương của gió ngỏ với cây rừng, với sóng biển, với sao trời. Nhưng, hơn thế
nữa, cái dỗ dành ta, khiến ta ngây ngất hân hoan, chính là tiếng nói của Đại dương, tiếng rền rĩ của
khắp cõi vọng lên trong cảnh vắng lặng đêm khuya như khúc ca bất tuyệt. Giữa lòng mùa hè,
những lúc nghỉ chân bên bãi biển, trong cơn trằn trọc, ta ưa thích nghe ra những tiếng trầm bổng
của âm thanh hùng vĩ kia. Trong đêm thanh vắng, tưởng chừng như hơi thở của con quái vật
khổng lồ ngủ say; vào giờ giấc khác, âm thanh trổi dậy, gào thét, hoá thành doạ nạt trong bão
gầm).
Ngoài những sáng tác văn học, vua Duy Tân còn có những bài viết về chính trị nhưng
có giá trị văn học. Cho đến nay người ta đã được đọc những bài viết sau đây của Duy Tân:
- Thư gửi thầy phụ đạo Éberhardt (1916),
- Thư gửi cho báo Nhân Đạo (1920),
-Thư gửi cho bộ trưởng thuộc địa (1936),
-Bài đọc trên đài phát thanh Brazzaville (6-1945),
- Di chúc chính trị (12-1945)… Xin trích một đoạn trong bài đọc trên đài phát thanh
Brazzaville:
- “Convenez-vous un peu, qu’avant le coucher du soleil, un oiseau noir, vous savez ce
lui qui annonce une visite, est venu crier sur une branche de bambou jaune qui est devant votre
fenêtre. Vous vous êtes demandés qui devait venir? Eh bien! C’est le premier fois, depuis
longtemps, que je vous parle, et si ma voix n’est pas claire, c’est qu’elle est voilée de toute la
tendresse que vous avons les un pour les autres”.
Thái văn Kiểm chuyển qua Việt ngữ:
“Các ngươi hãy nhận rằng trước khi mặt trời lặn, một con chim đen, ai cũng biết là con
chim khách, đến kêu trước song cửa sổ nhà các ngươi ở, rồi các ngươi tự hỏi không biết khách nào
sẽ đến vậy. Thì đây chính là ta đó, người lão thành này đã từng suy nghĩ giúp các người. Từ lâu, từ
lâu lắm nay là lần đầu tiên ta mới lại nói chuyện cùng các người, nếu cái giọng ta không được
trong lắm, chính vì nó đã đượm tình thân ái sắc son của chúng ta đối với nhau”.
Vua Duy Tân giỏi tiếng Pháp. Không những ông sử dụng vốn liếng tiếng Pháp đó để
trang bị kiến thức chờ ngày đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn dùng để làm thơ viết văn thể hiện
sự rung động của trái tim mình trước cuộc đời. Với những thơ văn còn lại ít ỏi của ông không đủ
để Lịch sử văn học Việt xem ông là một cây bút Francophone. Nhưng với những vần thơ câu văn
trào ra từ một tâm hồn nóng bỏng ấy, cộng với cuộc đời không cam chịu làm nô lệ và hành động
khởi nghĩa chống Pháp năm 1916 của ông, cho phép người chép sử dân tộc khẳng định: Duy Tân
là một ông vua thông minh, khát khao đổi mới và có tình yêu nước nồng nàn.
Thơ văn của vua Duy Tân giúp cho người đọc Việt quý trọng tinh thần yếu nước
của ông hơn.
…
(1) Theo Nguyễn Vỹ “Tuấn chàng trai nước Việt”.
(2) Pierre Brocheux - De L’Empereur Duy Tan au prince Vinh San: L’histoire peut -
elle se répéter? Approche asie
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
(nguồn: TCSH số 143 - 01 - 2001)
______________________
Người tôn vua Duy Tân và cứu Phan Châu Trinh thoát khỏi án chém
Tác giả: Nguyễn Hoàn
25/10/2008
Nguồn: vannghesongcuulong.org
Quảng Trị là một miền quê có truyền thống khoa bảng, dưới thời phong kiến đã từng có
nhiều người đỗ đạt và làm quan, có những người làm đến bậc đại thần. Có những vị đại thần đã tỏ
được vai trò lương đống (rường cột) quốc gia của mình chứ không xu thời, xu phụ hoặc chỉ đơn
thuần “giúp rập triều đình” theo chiếu lệ, nhất là khi đất nước nằm dưới ách thống trị của thực dân
Pháp, triều đình Huế mất dần vai trò và chỉ là bù nhìn. Đáng chú ý trong số đó có Phụ chính đại
thần, Hiệp biện đại học sĩ, Thượng thư Bộ Lễ Lê Trinh. Ông Lê Trinh (còn có tên là Lê Đăng
Lĩnh, Lê Đăng Trinh) sinh năm 1850 tại làng Bích La Đông, Triệu Đông, Triệu Phong, Quảng Trị,
là hậu duệ đời thứ 8 của họ Lê Cảnh (thuỷ tổ họ này gốc ở Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, di cư vào Bích
La Đông dưới thời Lê sơ, trước thời Lê Trung Hưng, cách nay trên 450 năm). Ông Lê Trinh là con
trưởng của ông Lê Cảnh Chính, Binh Bộ viên ngoại lang, Trung phụng đại phu, Đô sát viện hữu
phó đô ngự sử, hàm nhị phẩm dưới triều Minh Mạng (1820-1840) và bà Lê Bá Thị Huấn. Thông
minh, học giỏi, năm 20 tuổi, ông thi hương khoa năm Canh Ngọ, Tự Đức năm thứ 23 (1870) đỗ
giải nguyên, năm 25 tuổi, ông thi hội khoa năm Ất Hợi, Tự Đức năm thứ 28 (1875) đỗ phó bảng.
Từ đó, ông đã ra làm quan, trải qua 6 triều vua từ Tự Đức, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh,
Thành Thái đến Duy Tân. Đầu tiên, ông được bổ Hàn lâm viện kiểm thảo, rồi đổi qua Hành tẩu
Nội các, sau đó dần thăng tiến. Ông đã từng giữ chức vụ ở hầu hết các Bộ như: Biện lý Bộ Hộ, Bộ
Lại (1884), tham tri Bộ Hình, Bộ Hộ, Bộ Binh (1891-1892) cho đến chức cao nhất là Thượng thư
Bộ Lễ (1903). Ông còn giữ nhiều trọng trách ở các Viện: Tham biện Viện Cơ mật (1888), Chưởng
ấn Viện Đô sát (1888), Cơ mật đại thần (1903). Ông được cử vào đoàn sứ bộ sang Trung Quốc
(1882), được vua Quang Tự, nhà Thanh mến tài, ban cho ông học vị tiến sĩ, khi ông mất được nhà
Thanh cử sứ giả qua phúng viếng. Trên lĩnh vực giáo dục, ông từng được sung làm giáo đạo các
ông hoàng (1884), làm phó chủ khảo trường thi hương tỉnh Thừa Thiên (1887) rồi chánh chủ khảo
trường thi hương tỉnh Bình Định (1891).
Trong cuộc đời làm quan của ông Lê Trinh, từ đời vua Đồng Khánh trở về trước, chức
tước, ngôi vị của ông trong triều đình chưa cao như dưới thời vua Thành Thái, nên ông không có
mặt trong các “kịch bản” lập vua lúc đó của các Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn
Tường, Trần Tiễn Thành…Nhưng từ thời vua Thành Thái trở đi, khi ông được trọng dụng ở ngôi
cao nhất trong đời làm quan của mình: Phụ chính đại thần, Lễ Bộ Thượng thư sung Cơ mật đại
thần (1903), phải nói rằng ông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tham gia giải những “bài
toán lịch sử” ngặt nghèo, lúc vận nước gian nan. Hai đóng góp sáng giá của Thượng thư Lê Trinh
trong thời kỳ này đó là việc tôn vua Duy Tân lên ngôi, sau khi thực dân Pháp phế truất vua Thành
Thái và việc không xử chém Phan Châu Trinh, mặc dầu Pháp gây sức ép, nhờ vậy mà nhà yêu
nước và duy tân nổi tiếng này có điều kiện tiếp tục hoạt động, cống hiến cho phong trào duy tân,
cứu nước.
Việc tôn vua Duy Tân lên ngôi và tình cảm đặc biệt của vua Duy Tân đối với Thượng
thư Lê Trinh
Sau khi vua Thành Thái, một ông vua có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, có đầu
óc cải cách, chống Pháp nên Pháp đã tìm cách phế truất và buộc đi đày, vấn đề đặt ra là chọn
người kế vị ngai vàng. Đây là một vấn đề khá phức tạp và gây tranh cãi, không thống nhất giữa
nhiều phái trong Nam triều và giữa Nam triều với Pháp. Hai tác giả Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng
đã viết về giai đoạn rối ren này: “Từ 1907, sau khi phế truất Thành Thái, thực dân Pháp định đưa
Bửu Đảo (tức Khải Định, con Đồng Khánh) lên ngôi vua để tiếp nối dòng vua bù nhìn Đồng
Khánh. Khi giải quyết vấn đề này, nhiều đình thần tỏ ý không muốn đặt lên ngai vàng một người
“vô hậu” (tuyệt tự). Pháp đành phải chấp nhận Duy Tân” (Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh
niên, Hà Nội, 2001, trang 388). Lúc đó, Thượng thư Lê Trinh đã đưa ra giải pháp: chọn một người
con còn nhỏ tuổi của vua Thành Thái, rồi vẫn duy trì Hội đồng phụ chính để giúp vua trông coi
việc nước. Phía Pháp đã đồng ý vì cho rằng một đứa bé làm vua như Duy Tân không có gì đáng
ngại, Pháp sẽ dễ bề thao túng (Pháp không ngờ được rằng vị vua trẻ này chống Pháp còn quyết liệt
hơn cả vua cha Thành Thái nữa). Trong việc chọn Duy Tân, hẳn là Thượng thư Lê Trinh cũng như
một số đình thần khác còn nặng lòng đau đáu, nhớ nghĩ đến vua yêu nước Thành Thái đang bị đi
đày. Có một điểm đáng lưu ý rằng, thực dân Pháp không hề thay đổi ý định chọn Khải Định làm
vua. Sau khi Pháp định đưa Khải Định lên thay thế vua Thành Thái mà chưa được, Pháp đã phải
chấp nhận phương án chọn vua Duy Tân, nhưng khi đã bắt vua Duy Tân phải đi đày, “Pháp đưa
Bửu Đảo lên ngôi, lấy niên hiệu là Khải Định. Đây là một ông vua bù nhìn mạt hạng” (Quỳnh Cư-
Đỗ Đức Hùng, sách đã dẫn, trang 388). Như vậy, việc chọn vua Duy Tân đã làm cho mưu đồ
xuyên suốt là “chọn vua bù nhìn” của Pháp bị gián đoạn. Và Pháp đã rất “cảnh giác”. Chính Toàn
quyền Đông Dương Bonhoure khi báo cáo với Bộ Thuộc địa Pháp đã săm soi cả cái tên niên hiệu
Duy Tân, cho rằng cái tên này dính líu với các nhà cải cách: “Một trong các biểu hiện đặc biệt là
việc chọn tên Duy Tân (cải cách) làm niên hiệu của vua mới”.
Vai trò quan trọng của ông Lê Trinh trong việc khéo léo tôn vua Duy Tân lên ngôi đã
được chính vua Duy Tân khẳng định: “Cậy một lời mà định kế, hợp hai nước mà suy tôn”. Sinh
thời, vua Duy Tân đã giành cho ông nhiều tình cảm yêu mến, tin cậy. Nhà vua và triều đình đã
đánh giá cao công lao của ông trong việc phò tá, dạy dỗ, giúp đỡ nhà vua học hành, giúp triều
đình tháo gỡ khó khăn, đặc biệt ca ngợi ông sánh với các nhân tài nổi tiếng thời xưa ở Trung
Quốc. Trong bài chế của vua Duy Tân thăng hàm Vinh lộc đại phu, Hiệp biện đại học sĩ cho Phụ
chính đại thần, Lễ Bộ Thượng thư Lê Trinh đề ngày 23 tháng Chín năm Duy Tân thứ 3 (1909) đã
viết (dịch nghĩa): “Yêu mến nghĩ đến ông họ Lê chức Phụ chính đại thần Lễ Bộ Thượng thư: xuất
thân khoa bảng; rường cột quốc gia. Nổi tiếng ở đời, trải tới chức quan trọng yếu; gặp thời thoả
chí, từng qua thử thách khó khăn. Lại làm việc nơi Dung đài; bèn bàn mưu trong Hựu phủ. Thanh
liêm ngay thẳng, nhân tài xưa sánh Di Quỳ; cần mẫn rõ ràng, tướng nghiệp trước như Bính Nguỵ.
Vua cha gặp lúc nhọc nhằn, bèn trao tông miếu; con nhỏ đang khi thơ ấu, phải nhận ngôi trời. Cậy
một lời mà định kế; hợp hai nước mà suy tôn. Lấy vực Ngu mà rửa vũng Hàm, mặt nhật năm rồng
nâng đỡ; chặt chân ngao mà làm bốn cực, trời cao tám cột chống che. Ta lúc tuổi thơ, kính đương
ngôi báu. Tháo gỡ khó khăn, đã có công lao phò tá; ân cần dạy dỗ, lại còn giúp đỡ học hành. Đã
mến yêu nhiều, nên ban hàm lớn”. Khi ông Lê Trinh mất (năm 1909), vua Duy Tân đã truy phong
cho ông tước Vệ nghĩa tử, đồng thời sai Nội các soạn một bài dụ, một bài chế nhân dịp truy phong
tước này cho ông và một bài văn ban tế cho lễ tế ông. Bài chế truy phong tước Vệ nghĩa tử đã
khẳng định năng lực nội trị và ngoại giao của ông: “Trong yên quốc thị, ngoại vững bang giao.
Quận triều đều trọng, ghét chán thảy không” và tiếng thơm của ông: “Nghĩa vua tôi trọn vẹn trước
sau, tình khen thưởng cùng chung rạng rỡ. Còn mãi sách son, vẻ vang mồ biếc”. Bài văn ban tế
thể hiện tình cảm đầy ngậm ngùi, xót thương của vua Duy Tân đối với ông:
“Vua tôi là nghĩa, còn với đất trời
Trước sau gặp gỡ, thương mến khôn nguôi
Khanh sinh ở thế, tài giỏi tót vời
Năm triều để tiếng, khuôn mẫu cho đời
Gặp thời bối rối, vận nước bời bời
Khanh cùng phụ chính tháo gỡ xong xuôi
Ngu yên nâng giữ, Hàm trì sáng tươi
Năm rồng thời cổ, mang ánh mặt trời
Ta là con nhỏ, hiểu biết nông khơi
Nhờ khanh chỉ bảo, dạy đạo làm người
Cớ sao ốm nặng, bỗng chốc xa chơi
Các quan còn đó, khanh đã về trời,
Bóng khanh phảng phất, lòng trẫm bồi hồi
Tiệc bày lễ tế, khanh đến xin mời
Ôi!…”.
Ông Lê Trinh đã để lại một tập di cảo gồm thơ và câu đối có tên là “Bích Phong thi
tập” (Bích Phong là tên hiệu của ông). Đánh giá về tập di cảo này, nhà thơ Lương An viết: “Tập
thơ gồm phần lớn là thơ đề từ, xướng hoạ, nhưng cũng có một số bài nói lên nỗi lòng của tác giả
trước tình thế đất nước” (Tuyển tập Lương An, NXB Thuận Hoá, Huế, 2004, trang 380). Qua tập
di cảo này, hiển lộ bóng dáng một con người không tham địa vị, phú quý (ông gọi địa vị mình
đang giữ là “Bị vị đáo xuân quan”, vị hão chức cao dày), chí để ở chốn thanh nhàn, lánh đua tranh
thị thành. Chứng kiến cảnh lụt lội hoành hành ở Huế, ông đã đem đối lập cảnh xót xa đáng thương
của người nghèo với cảnh ăn chơi của hạng cao sang: “Lư lý gian nan tình trạng thiết, Bằng thuỳ
hội đáo ỷ la diên” (Làng xóm khó khăn thê thảm quá, Nhờ ai vẽ đến tiệc ăn chơi).
Xử cho Phan Châu Trinh thoát khỏi án “trảm quyết” (chém ngay)
Năm 1908, phong trào quần chúng nhân dân kháng thuế đã bùng phát ở Quảng Nam rồi
lan nhanh đến nhiều nơi (còn gọi là dân biến Trung Kỳ), khiến cho thực dân Pháp hoảng hốt đối
phó và tăng cường đàn áp, đánh phá các cơ sở Duy Tân, bắt bớ và kết án hàng loạt nhà yêu nước,
trong đó có Phan Châu Trinh, người bị Pháp quy kết là chủ mưu. Phan Châu Trinh đã bị bắt ngày
31-3-1908 tại Hà Nội, theo đúng ý đồ thâm độc của Khâm sứ Trung Kỳ Lévecque, bị giải về Huế
để xử và Phủ Phụ chính đã xử bản án đầu tiên ngày 10-4-1908.
Trong số 8 thành viên của Phủ Phụ chính có Thượng thư Bộ Lễ Lê Trinh. Thượng thư
Lê Trinh và Phan Châu Trinh vốn ở cùng Bộ Lễ. Sau khi thi đỗ phó bảng khoa thi hội năm Tân
Sửu, Thành Thái 13 (năm 1901), Phan Châu Trinh vào làm quan ở Bộ Lễ với chức hành tẩu,
ngạch kiểm thảo. Vậy là ở Bộ Lễ có hai ông Trinh, một ông là thủ trưởng, một ông là thuộc viên.
Nhưng Phan Châu Trinh chỉ làm quan cho có lệ. Ông thường hay đi đây đi đó để tìm người đồng
chí hướng, mưu việc lớn, nên hay bỏ việc quan, đến mức Thượng thư Lê Trinh phải cười bảo:
“Một anh thừa biện của Bộ tôi mà cả năm tôi không thấy mặt”. Ông Lê Trinh xử Phan Châu Trinh
là xử thuộc viên dưới quyền.
Theo những thông tin không đúng lưu truyền lâu nay thường cho rằng chính Nam triều
đã xử tử hình Phan Châu Trinh, nhờ có Liên minh Nhân quyền (Pháp) can thiệp nên án tử hình
mới được đổi thành khổ sai chung thân. Sự thực không phải như vậy. Theo những tài liệu mới do
bà Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh), cháu ngoại cụ Phan Châu Trinh sưu tầm tại Trung tâm lưu
trữ quốc gia hải ngoại Pháp (Centre des Archives d’Outre mer, viết tắt là CAOM), được tập hợp in
vào sách “Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới”, NXB Đà Nẵng, 2001, cho biết, trong quá
trình xét xử Phan Châu Trinh tại Huế, chính Khâm sứ Trung Kỳ Lévecque đã “cố gò Phủ Phụ
chính vào quyết định “trảm quyết” nhưng nhờ lương tri và dũng khí của các thượng thư, nổi bật
nhất là hai cụ Cao Xuân Dục và Lê Trinh, đã dám lên tiếng cãi lại Lévecque với sự đồng tình của
toàn Phủ Phụ chính. Nhờ vậy mà Phan Châu Trinh đã thoát án chém tức thì, lãnh án chém nhưng
giam lại” (sách đã dẫn, quyển 2, tập 1, trang 8). Bà Lê Thị Kinh đánh giá: “Đây là công lao của
Phủ Phụ chính thời Duy Tân năm thứ hai, còn nặng bất bình với thực dân trong việc phế truất vua
Thành Thái” (sách đã dẫn, quyển 2, tập 1, trang 9). Quả đúng vậy, chính Toàn quyền Đông Dương
Bonhoure qua một bản báo cáo tổng hợp về dân biến Trung Kỳ ngày 22-7-1908 gửi Bộ Thuộc địa
Pháp đã phải thừa nhận có “sự bất bình trong giới thượng lưu An Nam đối với việc phế truất
Thành Thái” (sách đã dẫn, quyển 2, tập 1, trang 62).
Diễn tiến vụ án phải nói là khá hiểm nghèo cho nhà yêu nước Phan Châu Trinh, bởi ý
đồ áp đặt thâm hiểm từ phía Lévecque. Tại bản án đầu tiên của Phủ Phụ chính xử Phan Châu
Trinh ngày 10-4-1908, mặc dù kết luận rằng Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu là “đồng đảng”
và “phạm tội phản nghịch”, nhưng Phủ Phụ chính đã phân định rằng Phan Bội Châu hiện đang ở
nước ngoài, còn Phan Châu Trinh chỉ mới ở trong nước, “vì vậy khi làm án phải phân biệt trường
hợp của hai người có khác nhau, người đã thực hiện và người chưa thực hiện”. Cho rằng Phan
Châu Trinh có “âm mưu phản nghịch nhưng chưa thực hiện”, Phủ Phụ chính đã không xử tử hình
(chém ngay) Phan Châu Trinh (án tử hình theo luật lúc đó chỉ áp dụng trong trường hợp “phạm tội
phản nghịch, nghĩa là phản lại nước mình để đi theo một nước khác” và việc phản nghịch đó đã
thực hiện) mà xử nhẹ hơn ở mức án giảo giam hậu (thắt cổ cho chết, nhưng không thi hành án
ngay mà giam lại), đày đi Lao Bảo và cấm cố chung thân, không được ân xá. Bản án “nhân đạo”
này đã bị Khâm sứ Lévecque bác ngay trong phiên họp ngày 11-4-1908. Lévecque cho rằng Phủ
Phụ chính đã nhầm lẫn trong việc áp dụng pháp luật. Theo Lévecque, Phủ Phụ chính đã vận dụng
điều 224 về “mưu loạn vị hành” (mưu loạn nhưng chưa làm) để xử giảo án treo cho Phan Châu
Trinh là không đúng, vì không thể nói Phan Châu Trinh mưu loạn mà chưa làm, chính Phan Châu
Trinh đã tổ chức “sách động” dân chúng, đã hoạt động gây ảnh hưởng không chỉ ở Quảng Nam
mà cả ở các tỉnh Trung Kỳ, đã đi từ Nam chí Bắc tổ chức những Hội kín, liên lạc thường xuyên
với Phan Bội Châu…Điều thú vị là qua văn bản của Lévecque bác bản án của Phủ Phụ chính,
Lévecque đã trích dẫn cho biết về các luận điểm của hai vị đại thần Phủ Phụ chính là Lê Trinh và
Cao Xuân Dục (Thượng thư Bộ Học, người trước đó, lúc còn làm Hải phòng sứ tỉnh Hải Dương
đã từng vác ghế đánh một tên Công sứ Pháp do có thái độ khinh miệt quan lại Nam triều) xử
“bênh” cho Phan Châu Trinh: “Quan Thượng thư Bộ Lễ (tức Lê Trinh-chú thích của người viết)
yêu cầu chú ý là cho đến nay những người biểu tình chưa hề sử dụng vũ khí…Quan lớn Cao Xuân
Dục tuyên bố “điều 224 không nêu phải trảm quyết ngay” (sách đã dẫn, quyển 2, tập 1, trang 26).
Vì muốn “trảm quyết” (chém ngay) Phan Châu Trinh, Lévecque cho rằng không thể áp dụng điều
224 về “mưu loạn vị hành” (mưu loạn nhưng chưa làm) để xử tội trạng Phan Châu Trinh được mà
phải áp dụng điều 223 về “tội làm loạn” mới đúng. Từ đó, Lévecque nhắc Phủ Phụ chính “phải áp
dụng đúng đắn văn bản pháp luật, không để cho những suy nghĩ khác chi phối”, phải “xem xét lại
bản án này”. Nhưng với “lương tri và dũng khí của Phủ Phụ chính đã dám cưỡng lại lệnh Khâm
sứ, đứng đầu là Cao Xuân Dục và Lê Trinh”, như đánh giá của bà Lê Thị Kinh, rút cuộc, bản án
thứ hai của Phủ Phụ chính làm lại (sau khi đấu tranh với Lévecque) ngày 11-4-1908 và Lévecque
đã phải duyệt vẫn chỉ xử Phan Châu Trinh với án trảm giam hậu (chém nhưng giam lại) và đày
chung thân cấm cố ở Lao Bảo (sau đó, Lévecque và Toàn quyền Pháp đã đổi thành đày đi Côn
Đảo).
Có một điểm đặc biệt đáng chú ý, công lao của Phủ Phụ chính (dĩ nhiên trong đó có
phần quan trọng của Thượng thư Lê Trinh) giúp cho Phan Châu Trinh thoát chết đã được ghi
nhận, khẳng định với nhiều cảm kích qua bản điều trần bằng Pháp văn có tựa đề “Những cuộc
biểu tình năm 1908 của dân Trung Kỳ-Đơn xin ân xá” với chữ ký Phan Châu Trinh ngày 8-4-1912
tại Paris gửi Liên minh Nhân quyền Pháp để chuyển đến Bộ trưởng Thuộc địa Pháp, có đoạn:
“Trong một thời gian ngắn nhiều bản án đã được chính quyền Pháp phê duyệt xử phạt các nhà nho
bị bắt, trong đó có tôi, người thì án tử hình, người thì án lưu đày hoặc khổ sai chung thân. Tôi xin
nói rõ ở đây, để làm rạng danh họ, rằng một số vị quan Triều đình Huế, mặc dù bị sức ép của Toà
Khâm sứ, đã từ chối ký vào bản án tử hình của tôi vì họ chẳng tìm ra điều gì để buộc tội tôi, ngoài
một điều là tôi đã không làm vừa lòng một số quan chức. Nhân đây, tôi xin tỏ lời khen về một chút
liêm sỉ còn sót lại trong các bản án man trá chứa đựng biết bao điều tàn bạo” (sách đã dẫn, quyển
4, tập 1, trang 258-259).
Đem so sánh vụ xử án Phan Châu Trinh với vụ xử án chí sĩ Trần Quý Cáp liền sau đó,
có thể nói rằng “rút kinh nghiệm” qua vụ xử Phan Châu Trinh không theo đúng ý đồ thâm độc của
Lévecque, thực dân Pháp đã tiến hành “xử nóng” ngay Trần Quý Cáp. Sau khi Trần Quý Cáp bị
Công sứ Nha Trang bắt giữ ngày 17-4-1908, Lévecque đã không cho giải ông về Huế để Phủ Phụ
chính xử theo thông lệ nữa mà giữ lại Nha Trang rồi ép các quan tỉnh ở đó làm án trảm quyết ngay
tại chỗ, giết Trần Quý Cáp ngày 17-5-1908 bên cầu Phước Thạnh, sông Con, Khánh Hoà. Hẳn
Lévecque ngại rằng “xử theo thông lệ” như vụ Phan Châu Trinh dễ khiến cho Trần Quý Cáp lại
gặp may thoát khỏi án chém?
Từ trường hợp Phụ chính đại thần, Hiệp biện đại học sĩ, Thượng thư Bộ Lễ Lê Trinh
dẫu làm quan trong thế kẹt: vận nước ngàn cân treo sợi tóc, không ít vị quan chỉ là bù nhìn hoặc
cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp, ông vẫn tìm cách lo nước, thương đời theo cách riêng của
mình, trường hợp đó đã chứng tỏ phẩm chất và tiết tháo nhà nho đáng quý, đáng trân trọng của
ông. Trong bài thơ tự hoạ về chân dung của mình, ông viết: “Đan tâm chiếu xuất nan” (Lòng son
khó tỏ bày), khó là do thế kẹt của thời cuộc, nhưng dẫu sao, ông đã ít nhiều chống chọi được với
thế kẹt đó, không xu thời, buông xuôi, để tỏ được “lòng son” của mình qua việc tôn phò vua yêu
nước, xử bênh cho nhà duy tân cứu nước. “Lòng son” đó đã khiến cho vua Duy Tân và nhà duy
tân nổi tiếng Phan Châu Trinh cảm kích (như trên đã chứng minh). Trường hợp Thượng thư Lê
Trinh đã góp phần nói lên tấm lòng trung trinh của người Quảng Trị trước sóng gió lịch sử, nói lên
cái “văn chất bân bân” (văn chất rờ rỡ) của người Quảng Trị mà vua Tự Đức đã từng ngợi khen.
______________________
1
Viện Hàn lâm Khoa học và Văn học Réunion được thành lập năm 1913. Năm 1925, do Paul Harman
làm chủ tịch, ông đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Toàn lãnh thổ Réunion. Viện Hàn lâm này gồm 25 thành viên
trong số đó có Joseph Bédier và Đô đốc Lacaze là Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp.
2
"Đưa hài cốt vua Duy Tân về nước", trong Nhân Dân 3/4/87. "Lễ tưởng niệm và cải táng hài cốt vua
Duy Tân được tổ chức trọng thể tại Huế", trong Nhân Dân 7/4/87. "Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Phạm Văn
Đồng tiếp các con của cựu hoàng Duy Tân", trong Nhân Dân 12/4/87.
3
Nếu không kể ông Dục Đức mà cũng có người coi là đã được làm vua trong ba ngày.
4
Xem "Cụ Trần Cao Vân" của Hành Sơn, nxb Minh Tân, Paris 1952.
5
Về ngày thoái vị này, cuốn "Tổng khởi nghĩa tháng tám 1945", nxb Sự thật, 1985 thì ghi là
30/4/1946, chứ "Encyclopaedia Universalis" lại đề là ngày 25/8/1945.
6
"Vua Duy Tân" của Minh Phú, trong báo Hà Nội mới ngày 5/4/1987.
7
Các vua triều Nguyễn có lệ không phong hoàng hậu, không đặt tể tướng, không lấy trạng nguyên.
Trường hợp vua Bảo Đại với hoàng hậu Nam Phương là ngoại lệ.
8
"Gặp các bà hoàng cuối triều Nguyễn", trong tập san Sông Hương, số 9 (tháng 9/1984), có in lại
trong Đoàn Kết, số 372 (tháng 7/1985).
9
"Le tragique destin d'un empereur d'Annam, Vinh-San/Duy-Tân", của E.P.Thébault, trong France-
Asie-Asia, số 200, 1er semestre 1970, trang 3-40. Ông E.P.Thébault có lúc đã là đổng lý văn phòng của toàn
quyền gaulliste Capagorry ở La Réunion khoảng năm 1942-1943 khi đảo này chuyển từ chính quyền Vichy sang
chính quyền De Gaulle, và quen biết ông Duy Tân nhiều. Tài liệu này nói khá kỹ và có đưa bằng chứng.
10
"Chronique d'Indochine, 1945-1947", của đô đốc Thierry d'Argenlieu, nxb Albin Michel, 1985,
trang 436-437.
11
"Le général De Gaulle et l'Indochine, 1940-1946", (colloque tenu par l'Institut Charles De Gaulle
les 20 et 21 février 1981, actes établis par Gilbert Pilleul), nxb Plon, 1982.
12
"Le tragique destin d'un empereur d'Annam, Vinh-San/Duy-Tân", của E.P.Thébault, trong France-
Asie-Asia, số 200, 1er semestre 1970
13
Theo ông E.P.Thébault kể thì sắc lệnh này không đăng trong công báo Journal Officiel, nhưng ông
ta có xin được một bản sao của Bureau central d'archives administratives militaires.
14
Trong "Mémoires de guerre (1940-1945)", tập 3, nxb Plon, 1959, trang 230 và 231, ông De Gaulle
viết: "Aux fins qui pourraient être utiles, je nourris un dessein secret. Il s'agit de donner à l'ancien empereur Duy-
Tan les moyens de reparaitre, si son successeur et parent Bao-Dai se montre, en définitive, dépassé par les
évènements.[...]. C'est une personnalité forte. [...]. Le 14 décembre, je le recevrai pour voir avec lui, d'homme à
homme, ce que nous pourrons faire ensemble. Mais quelles que soient les personnes avec qui mon gouvernement
sera amené à conclure les accords, je projette d'aller moi-même les sceller en Indochine dans l'appareil le plus
solennel, quand le moment sera venu".
15
"Le général De Gaulle et l'Indochine, 1940-1946", (colloque tenu par l'Institut Charles De Gaulle
les 20 et 21 février 1981, actes établis par Gilbert Pilleul), nxb Plon, 1982.
16
a) Theo 8, trang 33, ông Duy Tân kể cho ông E.P. Thébault là: người Anh đề nghị cho ông 30 triệu
để ông từ bỏ ý định trở về ngôi vua. b) Tướng Gracey, tư lệnh quân đội Anh ở Việt Nam lúc đó, thì hết sức giúp
quân Pháp đổ bộ vào. c) Theo 10, trang 203, thì đô đốc Mounbatten (hầu tước Anh, tư lệnh quân đội Đồng Minh
ở Đông Nam Á) sau này kể lại với Ph.Devillers là ông ta tiếc rằng lúc đó hội nghị Potsdam không trao quyền
giải giáp quân Nhật trên toàn lãnh thổ Việt Nam cho người Anh: ông ta có thể làm trung gian giữa cụ Hồ và
người Pháp để điều đình; ông ta nói là tướng Gracey đã vượt quyền.
17
Nguyên văn: Puis il (Vĩnh San) m'affirma que De Gaulle et lui étaient tombés assez vite d'accord
sur les points essentiels et notamment sur la réunion des trois kỳ. De Gaulle, sans l'accepter formellement,
semblait y être favorable: "Il y viendra nécessairement", me dit Vĩnh San.
18
Nguyên văn: C'est donc sans plan nettement défini qu'il [De Gaulle] reçoit le prince Vĩnh San. Il
veut jauger l'homme, lequel ne veut qu'une chose: qu'on le replace à la tête de l'Annam et qu'il puisse y servir.
19
Ông De Gaulle từ chức (tháng 1/1946) do thời cuộc ở Pháp, và ông chỉ trở lại cầm quyền 13 năm
sau (tháng 5/1958). Ông đã đổi ý (trở thành thuận) về nền độc lập thống nhất của Việt Nam vào lúc nào, để đi tới
tuyên bố ngày 29/8/1963 và bài diễn văn của ông đọc tại Phnôm Pênh ngày 1/9/1966, thời Mỹ đang can thiệp ở
Việt Nam?
[Lời bổ sung 1998: Có lẽ cần kể thêm là con ông ta, đô đốc Philippe de Gaulle, có lẽ muốn gỡ trách
nhiệm cho cha, có viết trong hồi ký của mình "Mémoires accessoires, 1921-1946", nxb Plon, 1997, trang 392, là
đầu tháng 12/1945, đô đốc D'Argenlieu có xin ý kiến tướng De Gaulle về việc chấp nhận từ "độc lập" trong khi
điều đình với Việt Nam, thì tướng De Gaulle cho ý kiến thuận. (Nguyên văn: Au début de décembre, il [Jean
Sainteny] y rencontre Ho Chi Minh et, à la fin du même mois, l'amiral d'Argenlieu demande au général de
Gaulle, qui répond affirmativement, si le terme d’ "indépendance" peut être accepté dans les accords et, puisque
Bao Dai a abdiqué fin août, et si le retour de l'ex-empereur Duy Tan (prince Vinh San) serait envisageable. Mais
ce dernier a trouvé la mort dans un accident d'avion à Madagascar (sic) deux jours auparavant. [...] Le général de
Gaulle aura quitté le pouvoir le 20 janvier (1946). A partir de cette date, la question indochinoise lui échappe).
Đấy chỉ là những lời chứng, không có văn kiện làm bằng, mà lại không phù hợp với những lời chứng khác.
Thêm vào đó, vài chi tiết mà đô đốc Philippe de Gaulle nêu ra, (thí dụ như khi ông ta kể ông Duy Tân bị nạn
máy bay ở Madagascar (sic)), không phù hợp với sự thực]
20
"Duy-Tân", trong Đoàn Kết số 392 và số 393, 1987.
21
"Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc", nxb Hà Nội 1983 của Phạm Khắc Hoè. Ông Phạm
Khắc Hoè trước là ngự tiền văn phòng tổng lý của vua Bảo Đại, lúc trước Cách mạng Tháng tám 1945. Theo ông
Hoè kể lại: tháng tư 1947, ở Sài Gòn ( lúc đó thuộc vùng quân đội viễn chinh Pháp chiếm), ông tìm gặp cựu
hoàng hậu Nam Phương (vợ Bảo Đại). Xin trích lại đây (trang 259-260) một mẩu câu chuyện ông Hoè nói với bà
Nam Phương. (Ông Hoè nói:)
- Chủ trương của thực dân Pháp là dựng nên một chính phủ mà họ gọi là chính phủ quốc gia để chống
lại chính phủ kháng chiến của cụ Hồ mà họ gọi là cộng sản. Đó là chính sách "chia để trị", chính sách "dùng
người Việt đánh người Việt", tạo điều kiện cho thực dân Pháp đô hộ dân tộc ta mãi mãi. Vai trò chủ tịch chính
phủ quốc gia bù nhìn ấy lúc đầu (tức tháng 10/1945), tướng Đờ-Gôn đã quyết định giao cho cựu hoàng Duy Tân.
Duy Tân đã nhận lời và được phép bay đi Rê-uy-ni-ông thăm vợ con trước khi trở về Việt Nam. Nhưng Duy Tân
đã bị tử nạn trên trời châu Phi. Duy Tân chết, thực dân Pháp lại muốn sử dụng Thành Thái, nhưng Thành Thái đã
cương quyết từ chối. Cho nên cuối cùng, họ phải quay về cái mà họ gọi là - xin lỗi ngài - "con bài Bảo Đại" hoặc
"con bài Bảo Long-Nam Phương"... [...]. Để chơi con bài này [...], thực dân Pháp đã đưa tôi từ Hoả Lò, Hà Nội
vào... Đưa Trần Trọng Kim từ Hông Kông về... đưa đại uý Bông từ Pháp sang... và xui Phan Văn Giáo mở cuộc
vận động khôi phục quân quyền... (Họ) đang tiếp tục làm đủ mọi cách, tìm đủ mọi người để hòng một lần nữa -
xin ngài tha lỗi - lôi cuốn cả gia đình ngài vào cạm bẫy của họ... [...].
(Vẫn theo ông Hoè kể, thì bà Nam Phương có trả lời như sau:
- [...] Ngày mai, tôi sẽ biên thư cho nhà tôi, kể tất cả những điều ông vừa cho biết để nhà tôi đề phòng
không bị lôi cuốn vào cạm bẫy của bọn thực dân...[...]
(Chú thích: Lúc này ông Bảo Đại đang ở Hồng Kông. Mấy tháng sau, ông Hoè ra chiến khu Việt Bắc
tham gia kháng chiến).
[Lời bổ sung 1998: Nhưng trong cuốn "Bao Dai ou les derniers jours de l'Empire d'Annam", nxb JC
Lattès, 1997, tác giả Daniel Grandclément lại có cái nhìn khác về vai trò và tính toán của bà Nam Phương: nhà
báo này đưa giả thuyết là bà Nam Phương muốn lập lại chế độ quân chủ, với giải pháp Bảo Long, con trai
trưởng, lên ngôi và bà ta phụ chính].
22
Xin phân biệt giữa: cờ "long tinh" (vàng, một sọc đỏ ở giữa, rộng một phần ba chiều rộng, chạy dài
suốt lá cờ), là cờ của Nam triều, lúc còn Pháp bảo hộ ; cờ "quẻ ly" (vàng, hai sọc đỏ trên và dưới, kẹp hai gạch
đỏ cách đôi ở giữa, như một chữ "vương đỏ không (cột) sống), là cờ thời "độc lập-thuộc Nhật-chính phủ Trần
Trọng Kim", và cờ "ba sọc" (vàng, ba sọc đỏ).(...).
[Lời bổ sung, 2001 : Nhân đọc cuốn sách Người Việt ở Pháp 1940-1954 của Đặng Văn Long 1997,
trang 403, tôi thấy kể là vào đầu năm 1946, ở một số trại công binh Việt Nam ở Pháp có nhận được một bản
"Thuyết minh" của cựu hoàng Duy Tân, làm tại Paris 14/12/1945, (12 ngày trước khi ông Duy Tân bị tử nạn máy
bay, nhưng đầu năm 1946 mới phát ra), trang đầu có hàng chữ "Duy Tân hoàng đế di chiếu", kèm theo một bài
sấm Trạng Trình, lời lẽ kỳ lạ. Bài sấm Trạng Trình đó như sau:
Vội đi tìm lại tổ xưa,
Lưng giời nhiệt khí hoả lô thăng hà,
Thầy Tăng nguyện chú phân ba,
Còn là cơ vị, mất là ngẫu phân.
Quỷ xa tranh với quỷ gần,
Hổ mang cuốn khúc, ngũ tuần đông lai.
"Di chiếu" thật của cựu hoàng Duy Tân, hay là di chiếu giả do nhà cầm quyền thực dân bày ra? Tôi
liên tưởng tới sự việc sau đây : hồi 1949, lúc tôi còn ở quê (lúc này Pháp đã ký với cựu hoàng Bảo Đại), quân
đội viễn chinh Pháp có rải truyền đơn một bài sấm Trạng Trình, tôi nhớ mang máng (không bảo đảm chính xác
câu chữ ) bốn câu như sau, lời lẽ rất thô thiển như sau:
Ô hô thế sự bềnh bồng,
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông,
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,
Nguyễn vô thành nội huyết do hồng (!?).
Chiến tranh tâm lý đôi khi nhắm vào những gì thô thiển? Cũng tội nghiệp cho Trạng Trình, bao nhiêu
lần bị người ta lợi dụng tên để chế biến ra những câu tiên tri giả.
23
Sau khi thoái vị, ông Bảo Đại, nay trở thành ông Vĩnh Thụy, được Hồ chủ tịch mời ra Hà Nội làm
Cố vấn tối cao cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tháng 3/1946, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà (lúc đó là chính phủ liên hiệp các đảng phái) cử một phái đoàn thân thiện đi Trùng Khánh (lúc đó là thủ đô
của chính quyền Tưởng Giới Thạch, mà quân Tưởng lại đang đóng ở nước ta, từ vĩ tuyến 16 trở lên). Khi phái
đoàn trở về thì ông Vĩnh Thuỵ ở lại (theo 18 đã dẫn thì ông ta bỏ không về; còn theo ông Lê Tùng Sơn, Nhật ký
một chặng đường, nxb Văn học Hà Nội 1978, thì lúc ấy tình hình trong nước rất lộn xộn, nên Hồ chủ tịch cho
điện bảo ông ta tạm ở lại Trung Quốc chờ lệnh mới; còn chính ông ta thì kể trong cuốn Dragon d'Annam là ông
ta nhận được thư cụ Hồ bảo tạm ở lại). Sau ông ta sang Hồng Kông. Cuối 1947, chính quyền Pháp bắt đầu tiếp
xúc với cựu hoàng Bảo Đại ở Hồng Kông, rồi ở vịnh Hạ Long (6/12/1947) rồi Genève (12/1/1948), rồi Paris
(8/3/1949).
[Chú thích bổ sung, 1998: Có người lưu ý rằng mỗi lần quân đội viễn chinh Pháp thua quân kháng
chiến (cụ Hồ) một đợt, thì lại nhả ra cho... ông Bảo Đại một chút. Thế mà ngay khi ký Thoả ước Elysée 8/3/1949
với ông Bảo Đại (có Trần Văn Hữu và Bửu Lộc), chính quyền Pháp lúc đó vẫn chưa chịu dứt khoát nhả "thống
nhất" dù chỉ là trên giấy tờ. Cũng phải đến 23/4/1949, khi ông Bảo Đại cho biết chỉ chịu về Việt Nam (tất nhiên
là theo nghĩa vùng Pháp kiểm soát) nếu Nam Kỳ tái nhập vào Việt Nam, thì Hội đồng Nam Kỳ (do chính quyền
Pháp đặt ra) mới biểu quyết sự tái nhập này của Nam Kỳ vào "Quốc gia Việt Nam".
Cũng có người lưu ý rằng: khi ông (Bảo Đại) du học ở Pháp về làm vua, tuy chẳng còn quyền hành gì
vì chính quyền bảo hộ Pháp nắm giữ hết, ông cũng có được một cử chỉ tân tiến là thay lễ "lạy (vua) năm lạy"
bằng "vái ba vái" (hành tam khấu lễ) ; hồi tháng 3/1945 Nhật đảo chính Pháp, triều đình Huế tuyên bố bãi bỏ
Hiệp định Pháp bảo hộ, ông cũng có được câu "Dân vi quí" (câu của Mạnh tử: Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh, nghĩa là dân là quí, rồi mới đến nhà nước, còn vua là "nhẹ"); hồi Cách mạng Tháng tám 1945, lúc ông
thoái vị cũng có được câu "ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ"; mấy tháng làm Cố vấn
tối cao bên cụ Hồ, thái độ của ông chẳng có gì đáng trách. Nhưng sau ông ký kết với chính quyền Pháp, dần dần
bắt lính người Việt, thành lập quân đội dưới sự chỉ huy của Pháp, với sự viện trợ của Mỹ, chuyển màu da của
chiến tranh (dù cho vì "chiến tranh lạnh thế giới" và thời cuộc đẩy đưa), thì trách nhiệm của ông lại nặng. Viết
những dòng này, tôi nghĩ rằng: xét người cũng như xét sự việc, nên đánh giá từng giai đoạn, không nên đem giai
đoạn sau gán cho giai đoạn trước, hay ngược lại.
(Có lẽ cũng nói thêm là, đọc lại mấy tờ báo Pháp vào những ngày 19, 20, 21, 22 tháng 12 năm 1946
nghĩa là vào những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, thì thấy họ chẳng phân biệt người Việt Nam quốc gia,
người Việt Nam cộng sản gì hết, chỉ thấy họ nói đến quyền lợi của Pháp ở Đông Dương...)].
24
"Duy Tân, một nhà vua, một con người", trong báo Đại Đoàn Kết, ngày 15/4/1987.
[Chú thích bổ sung, 1998: Ông Phạm Huy Thông có viết: [...] Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết
thúc, chúng tôi ở Pháp đã có dịp tình cờ gặp ông [Vĩnh San] trên đường phố Pa-ri. Tôi đã tiếp xúc ông, trong
quân phục thiếu tá Pháp, ở căn phòng quận sáu Pháp. Đã nói chuyện chừng một tiếng đồng hồ với con người bé
nhỏ, điềm đạm, thông minh ấy, thăm dò ý tứ nhau. Tôi đã chụp chung một tấm ảnh mà, sau đó, để tránh mọi sự
hiểu lầm có thể có với diễn biến của tình thế, tôi đã huỷ đi, huỷ cả phim. Không bao lâu, báo chí đăng tin thiếu tá
Vĩnh San, hoàng đế An Nam cũ, qua đời vì rủi ro. [...] theo tôi biết, ông không bao giờ hối tiếc việc đã làm thời
niên thiếu. Cũng không được quên ý Bác Hồ dạy chúng tôi, thời chúng tôi ở Pháp mới đến với cách mạng Việt
Nam : trong mỗi người Việt Nam từ xưa vẫn thường có một người dân yêu nước. [...]
(Ông Phạm Huy Thông(1916-1988) trước du học ở Pháp, tiến sỹ Luật, agrégé Sử Địa ở Pháp. Thời
gian ở Pháp, ông hoạt động trong phong trào Việt kiều. Năm 1946, ông làm thư ký cho Hồ Chủ tịch khi Chủ tịch
sang Pháp đàm phán. Năm 1952, ông bị chính quyền Pháp trục xuất về Sài Gòn, ở đó ông tham gia đấu tranh
chính trị, là Tổng thư ký phong trào vận động hoà bình (1954), bị bắt nhiều lần, và rốt cục bị trục xuất ra Bắc
(1955); ở đó ông giữ nhiều nhiệm vụ trong các tổ chức như Mặt trận Tổ quốc, Uỷ ban bảo vệ hoà bình thế giới
của Việt Nam, vv. Ông làm hiệu trưởng Đại học sư phạm, rồi phó chủ nhiệm Uỷ Ban Khoa học Xã hội, viện
trưởng viện Khảo cổ. Ông là nhà thơ, nhà khảo cổ, nhà ngôn ngữ học, nhà sử học,...)].
25
Xin chân thành cảm ơn các anh Hải Vân, P.Q. và T.T.Hiệp đã giúp tôi một số tài liệu.
26
Xin kể thêm rằng ngày 28/3/1987, trong lễ truy niệm ở chùa Vincennes (Pháp) trước khi đưa hài cốt
cựu hoàng Duy Tân về nước, một nhóm người muốn trưng cờ vàng ba sọc đỏ. Ông Georges Vĩnh San (con trai
ông Duy Tân) và gia đình đã cương quyết bác bỏ.
27
Sau này là ngoại từ của cựu hoàng Bảo Đại
28
Người cùng một làng với người soạn cuốn sách này. Nguyến Đắc Xuân
29
Theo Việt nam phật giáo sử luận, cho biết bà sinh công chúa lúc 20 tuổi (1904)
30
Theo Danh lam xứ Huế, Hội Nhà văn, trang 322
31
Theo Nguyễn Lang, Việt nam phật giáo sử luận, tập 3), Văn học Hà nội, 1994, tr. 294
32
Chưa rõ lịch sử, phải xem lại
33
Vua Thành Thái nhắc chuyện xảy ra 1883, phụ chính Đại thần Trần Tiễn Thành khi dọc Di chiếu
của vua Dục Đức, đã đọc nhỏ đoạn nói các tính hư tật xấu của vua Dục Đức, hai ông quyền thần Nguyễn Văn
Tường và Tôn Thất Thuyết vin vào cớ đó mà buộc tội Trần Tiễn Thành. Cai chết của Trần Tiễn Thành đã được
báo hiệu từ đó.
34
Tên thật Nguyễn Hữu Đông.
35
Có tài liệu lại thnật vua Duy Tân đã trả lời Sogny rằng: “Ông tưởng tôi giấu súng sáu hả? Ông đừng
sợ. Tôi làm việc đại sự lỡ bị thất bại còn cần chi những việc của tiểu nhân”.
36
Tướng De Gaulle nói với de Boissieu: “Thiếu tá đã biết hoàng thân Vĩnh San ở trên tàu Léopard và
ở Réunion, hãy nói chuyện với ông ta cố làm sao biết được ông ta nhìn tương lai đất nước ông ta ra sao, vai trò
ông ta đóng một khi về nước sẽ như thế nào. Dẫn cho ông ta thấy những đơn vị hùng hậu của chúng ta, đặc biệt
của đơn vị của các bạn Anh ở sư đoàn 2 thiết giáp. Cho ông tham quan các trường võ bị, thành phố Paris để ông
ta nhìn thấy thế nào là nước Pháp, sau đó tôi sẽ đưa ông ta đến một đơn vị tiền tuyến để ông tham gia trận chiến
cuối cùng của nước Pháp”.
37
Sắc lệnh này theo Thebautt thì không có trong Journal officiel, nhưng ông ta có xin được một bản
sao của Bureau central d' Archives administratives militaires.
38
Memoires de guerre, tập III, Plon, Paris, 1959, trang 269-270
39
Từ dùng để gọi con trai, con gái dòng vua thời nhà Nguyễn
40
Bonfils "Note pour le Directeur de Cabinet", 13-9-1946, 3.341CP CAB (AOM fonds consciller
politique 225)
41
Telegramme P. Messmer 4406 CHA du 26-12-1947
42
Bonfils "Note pour le Directeur de Cabinet", 13-9-1946, 3.341CP CAB (AOM fonds consciller
politique 225)
43
Telegramme P. Messmer 4406 CHA du 26-12-1947
44
Nhân cách vững vàng (từ dùng trong hồi ký của De Gaulle)
45
Trần Văn Đôn, Việt nam nhân chứng, Nhà xuất bản Xuân Thu 1989, trang 48
46
Hồi ký của Thebault trích lại của Bửu Kỉnh, Les Relations entre le General De Gaulle et L'
Empereur Duy Tan, Mondes et Cultures, XI, IV, 7 Decemberes 1984
47
Báo Cải tạo số ra ngày 22-1-1949, trích lại của tác giả Huỳnh Tôn, Vua Duy Tân, Nhà in Kim Sơn,
Hà nội 1949.
48
Mệ Cười, em ruột vua Duy Tân đã nói với Phạm Khắc Hoè, Kể chuyện vua quan triều Nguyễn,
Thuận Hoá, Huế, 1986
49
Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chủng. Nhà xuất bản Xuân Thu, California, 1989, trang 44.
50
Trích lại của Bảo Đại, Le Dargon d' annam, Plon 1980, trang 191.
51
Trích lại của Bảo Đại, Le Dargon d' annam, Plon 1980, trang 191.
52
Chuyện ba vua Dục đức, Thành Thái, Duy Tân. 350 trang. Nhà xuất bản Thuận Hoá, Huế, 1995
53
Về sau ông Hồ Đắc Trung gả bà này cho vua Khải Định
54
Đăng trong Revue d indochinoise năm 1924; bản dịch của Hoàng Trọng Thước.
55
Trích lại chuyện ba vua... Sđd. trang 218
56
Tháng 4.1996, đài phát thanh Pháp phỏng vấn cựu hoàng Bảo Đại có câu: "Tại sao năm 1945, Ngài
lại trao chính quyền cho Việt Minh cộng sản" Cựu hoàng Bảo Đại, một người chống Cộng đã hỏi lại người Pháp:
"Theo ông thì tháng 8-1945 tôi nên trao cho lực lượng nào là xứng đáng nhất?". Nhà báo Pháp đã bí và phải
công nhận việc trao ấn kiếm cho Chính phủ Việt nam DCCH đúng nhất. (Theo giáo sư Trần Văn Khê)
57
NQT Sđd, tr. 559
58
Hoàng Trọng Thược, Hồ sơ vua Duy Tân, Mõ Làng, Paris, 1993, trang 52-53. (Sau đó, Ngô Đình
Khả bị buộc tội lập giáo đường không xin phép, phải về hưu tại nguyên quán xã Đại Phong, huyện Lệ Thuỷ,
Quảng Bình, không được lãnh hưu bổng).
59
Báo Cải Tạo ngày 22-1-1949. (Hoàng Trọng Thược, Hồ sơ vua Duy Tân,.s.đ.d., tr. 75).
60
Hoàng Trọng Thược, Hồ sơ vua Duy Tân, Mõ Làng, Paris, 1993, trang 52-53, trang 373-374.
61
Hoàng Trọng Thược, Hồ sơ vua Duy Tân, Mõ Làng, Paris, 1993, trang 52-53, trang 373-374.
62
Huỳnh Côn, hồi ký, do Jean Jacnal ghi lại bằng tiếng Pháp, đăng trong Revue Indochinoise năm
1924 (Hoàng Trọng Thược, Hồ sơ vua Duy Tân, Mõ Làng, Paris, 1993, trang 52-53, tr.95)
63
Hoàng Trọng Thược, Hồ sơ vua Duy Tân, Mõ Làng, Paris, 1993, trang 52-53, trang 102-106.
64
Nạp Phi: Trừ Gia Long và Bảo Đại, các vua của nhà Nguyễn tuy có vợ theo thứ bậc lớn nhỏ nhưng
không bà nào được phong Hoàng Hậu. Vì từ Minh Mạng, sợ bị tiếm ngôi, nên đặt ra lệ "ngũ bất lập" là: Bất lập
Hoàng Hậu, bất lập Đông Cung, bất lập Tể Tướng, bất phong Vương, bất tuyển Trạng Nguyên. Còn các bà vợ
vua đều gọi là phi, phân thành 9 cấp: đệ nhất Giai Phi, đệ nhị Giai Phi… cho đến đệ cửu Giai Phi. (Hoàng Trọng
Thược, Hồ sơ vua Duy Tân, Mõ Làng, Paris, 1993, trang 52-53, tr.76)
65
Hoàng Trọng Thược, Hồ sơ vua Duy Tân, Mõ Làng, Paris, 1993, trang 52-53, trang 136-137.
66
Hoàng Trọng Thược, Hồ sơ vua Duy Tân, Mõ Làng, Paris, 1993, trang 52-53, trang 143-148.
67
Chỉ dẫn của hoàng tử Vĩnh San, cựu hoàng đế Duy Tân, trong Hồ sơ vua Duy Tân, Hồ sơ vua Duy
Tân, Mõ Làng, Paris, 1993, trang 52-53, trang 253.
68
Lời tiết lộ của cựu Trung tướng Alain de Boissiau, con rể của Tướng de Gaulle, trong Hồ sơ vua
Duy Tân, Mõ Làng, Paris, 1993, trang 52-53, trang 346.
69
Hoàng Trọng Thược, Hồ sơ vua Duy Tân, Mõ Làng, Paris, 1993, trang 52-53, trang 263.