Professional Documents
Culture Documents
Khi trình bày bản chất của nhận thức, trong lịch sử triết học đã xuất hiện một số quan
niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
1.1. Quan niệm về nhận thức của các trào lưu triết học trước Mác
Xuất phát từ chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, chủ nghĩa duy tâm
khách quan coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh hồn bất tử về “thế giới các ý
niệm” hoặc là sự “tự ý thức về mình của ý niệm tuyệt đối”. Còn chủ nghĩa duy tâm chủ
quan lại cho rằng nhận thức chỉ là sự phức hợp những cảm giác của con người.
Những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự vật và biến
sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên tắc của nhận thức. Đến thời
kỳ cận đại, khuynh hướng này phủ nhận khả năng nhận thức của con người. Họ cho rằng
con người chỉ nhận thức được các thuộc tính bề ngoài, còn bản chất bên trong của sự vật
thì không thể nhận thức được.
Đối lập với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật thừa nhận khả năng nhận thức của con
người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con
người. Tuy nhiên do hạn chế bởi tính trực quan, siêu hình nên chủ nghĩa duy vật trước
Mác đã coi nhận thức là sự phản ánh trực quan, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất
động của sự vật. Họ chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước triết học Mác- Lênin đều quan niệm
sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức, những vấn đề về lý luận nhận thức chưa được giải
quyết một cách khoa học, đặc biệt chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
1.2. Quan niệm về bản chất nhận thức của triết học Mác- Lênin
Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý của các học thuyết đã có, khái quát các thành tựu
khoa học, C. Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết biện chứng duy vật về
nhận thức. Học thuyết này ra đời đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức vì
đã xây dựng được những quan điểm khoa học đúng đắn về bản chất của nhận thức. Học
thuyết này ra đời dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý thức của con
người.
Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người, coi nhận thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hoạt động tìm hiểu khách
thể của chủ thể. Không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có cái con người
chưa nhận thức được mà thôi.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng
tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết
nhiều, từ hiện tượng đến bản chất.
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục
đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Dựa trên nguyên tắc đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: nhận thức là quá trình
phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc
con người trên cơ sở thực tiễn.
2. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Trong lịch sử triết học trước Mác, các trào lưu đều có quan niệm chưa đúng, chưa đầy đủ
về thực tiễn. Chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần của con
người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật trước Mác
đã hiểu được thực tiễn là hành động vật chất của con người nhưng lại xem nó là hoạt
động con buôn đê tiện, không có vai trò gì đối nhận thức của con người.
Triết học Mác - Lênin đánh giá phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng,
cơ bản của triết học nói chung và lý luận nhận thức nói riêng. Quan điểm đó đã tạo nên
một bước chuyển biến cách mạng trong triết học.
Vậy thực tiễn là gì?
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng những công cụ
vật chất tác động vào đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Đây
là hoạt động đặc trưng và bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu
khách quan và không ngừng được phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Do
vậy, thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính lịch sử - xã
hội.
Hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính
trị xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động
mà con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra sản phẩm
vật chất nhằm duy trì sự tồn tại thiết yếu của mình.
Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau nhằm
cải biến các mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
Thực nghiệm khoa học là hoạt động được tiến hành trong đều kiện do con người tạo ra
gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các
quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu. Đây là một hình thức đặc biệt của thực tiễn,
nó có vai trò ngày càng tăng trong sự phát triển của xã hội.
Giữa các dạng hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó hoạt động sản
xuất vật chất là cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định. Bởi vì nó là hoạt động khách quan,
thường xuyên nhất tạo ra điều kiện cần thiết để con người tồn tại và phát triển; đồng thời
cũng tạo điều kiện để tiến hành các dạng hoạt động khác. Còn các dạng hoạt động khác
nếu tiến bộ thì tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất vật chất được tăng cường, nếu phản
tiến bộ thì kìm hãm sự gia tăng của sản xuất vật chất.
Chính sự tác động lẫn nhau giữa các dạng (hình thức) hoạt động làm cho thực tiễn vận
động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức.
Con người luôn luôn có nhu cầu khách quan là phải giải thích và cải tạo thế giới, điều đó
bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động
thực tiễn của mình, làm cho các sự vật vận động, biến đổi qua đó bộc lộ các thuộc tính,
những mối liên hệ bên trong. Các thuộc tính và mối liên hệ đó được con người ghi nhận
chuyển thành những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất
các quy luật phát triển của thế giới. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu cần đo đạc diện tích,
đo sức chứa của các bình mà toán học ra đời và phát triển... Suy cho đến cùng không có
một lĩnh vực nào lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ hướng
dẫn thực tiễn.
Mặt khác, nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan con người ngày càng được hoàn
thiện; năng lực tư duy lôgíc không ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện
nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác dụng “nối dài” các giác quan của con người
trong việc nhận thức thế giới. Chẳng hạn, từ công việc điều hành, tổ chức nền sản xuất...
mà đòi hỏi các môn khoa học quản lý ra đời và phát triển.
Hơn nữa, nhận thức ra đời và không ngừng hoàn thiện trước hết không phải vì bản thân
nhận thức mà là vì thực tiễn, nhằm giải đáp các vấn đề thực tiễn đặt ra và để chỉ đạo, định
hướng hoạt động thực tiễn. Chẳng hạn, các môn khoa học quản lý ra đời nhằm giúp các
nhà quản lý tìm ra các biện pháp nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Như vậy, thực tiễn vừa là cơ sở, động lực vừa là mục đích của nhận thức. Không những
thế thực tiễn còn là tiêu chuẩn để kiểm tra kết quả nhận thức, kiểm tra chân lý. Bởi vì
nhận thức thường diễn ra trong cả quá trình bao gồm các hình thức trực tiếp và gián tiếp,
điều đó không thể tránh khỏi tình trạng là kết quả nhận thức không phản ánh đầy đủ các
thuộc tính của sự vật. Mặt khác, trong quá trình hình thành kết quả nhận thức thì các sự
vật cần nhận thức không đứng yên mà nằm trong quá trình vận động không ngừng. Trong
quá trình đó, nhiều thuộc tính, nhiều mối quan hệ mới đã bộc lộ mà nhận thức chưa kịp
phản ánh. Để phát hiện mức độ chính xác, đầy đủ của kết quả nhận thức phải dựa vào
thực tiễn. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm
tra của thực tiễn chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Qua thực tiễn để bổ sung,
điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện kết quả nhận thức. C. Mác viết: “Vấn đề
tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn
toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà
con người phải chứng minh chân lý”.
Thực tiễn quyết định nhận thức, vai trò đó đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan
điểm mà V.I Lênin đã đưa ra: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản nhất của lý luận nhận thức”. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức
phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng
công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi
với hành.
* Lý luận hình thái kinh tế - xã hội; vận dụng làm rõ quan điểm của Đảng ta trong việc
xác định con đường đi lên CNXH của Việt Nam.
Lý luận hình thái kinh tế – xã hội là lý luận cơ bản và giữ một vị trí hết sức quan trọng
của chủ nghĩa duy vật lịch sử do K.Marx xây dựng nên. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội
đã được thừa nhận là lý luận khoa học và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên
cứu lĩnh vực học. Nhờ có lý luận hính thaí kinh tế – xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử xã
hội học C. Mac đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội,
chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Như vậy qua lý luận hình thái kinh tế – xã
hội giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và khoa học vận hành của xã hội trong
mỗi giai đoạn nhất định. Nhưng ngày nay, đứng trước những sự kiện lớn như sự sụp đổ
của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đặc biệt là Liên Xô - ngọn cờ đầu của chủ
nghĩa xã hội, lý luận hình thái kinh tế xã hội bị phê phán từ rất nhiều phía sự phê phán
không chỉ từ phía đối lập của chủ nghĩa Mac- Lênin mà còn cả một số người đã từng đi
theo con đường của chủ nghĩa Mac – Lênin. Nói chung họ cho rằng: lý luận hình thái
kinh tế xã hội đã lỗi thời, lạc hậu không thể áp dụng vào điều kiện hiện nay mà phải thay
thế bằng một lý luận khác. Trước tình hình đó buộc chúng ta làm rõ thực chất của lý luận
hình thái kinh tế xã hội và giá trị về mặt khoa học, tính thời đại của nó là rất cần thiết; về
thực tiễn nước ta đang trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong quá trình đó rất nhiều vấn đề khó khăn được đặt ra đòi hỏi phải nghiên cứu
giải quyết.
+ TÍNH TẤT YẾU CỦA CON ĐƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN.
Nước ta là nước lạc hậu về kinh tế lại bị đế quốc thực dân thống trị một thời gian dài
cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo và lạc hậu .
Đảng ta khẳng định sau khi Việt Nam tiến hành công cuộc cách màng xã hội chủ
nghĩa , xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước tiến từ bản chủ nghĩa bỏ qua chủ nghĩa tư
bản sự lựa chọn trên 2 căn cứ sau đây.
Một là, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi áp bức, bóc
lột bất công đem lại cuộc sống ấm lo hạnh phúc cho nhân dân
Hai là, thắng lợi của cuộc cách mạng thắng lợi Nga năm 1971 đã mở ra một thời đại
mới, tạo khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường CNXH.
Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tợ nhiên của XHCN,
không mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội củ chủ nghĩa Mác Lê-nin. Trong điều kiện cụ
thể sự lựa chọn ấy chính là sự lựa chọn con đường rút ngắn bỏ qua chế độ TBCN.
Con đường CNXH cho phép chúng ta có thể phát triển nhanh lực lượng sản xuất theo
hướng ngày càng hiện đại, giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội phát triển xã hội theo
chiều hướng tiến bộ vừa có thể tránh cho xã hội và nhân dân lao động phải trả giá cho các
vấn đề của xã hội tư bản mà trước hết là chế độ người bóc lột người, là quan hệ bất bình
đẳng người với người.
+ THỰC TIỄN VỀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM.
Sau khi thống nhất đất nước, cả nước đã quá độ đi lên CNXH, đảng ta luôn vận dụng
lý luận của chủ nghĩa M.Lênin trong đó có lý luận hình thái kinh tế xã hội vào việc đề ra
các chủ trương phát triển đất nước, tuy nhiên do chủ quan duy ý trí còn có quan niệm ẫu
trí về CNXH và lo lắng có ngay CNXH lên chúng ta mắc phải một số quyết điểm nghiêm
trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Một là, từ chỗ khẳng định việt nam quá độ thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát
triển TBCN, chúng ta đã có một nhận thức hết sai làm là bỏ qua tất các những gì thuộc về
CNTB, không tiếp thu những yếu tố hợp lý, tích cực của nó vào sự phát triển, vô hình
chúng ta đã từ bỏ những thành tựu của nhân loại đạt được làm cho chúng ta không tận dụng
được các khâu trung gian các bước quá độ cần thiết để vững chăc chế độ xã hội với trên cơ
sở tiếp thu kế thừa có chọn lọc những tinh hoa do nhân loại đã tạo ra.
Hai là, nhận thức nhân gian về CNXH trong quá trình xây dựng CNXH, do chúng ta
nhận thức chưa đầy đủ và hết sưc gian nan về CNXH, và do tư tưởng nôn nóng muốn có
ngay CNXH trong thời gian gắn cho lên dẫn đến thưc hiện xây dựng CNXH chẳng những
chúng ta không đạt được mục tiêu đề ra mà còn phá hoại nghiêm trọng sản xuất và làm nảy
sinh nhiều tiêu cực về xã hội.
Ở nước ta, bệnh chủ quan duy ý trí đã từng thể hiện ở chỗ đánh giá tình hình thiếu
khách quan, say sưa với thắng lợi, không thấy hết khó khăn, phức tạp, vạch ra các mục tiêu
khá cao, coi thường việc khuyến khích lợi ích thực chất, cường điệu động lực tinh thần,
muốn bỏ qua giai đoan tất yếu để tiến nhanh, không tôn trọng các quy luật khách quan.
Sự hình thành và phát triển của XH XHCN cũng như chủ nghĩa xã hội, là một quá
trình lịch sử tự nhiên, tuân theo các quy luột khách quan. Vì vậy, lếu con người muốn thay
đổi xã hội theo ý muốn chủ quan hay muốn dùng mệnh lệnh để xoá bỏ các giai đoạn phát
triển tự nhiên của nó thì không tránh khỏi “sự trớ trêu”.
Đứng trước thực tế, khủng hoảng kinh tế xã hội nảy sinh và ngày trở nên trầm trọng,
Đảng cộng sản Việt Nam đề ra đổi mới đất nước đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
Để thực hiện thắnglợi công cuộc CNXH ở nước ta, chúng ta phải nỗ lực hơn nữa
trong việc nhận thức và sử dụng quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, trong đó về
hình thái xã hội
*Quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng tầng; vận dụng nhận thức
quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay.
- Quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ cảu LLSX là một quy luật cơ bản của sự
vận động, phát triển xã hội, quy luật này nói lên vai trò quyết định của LLSX đối với
QHSX và sự phụ thuộc của QHSX đối với LLSX. Đồng thời nó cũng tác động trở lại
đối với LLSX.
Nội dung quy luật:
- LLSX và QHSX là hai mặt của PTSX, chúng tồn tại không tách rời nhau
mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của toàn
bộ lịch sử loài người – Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất
và trình độ của LLSX.
- Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của QHSX vào sự
phát triển của LLSX. Đến lượt mình QHSX tác động trở lại đối với LLSX.
- Tính chất của LLSX là tính chất của TLSX và của lao động. Khái quát
có 2 hình thức cơ bản là: tính chất các nhân riêng lẻ, hoặc tính chất xã hội.
Còn trình độ của LLSX là trình độ phát triển của sản xuất biểu hiện ở
trình độ phát triển của khoa học công nghệ, công cụ lao động, kỹ thuật,
kỹ năng, tri thức của người lao động, trình độ phân công lao động.
- LLSX quyết định QHSX, vì:
- LLSX là yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất, là nội dung của quá trình
sản xuất, còn QHSX là yếu tố phụ thuộc vào LLSX, nó là hình thức xã
hội của sản xuất nên có tính chất tương đối ổn định, có xu hướng lạc hậu
hơn so với sự phát triển của LLSX.
- LLSX phát triển làm cho QHSX hình thành, biến đổi, phát triển cho phù
hợp với nó. Sự phù hợp của LLSX với QHSX là động lực làm cho LLSX
phát triển.
- Mâu thuẫn giữa LLSX mới với QHSX cũ được giải quyết bằng cách thay
thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với LLSX. Trong xã hội có đối
kháng giai cấp, mâu thuẫn này được giải quyết thông qua đấu tranh giai
cấp, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
- QHSX tác động lại LLSX:
- QHSX tác động lại LLSX ở chỗ, nó quy định mục đích của sản xuất, hệ
thống tổ chức quản lý sản xuất, phương thức phân phối sản phẩm. Do vậy,
nó tác động đến thái độ người lao động. QHSX phù hợp sẽ thúc đẩy LLSX
phát triển và ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
- Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX tác động
trong lịch qua sự thay thế kế tiếp nhau của các PTSX từ thấp đến cao. Đó
là cách nhìn thế giới trên phương diện tổng thể, quy luật chung, xu hướng
chung của lịch sử thế giới. Nhưng thực tế thì lịch sử đã chứng minh rằng,
không phải bất cứ nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự qua các PTSX.
Vận dụng của Đảng ta trong tình hình đổi mới đất nước hiện nay:
- Nghiên cứu nắm vững quy luật này Đảng ta đã vận dụng một cách đúng
đắn, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn cách mạng:
+ Việt Nam lựa chọn con đường đi lên XHCN không qua TBCN là một
sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với sự phát triển của lịch sử. (phân tích
tại sao)
+ Xuất phát từ đặc điểm chủ yếu của Việt Nam là từ sản xuất nhỏ đi lên
xây dựng PTSX XHCN, nên theo quy luật này. Đảng ta cho rằng: phát
triển LLSX, thực hiện CNH – HĐH đất nước là nhiệm vụ trung tâm
của thời kỳ quá độ, nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH,
không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, cải thiện đời sống
nhân dân.
+ Phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, thiết lập từng bước QHSX
XHCN từ thấp đến cao, đa dạng hoá hình thức sở hữu.
+ Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hưỡng
XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước.
Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của
nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
- Giữa CSHT và KTTT có mối quan hệ biện chứng, gắn bó hữu cơ không
tách rời nhau: * CSHT quyết định KTTT:
+ CSHT quyết định KTTT,vì: CSHT là những quan hệ vật chất – kinh
tế nên quyết định các quan hệ xã hội về tư tưởng. Nó quyết định sự
ra đời, cơ cấu, tính chất của KTTT, quyết định sự vận động biến đổi
của KTTT. Tức là, CSHT nào thì sinh ra KTTT đó. Những biến đổi
căn bản trong CSHT sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản
trong KTTT. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế –
xã hội, cũng như khi chuyển từ một hình thái kinh tế – xã hội này
sang hình thái kinh tế – xã hội khác.
+ Khi CSHT cũ mất đi thì KTTT do nó sinh ra cũng mất theo, khi
CSHT mới ra đời thì một KTTT mới phù hợp với nó cũng xuất hiện.
Song có những nhân tố riêng lẻ của KTTT cũ vẫn tồn tại dai dẳng
sau khi cơ sở kinh tế sinh ra nó đã bị tiêu diệt (tàn dư). Cũng có
những nhân tố nào đó của KTTT cũ được giai cấp cầm quyền mới
duy trì để xây dựng KTTT mới.
Kết luận: Như vậy, sự hình thành và phát triển của KTTT do CSHT
quyết định. Đồng thời nó còn có quan hệ kế thừa đối với các yếu tố
của KTTT của xã hội cũ.
* KTTT tác động trở lại CSHT:
Suy cho cùng thì CSHT quyết định KTTT, nhưng KTTT luôn luôn la
lực lượng tác động mạnh mẽ trên toàn bộ các mặt của đời sống xã hội
và tác động tích cực trở lại đối với CSHT sinh ra nó.
Sự tác động tích cực của KTTT đối với CSHT thể hiện ở chỗ:
+ Chức năng xã hội của KTTT là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển
CSHT sinh ra nó, đấu tranh xoá bỏ CSHT và KTTT cũ.
+ Trong các bộ phận của KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp, nhà
nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng, có tác dụng to lớn đối với
CSHT. Nhà nước không chỉ dựa trên hệ tư tưởng, mà còn dựa trên
những hình thức nhất định của việc kiểm soát xã hội, sử dụng bạo
lực, bao gồm những yếu tố vật chất: quân đội, cảnh sát, toà án, nhà
tù,…để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị, củng cố
vững chắc địa vị quan hệ sản xuất thống trị.
+ Trong bản thân KTTT cũng diễn ra quá trình biến đổi, phát triển có
tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với CSHT. Nếu tác động
đó cùng chiều (càng phù hợp) với CSHT thì thúc đẩy sự phát triển
của CSHT và ngược lại thì có tác động cản trở sự phát triển của
CSHT. Đối với tác động của KTTT trở lại CSHT cũng vậy.
Kết luận: Nhw vậy giữa CSHT và KTTT có quan hệ biện chứng với
nhau, trong đó CSHT giữ vai trò quyết định, là nội dung; còn KTTT
có tác động trở lại đối với CSHT, là hình thức biểu hiện của CSHT.
Ý nghĩa và vận dụng của Đảng ta:
Nghiên cứu quy luật này giúp ta nắm được quy luật vận động chung
của xã hội và phương hướng để phân tích sự tác động của nó trong
một hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
+ Giúp ta có cơ sở khoa học để nhận thức và chỉ đạo hoạt động trong
việc giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng CSHT và KTTT ở nước
ta. Mối quan hệ giữa nhân tố kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi
mới đất nước.
+ Quá trình đổi mới đất nước theo CNXH là đổi mới toàn diện trên
tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá tư
tưởng,…Trong khi lấy đổi mới kinh tế làm nhiệm vụ hàng đầu thì
đồng thời phải từng bước đổi mới chính trị cho hù hợp, làm cho kinh
tế, văn hoá xã hội phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện.
+ CSHT trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm nhiều thành phần
kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, có nhiều QHSX gắn với các
hình thức sở hữu khác nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Trong đó phải làm cho
kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể, tạo
thành nền tảng của kinh tế quốc dân.
+ Về KTTT ở nước ta phải xây dựng trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Xây
dựng hệ thống chính trị XHCN do Đảng cộng sản lãnh đạo, trong đó
nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
*Nguồn gốc bản chất của nhà nước; đặc điểm của xã hội CN. Vấn đề xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt nam XHCN hiện nay.
1. Nguồn gốc và bản chất của nhà nước
a) Nguồn gốc của nhà nước
- XH cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước vì:
+ Trình độ của LLSX còn thấp kém, khối lượng sản phẩm chỉ đủ nhu cầu tối thiểu của
các thành viên trong xh.
+ Không có dư thừa làm của riêng, chưa có tư hữu về tài sản, chưa có sự phân chia giai
cấp, chưa có sự bóc lột, do đó chưa có nhà nước.
- Nhà nước đầu tiên trong lịch sử xuất hiện:
+ Thời kì cuối của xh CSNT LLSX phát triển, sự phân công lao động xh được mở rộng
làm cho NSLĐ tăng lên, sản phẩm ngày càng nhiều, xuất hiện điều kiện chiếm đoạt của
cải dư thừa làm tài sản riêng, người có địa vị (tù trưởng, thủ lĩnh quân sự) chiếm đoạt tài
sản.
+ Như vậy, quá trình tư hữu tài sản diễn ra, chế độ tư hữu hình thành, xh phân chia thành
g/c đối lập nhau: g/c bóc lột và g/c bị bóc lột.
+ Do lợi ích đối lập nên mâu thuẫn g/c ngày càng gay gắt không thể điều hoà; để duy trì
quản lí xh, đòi hỏi một tổ chức quyền lực mới, tổ chức đó do g/c chiểm ưu thế về kinh tế
thiết lập sự thống trị g/c bảo vệ lợi ích và địa vị của mình. Tổ chức đó là nhà nước.
b) Bản chất của nhà nước
Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp, do đó nhà nước bao giờ cũng mang bản
chất giai cấp của một giai cấp nhất định – giai cấp thống trị. Bản chất g/c của nhà nước
thể hiện:
- Nhà nước là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của g/c này đối với g/c khác.
Giai cấp thống trị sử dụng nhà nước để duy trì quyền lực về kinh tế, chính trị và tư tưởng
đối với xã hội. Thông qua nhà nước g/c thống trị về KT, trở thành g/c thống trị về chính
trị và tư tưởng; ý chí của g/c thống trị thể hiện thành ý chí của nhà nước, bắt buộc mọi
người phải tuân theo.
- Nhà nước là bộ máy trán áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác.
Lực lượng như quân đội, nhà tù, cảnh sát...để bảo vệ địa vị thống trị và lợi ích của mình
và để đàn áp các giai cấp bị thống trị.
2. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
a) Thế nào là nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- Nhà nước pháp quyền là NN quản lí mọi mặt đời sống XH bằng pháp luật, mọi hoạt
động của các cơ quan nhà nước và công dân đều được thực hiện trên cơ sở pháp luật.
- Nhà nước pháp quyền XHCN: là NN của dân, do dân, vì dân, quản lí mọi mặt đời sống
xh bằng PL do ĐCSVN lãnh đạo.
b) Bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, vì những thành quả cách mạng của quần
chúng nhân dân lao động do g/c công nhân thông qua chính Đảng của mình là ĐCSVN
lãnh đạo.
- Bản chất g/c công nhân của Nhà nước ta được biểu hiện tập trung nhất ở sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản đối với nhà nước.
- Bản chất g/c công nhân của Nhà nước ta bao hàm cả tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc:
+ Tính nhân dân thể hiện: Nhà nước của ta là NN của dân, vì dân, do dân lập nên và nhân
dân tham gia quản lí; thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nd, là công cụ chủ yếu để
nd thực hiện quyền làm chủ của mình.
+ Tính dân tộc thể hiện: NN kế thừa và phát huy những truyền thống, bản sắc tốt đẹp của
dân tộc; NN có chính sách dân tộc đúng đắn, chăm lo lợi ích cho cộng đồng các dân tộc
VN và thực hiện đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược và động lực to lớn để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc
c) Chức năng của Nhà nước pháp quyền XHCNViệt Nam
- Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội:
- Tổ chức và xây dựng, bảo đảm thực hiện các quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp
của công dân:
+Tổ chức xd và quản lí nền KT XHCN
+Tổ chức xd và bảo đảm thực hiện các chính sách xã hội
+ Xây dựng hệ thống PL để bảo đảm thực hiện các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp
pháp của công dân.
d) Vai trò của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong hệ thống chính trị
- Hệ thống chính trị :
- Hệ thống chính trị XHCN ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng CSVN, Nhà nước pháp
quyền XHCN VN, mặt trận Tổ quốc VN và các tổ chức CT - XH khác như: Tổng Liên
đoàn lao động VN, Đoàn TN CS HCM, Hội Liên hiệp Phụ nữ VN, Hội Nông dân VN…
-Vai trò:
+ Thể chế hoá và tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng CS VN, thể chế hoá và
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
+ Tổ chức xây dựng xã hội mới – XHCN.
+ Là công cụ hữu hiệu để Đảng thực hiện vai trò của mình đối với toàn xã hội.
+Là công cụ chủ yếu của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN
XHCN.
3. Trách nhiệm của công dân trong việc tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam
+ Gương mẫu thực hiện và tuyên truyền, vận động mọi người thực hiện tốt đường lối,
chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước.
+ Tích cực tham gia các hoạt động: Xây dựng củng cố, bảo vệ chính quyền; giữ gìn trật
tự, an toàn xã hội.
+ Phê phán, đấu tranh với những hành vy vy phạm pháp luật.
+ Thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch.
+ HS tự liên hệ bản thân.
=>GVKL: Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước cuối cùng đã xuất hiện trong lịch
sử.Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc cách mạng, của QCNDLD do
GCCN lãnh đạo thông qua chính Đảng của nó là ĐCS.Đi lên CNXH chúng ta phải xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân thực hiện mục tiêu: " Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
*Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Ý thức xã hội trong thời kì quá độlên XHCN
ở Việt nam
Nội dung cơ bản như sau:
1. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa duy
vật lịch sử không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh tác
dụng tích cực của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tế - xã hội, nhấn mạnh tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối
biểu hiện ở những điểm sau đây:
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ
tương ứng vẫn còn tồn tại dai dẳng; điều đó biểu hiện ý thức xã hội muốn thoát ly khỏi sự
ràng buộc của tồn tại xã hội, biểu hiện tính độc lập tương đối. Sở dĩ có biểu hiện đó là do
những nguyên nhân sau:
Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội
không phản ánh kịp sự thay đổi đó và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản
ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo
thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp và lực lượng phản tiến bộ thường lưu giữ một
số tư tưởng có lợi cho họ nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Như vậy ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh
chống lại âm mưu và hành động phá hoại những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên
trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ.
b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết học Mác -
Lênin đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người,
đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã
hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người. Sở dĩ có thể vượt trước được là do đặc điểm của tư tưởng khoa học quy định. Tư
tưởng khoa học thường khái quát tồn tại xã hội đã có và hiện có để rút ra những quy luật
phát triển chung của xã hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà
còn dự báo đúng tồn tại xã hội mai sau.
Chẳng hạn, ngay từ khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đang ở trong thời kỳ phát triển
tự do cạnh tranh, Các Mác đã dự báo quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ bị quan hệ sản
xuất tiến bộ hơn thay thế.
Khi nói, tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội thì không có nghĩa ý thức xã
hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định. Mà là, cho đến cùng nó luôn bị tồn tại xã hội
quy định.
c. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển
Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận
của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế
thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước. Thí dụ, chủ nghĩa Mác đã kế thừa
những tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực tiếp là nền triết học Đức, kinh tế học cổ
điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp
của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời
đại trước, Các giai cấp tiên tiến thường kế thừa những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội
cũ để lại. Thí dụ, khi làm cuộc cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng của
giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời đại cổ đại.
Ngược lại, những giai cấp lỗi thời thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, lý thuyết phản
tiến bộ của thời kỳ lịch sử trước. Thí dụ, vào nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các
thế lực tư sản phản động đã khôi phục và phát triển những trào lưu triết học duy tâm, tôn
giáo dưới những cái tên mới như chủ nghĩa Cantơ mới, chủ nghĩa Tômát mới, để chống
lại phong trào cách mạng của giai cấp công nhân.
Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ thì không những phải vạch ra
tính chất phản khoa học của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện tại, mà
còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử.
Do ý thức xã hội có tính kế thừa, nên khi nghiên cứu một tư tưởng nào đó phải dựa và
quan hệ kinh tế hiện và phải chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Có như
vậy mới hiểu rõ vì sao một nước có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư
tưởng lại ở trình độ cao. Thí dụ, nước Đức ở đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã
đứng ở trình độ cao hơn về triết học.
Nắm vững quan điểm kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc
đổi mới của nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng. Đảng ta đã khẳng định,
trong điều kiện mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản
sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc khác trên thế giới, làm giàu đẹp hơn nền văn hoá
Việt Nam.
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng
Ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác nhau, theo nguyên lý mối liên
hệ thì giữa các bộ phận không tách rời nhau, mà thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau.
Sự tác động đó làm cho ở mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không phải
là kết quả phản ánh một cách trực tiếp của tồn tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại tuỳ theo hoàn
cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu sẽ tác động mạnh
đến các hình thái khác. Chẳng hạn ở thời cổ đại Tây Âu thì triết học và nghệ thuật đóng
vai trò đặc biệt. Thời Trung Cổ ở Tây Âu thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học,
nghệ thuật, pháp quyền... Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động
đến các lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội.
e. Ý thức xã hội tác động trở tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai
trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác động
tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Ph.Ăng ghen viết: “Sự phát triển về mặt
chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v đều dựa vào sự phát triển
kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh
tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch
sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai
trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng và vào mức độ mở rộng của tư tưởng
trong quần chúng. Chẳng hạn hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội các
nước Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản trở thành vũ khí về mặt tư tưởng
của giai cấp vô sản đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.
Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện qua hai chiều hướng. Nếu ý thức
xã hội tiến bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ
cản trở sự phát triển của tồn
2. Ý nghĩa trong xây dựng văn hóa Việt Nam.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay, bên cạnh những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân
tộc, có không ít vấn đề đặt ra đòi hỏi phải giải quyết. Đó là cuộc đấu tranh giữa hai lối
sống; một bên là lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực; một bên là lối sống thực
dụng, ích kỷ, dối trá. Vì vậy, giáo dục đạo đức mới cho mọi người, làm lành mạnh đời
sống tinh thần là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay.
Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nghệ thuật, Đảng
ta đã đề ra đường lối văn nghệ đúng đắn. Nhờ đường lối đó, nền văn nghệ nước ta đã đạt
được thành tựu to lớn, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
*Nghiên cứu quan điểm triết học Mác - Lênin về bản chất của con người; rút ra ý nghĩa đối
với quá trình học tập, rèn luyện của bản thân.
1. Quan điểm của triết học Mác về bản chất con người:
Tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong quan niệm của Hê-ghen và Phơ-bách và các nhà
triết học tiền bối trước Mác về bản chất của con người. Dựa vào những nguyên tắc thế
giới quan của CNDVBC, Mác khẳng định: " Bản chất con người không phải là một cái
trìu tượng cố hữu cá nhân con người riêng biệt trong tính hiện thực của nó, bQuan niệm
hoàn chỉnh về con người và bản chất con người, phân biệt hai mặt trong bản chất con
người là: mặt sinh học và mặt xã hội.
+ Triết học Mác xem xét bản chất con người một cách toàn diện, cụ thể, không phải
chung chung, trừu tượng mà trong tính hiện thực cụ thể của nó trong quá trình phát triển
của nó.
+ Con người hoà hợp với giới tự nhiên, là một bộ phận của giới tự nhiên, là kết quả phát
triển lâu dài của thế giới vật chất.
+ Con người có tính xã hội: trước hết bản thân hoạt động sản xuất của con người mang
tính xã hội. Hoạt động con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội. Xã hội
cùng với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã hội của con người thể hiện ở
hoạt động và giao tiếp xã hội.
+ Bản chất con người được hình thành và phát triển cùng với quá tình lao động, giao tiếp
trong đời sống xã hội.
3. Phát huy vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới:
+ Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử:
+ Con người là sản phẩm của lịch sử: Chính quá trình lao động và việc sáng tạo ra các
công cụ lao động đã là nhân tố quyết định đến sự biến vượn người thành người.
+ Con người là chủ thể của lịch sử: Sau khi xuất hiện, con người đã lao động và cải biến
thế giới, bằng tri thức của mình con người đã là thay đổi bộ mặt của thế giới vật chất,
cùng với sự phát triển của xã hội loài người là sự phát triển của lịch sử, con người trở
thành chủ thể của lịch sử. Bởi vì, con người là nhân tố quyết định đến sự phát triển của
lịch sử.
+ Sự nghiệp đổi mới nhằm mục tiêu vì hạnh phúc của con người và do con người làm
nên. Để phát huy vai trò nhân tố con người cần thiết phải tiến hành một số nội dung sau:
- Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, tạo ra một hệ thống chính sách,
biện pháp và cơ chế vận hành đảm bảo sự phối hợp đúng đắn lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội. Trong đó, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao trình độ và năng lực lao động,
nâng cao tay nghề.
- Tạo ra một môi trường công bằng, dân chủ, quan tâm đến lợi ích của từng người và lợi
ích của cả cộng đồng.
- Đảng ta khẳng định: kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, kết hợp lợi ích vật
chất với lợi ích tinh thần, chăm lo lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của nhân dân, kết
hợp hài hoà các lợi ích, chú ý lợi ích cá nhân người lao động. Nguồn lực con người là cơ
bản nhất của sự nghiệp CNH-HĐH (coi con người là trung tâm của sự phát triển xã hội)
bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội".
*Vai trò của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử. Mối quan hệ giữa
cá nhân và xã hội.
1. Khái niệm quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụa. Khái niệm quần chúng nhân dân:
+ “Nhân dân” là một phạm trù thường được dùng với những nội dung thay đổi tùy theo
tiến trình phát triển của lịch sử cụ thể của mỗi thời kỳ.- Theo nghiên cứu thông thường:
nhân dân là dân cư một quốc gia, một dân tộc, một nước.- Theo nghĩa khoa học: nhân dân
là cộng đồng người thay đổi trong lịch sử, bao gồn những bộ phận, những tầng lớp, giai
cấp của dân cư mà theo địa vị khách quan của họ có khả năng cùng nhau tham gia giải
quyết những nhiệm vụ lịch sử phù hợp với sự phát triển, tiến bộ của một nước nhất định
trong một thời kỳ nhất định
+ Quần chúng nhân dân: quần chúng nhân dâ bao gồm tất cả nhân dân lao động và các
lực lượng tiến bộ trong xã hội mà qua hoạt động của họ thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Phân tích: Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi ba nội dung sau:
- Thứ nhất: quần chúng nhân dân là những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và
của cải tinh thần chủ yếu duy trì cho sự tồn tại và phát triển của xã hội (chỉ gồm những
người lao động tự giác, sáng tạo).
- Thứ hai: quần chúng nhân dân là những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp
bức bóc lột, đối kháng với nhân dân và chống lại các kẻ thù xâm lược.
- Thứ ba: quần chúng nhân dân là những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến
bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội.Như vậy, từ sự phân tích trên cho thấy, quần chúng nhân dân là một phạm trù
lịch sử, có sự vận động, biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội. Tuy thuộc chế độ
xã hội khác nhau mà kết cấu của quần chúng nhân dân cũng khác nhau, nó được biến đổi
theo sự phát triển của phương thức sản xuất vật chất.
Ví dụ:
- Xã hội chiếm hữu nô lệ (PTSX CHNL) – Quần chúng nhân dân là giai cấp nô lệ.
- Xã hội phong kiến (PTSX PK) – Quần chúng nhân dân là giai cấp nông dân, giai cấp tư
sản.
- Xã hội tư bản chủ nghĩa (PTSX TBCN) – Quần chúng nhân dân là giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân.
- Xã hội xã hội chủ nghĩa (PTSX XHCN) – Quần chúng nhân dân là giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức…
b. Khái niệm cá nhân lãnh tụ:
Cá nhân lãnh tụ là cá nhân kiệt xuất trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật…
và trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân thì lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất xuất
hiện từ phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân được quần chúng nhân dân tin
yêu và quan tâm.
* Cá nhân lãnh tụ có những đặc điểm, phẩm chất cơ bản khác với những cá nhân không
bình thường như sau:
- Họ có tri thức khoa học uyên bác, sớm nhận thức được quy luật khách quan của quá
trình kinh tế, chính trị, xã hội. Do đó, họ nắm bắt được xu thế vận động của thời đại, của
quốc tế và của dân tộc, hướng cho hoạt động của quần chúng nhấn dân phù hợp theo xu
thế đó.
- Họ có khả năng vạch ra chiến lược, chương trình hành động cách mạng, đáp ứng được
yêu cầu của thời đại và dân tộc đảm bảo sự thành công của cách mạng.
- Họ có khả năng tập hợp, tổ chức và giáo dục quần chúng nhân dân thành lực lượng cách
mạng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào mục đích chung của
lịch sử, vào nhiệm vụ của dân tộc, của quốc tế và của thời đại.
- Họ có một ý chí mãnh liệt, có một nghị lực phi thường và tinh thần dũng cảm hơn người
khác trong việc khắc phục những khó khăn, trở ngại để đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
- Họ gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh quên mình vì lợi ích của dân tộc,
quốc tế và thời đại.
=> Như vậy, cá nhân lãnh tụ là những người có năng lực tiêu biểu nhất, phẩm chất tiêu
biểu nhất trong phong trào quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân tin yêu và
suy tôn.Do đó sức mạnh của cá nhân lãnh tụ trước hết là sức mạnh của bản thân phong
trào tiến bộ trong xã hội mà họ là người đại biểu, là người lãnh đạo phong trào đó. Đồng
thời, phẩm chất riêng của cá nhân lãnh đạo đó cũng không kém phần quan trọng để hoàn
thành được nhiệm vụ do lịch sử đặt ra.
2. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với cá nhân lãnh tụa. Tính thống nhất trong mối
quan hệ biện chứng giữa quần chúng nhân dân với cá nhân lãnh tụĐây là tính thống nhất
biện chứng, vì vậy nó bao hàm cả sự khác biệt và tính thống nhất biện chứng ấy được thể
hiện ở ba nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất: không có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá
trình kinh té, chính trị, xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân thì cũng không thể xuất
hiện lãnh tụ. Cá nhân lãnh tụ kiệt xuất vừa là sản phẩm của thời đại, vừa là sản phẩm của
phong trào quần chúng nhân dân. Do đó, giữa phong trào quần chúng nhân dân và cá
nhân lãnh tụ phải cần đến nhau, nương tựa vào nhau, thống nhất với nhau.
- Thứ hai: quần chúng nhân dân với cá nhân lãnh tụ thống nhất với nhau trong mục đích
và lợi ích của mình và sự thống nhất về các mục tiêu của cách mạng, của hành động cách
mạng giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ là do chính quan hệ lợi ích quy định.
- Thứ ba: tính thống nhất trong mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với cá nhân lãnh
tụ còn bao hàm cả sự khác biệt và sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân với cá nhân
lãnh tụ biểu hiện ở vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử - xã hội – đó là quần
chúng nhân dân là người quyết ddnhj sự phát triển của lịch sử xã hội, còn cá nhân lãnh tụ
chỉ đóng vai trò quan trọng, định hướng, tổ chức, dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát
triển của lịch sử - xã hội mà thôi.
Bởi vậy, quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ là quan hệ biện chứng –
vừa thống nhất vừa khác biệt.
b. Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử
- Chủ nghĩa suy vật lịch sử của triết học Mác khẳng định, quần chúng nhân dân là chủ thế
chân chính sáng tạo ra lịch sử - hay quần chúng nhân dân là người quyết định lịch sử. Và
vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân thể hiện ở ba nội dung cơ bản sau:
- Một là: quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử - xã hội, là lực lượng sản
xuất cơ bản của xã hội, tạo ra mọi của cải vaatjc hất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Cụ thê là:
+ Con người muốn sống, xã hội muốn tồn tại thì trước hết phải có thức ăn, uống, vật
dùng, nhà ở… để đáp những nhu cầu đó thì con người phải tiến hành sản xuất vật chất.
+ Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản, là nền cơ sở, nền tảng quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội.
+ Quá trình hoạt động sản xuất vật chất con người đồng thời tạo ra lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trong một phương thức sản xuất. Ở 2 mặt đó, con người một mặt là lực
lượng sản xuát chủ yếu, một mặt là người mang quan hệ sản xuất.
+ Hoạt động sản xuất vật chất, chế tạo và cải tiến công cụ lao động là hoạt động của toàn
xã hội chứ không phải của một số cá nhân.
+ Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động, bao gồm cả lao
động chân tay và lao động trí óc. Vì vậy, thực tiễn lịch sử loài người đã chứng minh,
quần chúng nhân dân là cơ sở và động lực của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Khoa học
kỹ thuật không có lý do tồn tại nếu không có hoạt động sản xuất vật chất, đến lượt nó
khoa học kỹ thuật lại làm cho năng suất lao động tăng lên không ngừng, qua đó đời sống
vật chất và đời sống tinh thần của con người cũng được biến đổi và phát triển, thúc đẩy
xã hội không ngừng tiến lên. Do đó, lịch sử xã hội là lịch sử phát triển của sản xuất hay là
lịch sử của những người phát triển sản xuất, những người đã, đang và sẽ mãi tạo ra vô tận
của cải vật chất đảm bảo những điều kiện quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã
hội.
- Hai là: quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu, là động lực cơ bản của mọi cuộc
cách mạng xã hội. Cụ thể là:
+ Do lực lượng sản xuất phát triển tạo ra những tiền đề vật chất -> của cải vật chất tăng -
> tạo ra những tiền đề vật chất chuyển sang chế độ xã hội mới.
+ Lực lượng sản xuất phát triển -> >< quan hệ sản xuất cũ lỗi thời -> đấu tranh giai cấp -
> cách mạng xã hội -> xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ -> thiết lập quan hệ sản xuất mới ->
thay đổi phương thức sản xuất vật chất -> thay đổi hình thái kinh tế xã hội. Trong đó, lực
lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân, là lực lượng quyết định chủ yếu
vận mệnh các cuộc cách mạng xã hội, các phong trào chính trị giải phóng dân tộc.
VD: Từ xã hội chiếm hữu nô lệ -> xã hội phong kiến -> tư bản chủ nghĩa -> xã hội xã hội
chủ nghĩa.
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, lịch sử đã chứng minh không có sự
tham gia, hoạt động tích cực của quần chúng nhân dân thì sẽ không có sự chuyển biến
cách mạng trong lịch sử. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định
cho thắng lợi của mọi cuộc cách mạng.Lênin: “Cách mạng là ngày hội của những người
bị áp bức bóc lột. Không lúc nào mà quần chúng nhân dân có thể tỏ ra là người tích cực
sáng taoh ra những trật tự xã hội mới như trong thời kỳ cách mạng. Trong những thời kỳ
như thế…thì nhân dân có thể làm được những kỳ công”– Rời non lấp biển, do đó cách
mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân, là sự nghiệp cả quần chúng nhân dân… do
đó,
+ Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì động lực trực tiếp phát triển xã hội là đấu tranh
giai cấp, đó là cuộc đấu tranh của những người bị áp bức, bóc lột – đại đa số quần chúng
nhân dân lao động – lực lượng sản xuất chủ yếu, chống lại những kẻ áp bức, bóc lột bằng
nhiều hình thức và đỉnh cao của cuộc đấu tranh đó là cách mạng xã hội.
Và như vậy, suy đến cùng nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu từ sự phát
triển của lực lượng sản xuất – bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng
nhân dân. Cho nên, quần chúng nhân dân là chủ thể của quá trình kinh tế, chính trị, xã
hội, đóng vai trò là lực lượng chủ yếu, là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội.
- Ba là: quần chúng nhân dân là nguồn duy nhất và vô tận sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa
tinh thần (mọi của cải tinh thần). Cụ thể:
+ Quần chúng nhân dân đóng vai trò vô cùng to lớn trong sự phát triển của khoa học,
nghệ thuật văn học và áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn – hay là hiện
thực hóa sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất.
+ Chính hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân đã đặt cơ sở, nền tảng cho
văn hóa tinh thần và tạo điều kiện cho nền văn hóa đó phát triển và tiến bộ không ngừng.
Ví dụ: Bằng hoạt động sản xuất vật chất – nó là nguồn cảm hứng để cho các nhà văn, nhà
thơ, nhà điêu khắc viết lên những tác phẩm, tạo nên cảm hứng sáng tác.
- Bằng hoạt động sản xuất vật chất, quần chúng nhân dân đã sáng tác ra những câu ca
dao, tục ngữ: “chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm…”
+ Chính hoạt động sản xuất vật chất và những sáng tác của quần chúng nhân dân là
nguồn vô tận cho văn học, nghệ thuật, khoa học phát triển.
+ Những sáng tạo về văn học nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo
đức… của quần chúng nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát
triển nền văn hóa tinh thần của dân tộc trong mọi thời đại.
+ Quần chúng nhân dân vừa là nguồn duy nhất và vô tận của mọi giá trị tinh thần mà còn
là nơi sinh ra biết bao những nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học vĩ đại, những nhà hoạt động
văn hóa phong phú, đa dạng làm sống động mãi mãi cho đời sống tinh thần của nhân loại.
+ Các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân
dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.
Ví dụ: Ở Việt Nam – truyện Kiều của Nguyễn Du đã, đang và sẽ sống mãi với nhân dân
ta và nhân dân thế giới, chính vì thế tác phẩm đó đã phản ánh sinh động cuộc sống, tâm
tư, nguyện vọng của nhân dân, nhất là ca dao, tục ngữ.Do đó, những tác phẩm có giá trị
chính là những tác phẩm phản ánh sinh động hoạt động thực tiễm của hàng triệu người,
theo kịp tiến trình phát triển của thời đại, tiếp thu và phát huy được những tinh hoa của
nền văn hóa dân tộc và thế giới.
* Kết luận: xét từ kinh tế đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng thì quần chúng
nhân dân đều đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Vai trò quyết định của lịch sử của
quần chúng nhân dân có thể khái quát lại ở ba nội dung lớn như sau:
- Một là: quần chúng nhân dân là những người trực tiếp lao động sản xuất ra của cải vật
chất – điều kiện, nền tảng quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Hai là: quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu, là động lực cơ bản của mọi cuộc
cách mạng xã hội, thúc đẩy lịch sử phát triển tiến lên theo hướng văn minh tiến bộ.
- Ba là, quần chúng nhân dân vừa là nguồn duy nhất và vô tận tạo ra mọi giá trị tinh thần
cho xã hội, vừa là cơ sở, động lực cho sự phát triển khoa học, kỹ thuật, vừa là lực lượng
duy nhất hiện thực hóa sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn để cải tạo tự nhiên và xã hội.
* Ý nghĩa phương pháp luận rút ra:
+ Phải có quan điểm về vai trò của quần chúng nhân dân đúng đắn.
+ Phải chăm lo sâu sát đến lợi ích, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân.
+ Tích cực phát huy vai trò của quần chúng nhân dân bằng cách phát huy dân chủ, bổ
sung, xây dựng hoàn thiện và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
+ Phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, mọi công việc phải biết dựa vào dân, bàn bạc
với dân thật thấu đáo trước khi quyết sách.
+ Phải kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm trái với quan điểm của triết học
Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân.
b. Vai trò của cá nhân lãnh tụ trong lịch sử.
+ Cá nhân lãnh tụ có vai trò thúc đẩy tiến trình lịch sử phát triển nhanh hơn, đem lại hiệu
quả cao nhất cho hoạt động của quần chúng nhân dân khi họ nhận thức và vận dụng đúng
đắn quy luật khách quan.
+ Cá nhân lãnh tụ có khả năng nhìn xa, trông rộng, thấy được xu hướng tất yếu khách
quan cua lịch sử, đưa ra được những dự báo khoa học thiên tài, tổ chức lãnh đạo quần
chúng nhân dân hoạt động thực hiện theo xu hướng lịch sử đó.
+ Cá nhân lãnh tụ có vai trò to lớn, quan trọng có thể quyết định bộ mặt cục bộ của các
biến cố lịch sử, còn chiều hướng của tiến trình lịch sử ấy, xét đến cùng là do sự phát triển
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quyết định.
Ví dụ: Lênin, Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông, Phi đen Castrô…
+ Cá nhân lãnh tụ đóng vai trò là người giáo dục, thức tỉnh, tổ chức, tập hợp quần chúng
nhân dân đấu tranh, dẫn dắt quần chúng nhân dân vượt qua những khó khăn, đưa phong
trào cách mạng phát triển nhanh chóng, tiến đến thành công. Vì học là người đại diện cho
lợi ích của quần chúng nhân dân, là sản phẩm của phong trào quần chúng nhân dân, là
người được quần chúng nhân dân kính trọng và suy tôn làm lãnh tụ của mình.Do vậy, với
mọi phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân không thể thiếu lãnh tụ được. Khẳng
định điều này, Lênin đã viết: “trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành dược
quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính
trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”
* Kết luận: Cá nhân lãnh tụ có vai trò to lớn trong lịch sử. Song dù có vai trò to lớn đến
đâu đi chăng nữa thì cá nhân lãnh tụ cũng chỉ giữ vai trò quan trọng trong lịch sử mà thôi,
còn quần chúng nhân dân mới là người giữ vai trò quyết định lịch sử - sáng tạo ra lịch sử.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Cần phải có chiến lược con người – chiến lược cán bộ đúng dăn – tức là bồi dưỡng,
huấn luyện những lớp cán bộ kế cận cho Đảng, Nhà nước, phục vụ cho sự nghiệp cách
mạng của dân tộc, của đất nước lâu dài.
+ Phải chủ động, tích cực phát hiện bồi dưỡng những người, những cán bộ có phẩm chất,
đạo đức cách mạng, trí tuệ giỏi, trung thành với Tổ quốc, với dân tộc…, thực sự vì dân,
được nhân dân tin cậy, để nhân dân kính trọng, suy tôn làm người lãnh đạo nhân dân.
◦ Chú ý:
- Lãnh tụ xuất hiện là tất nhiên của lịch sử, khi mà các điều kiện khách quan chín muồi,
những lãnh tụ xuất hiện ở đâu vào lúc nào, là ai thì đó lại là hiện tượng tự nhiên.
- Khi nghiên cứu vai trò của cá nhân lãnh tụ thì chúng ta cần có quan điểm chống tệ sùng
bái cá nhân.
- Khi nghiên cứu vai trò của cá nhân lãnh tụ cần phải có quan điểm khách quan, toàn
diện, lịch sử - cụ thể. Đặc biệt là phải chú ý đến quan điểm lịch sử - cụ thể để tránh rơi
vào xét lại, phủ nhận tất cả công lao của cá nhân lãnh tụ.
►Mối quan hệ cá nhân và xã hội
Cá nhân là khái niệm chỉ con người sống cụ thể trong môt xã hội nhất định và được phân
biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó
Xã hội là khái niệm dùng để chỉ cộng động các cá nhân trong mối quan hệ biện chứng với
nhau, trong đó cộng đồng nhỏ nhất của xh là cộng đồng tập thể gia đinh, cơ quan,đơn vị..
và lớn hơn nữa là cộng đồng xã hội quốc gia, dân tôc, ... và rộng hơn nữa là cộng đồng
nhân loại
Xã hội do các cá nhân tạo lên. Các cá nhân sống và hoạt động trong các nhóm, cộng đồng
và tập đoàn xã hội khác nhau, mang tính lịch sử xác định. Yếu tố xã hội là đặc trưng căn
bản để hình thanh cá nhân. Như vậy, cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất, vừa mang tính cá
biệt vứa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi mối qh xh và của nhận
thức, nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội
Môi quan hện giữa cá nhân và xã hội
Nguyên tắc cơ bản của việc xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và các cộng đồng xã hội
chính là mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng xã hội. Đó cũng là mối
quan hệ vừa có sự thống nhất vừa có mâu thuẫn. Điều này thể hiện
- Mỗi cá nhân không thể tách rời khỏi những cộng đồng xã hội nhất định, đồng thời mối
quan hệ giữa cá nhân và xã hội là hiện tượng có tính lịch sự vì nó luôn biến đổi và phát
triển, trong đó, sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi có sự thay thế hình thái kinh tế- xã hội
này bằng hình thái kinh tế xã hội kia
Ví dụ: Trong giai đoạn cộng sản nguyên thủy, không có sự đối kháng giữa cá nhân và xã
hội. Lợi ích cá nhân và lợi ích xh căn bản là thống nhất. Khi xã hội phân chia giai cấp,
quan hệ cá nhân và xã hội vừa có thống nhất ,vừa có mâu thuẫn và mâu thuẫn đối
kháng.Trong cnxh, những đk của xh mới tạo tiền đề cho cá nhân, để mỗi cá nhân phát
huy năng lực và bản sắc riêng của mình. Phù hợp với lợi ích và mục tiêu của xã hội mới.
Vì vậy, xã hội xhcn và cá nhân là thống nhất biện chứng, là tiền đề và điều kiện của nhau
- Xã hội giữ vai trò quyết đinh với cá nhân: Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức xh là
qiair quyết quan hệ lợi ích nbhawmf tạo khả năng cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào
mọi quá trình kinh tế, xã hội. Cho sự phát triển được thực hiện, Xã hội càng pt thì cá
nhân càng có đk để tiếp nhận ngày càng nhiều những giá trị vật chất và tinnh thần
- Mỗi cá nhân trong xh càng phát triển thì càng có đk để thúc đẩy xã hội tiến lên, vì vậy,
thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của cá nhân là mục tiêu và
động lực để thúc đẩy sự phát triển của xh
Vai trò của cá nhân tùy thuộc vào trình đọ nhân cách. Nếu cá nhân có nhân cách lớn,
nhiều tài năng thì có tác dụng tích cực tới xã hội. CÒn ngược lại sẽ trở thành gáng nặng
cho xa hội
- Mối quan hện lợi ích giữ cá nhân và lợi ích xã hội do sự quy định mặt khách quan và
mặt chủ quan. Mặt kquan biểu hiện ở trình độ phát triển và nsuat lao động xh. Mặc chủ
quan thể hiện ở khả năng nhân thức, và vận dụng quy luật xã hội phù hợp với mục đích
của con người.
Trong thời kỳ quá độ, tất yếu tồn tại mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội. Để giải quyết
đúng mâu thuẫn này cần tránh hai thái độ cực đoan sau
+ CHỉ thẫy cá nhân mà không thấy xã hôi, đem cá nhân đối lập với xã hội. Đòi hỏi đáp
ứng nhu cầu cá nhân chưa phù hợp với đk phát triển của xh. Khuynh hướng này có thể
dẫn tới chủ nghĩa cá nhân
+ Chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân, quan niệm sai lầm về lợi ích xã hội, về chủ
nghĩa tập thể.
Ý nghĩa của vấn đề này ở nước ta
Ở nước ta hiện nay năng suất lao động được nâng cao, tạo ra cơ sở vật chất và văn hóa
tinh thần ngày càng đa dạng và phong phú. Lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo ra
cơ hội mới để pt cá nhân.
Tuy nhiên, cơ chế này có thể dẫn tới quá đề cao lợi ích kinh tế, chứa đựng những khả
năng đối lập giữa cá nhân và xã hội
Do đó, chúng ta cần phát huy vai trò nhân tố con người, thực hiện chiến lược con người
của Đảng là một mục tiêu có ý nhia quyết định để giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và
xã hội: Xây dựng con người việt nam có tinh thần yêu nước ,yêu chủ nghĩa xã hội, có ý
thức tự cường dân tộc... có ý thức cộng đồng, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa ,
quan hệ sản xuất hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xh .