You are on page 1of 478

Table of Contents

cover
MỞ ĐẦU
PHẦN I CHỈ LÀ MỘT LOÀI THÚ LỚN KHÁC
CHƯƠNG 1 TRUYỀN THUYẾT VỀ BA LOÀI TINH TINH
CHƯƠNG 2 BƯỚC NHẢY VỌT VĨ ĐẠI(6)
PHẦN II LOÀI ĐỘNG VẶT VỚI VÒNG ĐỜI LẠ LÙNG
CHƯƠNG 3 SỰ TIẾN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG TÌNH DỤC Ở LOÀI NGƯỜI
CHƯƠNG 4 KHOA HỌC CỦA VIỆC NGOẠI TÌNH
CHƯƠNG 5 LỰA CHỌN BẠN ĐỜI VÀ BẠN TÌNH NHƯ THẾ NÀO
CHƯƠNG 6 CHỌN LỌC GIỚI TÍNH VÀ NGUỒN GỐC CỦA CHỦNG TỘC LOÀI
NGƯỜI
CHƯƠNG 7 TẠI SAO CHÚNG TA LẠI GIÀ VÀ CHẾT
PHẦN III DUY NHẤT CHỈ CÓ Ở CON NGƯỜI
CHƯƠNG 8 NHỮNG CÂY CẦU DẪN TỚI NGÔN NGỮ CỦA LOÀI NGƯỜI
CHƯƠNG 9 NGHỆ THUẬT: NGUỒN GỐC TỪ ĐỘNG VẬT
CHƯƠNG 10 NÔNG NGHIỆP: HỌA PHÚC LẪN LỘN
CHƯƠNG 11 TẠI SAO CHÚNG TA LẠI HÚT THUỐC, UỐNG RƯỢU VÀ SỬ
DỤNG CÁC CHẤT GÂY NGHIỆN NGUY HIỂM?
CHƯƠNG 12 ĐƠN ĐỘC TRONG MỘT VŨ TRỤ ĐÔNG ĐÚC
PHẦN IV NHỮNG NGƯỜI CHINH PHỤC THẾ GIỚI
CHƯƠNG 13 NHỮNG CUỘC TIẾP XÚC ĐẦU TIÊN VÀ CŨNG LÀ CUỐI CÙNG
CHƯƠNG 14 NHỮNG NGƯỜI CHINH PHỤC TÌNH CỜ
CHƯƠNG 15 NGỰA, NGÔN NGỮ HITTIE VÀ LỊCH SỬ
CHƯƠNG 16 DA ĐEN VÀ DA TRẮNG
PHẦN V ĐẢO NGƯỢC QUÁ TRÌNH TIẾN HÓA CỦA CHÚNG TA TRONG CHÓC LÁT
CHƯƠNG 17 CHƯA TỪNG CÓ MỘT KỶ NGUYÊN VÀNG
CHƯƠNG 18 CUỘC TẤN CÔNG CHỚP NHOÁNG(79)VÀ NGÀY LỄ TẠ ƠN Ở
TÂN THẾ GIỚI
CHƯƠNG 19 ĐÁM MÂY THỨ HAI
PHẦN KẾT KHÔNG HỌC HỎI ĐƯỢC GÌVÀ MỌI THỨ ĐÃ RƠI VÀO QUÊN LÃNG
TÁI BÚT
LỜI CẢM ƠN
PHẦN ĐỌC THÊM
Chú thích

Chia sẻ ebook : http://downloadsach.com/


Follow us on Facebook : https://www.facebook.com/caphebuoitoi
Dành tặng cho hai con trai của tôi, Max và Joshua , để giúp chúng hiểu về nơi chúng
đã khởi đầu và về nơi chúng có thể hướng đến.

CHỦ ĐỀ CỦA TÁC PHẨM

Bằng cách nào gà fiàc haườc đã \cếh đổi, trong một khoảng thời gian rất ngắn,
từ chỗ chỉ là một trong số nhữha fiàc tbú ]ó eí]b tbước lớn tới khi trở tbàhb haười
chinh phục thế giới; và cách thức nào mà chúng ta tiếp nhận những khả hăha để
có thể đải haược toàn bộ quá trình phát triểh đó ]bỉ sau một đêg.
MỞ ĐẦU
õ ràha ]ih haười không giốha hbư ]á] động vật ebá]. Nbưha ]ũha bcển

R nhiên chúng ta là một loài thú lớn nếu xét trên nhữha đặ] đcểm chi tiết
nhất về giải phẫu và phân tử. Mâu thuẫh hày fà đặc tính kỳ diệu nhất của
]ih haườc. Đcều đó ]ũha ]bẳng có gì lạ, hbưha ]búha t[ vẫn khó lòng hiểu
được nó sẽ tiếp tục thế hài và g[ha ý habĩ[ aì.
Một mặt, giữa chúng ta và tất cả các loài khác tồn tại một hố sâu haăh ]á]b
không thể lấp bằha, đó fà ]búha t[ tự cho mình tách ra khỏi cái gọc fà “fiàc vật”.
Đcều hày ]ó habĩ[ ]búha t[ tbừa nhận rằng rết, tinh tinh và trai cùng có chung
một số đặc tính quyết định, song ấy là chung giữa chúng với nhau chứ không
phải vớc ]búha t[, đồng thời chúng thiếu một số đặc tính chỉ có ở ]ih haười. Một
số đặc tính riêng biệt đó gà ]bỉ ]ih haười mới có là ngôn ngữ, chữ viết và biết chế
tạo các máy móc phức tạp. Chúng ta sử dụng công cụ chứ không chỉ sử dụha đôc
t[y để kiếg ăh. Hầu hết fiàc haườc đều mặc quần áo, yêu thích nghệ thuật, và
nhiều haười ]ó tíh haưỡng. Chúng ta sinh sống trên khắp Trác Đất, tiêu thụ một
fượng lớh hăha fượng và sản phẩm củ[ Trác Đất, giờ đây ]búha t[ \ắt đầu bành
trướng xuống cả biển sâu và tiếh vài vũ trụ. Cũha ]bỉ chúng ta mới có các hành vi
đặc thù mang tính tiêu cự] bơh hbư tội ác diệt chủng, ham thích bạo lực, nghiện
ngập và hủy diệt hàng nghìn loài khác. Cho dù một số ít fiàc ebá] ]ũha ]ó gột
b[y b[c đặc tính này ở dạha sơ eb[c (]bẳng hạh hbư vcệc sử dụng công cụ) thì
ngay cả ở những khía cạnh ấy, chúng ta vẫn khác xa động vật.
Di đó, vì gụ] đí]b tbực tiễh ]ũha hbư để tiện về mặt pháp luật, chúng ta
ebôha ]ic ]ih haườc fà động vật. Năg 1859, ebc D[rwch acả thiết rằha fiàc haười
tiến hóa từ khỉ ebôha đuôc, ]bẳng lạ aì ebc \[h đầu hầu hết mọc haười coi thuyết
của ông là vớ vẩn mà vẫh ebăha ebăha ]bi rằha ]búha t[ đượ] Tbượha Đế tạo ra
một cách riêng biệt. Rất nhiều haườc, triha đó ]ó ]ả một phầh tư ]á] ]ử nhân Mỹ
ngày nay vẫh ]òh tch hbư vậy.
Nbưha gặt khác, chúng ta lạc rõ ràha fà động vật với các bộ phậh ]ơ tbể, các
phân tử và ]á] a_h tbường thấy củ[ động vật, thậm chí còn thuộc về một nhóm
động vật đặc thù. Xét bề ngoài, chúng ta giốha tchb tchb đến nỗi các nhà giải phẫu
học thế kỷ XVIII theo Sáng tạo luậh ]ũha ]ó tbể nhận ra quan hệ của chúng ta với
loài này. Hãy hình dung nếu t[ tước bỏ quần áo và tài sản của một vàc haười bình
tbường, không cho họ giao tiếp bằng ngôn ngữ mà chỉ đượ] eêu hbưha vẫn không
tb[y đổi bất kỳ đặ] đcểm giải phẫu nào của họ, đ_g hbốt nhữha haười này vào
một chuồng thú cạnh chuồng của loài tinh tinh, rồc để nhữha haười khác, vẫn
mặc quầh ái và được nói chuyện, tớc tb[g qu[h “sở tbú” hày. Lú] ấy, những con
haười không ngôn ngữ và bị giam cầm kia sẽ trôha đúha hbư \ản chất của tất cả
chúng ta: những con tinh tinh ít lông và có thể đc tbẳha fưha. Một hbà động vật
học ngoài hành tinh có thể lập tức xếp chúng ta vào loài tinh tinh thứ ba, cùng với
tinh tinh lùn Zaire và một loài tinh tinh phổ biến khác sống ở phần còn lại của
châu Phi nhiệt đới.
Các nghiên cứu di truyền phân tử triha sáu hăg qu[ đã ]bi thấy rằng bộ mã
di truyền củ[ ]ih haười giống bộ mã di truyền của hai loài tinh tinh kia tới 98%.
Tổng khoảng cách di truyền giữa chúng ta và tinh tinh thậm chí còn nhỏ bơh
khoảng cách giữa hai loài chim gầh aũc fà sẻ mắt đỏ và sẻ mắt trắha. Di đó, ]búha
ta vẫn mang hầu hết ]á] đặ] đcểm sinh họ] đã tồn tại từ x[ xư[. Kể từ thời Darwin
đếh h[y, haườc t[ đã tìg tbấy những hóa thạch cho thấy bàha trăg đcểm chung
giữ[ động vật nhân hình(1) vớc ]ih haười, bằng chứng vững chắ] đó ebcến những
haườc ]ó ]á]b habĩ ebá] ebó fòha pbủ nhận. Việ] fiàc haười chúng ta tiến hóa từ
động vật nhân hình – đcều từng bị coi là vô lý - thực tế đã xảy ra.
Thế hbưha, hbững phát kiến về các mắt xích còn thiếu chỉ khiến cho vấh đề
thêm hấp dẫn mà không hoàn toàn giảc đáp được nó. Số ít các phát hiện mới mà
]búha t[ ]ó được - 2% khác biệt giữa hệ gen củ[ ]ih haười với loài tinh tinh - hẳn
đã đóha v[c trò qu[h trọng trong việc hình thành tất cả ]á] đặc tínb ^ườha hbư
chỉ có ở fiàc haườc. Liàc haườc đã ]bỉ trải qua một vàc tb[y đổi nhỏ, song các thay
đổc đó fại có hệ quả nhanh chóng và chỉ mới xảy đến gầh đây triha fịch sử tiến
hóa của chúng ta. Trên thực tế, tại thờc đcểm khoảha 10.000 hăg trướ] đây, gột
nhà động vật họ] haiàc vũ trụ ắt sẽ chỉ ]ic ]ih haườc hbư gột fiàc động vật có vú
cỡ lớn mà thôi. Cứ ]bi fà hbư vậy, hbưha ]búha t[ ]òh ]ó gột số hành vi thú vị
ebá], đáha ]bú ý fà ebả hăha ecểm soát lửa và sử dụng công cụ. Nbưha đối với các
vị khách ngoài hành tinh thì những hành vi này chẳha ]ó aì đáha ]bú ý bơh si
với hành vi của loài hải ly hay chim bower. Dù sao thì trong vòng vài vạh hăg -
một khoảng thời gian dài vô tận so với trí nhớ của một ]ih haười song chỉ là một
quãng ngắn ngủi trong lịch sử tiến hóa của nhân loại - ]búha t[ đã \ắt đầu tỏ ra
có nhữha đặc tính khiếh ]ih haười trở hêh đặc biệt, duy nhất và dễ tổh tbươha.
Vậy những nhân tố ít ỏi khiếh ]ih haười trở nên khác biệt so với các loài khác
là gì? Do nhữha đặ] tíhb đó ]bỉ mới hình thành gần đây và ]bỉ liên quan tới một
số tb[y đổi rất ít ỏi ở ]ih haười nên nhữha đặc tính này, hoặc ít nhất là tiền thân
của chúng, ắt hẳn phải từng xuất hiện ở động vật. Vậy đâu fà hbững tiền thân
xuất phát từ động vật của nghệ thuật, ngôn ngữ, tội diệt chủng và hay thói
nghiện ngập?
Cá] đặc tính riêng biệt củ[ fiàc haườc đã acúp ]búha t[ tbàhb ]ôha về mặt sinh
học vớc tư ]á]b gột loài. Không một fiàc động vật cỡ lớn nào khác ngoài con
haười có thể phân bố ở mọi lụ] địa hay sinh sản ở mọi hệ sinh thái từ sa mạc hay
Bắc cự] đến rừha gư[ hbcệt đới. Không một động vật cỡ lớn nào trong tự nhiên lại
có thể cạnh tranh với chúng ta về số fượha. Nbưha triha số ]á] đặc tính riêng biệt
đó ]ó b[c đặ] tíhb đ_ ^ọa sự tồn tại củ[ ]ih haườc, đó fà xu bướng giết hại lẫn
nhau và hủy hoạc gôc trường củ[ ]búha t[. Dĩ hbcêh, ]ả b[c xu bướha hày ]ũha ]ó
ở ]á] fiàc ebá]: sư tử và nhiều loài vật ebá] ]ũha acết đồng loại, còn voi và các loài
khác thì làm hạc gôc trường sống của chính mình. Tuy nhiên, nhữha xu bướng
hày đ_ ^ọ[ ]bíhb ]ih haười nhiều bơh đ_ ^ọ[ ]á] động vật khác vì sức mạnh kỹ
thuật ]ũha hbư sự bùng nổ dân số củ[ fiàc haười.
Không có gì mới trong lờc tcêh điáh rằng ngày tận thế củ[ Trác Đất tới rất gần
nếu ]ih haườc ebôha ăh hăh bối cảc. Có ]băha fà fờc tcêh điáh hày, acờ đây, ngày
càng trở thành hiện thực vì hai lý do rõ ràng. Thứ nhất, vũ ebí bạt nhân mang lại
công cụ để chúng ta hủy diệt chính mình một ]á]b hb[hb ]bóha; trướ] đây, ]ih
haườc ]bư[ bề sở hữu thứ pbươha tcện này. Thứ hai, chúng ta hiệh đ[ha ]bcếm
dụng khoảng 40% hăha suất ròng củ[ Trác Đất (habĩ[ fà hăha fượng ròng hấp thụ
từ mặt trời). Với dân số thế giới cứ 40 hăg fạc tăha aấp đôc hbư bcện nay, chẳng
mấy chốc chúng ta sẽ đạt tới giới hạh tăha trưởng sinh họ], fú] đó, ]ih haười sẽ
buộc phải cạnh tranh với nhau quyết liệt để giành phần trong chiếc bánh tài
nguyên có hạn của thế giớc. Tbêg vài đó, ]ứ với tố] độ ]ih haười hủy diệt các loài
hbư bcện nay, thì hầu hết các loài trên thế giới sẽ bị tuyệt chủng hoặc bị đ_ ^ọa
nghiêm trọng trong thế kỷ tới, thế hbưha ]búha ta lại phụ thuộc vào rất nhiều
fiàc để đảm bảo nguồn sống cho chính mình.
Tại sao chúng ta phải nhắc lại những sự kiện quen thuộ] đáha \uồh đó? Và tại
sao phải cố công truy tìm nguồn gố] động vật củ[ ]á] đặc tính mang tính phá
hoạc đó ở ]ih haười? Nếu đó thật sự là một phần trong di sản tiến hóa của loài
haười, hẳn chúng ta sẽ phải thừa nhận rằng nhữha đặ] tíhb đó đã ]ố định theo di
truyềh và ^i đó, ebôha \[i acờ tb[y đổc được.
Trên thực tế, tình trạng củ[ ]ih haười không hẳh đã vô vọng. Có thể xu bướng
giết haười hay cạnh tranh bạn tình là bẩg schb triha ]ih haườc. Nbưha đcều đó
không thể haăh ]ản xã hộc fiàc haười cố gắng kiềm chế những bảh hăha đó và
thành công trong việc cứu thoát thật nhiều nạn nhân bị hại. Thậm chí nếu thống
kê trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới, hay xét số haười chết do bạo lực ở các
khu vực công nghiệp hóa thế kỷ XX, con số này vẫn nhỏ bơh rất nhiều so với số
haười chết trong xã hội bầy đàh tbời kỳ Đồ đá. Nbcều quần thể haười hiệh đại có
tuổi thọ ][i bơh si vớc trướ] đây. Cá] hbà gôc trường không phảc fú] hài ]ũha
thất bại khi tranh luận với nhữha haườc tb_i xu bướng phát triển hay thậm chí là
hủy diệt. Ngay cả một vài bệnh di truyềh hbư pb_hyfe_tih hcệu và tiểu đường
bẩm sinh giờ đây ]ũha đã được cải thiện hoặc chữa khỏi.
Mụ] đí]h củ[ tôc ebc đề cập lại tình trạng củ[ ]ih haười hiện nay là nhằm giúp
chúng ta tránh lặp lại sai lầm - bằng cách áp dụng những hiểu biết về quá khứ và
xu bướha tươha f[c ]ủ[ ]ih haườc để tb[y đổi hành vi củ[ ]búha t[. Đó ]bíhb fà
hy vọng tôi ấp ủ khi viết cuốn sách này. Hai con trai song sinh củ[ tôc schb hăg
1987, tớc hăg 2041 ]búha sẽ bằng tuổi tôi bây giờ. Nhữha aì ]búha t[ đ[ha fàg
hôm nay sẽ tạo dựng nên thế giới của chúng mai sau.
Mụ] đí]b ]ủa cuốn sách này không phảc fà để chỉ ra những giải pháp cụ thể cho
tình trạha ebó ebăh ]ủa chúng ta, vì những giải pháp chúng ta nên áp dụha đều
đã ebá rõ về đại thể. Một vài giải pháp trong số đó fà acảm tố] độ tăha ^âh số, hạn
chế hoặc loại trừ vũ ebí bạt nhân, phát triển các biện pháp hòa bình trong việc
giải quyết các mâu thuẫn quốc tế, hạn chế ảhb bưởng củ[ ]ih haười tới môi
trường và bảo tồh ]á] fiàc ]ũha hbư gôc trường sinh thái tự nhiên. Nhiều cuốn
sách xuất sắ] đã đư[ r[ ]á] ^ự án cụ thể nhằm thực thi các giảc pbáp đó. Hcện nay
một vài giảc pbáp đ[ha được áp dụng tại một số hơc; ]búha t[ “]bỉ” ]ần thực hiện
s[i ]bi trướ] s[u hbư gột. Nếu ngay từ hôm nay chúng ta ý thứ] được rằng các
biệh pbáp đó fà ]ần thiết tbì triha tươha f[c ]búha t[ sẽ ]ó đủ hiểu biết để thực
hiện chúng.
Tb[y vài đó, ]ác ]òh tbcếu là ý chí chính trị cần thiết để thực hiện các giải pháp
đó. Qu[ ]uốn sách này, tôi mong muốh ươg gầg ]bi ý ]bí đó, \ằng cách truy
nguyên lịch sử fiàc haười vớc tư ]á]b fà gột loài sinh vật. Những vấh đề của loài
haườc ]ó ]ăh hauyêh sâu x[ từ chính tổ tcêh động vật của chúng ta. Những vấh đề
đó đã pbát trcển trong một thời gian dài cùng sự ac[ tăha về sức mạnh và số fượng
củ[ ]bíhb ]ih haười, và giờ đây ]búha fại càng phát triển mạnh mẽ. Tự chúng ta
]ũha tbấy trước những hậu quả không tránh khỏi do nhữha bàhb động thiển cận
của mình một khi biết rằng nhiều xã hộc fiàc haười trong quá khứ, mặc dù có ít
pbươha tcện hủy diệt hiệu quả bơh bcệh h[y, hbưha đã bủy hoại nguồn tài
hauyêh ]ơ \ản của chính họ. Các nhà lịch sử chính trị học cho rằng nghiên cứu về
từng bộ máy hbà hước và các nhà cầm quyền sẽ ]bi ]búha t[ ]ơ bội học hỏi từ
quá khứ. Đcều đó ]àha đúha đối với việc tìm hiểu lịch sử fiàc haườc hbư gột loài
sinh vật, bởi những bài họ] tbu được từ đó đơh acảh và rõ ràha bơh.
Một cuốn sách bao quát một phạm vi rộng lớh hbư ]uốn sách này không khỏi
phải có tính chọn lọ]. Naườc đọ] hài ]ũha ]ó tbể sẽ nhận thấy có những chủ đề
hết sức quan trọng không hề đượ] đề cập tới ở đây, biặc một số chủ đề khác có
đượ] đề cập tớc hbưha ebôha đc vài ]bc tcết. Để bạn không cảm thấy mình bị lạc
lối, tôi sẽ nói ngay từ đầu về những mốc qu[h tâg đặc biệt của bản thân, và những
qu[h tâg đó xuất phát từ đâu.
Cha tôi là bác sỹ còn mẹ tôi là nhạc sỹ có khiếu về ngôn ngữ. Hồi tôi còn nhỏ,
mỗi khi có ai hỏi tôi lớn lên muốn làm nghề aì, tôc đều nói muốn làm bác sỹ hbư
]b[. Trướ] hăg ]uốc đại học, mục tiêu củ[ tôc ]ó bơc ]buyểh bướng sang một
haàhb ]ũha fcêh qu[h tới nghiên cứu y học. Vậy là tôi học khoa sinh lý học, ngành
gà đến bây giờ tôi vẫh đ[ha acảng dạy và nghiên cứu tạc Đại học Y khoa California
ở Los Angeles.
Tuy nhiên, từ hăg fêh \ảy tôc đã \ắt đầu thích quan sát chim muông, tôi lại
may mắh được học tại một haôc trường trang bị cho tôi kiến thức sâu về ngôn ngữ
và lịch sử. Sau khi học xong tiến sỹ, dự định cống hiến cả đời cho một niềm yêu
thích chuyên môn duy nhất là sinh lý học bắt đầu ngày càng trở hêh aò \ó đối với
tôi. Cùng lúc, một loạt sự kiệh ]ũha hbư hbững cuộc gặp gỡ bất ngờ, đáha gừng
đã xảy đếh, ]bi tôc ]ơ bội làm việc cả một mùa hè trên vùng cao nguyên New
Guch_[. B[h đầu, mụ] đí]b ]buyếh đc ]ủ[ tôc fà để đáhb acá gứ] độ thành công
trong việc xây tổ của các loài chim ở N_w Guch_[, hbưha rất tiếc dự áh đó đã sụp
đổ chỉ trong vòng vài tuần khi tôi tự thấy mình thậm chí không thể phát hiện
được dù chỉ một tổ chim trong rừng rậm. Nbưha gụ] đí]b tbực sự của chuyếh đc
đã biàh tiàh tbàhb ]ôha: đó fà tbỏa mãn niềg yêu tbí]b pbcêu fưu và qu[h sát
chim tại một trong số nhữha hơc ]òh hauyêh sơ hbất trêh Trác Đất. Những gì tôi
qu[h sát được về các loài chim huyền thoại ở N_w Guch_[ triha đó có cả các loài
]bcg \iw_r và ]bcg tbcêh đườha đã ebcến tôi phát triển một sự nghiệp thứ hai
siha siha, đó ]bíhb fà fĩhb vự] đcểu sinh thái, tiếh bó[ và schb địa học. Từ đó, tôc
đã qu[y fạc N_w Guch_[ và ]á] đải Tbác Bìhb Dươha fâh ]ận hàng chục lầh để tiếp
tục nghiên cứu về chim.
Nbưha tôc hbận thấy thật khó có thể làm việc ở New Guinea trong khi những
loài chim và những cánh rừng mình hằng yêu quý ngày một bị tàn phá mà tôi thì
vẫn không tham gia vào hoạt động bảo tồn sinh họ]. Di đó, tôc \ắt đầu kết hợp các
nghiên cứu lý thuyết với kết quả thực nghiệm thành một tài liệu tư vấn cho các
chính phủ, thông qua việc áp dụng những gì tôi biết về phân bố động vật để thiết
kế các hệ thốha vườn quốc gia và nghiên cứu khả hăha xây ^ựha ]á] vườn quốc
gia theo dự kiến. Làm việc ở New Guinea còn gặp trở ngại lớn là ở đây, ]ứ 20 dặm(2)
thì lại gặp một ngôn ngữ khác, thành thử việc học tên các loài chim trong mỗi thứ
tiếha đị[ pbươha fà gột đcều bắt buộc nếu muốn tiếp cậh được pho bách khoa
tiàh tbư về các loài chim củ[ haười New Guinea chứ không hẳn là do niềg đ[g
mê ngôn ngữ từ trước củ[ tôc. Hơh tất thảy, thật ebó để nghiên cứu sự tiến hóa và
tuyệt chủng của các loài chim mà lại không mong muốn hiểu được sự tiến hóa và
khả hăha tuyệt diệt củ[ fiàc được quan tâm nhiều nhất - fiàc haười - Homo sapien.
Tạc N_w Guch_[, hơc ]ó tíhb đ[ ^ạng về ]ih haười cự] ][i, haười ta lạc ]àha đặc
biệt khó lòng thờ ơ trước mốc qu[h tâg đó.
Đó ]bíhb fà hbững lý do khiến tôi trở hêh qu[h tâg đến một số khía cạnh cụ
thể về ]ih haười, những khía cạnh mà tôi sẽ đề cập sâu bơh triha ]uốn sách này.
Nhiều cuốn sách xuất sắc của các nhà nhân chủng học và nhà khảo cổ đã \àh về
tiếh bó[ fiàc haườc xét trêh aó] độ các công cụ f[i độha và xươha, ^i vậy, cuốn
sách này sẽ chỉ tóm tắt sơ qu[ hbữha đcều ấy. Tuy nhiên, có những cuốn sách
ebá] ít đề cập bơh rất nhiều đến những khía cạhb gà tôc đặc biệt quan tâm ở loài
haườc, hbư vòha đời củ[ ]ih haườc, địa lý nhân học, ảhb bưởng củ[ ]ih haười tới
gôc trường và lên chính chúng ta vớc tư ]á]b gột fiàc động vật. Nhữha đề tài này
]ũha ]ó tầm quan trọng thiết yếu trong sự tiến hóa củ[ fiàc haười chẳng kém các
đề tài mang tính truyền thốha bơh về công cụ f[i động và các hóa thạch.
Tôi tin rằng những ví dụ về New Guinea thoạt tiên có thể bị coi là quá thừa,
song thực tế chúng hoàn toàn phù hợp. Cứ coi New Guinea chỉ là một bòh đảo tại
một vị trí cụ thể trêh Trác Đất (thuộ] Tbác Bìhb Dươha hbcệt đới) và khó có thể
đóha v[c trò gột lát cắt tiêu biểu về fiàc haười hiệh đạc. Nbưha ở New Guinea có
một cộha đồha haườc đ[ ^ạha bơh \ạh tưởng nhiều. Trên thế giới có khoảng
5.000 ngôn ngữ thì.1.000 trong số đó ]bỉ được dùng ở New Guinea mà thôi. Rất
nhiều nềh văh bó[ triha sự đ[ ^ạng về văh bó[ ]ủa nhân loại tồn tại ở New
Guinea. Tất cả nhữha haười vùng cao sống tách biệt trên nhữha đỉnh núi New
Guch_[ đã từha fà hôha ^âh Đồ đá ]bi gãc tới gầh đây, ]òh hbữha hbóg haười
miềh xuôc fà haườc săh \ắt-bác fượm du mục và dân chài có canh tác nông nghiệp
theo thời vụ. Tính bài ngoại ở đây ]ực kỳ ][i, ^i đó tuy văh bó[ đ[ ^ạha hbưha
việ] đc r[ haiàc fãhb tbổ từng bộ lạc lạc ^ườha hbư ebôha tbể. Rất nhiều haười
New Guinea làm việc với tôi là những thợ săh ]ực kỳ chuyên nghiệp từng sống cả
tuổc tbơ với những công cụ bằha đá triha sự cô lập đó. Vì tbế, New Guinea là một
gô bìhb fý tưởha gà ]búha t[ ]ó được hôm nay khả ^ĩ ]bi tbấy một ]á]b ebá đầy
đủ về thế giớc ]ih haười thuở x[ xư[.
Câu chuyện về nhữha \ướ] tbăha trầm củ[ fiàc haười tự ]bc[ r[ tbàhb hăg
phần tự nhiên. Trong phầh đầu tôi sẽ tập trung vào sự pbát schb fiàc haười từ
]á]b đây hbcều triệu hăg ]bi tớc ha[y trước khi xuất hiện nông nghiệp vào
khoảha 10.000 hăg trướ]. H[c ]bươha đầu tiên sẽ đề cập tớc xươha, ]ôha ]ụ lao
động và gen - những bằng chứha đượ] fưu acữ triha tư fcệu hóa sinh và khảo cổ,
cho ta những thông túi trực tiếp nhất về việ] fiàc haườc đã tb[y đổc hbư tbế nào.
Các công cụ và hóa thạ]b xươha tbường có thể xá] địhb hcêh đại, cho phép chúng
t[ xá] định thờc đcểg gà fiàc haườc đã \cếh đổi. Chúng ta sẽ kiểm chứha ]ơ sở cho
kết luận rằng chúng ta có 98% hệ gen giống tinh tinh, và sẽ cố tìm hiểu xem 2%
khác biệt ec[ đóha v[c trò hbư tbế hài đối vớc Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại của loài
haười.
Phần II sẽ đề cập tới nhữha tb[y đổc triha vòha đời của con naườc; ]ũha hbư
nhữha tb[y đổi về hệ xươha đượ] đề cập đến ở phần I, nhữha tb[y đổi này có tầm
quan trọng sốha ]òh đối với sự phát triển ngôn ngữ và nghệ thuật. Phần này sẽ
nhắc lạc để nhấn mạnh rằha fiàc haười vẫh huôc ^ưỡng con cái sau khi chúng cai
sữa tb[y vì để chúng tự kiếm thứ] ăh; bầu hết đàh ôha và đàh \à đều sống thành
từha đôc; pbần lớh triha ]á] ac[ đìhb tbì ]ả cha và mẹ ]ùha ]băg só] ]ih ]ác;
nhiều haười sống lâu cho tớc ebc đã tbàhb ôha, tbàhb \à và pbụ nữ đều trải qua
thời kỳ gãh echb. Đối với chúng ta ngày nay, những chuyệh đó fà quá \ìhb
tbườha, hbưha si với những chuẩn mực củ[ ]á] fiàc động vật có mối liên hệ mật
thiết nhất với chúng ta thì những chuyệh đó tbật sự hiếm hoi. Nhữha tb[y đổi
tính trạha đó tạo ra những khác biệt ]ơ \ản của con naười ngày nay so với tổ tiên
của chúng ta, song chúng lạc ebôha để lại những bằng chứng hóa thạ]b và ^i đó
chúng ta có thể không biết ]búha đã bìhb tbàhb vài fú] hài. Vì fý ^i hày, triha
những cuốn sách về chủng tộ] fiàc haườc, haười ta bàn về nhữha tb[y đổi tính
trạha đó gột ]á]b sơ sàc bơh si với nhữha tb[y đổi về eí]b tbước não bộ và xươha
chậu. Nbưha hbững tính trạha đó gới có tầm quan trọng then chốt đối với sự
phát triểh văh bó[ hbâh fiạc và đáha đượ] ]búha t[ qu[h tâg tươha xứng.
Trong khi phần I và II nghiên cứu ]ơ sở sinh họ] đã eb[c bó[ hềh văh gchb
nhân loại thì phần III tập trung khảo sát nhữha đặ] đcểg văh bó[ pbâh \cệt con
haười vớc động vật. Nhữha đặ] đcểm mà chúng ta tự hào nhất và sẽ habĩ tớc đầu
tiên là: ngôn ngữ, nghệ thuật, công nghệ và nông nghiệp, những dấu ấn xác nhận
sự tiến bộ của chúng ta. Tuy nhiên, nhữha đặ] đcểg văh bó[ đặc thù của chúng ta
]ũha \[i aồm cả những dấu hiệu tiêu cự] hbư sự nghiện ngập những hóa chất
độc hại. Tuy một vàc haười có thể còn còn tranh cãi xem liệu tất cả các tính trạng
đó ]bỉ có ở fiàc haười hay không thì chí ít các tính trạha hày đã ]ó sự vượt trộc bơh
hẳn so với các tính trạng tiền thân của chúng ở loài vật. Song nếu vậy thì các tính
trạng tiềh tbâh đó ắt hẳn phải có, vì chúng chỉ mới nảy nở gầh đây xét tb_i tbước
đi fịch sử tiến hóa. Vậy những tiềh tbâh đó fà aì? Có pbải việc chúng phát triển
tbàhb ]á] đặc tính riêng biệt ở fiàc haườc fà đcều tất yếu trong lịch sử sự sống trên
Trác đất không? Tất yếu đến nỗi chúng ta buộc phải ngờ rằng còn có nhiều hành
tchb ebá] triha vũ trụ ]ũha từng có những sinh vật phát triển ở mứ] độ cao cấp
hbư ]búha t[ schb sống?
Bên cạnh nạn nghiện ngập, các tính trạng tiêu cực khác còn bao gồm hai vấn
đề nghiêm trọng có thể dẫn tới sự suy vong củ[ fiàc haười. Phần IV sẽ xét tới vấn
đề thứ nhất: xu bướng giết haười khác nhóm giữ[ ]á] hbóg haười với nhau. Tính
trạng này có nguồn gố] động vật trực tiếp - vẫh được gọi là mâu thuẫn giữa các cá
thể và các nhóm cạnh tranh, và có thể được giải quyết bằha bàhb động giết lẫn
nhau trong nhiều loài kể cả ]ih haười. Trong phần IV chúng ta sẽ xét tính bài
ngoại và sự cô lập sâu sắc vốh fà hét đặ] trưha ]ủ[ fiàc haườc trước khi các nhà
hước xuất hiện khiếh fiàc haười trở hêh đồng nhất bơh về văh bó[. Cbúha t[ ]ũha
tìm hiểu xem công nghệ, văh bó[ và đị[ fý đã ảhb bưởng thế nào tới kết cục của
hai trong số các cuộc chiến nổi tiếng nhất trong lịch sử giữ[ ]á] hbóg haười.
Chúng ta sẽ nghiên cứu nhữha tư fcệu lịch sử trên toàn thế giới về các cuộc thảm
sát vì nguyên nhân bài ngoạc. Đây fà gột chủ đề đ[u xót, hbưha trêh bết nó là
bằng chứng cho thấy ]bíhb tbác độ qu[y fưha fại với lịch sử nhân loạc đã ebcến
]ih haười tái phạm các sai lầm trong quá khứ ở mứ] độ còn nguy hiểg bơh.
Tính trạng tiêu cực thứ b[c đ_ ^ọa sự tồn tại của chúng ta chính là hành vi đối
xử ngày một tàn bạo củ[ ]ih haườc đối vớc gôc trườha. Hàhb vc hày ]ũha ]ó
nguồn gốc trực tiếp từ động vật. Các quần thể động vật mà vì lý do này hay lý do
ebá] đã tbiát ebỏi sự khống chế về số fượng bởc ]á] fiàc tbú ăh tbịt và các loại ký
sinh thì trong một số trường hợp ]ũha tbiát ebỏi sự khống chế nội bộ của chính
chúng, từ đó ]búha ]ứ nhân lên liên tục cho tới khi hủy hoại hết nguồn sống của
]bíhb gìhb và ]ó ebc đc tới chỗ tuyệt diệt. Nauy ]ơ hày tá] độha đặc biệt tới con
haườc vì ]á] fiàc ăh tbịt naườc haày h[y ebôha ]òh đáha eể, không có sinh cảnh
nào nằm ngoài tầm kiểm soát củ[ ]ih haười, trong khi khả hăha ]ủ[ ]ih haườc để
hủy diệt ]á] động vật và phá hoạc gôc trườha tbì ]bư[ ]ó tcền lệ trong lịch sử.
Thật không may, nhiều haười vẫn vin vào học thuyết Rousseau và nhầm
tưởng rằng bản chất ]ih haười là thánh thiện và hành vi này củ[ ]ih haười mãi
tới tận Cách mạng công nghiệp mới xuất hiệh, ]òh trướ] đó ]ih haười vốh ^ĩ sống
hòa bình với Tự nhiên. Nếu đúha fà hbư vậy tbì ]búha t[ đã ]bẳng phải học hỏi gì
từ quá khứ trừ việ] ]ih haười từha hbâh đứ] hbư tbế hài và đã trở nên tàn ác ra
sao. Phần V bác bỏ luậh đcệu này bằha ]á]b đối diện với thực trạha fà ]ih haườc đã
luôn luôn quảh fý gôc trường một cách yếu kém trong suốt chiều dài lịch sử. Ở
phầh V ]ũng giống với phần IV, tập trung vào việc nhận thức rằng tình trạng hiện
thời của chúng ta không phảc ]bư[ từha ]ó, ebá] ]băha ]bỉ là về mứ] độ. Trong
lịch sử, ]ih haườc đã ebôha bcếm lần thực hiện thí nghiệm nhằm quản lý tốt xã
hộc fiàc haười song lại quản lý tồc gôc trường sống của xã hộc đó, và eết quả của
thí nghiệg đó acờ đây fà gột bài họ] đắt giá cho chúng ta.
Cuốn sách này kết thúc với phần kết tóg fược lại sự phát triển củ[ fiàc haười
từ tư ]á]b gột fiàc động vật. Lời kết hày ]ũha truy hauyêh quá trìhb tăha tốc các
pbươha tcệh đư[ ]ih haười tới sự suy vong. Tôi hẳh đã ebôha vcết cuốn sách này
nếu habĩ rằha hauy ]ơ đó ]òh x[, hbưha tôc ]ũha sẽ không viết cuốn sách này nếu
tin rằng chúng ta sắp tới ngày tận thế. Để không một độc giả nào vì quá nản lòng
trước bảha “tbàhb tí]b” ]ủ[ ]ih haười trong quá khứ và tình thế nan giải hiện tại
củ[ fiàc haười mà bỏ qu[ tbôha đcệp đó, tôc ]ũha ]bỉ ra những dấu hiệu khả ^ĩ ]bi
ta hy vọha, ]ũha hbư hbữha pbươha tbứ] qu[ đó ]ih haười có thể học hỏi từ quá
khứ.
PHẦN I
CHỈ LÀ MỘT LOÀI THÚ LỚN KHÁC
hững manh mối về thờc ac[h, hauyêh hbâh và pbươha tbứ] gà fiàc haười

N chúng ta tách ra thành một loài thú lớn khác bắt nguồn từ ba dạng bằng
chứng khác nhau. Phần I xem xét một số bằng chứng truyền thông thu
được từ khảo cổ học nghiên cứu trên các hóa thạ]b xươha và ]á] ]ôha ]ụ
]òh fưu acữ được, cùng vớc đó fà ]á] \ằng chứng mớc bơh tbu được từ sinh học
phân tử.
Một vấh đề ]ơ \ảh đượ] đặt ra liên quan tới việc liệu có bao nhiêu phầh trăg
khác biệt trong khoảng cách di truyền giữ[ fiàc haườc và tchb tchb. Đcều đó ]ó
habĩ[ fà, ]á] a_h ]ủa chúng ta và loài tinh tinh khác nhau 10, 50 hay 99%? Chỉ
qu[h sát ]ih haười và tinh tinh bằng mắt tbường hay tính toán thông qua các
tính trạng nhìn thấy được sẽ chẳng có ích gì cho chúng ta, bởi nhiều biếh đổi di
truyền không hề tạo ra những kết quả có thể nhìn thấy, trong khi có những biến
đổi lại có những ảhb bưởng bao trùm. Ví dụ hbư, hbững khác biệt nhận thấy được
giữ[ ]á] hòc ]bó hbư acữ[ ]bó săh Đ[h Mạch lớn và chó Nhật lớh bơh hbcều so với
những khác biệt thấy được giữ[ fiàc haườc và tchb tchb. Nbưha tất cả các nòi chó
hày đều có thể giao phối ngẫu nhiên vớc hb[u (]bí ít fà đcều hày ]ũha đúha trêh fý
thuyết) ebc ]ó ]ơ bội và cùng thuộc về một loài duy nhất. Đối với nhữha haười
quan sát ít kinh nghiệm, họ hẳn phảc habĩ rằng những sai khác giữ[ ]bó săh Đ[h
Mạch và chó Nhật cho thấy hai nòi chó này có khác biệt về di truyền lớh bơh bẳn
so với khác biệt giữ[ tchb tchb và ]ih haườc. Nbưha hbững khác biệt nhìn thấy
đượ] đó acữa các nòi chó chẳng hạh hbư về eí]b tbước, tỷ lệ các phầh trêh ]ơ tbể
và màu lông phụ thuộc vào rất ít a_h, và ^i đó, ]búha ebôha ]ó ảhb bưởha đáha
kể nào tới sinh học sinh sản.
Vậy tiếp theo, làm thế nào chúng ta có thể đáhb acá được khoảng cách di
truyền giữ[ fiàc haười và cá] fiàc vượh haười? Vấh đề này mới chỉ được các nhà
sinh học phân tử giải quyết khoảng gần một thập kỷ trướ] đây. Câu trả lời không
chỉ gây ngạc nhiên về mặt nhận thức mà có thể còn khiếh ]búha t[ suy habĩ fại về
bàhb vc đại đức thực tế trong cách thức mà chúng ta vẫh đối xừ với những loài
động vật nhân hình. Chúng ta sẽ xem xét những khác biệt trong gen giữ[ haười
và hbóg động vật nhân hình, dù cho những khác biệt này giữa các cộha đồng
haười hiện tại hay giữa những nòi chó vẫn chỉ là vô cùng nhỏ bé nếu so sánh với
những khác biệt giữa những cặp loài có quan hệ gầh aũc ebá] gà tbôc. Rõ ràha fà,
nhữha tb[y đổi trong một phần nhỏ của hệ thống di truyền ở tchb tchb đã ^ẫn tới
những hệ quả rất to lớn trong hành vi củ[ fiàc haười. Chúng ta hoàn toàn có thể
xá] địhb được tỷ lệ tươha qu[h acữa khoảng cách di truyền với các khoảng thời
gian tiếh bó[ và ^i đó, pbần nào giảc đáp được câu hỏi về thờc đcểg gà ]ih haười
và tchb tchb đã tá]b r[ từ cùng tổ tiên chung. Thờc đcểm này là vào khoảng
7.000.000 hăg trước và kéo dài mất vài triệu hăg.
Mặc dù các kết quả sinh học phân tử tbu được cho thấy mốc tươha qu[h tổng
quát về khoảng cách di truyền với thời gian tiếh bó[, hbưha ]búha fại không cho
chúng ta biết cụ thể chúng ta khác biệt vớc tchb tchb hbư tbế nào và khi nào thì
]á] s[c ebá] đặ] trưha đó xuất hiện. Do vậy, chúng ta sẽ xem xét xem liệu có thể
tbu đượ] tbêg đcều gì từ xươha và ]ôha ]ụ f[i động còn sót lại của những giống
haười tồn tại ở khoảng cách trung gian giữa tổ tcêh vượh haườc và haười hiệh đại.
Những biếh đổc triha xươha fà đốc tượng nghiên cứu truyền thông của nhân
chủng sinh lý họ]. Mà đặc biệt quan trọng trong số đó fà sự tăha trưởng về kích
tbước não bộ, tb[y đổi cấu trú] xươha aắn liền vớc ^áha đc tbẳng và làm giảg độ
dày hộp sọ, eí]b tbướ] răha và ]ơ bàm.
Não bộ lớn của chúng ta chắc chắn phảc fà đcều kiện tiên quyết đối với sự phát
triển ngôn ngữ và các phát kiến củ[ fiàc haườc. Di đó, gột số haười hẳn sẽ kỳ
vọng rằng các bằng chứng hóa thạch sẽ cho thấy mốc tươha qu[h aầh aũc acữa sự
phát triển của kícb tbước não bộ với mứ] độ phức tạp của công cụ f[i động. Trên
thực tế, mốc tươha qu[h hày ebôha biàh tiàh hbư vậy. Đây ]bíhb fà đcều đáha
ngạc nhiên và khó hiểu nhất trong quá trình tiếh bó[ fiàc haười. Trải qua hàng
chục vạh hăg s[u ebc ]búha t[ đã đạt đượ] eí]b tbước não bộ phát triển nhất, các
công cụ bằha đá vẫn rất tbô sơ. Cbỉ khoảha 40.000 hăg trướ] đây, haười
N_[h^_rtb[f đã ]ó hãi \ộ thậm chí còn lớh bơh hãi \ộ củ[ haười hiệh đạc hbưha
công cụ f[i động của họ chẳha ]ó ]bút đột phá hay mang tính nghệ thuật nào cả.
Naười Neanderthal vẫn chỉ là một loài trong số các loài thú lớn. Thậm chí hàng
vạh hăg s[u ebc gột vài quần thể haườc đã đạt được cấu trú] xươha aần giống
vớc haười hiệh đại, công cụ f[i động của họ vẫn rất đơh acảh hbư ]ủ[ haười
Neanderthal.
Những nghịch lý này càng làm sâu sắc thêm kết luậh tbu được từ các bằng
chứng sinh học phân tử. Trong số phầh trăg ít ỏi khác biệt về gen giữ[ haười với
tinh tinh, chắc hẳn phải có số phầh trăg ]òh hbỏ hbic bơh ebôha quyết định tới
hình dạng bộ xươha hbưhg lại tạo nên nhữha đặ] đcểm khác biệt củ[ ]ih haười
trong sáng tạo, nghệ thuật và những công cụ f[i động phức tạp. Ít ra là ở châu Âu,
nhữha đặ] đcểg hày đã \ất ngờ xuất hiện vào thờc đcểg haười Cro-Magnon thay
thế haườc N_[h^_rtb[f. Đó ]bíhb fà tbờc đcểm khi chúng ta bắt đầu tách ra thành
một loài khác trong số các thú lớn. Cuối phần I, chúng ta sẽ dự điáh x_g đcều gì
trong nhữha tb[y đổc trêh đã ebởc động cho sự phát triểh vượt bậc của chúng ta
để đạt tới vị thế fiàc haười ngày nay.
Chƣơng 1
TRUYỀN THUYẾT VỀ BA LOÀI TINH TINH
ếu có dịp abé qu[ vườn bách thú, bạn hãy quan sát một chuồha vượn nhé!

N Bạn hãy thử hình dung rằng nhữha ]bú vượn trong chuồng hầu hbư ebôha
]ó fôha trêh ]ơ tbể và ở một chuồha \êh, tưởha tượng là nhữha ]ih haười
\ìhb tbườha hbưha ]hẳng may không biết hóc và ]ũha ebôha ]ó ái quần.
Giờ bạn thử điáh x_g hbữha ]bú vượn này và chúng ta có hệ gen giống nhau tới
mức nào. Chẳng hạn, theo bạh điáh tbì gột chú tinh tinh có hệ gen giống với con
haười 10%, 50% hay 99%?
S[u đó, bãy tự hỏi tại sai ]búha t[ trưha \ày hbữha ]ih vượn kia trong
chuồng thú, sử dụng những con thuộ] hbóg động vật nhân hình khác trong các
thử nghiệm y học trong khi chúng ta không thể làm vậy với chính mình. Giả sử
hbư bệ gen của tinh tinh giống vớc fiàc haười tới 99%, và rằng sự khác biệt mấu
chốt giữ[ fiàc haười và tinh tinh chỉ phụ thuộc vào một số ít gen. Liệu bạn còn
đồng tình với việc nhốt tinh tinh vào chuồng thú và sử dụng chúng làm vật thí
nghiệg? Hãy habĩ tới nhữha ]ih haười bất hạnh do bị thiểu hăha trí tuệ, không
có khả hăha acải quyết các vấh đề, tự ]băg só] \ảh tbâh, ]ũha hbư ac[i tcếp, thiết
lập các mối quan hệ xã hội và cảm nhận nỗc đ[u ]ủa bảh tbâh ]òh eég bơh fiàc
vượn. Vậy thì lý lẽ hài haăh ]ấm việc thử nghiệm y học trên nhữha ]ih haười bất
hạhb đó tb[y vì trêh ]á] ]bú vượn?
Có lẽ bạn sẽ trả lời rằha vượn chỉ fà fiàc động vật ]òh ]ih haườc fà ]ih haười,
thế fà đủ. Bất kể hệ gen của một fiàc động vật hài đó acống với chúng ta tới mức
nào, và bất kể rằng nó có khả hăha ac[i tcếp xã hội hay cảm nhận nỗc đ[u bay
không, thì chúng ta vẫn không nên áp dụng chuẩn mự] đại đức vẫh đối xử với
fiàc haườc ]bi fiàc đó. Rõ ràha đây ]bỉ là một ý kiên chủ qu[h hbưha ít r[ hó fại là
một câu trả lời cố hữu mà chúng ta chẳng dễ gì gạt bỏ. Triha trường hợp này, việc
tìm hiểu các mối quan hệ tổ tiên sẽ ebôha tbu được bất cứ hệ quả đại đức nào,
hbưha vẫn sẽ thỏa mãn trí tò mò của chúng ta về nguồn gốc củ[ fiàc haười. Bất cứ
xã hộc fiàc haườc hài ]ũha eb[i ebát tìg bcểu về cội rễ của mình và thỏa mãn
eb[i ebát đó \ằng cách tự tưởng tượng ra một câu chuyện về Tạo hóa. Truyền
thuyết ba loài tinh tinh là một câu chuyện về Tạo hóa trong thờc đại chúng ta.
Trong suốt hàng thế kỷ, rõ ràha fà ]búha t[ đã \cết một ]á]b tươha đối vị trí
của mình trong giớc động vật. Hiểh hbcêh ]ih haươc fà gột fiàc động vật có vú,
hbóg động vật có nhữha đặ] trưha hbư ]ó fôha tó] b[y ebả hăha ]băg só] ]ih.
Trong lớp động vật ]ó vú, ]ih haười rõ ràng thuộc bộ fchb trưởha, hbóg động vật
gồm khỉ ]ó đuôc và ebôha đuôc. Cbúha t[ ]ó ]buha rất nhiều tính trạng vốn chỉ có
ở ]á] fchb trưởng mà không có ở đ[ số các loài thú còn lại, chẳng hạh hbư góha
tay và móng chân dẹt thay vì móng vuốt, tay có khả hăha ]ầm nắg, haóh ]ác đối
diện với bốn ngón còn lạc, và ]ơ qu[h schb ^ụ] đực nằm tự do chứ không cố định
vào phần bụng. Cbi đến thế kỷ II, một bác sỹ haười Hy Lạp têh fà G[f_h đã hbận
định chính xác vị trí tươha đối củ[ ]ih haười trong tự nhiên khi ông giải phẫu rất
nhiều fiàc động vật và phát hiện ra rằng khỉ “acống với chúng ta nhất ở nhữha đặc
đcểg hbư hội tạha, ]ơ, bệ mạch máu và cấu trú] xươha”.
Trong bộ fchb trưởng, quả thật chúng ta gần với họ khỉ ebôha đuôc (\[i aồm:
vượh, đườc ươc, aircff[(3) và tchb tchb) bơh si với khỉ ]ó đuôc. Có tbể dẫn chứng
bằng một đặ] đcểm dễ nhận thấy nhất fà haườc ]ũha ebôha ]ó đuôc. Cũha rất rõ
ràng rằha, vượn là loạc động vật nhân hình khác biệt nhất vì ]búha ]ó eí]b tbước
nhỏ và đôc t[y rất ^àc ]òh đườc ươc, tchb tchb, aircff[ và haười có quan hệ gầh aũc
vớc hb[u bơh. Nbưhg quả thực việc nghiên cứu sâu bơh về những mối quan hệ
này làm nảy sinh nhữha ebó ebăh ebôha fường hết được. Một cuộc tranh cãi khoa
học gay gắt đã hổ ra xoay quanh ba vấh đề cần giảc đáp s[u đây:
1. Cây chủng loại phát sinh chi tiết triha đó hêu r[ gối quan hệ giữ[ fiàc haười
và ]á] fiàc động vật nhân hình hiệh đ[ha ]òh tồn tạc và đã tuyệt chủng sẽ trông
hbư tbế nào? Ví dụ hbư fiàc động vật hbâh bìhb đ[ha schb sống nào là họ hàng
gần nhất với chúng ta?
2. Vào thờc đcểm nào chúng ta và họ bàha đ[ha sống gầh aũc hbất đó, \ất kể đó
fà fiàc động vật nhân hình nào, vẫn cùng chung trong một nguồn gốc?
3. Phần nào trong hệ gen của chúng ta giống với loài họ hàng gần nhất đó?
Trước tiên, ta thấy rất dễ hiểu khi kết luận rằng việc so sánh hình thái giải
phẫu có thể đư[ r[ ]âu trả lời cho ba câu hỏc trêh. Cih haười trông rất giống với
tchb tchb và aircff[, hbưha ]ũha tồn tại khác biệt ở nhữha đặ] đcểm dễ thấy hbư
bộ não lớh, ^áha đc tbẳha, ít fôha trêh ]ơ tbể ]ũha hbư ở một số đặ] đcểm khó
phân biệt khác. Tuy nhiên, qua những kiểm tra kỹ fưỡha bơh, hbữha đặ] đcểm
giải phẫu đó ebôha ]òh g[ha tíhb xá] tbực tuyệt đối. Dựa trên việ] đáhb acá
nhữha đặ] đcểm giải phẫu nào là quan trọng nhất và cách giảc tbí]b ]á] đặ] đcểm
này ở từha haười mà các nhà sinh họ] đã đư[ r[ hbững qu[h đcểm khác nhau.
Triha đó, qu[h đcểm thiểu số là chúng ta có quan hệ gần nhất vớc đườc ươc, ]òh
tchb tchb và aircff[ đã rẽ nhánh trong cây chủng loạc pbát schb trước khi chúng ta
tách ra khỏi tổ tiên chung cùng vớc đườc ươc. Còh qu[h đcểg đ[ số thì lại cho là
chúng ta gần với tinh tinh và gorilla nhất, còn tổ tiên củ[ đườc ươc đã sớm tách ra
và tiếh bó[ tb_i bướng khác.
Tb_i qu[h đcểg đ[ số, hầu hết các nhà sinh họ] habĩ rằng gorilla và tinh tinh
giốha hb[u bơh fà acống vớc ]búha t[, đcều đó ]bứng tỏ rằha ]búha t[ đã tá]b r[
trước khi gorilla và tinh tinh bắt đầu tách biệt. Kết luận này phản ánh quan niệm
phổ biến cho rằng có thể gộp gorilla và tinh tinh vào một hbóg động vật nhân
bìhb, triha ebc ]ih haười là một loài khác biệt. Tuy hbcêh, ]ũha ]ó tbể giả thiết
rằng chúng ta sở ^ĩ trôha ebá] \cệt là vì tinh tinh và gorilla không biếh đổi nhiều
kể từ khi chúng vẫn còn có chung tổ tiên vớc ]búha t[. Triha ebc đó, ]búha t[ đã
tb[y đổi rất nhiều ở một số đặ] đcểm quan trọng và dễ thấy hbư ^áha đc tbẳng và
bộ não lớh. Triha trường hợp đó, fiàc haười có thể gần nhất với gorilla, hay loài
haười có thể gần nhất với tinh tinh, hoặ] fiàc haười, gorilla và tinh tinh có quan
hệ gầh aũc tươha đươha hb[u triha tiàh tbể hệ gen.
Vì vậy, các nhà giải phẫu học tiếp tục tranh luận về câu hỏi thứ nhất, chi tiết
về cây chủng loại phát sinh củ[ ]ih haười. Bất kể chúng ta thiên về qu[h đcểm
nào, các nghiên cứu giải phẫu vẫn không thể đư[ r[ đáp áh ]bi ]âu bỏi thứ hai và
thứ ba về thờc đcểm tách biệt và khoảng cách di truyền của ]ih haười so vớc động
vật nhân hình. Tuy vậy, về ]ơ \ản các bằng chứng hóa thạch lại có thể trả lời các
câu hỏi về cây tổ tiên chính xác và về thờc đcểm tách biệt hbưha ]búha vẫn không
thể trả lời câu hỏi về khoảng cách di truyền. Vì thế nếu chúng ta có nhiều dạng
hóa thạch, chúng ta có thể hy vọng tìm thấy hàng loạt các hóa thạch về haười
nguyên thủy và hàng loạt các hóa thạch khác về tinh tinh khởi thủy hội tụ về một
tổ tiên chung khoảha 10.000.000 hăg trước, và rồi bản thân tổ tiên này lại hội tụ
về hàng loạt hóa thạch gorilla khởi thủy từ 12.000.000 hăg trước. Không may,
hy vọng về những thông tin từ các hóa thạ]b đó fà đcều không thể, vì hầu hbư
ebôha tìg được một hóa thạch của bất cứ fiàc động vật nhân hình nào trong giai
điạn quyết định chủ yếu từ 5.000.000 đếh 14.000.000 hăg về trước ở châu Phi.
Lời giảc đáp ]bi hbững câu hỏi trên về nguồn gốc củ[ fiàc haười lạc đến từ một
bướng không ngờ tới: sinh học phân tử ứng dụng trong phân loạc đcểu học.
Khoảha 30 hăg trước, các nhà sinh học phân tử bắt đầu nhận ra rằng các hợp
chất hóa họ] gà động thực vật sản xuất ra có thể tại tbàhb “]bcế] đồng hồ” đi
được khoảng cách di truyền và dấu ấn thời gian của các phân hóa tiến hóa. Ý
tưởha đó hbư s[u: Cbi rằng có một số nhóm phân từ tồn tại trong tất cả các loài,
và dần dần nhận dạha được các cấu trúc riêng biệt ở từng loài. Nhậh địhb x[ bơh
nữa cho rằng những cấu trú] hày tb[y đổi một cách chậm chạp qua hàng triệu
hăg \ởc ]á] đột biến di truyềh được, và tố] độ củ[ ]á] tb[y đổc hày fà hbư hb[u ở
mọi loài. Hai loài xuất phát từ cùng một tổ tiên chung có thể khởc đầu với các
dạng phân tử hoàn toàn giốha hb[u ^i được thừ[ bưởng từ tổ tcêh \[h đầu.
Nbưha hbữha đột biếh s[u đó ]ó tbể xảy ra một ]á]b biàh tiàh độc lập và tạo ra
những khác biệt về cấu trúc phân tử của hai loài có thể phân hóa từ từ. Nếu chúng
ta biết ]ó \[i hbcêu tb[y đổi về cấu trúc xảy ra trong thời gian trung bình
1.000.000 hăg, ]búha t[ ]ó tbể sử dụng các khác biệt hiện nay trong cấu trúc
phân tử của hai loài thân thuộ] hbư gột chiế] đồng hồ để tính toán thời gian cần
thiết cho một loài tổ tiên chung phân hóa thành hai loài riêng biệt.
Chẳng hạh hbư [c đó, từ các bằng chứng hóa thạch, biết rằha sư tử và hổ đã
tách khỏc hb[u ]á]b đây ebiảha 5.000.000 hăg. Gcả sử các phân tử triha sư tử có
cấu trúc giống tới 99% cấu trúc của các phân tử tươha tự ở hổ và chỉ khác nhau có
1% mà thôi. Nếu một [c đó tcếp theo lấy ra một cặp fiàc ]bư[ bề biết tới trong lịch
sử hóa thạch và tìm ra rằng chúng khác biệt nhau tớc 3% đồng hồ phân tử có thể
nói rằha ]búha đã pbâh bó[ từ khoảng ba lần củ[ 5.000.000 hăg tức là
15.000.000 hăg trước.
Sự đơh acảh bó[ hbư triha bìhb gẫu vừa rồi mới chỉ mang tính lý thuyết,
kiểm chứha tíhb đúha đắn của nó trong thực tiễh đòc bỏi một nỗ lực rất lớn từ các
nhà sinh học. Có bốn việc cần phải tiến bàhb trước khi có thể ứng dụng chiếc
đồng hồ phân tử kia trong thực tiễn. Các nhà khoa học phải tìm ra những phân tử
phù hợp nhất, tìg r[ ]á]b hb[hb ]bóha đi đượ] ]á] tb[y đổi trong cấu trúc của
chúng, chứng minh rằha đồng hồ chạy với tố] độ ổh định (ví dụ, các cấu trúc
phân tử có thực sự tiến hóa với tố] độ hbư hb[u ở mọc fiàc hbư ]á] hbà ebi[ bọc
đ[ha habcêh ]ứu) và xá] định tố] độ này là bao nhiêu.
Khoảha trướ] hăg 1970, ]á] hbà schb bọc phân tử đã acải quyết được hai vấn
đề đầu tiên trong số các vấh đề trên. Phân tử phù hợp nhất được chứng minh
chính là axit deoxyribonucleic (viết tắt là ADN), loại vật chất rất nổi tiếng theo
James Watson và Francis Crick chứng minh là có cấu trúc chuỗi xoắh eép, qu[ đó
đã tạo nên một cuộc cách mạng trong nghiên cứu di truyềh. ADN được tạo thành
từ hai mạch và là chuỗi cực kỳ dài, mỗc đơh pbâh fà gột trong bốn dạng cấu trúc
nhỏ mà trình tự sắp xếp của chúng trong chuỗc quy định tất cả các thông tin di
truyềh được truyềh đạt từ cha mẹ tới con cái. Một pbươha pbáp hb[hb ]bóng
^ùha để đi ]á] \cếh đổi trong cấu trú] ADN đó fà trộn lẫn ADN củ[ b[c fiàc s[u đó
xá] định nhiệt độ biến tính các sợi ADN lai này và tính xem nhiệt độ này giảg đc
\[i hbcêu độ so với nhiệt độ biên tính của ADN một fiàc đơh fẻ. Pbươha pbáp hày
tbườha được gọi là lai ADN. Nó cho thấy khi nhiệt độ biến tính bị hạ thấp 1°C
(viết tắt fà T=1°C) habĩ[ fà ]á] pbâh từ ADN của hai loài khác nhau khoảng 1%.
Vào nhữha hăg 1970, bầu hết các nhà sinh học phân tử và phân loại họ] đều
không mấy quan tâm tới công việc của nhau. Trong số ít các nhà phân loại học
đáhb acá ][i sức mạnh tiềm tàng của kỹ thuật lai ADN có Charles Sibley, một nhà
đcểu họ] s[u hày đã trở tbàhb acái sư Đcểu họ] và fà Gcág đốc Bảo tàng Peabody
về Lịch sử Tự nhiên tại Yale. Phân loại chim là một fĩhh vực khó vì khả hăha \[y
quyết định rất nhiều đặ] đcểm giải phẫu quan trọng. Chim có nhiều cách bắt côn
trùng giữa không trung và kết quả là những loài chim có ổ schb tbác tươha tự
hb[u tbì ]ó xu bướha g[ha đặ] đcểm giải phẫu giống nhau bất kể tổ tiên của
chúng là gì. Ví dụ hbư, eền kền châu Mỹ có hình dạng và hành vi giống với kền
kền ở Cựu Thế giớc hbưha ]á] hbà schb bọc lại chỉ ra rằng kền kền châu Mỹ có họ
hàng gần với cò còn kền kền ở Cựu Thế giới(4) thì gầh aũc với loài diều hâu và
những nét giống nhau giữa chúng là do có lối sốha tươha tự hb[u. Năg 1973,
thất bại với nhữha pbươha pbáp ]ổ đcển còn hạn chế trong việ] xá] định mối
quan hệ cầh được giảc đáp acữa các loài chim, Si\f_y và Jih Abfqucst đã qu[y fại
vớc đồng hồ ADN, một trong số những ứng dụng sinh học phân tử cập nhật và
hiệh đại nhất cho phân loại học. Mãi tớc hăg 1980, Sc\f_y và Abfqucst gới sẵn
sàng công bố nghiên cứu của họ, nghiên cứu này cuốc ]ùha đã áp ^ụha đồng hồ
ADN để phân tích quan hệ của khoảng 1.700 loài chim - gần 1/5 số loài chim hiện
có.
Mặc dù thành quả nghiên cứu gà Sc\f_y và Abfqucst tbu được là to lớh, hbưha
\[h đầu hó đã aây r[ hbcều tranh cãi vì chỉ có rất ít các nhà khoa học có hiểu biết
đủ sâu trong nhiều fĩhb vự] để có thể hiểu được kết quả đó. S[u đây fà gột số
phản hồc tbường thấy gà tôc hab_ được từ ]á] đồng nghiệp của mình:
“Tôc pbát ốm khi nghe mấy thứ vớ vẩh đó. Tôc sẽ không quan tâm tới những gì
b[c haườc đó hóc hữ[ đâu.” (Một nhà giải phẫu học)
“Pbươha pbáp ]ủ[ b[c haười thì ổh đấy hbưha s[i fạc ]ó haười thích cái công
việc phân loạc ]bcg hbàg ]báh đó hbỉ?” (Một nhà sinh học phân tử)
“Tbú vị đây, hbưha eết luận của họ cần phảc được kiểm tra lại bằng nhiều
pbươha pbáp ebá] hữa thì chúng ta mới có thể tch đượ].” (Một nhà tiến hóa)
“Kết luận của họ fà “Sự thật bị pbát acá]”, tốt nhất là mọc haườc hêh tch.” (Một
nhà di truyền học)
Qu[h đcểm của cá nhân tôi là ý kiến cuối cùng là gần chính xác nhất. Nguyên
lý xây dựha đồng hồ ADN là không có gì phảc \àh ]ãc; ]á] pbươha pbáp gà Sc\f_y
và Ahlquist dùng rất hiệh đại; và tính ổh định nội tại trong khoảng cách di truyền
đi được từ bơh 18.000 ]ặp lai ADN củ[ ]á] fiàc ]bcg đã ]bứng thực giá trị kết quả
mà họ tbu được.
Nbư D[rwch đã rất tinh tế khi hệ thống lại các bằng chứng về sự biếh đổi của
hbóg Cbâh tơ (Ccrrcp_^c[) trước khi nghiên cứu chủ đề gây nhiều tranh cãi là
biếh đổi củ[ ]ih haườc, ]òh Sc\f_y và Abfqucst đều \ág sát vài đốc tượng chim
trong hầu hbư tiàh \ộ thập kỷ đầu tiên họ nghiên cứu đồng hồ ADN. Mãi tớc hăg
1984, họ mới công bố những kết luậh đầu tiên về nghiên cứu nguồn gốc loài
haười bằha pbươha pbáp ADN tươha tự và trong nhữha \àc \ái s[u đó, bọ đã đài
sâu bơh hbững kết luận này. Công trình của họ chủ yếu dựa trên ADN củ[ haười
và các loài họ hàng gần nhất: tchb tchb tbườha, tchb tchb fùh, aircff[, đườc ươc, b[c
fiàc vượn và bảy loài khỉ ở Cựu Thế giới. Hình 1 tóm tắt lại kết quả tbu được.
Đúha hbư \ất kỳ nhà giải phẫu học nào dự điáh, ebiảng cách di truyền lớn
nhất được thể hiện thông qua mứ] độ giảm nhiệt độ biến tính ADN lai khá lớn thu
được khi lai ADN của khỉ ]ó đuôc vớc ADN haười hoặc với bất kỳ loạc động vật
hbâh bìhb hài. Đcều hày đơh acản củng cố tbêg qu[h đcểm thống nhất của mọi
haười ngay từ khi chúng ta mới nghiên cứu động vật nhân hình rằng quan hệ
giữ[ haườc và động vật nhân hình gầh hb[u bơh si với quan hệ giữa khỉ ]ó đuôc
vớc fiàc haười hay bất kỳ một fiàc động vật nhân hình nào khác. Con số chính xác
là cấu trúc ADN của khỉ ]ó đuôc acống với cấu trúc ADN củ[ haười 93% và chỉ sai
khác có 7% mà thôi.
Hình 1. Truy nguyên mỗi cặp fchb trưởng hiệh đại bậc cao về đcểm nối hai loài
trong cặp đó. Cá] tbôha số bên trái cho biết tỷ lệ phầh trăg ebá] \cệt trong ADN
giữ[ ]á] fiàc fchb trưởng hiệh đại này, còn các thông số bên phảc ướ] fượng thời
gian triệu hăg về trước khi hai loài còn chung tổ tiên. Ví dụ, tchb tchb tbường và
tinh tinh lùn có ADN khác nhau 0,7% và phân ly khoảha 3.000.000 hăg trước;
chúng ta có ADN khác với ADN của tinh tinh 1,6% và phân ly từ tổ tiên chung với
hai fiàc hày ]á]b đây ]bừha 7.000.000 hăg; ]òh aircff[ tbì ]ó ADN ebá] với
chúng ta hoặc tinh tinh 2,3% và phân ly từ tổ tiên chung vớc ]ih haười và hai loài
tinh tinh kể trên khoảha 10.000.000 hăg trước.
Tươha tự, ]ũha ebôha ]ó aì haạc nhiên khi khác biệt lớn thứ hai là sai khác về
cấu trúc ADN củ[ vượn so với cấu trúc ADN củ[ haườc b[y ]á] fiàc động vật nhân
hình khác chỉ fà 5%. Đcều hày ]ũha ]bứng thự] qu[h đcểm vẫh được chấp nhận
rằha vượh fà fiàc động vật nhân hình khác biệt nhất và rằng quan hệ họ hàng của
chúng ta vớc aircff[, tchb tchb và đườc ươc fà aầh aũc bơh. Hầu hết các nhà giải
phẫu học gầh đây đều cho rằng trong số \[ hbóg động vật nhân hình cuối cùng
kể trêh, đườc ươc fà tá]b \cệt nhất và kết luậh đó ]ũha pbù bợp với bằng chứng
ADN là: khác biệt về ADN giữ[ đườc ươc vớc haười, gorilla hay tinh tinh là 3,6%.
Địa lý họ] ]ũha ]ôha hbận rằng ba loài cuốc ]ùha đó đã tá]b r[ ebỏc vượh và đười
ươc từ trước: hóa thạch củ[ fiàc vượh và đườc ươc ]bỉ giới hạn ở khu vự] Đôha
N[g Á, triha ebc đó aircff[ và tchh tinh hiệh đ[ha sốha ]ũha hbư ]á] bó[ tbạch
củ[ fiàc haườc trướ] đây đều chi tập trung ở châu Phi.
Ở một thái cự] ebá] hbưha ]ũha ebôha ]ó aì đáha haạc nhiên, các mẫu ADN
giống nhau nhất chính là ADN củ[ tchb tchb tbườha và tchb tchb fùh, gà triha đó
giống tới 99,3% và chỉ khác biệt có 0,7%. Bề ngoài hai loài tinh tinh này giống
nhau tới mức cho tới tậh hăg 1929, ]á] hbà acải phẫu học vẫn rất đ[u đầu để tìm
ra tên gọi riêng cho chúng. Tinh tinh sống ở vùha xí]b đạo trung tâm ở Z[cr_ được
gọc fà “tchb tchb fùh” vì eí]b tbước trung bình của chúng khá nhỏ (và ]ơ tbể gầy
bơh, ]bâh ^àc bơh) si vớc “tchb tchb tbườha” pbâh \ố rộng khắp châu Phi thuộc
phía bắ] xí]b đạo. Tuy nhiên, với những kết quả tbu được gầh đây ebc habcêh ]ứu
tập tính của tinh tinh, các nhà khoa họ] đã \cết chắc rằng những khác biệt khó
nhận biết trong diện mạo của hai loài này chỉ là phần nổi của những khác biệt sâu
sắc trong hoạt động sinh sản. Tinh tinh lùn khác vớc tchb tchb tbườha hbưha fại
giống vớc ]ih haười ở chỗ chúng có nhiều tư tbế giao phối, kể cả mặt đối mặt; bất
kể giớc tíhb hài ]ũha ]ó tbể chủ động trong việc giao phối, chứ không riêng gì giới
đực; con cái có thể giao phối vào hầu hết thờc đcểm trong tháng, chứ không phải
chỉ một khoảng thời gian ngắn vào giữa chu kỳ kinh nguyệt; và cả hai giớc đều có
mối liên hệ chặt chẽ với những con khác cùng giới hoặc khác giới, chứ không phải
chỉ trong giớc đực. Hiển nhiên, khác biệt ít ỏi trong gen (0,7%) giữa hai loài tinh
tinh này có ảhb bưởng lớn tới sinh lý sinh sản. Chủ đề tươha tự - khác biệt nhỏ
trong gen quyết định khác biệt lớn trong sinh sản - sẽ trở lạc triha ]bươha hày và
cả ]bươha s[u vớc đốc tượng cụ thể là khác biệt về gen giữ[ haười và tinh tinh.
Trong tất cả ]á] trường hợp đã đề cập ở trên, bằng chứng giải phẫu về quan hệ
họ hàha đều đáha tch ]ậy và những kết luận dựa trên nghiên cứu ADN đã ]bứng
thực lại kết luận mà các nhà giải phẫu đư[ r[. Nbưha ADN ]òh ]ó tbể giải quyết
vấh đề mà các nhà giải phẫu \ó t[y đó fà qu[h bệ giữ[ haười, gorilla và tinh tinh.
Tb_i hbư Hìhb 1, bệ gen ]ih haười khác với hệ gen hai loài tinh tinh khoảng
1,6% và giống tới 98,4%. Gorilla có khác biệt lớh bơh vớc haười và tinh tinh, lên
tới 2,3%.
Chúng ta dừng lại một ]bút để nhấn mạnh vào những con số quan trọng này:
Gorilla chắc hẳn phải tách ra từ cây phát sinh chủng loại từ trước khi con
haười tách khỏc tchb tchb tbường và tinh tinh lùn. Tinh tinh, chứ không phải
gorilla, là họ hàng gần nhất với chúng ta. Nói cách khác, họ hàng gần nhất của
tinh tinh không phải là gorilla mà lạc fà ]ih haười. Phân loại học truyền thốha đã
củng cố nhữha ebuyhb bướha ý tưởng củ[ ]ih haười cho rằng mình là trung tâm
bằng cách dẫn ra sự pbâh tá]b ]ơ \ản giữ[ ]ih haười hùng mạhb ]ó ^áha đứng
thẳha và ]á] fiàc động vật nhân hình tầg tbường vớc tiàh bàhb động thú tính.
Giờ đây, phân loại họ] tươha f[c sẽ phải xem xét vị thế củ[ tchb tchb ebá] đc: tồn
tại một liên kết yếu giữ[ động vật nhân hình cấp cao (ba loài tinh tinh, kể cả “tchb
tchb haườc”) và ebỉ ebôha đuôc ]ấp thấp bơh gột ]bút (aircff[, đườc ươc, vượn).
Phân loại truyền thống thừa nhận liên kết yếu giữ[ ]á] fiàc “động vật hbâh bìhb”
(chỉ tchb tchb, aircff[,…) và ]ih haười là không phù hợp với thực tế.
Khoảng cách di truyền (1,6%) giữ[ ]ih haười và cả hai loài tinh tinh rõ ràng là
lớn gấp đôc ebiảng cách di truyền giữa hac fiàc tchb tchb đó với nhau (0,7%). Nó
nhỏ bơh ebiảng cách này giữ[ b[c fiàc vượn (2,2%) hoặc hai loài chim châu Mỹ có
quan hệ gầh aũc fà sẻ mắt đỏ và sẻ mắt trắng (2,9%). 98,4% còn lại trong ADN
haười giống hệt ADN tchb tchb tbường. Ví dụ, hemoglobin chủ yếu củ[ haười, tức
là một loại protein vận chuyểh ixy fàg ]bi gáu ]ó gàu đỏ, ]ó 287 đơh vị thì tất
cả ]á] đơh vị hày đều giống với hemoglobin của tinh tinh. Xét trên khía cạnh này
]ũha hbư bầu hết các khía cạnh khác thì chúng ta chỉ là một loài tinh tinh thứ ba
và những gì phù hợp vớc tchb tchb tbườha và tchb tchb fùh tbì ]ũha pbù bợp với
]búha t[. Dáha đứng thẳng, não bộ lớn, khả hăha haôh haữ, ]ó ít fôha trêh ]ơ tbể,
hoạt động sinh sảh đặc biệt là nhữha đặ] trưha qu[h trọng có thể thấy được phân
biệt chúng ta vớc b[c fiàc tchb tchb ec[ và đều chỉ do 1,6% bộ mã di truyền của
chúng ta quyết định.
Nếu cùng với thời gian các khoảng cách di truyềh đượ] tí]b fũy tb_i gột tốc
độ ebôha đổi thì chúng sẽ hoạt độha hbư gột chiế] đồng hồ chính xác. Tất cả
nhữha đcều này là cần thiết để tính khoảng cách di truyền thành khoảng thời
gian cụ thể vì chúng ta có thể lấy tổ tiên chung cuối cùng làm hệ tọ[ độ và chia
tb[ha độ theo một cặp fiàc t[ đã \cết rõ cả khoảng cách di truyền và thời gian
phân ly củ[ ]búha tb_i hbư vcệc định tuổi trên hóa thạch. Trên thực tế, ta có thể
xá] định khoảng cách di truyềh ]bi ]á] fchb trưởng cao cấp theo hai hệ quy chiếu
độc lập. Một mặt, theo các bằng chứng hóa thạ]b, vượn phân ly từ động vật nhân
hình vào khoảng 25.000.000 tớc 30.000.000 hăg trước và giờ đây ADN ]ủa chúng
khác với của chúng ta 7,3%. Mặt ebá], đườc ươc pbâh fy từ tinh tinh và gorilla vào
khoảng giữa 12.000.000 tớc 16.000.000 hăg trước và hiệh h[y, ADN đườc ươc
khác vớc ADN haười 3,6%. So sánh hai ví dụ này ta sẽ thấy có sự nhâh đôc tbời
gian tiến hóa, vì một loài phân ly từ 12.000.000 - 16.000.000 tới 25.000.000 -
30.000.000 hăg về trước, từ đó ^ẫn tới sự hbâh đôc ebiảng cách di truyền (3,6 tới
7,3% khác biệt triha ADN). Di đó, đồng hồ ADN củ[ động vật nhân hình cao cấp
chạy tươha đối ổh định.
Với các hệ quy chiếu đó, Sc\f_y và Abfqucst đã ướ] fượng khoảng thời gian
tươha ứng cho tiến hóa nhân loại. Vì khoảng cách di truyền giữa chúng ta và tinh
tinh (1,6%) bằng khoảng một nửa khoảng cách di truyền giữ[ đườc ươc và tchb
tinh (3,6%), chúng ta ắt hẳn phải tách ra từ 6.000.000 tớc 8.000.000 hăg về
trướ]. Nbư vậy, ]ih đường tiến hóa củ[ fiàc haườc và ]á] fiàc tchb tchb ebá] đã
phân ly vào khoảng 6.000.000 tớc 8.000.000 hăg trướ]. Tươha tự, gorilla tách ra
từ tổ tiên chung với ba loài tinh tinh (kể cả chúng ta) khoảha 9.000.000 hăg
trướ] ]òh tchb tchb fùh và tchb tchb tbường phân ly khoảha 3.000.000 hăg trước.
Trái lạc, vài hăg 1954, hăg tbứ nhất đại học, khi tôi học nhân chủng học tự
nhiên, sách giáo khoa lại in rằha ]ih haười phân ly từ động vật nhân hình ở thời
đcềm từ 15.000.000 tớc 30.000.000 hăg trướ]. Di đó, đồng hồ ADN luôn ủng hộ
kết luận gây tranh cãi vốh được rút ra khi sử dụng nhiều đồng hồ phân tử khác
tb_i pbươha pbáp pbâh tí]b trìhb tự axit amin của protein, ADN ty thể, ADN gen
giả globin(5). Cá] đồng hồ hày đều cho thấy ]ih haười chỉ có một lịch sử ngắh ^ưới
dạng khác biệt vớc động vật nhân hình, ngắh bơh rất nhiều so vớc đcều mà các nhà
nhân chủng học từng giả thuyết.
Những kết quả này phảh áhb đcều gì về vị trí củ[ ]ih haười trong thế giớc động
vật? Các nhà sinh học phân loại sinh vật sống theo bậc phân loại, sinh vật trong
cùng một bậc ít phân hóa với nhau so với bậc kế tiếp: loài phụ, loài, chi, họ, liên
họ, bộ, lớp, ngành. Bách khoa toàn thư Britannica và các sách giáo khoa sinh học
ebá] gà tôc ]ó đều cho rằha haườc và động vật nhân hình thuộc cùng bộ linh
trưởng, liên họ Higchic^_[ hbưha tbuộc về các họ khác nhau là họ Hominidae và
họ Pongidae. Nghiên cứu củ[ Sc\f_y và Abfqucst ]ó tb[y đổi cách thức phân loại
này hay không còn phụ thuộ] vài qu[h đcểm lý luận của việc phân loại. Các nhà
phân loại học cổ đcểh đã hbóg ]á] fiàc vài ]ùha \ậ] ][i bơh \ằha ]á]b đáhb acá
theo chủ quan tầm quan trọng của các khác biệt giữa các loài. Những nhà phân
loại học này xếp ]ih haười vào một họ rcêha ^i ]ih haười có các tính trạng chức
hăha đặc biệt hbư hãi fớh và đứng bằng hai chân và cách phân loại này không
phụ thuộ] vài pbép đi ebiảng cách di truyền.
Tuy nhiên, một trường phái khác của phân loại học, phân loại học di truyền,
cho rằng việc phân loại phải thật khách quan và thống nhất, dựa trên khoảng
cách di truyền hoặc thờc đcểm tách biệt. Các nhà phân loại họ] tb_i trường phái
hày đều thống nhất rằng sẻ mắt trắng và sẻ mắt đỏ cùng thuộc chi Vireo, nhiều
fiàc vượn thuộc chi Hylobates. Song các thành viên trong mỗi cặp loài cùng chi
này có tỷ lệ khác nhau về di truyền lớh bơh si với sự khác biệt di truyền giữa
haười vớc b[c fiàc tchb tchb và ]búha đã tá]b nhau trong cây tiến hóa từ trước.
Trêh ]ơ sở đó, ]ih haười không thể thuộc về riêng một họ hoặc thậm chí một chi
mà phải thuộc về cùng một chi vớc tchb tchb tbường và tinh tinh lùn. Vì tên chi
Homo củ[ ]búha t[ đượ] đư[ r[ trướ], tb_i quy định về danh pháp động vật, nó
sẽ đượ] ưu tcêh bơh têh ]bc P[h ]ủ[ b[c fiàc tchb tchb ec[. Di đó, trêh Trác đất ngày
nay, không chỉ có một mà có tớc \[ fiàc triha ]bc Higi đó fà: tchb tchb tbường -
Homo troglodytes, tinh tinh lùn - Homo paniscus và tinh tinh thứ ba tức là con
haười - Homo sapien. Vì gorilla chỉ ebá] ]búha t[ và b[c fiàc tchb tchb hày đôc
chút, vậy hêh ]ũha tươha đối hợp lý khi coi gorilla là loài thứ tư triha ]bc Higi.
Ngay cả một số nhà phân loại họ] đồng tình vớc trường phái phân loại học di
truyềh ]ũha vẫn có thể theo thuyết fiàc haười trung tâm và việc xếp haười với
tinh tinh vào cùng một chi hiển nhiên là rất khó chấp nhậh đối với họ. Tuy nhiên,
chắc chắn là nếu fú] hài đó tchb tchb habcêh ]ứu phân loại học di truyền hoặc các
nhà phân loại học ngoài Trác đất abé tbăg và đáhb acá ]á] ]ư ^âh ]ủ[ Trác đất, họ
sẽ dễ dàng chấp nhận cách phân loại mới này.
Các gen cụ thể hài đã tạo nên sự khác biệt giữ[ ]ih haườc và tchb tchb? Trước
khi chúng ta xem xét câu trả lời này, chúng ta cần phải hiểu ADN - vật chất di
truyền của chúng ta là gì.
Nhiều ADN hay hầu hết ADN củ[ ]ih haười có chứ] hăha ]bư[ được biết đến
và có thể chúng chỉ fà “pbế thải phân tử”: Cá] pbâh tử ADN đượ] hbâh fêh hbưha
lại mất đc ]bứ] hăha \[h đầu và quá trình chọn lọc tự hbcêh đã ebôha fiại bỏ
chúng khỏc ]ơ tbể ]ih haười vì những phân tử này hoàn toàn vô hại. Trong số các
ADN có chứ] hăha đã \cết ở haười, các chứ] hăha ]bíhb tbường liên quan tới các
chuỗi axit amin dài gọi là protein. Một số prit_ch xá] định tạo nên cấu trú] ]ơ tbể
(ví dụ protein keratin ở tóc hay collagen ở mô liên kết), trong khi một loại protein
khác gọi là enzyme lại tổng hợp hoặc phân hủy hầu hết các phân tử triha ]ơ tbể
chúng ta. Trình tự của các phân tử nhỏ thành phầh (]á] \[zơ hu]f_itc^) triha
ADN quy định trình tự các axit amin trong phân tử protein của chúng ta. Một số
dạha ADN ebá] triha ]ơ tbể còn thực hiện chứ] hăha đcều hòa sinh tổng hợp
protein.
Nhữha đặ] đcểm dễ thấy và dễ nghiên cứu về mặt di truyền ở haườc tbường
được tạo thành từ ]á] prit_ch đơh fẻ và do các gen đơh fẻ quy định. Chẳng hạn,
hemoglobin - loại protein vận chuyểh ixy triha gáu haườc gà tôc đã đề cập tới
bao gồm hai chuỗi axit amin, mỗi chuỗi do một điạh ADN đơh fẻ (một a_h đơh)
gã bó[. H[c a_h hày được nhận dạng là không có chứ] hăha hài ebá] haiại trừ
việc mã hóa cho cấu trúc hemoglobin và từ đó fàg ]bi gáu haườc ]ó gàu đỏ.
Khẩu phầh ăh b[y ]ườha độ hoạt động thể dục của bạn có thể ảhb bưởng tới
fượha b_giafi\ch ]ơ tbể bạh schb r[ hbưha ebôha ảhb bưởng tới cấu trúc của nó.
Đó ]bỉ fà trường hợp đơh acản nhất hbưha ]òh ]ó hbững gen ảhb bưởng tới
nhiều tính trạng có thể nhìn thấy được. Ví dụ, sự rối loạn di truyền tiềh định hay
còn gọi là bệnh Tay-Sachs gây nên nhiều bất tbường trong hoạt độha ]ũha hbư
trong giải phẫu: bàhb động kỳ quặ], ]ơ tbể cứha đờ, ^[ vàha, đầu phát triển
ebôha \ìhb tbườha và ]á] tb[y đổi khác. Chúng ta biết rằha triha trường hợp này
tất cả những ảhb bưởng nhận biết đượ] đều bắt nguồn từ nhữha tb[y đổi của một
enzyme do gen Tay-S[]bs gã bó[ hbưha ]búha t[ ]bư[ \cết thật chính xác quá
trìhb đó ^cễh r[ hbư tbế hài. Vì _hzyg_ đó ]ó gặt trong nhiều mô củ[ ]ơ tbể và
phân giải hầu hết các thành phần tế bào, do vậy việ] tb[y đổi nó sẽ tạo nên hiệu
ứng lan rộng và có thể gây tử vong. Trái lại, một số tính trạha hbư ]bcều cao của
haườc trưởng thành lại do nhiều gen và các yếu tố gôc trường (ví dụ chế độ dinh
^ưỡng khi còn nhỏ) ]ùha quy định.
Trong khi các nhà khoa học hiểu rõ về chứ] hăha ]ủa rất nhiều gen mã hóa cho
]á] prit_ch đơh fẻ đã \cết, chúng ta vẫn chỉ biết rất ít về chứ] hăha ]ủa các gen có
liên quan tới những dấu hiệu được cho là hết sức phức tạp, chẳng hạh hbư pbần
lớn các hành vi. Thật là ngớ ngẩh ebc habĩ rằng những dấu hiệu đặc biệt của con
haườc hbư habệ thuật, ngôn ngữ hay mâu thuẫn chỉ phụ thuộc vào một a_h đơh
lẻ. Khác biệt trong hành vi giữa các cá nhân phụ thuộc nhiều vài ]á] tá] động to
lớn từ gôc trường và thật khó mà biết đượ] a_h đóha v[c trò aì triha hbững khác
biệt đó. Tuy hbcêh, ^ườha hbư ebiảng cách di truyền có liên quan tới sự khác
nhau cố định trong hành vi củ[ haười và tinh tinh mặc dù chúng ta vẫh ]bư[ \cết
được chính xác các gen quyết định sự ebá] hb[u đó. Cbẳng hạn, khả hăha haôh
ngữ, vốn chỉ có ở ]ih haười chứ không phải ở tinh tinh, chắc chắn phụ thuộc vào
sự khác biệt triha ]á] a_h quy định hộp phát âm và hệ thống thần kinh. Một tinh
tinh nhỏ tuổi lớn lên trong nhà một nhà tâm lý học cùng vớc fũ trẻ đồng lứa của
ac[ đìhb trôha vẫn giống một con tinh tinh và không thể họ] hóc b[y đc tbẳng.
Nbưha fcệu ]ó đúha fà ebả hăha gột cá nhân lớn lên có thể thông thạo tiếng Anh
hoặc tiếng Hàn là không phụ thuộc vào gen mà chỉ phụ thuộ] vài gôc trường
ngôn ngữ thờc tbơ ấu hbư đã được chứng minh qua khả hăha haôh haữ củ[ đứa
trẻ Hàn Quố] hbưha được bố mẹ nói tiếha Ahb huôc ^ưỡng.
Dự[ trêh ]ơ sở đó, ]búha t[ ]ó tbể kết luận gì về 1,6% khác biệt trong ADN của
chúng ta với ADN củ[ tchb tchb? Cbúha t[ đều biết rằha ]á] a_h ]bíhb quy định
hemoglobin củ[ haười không hề khác nhau, và một số a_h xá] địhb ebá] ]ũha ]bỉ
khác biệt đôc ]bút. Triha số sáu chuỗc prit_ch đã được nghiên cứu tới nay ở haười
và tchb tchb tbường, chỉ ]ó hăg triha số 1271 axit amin là khác nhau: một trong
prit_ch ]ơ được gọi là myoglobin, một trong chuỗi hemoglobin nhỏ được gọi là
chuỗi delta và ba trong một _hzyg_ ]ó têh fà [hby^rct_ bó[ ][r\ihc]. Nbưha
chúng ta vẫh ]bư[ \cết điạn nào trong ADN củ[ haườc đã tạo nên sự khác biệt chủ
yếu (sẽ đượ] đề cập từ ]bươha 2 tớc ]bươha 7) acữ[ haười và tinh tinh là những
khác biệt về eí]b tbước não bộ, đặ] đcểm giải phẫu xươha ]bậu và hộp phát âm,
]á] ]ơ qu[h schb ^ụ], fượng lông tóc, chu kỳ kinh nguyệt ở phụ nữ, ac[c điạn dậy
tbì và ]á] đặ] đcểm khác. Những sai khác quan trọha đó bcển nhiên là không bắt
nguồn từ những khác biệt triha hăg [xct [gch đã đượ] xá] định cho tới ngày
nay. Hiện tại, tất cả những gì chúng ta biết chắc là: nhiều phầh triha ADN haười
ebôha ]ó ý habĩ[ aì; và ít hbất trong số 1,6% khác biệt giữ[ haười với tinh tinh, có
phầh hài đó ebôha ]ó ý habĩ[ và ]á] ebá] \cệt quan trọng về chứ] hăha bẳn phải
do một phần nhỏ ]bư[ xá] định trong số 1,6% khác biệt đó quy định.
Trong số những khác biệt ít ỏc đó ]ủ[ ADN haười, một số sai khác có ảnh
bưởng lớn tớc ]ơ tbể ]búha t[ bơh ]á] ebá] \cệt ebá]. Trước tiên, hầu hết các axit
amin củ[ prit_ch đều do ít nhất ba trình tự \[zơ hu]f_itc^ triha ADN quy định.
Nhữha tb[y đổi triha ]á] \[zơ hu]f_itc^ từ một trình tự \[h đầu sang trình tự
thay thế nó là nhữha đột biếh “]âg”: Cbúha ebôha tạo ra bất kỳ tb[y đổi nào
trong trình tự axit amin của phân tử protein. Thậm chí khi một tb[y đổi trong
một \[zơ fàg tb[y tbế một axit amin này bằng một axit amin khác, thì một số
axit amin nhất định vẫn có tính chất hóa học rất giống nhau, hoặc nằm trên các
vị trí tươha đối không nhạy cảm của protein.
Nbưha ]á] pbần khác của protein lại mang tính sốha ]òh đối với chứ] hăha
của nó. Thay thế một axit amin trong một phầh hbư vậy bằng axit amin khác
không có tính chất hóa họ] tươha tự tbường sẽ gây ra hậu quả rõ rệt. Chẳng hạn,
bệnh hồng cầu hình liềg tbường dẫn tới tử vong, bệnh này là do một tb[y đổi
trong tính tan của hồng cầu haườc, tb[y đổi này lại là do thay thế một trong số
287 [xct [gch, gà triha đó ]bỉ thay thế một trong số \[ hu]f_itc^ quy định axit
[gch đó. Tuy hbcêh, tb[y đổi nhỏ này lại dẫn tới việc thay một axit amin mang
đcện âm bằng một [xct [gch ebôha g[ha đcện, từ đó fàg \cếh đổc đcện tích trên
toàn bộ phân tử hemoglobin.
Trong khi chúng ta không biết ]á] a_h b[y \[zơ hu]f_itc^ ]ụ thể hài đóha v[c
trò quan trọng tạo nên những khác biệt rõ rệt giữ[ haười với tinh tinh, có nhiều
tiền lệ cho thấy một hoặc một số gen cùng gây ra ảhb bưởng lớn. Tôi chỉ đề cập tới
nhiều khác biệt lớn và rõ nét giữa các bệnh nhân Tay-S[]bs và haười bình
tbường. Tất cả các khác biệt hày ^ườha hbư đều xuất phát từ tb[y đổc đơh fẻ của
một _hzyg_. Đó fà ví ^ụ về khác biệt giữa các cá thể ]ùha fiàc. Đối với khác biệt
giữa các loài họ hàng, chúng ta có thể lấy những loài cá cichlid hồ Victoria châu
Phi làm ví dụ. Cichlid bao gồm nhiều fiàc động vật thủy schb tbường gặp, triha đó
khoảng 200 loài cùng sống trong hồ Victoria và tạc đó, ]búha tcến hóa từ một tổ
tiên duy nhất trong suốt: 200.000 hăg qu[. Tbóc qu_h ^chb ^ưỡng của 200 loài
đó ebá] x[ hb[u acốha hbư acữa hổ và bò. Một số fiàc ăh tảo, số ebá] ăh ]á ebá]
fiàc, ]ũha ]ó fiàc ăh ốc sên, sinh vật phù du, bắt côn trùng hay rỉa vảy cho các cá
khác hoặ] ]ó fiàc đặc biệt ăh pbôc ]á đ[ha được ấp. Nbưha ADN đã qu[ habcêh
cứu của tất cả các loài cichlid ở hồ Vc]tirc[ đều chỉ khác nhau 0,4% mà thôi. Vì
thế, biếh đổi từ ]á săh ố] sêh tbàhb ]á ăh tbịt hbũ hbc ]ủa các loài cá khác chắc
hẳh đòc bỏc ít đột biến về a_h bơh si với việc biếh đổi từ động vật nhân hình
tbàhb haười.
Những phát hiện mới về khoảng cách di truyền giữa chúng ta và tinh tinh liệu
]òh ]ó ý habĩ[ hài fớh bơh vcệc trả lời cho câu hỏi mang tính kỹ thuật về danh
pháp phân loại? Có thể, ý habĩ[ qu[h trọng nhất mà nó mang lại chính là cách
habĩ ]ủa chúng ta về vị trí củ[ ]ih haười và khỉ ebôha đuôc triha vũ trụ. Những
]ác têh ebôha đơh tbuần là các chi tiết kỹ thuật mà nó còn thể hiện và tạo nên thái
độ. (Để kiểm chứng, tối nay, bạn hãy thử gọi vợ/chồng bạh fà “]ưha” b[y “đồ đầh”
với cùng một giọha đcệu xem sao). Những phát hiện mới này không chỉ ra chúng
t[ hêh habĩ aì về haười và khỉ ebôha đuôc. Nbưha, hbư triha ]uốn Nguồn gốc các
loài của Darwin, những phát hiện mới có thể ảhb bưởng tới việc chúng ta thực sự
ngbĩ tbế nào và có lẽ chúng ta sẽ phải mất nhiều hăg để đcều chỉnh lạc tbác độ của
mình. Tôi sẽ kể r[ đây ^uy hbất một ví dụ về một fĩhb vực rất gây tranh cãi có thể
sẽ bị ảhb bưởng bởi các phát hiệh đó: ]á]b tbứ] ]ih haười sử dụha động vật nhân
hình.
Hiện nay, chúng ta luôn tâm niệm có một sự khác biệt ]ơ \ản giữ[ động vật (kể
cả động vật hbâh bìhb) và haười, và chính sự khác biệt hày đã ]bc pbối chuẩn
mự] và bàhb vc đại đức của chúng ta. Chẳng hạh, hbư tôc đã đề cập tới ở đầu
]bươha hày, vcệ] trưha \ày ]á] fiàc động vật nhân hình trong chuồng thú là hoàn
tiàh được chấp nhậh hbưha ]búha t[ fạc ebôha được phép làm vậy vớc ]ih haười.
Tôi tự hỏc ^ư fuận sẽ cảm thấy thế hài ebc đọc bảng tên bên ngoài chuồng tinh
tinh trong sở tbú đề là “Homo troglodytes”. Tuy nhiên, nếu hbư ebôha ]ó hbcều
haười quan tâm tớc ]á] fiàc động vật nhân hình trong sở thú thì hẳn sẽ có càng ít
nguồn hỗ trợ tàc ]bíhb bơh ]bi hbững nỗ lực bảo tồh động vật nhân hình trong
tự nhiên.
Tôc ]ũha đã đề cập ở trên rằha haười ta hoàn toàn tán thành sử dụha động vật
nhân hình chứ không phảc ]ih haười làm thí nghiệm mặc cho chúng có chấp
nhận các thí nghiệm gây chết vì mụ] đí]b habcêh ]ứu y họ] b[y ebôha. Độha ]ơ
]bi bàhb độha hày rõ ràha fà vì động vật nhân hình rất giống chúng ta về mặt di
truyền. Chúha ]ũha ]bịu ảhb bưởng của nhiều loại bệhb hbư ]búha t[ và ]ơ tbể
củ[ ]búha ]ũha pbản ứha tươha tự với các sinh vật gây bệhb đó. Vì tbế, các thí
nghiệg trêh động vật nhân hình giúp cải thiệh pbươha tbứ] đcều trị bệnh cho
]ih haười tốt bơh bẳn các thí nghiệg trêh ]á] đốc tượng khác.
Sự lựa chọh g[ha tíhb đại đức này còn tạo ra một vấh đề phức tạp bơh ]ả việc
nhốt nhữha fiàc động vật nhân hình vào chuồha tbú. Xét đến cùng, chính chúng
t[ ]ũha tbường giam hàng triệu phạg hbâh triha đcều kiện còn tồi tệ bơh
chuồha tbú hbưha xã bội không bao giờ chấp nhận việc lấy ]ih haười ra làm vật
thí nghiệg tb[y động vật để nghiên cứu y học, cho dù những thí nghiệm gây chết
haười thực hiện vớc ]bíhb ]ih haười sẽ mang lại cho các nhà khoa học những
thông tin giá trị bơh hbcều so với cùng các thí nghiệm ấy thực hiện với tinh tinh.
Nbưha ]á] tbí habcệg trêh haười do các bác sỹ Đức quốc xã tiến hành ở các trại
tập trung luôn bị coi là dã man nhất trong số các tội ác củ[ Đức quốc xã. Tại sao
việc tiến hành các thí nghiệg đó trêh tinh tinh thì lạc được phép?
Trong thang tiến hóa từ vi khuẩn tớc haười, chúng ta phảc xá] định xem từ đâu
hành vi tàn sát trở thành tội giết haười và từ đâu bàhb vc ăh uống trở thành tục
ăh tbịt haười. Hầu hết mọc haườc đều đư[ r[ hbững mối liên hệ đó acữ[ fiàc haười
và tất cả các loài khác. Tuy nhiên, chỉ có số ít haườc fà ăh ]b[y, ebôha ]bịu ăh \ất
kỳ loại thịt hài (hbưha vẫn sẵh sàha ăh tbực vật). Và ngày càng có nhiều haười
tb[g ac[ vài độc haũ ít ỏi nhữha haười ủng hộ cho quyềh động vật, phảh đối thử
nghiệm y họ] trêh động vật hay chí ít là trên một số động vật nhất định. Chuyển
biếh hày đặc biệt bướng tớc đốc tượng thử nghiệg fà ]bó, gèi và fchb trưởng, ít
quan tâm tới chuột và hbìh ]buha ebôha đả động tới côn trùng và vi khuẩn.
Nếu chuẩn mự] đại đức tạo nên sự phân biệt hà khắc giữ[ haười và các loài
khác thì rõ ràng rằng chúng ta có một chuẩn mực chỉ dựa trên tính ích kỷ ngông
cuồng mà không màng tới nhữha fuâh fý ][i bơh. Nếu tb[y vài đó, ]buẩn mực
của chúng ta tạo nên sự phân biệt dựa trên trí tuệ siêu việt, quan hệ xã hội và khả
hăha ]ảm nhận nỗc đ[u tbì hó sẽ khó có thể đáhb \ại cái chuẩn mực tất - cả - hoặc
- không - có - gì - cả vốn liên hệ ]ih haười vớc ]á] fiàc động vật ebá]. Đáha fẽ ra,
nhữha áp đặt đại đức khác nhau nên áp dụng vào việc nghiên cứu các loài khác
nhau. Có thể chính thói ích kỷ ngông cuồng củ[ ]ih haười khi thoát khỏi cái vỏ
bọc mới sẽ lại ủng hộ ]bi ]á] đặc quyền của những loài có quan hệ gần nhất với
]ih haười. Chúng ta có thể đặt ra một trường hợp khách quan dựa trên những
qu[h đcểg gà tôc đã hêu trêh (trí tuệ, quan hệ xã hộc,…) fà tchb tchb và aircff[
đáha được chúng ta coi trọng về mặt đại đứ] ebc đối xử vớc ]búha bơh bẳn côn
trùng và vi khuẩn. Nếu ]ó fiàc động vật hài đó ]ầh được bảo vệ khỏi bị lạm dụng
trong các thử nghiệm y học gầh đây tbì fiàc đó ebôha aì ebá] ]bíhb fà tchb tchb.
Trường hợp của tinh tinh gây ra một tình thế tiếh tbiác fưỡng nan về mặt đạo
đức trong các thử nghiệg trêh động vật vì fiàc hày đ[ha ]ó hauy ]ơ tuyệt chủng.
Triha trường hợp này, thử nghiệm y học không chỉ giết chết các cá thể gà ]òh đ_
dọa tiêu diệt cả một fiàc. Đcều hày ebôha ]ó habĩ[ fà hbu ]ầu nghiên cứu là mối
đ_ ^ọa duy nhất đối với các quần thể tinh tinh hoang dại; sự tàn phá ổ sinh thái và
bắt giữ tchb tchb đư[ về sở tbú ]ũha fà hbữha đ_ ^ọa nghiêm trọha ebá]. Nbưha
chỉ riêng nhu cầu nghiên cứu ]ũha đã fà gột hiểm họa nghiêm trọng rồi. Mâu
thuẫh đại đứ] hày ]òh đượ] đề cập tới với tầg hbìh x[ bơh: haười ta giết một số
tinh tinh hoang dại chỉ để bắt sống một ]ih (tbườha fà ]ih hih được mẹ bế), rồi
lấy nó làm vật thí nghiệm; các nhà sinh y học hầu hbư ]bẳng giúp gì trong cuộc
đấu tr[hb để bảo tồn các quần thể tinh tinh hoang dại cho dù họ có muốn bảo vệ
]búha đc ]băha hữa; và những con tinh tinh dùng làm vật thí nghiệg tbường bị
nhốt trong chuồha ^ưới nhữha đcều kiện khắc nghiệt. Cih tchb tchb đầu tiên mà
tôi biết bị đ_g r[ tbí habcệm, nó bị cho nhiễm loại virus gây chết, đã fàg yếu rồi
bị nhốt riêng trong nhiều hăg ]bi tới chết trong một cái chuồng rất nhỏ mà
không có bất kỳ đồ ]bơc hài bết, bên trong Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ.
Nhân giống tinh tinh trong chuồha huôc để phục vụ nghiên cứu là trái với
những nỗ lực cứu vãn các quần thể tchb tchb đ[ha \ị tiêu diệt trong tự nhiên.
Nbưha vấh đề này chẳng hề bị fêh áh hbư bàhb động nô lệ hóa trẻ em da đ_h s[u
khi luật cấm buôn bán nô lệ đ[ đ_h được ban hành tại Mỹ vào thế kỷ XIX. Tại sao
]ih haười có thể thí nghiệm trên Homo troglodytes gà ebôha được làm trên Homo
sapien. Trái lại, làm sao chúng ta có thể nói với những bậc cha mẹ có con cái sắp
chết vì nhữha ]ăh \ệnh vốh đã được thử nghiệm trên tinh tinh rằng con họ giờ
đây ebôha ]ó ý habĩ[ \ằng tinh tinh? Rốt cuộc, chúng ta - toàn xã hội chứ không
riêng gì các nhà khoa học sẽ phảc đư[ r[ sự lựa chọh ebó ebăh. Cbắc chắn rằng,
cách nhìn nhận của chúng ta về haườc và động vật nhân hình sẽ dẫn tới quyết
định của chúng ta.
Cuốc ]ùha, tb[y đổc triha tbác độ của chúng ta vớc động vật nhân hình sẽ đóha
vai trò quan trọng quyết định liệu những loài này có thể tồn tại trong tự nhiên.
Hiện nay, những quần thể của ]búha đ[ha \ị đ_ ^ọa chủ yếu là do sự tàn phá ổ
sinh thái rừha gư[ hbcệt đới tại châu Phi và châu Á, cùng với việc bắt giữ hợp
pháp và cả phi pháp và cả sự giết chóc, Nếu hiện thực này cứ thế tiếp diễn, gorilla
][i hauyêh, đườc ươc, vượh gũ hồc, vượn Kloss và có thể một số fiàc động vật
nhân hình khác sẽ chỉ còn tồn tạc triha vườh tbú trước khi nhữha đứa trẻ của
ngày hôm nay kịp vài đại học. Sẽ fà ebôha đủ nếu chúng ta chỉ rao giảng cho các
vị fãhb đạo ở Uganda, Zaire và Indonesia về bổn phậh đại đức của họ là phải bảo
tồh ]á] fiàc động vật hbâh bìhb bi[ha ^ã trêh đất hước họ. Nếu chúng ta vớc tư
cách là loài tinh tinh thứ ba cho rằng hai loài tinh tinh còn lạc đáha được bảo vệ
thì chính nhữha haười ở nhữha hướ] acàu bơh sẽ phải chịu hầu hết chi phí bảo vệ
đó. Từ qu[h đcểm này về rcêha hbóg động vật hbâh bìhb, tá] động mạnh mẽ
nhất mà gầh đây ]búha t[ bọ] được từ truyền thuyết về ba loài tinh tinh chính là
việ] fiàc haười cảm thấy thế hài ebc tb[hb tiáh bó[ đơh đó.
Chƣơng 2
BƢỚC NHẢY VỌT VĨ ĐẠI(6)
rong suốt nhiều triệu hăg về trước, kể từ ebc fiàc haười bắt đầu rẽ nhánh

T khỏc hbóg động vật nhân hình, chúng ta vẫh ebôha ]ó aì đáha tuyêh ^ươha
bơh tchb tchb triha ]á]b tạo lập cuộc sống. Vào thờc đcểg ]á]b đây tới
40.000 hăg về trướ], Tây Âu ]òh fà vùha đất củ[ haười Neanderthal, một
hbóg haười tiền sử mà ở đó, ]á] ^ạng nghệ thuật và tiến bộ sơ eb[c vẫh ]bư[ bề
xuất hiệh. S[u đó, gột biếh đổi lớh đã hb[hb ]bóha xảy r[, ]ih haười vớc đặc
đcểm giải phẫu giốha haười hiệh đạc đã xuất hiện tại châu Âu, cùng với nghệ
thuật, nhạc cụ, pbươha tcện chiếu sáha, tbươha gại và sự tiến bộ. Chỉ trong một
thời gian ngắh, haườc N_[h^_rtb[f đã biàh tiàh \cến mất.
Bước Nhảy Vọt Vĩ Đạc đó tại châu Âu có thể là kết quả của một \ước tiếh tươha
tự đã xảy ra vài vạh hăg về trước ở Truha Đôha và ]bâu Pbc. Cbi ^ù quá trìhb hày
kéo dài tới vài chục triệu hăg tbì hó ]ũha ]bỉ là một quãng ngắh ebôha đáha eể
(chiếg ^ưới 1%) của chặha đường lâu dài trong lịch sử tiến hóa từ động vật nhân
hình của chúng ta. Bởi chúng ta cho rằng tồn tại một thờc đcểm cụ thể mà tạc đó
chúng ta chính thức trở tbàhb ]ih haười, do vậy, thờc đcểg đó bẳn phải nằm
trong quãng thời gian nhảy vọt hày. Liàc haười chỉ mất có vài chục thiên niên kỷ
tiếp s[u đó để thuầh bó[ động vật hoang, phát triển một nền nông nghiệp, nghề
luyệh ecg ]ũha hbư sáha tạo ra chữ viết. Chỉ trong một thời gian rất ngắn tiếp đó,
những thành tựu của nềh văh gchb hbâh fiạc đã tạo nên khọảng cách - mà
tbườha được gọi là hố sâu haăh ]á]b ebôha tbể lấp bằng giữ[ fiàc haườc và động
vật nhờ những sản phẩm có một không hai củ[ ]ih haườc hbư \ứ] tr[hb “Mih[
Lcs[” b[y \ảh ac[i bưởha Eric][, tbáp Ec``_f và tàu vũ trụ Sputnik, trại tập trung
củ[ pbát xít Đức tại Dachau, trận bom tàn phá Dresden của không quân Anh - Mỹ
trong Thế chiến thứ hai.
Cbươha hày sẽ trả lời những câu hỏi nảy sinh từ \ước nhảy vọt thần tốc của
fiàc haườc. Động lự] hài đã tbú] đẩy nó và tại sao nó lại xuất hiệh đột ngột đến
vậy? Đcều aì đã eìg acữ haười Neanderthal và số phận của họ đã r[ s[i? Lcệu
haườc N_[h^_rtb[f và haười hiệh đại có từng gặp nhau? Nếu vậy, cách thức họ xử
sự vớc hb[u hbư tbế nào?
Hiểu về Bước Nhảy Vọt Vĩ Đạc đã fà ebôha đơh acản, vậy nên viết về nó lại càng
ebôha đơh acản chút nào. Những bằng chứng gầh đây tbu được từ các chi tiết
mang tính kỹ thuật nghiên cứu trêh xươha và ]á] ]ôha ]ụ bằha đá ]òh sót fạc. Đối
với chúng ta, kết quả tbu được của các nhà khảo cổ họ] đ[ pbần là khó hiểu,
chẳng hạh hbư “]ơ ha[ha xươha ]bẩg”, “xươha aò gá bõg” b[y “hbững con dao
có từ ac[c điạn Châtelper - rihc[h”. Đcều chúng ta thực sự muốn tìm hiểu chính là
đời sống và nhân cách của tổ tiên chúng ta lạc ebôha ]ó được câu trả lời trực tiếp
mà chỉ có thể suy ra từ những chi tiết kỹ thuật về xươha và ]ôha ]ụ đó. Pbần lớn
các bằng chứha đã \cến mất và các nhà khảo cổ họ] tbường bất đồng ý kiến trong
việc liệu những bằng chứha đó ]ó tồn tại hay không. Do trong các cuốn sách và
bài báo liệt kê ở phầh Đọc thêm, nằm ở trang 630 - 671 của cuốn sách này sẽ thỏa
mãn trí tò mò của bạh đọc nếu muốn tìm hiểu kỹ bơh về xươha aò gá, \ởi vậy tôi
sẽ chỉ nhấn mạnh tới những kết luận hệ quả tbu được từ việc nghiên cứu xươha
và công cụ.
Để xếp quá trình tiến hóa của nhân loại theo thang thời gian, hãy nhớ lại rằng
sự sống mới chỉ tồn tạc trêh Trác Đất vài tỷ hăg về trước và sự tuyệt chủng của
khủng long diễn ra vào khoảha 65.000.000 hăg trướ] đây. Triha ebiảng
6.000.000 tớc 10.000.000 hăg trước, tổ tiên chúng ta cuốc ]ùha đã tá]b \cệt hẳn
với tổ tiên củ[ tchb tchb và aircff[. Di đó, fịch sử fiàc haười chỉ đóha aóp gột
phần nhỏ không mấy quan trọng trong lịch sử sự sống. Những bộ phim khoa học
viễh tưởng mô tả nhữha ]ih haười tiền sử chạy trốn khủng long chỉ là ải tưởng
mà thôi.
Tổ tiên chung củ[ fiàc haười, tinh tinh và gorilla sinh sống ở ]bâu Pbc. Cbi đến
ngày nay, tinh tinh và gorilla vẫn có quan hệ chặt chẽ với tổ tiên này còn loài
haườc tbì đã aắn liền với tổ tiên ấy trong vài triệu hăg. B[h đầu, các tổ tiên riêng
củ[ ]búha t[ được phân thành một fiàc vượn hoàn toàn riêng rẽ hbưhg rồi ba
tb[y đổi xảy ra mà kết quả củ[ ]búha đã ^ẫn dắt fiàc haườc tb_i bướng tiến hóa
tbàhb haười hiệh đạc. Tb[y đổc đầu tiên xảy ra khoảha 4.000.000 hăg về trước,
cấu trúc củ[ xươha đùc bó[ tbạch cho thây rằng tổ tiên chúng ta có thể di chuyển
trên hai ]bâh đứng thẳng một cách thành thạo. Trái lại, gorilla và tinh tinh chỉ
thỉnh thoảng mớc đc tbẳha và tbường bò bằng cả bốh ]bâh. Dáha đc tbẳng giải
pbóha b[c ]bc trước của tổ tcêh fiàc haườc để có thể tự do làm những công việc
khác, trong số đó pbải kể đến khả hăha sử dụng công cụ f[i độha hbư gột đóha
góp quan trọng nhất.
Tb[y đổi thứ hai diễn ra khoảha 3.000.000 hăg trước, khi sợi dây tiến hóa của
chúng ta phân nhánh ít nhất thành hai loài riêng biệt. Trên lý thuyết, các thành
viên thuộ] b[c fiàc động vật ebá] hb[u hbưha ]ùha schb sống trên một phần lãnh
thổ phảc đảm nhậh ]á] v[c trò schb tbác ebá] hb[u và tbường không giao phối
được với nhau. Ví dụ, sóc đồng và sói rừng có quan hệ rất gầh aũc (]bi tới khi sói
rừng bị hủy diệt trên hầu khắp hước Mỹ), chúng cùng chung sống trên một lãnh
thổ ở vùng Bắc Mỹ. Tuy nhiên, sói rừng lớh bơh, ]bủ yếu săh tbú fớh hbư bươu,
h[c và tbường sống trong các hang lớh ]òh sóc đổng nhỏ bơh, tbườha săh tbú hbỏ
hbư tbỏ và chuột và tbường sống thành từha đôc biặc các nhóm nhỏ. Sóc đồng
tbường ghép cặp vớc sóc đồng, và sói rừha ]ũha vậy. Trái lại, mỗi quần thể haười
trên thế giới ngày nay có thể abép đôc với bất kỳ quần thể haười nào khác miễn là
có sự liên hệ. Những khác biệt sinh thái giữa những chủng tộ] haườc đ[ha sống
hoàn toàn là do quá trình giáo dục từ thờc tbơ ấu: nó không giống với việc một số
haườc schb r[ ]ó răha hbọh ^ùha để săh bươu ]òh hbữha haườc ebá] răha ebôha
nhọh hêh bác fượm quả và không kết hôn với nhữha haườc săh bươu. Di đó, tất cả
]ih haười hiệh đạc đều thuộc cùng một loài.
Có thể do hai biến cố xảy ra trong quá khứ đã ^ẫn tới sự pbâh ]bc[ ]ih haười
thành hai loài tách biệt giốha hbư trường hợp củ[ sóc đồng và sói rừng. Biến cố
gầh đây hbất mà tôi sẽ đề cập tớc s[u đây, ^cễn ra cùng khoảng thời gian vớc Bước
Nhảy Vọt Vĩ Đại. Biến cố trướ] đó tbì ^cễn ra từ 3.000.000 hăg về trước, khi con
đưòha tcến hóa của chúng ta bắt đầu phân nhánh thành hai loài: một fiàc vượn
haườc ]ó xươha sọ phát triểh và răha bàg fớh, được giới nghiên cứu cho rằha đã
ăh tbực vật thô và tbườha được gọi là Australopithecus robustus (]ó habĩ[ fà “vượn
haườc pbươha N[g pbát trcểh”); và gột fiàc vượh haười với não có cấu trúc tinh
vc bơh hbưha răha fại nhỏ bơh được giả địhb fà ăh tbứ] ăh tạp, gọi là
Australopithecus Africanus (vượh haườc pbươha N[g ]bâu Pbc). Vượh haười tiến
bó[ s[u đó với bộ não lớh bơh được gọi là Homo habilis (“haườc ebéi t[y”). Tuy
hbcêh, ]á] xươha bó[ tbạch mà các nhà cổ sinh vật họ] pbâh r[ fàg xươha đàh \à
và đàh ôha fại cực kỳ khác nhau về eí]b tbướ] hãi và răha tới mứ] ]búha t[ tưởng
rằng còn có một nhánh nữ[ trêh ]ih đường tiến hóa củ[ fiàc haười dẫn tới hai loài
giống vớc ]bc b[\cfcs: đó fà ]bíhb Homo habilis và một “Naười thứ \[” \í ẩh. Di đó,
khoảha 2.000.000 hăg trước có ít nhất b[c gà ]ũha ]ó tbể fà \[ fiàc vượn haười.
Tb[y đổi thứ \[ và ]ũha fà ]uối cùng trong nhóm nhữha tb[y đổi lớn trên mà
sự xuất hiện củ[ hó đã ebcến cho tổ tcêh ]búha t[ g[ha tíhb haười nhiều bơh và
giảm bớt tíhb vượh, đó ]bíhb fà vcệ] tbường xuyên sử dụng các công cụ bằha đá.
Đây fà đặ] đcểm đặ] trưha ]bi vcệ] ]ih haười có nguồn gốc rất rõ ràng từ động
vật: chim gõ kiến, kền kền Ai Cập và rái cá biểh đều nằm trong số nhữha động vật
tiếh bó[ độc lập đạt tới khả hăha sử dụng công cụ để tìm kiếm và chế biến thứ] ăh
hbưha ebôha fiàc hài triha số đó lại phụ thuộc chặt chẽ vào công cụ f[i động
hbư ]búha t[ bcệh h[y. Tchb tchb tbườha ]ũha sử dụng công cụ, đôc ebc fàg từ đá
hbưha bàhb độha hày ebôha đủ tbườha xuyêh để khiến chúng có thể chiếg fĩhb
toàn bộ mặt đất. Nbưha vài ebiảha 2.500.000 hăg trước, những công cụ bằng
đá tbô sơ ^i haười tiền sử chế tại đã xuất hiện hàng loạt tại một số vùha Đôha
Phi. Vì có tới hai hoặ] \[ fiàc haười tiền sử, vậy [c đã ]bế tạo ra các công cụ này?
Có thể fà fiàc haười Homo habilis vớc xươha sọ bớt thô vì cả loài này và công cụ đá
đã siha siha tồn tại và tiến hóa.
CÂY PHÁT SINH CHỦNG LOẠI NGƯỜI
Hình 2: Một vài nhánh trong cây tiến hóa củ[ ]búha t[ đã \ị tuyệt diệt, bao
gồm những chủng tộc thuộ] ]bc ri\us [ustr[fipctb_]ch_s: Naười Neanderthal và
có thể cả “Naười thứ \[” ít được biết tớc ]ũha hbư gột quần thể haười châu Á hiện
đại gầh aũc vớc haười Neanderthal. Một vài nhóm con cháu của loài Homo habilis
đã sống sót và tiếh bó[ tbàhb haười hiệh đạc haày h[y. Được nhận biết thông qua
những tên gọi khác nhau, sự biếh đổi trong hóa thạch thể hiện sợi dây liên hệ này,
họ được phân chia một cách tùy tiệh tbàhb ]á] hbóg haười Homo habilis, rồc đến
Homo erectus xuất hiệh ]á]b đây ebiảng gầh 1.700.000 hăg trướ] đây, và s[u đó
là Homo sapien bắt đầu tồn tạc ]á]b đây ebiảng 500.000 năg. A. fà eý bcệu thay
cho tên chi của Australopithecus, H. ký hiệu cho Homo.
Vì chỉ có một fiàc haười tồn tạc được tớc haày h[y hbưha fại có tới hai hoặc ba
loài sốha ]á]b đây vàc trcệu hăg, rõ ràha rằng một hoặ] b[c fiàc đã \ị tuyệt chủng.
Ai là tổ tiên củ[ ]búha t[, fiàc hài đã \ị vứt bỏ đống phế thải tiến hóa ấy và khi
nào thì sự đài tbảc đó ^cễn ra? Kẻ chiến thắng là Homo habilis – fiàc ]ó eí]b tbước
não bộ và ]ơ tbể phát triển. Khoảha 1.700.000 hăg về trước, những khác biệt này
đủ để các nhà nhân loại học thêm vào nhánh tiến hóa củ[ fiàc haười một cái tên
mới Homo erectus, ]ó habĩ[ fà “haườc đc tbẳha” (]á] bó[ tbạch Homo erectus được
tìm thấy trước cả những hóa thạ]b gà tôc đã đề cập tớc, ^i đó, ]á] hbà hbâh fiại
học không nhận thấy rằng Homo erectus không phảc fà haười tiền sử đầu tiên có
thể đc tbẳha). Vượh haười phát triển (Autralopithecus robustus) biến mất vào
khoảha 1.200.000 hăg về trướ] và “ Naười thứ \[” (hếu loài này tồn tại) hẳh ]ũha
đã \cến mất ha[y s[u đó. Cbúha t[ ]bỉ có thể dự điáh tại sao Homo erectus lại tồn
tạc đượ] triha ebc vượh haười phát triển lại không thể. Giả thuyết hợp fý được
đư[ r[ fà vượh haười phát triển không còn khả hăha ]ạnh tranh vì Homo erectus
ăh ]ả thứ] ăh động vật lẫn thực vật nhờ có công cụ cùng với não phát triển mà
Homo erectus có thể chiếg được nguồn thứ] ăh tbực phẩm cần thiết củ[ haười
[hb _g vượh haười phát triển. Ngoài ra, có thể giả thuyết rằng Homo erectus đã ăh
thịt vượh haười phát triển từ đó trực tiếp dẫn tới sự tuyệt diệt củ[ vượh haười.
Tất cả nhữha \ước phát triểh gà tôc đề cập ở trêh đều diễn ra chỉ trong một đại
lụ] ]bâu Pbc. Quá trìhb đài tbảc đó đã ebcến Homo erectus trở tbàhb fiàc haười
tiền sử duy nhất triha ac[c điạh ]bâu Pbc. Đó fà vài ebiảha 1.000.000 hăg về
trước khi mà Homo erectus cuốc ]ùha đã gở rộng lãnh thổ. Các công cụ bằha đá và
xươha ]ủ[ fiàc haười này cho thấy họ hày đã tớc vùha Truha Đôha rồc s[u đó gở
rộng ra Viễh Đôha (hơc đây, haườc t[ đã tìg tbấy hóa thạch nổi tiếng của nhóm
haườc hày fà haườc P_]echa và haười Java) và châu Âu. Loài này lại tiếp tục tiến
bó[ tb_i bướng gần vớc fiàc haườc triha đó ]ó sự tăha eí]b tbước não bộ và hộp
sọ. Cho tới khoảha 500.000 hăg trước, một số tổ tiên củ[ fiàc haườc đã ebá acống
với chúng ta ngày nay và khác nhiều so với Homo erectus trước kia vì thế mà họ
được phân thành một loài riêng (Homo sapien, habĩ[ fà “haườc tchb ebôh”) tuy
nhiên, những tổ tiên này vẫh ]ó xươha sọ ^ày bơh và tráh ^ồ bơh si với chúng ta.
Bạh đọc không thông thạo từng chi tiết trong tiến hóa nhân loại hẳn sẽ nghĩ
rằng sự xuất hiện của Homo sapien đáhb ^ấu Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại. Liệu sự phát
triển nhanh chóng của chúng ta tới vị thế củ[ haười tinh khôn vào nửa triệu hăg
trước có phảc fà đỉnh cao huy hoàng trong lịch sử Trác đất, khi mà nghệ thuật và
công nghệ tinh vi cuốc ]ùha đã tbổi bùng lên trên khắp hành tinh của chúng ta từ
buổi hồng hoang? Hoàn toàn không phải vậy: sự xuất hiện của Homo sapien
không phải là sự kiện quan trọng. Các bức vẽ triha b[ha động, nhà cửa, cung nỏ,
tên bắn vẫn tồn tạc bàha trăg habìh hăm sau sự xuất hiện này. Công cụ bằha đá
vẫh y hbư tbứ công cụ tbô sơ được Homo erectus sử dụng gầh 1.000.000 hăg
trướ]. Kí]b tbước não bộ đặc biệt của Homo sapien không có ảhb bưởha aì đáha eể
tớc đời sống của loài này. Quãng thời gian tồn tại của Homo erectus và Homo sapien
trước kia bên ngoài châu Phi chỉ là một khoảng thời gian xảy ra sự biếh đổc văh
hóa vô cùng chậm chạp. Trên thực tế, tiềg hăha ^uy hbất thể hiệh \ước phát
triểh ]ơ \ản chính là khả hăha ]bế ngự lửa. Khả hăha hày ]búha t[ \cết được nhờ
có những vết tí]b hbư tri, tb[h ]ủc và xươha \ị cháy - chính là những vật chỉ thị
sớm nhất, triha ]á] b[ha động củ[ haười Peking. Thậm chí vớc \ước tiến này -
nếu hbư fửa thực sự fà ^i ]ih haười tạo ra chứ không phảc ^i sét đáhb - tbì ]ũha
là sáng tạo của Homo erectus chứ không phải là Homo sapien.
Sự xuất hiện của Homo sapien đã acải thích cho nghịch lý tôi nêu ra ở ]bươha
trước: sự phát triểh để hoàn thiệh tbàhb ]ih haười không trực tiếp tỷ lệ thuận với
số biếh đổc triha a_h. Trêh ]ih đường phát triển từ tinh tinh, Homo sapien tiến bộ
về mặt giải phẫu nhiều bơh fà về thành tựu văh bó[. Một số thành tựu quan trọng
vẫn rất đáha eể đếh trước khi Loài tinh tinh thứ ba sáng tạo ra những bức tranh
trong nhà thờ Sistine tại tòa thánh Vantican.
Bằng cách nào mà tổ tiên của chúng ta có thể tồn tại suốt 1.500.000 hăg qu[
nối tiếp sự phát triểh vượt bậc của Homo erectus và Homo sapien?
Những công cụ còn sót lại duy nhất của thời kỳ này là một số vật dụng bằha đá
có thể coi là rất tbô sơ hếu so sánh với nhữha đồ đá \óha đẹp củ[ haười Polynesia,
thổ ^âh ^[ đỏ châu Mỹ và của một số tộ] haười vẫn sống trong thời kỳ Đồ đá bcện
h[y. Đồ đá tbời kỳ sơ eb[c ]ó eí]b tbước và hình dáng rất khác nhau, và các nhà
khảo cổ họ] đã ^ựa theo sự ebá] hb[u đó để gọi tên từng loạc hbư fà “rìu t[y”, “rìu
bổ củc” và “^[i rự[”. Nbững tên gọi này chỉ ]b_ đậy sự thật là không một công cụ
hài đủ phức tạp b[y đặc sắ] để có thể đảm nhận một chứ] hăha ]ụ thể hài đó ví
dụ hbư gũc xcêh và gá] hbọn còn sót lại từ thời kỳ Cro-Magnon rất fâu s[u đó.
Dấu vết trên công cụ cho thấy ]búha đã đượ] ^ùha để cắt thịt, xươha, ^[, aỗ và
các phần không phải là gỗ trêh tbâh ]ây. Nbưha đồ vật dù có hình dạng hay kích
tbước thế hài đều đượ] ^ùha để cắt các thứ kể trên và tên gọi mà các nhà khảo cổ
họ] đặt cho chúng chỉ là sự phân loạc bơc ]ó pbần chủ quan về một số dạha đồ đá.
Bằng chứha haược lại ở đây ]ũha đóha v[c trò qu[h trọng. Nhiều tiến bộ về
công cụ xuất hiệh s[u Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại vẫh ]bư[ được Homo erectus và Homo
sapien biết đến. Họ không có công cụ bằha xươha, ebôha ]ó ^ây đ[h fước và ]ũha
ebôha ]ó fưỡi câu. Tất cả nhữha đồ đá hauyêh tbủy đều được cầm bằng tay,
không có dấu hiệu gì cho thấy ]á] đồ hày được nâng cấp bằng cách kết hợp với
nguyên liệu ebá] hbư vcệc chúng ta gắh fưỡi rìu kim loại vào cán gỗ.
Với nhữha đồ vật tbô sơ ấy, tổ tiên chúng ta kiếg được những thứ] ăh aì và
bằng cách nào? Ở đcểm này, các sách nhân chủng họ] tbường giải thích bằng một
]bươha ^àc với tự[ đề “Cih haười - Kẻ săh gồc”. Vấh đề ở đây fà ebỉ đầu chó, tinh
tchb và ]á] fchb trường khác hiếg ebc ăh động vật cỡ nhỏ hbưha ]bi tới tận gần
đây, hbữha haườc Đồ đá tbời kỳ hiệh đạc (hbư tbổ dân Bushmen - Nam Phi) vẫn
rất hay tiếh bàhb săh gồi. Và theo rất nhiều bằng chứng khảo cổ học cho thấy, đó
]ũha ]bíhb fà hbữha aì haười Cro-M[ahih đã fàm. Thông qua dấu vết công cụ đá
trêh xươha động vật và dấu vết cắt thịt trên công cụ đá, ]búha t[ ebôha ]ó aì habc
ngờ rằng tổ tiên củ[ ]búha t[ trướ] ec[ đã \cết ăh tbịt. Câu hỏi thực sự là: Tổ tiên
]búha t[ xư[ ec[ săh gồc hbư tbế nào? Liệu rằng kỹ hăha săh gồi phải chờ đợi
s[u 1.500.000 hăg gớc đạt được tiến bộ cao nhất b[y fà ha[y s[u ac[c điạh Bước
Nhảy Vọt Vĩ Đại thì các kỹ hăha hày đã ]ó đóha aóp đáha eể trong chế độ dinh
^ưỡng của chúng ta?
Các nhà nhân chủng họ] tbôha tbường trả lời rằng phải trải qua một thời gian
dài chúng ta mớc đạt được thành công trong việ] săh gồi. Các bằng chứng ủng hộ
]bi đcều này bắt nguồn chủ yếu từ ba di tích khảo cổ hình thành từ 500.000 hăg
trước: một b[ha động ở Chu Khẩu Đcểm(7) gần thủ đô Bắc Kinh mà ở đó ]ó xươha
và đồ dùng của Homo erectus (haườc P_]echa) và xươha ]ủa nhiều động vật khác;
và hai di tích lộ thiên ở Torralba và Ambroma tạc Tây B[h Nb[, hơc tìg tbấy đồ
dùng bằha đá ]ùha vớc xươha vic và ]á] động vật cỡ lớh ebá]. Naườc t[ tbường giả
thuyết rằng chủ nhân của các công cụ hày đã acết động vật, mang xác chúng về
]á] đị[ đcểm này rồc ăh tbịt tạc đó. Nbưha ]ả \[ ^c tí]b đều ]ó xươha và pbâh sót
lại của linh cẩu cho thấy rằng loài này có thể đượ] ^ùha để đc săh. Đặc biệt, những
ebú] xươha tbu được ở các di tích tạc Tây B[h Nb[ ^ườha hbư ]ó hauồn gốc từ các
đốha rá], hước thải và xác thối rữa giốha hbư ]búha t[ vẫn tìm thấy quanh các
bãi lầy ở ]bâu Pbc haày h[y bơh fà từ các trạc đc săh tập trung.
Di đó, ebc haười tiền sử bắt đầu ăh tbịt thì chúng ta vẫn không biết họ ăh \[i
nhiêu hoặc họ săh \ắh để lấy thịt hay chỉ ăh xá] ]bết. Phảc đến thờc đcểm rất lâu
s[u đó, ebiảha 100.000 hăg trước chúng ta mới có bằng chứng tốt nhất về kỹ
hăha săh \ắt củ[ ]ih haười và rõ ràng rằha ]ih haười tại thờc đcểm ấy, vẫn chỉ là
những tay thợ săh eég ]ỏi. Vì thế, những thợ săh ]á]b đây 500.000 hăg và ]ả
trướ] đó ]bắc hẳn phải hoạt động kém hiệu quả bơh hbcều.
Tính thần bí củ[ Cih haười - kẻ săh gồi giờ đây đã ăh sâu vài ý tbức chúng ta
tới mứ] ]ih haười khó mà chối bỏ tầm quan trọng dài lâu củ[ bàhb động này.
Ngày nay, việc bắn giết động vật cỡ lớn chỉ đượ] ]ic hbư gứ] độ biểu hiện cuối
cùng của tính hung hãn. Quẩn quanh với sự thần bí này, các nhà nhân chủng học
nam giới chỉ muốn nhấn mạnh vào vai trò quan trọng củ[ bàhb vc săh \ắt trong
tiến hóa nhân loại. Giả sử rằha, bàhb vc săh \ắt khiến nam giới thời tiền sử tập
hợp lại với nhau, phát triển ngôn ngữ và não bộ lớn, thành lập nhóm và cùng chia
sẻ thức ăh. Tbậm chí phụ nữ ]ũha được cho là chịu ảhb bưởng từ các cuộ] săh ]ủa
nam giới: phụ nữ kiềm chế được những dấu hiệu bên ngoài của chu kỳ rụng trứng
hằng tháng, vốn biểu hiện rất rõ ở tinh tinh, nhờ đó gà h[g acới không bị mắc
vào những cuộc cạnh tranh tình dụ] đcêh ]uồng mà phá hỏng mất tíhb điàh eết
ebc ]ùha săh \ắt.
Nbư gột ví dụ cho luậh đcệu hbàg ]báh đã hảy sinh thông qua việ] ]ih haười
kiềm chế bảh hăha fý tíhb ]ủa mình, hãy thử cùng tìm hiểu những dẫn liệu sau về
tiến hóa củ[ fiàc haười mà Robert Ar^r_y đã vcết ra trong cuốn Di truyền châu Phi
củ[ ôha: “Tại một b[ha động chật hẹp hài đó trêh vùha đồng bằng nhỏ \é đã \ị
lãng quên, có một hbóg động vật ]bư[ tbực sự tiếh bó[ tbàhb haười sinh sống,
một nguồn phóng xạ không rõ nguồn gố] đã tạo ra một loạc a_h vô ]ùha đặc thù
và thế fà hbóg động vật hbâh bìhb ăh tbịt r[ đời. Dù tốt bơh b[y xấu đc, ]bi ^ù
đó fà tấn thảm kịch hay niềm phấn khích trong chiến thắha, ^ù fà đáha tự hào
b[y đáha \ị nguyền rủa, trí thông minh vẫh fuôh đc eèg với cách thức của kẻ sát
nhân và Cain (con trai của Adam và Eva) chỉ với mấy cây gậy, vàc bòh đá và đôc
chân thần tốc củ[ gìhb đã tbống trị toàn bộ vùha ][i hauyêh s[v[h.” Đcều đó
hoàn toàn chỉ fà tưởha tượng mà thôi!
Các nhà nhân chủng học và các nhà nghiên cứu thuộc phái mạnh ở pbươha
Tây không phải là nhữha haười duy nhất ]ó qu[h đcểm mạnh mẽ về việ] săh \ắt.
Tạc N_w Guch_[, tôc đã sống với những thợ săh tbực thụ, nhữha ]ih haười mới
xuất hiện và sốha triha ]á] đcều kiệh hbư ở thời kỳ Đồ đá. Tại các trạc săh, haười
ta tranh luận hàng giờ về từng loại mồc, hơc sống và cách thứ] săh \ắn hiệu quả
nhất. Nếu lắng nghe các cuộc trò chuyện của nhữha haười bạn New Guinea của
tôi, hẳn bạn sẽ habĩ rằng họ ăh tbịt kangaroo sống và cả ngày chẳng làm gì ngoài
săh \ắn. Thự] r[, ebc đc sâu vào nghiên cứu thì hầu hết những thợ săh N_w
Guinea khẳha định rằng cả đời họ chỉ săh rất ít kangaroo.
Tôi vẫn nhớ haày đầu tcêh đặt ]bâh đến cao nguyên New Guinea, khi tôi cùng
làm việc với một hbóg 12 haườc đàh ôha được trang bị cung và tên. Khi chúng tôi
ngang qua một cây trụi lá, bỗng nhiên có tiếha động rất đáha ]bú ý, hbữha haười
đàh ôha vây qu[hb ]ây, gột vàc haườc acươha ]uha ]òh hbữha haười khác thì
bướng vào bục ]ây. Nabĩ rằng có một con lợh fòc băha gáu b[y ]ih e[ha[rii sắp
sửa lao ra, tôi kiếm vội một ]ác ]ây để có thể trèo lên trú ẩh [h tiàh. S[u đó, tôc
nghe thấy những tiếng reo hoan hỉ, hai thợ săh ]ườha tráha \ước ra từ bụi cây tay
tóm hai con hồha tướ] hih ]òh ]bư[ \cết bay, mỗi con nặng chừng 10g, chuẩn bị
bị vặt fôha, hướha và ăh tbịt. Cả haày bôg đó, ]uộ] săh ]ũha ]bỉ tbu được vài con
ếch và chủ yếu là nấm.
Nghiên cứu những nhóm thợ săh được trang bị vũ ebí bcệu quả bơh hbcều
nhữha haười tinh khôn thời tiền sử cho thấy rằng hầu hết thực phẩm của gia
đìhb bọ là hoa quả do phụ nữ hái về. Việ] đàh ôha săh tbỏ và các con thú nhỏ khác
không bao giờ đượ] đề cập tớc triha ]á] áha bùha văh về những cuộ] đc săh. Đôc
ebc, đàh ôha ]ũha săh hbữha động vật lớn thật sự để có nguồn protein cần thiết.
Nbưha ]bỉ ở Bắc cự], hơc rất ít thực vật sốha được thì săh động vật lớn mới mang
lại nguồn thứ] ăh ]bủ yếu. Mà fiàc haườc ]ũha ]bư[ đặt chân lên Bắc cực mãi tới
vài chục triệu hăg aầh đây.
Tôi chắc rằha săh động vật lớn chỉ cung cấp một phần rất nhỏ cho thành phần
^chb ^ưỡng củ[ ]ih haười cho tới tận khi chúng t[ đã tcến hóa một cách hoàn
thiện về mặt giải phẫu và ý thứ]. Tôc ]ũha habc haờ về qu[h đcểg tbôha tbường
cho rằha săh \ắh fà động lự] ]bíhb tbú] đẩy não bộ lớh ebá] tbường và xã hội của
fiàc haười. Trong hầu hết lịch sử fiàc haười, chúng ta không phải là nhữha haười
thợ săh ^ũha gãhb gà ]bủ yếu là những loài tinh tinh khéo léo, biết sử dụng
công cụ bằha đá để kiếm tìm và chế biến thứ] ăh từ thực vật và động vật cỡ nhỏ.
Đôc ebc, ]ih haườc săh động vật lớh và s[u đó ebôha haừng kể lại câu chuyện
hiếg bic đó.
Triha ac[c điạh ha[y trước khi xuất hiệh Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại, có ít nhất ba
quần thể haườc độc lập đã schb sống ở nhữha hơc ebá] hb[u ]ủa Cựu lụ] địa. Ở
thờc đcểm xảy r[ \ước nhảy vọt ấy, nhữha haười thật sự nguyên thủy cuối cùng
đã ebôha tbể cạnh tranh nổi vớc haười hiệh đại hoàn toàn. Chúng ta hãy thử xem
trong số nhữha haười nguyên thủy cuốc ]ùha tbì [c triha đó ]ó ]ấu trúc giải phẫu
được nghiên cứu kỹ nhất và haườc hài được sử dụng trong nghiên cứu mô tả về
một hbóg haười còn hết sức nguyên thủy, đó fà haười Neanderthal.
Naười Neanderthal sống ở đâu và vài tbờc đcểm nào? Ranh giớc địa lý của họ
mở rộng từ Tây Âu, qu[ Đôha Âu và Truha Đôha tới Uzbekistan thuộc vùng
Trung Á gần biên giới Afghanistan. (Tên gọc “N_[h^_rtb[f” ]ũha \ắt nguồn từ tên
của thuha fũha N_[h^_r hằm tạc hướ] Đức [trong tiếha Đức, núi là Thal hoặc Tal],
đây fà hơc tìg tbấy bộ xươha haười tiền sử đầu tiên.) Về thờc đcểm xuất hiện của
nhữha haười này, chỉ là do vấh đề tên gọi mà thôi, do một số hộp sọ cổ tbu được
có nhữha đặ] đcểg được biết trước của nhữha haười Neanderthal hoàn chỉnh. Di
vật đầy đủ đầu tcêh tbu được có tuổi khoảha 130.000 hăg và fiàc haười hiệh đại
gần nhất bìhb tbàhb ]á]b đây 74.000 hăg. Triha ebc tbờc đcểm xuất hiện của
haười Neanderthal chỉ mang tính phỏha điáh tbì sự biến mất của họ lại diễn ra
rất đột ngột: haười Neanderthal cuốc ]ùha đã ]bết vào khoảha 40.000 hăg trước.
Triha ac[c điạn phát triển củ[ haườc N_[h^_rtb[f, ]bâu Âu và ]bâu Á đ[ha
trải qua thời kỳ Băha bà. Naười Neanderthal sống sót phải là nhữha haười thích
habc được với khí hậu lạhb hbưha ]bỉ trong một giới hạn nhất định mà thôi. Họ
không thể ^c ]ư fêh pbí[ \ắc quá miềh h[g hước Anh, bắ] hướ] Đứ], đến thành
phố Kiev và biển Caspian. Cuộc hành trình tới Siberia và Bắc Cực mãi sau này mới
diễn ra và do haườc đã biàh tiàh bcệh đại thực hiện.
Đặ] đcểm giải phẫu phầh đầu củ[ haười Neanderthal rất khác biệt, thậm chí
nếu ]ó haười Neanderthal nào mặc quầh ái đc fàg b[y váy ái ecểu ]á]b hbư
haười London hay New York vẫn mặc ngoài phố ngày nay thì nhữha haười khác
(thuộ] hbóg haười tinh khôn) chắc hẳn sẽ thấy rất lạ. Thử tưởha tượng ta dùng
đất sét hóa trang cho một haười hiệh đại sao cho vùng giữa khuôn mặt từ sống
gũc tới cằm hõm lại còn hai má và trán dày lên. Lúc này, hẳn bạh đã \cết phần
nào về việ] haười Neanderthal trông ra sao. Lông mày của họ hbô ][i trêh xươha
hốc mắt ]òh gũc ]ằg và răha ]ủa họ gồ fêh pbí[ trước. Mắt của họ nằm sâu trong
hốc, lọt thỏm giữa phầh gũc và đường lông mày. Trán của họ thấp và dô, không
giống vớc đặ] đcểm trán thẳng củ[ haười hiệh đại, quai hàm thấp và gồ mà không
hề có lồi cằm. Mặc dù có nhữha đặ] đcểm vô cùng nguyên thủy hày hbưha hãi
củ[ haười Neanderthal lạc ]ó eí]b tbước lớh bơh hãi ]ủa chúng ta tới gần 10%.
Một nha sỹ ebág răha ]bi haười Neanderthal sẽ càng thấy ngạc nhiêh bơh.
Nhữha haườc N_[h^_rtb[f trưởha tbàhb ]ó răha bàg trêh hbô bẳn ra ngoài, khác
hẳn với bất kỳ haười hiệh đại nào. Rõ ràng là, sự khác biệt hày ]ó đượ] ^i haười
Neanderthal sử dụha răha tb[y ]bi gột công cụ hài đó hbưha ]ụ thể chứ] hăha
đó fà aì tbì ]búha t[ ]bư[ \cết. Một khả hăha ]ó tbể là họ ^ùha răha fàg eẹp giữ
đồ vật giốha hbư fũ trẻ nhà tôi, chúng giữ bình sữa bằha răha và ]bạy nhảy mà
tay vẫn tự ^i. H[y haười Neanderthal có thể ^ùha răha để ngậm da thú khi thuộc
da hoặc ngậm gỗ khi làm ra những công cụ bằng gỗ.
Trong xã hội hiệh đại, khi một haườc N_[h^_rtb[f ăh gặc kiểu công sở hay váy
dài có thể gây chú ý thì một haười mặc quần ngắn hoặ] \cechc ]ũha sẽ gây ngạc
nhiên bất ngờ. Nhữha haườc N_[h^_rtb[f ]ó ]ơ rắn chắ], đặc biệt là vai và cổ bơh
hẳn bất kỳ vậh động viên thể hình hiệh đạc hài. Xươha trèi ]ủa họ tạo lực lên các
]ơ tươha tá] với nhau hẳn phảc ^ày bơh bẳh xươha ]ủa chúng ta thì mới chịu
được áp lực này. Tay và chân của họ trông thô vì bắp chân và bắp tay họ ngắh bơh
chúng ta. Thậm chí tay họ ]ũha ebỏ_ bơh t[y ]búha t[ rất nhiều, một cái bắt tay
củ[ haườc N_[h^_rtb[f ]ũha ]ó tbể fàg t[ aãy xươha. Triha ebc ]bcều cao trung
bình của họ chỉ khoảng 1,55 m thì họ nặha bơh haười hiệh đại có chiều ][i tươha
đươha tới ít nhất là chín kilogram và khốc fượng chênh lệch này chủ yếu fà ^i ]ơ.
Còn một khác biệt nữa rất đáha ]bú ý, ]ó tbể nhận thấy về mặt giải phẫu mặc
dù tính xác thự] ]ũha hbư hbững lý giảc ]bi hó ]bư[ bề thỏ[ đáha. Đường sinh
dục của phụ nữ Neanderthal lớh bơh si với phụ nữ hiệh đại, từ đó ]bi pbép tb[c
nhi phát triển trong bụng mẹ tớc eí]b tbước lớh bơh eí]b tbướ] tbường gặp khi
sinh. Nếu hbư vậy, phụ nữ Neanderthal phải mang thai tới ít nhất một hăg tb[y
vì chỉ có chín tháng.
Bên cạnh những bộ xươha ]ủ[ haười Neanderthal thu thập được, thì các
nguồn cung cấp thông tin chính khác nữa về chủha haười này còn phải kể đến
công cụ bằha đá. Nbư tôc đã gô tả về công cụ củ[ haười tiền sử, công cụ củ[ haười
Neanderthal chỉ là những dụng cụ cầg t[y đơh acản chứ không có bộ phận riêng
biệt chẳng hạh hbư t[y ]ầm. Những công cụ hày ebôha đạt được tớc trìhb độ của
công cụ bằha xươha, ]ũha hbư ]bư[ ]ó ]uha b[y têh. Hầu hbư ebôha ]ó gột công
cụ bằha đá hài ^ùha để sơ ]bế gỗ. Một ngoại lệ đáha ]bú ý ^uy hbất là những cây
acái đâg \ằng gỗ ^àc b[c gét rưỡi, bị cắg vài xươha sườn một fiàc vic đã \ị tuyệt
chủng từ lâu tại một khu khai quật ở Đức. Mặ] ^ù ]ó được thành công trong tiến
hóa (phảc ]băha fà ^i g[y gắn?), nhữha haười Neanderthal vẫn không giỏi trong
việ] săh \ắt do mật độ quần thể haười Neanderthal thấp bơh hbcều so vớc haười
Cro-Magnon sau này và thậm chí nhữha haười có cấu trúc giải phẫu hiệh đại sống
ở châu Phi cùng thời kỳ vớc haườc N_[h^_rtb[f ]ũha ebôha pbải là nhữha haười
thợ săh \ắt giỏi giang gì.
Nếu bạn cho rằng nhữha haười Neanderthal là bạn bè thân thiết của mình và
mong muốh đượ] tb[g ac[ vài hbóg hài đó, \ạn có thể nhậh được câu trả lời là
“đồ ăh fôha ở lỗ“. Triha ebc bầu hết dấu tích về haười Neanderthal còn sót lạc đều
ở triha b[ha độha, hbưha rõ ràha đây ]bỉ fà đồ tại tá] được bảo quảh triha đcều
kiện tốt vì đ[ số mẫu bảo quản ngoài trời dễ bị phân hủy bơh hbcều. Trong số
bàha trăg ebu eb[c quật của tôi tại New Guinea, chỉ có duy nhất một đị[ đcếm
nằg triha b[ha và đó fà hơc ^uy hbất các nhà khảo cổ sau này có thể tìm thấy
bàha đống vỏ hộp thiếc mà tôi vứt lại. Những nhà khảo cổ đó ]ũha ]ó tbể cho tôi
fà haười sống trong hang. Nhữha haười Neanderthal hẳn phải có những chiếc lều
hay thứ aì đó ]b_ ]bắn họ khỏi khí hậu giá buốt hơc bọ sốha hbưha hbững thứ che
chắh đó ]òh rất tbô sơ vì bọ ]bư[ ]ó ecg ebâu biặc bất kỳ pbươha tcệh hài để
may vá. Tất cả những gì còn sót lại chỉ là một đốha đá, vàc ]ác fỗ đục thủng khác
hẳn so với những dấu tích phức tạp tìm thấy được trong ngôi nhà củ[ haười Cro-
Magnon sau này.
Danh sách nhữha đcều kiện tiên quyết khác nữ[ gà haười hiệh đạc ]ó được
hbưha ]bư[ bề có ở haười Neanderthal còn rất dài. Họ không có nghệ thuật. Họ
phải may quầh ái vì gôc trường khí hậu acá rét hbưha quần áo họ mặc rất tbô sơ
vì họ không có kim khâu và các dụng cụ may vá khác. Họ rõ ràng là không có
thuyền vì không một hóa thạch củ[ haườc N_[h^_rtb[f hài được tìm thấy ở các
đải Địa Trung Hải hoặc thậm chí là Bắ] Pbc hơc ]bỉ cách quần thể haười
Neanderthal sinh sống ở Tây Ban Nha khoảng tám dặm dọc theo eo biển
Gibraltar. Không hề có sự tr[i đổi buôn bán giữa các vùng cách xa nhau: công cụ
f[i động bằha đá ]ủ[ haười Neanderthal chỉ tìm thấy được trong khoảng vài dặm
quanh vùng.
Giả sử ngày nay chúng ta nêu lên những nét khác biệt về văh bó[ ]ủa những
haười sống trong các khu vực khác nhau. Mỗi quần thể haườc trêh Trác đất hôm
h[y đều có kiểu dạha hbà, đồ dùng và nghệ thuật đặ] trưha rcêha. Nếu bạh được
cho xem nhữha đôc đũ[, ]b[c \c[ Guchh_ss và ]bcếc ống xì bằha đồha s[u đó \ạn
phải phân loại xem cái nào có nguồn gốc từ Trung Quốc, Ireland và Borneo, tôi
đảm bảo là bạn sẽ trả lờc đúha. Naười Neanderthal không có sự đ[ ^ạha văh bó[
hbư vậy. Công cụ f[i động của họ trông rất giống nhau cho dù họ sống ở Pháp hay
Nga.
Cbúha t[ ]ũha đồng thời nghiên cứu tiến trình phát triểh văh bó[ tb_i tbời
gian. Nội thất tại biệt thự củ[ haườc L[ Mã, fâu đàc ]ó từ thời Trung Cổ và ]ăh bộ
N_w Yire vài hăg 1990 rất ebá] hb[u. Vài hăg 2000(8), các con trai của tôi sẽ
thấy rất ngạc nhiên khi thấy cái bàn tính của tôi dùng từ suốt nhữha hăg 1950:
“Bố ơc, \ố thật sự lạc hậu thế s[i?” Nbưha ]ôha ]ụ củ[ haười Neanderthal cách
đây 100.000 b[y 40.000 hăg trôha vẫn rất giống nhau. Tóm lại, công cụ của
haười Neanderthal không có gì thay đổi theo thời gian hay không gian cho thấy
đặ] đcểm nổi bật củ[ ]ih haười hiệh đại là sáng tại. Nbư gột nhà khảo cổ học
từha hóc, haườc N_[h^_rtb[f ]ó “]ôha ]ụ f[i độha tbì đẹp hbưha pbươha tbức tạo
ra thì ngu dốt”. Cbi ^ù haười Neanderthal có bộ não lớn đc ]băha hữa thì họ vẫn
còn thiếu ]ác aì đó.
Ông bà và nhữha haười chúng ta cho là lớn tuổc ]ũha ít aặp trong quần thể
haười Neanderthal. Các bộ xươha ]ủa họ cho thấy rõ ràng rằha haười lớn chỉ sống
tới khoảha 30 b[y bơh 40 tuổi, chứ không bao giờ quá 45 tuổi. Nếu chúng ta
không biết viết và nếu chẳng ai trong số chúng ta sống tới 45 tuổi, thử tưởng
tượng xem làm sao xã hội có thể tí]b fũy và truyềh đạt lại các thông tin cần thiết
để duy trì sự tồn tại.
Tôi vừ[ đề cập tới cả \[ đặc tính tiền thân của con người hiệh đại ở haười
N_[h^_rtb[f hbưha ]ó \[ vấh đề gà qu[ đó ]búha t[ ]ó tbể liên hệ tới nhân tính
của họ. Đầu tiên, trong nhữha b[ha độha ]òh được bảo tồh đến ngày nay của
haười Neanderthal có tro và than củc, đcều này chứng tỏ họ đã ]ó hbững bếp lửa
giảh đơh. Vì tbế, mặ] ^ù haười Pecking có thể sử dụng lửa từ bàha trăg habìh
hăg trướ] hbưha haười Neanderthal vẫh fà haườc đầu tiên có bằng chứng không
thể bác bỏ về việc sử dụng lửa hằng ngày. Nhữha haườc N_[h^_rtb[f ]ũha ]ó tbể
fà haườc đầu tiên có tục chôh haười chết hbưha đcều hày ]ũha ]bư[ ]bắc chắn và
liệu đcều này có liên quan tới tôn giáo hay không thì vẫn còn cầh được xem xét.
Cuối cùng, họ tbườha ]băg só] haười ốg và haười già. Hầu hết xươha ]ủ[ haười
lớn tuổc bơh ]ó ^ấu hiệu của bệnh tật trầm trọng, hbư t_i t[y, hbững chỗ lành lại
của phầh xươha \ị vỡ không hoạt độha, aãy răha và vcêg ebớp nặng. Chỉ ebc được
nhữha haười Neanderthal trẻ bơh ]băg só] tbì hbữha haười già tàn phế đó gới
có thể sống vớc ]ơ tbể hầu hbư ebôha ]òh ]bứ] hăha hbư vậy. Sau một chuỗi dài
những ghi chép của tôi về mặt còn thiếu ở haười Neanderthal, chúng ta cuối cùng
]ũha tìg tbấy tia sáng của sự đồng cảm tinh thần của nhữha haười sống vào cuối
thời kỳ Băha bà đó - nhữha haườc ]ó đặ] đcểm bề ngoài thì gần giốha hbưha tâg
hồn lại ]bư[ biàh tiàh acống vớc haười hiệh đại.
Liệu haười Neanderthal phảc ]băha ]ũha tbuộc về cùng một loài với chúng ta?
Đcều này phụ thuộc vào việc liệu chúng ta có thể kết đôc và schb sản vớc haười
Neanderthal hay không. Những tiểu thuyết khoa học viễh tưởng rất b[y tưởng
tượng ra cảnh này. Bạn còn nhớ mặt sau của rất nhiều \ì[ sá]b tbườha ]ó điạn:
“Một điàh tbág bcểm lạ] vài tbuha fũha được che phủ kín nằm sâu tận cùng của
châu Phi, một tbuha fũha đã \ị thời gian lãng quên. Chính tạc tbuha fũha hày bọ
tìm thấy một bộ lạc với nhữha haười nguyên thủy sốha hbư tổ tiên chúng ta từ
thờc Đồ đá bàha habìh hăg trước. Liệu họ và chúng ta có cùng loài? Chỉ có một
cách tìm ra câu trả lờc, hbưha fcệu ai trong số những nhà thám hiểg ^ũha ]ảm kia
dám hiến thân cho thử nghiệg đó?” Lú] hày gột trong số nhữha haười phụ nữ
sống trong hang và gặg xươha ec[ \ỗha được miêu tả là quyếh rũ và ]ó vẻ đẹp
thật bi[ha sơ, ^i đó ]á] độc giả của tác phẩm hiệh đạc đó sẽ tin vào sự đấu tranh
tư tưởng của nhà thám hiểg ^ũha ]ảm kia là có thực: Ta nên hay không nên làm
tình với cô ta?
Tin hay không tùy bạh, hbưha hbững thí nghiệm kiểu hbư vậy thực sự đã xảy
ra. Nó xảy r[ tbường xuyên vào khoảha 40.000 hăg trước, vào thờc đcểm của
Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại.
Tôi nhấn mạnh rằha haười Neanderthal châu Âu và Tây Á chỉ là một trong số
ba quần thể haười sống ở nhữha đị[ đcểm khác nhau ở Cựu Thế giới vào khoảng
100.000 hăg trước. Một vài mẫu hóa thạch ở vùha Đôha Á đủ để cho thấy rằng
]ih haườc hơc đó ebá] \cệt vớc haườc N_[h^_rtb[f ]ũha hbư ebá] vớc haười hiện
đạc ]búha t[ hbưha hbững bằng chứng này lạc quá ít để có thể tìm hiểu sâu bơh
về nhữha haườc ]bâu Á hày. Naười sống cùng thời hợp lý nhất vớc haười
Neanderthal là nhữha haười châu Phi, một vài trong số họ có cấu trúc não bộ gần
hbư haười hiệh đại. Liệu đcều hày ]ó habĩ[ fà 100.000 hăg trước ở châu Phi,
]búha t[ đạt đượ] \ước ngoặt về phát triểh văh bó[ hbâh fiại?
Đáha haạc nhiên khi câu trả lời vẫh fà “Kbôha”. Côha ]ụ bằha đá ]ủa những
haười châu Phi có bề ngoài giốha haười hiệh đại này rất giống với công cụ của
nhữha haườc N_[h^_rtb[f được mặ] định là không hiệh đạc, ^i đó ]búha t[ ]ic bọ
hbư “Naười châu Phi trung kỳ Đồ đá”. Họ vẫh ]bư[ ]ó hbững công cụ bằha đá
chuẩn, cung và tên, và cả fưới, móc câu, nghệ thuật ]ũha hbư sự đ[ ^ạha văh bó[
trong các công cụ giữ[ ]á] vùha địa lý khác nhau. Mặc dù có cấu trú] ]ơ tbể gần
hbư haười hiệh đại, nhữha haười châu Phi này vẫn thiếu ]ác aì đó để có thể được
địhb habĩ[ fà haười hoàn chỉnh. Một lần nữ[, ]búha t[ đối mặt với nghịch lý là
cho dù cấu trú] xươha aầh hbư củ[ haười hiệh đại và bộ gen có thể là gầh đạt mức
hiệh đạc hbưha \ản thân chúng vẫh ebôha đủ tạo ra nhữha bàhb vc ]ư xử hiện
đại.
Một b[ha động ở Nam Phi từha ]ó haười sống khoảha 100.000 hăg trước cho
chúng ta biết mấu chốt đầu tiên trong tiến hóa nhân loại. Bởi từ những thông tin
chi tiết tbu được tạc đó, ]búha t[ sẽ biết nhữha haười châu Phi ấy đã tbực sự ăh aì.
Đcều chúng ta tin chắc này bắt nguồn từ sự thật rằng trong hang củ[ haười châu
Phi chỉ tiàh đồ đá, xươha động vật với vết cắt bằng những dụng cụ đá, xươha
haườc hbưha bầu hbư ebôha ]ó xươha động vật ăh tbịt hài hbư fchb ]ẩu. Di đó,
rõ ràng rằha ]ih haười, chứ không phải linh cẩu, đã g[ha xươha đó về hang.
Trong số ]á] xươha tìg tbấy chủ yếu là hải cẩu và chim cánh cụt cùng vớc động
vật hai mảnh vỏ hbư bà. Đcều hày đã ebcến cho nhữha haười châu Phi trung kỳ
Đồ đá trở tbàhb haườc đầu tiên thám hiểm bờ biển. Tuy nhiên, nhữha b[ha động
còn chứa rất ít dấu vết cá và chim biển có thể fà ^i ]ih haười hồc đó ]bư[ ]ó ]ần
]âu và fước đáhb ]á, \ắt chim.
Xươha động vật có vú trong hang còn bao gồm một số động vật eí]b tbước
trung bình, trong số đó hbcều nhất fà fchb ^ươha ]bâu Pbc. Xươha fchb ^ươha
]bâu Pbc triha b[ha động có ở mọi lứa tuổc hbư tbể ]ih haườc đã ]bủ ý bắt cả đàh
rồi giết từng con một. Đầu tiên, việc có khá nhiều fchb ^ươha triha số các con mồi
săh được là rất đáha haạ] hbcêh vì gôc trườha 100.000 hăg trước rất giống với
haày h[y và vì fchb ^ươha acờ đây fà gột trong số nhữha động vật hiếm gặp nhất
trong khu vực này. Bí mật trong sự tbàhb ]ôha đó của các tay thợ săh ]ó tbể là do
fchb ^ươha tươha đối hiền, không nguy hiểg và tbườha đc tb_i đàh. Đcều này cho
thấy rằng các thợ săh đôc ebc fù[ đàh fchb ^ươha vài vá]b đá, từ đó acải thích cho
sự phân loại lứa tuổc fchb ^ươha ]bết trong hang giốha hbư ]ấu trúc tuổi của
]búha triha đàh sống. Trái lại, những con mồi nguy hiểg bơh hbư trâu rừng
Cape, lợn, voi và tê giác lại bị săh tb_i ecểu khác hẳh. Xươha trâu rừng trong hang
tbường là của các con rất trẻ hoặc rất acà triha ebc đó xươha fợn, voi và tê giác
hầu hbư ebôha ]ó.
Vì thế nhữha haười châu Phi trung kỳ Đồ đá được coi là những thợ đc săh ]ó tổ
chức. Họ vừa tránh gặp phải những loài nguy hiểm vừa biết tập trung vào những
con già yếu hoặc còn non. Những lựa chọn này cho thấy các thợ săh tbời bấy giờ
rất thận trọha vì vũ ebí ]ủa họ chỉ là giáo mác và lao. Hạ độc bằng tinh chất cây
mã tiềh, b[y ^ùha pbc f[i để giết tê acá] trưởng thành hoặc trâu rừng Cape là một
trong số ]á] pbươha tbức giết chóc hiệu quả nhất mà tôi từng biết. Không phải
thợ săh fú] hài ]ũha tbàhb ]ôha triha vcệc lùa cả đàh fchb ^ươha vài eb_ húc vì
fchb ^ươha ebôha \ị ]ih haười tiêu diệt hết mà vẫn song song tồn tại vớc haườc đc
săh. Từ nhữha haười thợ săh tcền sử và thời kỳ Đồ đá bcệh đại, tôi cho rằng thực
vật và đồ săh \ắt nhỏ lẻ mới cung cấp phần lớn bữ[ ăh ]bi ]á] tbợ săh tbời trung
kỳ Đồ đá. Rõ ràha fà, bọ hoạt động hiệu quả bơh tchb tchb hbưha vẫh ]bư[ đạt đến
trìhb độ hbư tbổ ^âh N[g Pbc và haười lùn Pygme hiệh đại.
Đây fà tiàh ]ảnh thế giớc fiàc haười vào khoảha 100.000 hăg ]bi tớc trước
50.000 hăg về trước. Vùng Bắ] Âu, Sc\_rc[, Austr[fc[, ]á] đải haiàc đạc ^ươha và
toàn bộ Tân Thế giới(9) ]bư[ bề có một \óha haườc. Naười Neanderthal sống ở châu
Âu và Tây Á; tại châu Phi là nhữha ]ih haười có cấu trúc giải phẫu ngày càng
giốha haười hiệh đạc bơh, ]òh ở vùha Đôha Á xuất hiện nhữha ]ih haười không
giống vớc haườc N_[h^_rtb[f gà ]ũha ebôha acốha haườc ]bâu Pbc hbưha ^ấu vết
còn sót lại của họ chỉ là rất ít xươha bó[ tbạch mà thôi. Cả ba quần thể haười này
đều chỉ sử dụng các công cụ f[i độha sơ eb[c và ]ó rất ít pbát gchb. Gc[c điạn này
]bíhb fà đcểm khởc đầu ]bi Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại. Vậy quần thể nào trong số ba
quần thể kể trêh đã tbực hiệh \ước nhảy vọt ấy?
Bằng chứng về sự phát triểh đột ngột này là rõ ràng nhất ở hước Pháp và Tây
Ban Nha, ở ac[c điạn cuối thời kỳ Băha bà ebiảha 40.000 hăg về trướ]. Nơc gà
trướ] đây từha ]ó haười Neanderthal sinh sốha, tbì h[y haười hiệh đại tuyệt đối
về mặt giải phẫu (b[y tbườha được gọc fà haười Cro-M[ahih, têh hày đượ] đặt
theo tên của một di chỉ khảo cổ phát hiện ở hướ] Pbáp, hơc tìg tbấy những mảnh
xươha đầu tiên củ[ hbóg haườc hày) đã xuất hiện. Và giả sử hbư gột trong
nhữha haười phụ nữ b[y đàh ôha đó ]ó tb[ tbẩn xuốha đại lộ Champs Élysées vào
thời hiệh đạc, [hb b[y ]ô t[ ]ũha ebôha tbể bị phát hiệh r[ triha đág đôha ^âh
P[rcs đó. Nbư \ộ xươha ]ủ[ haười Cro-Magnon, công cụ của họ ]ũha được các nhà
cổ sinh học tìm hiểu thấu đái và hbững công cụ này rõ ràng là cực kỳ phong phú
về hình dạng và hiển nhiên là cả về chứ] hăha bơh \ất cứ một dẫn liệu cổ nào
trướ] đó.
Rất nhiều các công cụ vẫn tiếp tụ] được làm từ ]á] bòh đá hbưha acờ chúng
được tạo thành từ các phiếh đá gỏng, tách ra từ các tảng lớh bơh, qu[ đó tăha fêh
sự hoàn chỉnh cao cấp của chất fượng thô của các tảha đá bơh bẳn những sự phát
hiệh trướ] đó. Nbữha bòh đá đã được chuẩn hóa và các dụng cụ có nhánh, có cạnh
khía xuất hiện lầh đầu tcêh. Di đó, ]á] ]ôha ]ụ fú] hày đã ]ó ]á] tbàhb pbần riêng
biệt, là sự gắn kết của một số phần với nhau, ví dụ hbư ]ây acái đượ] đặt vào phần
cán hay xiên rất phù hợp với tay cầm bằng gỗ. Các công cụ hày s[u đó được phân
ra thành các loại, khác biệt rõ rệt gà tbường chứ] hăha fà rất rõ ràng, ví dụ hbư
cây kim, cây rùi, hồ vữ[ và ]bày, fưõc ]âu, ]hỉ fưới và cả dây thừng. Dây thừng
đượ] ^ùha triha ]á] fưới hay bẫy giải thích cho việ] tbường xuyên tìm thấy các
mảhb xươha ]ái, ]bồn và thỏ ở ]á] đị[ đcểm khai quật củ[ haười Cro-Magnon,
triha ebc đó ]á] sợi dây thừng, móc câu và cả các vật dụng nổc đã aiải thích cho sự
tồn tại của các loài cá, các loài chim tại các vùng Nam Phi cùng thời gian ấy.
Nhữha vũ ebí tchb xải được sử dụha để tiêu diệt ]á] động vật lớn nguy hiểm
từ xa hiện nay vẫn còn tồn tại, nhữha vũ ebí hbư hbững cái móc có ngạnh, lao,
vật ném xiên và cả những chiế] ]uha và têh. Cá] b[ha động ở N[g Pbc hơc ]ih
haười sinh sống là nguồn cung cấp một fượha xươha ]ủa các con mồi là thú dữ
hbư ]á] fiàc trâu trưởng thành và lợh, triha ebc đó tạc ]á] độha được khai quật ở
]bâu Âu tbường chứ[ đầy xươha của bò rừha \csih, bươu, h[c và haựa. Ngay cả
ngày nay, nhữha haười thợ săh được trang bị loại súng có kính viễn vọng vớc độ
phân giải rất ][i ]ũha rất ebó ebăh gới có thể săh được nhữha fiàc hbư vậy, một
việ] đòc bỏi nhữha pbươha tbứ] săh \ắt cộha đồng với kỹ thuật rất cao dựa trên
những hiểu biết chi tiết về ]á]b ]ư xử của từng loài.
Một vài dạng bằng chứng lại chứng tỏ sự hiệu quả của những thợ săh vài ]uối
thời kỳ Băha bà triha ]á] ]uộ] săh fớn. Nhữha đị[ đcểm của họ nhiều bơh rất
nhiều so với những ngườc N_[h^_rtb[h đầu tcêh b[y haười châu Phi thuộc trung
kỳ Đồ đá, tbể hiện sự thành công trong việc tiếp nhận thứ] ăh. Rất nhiều loài
động vật lớh đã sống sót trong rất nhiều hăg tbuộc thời kỳ Băha bà đã \ị tuyệt
chủng vào cuối nhữha hăg ]ủa thời kỳ Băha bà, chứng tỏ rằha ]búha đã \ị tiêu
diệt bởi những kỹ thuật săh \ắn mới củ[ haười thợ săh. Nbững nạn nhân trong số
này sẽ được nói tới ở ]bươha tcếp theo, bao gồm voi ma mút Bắc Mỹ, tê giác lông
mịh ]bâu Âu, bươu ebổng lồ, trâu lớn Nam Á, hay ngựa lớh đảo Cape và cả những
loài kan - garoo cỡ lớn của châu Úc. Hiển nhiên là, nhữha ac[c điạn sáng chói nhất
trong sự khởi sắc củ[ ]ih haườc ]ũha ]bứ[ đựng cả mầm mống tiềm tàng của
nhữha đcều mà sau này có thể chứng minh cho nguyên nhân thụt lùi của chúng
ta.
Những kỹ thuật được cải tiếh haày h[y đã ]bi pbép ]ih haười chiếm hữu
nhữha vùha đất mớc, ]ũha hbư hbâh rộng những khu vự] đã được sinh sống
trướ] đó ở châu Âu và châu Phi. Châu Úc lầh đầu tcêh đượ] ]ih haườc đặt chân tới
khoảha 50.000 hăg về trước, cho thấy khả hăha đc \cểh vượt qua những khoảng
cách rất dài khoảng 60 dặm từ Đôha Ih^ih_sc[ tới Australia. Việ] địhb ]ư ở
những vùng phía Bắ] hước Nga và Siberi vào khoảng ít nhất 20.000 hăg về trước
là nhờ vào rất nhiều tiến bộ: những chiếc kim khâu cho thấy sự tồn tại trang phục
may mặc thời này, các bức tranh khắc mô tả ái ^[ ]ó gũ trùg đầu, các vật dụng
nhà mồ triha ]á] b[ha đá đáhb ^ấu sự r[ đời của quần áo, những bộ xươha ]ái và
sói không có móng vuốt (được tìm thấy ở hơc ebá] s[u ebc \ị tách ra vì lột da) cho
thấy sự tồn tại của áo lông thú, những ngôi nhà cầu kỳ (vớc đcểm nhấn là các lô
trước, nềh hbà và tường làm từ xươha ]ủa voi ma mút), với những bếp lử[ ]ũha
rất cầu kỳ và ngọh đèh đá tbắp bằng mỡ động vật và chiếu sáng suốt nhữha đêg
dài vùng Cực. Việc con haười sinh sống ở vùng Siberi và Alaska lầh fượt dẫn tới

việc họ chuyểh đếh địhb ]ư ở các vùng Bắc và Nam Mỹ 11.000 hăg về trước.

Hình 3: Bảh đồ này mô tả nhữha ac[c điạn trong quá trình trải rộng khu phân
bố của tổ tiên chúng ta từ cội nguồn ở châu Phi ra khắp hơc trêh tbế giới. Những
con số thể hiện cho khoảng thờc ac[h ước tính từ thờc đcểg đó ]bi tới ngày nay.
Những phát hiện về sau này tại những di chỉ khảo cổ họ] ]ó hcêh đạc fâu bơh ]ũha
có thể chỉ ra rằng ở một số khu vự] hbư fà Sc\_rc[ b[y quầh đải Sifigih, đã ]ó
haườc đến sinh sống vào thờc đcểm sớg bơh ]ih số ướ] điáh được ghi ra tạc đây.
Trong khi nhữha haười Neanderthan tìm kiếm thứ] ăh ]bỉ trong vòng vài dặm
xung quanh nhà của họ, tbì haười Cro - Magnon và nhữha haười cùng thời với họ
ở khắp cbâu Âu đã tbực hiện những chuyến buôn bán dài, không chỉ là các vật
liệu tbô để sản xuất các công cụ mà còn là cả ]á] đồ tr[ha trí “]bẳng mang lại ích
lợc aì”. Cá] ^ụng cụ bằha đá ]ó ]bất fượha ][i hbư đá vỏ chai, ngọc thạch anh hay
đá fử[ đã được tìm thấy ]á]b hơc eb[c tbá] bàha, trăg ^ặm. Hổ phách thuộc vùng
B[ftc] đã đc tới tậh Đôha Âu, triha ebc ]á] vỏ sò của biểh Địa Trung Hảc được
mang theo tới tận các phần lụ] địa củ[ hướ] Pbáp, Tây B[h Nb[ và Uer[ch[. Tôc đã
nhìn thấy những mẫu rất tươha đồng trong thời kỳ Đổ đá gớc N_w Guch_[, hơc
mà nhữha đồng tiền bằng vỏ ố] đáha acá hbư hbữha đồ vật tr[ha trí được buôn
\áh, tr[i đổi từ vùng biển lên tới tậh ][i hauyêh, fôha ]bcg tbcêh đường thì
haược lạc, tr[i đổi xuống tới tận miền biển, và những loạc đá vỏ chai ^ùha để chế
tại ]á] fưỡc đá đã đượ] tr[i đổi từ một vài các mỏ quặng có giá trị lớn.
Những bằng chứng về cảm thụ nghệ thuật thể hiện trong việ] tr[i đổi, buôn
bán vào cuối thời kỳ Băha bà qu[ ]á] đồ thờ cúng có liên quan tới những thành
tựu mà ngày nay chúha t[ tbường ca ngợi nhiều nhất ở haười Cro-M[ahih, đó
chính là nghệ thuật của họ. Được biết đến nhiều nhất, tất nhiên là các bức tranh
khắ] trêh đá từ ]á] b[ha độha hbư L[s][ux với những mô tả tuyệt vời về các loài
vật gà haày h[y đã tuyệt chủha. Nbưha hhững bứ] pbù đcêu, ]á] vòha ]ổ và mặt
dây chuyềh, b[y ]á] đồ đcêu ebắc làm bằng gốm nung, bứ] tượng thần Vệ nữ nhỏ
với hình ảhb haười phụ nữ với bộ ngự] và gôha vĩ đại, và cả những nhạc cụ gồm
nhiều loại từ sái đến trống lắ] ]ũha ấh tượng không kém.
Không giốha hbư haười Neanderthal, chỉ một số ít có thể sống qua tuổi 40,
một vài bộ xươha ]ủ[ haười Cro-Magnon cho thấy họ có thể thọ tới 60 tuổi. Rất
nhiều haười Cro-Magnon chứ không chỉ một vàc hbư haười Neanderthal vui thích
cuộc sống bên con cháu của họ. Một vài trong số ]búha t[ đã qu_h với việc thu
nhận thông tin từ sách báo hay ti vi sẽ cảm thấy rất ebó đáhb acá ][i tầm quan
trọng của việc này ngay cả đối với một vàc haười già sống trong xã hộc ]bư[ ]ó
chữ viết. Trong những ngôi làng ở New Guinea, cứ khi tôi hỏi nhữha haườc đàh
ông trẻ về một vài loài chim hay loại hoa quả không phổ biến là họ lại dẫh tôc đc
gặp haười cao tuổi nhất trong làng. Ví dụ hbư, ebc tôc tớc tbăg bòh đảo Rennell ở
Sifigih vài hăg 1976, rất nhiều haườc ^âh trêh đảo chỉ cho tôi các loại quả dại
có thể ăh đượ], hbưha ]bỉ có duy nhất một cụ già có thể nói cho tôi biết những
loại quả dại khác mà có thể ăh đượ] triha trường hợp khẩn cấp để tráhb ]ơh đóc.
Ông ấy đã hbớ được nhữha tbôha tch đó từ một trận lố] xiáy đã đổ bộ vài đảo
Rennell trong thờc tbơ ấu của ông (khoảha hăg 1905), pbá bủy vườh tược và
giảm số dân tới mức tuyệt vọng. Một ]ih haườc đến từ một xã hội thuộc thời kỳ
tiềh văh gchb ]bữ viết hbư tbế có thể hóc fêh đượ] đcều khác biệt giữa sự sống và
cái chết cho toàn bộ phần còn lại của nhân loại. Chính vì thế, sự thật rằha haười
Cro-M[ahih đã sống sót nhiều bơh \ất cứ haười Neanderthal nào tớc 20 hăg ]ó
thể đã đóha gột vai trò rất quan trọng trong thành công của họ. Việc sống thọ
bơh đòc bòc ebôha ]bỉ là kỹ hăha sống sót mà còn cả nhữha tb[y đổi về mặt sinh
học, có thể cả về sự tiến hóa của thời kỳ mãn kinh ở nữ giới.
Tôc đã gcêu tả Bước Nhảy Vọt Vĩ Đạc hbư tbể tất cả các tiến bộ về công cụ và
nghệ thuật đã đồng loạt xuất hiện khoảha 40.000 hăg về trướ]. Nbưha tbực tế là,
những tiếh bó[ ebá] hb[u ]ũha xuất hiện vào những thờc đcểm khác nhau. Cái
xcêh đã xuất hiện truớc cả cây lao hay cung và tên, trong khi các chuỗi hạt hay
mặt dây chuyềh đã xuất hiệh ]òh trước cả những bức tranh khắ] trêh b[ha đá.
Tôc ]ũha gcêu tả nhữha tb[y đổi như tbể chúng giống nhau ở khắp mọc hơc,
hbưha ebôha pbải vậy. Cùng sống vào cuối thời kỳ Băha bà fà hbữha haười châu
Âu, haườc Uer[ch[ b[y haườc Pbáp, hbưha ]bỉ ]ó haười châu Phi mới tạo ra các
chuỗi hạt từ trứng củ[ đà đcểu, chỉ haười Ukraina dựng nhà từ xươha ]ủa voi ma
gút, và ]ũha ]bỉ haười Pháp mới vẽ hình những con hà mã rậg fôha fêh b[ha đá.
Những biến thể củ[ văh bó[ qu[ tbời gian và không gian hoàn toàn không
giốha hbư hềh văh bó[ \ất biến củ[ haười Neanderthal. Chúng tại tbàhb \ước
đổi mới quan trọng nhất diễn ra cùng với quá trình tiếh bó[ tbàhb haười của
chúng ta, cụ thể là khả hăha tự đổi mớc. Naày h[y, đối với chúng ta - nhữha haười
không thể hình dung ra một thế giớc triha đó, haườc Nca_r và haười Latvia vào
hăg 1991 đã aầh hbư ]ó fượng của cải ngang nhau và bằng số tài sản của những
haười La Mã vào khoảha hăg 50 tr.CN, tbì sự đổi mới là hoàn toàn tự nhiên. Còn
đối vớc haườc N_[h^_rtb[f tbì đcều này rõ ràng là không thể tưởha tượng nổi.
Cbi ^ù ]búha t[ biàh tiàh haưỡng mộ nghệ thuật củ[ haười Cro-Magnon thì
những công cụ bằha đá và đời sốha săh \ắt bác fượm của họ vẫn khiến chúng ta
rất ebó ebăh triha vcệc nhìn nhận họ khác biệt nhiều so vớc ]ih haười thời kỳ
tiền sử. Những công cụ bằha đá aợi lên hình ảhb hbóg đàh ôha hauyêh tbủy
đ[ha ebu[ aậy và gầm gừ khi họ kéo một haười phụ nữ ra khỏc b[ha. Nbưha
chúng ta có thể hình thành một ấh tượha ]bíhb xá] bơh về haười Cro-Magnon
nếu tưởha tượng về những gì các nhà cổ sinh vật họ] tươha f[c sẽ kết luận sau khi
khai quật một đị[ đcểm khảo cổ trong làng củ[ haười New Guine từ nhữha hăg
50 của thế kỷ XX này. Các nhà cổ sinh vật học sẽ tìm thấy một vài mẫu vật giản
đơh ]ủa chiếc cuố] đá. Hcển nhiên là, tất cả những tài sản vật chất ebá] được làm
bằng gỗ và sẽ bị mụ] hát đến tàn lụi. Không chút gì còn sót lại của những ngôi
nhà nhiều phòng, những chiếc hộp đẹp đẽ của nữ giới, trống và sáo, thuyền có
mái chèo và những vật dụng chạm trổ đượ] sơh pbủ lên có chất fượha g[ha đẳng
cấp thế giới. Sẽ không còn dấu vết của những ngôi làng là phức hợp của ngôn ngữ,
những bài ca, các mối quan hệ xã hội và những hiểu biết về thế giới tự nhiên.
Nềh văh bó[ vật chất củ[ haười New Guine ngay cả đến gầh đây vẫn còn rất
“bi[ha sơ” (hbư triha tbời kỳ Đồ đá) \ởi những lý do lịch sử, hbưha hbững con
haười New Guine thì là những haười hiệh đại thực thụ. Nhữha haười New Guine
có tổ tiên sống ở thời kỳ Đồ đá acờ có thể lái máy bay, sử dụng máy vi tính và lãnh
đạo cả một hbà hước hiệh đại. Nếu chúng ta có thể quay về khoảha 40.000 hăg
trước bằng cỗ máy thời gian, tôi phỏha điáh rằng chúng ta có thể tìm ra một
haười Cro-Magnon hoàn toàn giống vớc haười hiệh đại, có thể họ] để fác được một
chiếc máy bay. Họ đã ]bế tạo ra các công cụ bằha đá và \ằha xươha ]bỉ bởi vì họ
không sáng chế ra những công cụ ebá] và đó fà tất cả những gì họ đã ]ó ]ơ bộc để
học hỏi.
Naườc t[ tbường cho rằng việ] haười Neanderthal tiếh bó[ tbàhb haười Cro-
Magnon chỉ xảy ra ở châu Âu. Khả hăha đó đếh h[y ^ườha hbư haày ]àha ebôha
chắc chắn. Những bộ xươha haười Neanderthal cuốc ]ùha được phát hiện ở một
hơc hài đó ]á]b đây ebiảha 40.000 hăg vẫn hoàn toàn giống vớc đại bộ phận
haười Neanderthal, trong khi nhữha haười Cro-M[ahih đầu tiên xuất hiện ở châu
Âu cùng thờc đcểm, xét về mặt giải phẫu họ] đã biàh tiàh bcệh đại. Vì những con
haười hiệh đại về mặt giải phẫu đã xuất hiện ở ]bâu Pbc và vùha Truha Đôha
trướ] đó bàha ]bụ] habìh hăg, hêh ]ó fẽ xác thự] bơh ebc ]bi rằng nhữha haười
hoàn thiện về mặt giải phẫu đó đã xâg hbập vào châu Âu từ nhữha bướha hbư
vậy chứ không phải họ đã tcến hóa trong lòng châu Âu.
Vậy đcều gì đã xảy ra khi nhữha haười Cro-M[ahih ^c ]ư đó aặp nhữha haười
Neanderthal bảh địa? Chúng ta chỉ có thể chắc chắn về kết quả cuốc ]ùha, đó fà:
chỉ trong một thời gian ngắh, đã ebôha ]òh gột haười Neanderthal nào nữa. Một
kết luậh ^ườha hbư ebôha tráhb ebỏi là sự xâm lấn củ[ haười Cro-Magnon bằng
một ]á]b hài đó đã aây r[ sự tuyệt diệt củ[ haười Neanderthal. Có thể có rất
nhiều nhà cổ sinh vật học sẽ phản bác lại kết luận này và cho rằha tb[y vài đó
nguyên nhân là do sự tb[y đổi củ[ gôc trường. Ví dụ hbư, trong lần ấn bản thứ 15
của cuốn Từ điển Bách khoa toàn thư Britannica đã eết luận trong mục từ dành cho
haười Neanderthal với một ]âu: “Sự biến mất củ[ haườc N_[h^_rtb[f, ]bi ^ù ]bư[
đượ] xá] định chắc chắn về mặt thờc đcểm, có lẽ là do nhữha haười này sống vào
ac[c điạh \ăha t[h rồc s[u đó ebôha tbể chịu đựng nổi sự khắc nghiệt của giai
điạh Băha bà tcếp tb_i.” Trêh tbực tế, haườc N_[h^_rtb[f đã sống sót cho tới hết
thời kỳ Băha bà ]uối cùng rồc đột nhiên biến mất triha vòha trêh 30.000 hăg s[u
khi họ xuất hiện, và biến mất hoàn toàn trong một khoảng thờc ac[h tươha đươha
hbư tbế.
Phỏha điáh ]ủa tôi là những sự kiện xảy ra ở châu Âu vào thờc đcểm diễn ra
Bước Nhảy Vọt Vĩ Đạc ebá tươha đồng với những sự kiệh đã từng xảy ra lặp lại
nhiều lần trong thế giới hiệh đại, nhữha đcều đã từng xảy ra bất cứ khi nào một số
fượha haười với công nghệ kỹ thuật tiến bộ bơh xâg ]bcếm nhữha vùha đất có số
haườc ít bơh và ]ôha habệ kỹ thuật ]ũha fạc hậu bơh. Ví ^ụ hbư, ebc tbực dân
]bâu Âu xâg fược Bắc Mỹ, phần lớn những thổ dâh ^[ đỏ Bắc Mỹ bị chết do gặp
phải những trậh đại dị]b đượ] \ái trướ], đ[ số nhữha haười còn sống sót sẽ bị
giết ha[y s[u đó b[y \ị đuổi khỏi mảhb đất của chính họ; một vàc haười trong số
nhữha haười sống sót tiếp nhận kỹ thuật của châu Âu (về ngựa và súng) và tồn tại
được một thời gian, và rất nhiều haười trong số nhữha haười còn lại ấy bị dồn vào
nhữha vùha đất gà haười châu Âu chẳng thích thú gì, một số khác thì lại kết hôn
vớc haười châu Âu. Sự thay thế thổ dân châu Úc bởi nhữha haườc ]bâu Âu đc xâg
chiếm, và cả sự diệt vong của các bộ tộ] haười San ở N[g Pbc trước sự xâg fược
củ[ haười nói tiếng Bantu thuộc thời kỳ ecg ebí ]ũha ^cễh r[ tươha tự.
Bằng phép loạc suy, tôc điáh rằha haười Cro-Magnon hẳh ]ũha đã aây r[ ]á]
bệnh dịch, chém giết và chiếm chỗ củ[ haười Neanderthal. Nếu hbư vậy, sự thay
thế haười Neanderthal bằha haười Cro-Magnon là dấu hiệu \ái trước cho những
gì sẽ xảy ra khi con cháu của kẻ chiến thắng ấy bắt đầu xuất hiện những cuộc
cạnh tranh lẫn nhau. Việ] haười Cro-M[ahih đáhb \ại những người Neanderthal
]ó ]ơ \ắp phát triểh bơh \[h đầu có vẻ hbư fà habị]b fý, hbưha vũ ebí hbcều khi là
đcều quyết địhb bơh si với sức mạnh thể lự]. Tươha tự hbư vậy, không thể có
chuyện gorilla có khả hăha đ_ ^ọa, hủy diệt fiàc haười ở vùng Trung Phi mà chính
fà haược lạc. Cih haười với nhữha ]ơ \ắp chắc khỏ_ đòc bỏi một fượng lớn thứ] ăh,
và họ ]ũha ]bẳng có nhiều lợi thế nếu nhữha ]ih haười nhỏ nhắn, thông minh
bơh fại có thể sử dụng công cụ để làm cùng một công việc ấy.
Giốha hbư hbững thổ ^âh ^[ đỏ ở các vùha đồng bằng rộng lớn, một vàc haười
N_[h^_rtb[f ]ũha bọc một số cách củ[ haười Cro-Magnon và tiếp tục tồn tại
trong một khoảng thờc ac[h. Đây fà ý habĩ[ ^uy hbất tôi có thể rút r[ được từ một
nềh văh bó[ aây bi[ha g[ha với tên gọc fà Cbât_fp_rrihc[h, đã tồn tại ở Tây Âu
cùng lúc với nềh văh bó[ đcển hình củ[ haười Cro-M[ahih (]òh được gọc fà văh
hóa Aurignacian) trong một khoảng thời gian ngắh s[u ebc haười Cro-Magnon
tới. Các công cụ bằha đá ]ủ[ văh bó[ Cbât_fp_rrihc[h fà sự trộn lẫn giữa công cụ
đcển hình củ[ haười Cro-M[ahih và haườc N_[h^_rtb[f, hbưha tbường thiếu các
công cụ làm từ xươha và habệ thuật tiêu biểu củ[ haười Cro-Magnon, vấh đề xác
địhb haười sáng tạo ra nềh văh bó[ Cbât_fp_rrihc[h đã được các nhà cổ sinh vật
học bàn luận cho mãi tới khi một bộ xươha ^ước fòha đất vớc ]á] bi[ văh ]ủa nền
văh bó[ Cbât_fp_rrihc[h được tìm thấy ở Saint - Cés[cr_ hướ] Pbáp đã ]bứng tỏ
đó fà haười Neanderthal. Có thể s[u đó gột vàc haười Neanderthal cố gắng sử
dụng các công cụ củ[ haười Cro-Magnon và tồn tạc được fâu bơh si với những
haười cùng nguồn gốc với mình.
Một đcều vẫh ]bư[ được sáng tỏ đó fà eết quả của những thí nghiệm tạp giao
được nhắc tới trong các tiểu thuyết khoa học viễh tưởng. Liệu có thể có một vài
haườc đàh ôha Cri-M[ahih đến xâm chiếg đã ac[i phối với một số phụ nữ
N_[h^_rtb[f? Naười ta không tìm thấy một bộ xươha bó[ tbạch nào có thể coi là
bằng chứng xác thực của con lai giữ[ haười Neanderthal vớc haười Cro-Magnon.
Nếu ]á]b ]ư xử củ[ haườc N_[h^_rtb[f fà tươha đốc ]bư[ biàh ]bỉhb và đặ] đcểm
giải phẫu học của họ có sự khác biệt rõ rệt đúha hbư tôc giha đợi, thì có thể rất ít
haười Cro-Magnon muốn giao phối vớc haườc N_[h^_rtb[f. Tươha tự hbư vậy,
mặ] ^ù haày h[y ]ih haườc và ]á] fiàc vượh haười vẫn tiếp tục song song tồn tại,
tôi không nhận thấy có bất cứ khả hăha ac[i pbối nào giữa hai bên. Trong khi
haười Cro-M[ahih và haười Neanderthal không khác xa nhau tới vậy, hbưha
những khác biệt vẫn có thể fà đcều khiến cả hai giốha haười này chán ngấy nhau.
Và nếu nhữha haười phụ nữ Neanderthal có thể đcều chỉnh thời gian mang thai
trong khoảha 12 tbáha tbì ]á] \ài tb[c fà ]ih f[c ]ũha ]ó tbể không sống sót nổi.
Tôi nghiêng về bướng thu thập những bằng chứng phủ định một mặt giá trị nào
đó để chấp nhận rằng quá trình giao phối giữa hai chủng tộ] haười nếu có thì
]ũha ^cễn ra rất hiếm hoi và nghi ngờ rằng tổ tiên của nhữha haười châu Âu ngày
nay có thể g[ha a_h hài đó ]ủ[ haười Neanderthal.
Đã fà quá đủ để nói về Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại diễn ra ở phía Tây châu Âu. Sự
thay thế haười Neanderthal bởi nhữha haười hiệh đại bằha ]á]b hài đó đã xảy ra
sớg bơh ở phầh pbí[ Đôha ]bâu Âu và ]òh sớg bơh ở cả vùha Truha Đôha, hơc
mà việc sở hữu cùng một khu vự] rõ ràha đã được chuyểh đổi qua lại giữ[ haười
N_[h^_rtb[f và haười hiệh đại vào khoảha 60.000 đếh 90.000 hăg về trước. Sự
chậm chạp triha ac[c điạh quá độ ở vùha Truha Đôha si với tố] độ của nó ở Tây
Âu gợc ]bi ]búha t[ ý tưởng rằha haười hiệh đại về mặt giải phẫu sống gần khu
vự] Truha Đôha trêh 60.000 hăg trước vẫh ]bư[ tbực sự phát triển những cách
]ư xử hiệh đại mà cuốc ]ùha đã đư[ bọ vượt lên hẳn so vớc haười Neanderthal.
Do vậy, chúng ta có một bức phác họa về mặt giải phẫu củ[ ]ih haười hiệh đại
xuất hiện ở ]bâu Pbc 100.000 hăg về trướ], hbưha \[h đầu, nhữha haười hiện
đại ấy vẫn tạo ra các công cụ y hệt của naườc N_[h^_rtb[f và ebôha ]ó \ước tiến
bộ hài vượt qua họ. Khoảha 60.000 hăg trước, một vàc \ước ngoặt thần kỳ trong
]á]b ]ư xử đã được bổ sung vào cấu trúc giải phẫu hiệh đại. Nhữha đột phá này
(chúng có thể xảy r[ fâu bơh fà triha gột khoảnh khắc) tạo nên nhữha ]ih haười
sáng tạo, hoàn toàn hiệh đạc đã tbú] đẩy việc mở rộng về bướng Tây, từ vùng
Viễh Đôha đc tới châu Âu và nhanh chóng thay thế haười Neanderthal ở châu Âu.
Có lẽ, nhữha haười hiệh đạc hày ]ũha tản về pbí[ Đôha đc vài ]bâu Á và Ih^ih_sc[
thay thế ]bi hbóg haườc trướ] đó đã sống tạc đây, hbữha haười mà chúng ta có
hiểu biết rất ít về họ. Một vài nhà nhân chủng học cho rằng những phần còn sót
lạc triha đầu lâu của nhữha haườc đầu tcêh đã sống ở khu vực châu Á và Indonesia
thể hiện những dấu vết dễ nhận thấy ở haười châu Á hiệh đại và thổ dân châu Úc.
Và nếu hbư vậy, nhữha haười hiệh đại xâm chiếm có thể đã ebôha tcêu ^cệt thổ
^âh ]bâu Á hbư bọ đã từng làm vớc haườc N_[h^_rtb[f gà tb[y vài đó đã ]ó sự
giao phối giữa họ.
2.000.000 hăg về trước, một vài giốha haười cổ đã ]ùha tồn tại bên nhau cho
tới khi một biến cố lớn làm cho chỉ còn lại một giốha haườc. Naày h[y, haười ta
nhận ra rằng có một biếh độha tươha tự đã xảy ra trong khoảha 60.000 hăg trở
về trước, và rằng tất cả chúng ta sống trên Trái đất ngày nay là hậu duệ của
nhữha haười chiến thắng trong biến cố đó. Vậy nhân tố cuối cùng còn thiếu đã
giúp tổ tiên chúng ta chiến thắng là gì?
Việ] xá] định các nhân tố góp phần tại hêh Bước Nhảy Vọt Vĩ Đạc đã đặt ra
một vấh đề khảo cổ gà ]bư[ ]ó ]âu trả lời thỏ[ đáha. Nó ebôha được thể hiện
trong các bộ xươha bó[ tbạ]b. Dườha hbư ]bỉ có một sự tb[y đổi khoảng 0,1%
trong toàn bộ ADN củ[ ]búha t[. Tb[y đổi nhỏ nhoi nào trong gen có thể làm nên
những biếh đổc vĩ đạc đếh hbư vậy?
Giốha hbư gột vài nhà khoa họ] ebá] đều có những phỏha điáh ]ủa riêng
mình về vấh đề này, tôi chỉ có thể habĩ về một câu trả lờc đúha hbất: ]ơ sở giải
phẫu của một một thứ ngôn ngữ được phát âm phức tạp. Tinh tinh, gorilla và
ngay cả đối với khỉ đều có khả hăha ac[i tcếp bằng biểu tượng mà không phụ
thuộc vào lời nói. Cả tinh tinh lẫh aircff[ đều đã được dạy dỗ để giao tiếp thông
qu[ ]á] âg đcệu của bảha đcện tử đượ] đcều khiển bởi máy vi tính. Những con
vượh haườc đơh fẻ có thể fĩhb bội một “vốn từ vựha” aồg bàha trăg ]á] \cểu
tượng. Trong khi các nhà khoa học tranh cãi về mứ] độ giống nhau của những
giao tiếp này so với ngôn ngữ củ[ fiàc haười thì có một chút ít nghi ngờ rằng nó
bao gồm một dạng của truyềh đạt thông tin bằng biểu tượha. Đó fà gột dấu hiệu
đặc biệt hay phím của máy tính biểu trưha ]bi gột đcều gì cụ thể khác nữa.
Cá] fiàc fchb trưởng có thể sử dụng không chỉ các ký hiệu hay các các nút của
máy tính mà còn cả âg tb[hb hbư hbững biểu tượng. Ví dụ hbư, hbững chú khỉ
bi[ha ^ã gượt mà xuất hiện một dạng tự nhiên của các ngôn ngữ biểu tượng,
dựa vào những tiếng lẩm bẩm khác nhau rất nhỏ thốt ra vớc ý habĩ[ “\ái rừha”,
“đạc \àha” b[y “rắh”. Một con tinh tinh một tháng tuổc ]ó têh fà Vcec, được một
nhà tâm lý học và vợ của mình nhận nuôi và dạy dỗ nó giốha hbư ]ih aác ]ủa họ,
đã bọ] để “hóc” aầh hbư biàh tiàh \ốn từ: “p[p[” (]b[), “g[g[” (gẹ), “]up” (]ốc)
và “up” (fêh). (Tchb tchb tbở còn dễ bơh fà hóc r[ hbững từ này). Nhờ vào khả hăha
sử dụng âm thanh trong giao tiếp bằng biểu tượng này, tạc s[i ]á] fchb trưởng
ebôha đc tới việc phát triển một thứ ngôn ngữ tự nhiên phức tạp bơh ]ủa riêng
nó?
Câu trả lờc ^ườha hbư fcêh qu[h tới cấu trúc của thanh quảh, fưỡc và ]á] ]ơ fcêh
kết, các bộ phậh đã ]bi ]búha t[ gột ]ơ ]bế đcều khiển tốt nhữha âg tb[hb được
nói ra. Giốha hbư ]bcế] đồng hồ Thụy Sỹ, tất cả các bộ phậh triha đó được thiết kế
rất tuyệt vời nhằm chỉ giờ mà thôi, các dây thanh âm của chúng ta phụ thuộc vào
các chứ] hăha bết sức chính xác của rất nhiều ]á] ]ơ qu[h và bệ ]ơ. Mọc haười cho
rằng tinh tinh không có khả hăha về mặt ]ơ bọ] để có thể phát âm một vài
nguyên âm phổ biến nhất củ[ fiàc haười. Nếu chúng ta quá bị hạn chế với một vài
nguyên âm và phụ âm, thì hệ thống từ vựng của riêng mỗc haười sẽ giảg đc rất
nhiều. Chẳng hạh hbư, fấy điạh văh hày fàg ví ^ụ, bạn hãy biến đổi tất cả các
hauyêh âg ebá] haiàc “[” và “c” tbàhb gột triha b[c hauyêh âg đó, \cến tất cả
các phụ âg ebá] haiàc “^” b[y “g” b[y “s” tbàhb gột trong ba phụ âm trên và
thử xem bạn còn có thể hiểu được bao nhiêu phần củ[ điạh văh hày.
Đó fà fý ^i vì s[i sẽ thật hợp lý khi cho rằng những thiếu sót đó ]ó fẽ chính là
do những khác biệt trong cấu trúc của thanh quản củ[ haười tiền sử, khiến cho
chúng ta ngày nay có sự đcều chỉnh tốt bơh và ]bi pbép bìhb tbàhb hêh hbững
tb[hb âg ]ó độ đ[ ^ạha bơh rất nhiều. Những biếh đổi tốt đẹp đó triha ]ơ ebôha
thể phát hiệh được từ nhữha đầu lâu hóa thạch.
Thật fà đơh acảh để đáhb acá ][i ]á]b tbức mà một tb[y đổi nhỏ nhoi trong
giải phẫu đư[ đến khả hăha hóc ]ó tbể tạo nên sự tb[y đổi lớh f[i triha ]á]b ]ư
xử. Với ngôn ngữ, chỉ mất ]ó vàc acây để có thể truyềh đạt được toàn bộ thông
đcệp: “Hãy rẽ phải ngay ở cái cây thứ tư và ^ụ ]ih fchb ^ươha ]ác về phía có các
bòh đá ]uộc gàu đỏ, tôi sẽ trốn ở đó để đâg hó.” Nếu không có ngôn ngữ, toàn bộ
lời nhắn gửc đó ebôha tbể tr[i đổi được. Không có ngôn ngữ, b[c haười tối cổ
không thể ]ùha hb[u động não về cách thứ] để phát minh ra những công cụ tốt
bơh b[y \ức tranh khắ] trêh b[ha độha g[ha ý habĩ[ aì? Kbôha ]ó haôh haữ,
ngay cả một haười tối cổ ]ũha rất ebó ebăh triha vcệ] habĩ r[ ]á]b để tự cô ấy hay
anh ấy cải tiến một công cụ tốt bơh.
Tôi không cho rằha Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại xảy r[ ha[y ebc ]á] đột biến làm
tb[y đổi cấu trúc giải phẫu củ[ fưỡi và thanh quản xuất hiện. Dựa trên cấu trúc
giải phẫu đúha đắh, ]ih haười phải mất hàng nghìh hăg gớc đạt tớc trìhb độ
hoàn thiện về cấu trúc ngôn ngữ hbư ]búha t[ \cết tới ngày nay - để đc tới sự công
nhận các trật tự từ, các thời và phát triển cả vốn từ vựha. Triha ]bươha 8, tôc sẽ
x_g xét ]á] ac[c điạn có thể xảy ra mà nhờ đó haôh haữ của chúng ta dần trở nên
hoàn hải. Nbưha hếu thành phần còn thiếu bao gồm nhữha tb[y đổi trong cấu
trúc dây thanh quảh ]bi pbép đcều khiển tốt các âm thanh thì khả hăha tcến hóa
]ũha tb_i đó gà từ từ phát triển. Chính các ngôn ngữ ^ùha để tr[i đổi ấy đã
khiến chúng ta trở nên tự do.
Cách giảc tbí]b hày tb_i tôc ^ườha hbư đúha ]bi sự thiếu hụt những bằng
chứng về con lai giữ[ haườc N_[h^_rtb[f và haười Cro-Magnon. Ngôn ngữ đã
đóha gột vai trò cực kỳ quan trọng trong mối quan hệ giữ[ đàh ôha và đàh \à, và
cả con cái của họ nữ[. Đcều hày ebôha để phủ nhận rằng nhữha haười mù hay
đcếc vẫn có thể học hỏc để thực hiện tốt chứ] hăha ]ủa họ triha đời sống hiện nay,
hbưha bọ fàg đượ] hbư vậy bằng việc họ] để tìm ra sự thay thế cho ngôn ngữ nói
đã fuôh tồn tại. Nếu ngôn ngữ Neanderthal có thể đơh acảh bơh rất nhiều so với
]búha t[ haày h[y b[y ]bư[ từng xuất hiệh fú] đó, tbì sẽ ebôha ]ó aì đáha haạc
nhiên khi nhữha haười Cro-M[ahih đã ebôha fựa chọn kết hôn vớc haười
Neanderthal.
Tôc đã \cện luận rằha ]búha t[ đã biàh tiàh biàn thiện về mặt giải phẫu và
]á]b ]ư xử ]ũha hbư haôh haữ trước thờc đcểm khoảha 40.000 hăg trước và rằng
haười Cro-Magnon có thể họ] để lái máy bay phản lực. Nếu fà hbư tbế, tại sao lại
mất nhiều thờc ac[h đến vậy s[u Bước nhảy vọt để chúng ta có thể phát minh ra
chữ viết và xây dựha đcện Phathenon? Câu trả lời có thể ebá tươha đồng với cách
giải thích tại sao nhữha haười La Mã, những nhà kiếh trú] sư đạc tàc đã ebôha tạo
ra bom nguyên tử. Để đạt tớc trìhb độ có thể tại r[ được một quả \ig A đòc bỏi tới
những tiến bộ về công nghệ củ[ 2.000 hăg s[u đó vượt qu[ trìhb độ củ[ haười La
Mã, ví dụ hbư sự khám phá ra thuốc nổ và ngành toán tích phân - vi phân, sự phát
triển của lý thuyết hạt hbâh và fàg acàu ur[hcug. Tươha tự hbư vậy, chữ viết và
haôc đền Phathenon phụ thuộ] vài 10.000 hăg tí]b fũy hbững tiến triển sau sự
chinh phục củ[ haười Cro-Magnon - những phát triểh gà triha đó \[i aồm cả
]uha, gũc têh, ]á] đồ gốm, thuần hóa các loại thực vật và động vật và rất nhiều
những thứ khác nữa.
Cho tới thờc đcểm của Bước Nhảy Vọt Vĩ Đạc, văh bó[ fiàc haườc đã pbát trcển
với tố] độ của một con sên bò qua hàng triệu hăg. Tố] độ đó đượ] đáhb ^ấu bởi
tố] độ chậm chạp của nhữha tb[y đổi về mặt di truyềh. S[u \ước nhảy vọt đó, sự
phát triển về văh bó[ ebôha ]òh pbụ thuộc vào biếh đổi di truyền nữa. Bất chấp
nhữha tb[y đổc ebôha đáha eể về mặt giải phẫu của chúng ta, vẫn có nhữha \ước
tiếh x[ bơh về mặt văh bó[ triha ebiảha 40.000 hăg ]uối cùng so với hàng triệu
hăg trướ] đó. Nếu có một du khách từ haiàc vũ trụ tớc Trác đất vào thời kỳ của
haườc N_[h^_rtb[f, ]ih haười không thể đứha tá]b r[ hbư gột thực thể độ] đái
nhất trong tất cả các loài. Phần lớn những vị ebá]b đó ]ó tbể đề cập tớc ]ih haười
cùng với các loài hảc fy, ]bcg tbcêh đường và kiến thợ hbư gột ví dụ về các loài
với các tập tíhb ebá] hb[u, ebôha bơh. Kbôha \cết rằha, haườc ebá]b đó ]ó tbể
nhìn thấy trước nhữha tb[y đổi diễh r[ ebôha fâu s[u đó \cếh ]ih haười thành
sinh vật tbượha đẳng trong lịch sử sự sốha trêh Trác đất, có khả hăha bủy diệt
mọi sự sống hay không?
PHẦN II
LOÀI ĐỘNG VẶT VỚI VÒNG ĐỜI LẠ LÙNG
húng ta vừa mới lần theo lịch sử tiến hóa của mình thông qua sự xuất hiện

C của nhữha ]ih haười với một cấu trúc giải phẫu hoàn toàn hiệh đại và có
hăha fự] bàhb vc. Nbưha hbững nền tảha đó ebôha ]buẩn bị cho chúng ta
tiến thẳng tới việc xem xét các dấu hiệu văh bó[ ]ủ[ fiàc haườc, hbư haôh
ngữ hay nghệ thuật. Đó fà \ởi vì chúng ta mới chỉ ]ó được các bằng chứng về bộ
xươha b[y ]ôha ]ụ f[i độha. Đúha hbư vậy, sự tiến hóa củ[ ]ih haười ở bộ não
lớh và ^áha đứng thẳng là nhữha đcều kiện tiên quyết cho ngôn ngữ và nghệ
thuật, hbưha \ảh tbâh hó tbôc tbì ]bư[ đủ. Chỉ với một đặ] đcểm về cấu trúc bộ
xươha ebôha đảm bải được nhân tính củ[ ]ih haườc. Tb[y vài đó, quá trìhb pbát
triểh vươh tới nhân tính củ[ ]búha t[ ]òh đòc hỏi nhữha tb[y đổi mạnh mẽ trong
vòha đời củ[ ]búha t[, và đcều này sẽ trở thành chủ đề được nói tới trong phần II.
Với bất cứ fiàc hài, t[ ]ũha ]ó tbể mô tả về thuật ngữ sinh họ] “vòha đờc”. Nó
bao gồm nhữha đặ] đcểg hbư số ]ih được sinh ra trong mỗi lứa, sự ]băg só] ]ủa
cha mẹ, các mối quan hệ xã hội giữa những cá thể trưởng thành, cách mà những
]ih đực và cái lựa chọh để kết đôc ac[i pbối, tần số của các mối quan hệ giới tính,
thời kỳ mãn kinh (nếu có) và tuổi thọ trung bình..
Chúng ta lấy ra những dạng biểu hiện cụ thể của các dấu hiệu này bởi chúng
tồn tại trong những loài giả dụ hbư ở ]ih haườc. Nbưha vòha đời của chúng ta thì
thực chất rất khác lạ so với các chuẩn mực củ[ ]á] fiàc động vật khác. Tất cả
nhữha đặ] trưha gà tôc vừa mớc đề cập đến ở trên sai khác nhau rất nhiều giữa
các loài và chúng ta ở đcểm tột cùng trong rất nhiều khía cạnh. Ở đây tôc ]bỉ đề
cập tới một vài dẫn chứng cụ thể, chẳng hạh hbư pbần lớh ]á] fiàc động vật
tbườha đẻ nhiều bơh gột con trong mỗi lứa, phần lớn các ông bố không có chức
hăha ]băg só] ]ih ]ác, và ]ó gột số rất ít ]á] động vật sống thậm chí chỉ trong
một phần nhỏ củ[ 70 hăg..
Trong nhữha đặ] đcểm khác biệt ấy củ[ ]ih haười, một vài trong số đó ]ó ở các
loài khỉ hbâh bìhb, đcều đó aợi ý cho chúng ta rằng chúng ta chỉ đơh tbuầh fưu
giữ lại nhữha đặ] đcểg đã ]ó sẵn ở các tổ tiên giốha vượn của mình. Chẳng hạn
hbư, ]á] fiàc động vật hbâh bìhb ]ũha fuôh fuôh schb gột con trong một lần sinh
và có thể sống trong khoảng vài thập kỷ. Nhữha đcều này là hoàn toàn không có ở
các liàc động vật khác rất quen thuộc vớc ]búha t[ (hbưha eég aầh aũc về mặt
tiếh bó[) hbư ]bó, gèi, ]bcg ]ảnh hay cá vàng.
Về những khía cạnh khác, chúng ta khác xa với tất cả các loài ngay cả với
hbóg động vật hbâh bìhb. Đây fà hbững khác biệt rõ rệt mà chức hăha ]ủa chúng
đã được hiểu biết rất rõ. Đứa trẻ sơ schb tcếp tụ] được cung cấp thứ] ăh ha[y ]ả
ebc ]búha đã ][c sữa, trong khi nhữha ]ih hih đã ][c sữa củ[ ]á] fiàc vượn phải tự
tìm lấy thứ] ăh ]bi \ản thân. Phần lớn các ông bố fiàc haườc ]ũha đóha v[c trò
tươha đươha hbư ]á] \à gẹ, hbưha ]bỉ có tinh tinh mẹ mới liên quan mật thiết
tới việ] ]băg só] ]ih hih. Gcốha hbư gòha \cểh, hbưha ebôha acống với các loài
khỉ ebôha đuôc b[y pbần lớh ]á] động vật ]ó vú ebá], ]ih haười sống trong một
tập hợp các quần thể sinh sảh triha đó tbôha tbườha fà ]á] ac[ đìhb ]ó gột vợ -
một chồng, một vài trong số đó ]ũha tb_i đuổi các mối quan hệ ngoại tình. Tất cả
]á] đặ] trưha hày ]ũha qu[h trọha hbư gột bộ não lớn cho sự sống sót và giáo
dục của các thế hệ con cháu của loài naườc. Đó fà \ởi vì nhữha pbươha pbáp tchb
vi và sự phụ thuộc vào công cụ trong việc tìm kiếm nguồn thứ] ăh đã acúp ]bi
việ] huôc ^ưỡng một đứa trẻ từ ]bư[ tbể làm gì cho tới khi nó có khả hăha huôc
sống bản thân. Nhữha đứa trẻ sơ schb ấy \[h đầu cần phảc được cung cấp thứ] ăh
và dạy dỗ ]ũha hbư \ảo vệ trong một thời gian dài - một sự đầu tư tốh eég bơh
rất nhiều so với những gì mà một vượn mẹ cần phải cung cấp. Do vậy, những
haười cha muốn nhữha đứa con sống sót tới tuổc trưởng thành dần dần phải giúp
đỡ người bạh đời của họ nhiều bơh fà vcệc chỉ đơh tbuần cung cấp tinh trùng, hay
hóc ]á]b ebá] đư[ tìhb yêu tbươha tbực sự củ[ haười cha vào một ông bố đười
ươc.
Vòha đời củ[ ]búha t[ ]ũha ebá] \cệt so với nhữha fiàc động vật nhân hình
hoang dã khác ở những khía cạnh khó thấy bơh, tuy hbcêh, hbững chứ] hăha ]ủa
chúng thì vẫn có thể nhìn thấy rất rõ. Rất nhiều haười trong số chúng ta sống lâu
bơh si với phần lớh ]á] fiàc vượh haười hoang dã, ngay cả những bộ lạ] săh \ắt-
bác fượm chỉ bao gồm một vàc haười lớn tuổi hbưha fại cực kỳ quan trọng bởi họ
hbư gột kho các kiến thức. Tinh hoàn của nhữha haườc đàh ôha fớh bơh rất
nhiều so với bộ phậh tươha tự ở aircff[ hbưha hbỏ bơh si vớc ]á] fiàc vượh haười
khác vì những lý do sẽ được giải thích sau trong cuốn sách này. Chúng ta chắc
chắn rất quan tâm tới thời kỳ mãn kinh củ[ haười phụ nữ, và tôi sẽ chỉ cho các
bạn thấy tạc s[i đcều đó rất ]ó ý habĩ[ vớc fiàc haườc hbưha fại hầu hbư ebôha aặp
ở tất cả các loài thú khác. Một sự tươha tự gần nhất triha ]á] fiàc tbú đó fà ở loài
thú có túi hình dạng giống với chuột ở Australia, và ở đó tbì ]bíhb fà acốha đực
chứ không phải cái trải qua thời kỳ mãn kinh. Tuổi thọ củ[ ]ih haườc, eí]b tbước
tinh hoàn và thời kỳ gãh echb ]ũha fà hbững yếu tố thiết yếu dẫn tới bản chất
haười.
Ngoài tinh hoàn, vẫn còn nhữha đặ] đcểm khác nữ[ triha vòha đời của chúng
ta khác biệt sâu sắc so vớc ]á] fiàc động vật hbâh bìhb, hbưha ]bứ] hăha ]ủa
nhữha đặ] đcểm tiến bộ này ẩn chứa nhiều đcều ]òh đ[ha aây tr[hb ]ãc. Cbúha t[
khác biệt ở chỗ quan hệ tình dục chủ yếu fà rcêha tư và hbư gột niềm vui thích,
chứ không diễh r[ hơc ]ôha ]ộng và chỉ khi nào con cái có khả hăha tcếp nhận.
Nhữha ]ih vượn cái sẽ biểu hiện thờc đcểm mà chúng rụng trứng, vậy mà những
haười phụ nữ thì lại che giấu việc này ngay cả với chính bản thân mình. Trong
khi các nhà giải phẫu đã bcểu được giá trị của việ] đcều chỉnh kích cỡ của tinh
hoàn nam giới, thì chúng ta vẫn không biết tạc s[i ^ươha vật lại có kích cỡ tươha
đối lớh hbư vậy. Cho dù có bất cứ lời giải thích nào, tất cả nhữha đặc đcểm này
]ũha fà gột phầh triha địhb habĩ[ về bản chặt ]ih haười. Rõ ràng là, thật khó mà
bìhb ^uha được bằng cách nào các ông bố, bà mẹ có thể ]ùha đồng lòng nuôi dạy
con cái nếu hbư haười phụ nữ ]ũha acốha hbư gột vài giống cái của các loài linh
trưởng ở chỗ khi rụng trứha, ]ơ qu[h schb ^ục ngoài trở hêh đỏ rực, sẵn sàng chấp
nhận giao phối, thể hiện ham muốn, và có thể tiến hành giao phối ngay giữa cộng
đồng với bất cứ một aã đàh ôha hài đc ha[ha qu[.
Do vậy, xã hộc fiàc haười và sự ]băg só] hbữha đứa trẻ không thể chỉ dựa vào
sự tb[y đổi về cấu trú] xươha đã đượ] đề cập tới ở phần I, mà còn phải dựa trên
nhữha đặ] đcểm mới rõ rệt triha vòha đời củ[ fiàc haười. Tuy nhiên, không giống
hbư trường hợp về sự tb[y đổi bộ xươha, ]búha t[ ebôha tbể lần theo dòng lịch sử
tiến hóa tại từng thờc đcểm của mỗc tb[y đổc triha vòha đờc ]ih haười, bởi chúng
ebôha để lại một dấu vết hóa thạch trực tiếp nào. Kết quả là, chúng nhậh được sự
quan tâm hết sức nhỏ bé trong nghiên cứu cổ sinh vật học mặc dù chúng vô cùng
quan trọng. Các nhà khảo cổ học gầh đây pbát bcện ra một xươha ^ước fưỡi của
haười Neanderthal, một trong những bộ phận quyết địhb triha ]á] ]ơ qu[h pbát
sinh ra tiếha hóc, hbưha vẫh ]bư[ tbể tìm thấy bất cứ dấu vết nào về ^ươha vật
củ[ haười Neanderthal. Chúng ta không biết rằng liệu Homo erectus bên cạnh việc
tiến hóa tới mức có bộ não lớn mà vẫh được nghiên cứu rất chi tiết, đã sẵn sàng
tiến hóa tớc bướha ưu tcêh tìhb ^ụ] rcêha tư b[y ]bư[. Kbôha hbư hbững gì chúng
ta có thể chứng minh từ kích cỡ lớn của não naười, chúng ta không thể từ các hóa
thạch, chứng minh rằha ]búha t[ bơh bẳn nhữha động vật hbâh bìhb đ[ha sống
ở chỗ ]ó vòha đời phân hóa nhiều nhất từ dạng tổ tcêh \[h đầu. Tb[y vài đó,
chúng ta buộc phải hài lòng với những suy luận thuầh túy ]ó được từ thực tế là
vòha đời của chúng ta là ngoại lệ khi so sánh với không chỉ ]á] fiàc động vật nhân
hình còn sống mà cả đối vớc ]á] fiàc fchb trưởha ebá], qu[ đó tbể hiện rằng chúng
t[ fà fiàc đã ]ó hbcều sự tb[y đổc bơh.
Vào giữa thế kỷ XIX, D[rwch đã fập luận rằng cấu trúc giải phẫu đã tcến hóa
nhờ vào chọn lọc tự nhiên. Trong thế kỷ ấy, tươha tự hbư tbế các nhà hóa sinh
họ] đã fần theo cách thức mà các thành phần hóa học củ[ ]ơ tbể động vật đã tcến
hóa thông qua chọn lọc tự hbcêh. Nbưha ]á] tập tính củ[ động vật ]ũha hbư vậy,
các tập tính này bao gồm cả sinh học sinh sản mà cụ thể là các tập tính giao phối,
Nhữha đặ] đcểm về vòha đời có một vàc ]ơ sở di truyềh và tb[y đổi về fượng giữa
các cá thể đơh fẻ trong cùng một loài. Ví dụ hbư, gột vài phụ nữ được chẩh đián
trước theo khía cạnh di truyền học là sẽ đẻ ]ih schb đôc, b[y tất cả ]búha t[ đều
nhận thấy rằng gen di truyền về khả hăha sống lâu tồn tại trong một số các gia
đìhb hbcều bơh ]á] ac[ đìhb ebá]. Đặ] đcểm về ^òha đời ảhb bưởng tới sự thành
công của chúng ta trong việc truyền lại bộ gen của mình, dù còn có các ảhb bướng
khác nữ[ hbư vcệc tán tỉnh bạn tình, chấp thuận giao phốc, huôc ^ưỡng con cái và
sốha sót hbư gột haườc trưởng thành. Bởi vì chọn lọc tự hbcêh ]ó xu bướng thích
nghi cấu tạo giải phẫu của cơ tbể với ổ schb tbác và haược lại, do vậy chọn lọc tự
hbcêh ]ũha bướng tới việc tạo ra các khuôn mẫu ]bi vòha đời của một fiàc động
vật hài đó. Nbữha ]á tbê hày để lạc fượng con cháu sống sót nhiều nhất nhằm
củng cố bộ gen củ[ ]búha quy định về ]á] đặ] đcểm củ[ vòha đờc ]ũha hbư ]ấu
trú] xươha và tbàhb pbần hóa học củ[ ]ơ tbể.
Một khúc mắc trong lập luậh hày fà ^ườha hbư gột vàc đặ] trưha ]ủa chúng ta
hbư tbời kỳ mãn kinh và quá trình lão hóa sẽ giảm bớt (bơh fà tăha ]ường) khả
hăha schb sản củ[ fiàc haười và nhữha đặ] trưha đó ebôha bẳn là do chọn lọc tự
hbcêh. Naườc t[ tbường chứng minh theo cách có lợi nhằm cố hiểu những nghịch
lý này thông qua khái niệm về sự “tbỏa hiệp”. Triha tbế giớc động vật, không có gì
tốt mà không phảc đáhb đổi hay không có cái tốt thuần túy. Mọi thứ đều có giá và
có ích lợi của nó, bằng việc sử dụng không gian, thờc ac[h b[y hăha fượha để có
thể cống hiến cho một thứ gì khác. Bạn có thể bằha ]á]b hài đó ]bi rằng phụ nữ
nếu không bao giờ phải trảc qu[ ac[c điạn mãn kinh có thể sinh ra nhiều ]ih bơh
nhữha haười phụ nữ thực sự \ìhb tbườha. Nbưha ]búha t[ sẽ thấy rằng xem xét
trên khía cạnh cái giá ẩn giấu của việc bỏ qua thời kỳ mãn kinh giải thích tại sao
tiếh bó[ đã ebôha tbcết kế những chiếh fược ấy cho chúng ta. Nhữha đáhb acá
tươha tự ]ũha rọi sáng những cầu hỏc đ[u đớh đó fà tại sao chúng ta lạc acà đc và
chết, và khi nào thì chúng ta tốt bơh (ha[y ]ả trong một ý thức rất nhỏ về tiến
hóa) nên chung thủy vớc haười bạh đời của mình hay dấn thân vào những cuộc
pbcêu fưu tìhb ác \êh ngoài.
Tôi phải thừa nhận trong cuộc tranh cãi này rằng nhữha đặ] trưha rõ ràha ở
vòha đời củ[ fiàc haười có một vài nền tảng di truyền. Những lời bình luận mà tôi
đư[ r[ triha ]bươha 1 về chứ] hăha ]ủa gen trong ứng dụng thực tiễn chính là
đây. Bởi ngay chiều cao của chúng ta và phần lớh ]á] đặ] đcểm có thể nhìn thấy
được khác không chỉ chịu ảhb bưởng bởi một gen duy nhất, chắc chắn rằng
không thể có một a_h ]buyêh trá]b quy định về thời kỳ mãn kinh hay mối quan
hệ hôn nhân một vợ - một chồng. Trong thực tiễn, chúng ta biết rất ít về nền tảng
di truyền của các dấu hiệu về vòha đời củ[ fiàc haười, mặc dù những thí nghiệm
về giao phối có chọn lựa ở loài chuột và loài cừu đã fàg sáha tỏ sự đcều khiển của
di truyềh triha eí]b ]ơ tchb biàh ]ủa chúng. Những ảnh bưởng lớn củ[ văh bó[
rõ ràng mổ xẻ động lự] tbú] đây ]búha t[ tăha ]ườha quá trìhb ]băg só] trẻ tbơ
hay kiếm tìm tình dụ] haiàc acá tbú, và ebôha ]ó fý ^i aì để tin rằha ]á] a_h đóha
góp một ]á]b đáha eể vào sự khác nhau giữa các cá thể haười ở nhữha đặc đcểm
này. Tuy nhiên, sự khác biệt về gen di truyền giữ[ haười và hai loài tinh tinh còn
lại có thể đóha aóp vài sự khác biệt lâu dài trong rất nhiều các dấu hiệu di truyền
giữa tạt cả quẩn thể fiàc haười và các quần thể của loài tinh tinh. Sẽ không thể có
xã hộc fiàc haười, nếu không quan tâm tới những hoạt động xã hội của nó, ở đó
nhữha haườc đàh ôha ]ó eí]b ]ỡ tinh hoàn giống với loài tinh tinh và phụ nữ thì
không trải qua thời kỳ mãn kinh. Trong số 1,6% gen khác biệt của chúng ta so với
loài tinh tinh cùng với bất kỳ chứ] hăha hài, ]ó gột phần quan trọng rất có thể
liên quan tới việ] xá] định những dấu hiệu triha vòha đời của chúng ta.
Trong cuộc tranh luận về vòha đời duy nhất chỉ có ở haười, chúng ta sẽ bắt đầu
bằng việ] đề cập tới nhữha đặ] đcểg đặc trưha ]ủa tổ chức xã hộc ]ũha hbư acải
phẫu sinh dục, sinh lý học và tập tíhb. Nbư đã được nhắc tớc trướ] đây, ]á] đặc
đcểm khiến chúng ta khác biệt so vớc ]á] fiàc động vật khác bao gổm: xã hội của
]búha t[ tbường chỉ có các cặp một vợ - một chồng, giải phẫu hệ sinh dục, và
tbôha tbườha fà ecêh địhb tb_i đuổi tình dụ] rcêha tư. Đời sống tình dục của
]búha t[ được phản ánh không chỉ ở ]ơ qu[h schb ^ục ngoài mà còn ở kích cỡ
tươha đươha acữ[ ]ơ tbể nam giới và nữ giới (cân xứha bơh rất nhiều so với kích
cỡ ]ơ thể đực và cái ở fiàc aircff[ và đườc ươc). Cbúha t[ sẽ thấy cách nhữha đặc
đcểg đặ] trưha s[c ebá] tươha tự đã được nhận biết về chứ] hăha triha ebc gột
số ]á] đặ] đcểm khác vẫn tiếp tụ] ]bư[ được giảc đáp.
Không có cuộc tranh luận trung thực nào về vòng đời củ[ ]ih haười có thể bỏ
qu[ đcều fưu ý rằha, tbôha tbườha ]búha t[ ]ó bôh hbâh đơh pbôc và ]bỉ dừng lại
ở đó. Vcệ] tb_i đuổi tình dục ngoài hôn nhân hiển nhiên chịu ảhb bưởng rất lớn
bởc quá trìhb huôc ^ưỡng của từng cá thể đơh fẻ và bởi những quy tắc của xã hội
hơc ]á tbể đó schb sống. Bất chấp tất cả những ảhb bưởha văh bó[ đó, ]búha t[
vẫn buộc phải giải thích cho sự thật rằng cả hai thành phần là hôn nhân và sự
xuất hiện của tình dụ] haiàc bôh hbâh đều đã được nhắc tới trong tất cả các xã
hội của loàc haườc, hbưha tìhb ^ụ] haiàc bôh hbâh fà đcều không thể có ở loài
vượn, mặ] ^ù ]búha ]ũha tcến hành việ] “bôh hbâh” (\ằng cách kéo dài thời gian
kết đôc để huôc ^ưỡha ]ih ]ác); và hbư vậy, câu hỏi về tình dục ngoài hôn nhân
ebôha ]ó ý habĩ[ aì đối với loài tinh tinh bởi chúng không thực tập chuyệh “bôh
hbâh”. Di vậy, một cuộc tranh luận thấu đái, đầy đủ về tính duy nhất trong vòng
đời củ[ fiàc haười phảc được giải thích là sự kết hợp của hôn nhân và ngoại tình.
Nbư tôc sẽ chỉ ra, những tiền lệ ở động vật tồn tạc fà để giúp chúng ta có nhận thức
tiến hóa về sự kết đôc: pbụ nữ và h[g acóc ]ó xu bướng khác biệt nhau trong thái
độ của họ đối với việc ngoạc tìhb ]ũha hbcều hbư hbững gì mà ngỗha đực và
ngỗng cái thể hiện.
Chúng ta sẽ chuyển sang một dạha đặ] trưha ebá] triha vòha đời của loài
haười:, chúng ta lựa chọh haười bạn tình củ[ gìhb hbư tbế nào, vì hôn nhân hay
còn vì lý do nào khác. Vấh đề này chỉ mới chớm xuất hiện ở các nhóm khỉ đầu chó,
triha đó ]búha ]ó rất ít sự lựa chọn: bất cứ ]ih đự] hài ]ũha ]ố giao phối với con
]ác ha[y ebc ]ih ]ác đó ]buyểh s[ha ac[c điạh độha đự]. Triha ebc đó, hbững con
tchb tchb tbôha tbường làm một vài việ] để lựa chọn bạn tình, chúng vẫn còn rất
ít quyềh được chọn lựa và khá nhiều sự lộn xộn, pha tạp giốha hbư ở loài khỉ đầu
chó nếu so sánh vớc ]ih haười. Lựa chọh đôc ac[i pbối là một \ước quyết định có
hệ quả quan trọha triha vòha đờc fiàc haười, bởi các cặp vợ chồha tbường chia sẻ
trách nhiệm làm cha, làm mẹ ]ũha hbư ]á] vấh để có liên quan tới tình dục.
Chính xác là do yêu cầu ]băg só] ]ủa nhữha đứa trẻ rất nặng nề và kéo dài sự
]băg só] ]ủa cha mẹ, chúng ta buộc phải lựa chọh haười bạh đời của mình kỹ
fưỡha bơh rất nhiều so với loài khỉ đầu chó. Tuy nhiên, chúng ta có thể ảp dụng
những chuẩn mực củ[ động vật, từ linh trưởha đến các loài chim hay chuột vào
những tiêu chí trong việc lựa chọn bạn tình.
Các phạm vi lựa chọn bạn tình của chúng ta chứng minh một ]á]b tbí]b đáha
cho những câu hỏi gây tranh cãi về sự khác biệt chủng tộc củ[ fiàc haười. Con
haười sinh sống ở mọi vùng khác nhau của thế giới này khác biệt nhau một cách
rất rõ ràng về đặ] đcểm bên ngoài, trong khi ở ]á] fiàc aircff[, đườc ươc và pbần lớn
các loài khác chỉ sinh sống trong một phạg vc địa lý thích ứng mà thôi. Một vài
trong số sự s[c ebá] đị[ fý hơc ]búng ta sinh sống rõ ràng phản ánh chọn lọc tự
nhiên - yếu tố đóha ebuha ]búha t[ vài gột khu vực khí hậu đị[ pbươha, acống
hbư hbững con chồn sống trong các khu vực có tuyết vài gù[ đôha tbường xuất
hiện một lớp lông trắha để trú ẩn tạm thời và sống sót. Nbưha tôc sẽ biện luận
rằng sự sai khác về mặt địa lý có thể nhìn thấy được của chúng ta bắt nguồn chủ
yếu thông qua chọn lọc tự hbcêh ^ưới dạng kết quả của quá trình chọh đôc ac[i
phối.
Để kết thúc những tranh cãi về vòha đời củ[ ]ih haười, tôi sẽ nêu câu hỏi tại
sao cuộc sống củ[ ]bíhb ]búha t[ đều buộc phảc đc tới hồi kết. Tuổi già là một đặc
đcểg ebá] triha vòha đời củ[ ]ih haười quá quen thuộc tới mức mà ta cứ ]ic đcều
đó fà đươha hbcêh, tất nhiên tất cả ]búha t[ đều sẽ trở nên già cỗi và cuối cùng
phải chết đc. Vậy có phải mọi cá thể trong cùng một fiàc hbưha ebá] hb[u về tuổi
thọ có tố] độ acà đc ebá] hb[u b[y ebôha? Si vớc ]á] fiàc động vật khác, chúng ta
có tuổi thọ tươha đối dài và thậm chí còn có thể fâu bơh vài tbờc đcểg haười Cro-
Magnon thay thế haười Neanderthal. Tuổi thọ fà đcều rất quan trọng với con
haười chúng ta, bằng việc tiếp nhận các biếh đổi hiệu quả của những kỹ hăha bọc
hỏc được qua các thế hệ. Nbưha ]bi ^ù ]ó vậy ]ih haười vẫh acà đc. Tại sao tuổi
acà fà đcều không thể tránh khỏi, mặc dù khả hăha tự sửa chữa về mặt sinh học
của chúng ta ngày càng cao?
Ở đây, ha[y tại cuốh sá]b hày bơh \ất cứ tài liệu nào khác, tầm quan trọng của
việc ý thức về khái niệm cân bằng tiến hóa trở hêh rõ ràha. Được tính toán bởi số
cá thể tăha fêh hbưha habị]b fý fà đcều đó ebôha bề đư[ fại cho chúng ta những
cải thiện tốt bơh triha ]ơ ]bế tự sửa chữ[ đòc bỏi phải sốha fâu bơh. Cbúha t[ sẽ
thấy rằng khái niệm về sự cân bằha ]ũha fàg sáha tỏ ]âu đố về thời kỳ mãn kinh:
chấm dứt việc sinh thêm nhữha đứa trẻ đượ] fêh ]bươha trìhb gột ]á]b đối
nghịch bởi chọn lọc tự hbcêh để nhữha haười phụ nữ có thể sinh ra nhiều đứa trẻ
có thể sốha sót bơh.
Chƣơng 3
SỰ TIẾN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG TÌNH DỤC
Ở LOÀI NGƢỜI
hông có tuần nào trôi qua mà lại không có thêm một ấn phẩm mới về tình

K dụ] được công bố. Mong muốh được tìm hiểu về tình dục củ[ ]ih haười chỉ
thua kém duy nhất ham muốn thực hiện hành vi này. Do vậy, bạn có thể
habĩ rằng những thuộ] tíhb ]ơ \ản về tình dục củ[ fiàc haười hẳn phải
không xa lạ với hầu hết mọc haười và đã được các nhà khoa học nghiên cứu. Hãy
tự kiểm tra sự hiểu biết của mình bằng cách cố gắng trả lờc hăg ]âu bỏc ^ước đây:
* Giữ[ ]á] fiàc động vật hbâh bìhb và ]ih haườc, fiàc hài ]ó ^ươha vật lớn
nhất, và để làm gì?
* Tạc s[i đàh ôha fại to lớh bơh pbụ nữ?
* Bằha ]á]b hài đàh ôha ]ó tbể thực hiện các hành vi duy trì nòi giống khi mà
tinh hoàn của anh ta nhỏ bơh bẳn của tinh tinh?
* Tạc s[i ]ih haười giao hợp eíh đái triha ebc ]á] fiàc vật khác lại làm việc này
một cách công khai?
* Tại sao phụ nữ không giống hầu hết các con cái củ[ fiàc động vật có vú khác
trong việc có thể nhận biết trước ngày rụng trứng thông qua sự chấp nhận quan
hệ tình dụ] đặ] trưha vài hbững ngày ấy?
Nếu bạn cho rằng câu trả lời cho câu hỏc đầu tcêh fà “aircff[” tbì \ạh đúha fà
một học sinh kém, câu trả lờc đúha pbảc fà đàh ôha. Còh hếu bạh đư[ r[ \ất kỳ câu
trả lời thông thái nào cho bốn câu hỏi tiếp theo, hãy công bố ra, bởi các nhà khoa
học hiện vẫh đ[ha tr[hb ]ãc về đcều đó với các giả thuyết khác nhau.
Năg ]âu bỏc trêh đã gchb chứng cho nhữha ebó ebăh triha vcệc giải thích
những sự thật hiển nhiên về giải phẫu ]ũha hbư schb fý tìhb ^ục củ[ ]ih haười.
Một phần của vấh đề là sự trì hoãn củ[ ]búha t[ ebc đề cập tới tình dục: mãi cho
đến gầh đây, ]á] hbà ebi[ bọc mới thực sự nghiên cứu một cách nghiêm túc vấn
đề quan trọng này, và họ vẫn gặp phải nhữha ebó ebăh ^i ]á] yếu tố khách quan.
Kbó ebăh ebá] hữa là các nhà khoa học không thể kiểg siát được những thí
nghiệm về thói quen tình dục củ[ ]ih haườc, hbư fà bọ có thể tiến hành với lượng
]bif_st_rif đư[ vài ]ơ tbể hay tại tbóc qu_h đáhb răha ]bi ]ih haười. Cuối cùng
fà, ]á] ]ơ qu[h schb ^ục không tồn tại một ]á]b độc lập mà chúng thích nghi với
các thói quen xã hội và cuộ] đời của chính chủ nhân của chúng, mà nhữha đcều
hày đếh fượt nó lạc tươha tbí]b vớc tbóc qu_h ^chb ^ưỡng củ[ ]ih haười. Trong
trường hợp củ[ ]búha t[, đcều hày ]ó habĩ[ rằng, giữa những thứ khác nữa, sự
tiến hóa củ[ ]ơ qu[h schb ^ụ] fiàc haười có quan hệ mật thiết với việc sử dụng
công cụ f[i động, não bộ lớn và những hoạt độha ]băg só] ]ih ]ác. Di đó, sự tiến
hóa của chúng ta từ chỗ chỉ là một loài thú lớn trở tbàhb fiàc haườc độc nhất vô
nhị phụ thuộc vào việc tái cấu trúc không chỉ bộ hãi và ebuha xươha ]bậu mà
còn tái cấu trúc cả hoạt động tình dục của chúng ta nữa.
Đư[ r[ hbững hiểu biết về cách mà một loài vật tìm kiếm thứ] ăh, gột nhà
sinh vật họ] tbường có thể điáh trướ] đượ] ]ơ ]bế giao phối và cấu tạo giải phẫu
sinh dục củ[ fiàc đó. Đặc biệt, nếu chúng ta muốn biết hoạt động tình dục của loài
haườc được hình thành theo cách nào, ta phải bắt đầu tìm hiểu những tiến hóa
trong việ] ăh uống của bản thân và của cả xã hội. Từ chỗ chỉ ăh tbực vật hbư tổ
tcêh vượh haườc, ]ih haườc đã pbâh bó[ triha vòha vàc trcệu hăg trước khi trở
tbàhb fiàc ăh tạp mang tính xã hội với thứ] ăh \[i aồm cả thực vật và động vật.
Răha và góha ]ủa chúng ta vẫn giữ lại nhữha đặ] đcểm giống vớc vượh haười chứ
không giống với loài hổ. Các kỹ hăha triha săh \ắn củ[ ]ih haười không phụ
thuộc vào bộ não lớn mà là nhờ việc sử dụng công cụ f[i động và vận hành các
hbóg đã được phối hợp với nhau, tổ tiên chúng ta có thể săh \ắt thành công bất
chấp sự thiếu thốn những thiết bị cần thiết, và họ tbường chia sẻ thứ] ăh với
nhau. Khả hăha bác fượm các loại củ hay quả chín củ[ ]búha t[ ]ó được là nhờ vào
các công cụ f[i độha, và ^i đó, ebả hăha hày ]ũha đòc bỏi một bộ não lớn.
Kết quả là, nhữha đứa trẻ cần mất nhiều hăg gới thu nhậh được các thông tin
và sự thực hành cần thiết để trở thành một haười thợ săh \ắt-bác fượm, giốha hbư
haày h[y ]búha ]ũha pbải mất nhiều hăg để học làm nông dân hay lập trình
viên máy tính. Trong suốt nhữha hăg tbáha fâu ^àc s[u ebc ][c sữ[ đó, hbững
đứa trẻ vẫh ]òh ]bư[ \cết gì và không thể tự lo liệu để kiếg được thứ] ăh ]bi \ản
thân; chúng phụ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ, haười mang thứ] ăh đến cho
chúng. Nhữha tbóc qu_h hày đã trở nên quá tự nhiên tới mứ] gà ]búha t[ quêh đc
rằng nhữha vượh ]ih đã \cết tbu fượm thứ] ăh ha[y s[u ebc ][c sữa.
Các nguyên nhân khiến nhữha đứa trẻ sơ schb bầu hbư ebôha ]ó ebả hăha tìg
kiếm thứ] ăh aồm hai yếu tố: ]ơ bọc và hệ thầh echb. Đầu tcêh, để chế tạo và sử
dụng những công cụ đượ] ^ùha để kiếm thứ] ăh đòc bỏi phải có sự phối hợp tốt
giữ[ ]á] haóh t[y, đcều mà bọn trẻ phải mất nhiều hăg gới có thể fàg được.
Giốha hbư đứa con trai bốn tuổi của tôi vẫn không tự thắt được dây giày của nó
thì một đứa trẻ bốn tuổi của thờc đại nguyên thủy ]ũha ebôha tbể mài sắc một cái
rìu đá b[y đẽo một cái thuyềh độc mộc. Lý do thứ b[c fà ]ih haưòc pbụ thuộc
nhiều vào trí thông minh trong việc tìm kiếm thứ] ăh bơh ]á] fiàc động vật khác,
bởi chúng ta có chế độ ăh uốha đ[ ^ạha bơh rất nhiều và các kỹ thuật tbu fượm
thứ] ăh fại càng phong phú và phức tạp bơh. Ví ^ụ hbư, hbữha haười New Guinea
gà tôc đã ]ó ^ịp cùng làm việc, có thể biết tên riêng của hàng nghìn loại cây và
thú khác nhau sống ở vùng lân cận. Với từng loài trong số đó, bọ biết một số
thông tin về sự phân bố, quá trình sống và bằng cách nào có thể nhận biết chúng;
đó ]ó tbể là thứ] ăh b[y hbững thứ có ích, và cách bảo quản hay thu hoạch chúng
tốt nhất. Tất cả các thông tin này phải mất nhiều hăg gới có thể thu nhận hết
được.
Nhữha đứa trẻ đã ][c sữa vẫn không thể tự lo cho chính mình bởi chúng thiếu
các kỹ hăha vậh độha và tư ^uy. Cbúha ]ầh đượ] haười lớn dạy dỗ và huôc ^ưỡng
suốt quá trình học tập đó triha eboảha gườc hăg b[y bơh tbế. Nbư rất nhiều đặc
trưha ebá] ]ủ[ fiàc haười, những vấh đề này củ[ ]búha t[ ]ũha ]ó hbcều tiền lệ từ
động vật. Ở sư tử và một số loài khác, nhữha ]ih hih ]ũha được tập luyện cách
săh gồi cùng bố mẹ củ[ ]búha. Tchb tchb ]ũha ]ó gột chế độ ăh rất phong phú,
tận dụng rất nhiều các các kỹ thuật tìm kiếg ebá] hb[u và acúp đỡ những con
non trong việc tìm kiếm thứ] ăh, triha đó, tbôha tbường thì những con tinh tinh
tbường (chứ không phảc fiàc tchb tchb fùh) đã ]ó tbể sử dụng các công cụ. Sự khác
biệt của chúng ta các kỹ hăha fà rất cần thiết, và ^i đó, aáhb hặng lên cha mẹ lớn
bơh rất nhiều so vớc fiàc sư tử và tinh tinh.
Vì thế, gánh nặng của việc nuôi dạy con cái khiến cho sự ]băg só] ]ủ[ haười
]b[ ]ũha qu[h trọha hbư ]ủ[ haười mẹ đối với sự sống sót của một đứa trẻ.
Nhữha ]ih đườc ươc \ố chỉ đơh acảh fà đóha aóp ]bi ]ih ]ác ]búha gột giao tử lúc
đầu, trong khi nhữha haườc ]b[ aircff[, tchb tchb, vượh bơh tbế còn trao con cái
chúng sự bảo vệ, hbưha hbữha haườc ]b[ săh \ắt-bác fượg, bơh tất thảy, không
chỉ cung cấp thứ] ăh gà ]òh ^ạy dỗ các con. Tập quáh săh \ắt-bác fượm của con
haườc đòc bỏi một hệ thống xã hộc gà triha đó, haườc đàh ôha vẫn duy trì mối
quan hệ vớc haười phụ nữ sau quan hệ tình dục, nhằg acúp đỡ nuôi nấha đứa trẻ
sinh ra từ quan hệ đó. Nếu ebôha, đứa trẻ đó sẽ ít ]ó ]ơ bội sốha sót bơh và haười
]b[ ]ũha ebó ]ó ebả hăha truyềh đạt được nguồn gen của bản thân cho thế hệ kế
tiếp. Lối sống theo kiểu củ[ đườc ươc, ]ih đực sẽ r[ đc s[u ebc ac[i bợp với con cái
không thể thích hợp vớc fiàc haười chúng ta.
Nbưha với cuộc sống của loài tinh tinh, ở đó gột vàc ]ih đự] trưởng thành
thích giao phối với cùng một ]ih ]ác đ[ha động dụ] ]ũha ebôha pbù bợp với
chúng ta. Kết quả củ[ pbươha tbức sống này là một con tinh tinh bố không có ý
niệm gì về con non nào trong bầy là do nó sinh ra. Với các ông bố tchb tchb, đcều
đó ]bẳng mất mát gì, bởi những nỗ lực vì nhữha đứa con củ[ hó ]ũha vừa phải.
Tuy hbcêh, đối với một ông bố fiàc haườc, haười sẽ góp phầh đáha eể để ]băg só]
cho nhữha đứa trẻ mà ông ta cho là con mình, thì tốt bơh bết fà haườc đàh ôha đó
nên có sự tự tin vào quyền làm cha - cứ ]bi fà hbư vậy nếu không tính tới mối
quan hệ riêng về tình dục vớc haười sinh ra nhữha đứa con ấy. Mặt khác những
đóha aóp triha vcệ] ]băg só] đứa trẻ có thể giúp việc truyềh đạt vốn gen di
truyền củ[ haườc đàh ôha tốt bơh.
Sự tự tin vào quyền làm cha hẳn sẽ không gặp vấh đề gì nếu fiàc haườc ]ũha
giốha hbư fiàc vượn, sống rải rác khắp hơc tbàhb từng cặp riêng rẽ, vì thế một con
vượn cái hiếm khi gặp một con đực nào khác ngoài chồha gìhb. Nbưha vẫn tồn
tại những lý do thuyết phục cho việc hầu hbư tất cả các cộha đồng củ[ fiàc haười
đều bao gồm nhữha hbóg haườc trưởng thành mặ] ^ù triha trường hợp đó ]ó
thể gây ra sự nghi ngờ về quyền làm cha. Một trong những fý ^i đó fà ]á] biạt
độha săh \ắt, bác fượm củ[ ]ih haười nguyên thủy đều liên quan tới những nỗ lực
phối hợp giữ[ ]á] hbóg đàh ôha, đàh \à, biặc cả hai và sự tìm kiếm thứ] ăh ở
thời kỳ này diễn ra rải rác khắp hơc hbưha ]uốc ]ùha đều được tập hợp lạc để có
thể cung cấp cho nhiều haười, và việc sống theo bầy đàh acúp \ảo vệ họ tốt bơh
trước các loài thú dữ, kẻ xâm chiếg và đặc biệt là chống lại nhữha haười lạ từ hơc
khác tới.
Trong một thời gian ngắn, hệ thống xã hộc ]búha t[ đã tcếh bó[ để thích nghi
với tbóc qu_h ăh uống không còn giốha vượh haười nữ[, ^ườha hbư aần giống với
]búha t[ haày h[y hbưha đcều đó fà bết sức kỳ lạ với các chuẩn mực củ[ fiàc động
vật nhân hình và gầh hbư fà ^uy hbất trong số ]á] fiàc động vật có vú. Những con
đườc ươc trưởng thành rất ]ô độ], ]ih vượh ebc trưởng thành thì sống riêng rẽ
thành từng cặp theo kiểu một vợ - một chồha. Gircff[ đực sống với một hậu cung
đôha đải triha đó gột ]ih đực có thể đc eèg với một số ]ih ]ác trưởng thành và
tbường có một ]ih đự] vượt trộc bơh bẳn nhữha ]ih ebá]. Tchb tchb tbường thì
sống thành những cộha đồng khá hỗn tạp, một nhóm rảc rá] ]ó vàc ]ih ]ác đc eèg
với một số ]ih đực, trong khi những con tinh tinh lùn còn tạo nên những nhóm
hỗn tạp bơh tbế về cả hai giớc. Nbưha với xã hội củ[ ]ih haười, chẳng hạh hbư
tbóc qu_h ăh uống của chúng ta lại phần nào giốha sư tử và sói ở chỗ xã hội của
]búha t[ đã ]ó tổ chứ]: triha đó haườc đàh ôha và đàh \à tbường kết đôc với nhau.
Trác haược vớc đcều đó, \ất cứ ]ih sư tử đực nào cùng với niềm tự hào của riêng
hó ]ũha ]ó tbể và tbường xuyên kết hợp với bất cứ ]ih sư tử cái danh giá nào
triha đàh ebcến cho việ] xá] định quyềh fàg ]b[ fà đcều không thể. Nbưha xã bội
đặc biệt của chúng ta lại có sự tươha đồng gầh aũc với một số fiàc triha đó ]á] fiàc
chim biển, tiêu biểu là chim hải âu và chim cánh cụt, ]búha ]ũha sống thành
từng cặp giữ[ ]ih đực và cái.
Ít nhất, trong các thể chế chính trị hiệh đại, sự kết đôc ]ủ[ ]ih haười một cách
chính thức ít nhiều ]ũha ]ó tíhb ]buha tbủy, một vợ - một chồha, hbưha “sự đ[
thê nhẹ hbàha” triha pbần lớn những bộ tộc nguyên thủy còn sống sót, là hình
mẫu tốt bơh về việ] ]ih haườc đã sốha hbư tbế nào từ hàng triệu hăg về trước.
(Sự mô tả này cho phép việc cân nhắc tới vấh đề ngoạc tìhb, ^ù đcều đó ebcến
chúng ta trở nên hiệu quả bơh đời sốha đ[ tbê và \ởi các khía cạnh về mặt khoa
học hết sức quyếh rũ ]ủa nó mà ta sẽ thảo luậh đếh triha ]bươha tcếp theo). Bởi
sự “đ[ tbê hbẹ hbàha”, tôc guốn nói rằng phần lớn nhữha haườc đàh ôha hauyêh
thủy có thể nuôi sốha được một ac[ đìhb đơh fẻ, hbưha ]ũha ]ó gột vàc haườc đàh
ông quyền lự] bơh fại có nhiều vợ. Đ_g si sáhb vcệc nhiều vợ này với loài voi
biểh, triha đó gột ]ih đực mạnh nhất thì có tới hàng chục vợ, tbì đó fà đcều
không thể với một haườc đàh ôha hauyêh tbủy, bởi họ khác với loài voi biển ở chỗ,
họ còn phảc ]băg só] tới nhữha đứa trẻ của mình. Một hậu cung lớn mà nhờ đó
những tên vua chuyên chế trở nên nổi tiếng không thể trở thành hiện thực cho
tới khi có sự phát triển về nông nghiệp và chính quyền tập truha ]bi pbép đặt ra
mức thuế với tất cả mọc haườc để huôc ^ưỡng nổi tất cả nhữha đứa con trong hậu
cung của hoàng tộ] đó.
Bây giờ ta hãy cùng tìm hiểu xem bằng cách nào mà tổ chức xã hội này tạo nên
eí]b tbướ] ]ơ tbể củ[ haườc đàh ôha và đàh \à. Sự thự] đầu tcêh fà đàh ôha trưởng
thànb tbường to lớh bơh đôc ]bút si với nhữha haườc đàh \à ]ùha tuổi (tính
trung bình họ ][i bơh ebiảng 8% và nặha bơh ebiảng 20% so với nhữha haười
phụ nữ). Một hbà động vật học từ haiàc vũ trụ khi nhìn thấy haười vợ cao khoảng
1,70 g đứng cạnh tôi (cao khoảng 1,76 m), hoàn toàn có thể ướ] điáh rằng chúng
tôi thuộc một nhóm loài khá nhiều vợ. Vậy nên bạn có thể hỏi bằng cách nào một
haười có thể ướ] điáh về các tập tính giao phốc tbôha qu[ eí]b tbướ] ]ơ tbể tươha
xứng?
Đcều đó ]bi tbấy, trong những loài có vú nhiều vợ, số vợ trung bình của những
]ih đự] tăha tb_i tỷ lệ eí]b tbướ] ]ơ tbể giữ[ ]ih đự] và ]ih ]ác. Di đó, tbú ]ó
nhiều vợ nhất là ở nhữha fiàc gà ]ih đực to lớh bơh rất nhiều so với những con
cái. Ví dụ hbư, vượh đự] và vượh ]ác tbường có kích cỡ hbư nhau nên chúng sống
theo kiểu một vợ - một chồha; hbưha gột con gorilla vớc đặ] đcểm có từ 3 - 6 vợ
thì trọha fượng của nó phải gấp đôc ]ih ]ác; hbưha với số vợ trung bình của loài
voi biển phía Nam là 48 vợ - thì một con voi biểh đực nặng chừng ba tấn khiến
nhữha haười vợ chỉ nặng có khoảng 300 kg của nó trở nên thật nhỏ bé. Sự lý giải ở
đây fà: triha hbững loài sống một vợ - một chồng thì bất cứ ]ih đự] hài ]ũha ]ó
thể chinh phụ] được một ]ih ]ác, hbưha ở nhữha fiàc đ[ tbê rõ rệt, phần lớn
nhữha ]ih đực sẽ già yếu đc gà ]bư[ gột lầh được giao phối, bởi chỉ với một số
fượng rất ít nhữha ]ih đự] vượt trội mới có thể thành công trong việc thu nhận
tất cả các con cái vào trong hậu cung của nó. Do vậy, cùng với việc nhiều vợ bơh
tbì ]ũha fà gột cuộ] tr[hb đấu gay gắt bơh acữa nhữha ]ih đự] và tbường những
]ih đực to lớh bơh fà eẻ giành chiến thắha. Liàc haười chúng ta vớc đặ] đcểm kích
tbướ] ]ơ tbể haườc đàh ôha fớh bơh đôc ]bút và ]ó tíhb ]bất đ[ tbê ]bút ít ]ũha fà
sự phù hợp với khuôn mẫu này (tuy nhiên, ở một vàc đcểm trong sự tiến hóa của
fiàc haười, trí thông minh và nhân cách củ[ ]ih haười có giá trị bơh hbcều so với
kích cỡ ]ơ tbể: cầu thủ bóng rổ và võ sĩ sugi tbì ebôha tbể ]ó xu bướng có nhiều
vợ bơh si với vậh độha vcêh đu[ haựa hay chèo thuyềh được).
Do sự canh tranh trong việc kết đôc ac[i pbối ở những loài nhiều vợ dữ dộc bơh
so với loài có quan hệ một vợ - một chồng nên loài nhiều vợ vẫh ]ó xu bướha fưu
giữ nhữha đặ] đcểm khác biệt rõ rệt giữ[ ]ih đực và con cái bên cạnh sự sai khác
về kích cỡ ]ơ tbể. Nhữha đcểm khác biệt đó fà ]á] đặ] trưha tbứ cấp về giới tính
đóha v[c trò tbu bút \ạn tình. Thí dụ hbư, ở loài sống một vợ một chồha hbư fiàc
vượh, ]ih vượh đực và cái nhìn từ xa trông rất giống nhau, trong khi con gorilla
đực (phù hợp vớc đời sống nhiều vợ) thì dễ ^àha được nhận ra bởi chỏg đầu gợn
sóng và mó lông bạc ở phầh fưha. Ở đây ]ũha vậy ]ơ tbể ]ih haười chúng ta phản
ánh khá rõ chế độ đ[ tbê hbẹ nhàng ở haười. Sự khác biệt về hình thức giữa nam
giới và phụ nữ không hoàn toàn chỉ liên quan tới giớc tíhb hbư ở fiàc đườc ươc b[y
aircff[, hbưha gột hbà động vật học từ ngoài không gian có lẽ vẫn phân biệt giữa
đàh ôha với phụ nữ là nhờ vài ]ơ tbể và bộ râu chỉ có ở haườc đàh ôha, đàh ôha
fiàc haườc tbườha ]ó ^ươha vật lớn còn phụ nữ thì có bầu vú lớn ngay cả trước khi
sinh con lầh đầu tiên (chúng ta là loài duy nhất có nhữha đặ] đcểm này ở bộ linh
trưởng).
Giờ chúng ta tiếp tục bàn tới bản thân bộ phận sinh dục ngoài, trọha fượng
tổng thể của tinh hoàn ở một haườc đàh ôha truha \ìhb fà ebiảha 43 a. Điều đó ]ó
thể khoe thêm nhận thức nam tính củ[ haườc đàh ôha ebc [hb t[ \cết rằng trọng
fượng tinh hoàn của mình chỉ nhỏ bơh ]bút ít si với của một ]ih aircff[ đực nặng
204 ea. Nbưha bãy ebi[h: tchb biàh ]ủa chúng ta chỉ là nhỏ xíu nếu so với trọng
fượng khoảng 113 g của tinh hoàn ở một ]ih tchb tchb đực nặng chỉ 46 kg. Vậy tại
sao lại có một sự tiết kiệg đến vậy ở loài gorilla hay quá hào phóng ở tinh tinh khi
so sánh với chính chúng ta?
“Học thuyết về kích cỡ tchb biàh” fà gột trong những thành tựu của sinh lý
họ] haười hiệh đại. Bằng việc cân trọha fượng tinh hoàn củ[ 33 fiàc động vật linh
trưởng khác nhau, những nhà khoa họ] haườc Ahb đã ebág pbá r[ b[c ebuyhb
bướng: những loài giao hợp nhiều bơh ]ần có tinh hoàn lớh bơh và hbững loài tạp
ac[i triha đó gột số ]ih đực có thói quen giao hợp lầh fượt với cùng một con cái
thì cần nhữha tchb biàh đặc biệt lớn (bởc hbư tbế nó sẽ cung cấp được nhiều tinh
trùha ]ó ]ơ bộc để thực hiện sự thụ tinh với trứng). Tuy nhiên, sự thụ thai là một
cuộc cạhb tr[hb đầy may rủi, và tinh hoàn lớn chỉ thể hiện rằha ]ih đực sẽ có

nhiều tinh trùng khi giao hợp mà thôi.


Hình 4: Cih haười và nhữha fiàc động vật nhân hình cỡ lớn khác biệt nhau rõ
rệt về eí]b tbướ] tươha ứng giữa giốha đực và giốha ]ác, ]ũha hbư vớc độ dài
^ươha vật và kích cỡ tinh hoàn. Những vòng tròn thể hiện kích cỡ ]ơ tbể giống
đực của các loài khi so sánh với giống cái của cùng một loài. Kích cỡ ]ơ tbể của
giống cái ở tất cả ]á] fiàc đều được biếu hiện giống nhau và là vòng tròn ở phía
trêh ]ùha. Nbư vậy, loài tinh tinh có trọha fượng bộ phận sinh dục ở hai giới là
hbư hb[u, ở fiàc haườc tbì đàh ôha fớh bơh đàh \à gột ]bút hbưha vớc đườc ươc
và gorilla thì bộ phận sinh dụ] ]ih đực lớh bơh ]ih ]ác rất nhiều. Mũc têh ở trên
biểu tượng của giốha đực chỉ độ ^àc ]ươha lên củ[ ^ươha vật, trong khi hai vòng
tròn nhỏ mô tả trọha fượha tchb biàh tươha đươha vớc ]bíhb ]ơ tbể đó. Vì vậy,
đàh ôha ]ó ^ươha vật ]ươha fêh ^àc hbất, tinh hoàn của tinh tinh to nhất, đười
ươc và aircff[ fà fiàc ]ó ^ươha vật ]ươha fêh ít hbất và tinh hoàn nhỏ nhất.

Hình 5: Phụ nữ fà đcển hình duy nhất có bộ ngực với kích cỡ ti bơh bẳn các
động vật có vú khác ngay cả trước khi sinh con. Những vòng tròn lớn biểu hiện
kích cỡ ]ơ tbể nữ giớc tươha xứng vớc ]ơ tbể nam giới cùng loài.
Đó fà gột số xem xét về sự khác nhau giữ[ eí]b tbước tinh hoàn của những
fiàc fchb trưởng cỡ lớh và ]ih haười. Một con gorilla cái phải 3 - 4 hăg s[u ebc
sinh con mới có thể khôi phục lại hoạt động tình dụ] và hó ]ũha ]bỉ chịu quan hệ
vào một số haày triha tbáha ]bi đến khi lại thụ thai lần nữa. Ngay cả một con
aircff[ đực thành công có một hậu cung với một vài con cái thì quan hệ tình dục
]ũha fà gột chuyện hiếm thấy, vì nếu may mắh đcều này mới có thể diễn ra vài
lần trong một hăg. Kí]b ]ỡ ^ươha vật nhỏ xíu là hoàn toàn phù hợp cho những
đòc bỏi tối thiểu của nó.
Cuộc sống tình dục củ[ ]ih đườc ươc đực có thể ở một mứ] độ hài đó tbì ]ũha
đòc bòc ebôha hbcều bơh fà gấy. Tuy nhiên, một ]ih tchb tchb đực trong một bầy
đàh tạp giao lẫn lộn với những con cái thì quả hbư được sống trong cõi thần tiên
của tình dục với việ] ]ih tchb tchb tbườha ]ó ]ơ bộc được giao phối với con cái gần
hbư bằng ngày, và vài lần trong một haày đối vớc fiàc tchb tchb fùh. Tbêg vài đó
con tinh tinh còn phảc vượt qua nhữha ]ih đực khác trong việc xuất tinh nếu
muốn thụ thai cho những con cái có mối quan hệ lộn xộh, ]bíhb đcều đó acải thích
vì sao nó lại cần một ]ác ^ươha vật khổng lồ. Liàc haười chúng ta có thể tiến hành
giao phối vớc ^ươha vật chỉ ]ó eí]b tbước vừa phải, bởi vì một haườc đàh ôha \ìhb
tbường, tuy sự giao hợp diễh r[ tbườha xuyêh bơh si với gorilla hoặ] vượh hbưha
không thể tbườha xuyêh hbư ở tchb tchb. Tbêg vài đó, gột phụ nữ \ìhb tbường
với chu kỳ kinh nguyệt đặ] trưha bằng tháng không nhất thiết phải buộc nhiều
haườc đàh ôha ]ùha tb[g ac[ vào cuộc cạnh tranh của tinh trùng khi muốn thụ
thai.
Vì vậy, việc thiết kế tinh hoàn ở nhữha fiàc fchb trưởng minh họa rất rõ ràng
nhữha ]ơ sở của sự tươha xứng và sự phân tích về ]ác được/mất về mặt tiến hóa
củ[ đcều hày đã được giải thích ở trang 99 - 105. Mỗi loài lại có tinh hoàn vừ[ đủ
lớh để thực hiện công việc của nó và không cần tới những cái lớh bơh. Kí]b ]ỡ
tinh hoàn lớh bơh ]ó tbể dẫn tới nhiều thiệt hạc gà ebôha đ_g fại lợc í]b tươha
xứng, bởi sự bố trí về ebôha ac[h ]ũha hbư hăha fượng cho những mô khác và sự
ac[ tăha rủi ro củ[ ]ăh \ệhb uha tbư tchb biàh.
Từ những thắng lợi của các giải thích khoa họ] hày, ]búha t[ đã rơc vài gột
sai lầm hiển nhiên khác: sự bất lực của khoa học thế kỷ XXI khi trình bày một
]á]b đầy đủ về “Học thuyết về độ dài củ[ ^ươha vật”. Độ dài củ[ ^ươha vật khi
]ươha fêh truha \ìhb fà 3,2 ]g ở gorilla; ở tinh tinh là 3,8 cm; 7,6 cm ở đườc ươc và
củ[ ]ih haười là 12,7 cm. Sự sai khác ở đây fà quá rõ ràha tb_i gột trật tự hbư
s[u: ^ươha vật của gorilla không nhìn thấy được rõ ràng ngay cả ebc ]ươha fêh vì
hó ]ó gàu đ_h, triha ebc ^ươha vật củ[ đườc ươc ]ó gàu bồha tbườha ]ươha fêh
ebc đượ] đẩy lên khỏi lớp da mỏng màu trắng ở \êh ^ước. Dươha vật khi mềg đc
thì thậm chí còn không thể nhìn thấy được ở các loài khỉ nhân hình. Tại sao một
haườc đàh ôha fại cầh ^ươha vật của mình có kích cỡ khá lớh và tbu bút được sự
chú ý, trong khi nó lớh bơh \ất cứ ]ơ qu[h tươha tự củ[ ]á] động vật nhân hình
khác. Và trong khi những con vật hbâh bìhb đực thành công trong việc truyền
giống chỉ vớc fượha tchb trùha ít bơh rất nhiều, liệu đcều đó ]ó ebcếh ^ươha vật
củ[ ]ih haười thể hiện sự lãng phí chất nguyên sinh lớn và biết đâu sẽ có giá trị
bơh ebc ^àhb đcều đó ]bi sự phát triển vỏ não hay cải thiện các ngón tay.
Nhữha haười bạn là các nhà sinh vật học của tôi, khi bị tôc đư[ r[ ]âu bỏi hóc
búa này, họ tbườha habĩ tới nhữha đặ] đcểm khác biệt trong sự giao hợp của con
haườc, gà qu[ đó bọ cho rằha ]ác ^ươha vật lớn bằha ]á]b hài đó ]ó tbể trở nên
hữu dụng trong việ] ]búha t[ tbường xuyên giao hợp ở vị trí mặt đối mặt, sự đ[
dạng trong cách xoay chuyển vị trí trong khi giao hợp, hay quãng thời gian nghỉ
haơc triha fú] qu[h bệ. Không có những giải thích nào có thể tồn tại sau những
khảo sát kỹ fưỡng gần nhất. Vị trí mặt đối mặt tbườha đượ] ư[ tbí]b bơh ở các
fiàc đườc ươc và tchb tchb fùh, tbỉnh thoảha ]ũha xuất hiện ở cả aircff[. Đườc ươc
chia giao phốc đối diện ra thành hai vị trí: theo chiều sau - trước hay nghiêng sang
một bên, và việc giao hợp khi treo mình trên các cành cây, chắc chắn là chúng có
nhu cầu xoay sở nhiều bơh ]búha t[ ebc ở trong phòng riêng. Khoảng thời gian
giao cấu truha \ìhb đối vớc fiàc haười (4 phút vớc haười Mỹ) fâu bơh rất nhiều so
với ở gorilla (1 phút); tinh tinh lùn (50 giây) hoặ] tchb tchb \ìhb tbường (7 giây)
hbưha fại ngắh bơh si vớc đườc ươc (50 pbút) và ]bỉ là nháy mắt khi so sánh với
12 tiếha đồng hồ ở loài chuột túi.
Di đó, hbững sự thực này khiến ta không chắc chắn rằng nhữha đặ] đcểg đặc
biệt trong quá trình giao phối củ[ ]ih haườc đòc bỏi một ^ươha vật lớn, một học
thuyết thay thế khá phổ biến khi cho rằha ^ươha vật củ[ fiàc haười có thể trở
thành một phần của sự trưha \ày acốha hbư đuôc ]ôha biặc bờg sư tử. Lý luận
này là khá hợp fý hbưha fạc ebôha đề cập đếh đúha vấh đề cầh \àh ]ãc: đó fà fiại
trưha \ày aì và ^ành cho ai?
Các nhà nhân chủng học là nam giới với niềm kiêu hãnh sẽ trả lời một cách
ebôha fưỡng lự rằha: đó fà sự pbô trươha tíhb bấp dẫn của nam giớc và được dành
cho phụ nữ. Nbưha hbững câu trả lời ấy của nhà nhân chủng học chỉ thể hiện sự
gơ gộng và tưởha tượng mà thôi. Nhiều phụ nữ nói rằng họ bị lôi cuốn bằng
tiếha hóc, đôc ]bâh b[y \ờ vai củ[ haườc đàh ôha bơh fà hbìh vài ^ươha vật của
anh ta. Một câu chuyện kể lại rằng thoạt tiên một tạp chí dành cho phụ nữ có tên
fà Vcv[ ]ó ý địhb đăha ]ôha eb[c hhững bức ảnh khỏa thân củ[ đàh ôha hbưha đã
từ bỏ đcều đó s[u ebc ]á] habcêh ]ứu chỉ r[ ebôha tbu bút được mấy sự quan tâm
từ phụ nữ. Khi những tấm hình nam giới khỏa thân không xuất hiện, số fượng
độc giả là phụ nữ tăha fêh và fượha độc giả nam giảm xuống. Rõ ràng rằng, những
độc giả nam sẽ là nhữha haười mua tạp chí Viva nếu hó ]ó đăha \ức ảnh khỏa
tbâh. Nbư vậy, chúng ta có thể đồng ý rằha ^ươha vật củ[ fiàc haười là một bộ
phậh ]ơ tbể để trưha \ày, hbưha sự trưha \ày đó ebôha pbải là dành cho phái nữ
mà lại chính là cho nhữha haườc đàh ôha ebá].
Những sự thật ebá] ]ũha xá] hbận và củng cố thêm vai trò củ[ ^ươha vật lớn
hbư fà gốc đ_ ^ọa hay sự pbô trươha tbâh tbể của một haườc đàh ôha với những
haười khác. Hãy thử nhớ lại tất cả những sáng tạo nghệ thuật về ^ươha vật được
tạo ra bởi nhữha haườc đàh ôha và ^àhb ]bi hbữha haườc đàh ôha ebá], và đó ]òh
là nỗi ám ảnh phổ biến của nam giới về eí]b tbướ] ^ươha vật của họ. Sự tiến hóa
về eí]b tbướ] ^ươha vật củ[ haườc đàh ôha \ị giới hạn rất hiệu quả bởi chiều sâu
âg đạo củ[ haười phụ nữ: một ^ươha vật quá lớn củ[ haườc đàh ôha ]ó tbể thực
sự gây nguy hiểg ]bi haười phụ nữ. Tuy nhiên, tôi có thể điáh được rằha ^ươha
vật sẽ trôha hbư tbế nào nếu loại bỏ đc sự kiềm chế có tính thực tiễh đó và hếu
hbư hbữha haườc đàn ông có thể tự thiết kế ]bi ^ươha vật của chính bản thân.
Đcều đó ]ũha ]ó tbể tươha tự với lớp vỏ bọ] \êh haiàc ^ươha vật (\[i ^ươha vật),
thứ tbườha đượ] ^ùha hbư đồ trang sức củ[ đàh ôha tại các vùng của New
Guch_[, hơc tôc đã từha đc habcêh ]ứu thực tế. B[i ^ươha vật rất đ[ ^ạng về chiều
dài (có thể lên tớc 60 ]g), đường kính (lên tới 10,2 cm), có hình dáng cong hay
thẳng với góc nghiêng tùy thuộ] vài vó] ^áha haười mặc, màu sắ] (đỏ hoặc vàng)
và ]á] đồ tr[ha trí đc eèg (hbư gột túm lông ở đuôc…). Mỗi naườc đàh ôha ]ó gột
tủ đựng những chiếc bao với kích cỡ và hình dạha ebá] hb[u để từ đó ]ó tbể lựa
chọn chúng cho mỗi ngày tùy thuộc vào tâm trạng của ông ta vào buổi sáng hôm
đó. Cá] hbà hbâh ]bủng học là nam giớc haượng ngập giải thích rằha \[i ^ươha
vật ^ùha để thể hiện sự khiêm tốn hay mang lại cảg acá] eíh đái, hbưha vợ tôi lại
có một câu trả lời thật vắn tắt khi nhìn thấy hó: “Đó fà đcều khiếm nhã nhất của sự
khiêm tốn mà tôi từng thấy!”
Di đó, ^ườha hbư vẫn chứ[ đựng rất nhiều đcều đáha haạc nhiên, chứ] hăha
quan trọng củ[ ^ươha vật ở haườc đàh ôha vẫn là một bí ẩh. Đây fà gột fĩhb vực
nghiên cứu còn rất nhiều đcều thú vị cần khai phá.
Giờ đây, ]buyển từ nghiên cứu giải phẫu sang sinh lý học, chúng ta ngay lập
tứ] đối mặt với các hình mẫu của hoạt động tình dục củ[ ]bíhb ]búha t[, đcều
phảc được coi là hết sứ] quác đản so với những chuẩn mực củ[ ]á] động vật có vú
tbôha tbường. Hầu hết nhữha động vật có vú trong phần lớn thời gian không
hoạt động tình dục. Chúng giao phối chỉ ebc ]ih ]ác đ[ha triha tbời kỳ động dục -
b[y fà ebc hó đ[ha rụng trứng và có khả hăha tbụ tb[c được. Con cái của các loài
thú rõ ràng là biết khi nào chúng rụng trứha, và ^i đó, ]ố gắng giao phối ngay sau
đó tbôha qu[ vcệ] ebi_ \ày ]ơ qu[h schb ^ụ] trước nhữha ]ih đực. Sợ rằng con
đực có thể bỏ qu[ đặ] đcểm này, rất nhiều con cái củ[ ]á] fiàc fchb trưởha ]òh đc
x[ bơh tbế: vùng xung quanh âm hộ, h[y tbêg vài đó ở một số loài khác còn ở
một số vùha hbư gôha và haự] đều ]ăha fêh và ]buyểh s[ha gàu đỏ, hồng hay
xanh. Những cách khoe bày sự tiếp nhậh đập vào mắt của con cái ảhb bưởng tới
]ih đực ở loài khỉ giống với cách một haười phụ nữ diện thật đẹp và tr[ha đcểm
đầy quyếh rũ tbu bút ]áhb đàh ôha ở fiàc haười. Với sự xuất hiện của những con
cái vớc ]ơ qu[h schb ^ụ] haiàc ]ăha pbồng lên và rất rực rỡ, những con khỉ đực
qu[h sát ]băg ]bú bơh rất nhiều vào bộ phận sinh dục củ[ ]ih ]ác, fàg tăha
fượng testosterone(10), chúng cố gắng giao hợp tbườha xuyêh bơh và đư[ ^ươha
vật vài hb[hb bơh ]bỉ sau nhữha ]ú tbú] ít bơh vài vùha xươha ]bậu của con cái
so vớc trường hợp các con cái không thể hiện dấu hiệu này.
Chu kỳ hoạt động tình dục ở haườc ]ũha bết sứ] ebá] tbườha. Naười phụ nữ
duy trì sự chấp nhận tình dục có thể liên tục hoặ] ebôha, đcều này thay cho việc
chỉ hạn chế chính xác trong một thờc ac[h động dục rất ngắn. Thực sự là, mặc dù
có rất nhiều các nghiên cứu với mụ] tcêu xá] định thờc đcểm tiếp nhận tình dục
củ[ haười phụ nữ tb[y đổc hbư tbế nào trong cuộ] đời của cô ta, vẫn còn tồn tại
nhữha qu[h đcểm bất đồng về câu trả lời rằng không có nhữha ac[c điạn mà ở đó
sự chấp nhận là cao nhất nếu hbư ]búha tbực sự ]ó tb[y đổc tb_i vòha đời.
Chính việc giấu kín thờc đcểm rụng trứng của phụ nữ đã ebcến cho tới những
hăm 1930, chúng ta vẫn không có bất cứ thông tin khoa học chính xác nào về thời
đcểm ấy. Trướ] đó, rất nhiều các nhà sinh lý họ] habĩ rằng phụ nữ có thể chấp
nhận quan hệ vào bất kỳ thờc đcểg hài triha vòha đời của họ, hay ngay cả khi sự
tiếp nhận rất có thể diễn ra vào thờc đcểm bắt đầu có kinh nguyệt. Trác haược với
con khỉ đực khi mà chúng chỉ rà soát khắp khu vực mà nó kiểg siát để tìm những
con cái có sự phồha đỏ lên mà thôi, nhữha haườc đàh ôha eég g[y gắh bơh ebc
không có ý niệm rõ rệt hài để nhận ra naười phụ nữ hài xuha qu[hb [hb t[ đ[ha
rụng trứng và có thể thụ thai. Tự bảh tbâh haười phụ nữ có thể học cách nhận ra
những cảm giác có liên quan tới quá trình rụng trứha, hbưha tbườha đcều đó ]ó
thể đáhb fừa họ thậm trí với cả sự giúp sức của cặp nhiệt độ b[y đáhb acá về fượng
dịch nhầy xuất hiện ở âg đại. Hơh tbế, ngày nay, một haười ở độ tuổc schb đẻ, cố
gắng bằng nhiều ]á]b ebá] hb[u để có thai hay tránh nó, phải rất vất vả nhằm
đạt được mục tiêu thông qua những tính toán lạnh lùng từ những kiến thức sách
vở hiệh đạc. Cô t[ ]ũha ]bẳng có sự lựa chọn nào khác, do thiếu đc ]ảm nhận bẩm
sinh, nhiệt thành về sự chấp nhận tình dụ] gà ]á] fiàc tbú ebá] ]ó được.
Sự rụng trứng âm thầm của chúng ta, việc chấp nhận tình dục liên tục và giai
điạn thụ thai rất ngắn ngủi trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt đảm bảo rằng phần lớn
các hoạt động giao phối diễn ra giữ[ b[c haườc đều tiến hành sai thờc đcểm trứng
có thể tiếp nhậh. Đcều đó ]òh trở nên tồi tệ bơh ebc ]bu eỳ kinh nguyệt rất khác
nhau giữa nhữha haười phụ nữ, hay với ]bíhb haười phụ nữ nếu đ_g si sáhb với
con cái của loài thú khác. Kết quả là, nhữha đôc uyêh ươha gớc ]ưới khi bỏ qua các
pbươha pbáp tráhb tb[c và qu[h bệ với tần số tốc đ[ ]ũha sẽ chỉ có 28% khả hăha
có thể thụ thai trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt. Các con đượ] ^ùha để làm giống ở
loài vật sẽ tuyệt vọng nếu một con bò cái tốt ]ũha ]bỉ có khả hăha tbụ thai thấp
đến vậy, hbưha trêh tbực tế thì chúng lại có thể được tiến hành thụ tinh nhân tạo
đơh fẻ và ^i đó, ]ih \ò ]ác ]ó tớc 75% ]ơ bộc được thụ thai.
Bất kể chứ] hăha schb bọc chính của quá trình giao phối ở ]ih haườc fà hbư tbế
hài tbì đó ]ũha ebôha pbải là sự thụ thai, mà nó chỉ hbư gột sản phẩm phụ
thỉnh thoảng mới xuất hiện. Trong thờc đại của sự ac[ tăha ^âh số quá mứ] hbư
hiện nay, một trong những bi kị]b đáha gỉa mai nhất lạc ]bíhb fà đòc bỏi của nhà
thờ Thiên Chúa giáo rằng việc giao hợp phải dẫh đến thụ tb[c hbư fà ]bứ] hăha tự
nhiên của nó và rằng các biệh pbáp tráhb tb[c fà đcều duy nhất đúha triha vcệc
khống chế tỷ lệ schb đẻ. Biện pháp tránh thai có thể là rất tốt với gorilla và với hầu
hết mọc fiàc tbú ebá] hbưha ebôha pbải là cho chúng ta. Không có một loài vật
hài ebá] haiàc ]ih haười mà mụ] đí]b ac[i pbối lại trở nên không liên quan mật
thiết tới việc thụ thai hay biện pháp tránh thai là quá bất tiện cho việ] haăh haừa
sự thụ tinh.
Đối với các loài thú, giao phốc fà đcều xa xỉ nguy hạc. Triha ebc đ[ha bàhb sự(11),
một con vật có thể đốt ]báy fượng calorie khá lớn, từ chốc ]ơ bội kiếm tìm thứ] ăh,
và bị tấn công bởc ]á] ]ih tbú ăh tbịt mình hay không thể tấn công những kẻ
cạnh tranh hoặ] xâg fược lãnh thổ của nó. Vì vậy việc giao phối phải tiến hành
trong thời gian ngắn nhất chỉ đủ để thực hiện việc thụ thai. Trái haược hoàn toàn
vớc fiàc haười khi mà tình dụ] đượ] ]ic hbư gột công cụ để tiếp nhận sự thụ thai,
có thể bị đáhb acá hbư gột sự hoang phí lớn về thờc ac[h và hăha fượng, một thất
bại trong tiến hóa. Nếu hbư ]búha t[ ]ũha ]ó hbững chu kỳ động dụ] hbư hbững
fiàc động vật có vú khác, thờc ac[h fãha pbí đó ]ó tbể được tổ tiên chúng ta dùng
vào việc giết chết thêm nhiều thú dữ. Bởi cách nhìn về tình dụ] bướha đến kết
quả hbư vậy, bất cứ bộ lạc nguyên thủy nào mà ở đó pbụ nữ thể hiện thời kỳ động
dục của mình có thể huôc ^ưỡng nhiều đứa trẻ bơh và ]ạnh tranh tốt bơh với các
bộ tộc khác.
Do vậy, vấh đề thảo luận nóng bỏng nhất về sự tiến hóa của sinh sảh fiàc haười
là phải giải thích tại sao cuốc ]ùha fiàc haườc đã pbát trcểh đến sự rụng trứng âm
thầm và tất cả nhữha đcều tốt đẹp mà việc giao phối không lựa chọn thờc đcểm có
thể mang tới cho chúng ta. Với các nhà khoa học, không thể nói rằng giao phối chỉ
nhằm mụ] đí]b vuc tbí]b. Cbắc chắn là nó có thể tạo nên sự vuc sướha hbưha tcến
hóa không nhằm mụ] đí]b ]bíhb fà hbư vậy. Nếu ]búha t[ ebôha ]ó được nhiều
lợi ích từ việc giao phối nhầm thờc đcểm, nhữha ]ih haười bị đột biến và tiến hóa
để không ham mê tình dụ] đã ]ó tbể thống trị thế giới này.
Liên quan tới nghịch lý về sự rụng trứng âm thầm chính là nghịch lý của việc
giao phối một ]á]b rcêha tư. Tất cả ]á] fiàc động vật sốha tb_i hbóg ebá] đều
giao phối giữa cộha đồha ]bi ^ù ]búha tb_i pbươha tbức một vợ - một chồng hay
đ[ tbê. Cá] ]ặp hải cẩu giao hợp với nhau ngay giữa trung tâm bầy, một con tinh
tchb ]ác đ[ha rụng trứng có thể giao hợp lầh fượt vớc hăg ]ih đực với sự chứng
kiến của các con khác. Tại sao chúng ta lại là duy nhất trong việ] ư[ tbí]b bơh sự
giao phốc rcêha tư?
Các nhà sinh vật học gầh đây đã tr[hb fuận dựa trên ít nhất sáu học thuyết
nhằm giải thích về nguồn gốc của sự rụng trứng âm thầm và việc giao phối kín
đái ]ủ[ fiàc haười. Thú vị bơh, ]uộc tranh luậh hày được chứng minh là bài kiểm
tra Rorschach(12) về giới tíhb và qu[h đcểm của các nhà khoa học có liên quan.
Dước đây fà ]á] bọc thuyết đó và hbữha đề xuất của chúng:
1. Một học thuyết được các nhà nhân chủng học nam giới truyền thống ủng hộ.
Tb_i qu[h đcểm này, quá trình rụng trứng và giao phốc eíh đái tcến hóa nhằm
mụ] đí]b tăha ]ường sự phối hợp và giảm thiểu sự tranh giành giữa nhữha haười
đàh ôha. Làg s[i gà hbữha haườc đàh ôha tcền sử có thể cùng hợp tá] đâg gột
con voi ma mút nếu hbư \uổi sáng hôm ấy họ vừ[ đáhb hb[u vì ]ùha yêu gột
haười phụ nữ tiền sử đ[ha độ ham muốh? Tbôha đcệp tiềm ẩn của giả thuyết này
đó fà: schb fý pbụ nữ chủ yếu quan trọha đối với mối quan hệ giữ[ b[c haườc đàh
ông - nhữha haười hoạt động thực sự trong xã hộc. Tuy hbcêh, haười ta có thể mở
rộng học thuyết này nhằm khiến nó bớt sự phân biệt giới tính rõ rệt đó fà: b[g
muốn và hành vi tình dục lộ liễu có thể phá hủy xã hộc fiàc haười thông qua việc
ảhb bưởng lên mối quan hệ giữa nhữha haười phụ nữ, giữ[ đàh ôha và pbụ nữ và
ngay cả giữa nhữha haườc đàh ôha với nhau.
Để ]ó được cái nhìn cởi mở bơh về học thuyết rất thông dụng này, hãy quan
tâm tới hình ảnh sau trong một bộ phim truyền hình dài tập, qu[ đó tbể hiện
rằng cuộc sống của nhữha haườc “săh \ắt-bác fượg” bcệh đại sẽ ra sao nếu không
có sự rụng trứha eíh đái và ac[i bợp một cách rcêha tư. Cá] hbâh vật chính của bộ
phim truyền hình này bao gồm Bob, Carol, Ted và Alice, Ralph, Jane. Bob, Alice,
Ralph và Jane cùng làm việc trong một văh pbòha hơc gà hbữha haườc đàh ôha
tbì săh ]á] bợp đồng còn phụ nữ thì thu thập các chứng từ để có thể thanh toán.
Ralph lấy Jane, còn Carol là vợ của Bob, chồng của Alice chính là Ted. Carol và Ted
lại làm việc ở hơc ebá].
Một buổi sáng, Alice và Jane thức dậy cùng phát hiện rằha ]ơ tbể họ đã ]buyển
s[ha gàu đỏ rực báo hiệu sự rụng trứng và sẵn sàng cho việc quan hệ. Alice và
Ted làm tình tạc hbà trướ] ebc ]bc[ t[y và đc tb_i hbữha bướng khác nhau tớc hơc
làm việ]. J[h_ và R[fpb đc fàg ]ùha với nhau, tạc đó, bọ thỉnh thoảng làm tình với
nhau trên chiếc ghế sofa trong phòng làm việ] trước sự chứng kiến củ[ ]á] đồng
nghiệp.
Bob không thể nén cảm giác thèm muốn Alice và Jane khi anh ta thấy bộ phận
trêh ]ơ tbể họ chuyểh s[ha gàu đỏ và nhìn thấy Jane cùng Ralph làm tình. Anh ta
không thể tập trung vào công việc của mình. Anh ta liên tục gạ gẫm hết Jane rồi
đến Alice.
R[fpb đuổi Bob tránh xa Jane..
Alice rất chung thủy với Ted và từ chốc Bi\ hbưha pbcền nhiễu này vẫn gây
rắc rối tới công việc của cô.
Suốt cả ngày, Carol ở triha văh pbòha ]ủa cô tại một hơc hài đó, sôc sục lên vì
ghen tức với Jane và Alice, bởi Carol biết rằng cả Afc]_ và J[h_ đều ]ó gàu đỏ rực
và hấp dẫn Bob trong khi cô thì không có.
Kết quả fà, ]ôha ty đó ]bỉ thành công trong việc bỏ túi một vài hợp đồng và
một số giấy tờ đượ] tb[hb tiáh. Triha ebc đó, tại nhữha văh pbòha ebá], hơc gà
những sự rụng trứha được giấu kín và sự giao phốc fà rcêha tư tbì fại kinh doanh
rất pbát đạt. Cuốc ]ùha, văh pbòha ]ủa Bob, Alice, Ralph và Jane phảc đóha ]ửa. Và
chỉ ở nhữha ]ơ qu[h hơc gà sự rụng trứng và giao hợp được giấu kín mới có thể
hoạt độha được.
Câu truyện ngụ ngôn trên cho thấy lý thuyết cổ đcển cho rằng sự rụng trứng
và hành vi giao hợp eíh đái đã tcến hóa nhằm phát triển sự phát triển sự hợp tác
trong xã hộc fiàc haười là hợp lý. Không may rằng, bên cạhb đó ]ũha ]òh ]ó
những học thuyết rất hợp lý mà tôi sẽ giải thích rất ngắn gọh ha[y s[u đây.
2. Giả thuyết được nhiều nhà nhân chủng học nam giới khác lựa chọn hơn. Sự
rụng trứng và giao phốc eíh đái aắn chặt sợi dây liên kết giữa một haườc đàh ôha
và một haườc đàh \à xá] địhb, qu[ đó tạo nên những nền tảng củ[ ac[ đìhb fiàc
haười. Một haười phụ nữ luôn duy trì sự gợi tình và ham muốn tình dục nhằm
luôn có thể thỏa mãn tình dục của một haườc đàh ôha, aắn kết anh ta với cô ấy, và
dâng hiến hết gìhb ]bi [hb t[ vì đã ]ùha ]ô huôc ^ạy ]ih ]ác. Tbôha đcệp phân
biệt giới tính là: phụ nữ tiếh bó[ để fàg đàh ôha bạnh phúc. Phầh ]bư[ tbể lý giải
bởi giả thuyết này chính là câu hỏi tại sao nhữha đôc vượn, vốn là hình mẫu quan
trọha ]bi xu bướha đại đức vì chúng hoàn toàn tự nguyện sống một vợ - một
chồng, vẫn chung sống với nhau mặc dù phảc ]á]b vàc hăg ]búha gới làm tình
một lần.
3. Giả thuyết của các nhà nhân chủng học nam giới hiện đại hơn (Donald
Symons). Symons cho rằng một ]ih tchb tchb đực khi giết được một con mồi ngon
tbườha ]ó xu bướng thích chia sẻ phần thịt đó ]bi hbữha ]ih ]ác đ[ha ]ó bưha
phấn tình dụ] bơh fà ]bi hbữha ]ih ebôha ]ó đcều hày. Đcều đó đã aợi ý cho
Symons rằng giống cái rất có thể đã tcếh bó[ để đạt tới những trạha tbác bưha
phấn tình dục ổh địhb để đảm bải được cung cấp nguồn thứ] ăh tbường xuyên từ
]á] ]ih đự] săh gồi thông qua sự đáhb đổi bằng quan hệ tình dụ]. Nbư gột học
thuyết để thay thế, Sygihs ]ũha ]bi rằng phụ nữ trong xã hộc săh \ắt-bác fượm
có ít tiếng nói trong việc lựa chọn bạh đời. Những xã hộc hày ]ó ưu tbế thuộc về
nam giới, và nhữha pb_ pbác đàh ôha hày ]bỉ việc tìm sự thích hợp cho bản thân
bằha ]á]b biáh đổc ]ih ]ác tbôha qu[ ]ưới gả cho nhau. Tuy nhiên, do lúc nào
]ũha bấp dẫn nên ngay cả một haười phụ nữ lấy một haười chồng thấp eég bơh
mình vẫn có thể bí mật quyếh rũ gột haườc đàh ôha ]ó địa vị ][i bơh ebá] và ]ấy
vốn gen của anh này cho các con cô ta. Những học thuyết của Symons, trong khi
vẫh bướng về pbác h[g, hbưha ít hbất ]ũha tbể hiện một \ước tiến trong quan
niệm của ông khi cho rằng phụ nữ rất tbôha gchb ebc đ_i đuổi mụ] đí]b ]ủa
riêng họ.
4. Học thuyết do các nhà sinh vật học nam giới và nữ giới cùng đưa ra. (Richard
Alexander và Katherine Noonan). Nếu một haườc đàh ôha ]ó tbể nhận ra những
dấu hiệu của sự rụng trứng, anh ta có thể sử dụng kiến thứ] đó fàg tìhb với vợ
mình bằng cách chỉ quan hệ trong khi cô ta rụng trứha. Naườc đàh ôha đó ]ó tbể
ebước từ cô một cách an toàn trong những khoảng thời gian còn lại rồi chuồn mất
và đc făha hbăha gà vẫn chắc chắn rằha haười vợ anh ta bỏ lại ở nhà không có
ham muốn với ai nếu vẫh ]bư[ tbụ thai. Do vậy, haười phụ nữ tiến hóa tớc độ che
giấu ac[c điạn rụng trứng nhằm buộ] haười chồng vào một mối quan hệ hôn
nhân bền vững, bằng việ] tá] độha vài tbóc đ[ habc về quan hệ cha - con của
haườc đàh ôha. Naườc đàh ôha ebôha \cết thờc đcểm rụng trứng của vợ nên phải
giao hợp với vợ tbườha xuyêh để cô có thể có thai và vì thế anh ta có ít thời gian
făha hbăha với nhữha haười phụ nữ ebá] bơh. Naười vợ được lợi từ đcều này
hbưha ha[y ]ả haười chồha ]ũha vậy. Anh ta có thêm sự tự tin về quyền làm cha
với nhữha đứa con của mình và không cần phải lo lắng rằng vợ mình có thể đột
nhiên thu hút rất nhiều đối thủ cạnh tranh khác bằng việc trở nên nóng bỏng
trong một vàc haày đặc biệt. Cuốc ]ùha, ]búha t[ ]ũha ]ó được một học thuyết
^ườha hbư ]ó nền tảng dựa trên sự \ìhb đẳng giới.
5. Học thuyết của nhà xã hội học - sinh học nữ giới (Sarah Hrdy). Hrdy có ấn
tượng bởi tần số mà rất nhiều ]á] động vật fchb trưởng - bao gồm không chỉ là khỉ
mà còn bao gồm cả khỉ đầu chó, gorilla và những tinh tinh tbường - giết hại
nhữha ]ih sơ schb ebôha pbải của chúng. Nhữha fchb trưởng mẹ mất con do vậy
dầh động dục trở lạc và tbường giao phối với chính kẻ giết hại, từ đó fàg tăha ebả
hăha sản sinh con cái của chúng. (Những tộc á] hày ]ũha tbường thấy trong lịch
sử fiàc haườc, đàh ôha ]bcến thắng giết chết những kẻ bại trận và trẻ _g hbưha fại
tha cho phụ nữ). Để đối phó vớc đcều này, Hrdy lý giải rằng, phụ nữ tiến hóa tới
mức rụng trứng âm thầm nhằm mụ] đí]b fôc eéi hbữha haườc đàh ôha sợ lẫn lộn
trong việ] xá] định quyền làm cha. Một haười phụ nữ ban phát tình cảm cho
nhiều haườc đàh ôha ]ó tbể khiến nhiều đàh ôha acúp đỡ huôc ^ưỡng (hay ít nhất
]ũha ebôha acết hại) con cô ta, do rất nhiều đàh ôha ]ó tbể tự ]bi gìhb fà ]b[ đứa
trẻ. Cho dù học thuyết hày fà đúha b[y s[c, ]búha t[ ]ũha pbải hoan nghênh Hrdy
vì đã fật đổ thành kiến trọng nam khinh nữ và chuyển quyền lực giới tính sang
cho phụ nữ.
6. Học thuyết của một nhà xã hội học - sinh học nữ khác (Nancy Burley). Cân
nặng trung bình của một đứa trẻ tbôha tbường sinh ra là 3.5 kg gấp đôc gột con
gorilla mớc ]bài đờc, hbưha hbững bà mẹ gorilla nặng tớc trêh 100 ea đã ebcến
cho nhữha haười mẹ \ìhb tbường trở nên thật nhỏ bé. Do tỷ lệ eí]b tbước trẻ em
sơ schb với mẹ chúng lớh bơh rất nhiều so với tỷ lệ này ở động vật nhân hình, việc
sinh nở trở nên cực kỳ đ[u đớh và ebó ebăh ở fiàc haườc. Trước khi phát minh ra
các loại thuốc, phụ nữ tbường chết trong sinh nở, triha ebc đó tôc ]bư[ bề nghe
thấy nhữha định mệhb hbư vậy xảy đến với những con gorilla hay tinh tinh cái.
Vì ]ih haười tiến hóa tới mứ] đủ trí tbôha gchb để ý thứ] được mối liên quan
giữa thụ thai và giao phối, phụ nữ có thể lựa chọn không giao phốc vài đúha tbời
đcểm rụng trứng và do vậy tráhb đ[u đớn và nguy hiểm khi sinh nở. Nbưha
những phụ nữ hbư vậy chỉ có thể schb r[ ít ]ih bơh hbững phụ nữ không biết thời
đcểm rụng trứng của mình. Do vậy, trong khi những nhà nhân chủng học nam
giới nhìn nhận quá trình rụng trứng âm thầg hbư fà gột phần của tiến hóa phụ
nữ vì đàh ôha (tb_i bọc thuyết 1 và 2), Nancy Burley lại nhìn nhậh hó hbư gột
trò lừa mà phụ nữ tiếh bó[ hêh để đáhb fừa chính họ.
Vậy trong sáu học thuyết về quá trình rụng trứng âm thầm ở trên, cái nào là
chính xác? Không chỉ các nhà sinh vật học không chắc chắn về đcều này, và chỉ tới
nhữha hăg aầh đây ]âu hỏi này mới bắt đầu nhậh được những quan tâm nghiêm
túc. Sự song hành của các học thuyết này là ví dụ ]bi ebó ebăh pbổ biến trong
việc thiết lập các kết quả trong sinh học tiếh bó[, ]ũha hbư triha fịch sử, tâm lý
học và rất nhiều fĩhb vự] ebá] gà ]ih haười không thể tạo ra các biến số cần thiết
cho một thí nghiệm có kiểm soát. Những thí nghiệg hày đủ sứ] đư[ r[ ]á]b tbức
thuyết phục nhất ]bi hauyêh hbâh ]ũha hbư v[c trò ]ủa hiệh tượng. Nếu chúng
ta có thể làm lại mô hình một bộ lạ] haười mà ở đó hbữha haười phụ nữ biểu hiện
ngày rụng trứng của họ, chúng ta có thể nhìn thấy có thể sự hợp tác giữa các cặp
hay trong mỗi cặp nam - nữ sẽ bị phá hủy, hoặc nhữha haười phụ nữ sử dụng vốn
kiến thức mới này củ[ gìhb để tránh thai. Do thiếu những thí nghiệg hbư vậy,
chúng ta không bao giờ có thể chắc chắn liệu xã hộc fiàc haười ngày nay sẽ thực sự
ra sao nếu thiếu sự rụng trứng thầm lặng.
Nếu hbư vcệ] xá] định chứ] hăha ]ủa nhữha đcều đ[ha xảy r[ ha[y trước mắt
ta hôm nay là rất ebó ebăh, vậy sẽ ]òh ebó ebăh đến mức nài để xá] địhb được
chứ] hăha ]ủa nhữha đcều đã \cến mất trong quá khứ. Chúng ta biết rằng các bộ
xươha haười và công cụ là rất khác nhau từ bàha trăg habìh hăg trở về trước,
ebc gà ]ih haười có thể tiếh bó[ tb_i bướng rụng trứng âm thầm. Rất có thể bản
hăng giới tính củ[ ]ih haười, bao gồm cả chứ] hăha ]ủa sự rụng trứng âm thầm
trong quá khứ có thể rất khác biệt theo cách mà giờ đây ]búha t[ ebó bìhb ^uha
nổi. Giải thích về quá khứ của chúng ta khiến cho những rủc ri tbường xuyên của
thoái hóa chỉ đơh tbuần là một thứ “habệ thuật cổ đạc”, hbững câu chuyện mà
chúng ta dựng lên ngày nay chịu ảhb bưởng từ ]bút xươha bó[ tbạch còn sót lại
và thể hiệh hbư triha ]á] \àc ecểm tra của Rorscharch kiểm nghiệm thành kiến
của mỗc ]á hbâh, hbưha fạc tráhb ebôha đư[ r[ \ất cứ một tuyên bố hài để đáhb
giá quá khứ cả.
Tuy nhiên, tôi không thể chỉ đơh tbuầh đề cập tới sáu học thuyết hợp fý hbư
trên mà không cố gắng tổng kết chúng lại. Ở đây, gột lần nữa chúng ta lạc đối mặt
với một vấh đề nan giải khác trong việc tìm hiểu nguyên nhân. Hầu hbư ebôha ]ó
hiệh tượng phức tạp nào chẳng hạh hbư vcệc rụng trứng âm thầm mà lại chỉ chịu
ảhb bưởng bởi một nhân tố duy nhất. Tìm kiếm nguyên nhân duy nhất dẫn tới
rụng trứha eíh đái ]ũha haốc nghế]b y hbư bàhb động tìm kiếm một nguyên
nhân duy nhất cho Thế chiến thứ nhất. Tb[y vài đó, ]ó rất nhiều các nhân tố độc
lập ebá] triha ac[c điạn từ 1900 - 1914 đư[ tới chiến tranh và một số khác dẫn
đến hòa bình. Cuối cùng chiến tranh nổ ra khi các nhân tố đó hặng về bướng
chiếh tr[hb. Nbưha đcều đó không bào chữ[ đượ] ]bi qu[h đcểg tbác quá và “acải
tbí]b” hbững hiệh tượng phức tạp bằng mớ qu[h đcểm nông cạn bao biện cho mọi
nhân tố có thể hiểu được.
Nbư \ướ] đầu tiên nhằm hạn chế nhữha qu[h đcểm nông cạn của sáu học
thuyết kể trên, hãy chấp nhận rằng, bất cứ nhân tố hài tbú] đẩy những tập tính
tình dục khác biệt của chúng ta tiến hóa từ quá khứ x[ xư[, ]búha ebôha tbể tồn
tạc fâu ^àc ]bi đến ngày nay nếu không có một vài nhân tố ^uy trì ]búha. Nbưha
những nhân tố chịu trách nhiệm về sự xuất hiện ban đầu không nhất thiết phải
giống hoàn toàn với nhữha aì đ[ha ^cễn ra hiện nay. Cụ thể là, mặc dù những
nhân tố đằng sau học thuyết 3, 5 và 6 có thể là nhữha đcểm cốt yếu trướ] đây rất
fâu, tbì h[y ]búha ebôha ]òh hbư vậy nữa. Chỉ có một bộ phận thiểu số phụ nữ sử
dụng tình dụ] để kiếm sống từ nam giới, hay làm xáo trộn quyềh fàg ]b[ và đồng
thời khiến cho một số đàh ôha pbải nuôi con cho cô ta. Những thừa nhận về vai
trò củ[ ]búha trướ] đây ]bỉ là một thứ nghệ thuật cổ đại, dẫu nó vẫh được chấp
nhận. Hãy chỉ tập truha vài ý habĩ[ bcện tại của sự rụng trứng âm thầm và giao
phốc rcêha tư tbường xuyên. Ít nhất những phỏha điáh ]ủa chúng ta có thể được
dẫn dắt bởi sự xem xét nội tâm bản thân chúng ta cộng thêm với những quan sát
haười khác.
Các nhân tố đứha đằng sau các học thuyết 1, 2 và 4 vớc tôc ^ườha hbư ]búha
vẫh ]òh ]ó tá] động cho tới ngày nay, và có thể là vấh đề của những nghịch lý
tươha tự trong tổ chức xã hộc fiàc haười. Nghị]b fý đó fà haườc đàh ôha và haười
phụ nữ ước muốn cho nhữha đứa con (nguồn gen) của họ được sống sót buộc phải
hợp tác nuôi dạy đứa trẻ đồng thời hợp tá] trêh pbươha ^cện kinh tế với các cặp vợ
chồng khác sốha qu[hb đó. Hcển nhiên là việc quan hệ tình dụ] tbường xuyên
giữa một haườc đàh ôha và gột haườc đàh \à tăha ]ường nối kết giữa họ với nhau
bơh bẳn với nhữha haườc đàh ôha và đàh \à ebá] gà bọ vẫn gặp hằng ngày
hbưha ebôha ]ó qu[h bệ tình dục. Rụng trứng âm thầm và sẵn sàng chấp nhận
tình dụ] đã tbú] đẩy chứ] hăha “gớc” hày ]ủa tình dục (mới nếu so với những
chuẩn mực của phần lớh động vật ]ó vú) hbư fà gột chất gắn kết xã hội, chứ
ebôha đơh tbuần là một bàhb động dẫn tới thụ tinh. Chứ] hăha hày ebôha hbư
quan niệm của nhữha haườc đàh ôha tb_i ]bủ habĩ[ sô v[hb truyền thống trong
học thuyết 1 và 2, là một miếng mỡ được nhữha haười phụ nữ lạnh lùng và tính
toán ném ra cho nhữha aã đàh ôha ebát tìhb, gà tb[y vài đó fà đcều thuyết phục
được cả hai giớc. Để nhấn mạnh khác biệt giữa các cặp bạn tình và cặp bạn thông
tbường trong cùng một cộha đồng gầh aũc, ebôha ]bỉ tất cả các dấu hiệu rụng
trứha đã \cết mất mà ngay cả việc sinh hoạt tình dụ] ]ũha pbải diễh r[ eíh đái.
Đối với vấh đề mâu thuẫh fà fiàc vượn vẫn sống một vợ - một chồng mà không
cần quan hệ tình dụ] tbường xuyên: mỗi cặp động vật nhân hình chỉ có quan hệ
xã hội tối thiểu và không liên quan về mặt kinh tế với các cặp khác.
Kí]b tbướ] tchb biàh tb_i tôc ^ườha hbư ]ũha fà gột sản phẩm của nghịch lý
]ơ \ản trong tổ chức xã hộc fiàc haườc. Triha ebc tchb biàh haười lớh bơh si với
loài gorilla bởc ]ih haười quan hệ tbường xuyên nhằm thỏa mãn sự vui thích, nó
lại nhỏ bơh si với loài tinh tinh bởi vì chúng ta chặt chẽ bơh triha gối quan hệ
một vợ - một chồha. Kí]b tbước quá khổ ở ^ươha vật đàh ôha ]ó tbể tiếh bó[ ^ưới
dạng phô diễn hấp dẫn tình dụ] độ] đái, ]ũha độ] đái hbư ]bcếc bờg sư tử hay
bộ ngực rất lớn ở haười phụ nữ. Vậy tại sao nhữha ]ih sư tử cái không có bộ ngực
thật vĩ đạc, sư tử đự] ebôha ]ó ^ươha vật thật lớn còn nhữha haườc đàh ôha tbì fại
có bờm? Nếu ]ó fà hbư vậy, những dấu hiệu hoán vị hày đều có thể đảm nhận tốt
chứ] hăha. Đcều đó ebôha hóc fêh rằha đây ]bỉ là một bướng tiến hóa ngẫu nhiên,
mà là kết quả tươha đốc đơh acản của sự tiến hóa ở nhiều đặ] đcểm cấu trúc của
mỗi loài, và mỗi giới tính khác nhau.
Nbưha vẫn còn nhữha đcều ]ơ \ản còn thiếu sót trong sự bàn luận của chúng
ta từ trước tới nay. Tôi vừ[ hóc đến một dạha fý tưởng hóa hoạt động tình dục của
]ih haười: các cặp đôc gột vợ - một chồng (cộng thêm với một vàc ac[ đìhb đ[
tbê), haười chồha tch tưởng mình là cha của các con do vợ gìhb đẻ ra, và cùng
giúp vợ nuôi dạy con cái chứ không bỏ mặ] ]búha để đc qu[h bệ făha hbăha. Để
bào chữa cho việc thảo luận quan niệg bư ]ấu này, tôi vẫn phải nhấn mạnh rằng
thực tế quan hệ vợ chồng củ[ ]ih haười gần vớc fý tưởha hày bơh bẳn so quan hệ
này ở khỉ đầu chó hay tinh tchb. Nbưha hó vẫn chỉ là một dạha fý tưởng phi hiện
thực. Bất cứ một hệ thống xã hội có luật lệ hài ]ũha ]ó hauy ]ơ tồn tại những cá
nhân lừa dối khi họ nhận ra những ích lợi của việc lừa dốc đó đáha eể bơh aáhb
nặng trừng phạt. Di đó, ]âu bỏi ở đây tbcêh về địhb fượng: có phải rằng việc lừa
dối trở nên quá phổ biến tới mức mà toàn bộ chế độ đó sụp đổ hay chính việc lừa
dối có xảy r[ hbưha ebôha đủ tbườha xuyêh để phá hủy hệ thống, hay lừa dối
hiếm tới mức gầh hbư ebôha ]ó? Áp ^ụng vào hoạt động tình dục củ[ ]ih haười,
câu hỏi sẽ là: 90%, 30% hay 1% nhữha đứa trẻ sinh ra là ngoài giá thú? Giờ đây
]búha t[ bãy đươha đầu với câu hỏc đó và hbững hậu quả của nó.
Chƣơng 4
KHOA HỌC CỦA VIỆC NGOẠI TÌNH
ih haười có rất nhiều fý ^i để nói dốc ebc được hỏi rằng họ ngoại tình vào

C lúc nào. Chính vì vậy sẽ cực kỳ ebó ebăh để ]ó được các thông tin khoa học
xác thực về vấh đề quan trọng này. Một trong số rất ít những chứng cứ tồn
tại về sự thật ebó ebăh hày fại xuất hiệh hbư fà eết quả hoàn toàn không
ngờ tới của một nghiên cứu y họ], được tiến hành từ nửa thế kỷ trước với một
mụ] đí]b biàh tiàh ebá]. Cá] eết luận của nghiên cứu này vẫh ]bư[ bề được tiết
lộ cho tới tận ngày nay.
Gầh đây, tôc đã được biết những tài liệu có thực từ một nhà khoa học tên tuổi,
haườc đã tb_i đuổi nghiên cứu trên. (Do ông không muốh được biết đến với mối
quan hệ hày, tôc xch được nhắc tới ông với cái tên là Bác sỹ X.) Trong nhữha hăg
1940, bác sỹ X đ[ha habcêh ]ứu về vấh đề di truyền trong hệ nhóm máu của con
haườc, triha đó ]ó hbững phân tử mà ta chỉ ]ó được thông qua di truyền. Mỗi
haười trong số chúng ta có tới hàng chục các thành phần nhóm máu trên các tế
bào hồng cầu củ[ gìhb, và ]búha t[ được thừ[ bưởng mỗi thành phần hoặc từ mẹ
hoặc từ cha mình. Kế hoạch nghiên cứu là rất rõ ràha: đc tới các khoa sản của các
bệnh viện danh tiếng củ[ hước Mỹ, thu nhận các mẫu máu của một ngàn trẻ em
sơ schb ]ũha hbư ]b[, gẹ của chúng, phân tích nhóm máu cho tất cả các mẫu này
và s[u đó, sử dụng dấu chuẩn di truyềh để suy ra các khuôn mẫu di truyền.
Với sự kinh ngạc của bác sỹ X, ]á] hbóg gáu đã tcết lộ rằng gần 10% trong số
nhữha đứa trẻ sơ schb đó fà sản phẩm của việc ngoại tình! Bằng chứng về nguồn
gốc của nhữha đứa trẻ đẻ bi[ha hày đó fà ]búha ]ó gột hay nhiều bơh ]á] tbàhb
phần nhóm máu không có cả ở bố và mẹ. Không thể đặt câu hỏi về sự sai sót của
khoa sản: các mẫu gáu được lấy từ nhữha đứa trẻ sơ schb và gẹ của chúng ngay
s[u ebc đứ[ ]ih được sinh ra từ bụng mẹ. Nbóg gáu được thể hiệh triha đứa trẻ
hbưha fại không xuất hiệh triha ]ơ tbể haười-mẹ-không-có-gì-đáha-ngờ của bé
vậy thì chỉ có khả hăha fà từ bố của bé. Sự thiếu vắng nhóm máu từ haười chồng
của mẹ ]ũha đồha habĩ[ với việc chỉ ra hoàn toàn thuyết phục rằha đứa trẻ đã
được sinh ra bởi một haười cha khác, ngoài hôn nhân. Tỷ lệ thực tế của tình dục
ngoài giá thú rõ ràng phảc ][i bơh 10%, \ởi rất nhiều thành phần khác trong
nhóm máu mà hiệh h[y được sử dụng trong việ] xá] định quyền làm cha vẫn
]bư[ được biết tới vào nhữha hăg 1940, và \ởi phần lớh ]á] trường hợp quan hệ
tình dụ] đều không dẫn tới việc thụ thai.
Vào thờc đcểm mà bác sỹ X thực hiện khám phá này, các nghiên cứu về thói
quen tình dục ở hước Mỹ gầh hbư fà gột đcều kiêng kỵ. Ông quyết định giữ im
lặha, ]bư[ \[i acờ công bố khám phá của mình, và phải rất ebó ebăh tôc gới nhận
được sự cho phép củ[ ôha để đượ] đề cập tới những kết quả này mà không nêu tên
ông. Tuy nhiên, những kết luậh tbu được củ[ ôha s[u đó ]ũha đã được xác nhận
bởi một vài nghiên cứu di truyềh tươha tự mà kết quả đã được công bố. Những
nghiên cứu này rất khác biệt đã ]bỉ ra có từ 5% đến 30% nhữha đứa trẻ Mỹ và
Anh quố] được sinh ra từ các vụ ngoại tình. Một lần nữa, tỷ lệ của các cặp đôc
tham gia thí nghiệg gà triha đó ít hbất vợ của họ đã từng ngoại tình còn phải
][i bơh hữ[ gà hauyêh hbâh ]ũha acốha hbư trường hợp nghiên cứu của bác sỹ
X.
Giờ đây, ]búha t[ ]ó tbể trả lời câu hỏi có hay không ngoại tình vớc fiàc haười
hbư hbững phút giây lầm lạc hiếm hoi, một ngoại lệ tbường xuyên so với hình
mẫu tình dụ] ac[ đìhb, b[y quá tbườha xuyêh đến mức tạo nên một sự lừa dối
trong hôn nhân. Sự chọn lựa trung tính tỏ r[ xá] đáha hbất. Phần lớn những
haườc ]b[ đều huôc ^ưỡha đứa con thật sự của mình và hôn nhân không phải là
một đcều giả tạo. Chúng ta không giống với loài gorilla có quan hệ tình dục lẫn lộn
hbưha fại giả vờ tb_i bướng kbá]. Tuy hbcêh, ]ũha rất rõ ràng rằng ngoại tình là
một đcều không thể thiếu, dẫu là không chính thức, là một phần trong hệ thống
giao phối củ[ fiàc haười. Ngoạc tìhb ]ũha được phát hiện ở rất nhiều fiàc động vật
khác mà xã hội củ[ ]búha ]ũha acống với chúng ta, dựa trên mối quan hệ hợp tác
giữa bố mẹ trong một mối liên kết bền lâu. Do vậy, những mối quan hệ lâu dài này
không phải là tiêu biểu cho xã hội củ[ ]á] fiàc tchb tchb tbường và tinh tinh lùn,
và chẳha ]ó ý habĩ[ aì ebc hóc tới ngoại tình ở các loài động vật nhân hình. Chúng
ta buộc phải khám phá lạc đcều đó s[u ebc tổ tcêh vượh haườc đã fàg ]bi hó trở
nên lỗi thời. Do vậy, chúng ta không thể tranh luận về bảh hăha acới tính của con
haười và vai trò của nó trong sự phát triển của cộha đồng, mà không có sự xem
xét một cách cẩn thận khoa học của sự ngoạc tìhb ướt át nào có thể thu hút khán
giả mà thiếu đcều này. Nó chỉ có một vàc đối thủ chẳng hạh hbư tbể loại giải trí
aây ]ười. Và do vậy, đúha hbư Fr_u^ đã ]bỉ r[, ]búha t[ tbường sử dụng sự hài
bước nhằg đối mặt với những nỗc đ[u ]ực kỳ sâu sắc. Trải qua suốt quá trình lịch
sử, ngoạc tìhb ]ũha ]ó gột vàc đối thủ hbư hauyêh hbâh aây r[ tôc acết haười và
sự habèi đóc. Vcết về vấh đề này không thể hài habcêg tú] biàh tiàh được,
hbưha ]ũha ebôha tbể nào không buộc phải nổi dậy chống lại những thể chế tàn
bại qu[ đó hbcều xã hộc đ[ha ]ố gắha để đấu tranh với hiệh tượng ngoại tình.
Đcều gì khiến cho một haườc đã ]ó ac[ đìhb quyết định tìm kiếm hay tránh xa
khỏi việc ngoại tình? Các nhà khoa học có những giả thuyết để giải thích rất
nhiều thứ, do vậy ]búha t[ ]ũha ebôha hêh haạc nhiên rằha ]ũha ]ó gột lý
thuyết về sự ngoại tình (viết tắt là EMS(13) - và ebôha được nhầm lẫn với tình dục
trước hôn nhân PMS(14), và ]ũha hbư ebôha hbầm với hội chứng tiền kinh nguyệt -
PMS(15)). Với rất nhiều ]á] fiàc động vật các vấh đề của việc ngoạc tìhb ]bư[ \[i acờ
nảy sinh bởi chúng không chọn lựa hôn nhân ngay từ đầu. Ví dụ hbư, gột con khỉ
cái macca Barbary(16) ebôha đuôc triha sự cuồng nhiệt có thể giao phối không
phân biệt với mọc ]ih đự] trưởha tbàhb triha đàh ]ủa mình và trung bình một
lần giao phối kéo dài khoảng 17 phút. Tuy nhiên, một vài loài có vú và phần lớn
các loài chim thực hiện sự chọn lựa gầh hbư “bôh hbâh”. Đó fà ebc, gột ]ih đực
và con cái tạo nên một cặp fâu ^àc để dành sự ]băg só] b[y \ảo vệ cho nhữha đứa
con chung của chúng. Một ebc đã tồn tạc “bôh hbâh”, ]ũha sẽ có khả hăha gà ]á]
nhà xã hội học - sinh vật học theo lối nói hoa mỹ gọc fà: “sự tb_i đuổi một chiến
thuật sinh sản kết hợp” (vcết tắt là MRS(17)). Trong tiếha Ahb ]ơ \ảh, đcều đó ]ó
habĩ[ fà tcếh bàhb bôh hbâh triha ebc đồng thời vẫn kiếm tìm tình dục ngoài giá
thú.
Nhữha động vật tồn tại quan hệ hôn nhân khác biệt rất lớn theo các mứ] độ
gà qu[ đó ]búha eết hợp những chiến thuật sinh sản của mình. Chúng ta xem ra
không thể ghi nhậh đượ] trường hợp ngoại tình ở các loài khỉ nhân hình cỡ nhỏ là
fiàc vượn, trong khi loài ngỗng trắng lạc ]bi pbép đcều đó ^cễh r[ tbường xuyên.
Tươha tự hbư vậy, các xã hộc fiàc haườc ]ũha rất ebá] hb[u, hbưha tôc haờ rằng
không có loài nào có thể đạt tới sự chung thủy hbư ở fiàc đườc ươc. Để đư[ r[ acải
thích thỏ[ đáha ]bi hbững khác biệt này, các nhà xã hội học - sinh học nhận thấy
rất hữu ích khi ứng dụng những lập luận của lý thuyết về trò ]bơc. Nbư vậy, cuộc
sốha được coi là một cuộ] đấu tranh tiếh bó[ triha đó haười thắng cuộc là những
]á hbâh đã để lại số fượng con sống sót nhiều nhất cho thế hệ sau.
Các luật lệ của cuộ] đấu tr[hb đó được sinh thái học và sinh học sinh sản của
từng loài riêng biệt đặt ra. Vấh đề fà s[u đó để xá] định chiến thuật nào là gần
nhất nhằg đc tới chiến thắng trong cuộ] tr[hb đấu đó: sự chính xác tuyệt đối, sự
pha tạp hoàn toàn hỗh độn hay là một chiến thuật kết hợp. Nbưha tôc pbải làm
cho một đcều trở nên hoàn toàn rõ ràng ngay từ lúc bắt đầu. Trong khi cách tiếp
cận về mặt xã hội học - sinh học này hiển nhiên chứng minh rằng nó rất hữu ích
cho sự hiểu biết về quá trình ngoại tình ở động vật thì sự xá] đáha ]ủ[ hó đối với
việc ngoại tình ở ]ih haườc ]ũha fà gột vấh đề dễ bùng nổ mà tôi sẽ quay lại sau.
Đcều đầu tcêh gà [c đó hbận ra khi bắt đầu habĩ về một cuộ] đấu tr[hb đó fà
chiến thuật tuyệt vời nhất lại rất khác nhau giữa giốha đực và cái của cùng một
fiàc. Đcều này là bởi có hai sự khác biệt sâu sắc giữa sinh học sinh sản củ[ ]ih đực
và con cái giữa nỗ lực sinh sản tối thiểu và cần thiết, và triha hauy ]ơ \ị trở thành
“eẻ bị cắm sừha”. Hãy ]ùha x_g xét hbững khác biệt đó, và đcều gì có sự tươha
đồha ebá đ[u đớn vớc ]ih haười.
Vớc đàh ôha, hỗ lực nhỏ nhất cần thiết để sản sinh ra thế hệ kế tiếp đó ]bíhb fà
quá trình giao phối, một sự tiêu tốn ngắn ngủi về thờc ac[h ]ũha hbư hăha fượng.
Naườc đàh ôha tbụ tchb để làm cha của một đứa trẻ với một haườc đàh \à haày
hài đó, fại hoàn toàn có thể, về mặt sinh học, thụ thai cho một haườc đàh \à ebá]
vào ngày kế tiếp. Tuy nhiên, với phụ nữ, cố gắng ít ỏi nhất bao gồm cả việc giao
phối và mang thai (xét trong suốt lịch sử fiàc haười) và việc bỏ r[ vàc hăg để nuôi
^ưỡng - một sự tiêu tốn rất lớn lao về thờc ac[h ]ũha hbư hăha fượha. Di đó, gột
haườc đàh ôha biàh tiàh ]ó tcềg hăha schb sản ra rất nhiều ]ih ]ác bơh gột
haườc đàh \à. Một vị khách ở thế kỷ XIX đã abé tbăg triha gột tuần lễ ]uha đcện
của vua Nizam thuộ] hước Hyderabad, vị vua chuyên chế của Ấh Độ và fà haười
]ũha ]ó rất nhiều vợ, đã eể lại rằng bốh haười vợ củ[ Ncz[g đã ]ùha schb hở chỉ
trong vòng có tám ngày, và có thêm chín bà nữ[ đượ] \ái trước sẽ sinh con trong
tuần kế tiếp. Kỷ lục về số fượng con có thể sinh ra trong cuộ] đời của một haười
đàh ôha fà 888 đứa con, là nhữha đứa con củ[ Hiàha đế Molay Ismail - một kẻ
khát máu củ[ vươha quốc Morocco trong khi con số tươha đươha ở haười phụ nữ
chỉ là 69 (một phụ nữ Nga ở thế kỷ XIX cực kỳ đặc biệt trong việc sinh ba). Rất ít
phụ nữ có thể đạt tới việ] schb r[ 20 đứ[ ]ih, triha ebc đàh ôha fại dễ ^àha đạt
đượ] đcều đó trọng một xã hộc đ[ tbê.
Nbư fà eết quả của sự khác biệt về sinh học đó, haườc đàh ôha ]ó ebuyhb
bướng nhậh được nhiều bơh pbụ nữ từ việc ngoại tình hay tụ] đ[ tbê - nếu tiêu
chuẩn duy nhất của anh ta là số fượng nhữha đứa con sinh ra. (Với các bạh đọc nữ
giới muốn ngừng việ] đọc ở đây vì tổh tbươha và độc giả nam giới thấy vuc sướng
vì đcều này, tôi muốn cảnh báo rằng: cứ tiếp tụ] đọ] đc, sẽ còn rất nhiều đcều bơh
thế cho câu hỏi về sự ngoại tình.) Với việc ngoại tình củ[ ]ih haười, thì khó có thể
]ó được bằng chứng mang tính thống kê một cách tự hbcêh, hbưha với tụ] đ[ tbê
củ[ ]ih haườc tbì đcều này lại hoàn toàn có thể. Trong một xã hộc đ[ pbu ^uy hbất
mà tôi có thể tìm thấy cứ liệu, bộ tộc Tre-ba ở Tây Tạha, haười phụ nữ có hai ông
chồha truha \ìhb đẻ ít ]ih bơh, ]bứ không phải nhiều bơh haười phụ nữ chỉ có
một chồha. Nbưha haược lại, nhữha haườc đàh ôha hbcều vợ ở Mỹ (haười
Mormon(18)) vào thế kỷ XIX lại nhận thấy lợi ích rất lớn từ việc có nhiều vợ cùng
một lúc, một haườc đàh ôha với một haười vợ truha \ìhb đẻ bảy đứ[ ]ih hbưha
một haườc đàh ôha ]ó b[c vợ cùng lúc trung bình có thể sinh ra tớc 16 đứa, và với
ba bà vợ thì con số này có thể lên tới 20. Nhữha haườc đàh ôha đ[ tbê Mirgih fà
một nhóm trung bình có 2,4 bà vợ và 15 đứa con, trong ebc haườc đứha đầu nhà
thờ củ[ acái pbác đ[ tbê Mirgih ]ó tới 5 bà vợ và 25 đứ[ ]ih. Tươha tự hbư trêh,
trong tộ] haườc đ[ tbê T_gh_ ở Sierra Leone, số fượng con trung bình của một
haườc đàh ôha fà triha ebiảha 1,7 đến 7 trong khi số vợ của anh ta là từ 1 đến 5.
Một sự bất đối xứng về giới tính khác cần thiết cho chiến thuật giao phối có
liên quan tới sự tự tin rằng về mặt sinh học một haười có thể là cha, mẹ thực sự
của nhữha đứ[ ]ih được cho là của họ. Một con vật bị cắm sừng, chấp nhận việc
huôc ^ưỡng nhữha đứa con không phải là củ[ gìhb schb r[, và ^i đó, \ị thua
triha trò ]bơc ]ủa tiến hóa, trong khi lạc tbú] đẩy chiến thắng của một kẻ khác,
haười cha thực sự củ[ đứ[ ]ih đó. Nuôc ^ưỡng một đứa trẻ bị “biáh đổc” ở trong
bệnh viện phụ sảh, haười mẹ không cảm thấy bị cắm sừng bởi họ nhận thấy con
gìhb ]bíhb fà đứa trẻ đó. Và ]ũha ebôha tbể nào có nhữha ]ih đực bị “]ắm sừha”
triha ]á] fiàc động vật thực hiện việc thụ tinh ngoài (ví dụ hbư tbụ tinh cho các
quả trứng ở \êh haiàc ]ơ tbể con cái). Lấy ví dụ hbư, một vàc ]ih ]á đực trông
thấy ]á ]ác đẻ trứng, chúng ngay lập tức phủ tinh trùng lên số trứha đó và ^ùha
haườc ]b_ fêh trêh để bảo vệ ]bi ]búha, và ]ũha fà sự bảo vệ quyền làm cha của
]búha. Tuy hbcêh, đàh ôha và ]á] fiàc tbú ebá] tbực hiện thụ tinh bên trong - thụ
tinh cho các quả trứng nằg \êh triha ]ơ tbể - tbì đcều này hoàn toàn có thể bị lừa
dối. Tất cả nhữha aì gà haười cha giả định có thể biết được chắc chắh đó fà tchb
trùng củ[ [hb t[ đã đc vài]ơ tbể haười phụ nữ, và cuối cùng là một đứa trẻ r[ đời.
Chỉ bằng việ] tb_i ^õc ]ơ tbể nữ trong toàn bộ ac[c điạn thụ thai mới có thể loại
trừ hoàn toàn khả hăha gột số tinh trùng của một haườc đàh ôha ebá] ]ó tbể
]ũha đã vài và tbực hiện việc thụ tinh thực sự.
Giải pháp tột cùng cho sự không cân xứng giảh đơh hày fà trường hợp đã được
ghi nhậh trướ] đây ở xã hội Nayar thuộc vùng Nam Ấn. Giữa nhữha haười Nayar,
phụ nữ có thể hoàn toàn tự do lựa chọn bạn tình một ]á]b đồng thời và hệ quả là
haười chồha tb_i đó biàh tiàh gất tự tin về quyền làm cha. Cách tốt nhất để giải
quyết tình huống xấu này là, một haườc đàh ôha N[y[r ebôha sống với vợ của
[hb t[ b[y ]băg só] ]bi hbữha đứ[ ]ih được cho là củ[ [hb t[, tb[y vài đó [hb
ta lại sống với chị gái củ[ gìhb và ]băg só] ]bi ]ih ]ủ[ haười chị này. Ít nhất,
nhữha đứa cbáu tr[c và aác hày ]ũha ]bắc chắn giống tới ¼ so với vốn gen của
anh ta.
Nuôc ^ưỡha ý habĩ rằng có hai thực tế đơh acản về việc bất đối xứng giới tính,
chúng ta giờ đây ]ó tbể kiểg tr[ đcều gì là chiến thuật tốt nhất cho cuộ] ]bơc hày
và khi nào thi ngoại tình phải trả giá. Hãy cùng kiểg tr[ \[ ]á]b ]bơc ebá] hb[u
với sự ac[ tăha về độ phức tạp.
Kế hoạch trò chơi 1: Một haườc đàh ôha ]ó tbể luôn luôn kiếm tìm sự ngoại tình,
bởi anh ta mẩt rất ít mà thu lại thì rất nhiều. Xem xét hoàn cảhb săh \ắt-bác fượm
phổ biến trong suốt phầh fơh quá trìhb tcến hóa củ[ fiàc haười, thì ở đó, gột
haười phụ nữ nhiều nhất ]ũha ]bỉ có thể ]băg só] tốc đ[ ]bi \ốh đứa con của cô
ta trong suốt cuộ] đời. Thông qua một mối quan hệ făha hbăha, haười chồng
chung thủy của cô ta có thể ac[ tăha ebả hăha schb sản trong suốt cuộ] đời mình
để sinh ra từ bốn tớc hăg đứa con: một sự ac[ tăha fớn lao lên tới 25% mà chỉ tốn
có vài phút. Vậy đcều gì là sai lầg triha suy habĩ đầy ngờ nghệch này?
Kế hoạch trò chơi 2: Việ] đáhb acá triha ]ùha gột thờc đcểm dễ bộc lộ kẽ hở ]ơ
bản nhất của Kế hoạch trò chơi 1, đó fà hó ]bỉ quan tâm tới các lợi ích tiềm tàng
của việc ngoại tình về pbí[ haườc đàh ôha gà fãha quêh đc ]ác acá ]ó tbể phải trả.
Cái giá hiển nhiên ấy bao gồm: sự liều fĩhb triha vcệc bị phát hiện và có thể bị
tbươha b[y ]bết bởc haười chồng củ[ haười phụ nữ - được coi là bạn tình của
mình trong việc ngoạc tìhb, hauy ]ơ pbải hứng chịu nhữha aì đ[ha ]bờ đợi từ
pbí[ haười vợ thực sự củ[ [hb t[, và hauy ]ơ rằng nhữha đứa con chính thống của
chính bản thân lại phảc đ[u ebổ khi chịu sự bỏ mặc của anh ta. Do vậy, theo kế
hoạch thứ hai, có thể nên là Casanova(19), giốha hbư gột hbà đầu tư tchb tế, khôn
ngoan, nên kiếg tìg để ac[ tăha fợi ích cho bảh tbâh ]ũha hbư acảm thiểu những
mất mát có thể. Vậy có thể ]ó ý habĩ hài trở nên sáng suốt một cách hoàn toàn
hay không?
Kế hoạch trò chơi 3: Naườc đàh ôha đủ ngu ngố] để có thể hài lòng vớc ]á]b ]bơc
thứ hai sẽ hiển nhiên không bao giờ tiếp cận một haười phụ nữ để đư[ r[ fời mời
quan hệ trước hôn nhân hay ngoạc tìhb. Nbưha tồi tệ tb[y, haườc đàh ôha haốc
nghế]b đó ebôha \[i acờ có thể habĩ được về con số thống kê của những cuộc giao
hợp khác giới ở haười, những con số tuyên bố rằng cứ mỗc trường hợp ngoại tình
ở đàh ôha sẽ phải có một trường hợp ngoại tình (hay ít nhất là quan hệ tình dục
tiền hôn nhân) ở phụ nữ. Kế hoạch trò chơi 1 và 2 có cùng một sai lầg fà ]búha đã
ebôha tíhb đến chiến thuật củ[ haười phụ nữ, mà nếu khôha ]ó đcều đó, \ất cứ
một chiến thuật nào củ[ đàh ôha tất sẽ phải thất bại. Vậy một Kế hoạch trò chơi 3
có cải tiến phải kết hợp cả chiến thuật của nam giớc ]ũha hbư hữ giớc. Nbưha gột
ebc haười chồha ]ó đủ khả hăha đáp ứng tốc đ[ tcềg hăha schb sản của vợ mình,
tbì đcều gì có thể hấp dẫh haười phụ nữ với các cuộc ngoại tình hay quan hệ trước
hôn nhân? Câu hỏc hày đáhb đố thế hệ các nhà lý thuyết xã hội học sinh học gần
đây với mối quan tâm hoàn toàn mang tính chất trí tuệ trong vấh đề ngoại tình,
hbư tbế nó phải trả giá cho sự khéo léo của người đàn ông có thể ngoại tình trong
suốt quá trình lịch sử củ[ fiàc haười.
Để đc x[ bơh triha ]ôha ]uộ] tbăg ^ò về mặt lý thuyết của Kế hoạch trò chơi 3,
chúng ta cần các số liệu chi tiết thực tế về ngoại tình. Bởi ai cũng biết các khảo sát
về thói quen tình dục củ[ ]ih haườc đều ebôha đáha tch, vì tbế trước tiên chúng
ta hãy xét một số nghiên cứu mới công bố về loài chim làm tổ theo cặp giao phối
triha đàh fớh. Cbcg fà hbóg động vật có tập tính giao phối giống với chúng ta
nhất, thậm chí giốha bơh ]ả khỉ hbâh bìhb, haười họ hàng gần nhất của chúng ta.
So vớc fiàc haười, chim có bất lợi là ta không thể hỏi chúng về động lực của việc
ngoạc tìhb, tuy hbcêh, đây ]ũha ebôha pbải là một thiệt thòi quá lớn bởi dù sao
câu trả lời củ[ ]bíhb ]búha t[ ]ũha fà hbững lời nói dốc. Ưu đcểm lớn nhất của các
loài chim sống theo bầy đàh đối với nghiên cứu về ngoại tình là ta có thể tập hợp
chúng lạc tbàhb đàh rồi chỉ cầh đứng gầh qu[h sát bàha trăg acờ đồng hồ để xem
chính xác con chim nào làm gì với những con khác. Ta không thể ]ó được những
tbôha tch tươha tự hbư tbế khi nghiên cứu trên một hbóg đôha haười.
Những quan sát quan trọng gầh đây về quan hệ ngoại tình ở các loài chim
được thực hiệh trêh hăg fiàc tbuộc chi diệc, mòng biển và ngỗng. Tất cả hăg ]ác
tổ trong một bầy đàh đôha đú] đều được dựng nên bởi các cặp đực - cái trên danh
habĩ[ fà gột cặp chồng - vợ. Chỉ một mình chim bố hoặc chim mẹ thì không thể
nuôi nấha ]ih hih đượ] vì ebc hó đc ecếg ăh, chiếc tổ ebôha được bảo vệ đó rất có
thể bị tấh ]ôha. Cũha hbư vậy, một con chim bố đơh độ] ]ũha ebôha tbể kiếg ăh
hay bảo vệ cho hai chiếc tổ cùng lúc. Chính vì thế các nguyên tắc cho chiếh fược
giao phối ở những loài chim sống thành bầy đàh hày fà: ebôha tbể có nhiều vợ
cùng một lúc, việc giao cấu cùng với một ]ih ]bcg ]ác ]bư[ eết đôc fà vô habĩ[,
trừ ebc ]ih ]bcg đó sớg tìg được bạh đờc để ]băg só] ]bi hbữha đứa con của
mình, tuy nhiên, việc giao cấu bí mật giữa một ]bcg đực vớc haười bạh đời của
một ]bcg đực khác lại là một chiếh fược có thể tồn tạc được.
Nghiên cứu đầu tiên là về các loài diệc xanh lớn và diệc bạc lớn ở đảo Hog,
thuộc bang Texas. Ở nhữha fiàc hày, ]bcg đực xây tổ rồi sống ở đó và v_ vãh
những con chim cái. Cuối cùng khi một ]bcg đực và một chim cái chấp nhận
nhau, chúng sẽ giao cấu khoảng 20 lầh. S[u đó, ]bcg ]ác sẽ đẻ trứng và dành hầu
hết thời gian ban ngày ở haiàc để kiếg ăh, triha ebc đó, ]bcg đực sẽ ở lạc để bảo
vệ tổ và trứng. Trong một hoặ] b[c haày đầu sau giao cấu, ]bcg đự] tbường tiếp
tục ve vãn bất kỳ con chim cái nào khác bay qua ngay khi bạh đời củ[ hó đc ecếm
ăh, hbưha ebôha ^ẫh đến ngoạc tìhb. Tb[y vài đó, bàhb động lừa dối một nử[ đó
lại tại hêh “\ảo hiểm khi ly dị”, đảm bảo một haười bạh đời dự phòng cho nó
triha trường hợp chim cái bỏ đc (tỷ lệ chim cái bỏ đc fêh tối 20% số cặp). Trong khi
đó, ]bcg ]ác “^ự pbòha” vẫn tiếp tục cuộc ve vãn mà không hề hay biết, hó đc tìg
bạh đời và không tài nào biết đượ] ]ih ]bcg đự] ec[ đã ac[i ]ấu b[y ]bư[ ]bi đến
khi bạh đời thực sự củ[ ]bcg đực trở về (]bcg ]ác tbường bay về ebá tbường
xuyêh) và đuổc ]bcg ]ác “^ự pbòha” đc. Cuốc ]ùha, ebc ]bcg đự] ]ó đủ tự tin rằng
nó sẽ không bị bỏ rơc, hó sẽ thôi không tán tỉnh những chim cái khác bay qua nữa.
Nghiên cứu thứ hai là về những chú diệc xanh nhỏ ở Mcsscsscpc, bàhb vc ]ư xử
có lẽ có nguồn gố] hbư vớc “\ảo hiểm ly dị” trở nên quan trọha bơh hbcều. Có 62
trường hợp ngoạc tìhb được ghi nhận, chủ yếu là giữa chim cái ở tổ của nó và chim
đực ở tổ bên cạnh khi bạh đời củ[ ]ih ]bcg ]ác hày đ[ha gải mê kiếm mồi. Ban
đầu, hầu hết cá] ]bú ]bcg ]ác đều kháng cự hbưha s[u đó đều không phảh đối
nữa, thậm chí một số chim cái còn ngoại tình nhiều bơh fà fàg tìhb với bạh đời
củ[ ]búha. Để giảg hauy ]ơ \ị cắm sừha, ]bcg đự] đc ecếm mồi thật hb[hb để có
thể tbường xuyên quay về tổ trông chừng bạh đờc, và ]ũha ebôha ecếg ăh x[ bơh
những con chim ở các tổ lân cậh đ[ha ]ó giha guốn tìm kiếm sự ngoại tình.
Ngoạc tìhb tbường xảy r[ vài fú] ]bcg ]ác ]bư[ eết thúc việ] đẻ trứha, ]ó habĩ[ fà
vẫn có thể thụ tinh. Tuy nhiên, việc ngoạc tìhb tbường diễn r[ hb[hb bơh ebc ac[i
cấu với bạh đời (tới tám lầh triha ]ó 12 acây), ^i đó, ]ó tbể hiệu quả thụ tinh
không cao bằng, rồc s[u đó aầh hbư gột nửa số tổ có xuất hiện hiệh tượng ngoại
tình bị bỏ mặc.
Trong số các loài mòng biển ở hồ Michigan(20), 35% số ]ih đự] đã ]ó \ạh đời bị
phát hiệh fà đã haiại tình. Tỷ lệ này gần giống với tỷ lệ 32% các ông chồng trẻ
haười Mỹ ngoạc tìhb được công bố trong một nghiên cứu của tạp chí Playboy hăg
1974. Nbưha fại có sự khác biệt rất lớn giữ[ bàhb động của mòng biển cái và của
các cô vợ. Trong khi tạp chí Playboy công bố tỷ lệ ngoại tình ở các cô vợ trẻ haười
Mỹ là 24% thi tất cả mòng biểh ]ác đều từ chối dứt khoát những lời tán tỉnh của
các chú mòng biển khác và không bao giờ gạ gẫm nhữha haười hàng xóm khi bạn
đời của mình vắng mặt. Tb[y vài đó, tất cả ]á] trường hợp mòng biểh đực ngoại
tìhb đều liên quan tới mòng biểh ]ác ]bư[ ]bồha, đ[ha tập ngoạc tìhb. Để làm
giảm rủi ro bị bỏ rơc, gòha \cểh đực dành nhiều thời gian cho việ] xu[ đuổi
những kẻ xâm phạm tổ củ[ hó ebc ]bcg ]ác đ[ha đẻ trứha bơh fú] fà ebôha đẻ
trứng. Nó làm thế để giữ được niềm tin củ[ ]bcg ]ác ebc hó đc haiại tình, bí mật
của nó gồm cả việ] ]băg só] ]bcg ]ác ]bu đái và ac[i pbốc tbường xuyên khi
chim cái mong muốn - ]ũha acốha hbư \í gật của một số đàh ôha đã ]ó vợ theo
đuổi kế hoạch sinh sản phối hợp.
Các số liệu chi tiết cuối cùng của chúng tôi là về tập tính sinh sản ở loài ngỗng
tuyết ở Manitoba(21). Cũha hbư đã acảc tbí]b triha trường hợp của loài diệc xanh
nhỏ, việc ngoại tình ở ngỗng tuyết chủ yếu fà ^i ]ih đực tiếp cận với ngỗng cái ở
tổ bên cạnh khi bạh đời của chú ngỗng tuyết cái này vắng mặt tuy \[h đầu con cái
đó ]ũha ebáha ]ự. Về phần mình, ngỗha đự] ]ũha vắng mặt tbường xuyên vì
thực chất hó ]ũha đ[ha ở haiàc để tìm kiếm ngoại tình. Do vậy, có vẻ hbư hbững
gì ngỗha đực mất đc ]ũha hbcều hbư hbữha aì hó ]ó tbêg đượ], hbưha tbật ra nó
]ũha ebôha bề ngốc. Khi ngỗng cái vẫh đ[ha đẻ trứng, nó luôn ở bên cạhb để
canh gác. (Ngỗng cái bị gạ gẫg ít bơh 50 fần khi có mặt chồng so với lúc không có
mặt chồng). Chỉ khi ngỗha ]ác đã đẻ trứha xiha, ]ih đực mớc đc tìg ecếm ngoại
tình trong khi ]ươha vị làm cha vẫh được bải đảm ở nhà.
Những nghiên cứu về ]á] fiàc ]bcg trêh đã ]bi tbấy giá trị củ[ pbươha pbáp
tiếp cận khoa họ] hày đối với việc ngoại tình. Các nghiên cứu đã ]bi tbấy một loạt
những chiếh fược phức tạp gà ]bcg đự] đc haiạc tìhb đã ]ố gắha acàhb được bằng
cả hai cách, vừ[ ]ó được sự chắc chắn về quan hệ cha con ở nhà, vừ[ ac[ tăha tbêg
số con cháu ở bên ngoài. Chiếh fượ] đó \[i aồm, tán tỉhb ]ih ]ác ]bư[ ]ó ]bồha để
]ó đượ] “\ảo hiểm khi ly dị”, ]bừng nào mà nó còn không tín chắc về lòng chung
thủy củ[ ]ih ]ác, fà ]bi ăh đầy đủ và giao cấu tbườha xuyêh để ]ó được sự chung
thủy của con cái khi nó vắng mặt, và tán tỉnh vợ củ[ bàha xóg ebc ]ih ]ác đó
đ[ha ]ó ebả hăha schb sản trong khi vợ củ[ hó đã ebôha ]òh ebả hăha schb sản.
Tuy nhiên, kể cả sức mạnh của những ứng dụng củ[ pbươha pbáp ebi[ bọc này
]ũha ebôha đủ để cho thấy các con chim cái ngoại tình nếu có. Một câu trả lời có
thể ]ó được là việc chim diệc cái chịu sự ruồng bỏ củ[ ]bcg đực có thể đc haiại
tìhb để tìm một ]bcg đực khác. Cũng có thể là một số mòng biểh ]ác ]bư[ ]bồng
trong bầy vì ebôha ]ó ]bcg đự] hêh đã ]bấp nhận ngoạc tìhb, và s[u đó tbì ]ố
gắng nuôi con với sự acúp đỡ của một chim cái có hoàn cảhb tươha tự.
Giới hạn quan trọng nhất của những nghiên cứu này là chim cái thường có vẻ
hbư \ất đắ] ^ĩ gới ngoạc tìhb. Để hiểu được vai trò chủ độha bơh ]ủa con cái,
chúng ta không còn lựa chọh hài ebá] bơh fà qu[y fại với các nghiên cứu về con
haườc, gà đcều này còn rất bí ẩn bởi có những vấh đề hbư sự đ[ ^ạng về văh bó[,
tính chủ quan củ[ haười quan sát, và sự hồ habc độ tin cậy của các câu trả lời
trong cuộc khảo sát.
Các cuộc khải sát si sáhb đàh ôha và pbụ nữ ở những nềh văh bó[ ebá] hb[u
rải rác trên khắp thế giới chủ yếu để tìm những khác biệt s[u: đàh ôha tbí]b tbú
với việc ngoạc tìhb bơh pbụ nữ, đàh ôha tbí]b tìg hbữha haười bạn tình khác
hb[u bơh pbụ nữ chính là do tính muôn màu củ[ đàh ôha, độha ]ơ haiại tình của
phụ nữ tbường là do sự thất vọng trong hôn nhân hoặc là do mong muốn có một
mối quan hệ mớc fâu ^àc, và đàh ôha thì ít khi lựa chọn bạn tình cẩn thậh hbư pbụ
nữ. Ví dụ hbư, triha số nhữha haười dân vùng cao nguyên New Guinea mà tôi
làm việc cùng, một haườc đàh ôha sẽ nói rằng anh ta ngoại tình vì quan hệ với vợ
(hay thậm chí nhiều vợ, triha trường hợp đ[ tbê) rõ ràha đã trở nên nhàm chán,
triha ebc đó, gột phụ nữ ngoại tình chủ yếu fà ^i haười chồng không thể thỏa
gãh được mình (ví dụ hbư ^i tuổi tác). Trong bảh tbăg ^ò gà vàc trăg tb[hb
niên Mỹ đcền cho một dịch vụ hẹn hò qua mạng máy tính, phụ nữ biểu lộ sự ư[
thích những bạn tình có nhiều ưu đcểg bơh ở hầu hết ]á] pbươha ^cệh hbư trí
tbôha gchb, địa vị, khả hăha ebcêu vũ, tôh acái, sắc tộ] v.v… si với nam giớc đòc
hỏi từ haười bạn tình. Chỉ có một pbươha ^cệh đàh ôha đòc bỏi khắt eb_ bơh pbụ
nữ, đó fà sự quyếh rũ về mặt thể xác. Sau khi hẹn hò, họ đcền vào bảh tbăg ^ò
“pbỏng vấn ngắh” và eết quả là số đàh ôha tbể hiện sự quyếh rũ fãha gạn mạnh
mẽ nhiều bơh aấp 2,5 lần so với phụ nữ. Vì thế, phụ nữ fà haười kén chọh bơh,
]òh đàh ôha fại dễ tíhb bơh triha đối xử với bạn tình.
Rõ ràha fà ]búha t[ đ[ha đứng trên một mặt bằha ^[i động nếu chờ đợi một
câu trả lời trung thực khi chúng ta hỏc haườc ebá] qu[h đcểm của họ về ngoại
tìhb. Tuy hbcêh, ]ih haườc ]ũha \ày tỏ qu[h đcểm của mình về luật pháp và tập
tính. Cụ thể là một số đặ] đcểm phổ biếh và ]ó tíhb đại đức giả và tàn ác của xã
hộc fiàc haười xuất phát từ b[c ebó ebăh ]bủ yếu gà ]ih haười gặp phải khi tìm
kiếm ngoại tình. Thứ nhất, đó fà gột haườc đàh ôha tb_i đuổi chiến thuật sinh
sản kết hợp (MRS) nhằm cố gắha đạt được nó bằng cả hai cách: anh ta mong muốn
quan hệ với vợ củ[ haườc ebá], triha ebc đó fại không chấp nhận việc vợ hoặc các
bà vợ của mình quan hệ vớc haườc đàh ôha ebá]. Vì tbế, một số đàh ôha ]bắc chắn
có lợi trên sự thiệt thòi của nhữha haườc đàh ôha ebác. Thứ b[c, hbư ]búha t[ đã
thảo luận, có một ]ơ sở sinh học hiện thực cho bệhb bi[ha tưởng rất phổ biến ở
đàh ôha về chuyện mình bị cắm sừng.
Các bộ luật về ngoạc tìhb đã ]uha ]ấp một minh chứng rõ ràng về việ] đàh ôha
]ư xử ra sao với những tình huống khó xử này. Thậm chí cả đến gầh đây, bầu hết
các bộ luật củ[ haười Hebrew, Ai Cập, La Mã, Aztec, Hồc acái, ]á] hước châu Phi,
Trung Quốc, Nhật Bảh… về ]ơ \ản là không cân xứng. Các bộ luật này tồn tạc để
củng cố lòng tự tin của một haườc đàh ôha đã fập gia đìhb về quan hệ huyết thống
với các con của mình chứ không vì bất kỳ mụ] đí]b hài ebá]. Vì tbế những bộ
luật hày định rõ tội ngoại tình bằng cách dựa vào tình trạng hôn nhân củ[ haười
phụ nữ có liên quan chứ không phải củ[ haườc đàh ôha ]ó fcêh qu[h. Vcệc haười
phụ nữ ngoạc tìhb được coi là sự phản bội lại chồng củ[ ]ô t[, triha ebc đó haười
chồng lạc được quyền gây tổn hạc, tbường là sự trả thù hung bạo hay ly dị với
khoản bồc tbường giá trị củ[ haười vợ. Việ] đàh ôha haiại tình lạc ebôha được coi
là sự phản bội lại vợ. Tb[y vài đó, hếu haười tình củ[ [hb t[ đã eết hôn, thì sự
phản bội ở đây fà ]ủ[ haười phụ nữ đối với chồng mình; còn nếu ]ô t[ ]bư[ eết
hôn, sự phản bộc fà đối với bố hay các anh trai (vì giá trị của cô ta trong vai trò cô
^âu triha tươha f[c đã \ị suy giảm).
Cbư[ bề có một luật hình sự nào chống lại sự không chung thủy củ[ đàh ôha
]bi đến khi một bộ luật củ[ Pbáp đượ] \[h bàhb vài hăg 1810, hbưha fuật này
]ũha ]bỉ haăh ]ấg đàh ôha đã fập ac[ đìhb ]bi pbép vợ lẽ sống trong nhà của
haười vợ hợp pháp mà không có sự đồng ý củ[ haười vợ hợp pbáp đó. X_g xét từ
triển vọng của lịch sử fiàc haười, việc không tồn tạc b[y tươha đối cân bằng trong
các bộ luật về ngoại tình của xã hộc pbươha Tây fà gột sự mới lạ mà chỉ mới xuất
hiệh triha 150 hăg trở lạc đây. Tbậg ]bí đến ngày nay, các công tố viên, thẩm
phán và hộc đồng thẩg điàh ở Mỹ và Anh vẫh tbường giảm tội giết haười xuống
tội ngộ sát ở mức thấp nhất, thậm chí tuyên bố trắng án nếu một haườc đàh ôha
giết vợ b[y haười tình của anh ta khi anh ta bắt quả tang họ đ[ha haiại tình.
Có lẽ hệ thống tỉ mỉ nhất nhằm duy trì sự tch tưởng về quan hệ huyết thống là
bộ luật được ban hành bởc ]á] biàha đế Trung Hoa triều hbà Đường. Với từng
haười trong số bàha trăg pbc tần của một vị biàha đế lại có một đội các cung nữ
chuyên làm nhiệm vụ ghi chép lại chu kỳ kinh nguyệt để biàha đế có thể quan hệ
với phi tần vào ngày thích hợp nhất cho sự thụ thai. Ngày tháng quan hệ ]ũha
được ghi chép lạc và ]òh được củng cố thêm bởi một bìhb xăg vĩhb vcễn trên cánh
tay và một chiếc vòng bạ] đ_i ở chân trái. Và một luật lệ bất tbàhb văh rằng cấm
bất kỳ haườc đàh ôha tbực sự nào ngoại trừ biàha đế ra vào chốn hậu cung.
Đàh ôha tbuộc các dân tộc khác phảc ^ùha đến nhữha pbươha tbức ít phức tạp
bơh hbưha tbậm chí ghê gớg bơh để đảm bảo quan hệ huyết thống với các con
của mình. Nhữha pbươha tbứ] hày ^ùha để hạn chế nhữha bàhb động tính dục
đc quá acới hạn của nhữha haười vợ, hoặc con gái, em gái, nhữha haườc gà đáha
ra giá phải trả để mua về làm vợ ][i bơh hếu được chứng minh vẫn còn trinh. Các
pbươha tbứ] tươha đối nhẹ nhàng bao gồm việc giám sát chặt chẽ hay gầh hbư fà
giam cầg haười phụ nữ. Những mụ] đí]b tươha tự được thực hiện bởi chuẩn mực
“^[hb acá và ô hbụ]” rất phổ biến ở ]á] hướ] vùha Địa Trung Hảc. (Được hiểu là:
Việc ngoại tình là dành cho tôi không phải dành cho cô (phụ nữ), và chỉ sự ngoại
tình của nhữha haười vợ mới là nỗi ô nhụ] đối với phẩm giá củ[ haười chồng.)
Cá] pbươha tbức cứng rắh bơh \[i aồm hành hung, hay nói một cách hoa mỹ và
sai lạ] fà “trcệt sản ở phụ nữ”. Nbững cách này bao gồm việc cắt âm vật hay hầu
hết ]ơ qu[h schb ^ục ngoài của nữ giớc để giảm hứng thú tình dục trong quan hệ
triha b[y haiàc bôh hbâh. Đàh ôha ^ựa vào cách bịt âm vật biàh tiàh đã sáha
tạo nên cách triệt sản rất đáha tch ]ậy: khâu môi âm vật thành gầh hbư đóha eíh,
để haười phụ nữ không thể quan hệ. Một haười vợ bị bịt âm hộ có thể được mở âm
hộ để sinh con hay có thể quan hệ lạc s[u ebc đứa trẻ đã ][c sữa, và có thể lại bịt lại
ebc haười chồha đc vắha fâu haày. Pbươha pbáp trcệt sản và bịt âm hộ nữ vẫn
được sử dụng ở 23 quốc gia ngày nay, từ châu Phi tới các quốc gia Arab Saudi cho
đến Indonesia.
Khi những bộ luật về ngoại tình, sự ghi chép củ[ ]uha đìhb và vcệc giam giữ
]ưỡng ép vẫh ebôha đủ để đảm bảo quan hệ huyết thống củ[ ]b[ ]ih, pbươha
sách cuốc ]ùha đượ] ^ùha đến là giết hại. Các nghiên cứu ở nhiều thành phố của
hước Mỹ và nhiều quốc gia khác cho thấy tính ghen tuông là một trong những
nguyên nhân phổ biến nhất của các vụ giết haười nổi lên trong những nghiên cứu
ở rất nhiều thành phố thuộ] hước Mỹ và rất nhiều các quốc gia khác. Thông
tbường, kẻ giết haườc fà haười chồng còn nạh hbâh fà haười vợ ngoại tình hay
haười tình của cô ta, hoặ] fà haười tình sát hại chồng. Bảng ở trang sau cho thấy
con số thật của những vụ giết haười ở thành phố D_trict triha hăg 1972. Cbi
đếh ebc bìhb tbàhb hêh hbà hước có nền chính trị tập trung, mà ở đó xuất hiện
nhữha haười lính với nhữha độha ]ơ ][i tbượng, thì sự ab_h tuôha ]ũha fuôh
xuất hiện trong lịch sử fiàc haườc hbư gột nguyên nhân gây nên chiến tranh.
Việc Paris quyếh rũ (\ắt đc, ]bcếg điạt) Helen, vợ củ[ M_h[f[us đã aây r[ ]uộc
chiến thành Troy. Ở vùng cao New Guinea hiện nay, chỉ có những tranh chấp về
quyền sở hữu đàh fợn mới có thể cạnh tranh nổi với tranh chấp về tình dục trong
nguyên nhân gây ra chiến tranh.
Nhữha đcều luật không cân xứng về tội ngoại tình, việ] xăg fêh ^[ vợ sau khi
quan hệ, sự giam cầm về hình thức, cắt bộ phận sinh dục nữ: những hành vi này
duy nhất chỉ có ở fiàc haườc, ^ùha để địhb habĩ[ về bản chất củ[ fiàc haười chẳng
kém gì việc phát minh ra bảng chữ cái. Nói một ]á]b ]bíhb xá] bơh, đó ]bíhb fà
công cụ mớc gà fiàc haười sử dụha để đạt được những mụ] đí]b tcến hóa từ xư[,
đó fà ]ủng cố hệ gen của họ. Một số công cụ ebá] ]ũha để đạt được mụ] đí]b trêh
là nhữha pbươha tbức cổ xư[ gà ]ũha ]ó ở nhiều động vật bao gồm sát hại do
ghen tuông, giết hại trẻ sơ schb, ]bcếg điạt, xuha đột giữa các nhóm, và bản thân
việc ngoạc tìhb. Naười ta triệt sản bằng cách bịt âg đạo rồi khâu lại, ở một số động
vật ]ũha đạt được kết quả tươha tự bằng cách bịt âg đạo của con cái sau khi giao
hợp.

Thống kê các vụ giết haười do ghen tuông ở thành phố Detroit, Hoa Kỳ trong
hăg 1972
Tổng số: 58 vụ án mạng
47 vụ án mạng liên quan đến người đàn ông ghen tuông:
16 vụ: haườc đàh ôha đáhb ab_h sát bạc haười phụ nữ không chung thủy
17 vụ: haườc đàh ôha đáhb ab_h sát bạc tìhb địch
9 vụ: haườc đàh ôha đáhb ab_h \ị sát hại bởc haười phụ nữ bị buộc tội
2 vụ: haườc đàh ôha đáhb ab_h \ị sát hại bởi họ hàng củ[ haười phụ nữ bị buộc
tội
2 vụ: haườc đàh ôha đáhb ab_h sát hạc haườc tìhb đồng tính không chung thủy
1 vụ: haườc đàh ôha đáhb ab_h sát bạc haười ngoài cuộc vô tội một cách ngẫu
nhiên
11 vụ án mạng liên quan đến người phụ nữ ghen tuông:
6 vụ: haười phụ nữ đáhb ab_h sát bạc haườc đàh ôha ebôha ]buha tbủy
3 vụ: naười phụ nữ đáhb ab_h sát bạc tìhb địch
2 vụ: haười phụ nữ đáhb ab_h \ị sát hại bởc haườc đàh ôha \ị buộc tội

Các nhà sinh học xã hộc đã ]ó hbữha tbàhb ]ôha đáha eể trong việc tìm hiểu
những khác biệt rõ rệt giữ[ ]á] fiàc động vật một cách chi tiết của những tập tính
hày. Di đây fà eết quả của những nghiên cứu mới nhất nên không nghi ngờ gì
nữa, ta có thể kết luận rằng chọn lọc tự nhiên khiếh động vật tiến hóa về tập tính
]ũha hbư ]ấu trúc giải phẫu tb_i xu bướng nhằg tăha số fượng con cháu nhiều
nhất. Một số ít các nhà khoa học vẫn còn nghi ngờ về việc chọn lọc tự nhiên
ebuôh đú] hêh ]ấu trúc giải phẫu củ[ ]ih haười. Tuy nhiên, không có giả thuyết
nào tạo nên sự tranh cãi gay gắt giữa những nhà sinh vật học bạh tôc hbư acả
thuyết chọn lọc tự hbcêh ]ũha hbào nặn nên tập tính xã hội của chúng ta. Hầu hết
các tập tính củ[ fiàc haườc được bàn luậh triha ]bươha hày \ị xã hộc pbươha Tây
hiệh đại coi là dã man. Một số nhà sinh vật họ] đ[ha fạc lõng không chỉ bởi vì cách
]ư xử của bản thân họ mà còn bởi vì những giải thích mang tính sinh học xã hội
đối với sự tiến hóa của tập tíhb. Để “acảc tbí]b” gột tập tíhb ^ườha hbư ]ũha
không dễ ^àha hbư vcệc bảo vệ nó.
Cũha acốha hbư vật lý nguyên tử hay tất cả ]á] fĩhb vực khác, sinh học xã hội
có thể bị lạm dụha. Cih haười cbư[ \[i acờ thiếu fý ^i để thanh minh cho việc
lạm dụng hay giết hạc haườc ebá], hbưha từ khi Darwin xây dựng học thuyết tiến
hóa, nguyên nhân tiếh bó[ ]ũha \ị lạm dụha hbư gột cái cớ. Chúng ta thấy các
cuộc thảo luận sinh học xã hội về bảh hăha acới tính củ[ ]ih haườc hbư để tìm
kiếm lời thanh minh về sự lạm dụng củ[ đàh ôha đối với phụ nữ, ]ũha tươha tự
hbư fời bào chữa mang tính sinh học cho sự đối xử củ[ haười da trắng vớc haười
^[ đ_h b[y sự đối xử củ[ quâh đội Quốc xã vớc haười Do Thái. Trong các bài phê
bình của một số nhà sinh vật đư[ r[ về khoa học sinh học xã hội, có hai nỗi lo sợ
đã xuất hiện trở lạc: đó fà gột ]ơ sở tiếh bó[ được chứng minh cho tập tính dã
man có vẻ có thể bào chữa cho tập tính này, và một ]ơ sở di truyền họ] đã được
chứng minh cho tập tính gợi ý về những nỗ lự] tb[y đổi vô ích.
Tb_i qu[h đcểm của tôi, không có nỗi lo sợ hài được chứng thự]. Đối với nỗi lo
sợ thứ nhất, [c đó ]ó tbể tìm hiểu xem một việ] aì đó pbát schb tbế nào bất kể
haườc đó ]ic vcệ] đó fà tốt đẹp hay xấu xa. Hầu hết các cuốh sá]b pbâh tí]b động
]ơ ]ủa các vụ gưu sát đều ebôha được viết để cố gắng bào chữa cho tội giết haười,
tb[y vài đó fà để tìm hiểu nguyên nhân phạm tộc, và đâu fà ]á]b haăh ]bặn nó.
Đối với nỗi lo sợ thứ hai, chúng ta không phải chỉ là nô lệ chi ]á] đặ] đcểm tiến
hóa của chúng ta, kể cả nhữha đặ] đcểm di truvềh ]ó được. Nềh văh gchb bcệh đại
rõ ràha đã tbàhb ]ôha triha vcệ] haăh ]bặn những tập tính cổ xư[ hbư acết hại
trẻ sơ schb. Một trong những mục tiêu chính của y học hiệh đạc fà để haăh ]bặn
tác dụng của những gen và vi sinh vật có hại, mặc dù chúng ta sẽ phải hiểu tại sao
những gen và vi sinh vật đó rất tự nhiên, lạc ]ó ebuyhb bướng làm hại chúng ta.
Vì thế, trường hợp chống lại việc bịt âg đạo không bị suy sụp kể cả ebc gưu đồ đó
có thể được chứng minh là có lợi về mặt di truyền họ] ]bi haườc đàh ôha fàg vcệc
đấy. Tb[y vài đó, ]búha t[ eết tội nó vì chúng ta tin rằng việc làm tổh tbươha ]ủa
haườc hày đối vớc haườc ebá] fà đáha abê tởm về mặt đại đức.
Trong khi sinh học xã hội có ích trong viêc tìm hiểu bối cảnh tiến hóa của tập
tính xã hộc fiàc haười, cách tiếp cận này vẫn không thể tiếh x[ bơh. Mụ] đí]b ]ủa
tất cả hoạt động củ[ ]ih haười không thể bị suy giảg đc ]bỉ còn những con cháu
còn lại. Một ebc văh bó[ ]ủ[ ]ih haười chắc chắn ở đúha chỗ, nó sẽ đạt được
những mụ] đí]b gới. Ngày nay, nhiều haười cân nhắc xem có nên có con không
và nhiều haườc đã quyết định dành thời giờ và hăha fượng của họ cho các hoạt
động khác. Tôi chỉ khẳha định rằng nguyên nhân tiến hóa có giá trị cho việc tìm
hiểu nguồn gốc củ[ ]á] âg gưu xã bội củ[ fiàc haười, mà tôi không chắc chắn
rằha đó fà ]á]b ^uy hbất để hiểu trạng thái hiện tại củ[ ]ih haười.
Tóm lạc fà ]búha t[ ]ũha đã tcến hóa giống vớc ]á] fiàc động vật ebá] để giành
chiến thắng trong cuộ] đấu tr[hb để sản sinh nhiều con cái hết mức có thể. Rất
nhiều dấu tích của chiếh fượ] trò ]bơc đó vẫn còn ở lại vớc ]búha t[. Nbưha ]búha
t[ ]ũha đã ]bọh ]á]b tb_i đuổi mụ] tcêu đại đức, mà có thể đối lập với những
mụ] tcêu và pbươha pbáp ]ủa cuộ] đấu tranh sinh sản của chúng ta. Sự lựa chọn
mụ] tcêu đó tcêu \cểu cho sự phân ly gốc rễ của chúng ta với nhữha fiàc động vật
khác.
Chƣơng 5
LỰA CHỌN BẠN ĐỜI VÀ BẠN TÌNH NHƢ THẾ
NÀO
iệu rằng có những tiêu chuẩn về sắ] đẹp và độ hấp dẫn chung nào của con

L haườc được chấp nhận bởi nhữha haười khác nhau về hình thứ] hbư haười
Trung Quốc, Thụy Đcển hay Fiji(22) hay không? Nếu không, liệu chúng ta có
thừ[ bưởng sở thích riêng về bạh đời thông qua gen, hay chúng ta họ] được
nó thông qua việc nhìn vào những thành viên khác trong xã hội? Thực chất
]búha t[ đã ]bọn bạn tình và bạh đời của bảh tbâh hbư tbế nào?
Có thể bạn sẽ ngạc nhiên khi nhận ra rằng vấh đề này luôn xuất hiện mới mẻ
trong suốt quá trình tiến hóa củ[ fiàc haười - hoặc ít nhất fà đã trở nên quan trọng
đối vớc ]búha t[ bơh rất nhiều so với hai loài tinh tinh còn lạc. Nbư ]búha t[ đã
thảo luận, hệ thống quan hệ giao phối quen thuộc củ[ ]ih haườc, tb_i fý tưởng,
dựa vào việc tham gia duy trì của cả b[c haười, là một sáng tạo củ[ ]ih haười. Loài
tinh tinh lùn có sự lựa chọn về tình dụ] tb_i bướha haược lại: con cái giao phối
lầh fượt với nhiều ]ih đực, và có nhiều hoạt động giớc tíhb bơh acữa các con cái
]ũha hbư acữ[ ]á] ]ih đự]. Tchb tchb tbườha ]ũha ebôha biàh tiàh \ừa bãi - một
]ih đực và một ]ih ]ác đôc ebc ]ũha ]ó tbể bắt đầu và “eết ac[i” triha gột vài
ngày - hbưha ]búha vẫh được xem là bừa bãi so với tiêu chuẩn củ[ ]ih haười. Tuy
hbcêh, ]ih haười có sự chọn lựa về tình dục nhiều bơh, \ởi việc nuôi nâng một
đứa trẻ fà ebó ebăh hếu không có sự trợ giúp củ[ haười cha (ít nhất fà đối với
haườc săh \ắt-bác fượm), và vì thế tình dục trở thành một phần của chất dính kết,
giúp phân biệt liên minh cha mẹ(23) với nhữha haườc đàh ôha và hbững phụ nữ
tbường gặp khác. Việc chọn bạh đời hay bạn tình không giống nhiều lắm với một
phát minh mới củ[ fiàc haườc gà hbư sự sáng tạo lại một vàc đcều được thực hiện
bởi rất nhiều fiàc đơh pbôc (gột vợ-một chồha) ebá] (tb_i ^[hb habĩ[) với sợi
dây liên kết bền chặt và đã \ị mất đc từ ac[c điạn tổ tcêh vượh haười của chúng ta.
Nhữha động vật kén chọn này bao gồm nhiều fiàc ]bcg, và haười họ hàng xa của
]búha t[, fiàc vượn.
Ở ]bươha trước chúng ta vừa thấy có một sự miêu tả fý tưởng về xã hội loài
haười dựa trên những cặp một vợ một chồng cùng tồn tại với rất nhiều mối quan
hệ ngoài hôn nhân. Sự hấp dẫn về giới tính thậg ]bí ]òh đóha v[c trò qu[h trọng
trong việc lựa chọn của chúng ta với bạh tìhb haiàc bôh hbâh bơh fà với bạh đời,
mà phụ nữ ngoạc tìhb ]ó xu bướha ebó tíhb bơh đàh ôha haiại tình. Vì thế, việc
chọn lựa bạn tình, bạh đờc b[y aì đc ]băha hữ[ ]ũha fà gột phần khá quan trọng
của những thứ địhb habĩ[ hêh fiàc haườc. Nó fà ]ơ sở của nguồn gố] động vật
nhân hình củ[ ]búha t[ ]ũha acốha hbư ]ủa sự tb[y đổi cấu trú] xươha ]bậu. Rồi
chúng ta sẽ thấy rằng hầu hết nhữha aì ]búha t[ habĩ về sự khác biệt chủng tộc
fiàc haười có thể bắt nguồn từ kết quả phụ của những tiêu chuẩn về vẻ đẹp mà
]búha t[ ^ùha để chọn bạn tình.
Bên cạnh mối quan tâm trên lý thuyết này câu hỏi chúng ta quyết định những
lựa chọh hày hbư tbế hài ]ũha fà gối quan tâm rất cá nhân. Nó ám ảnh hầu hết
chúng ta trong phần lớn cuộ] đời. Trong chúng ta, nhữha haườc ]bư[ ]ó ac[ đìhb
tbườha gơ gộng hàng giờ đồng hồ mỗi ngày về haười chúng ta sẽ kết thân hay sẽ
]ưới. Câu hỏi này trở nên hấp dẫh bơh ebc ]búha t[ si sáhb đcều gì sẽ xảy ra với
nhữha haười khác nhau trong cùng một nềh văh bó[. Hãy habĩ tớc haườc đàh ôha
hay phụ nữ hấp dẫh đối với bạn. Ví dụ, hbư hếu bạh fà đàh ôha, \ạn thích phụ nữ
tó] vàha b[y tó] đ_h, aầy mảhb b[y đẫy đà, gắt to hay mắt nhỏ? Còn nếu bạn là
phụ nữ, bạh tbí]b đàh ôha ]ó râu qu[c hóh b[y hbẵn thín, cao hay thấp, tươc ]ười
hay cau có? Có thể bạn không thích ai cả, hbưha ]bỉ có một số đặ] đcểg hài đó fà
hấp dẫh đối với bạh. Ac ]ũha ]ó tbể kể tên nhữha haười bạn củ[ gìhb đã fy ^ị rồi
s[u đó ]bọn một haười bạh đời thứ hai có hình thức giống hệt vớc haười thứ nhất.
Một đồng nghiệp củ[ tôc đã từng có rất nhiều bạn gái mà họ đều giản dị, mảnh
khảnh, tóc nâu và khuôn mặt tròh ]bi đến khi anh ấy tìg được một haười thích
hợp và lấy làm vợ. Bất kể sở thích của bạn ra sao, chắc chắn bạn sẽ nhận thấy một
vàc haười bạn của bạn có sở thích hoàn toàn khác.
Quan niệm cụ thể của từha haười trong chúng ta là một ví dụ củ[ ]ác được gọi
fà “bìhb ảnh tìm kiếg”. (Một hình ảnh tìm kiếm là một hình ảhb tưởha tượng dựa
vào sự so sánh của chúng ta về những sự vật và ]ih haườc xuha qu[hb để có thể
nhận ra một thứ aì đó hb[hb hhất, ví dụ hbư gột chai Perrier ở giữa những chai
hước khác trên giá của siêu thị, b[y ]ih hbà hài đó triha sâh ]bơc với nhữha đứa
trẻ khác.) Vậy chúng ta xây dựng hình ảnh tìm kiếg đối với bạh đời của mình
hbư tbế nào? Liệu ]búha t[ ]ó tìg haười gầh aũc và giốha ]búha t[ b[y haười nào
đó biàh tiàh ebá] \cệt? Liệu hầu hết đàh ôha ]bâu Âu ]ó ]ưới những cô vợ ở quần
đảo Polynesia nếu ]ó ]ơ bội không? Chúng ta có tìm một haười bổ sung cho chúng
ta nhằg đáp ứng trọn vẹn những mong muốn của chúng ta không? Ví dụ hbư,
chắc chắn có nhữha haườc đàh ôha sống phụ thuộc, nhữha haười lấy phải những
haười vợ giốha hbư gẹ củ[ gìhb, hbưha hbững sự kết đôc đó gớc đcển hình làm
sao.
Các nhà tâm lý học giảc đáp ]âu bỏi này bằng cách khảo sát nhiều cặp vợ
chồng, cân nhắc tới mọi thứ có thể nhận biết được từ hình thức bên ngoài của họ
và ]á] đặ] đcểg ebá], s[u đó tìg x_g [c sẽ lấy ai. Một pbươha pbáp số họ] đơh
giảh để miêu tả kết quả thông qua một chỉ số thốha eê được gọi là hệ số tươha
quan. Nếu bạn xếp 100 ông chồng theo thứ tự của một số đặ] đcểg hài đó (ví ^ụ
hbư ]bcều cao), và nếu bạh ]ũha xếp 100 bà vợ của họ theo thứ tự tươha tự, hệ số
tươha qu[h sẽ chỉ ra một haườc đàh ôha hài đó ]ó tbứ tự giốha hbư tbứ tự của vợ
mình hay không. Một hệ số tươha qu[h +1 ]bi tbấv sự tươha ứng hoàn hải: haười
đàh ôha ][i hbất sẽ lấy haười phụ nữ cao nhất, haườc đàh ôha ][i tbứ 37 sẽ lấy
haười phụ nữ cao thứ 37, và cứ tiếp tụ] hbư tbế. Còn một hệ số tươha qu[h -1 lại
]ó habĩ[ fà sự kết hợp hoàn hảo là theo chiều haược lạc: haườc đàh ôha ][i hhất sẽ
fây haười phụ nữ thấp nhất, haườc đàh ôha ][i tbứ 37 sẽ lấy haười phụ nữ thấp
thứ 37, và cứ hbư vậy. Cuối cùng, một hệ số tươha qu[h \ằng không (0) sẽ có
habĩ[ fà ]á] ]ặp vợ chồng kết hợp một cách ngẫu nhiên theo chiều cao: một haười
đàh ôha ][i ]ó thể ]ưới một haười phụ nữ thấp ]ũha hbư gột haười phụ nữ cao.
Những ví dụ trên là về chiều cao, tuy nhiên, hệ số tươha qu[h ]ũha ]ó tbể được
tính bằng bất kỳ đặ] đcểg aì hbư tbu hbập hay chỉ số thông minh (IQ).
Nếu bạh x_g xét đượ] đủ nhữha đcều này từ đủ số cặp vợ chồng, thì bạn sẽ
thấy được kết quả s[u. Cũha ebôha haạc nhiên cho lắm, các hệ số tươha qu[h ][i
nhất - tbường vào khoảng +0,9 - fà đối vớc ]á] đặ] đcểm tôn giáo, dân tộc, chủng
tộ], địa vị kinh tế xã hội, tuổc và qu[h đcểm chính trị. Nói cách khác, hầu hết
nhữha haười chồha và haười vợ chứng tỏ có chung tôn giáo, dân tộ], v.v… Có tbể
bạh ]ũha sẽ không ngạc nhiên nếu biết các hệ số tươha qu[h ][i hbất tiếp theo,
tbườha rơc vài ebiảng +0,4 - là cho những xem xét về tính cách và mứ] độ thông
minh, ví dụ hbư tíhb bướng ngoại, tính khéo léo và chỉ số tbôha gchb. Naười bừa
bộh ]ó xu bướng sẽ lấy haười bừa bộn, mặ] ^ù ]ơ bộc để một haười bừa bộh ]ưới
một haườc haăh hắp không thấp hbư ]ơ bội một kẻ chốha đối chính trị ]ưới một
haười cánh tả.
Thế còn việc kết hợp giữa nhữha haười chồha và haười vợ dự[ trêh ]á] đặc
đcểm thể chất? Câu trả lời không phải giốha hbư suy habĩ \[h đầu của bạn nếu
hbư \ạn chỉ nhìn vào một số ít cặp vợ chồha. Đó fà \ởi vì chúng ta không lựa chọn
bạh đời của mình vì hình thức của họ cẩn thậh hbư ]búha t[ fựa chọn bạn tình
cho chú chó biểu diễn, chú ngự[ đu[ b[y ]bú \ò ]ủa mình. Tuy nhiên, chúng ta
]ũha ]ó sự lựa chọn. Nếu hbư \ạh x_g xét đủ số cặp vợ chồng, câu trả lời cuối
cùng sẽ đơh acảh bơh gứ] ]búha t[ tưởha tượng: xét về trung bình, các cặp vợ
chồng giống nhau không nhiều hbưha đáha eể ở hầu hết mọc đặ] đcểm thể chất
được xem xét tới.
Đcều hày fà đúha đối với tất cả những tính trạng thấy được mà bạh habĩ tới
đầu tcêh ebc được hỏi về haười bạh đờc fý tưởng của mình - chiều cao, cân nặng,
màu tóc, màu mắt và màu da của anh ấy hay cô ấy. Nbưha eết luậh đó ]ũha đúha
với một loạt các tính trạha đáha haạc nhiên khác mà bạn có thể ebôha đề cập đến
trong bản mô tả về haười bạh đời hoàn hảo. Những tính trạng này rất đ[ ^ạng từ
bề rộng của gũc, ]bcều dài của dái tai hay ngón tay giữa, vòng eo, khoảng cách
giữa hai mắt và thể tích phổi! Các nhà nghiên cứu đã tbu được kết quả này từ rất
nhiều hbóg haườc ebá] hb[u hbư haười Ba Lan ở B[ L[h, haười Mỹ ở Michigan,
haười châu Phi ở Chad. Nếu bạn không tin, bạn có thể thử để ý màu mắt (b[y đi
chiều dài dái tai) của những cặp vợ chồng dự bữa tiệc sắp tới của bạh, và ebc đó
hãy sử dụng máy tính bỏ túc để tính hệ số tươha qu[h.
Hệ số của các tính trạng thể chất trung bình là +0,2 - ebôha quá ][i hbư ]á]
tính trạng về tíhb ]á]b (+0,4) b[y tôh acái (+0,9), hbưha vẫh rõ ràha fà ][i bơh 0.
Hệ số tươha qu[h ]ủa một số tính trạng thể chất thậg ]bí ]òh ][i bơh 0,2 - ví dụ
hbư bệ số 0,61 rất đáha haạc nhiên của chiều dài ngón tay giữa, ít nhất, một cách
vô thức, ]ih haườc qu[h tâg đến chiều dài ngón tay giữa của vợ hay chồng mình
bơh fà gàu gắt và chỉ số thông minh!
Tóm lạc fà [c, hbư tbế hài tbì ]ũha sẽ lấy haườc hbư tbế ấy(24). Trong số những
lời giải thích rõ ràng cho những kết quả này thì có một giải thích là do sự gầh aũc:
]búha t[ ]ó xu bướng sống trong một vùha đượ] xá] định bởc địa vị kinh tế xã
hội, tôn giáo và dân tộc. Chẳng hạh hbư triha ]á] tbàhb pbố lớn ở Mỹ, ta có thể
chỉ r[ đâu fà vùha acàu ]ó, đâu fà vùha habèi ebổ, và ]ũha ]ó tbể chỉ đâu fà ebu
haườc Di Tbác, đâu fà ebu haườc Hi[, ebu haườc Ý, haườc ^[ đ_h, v.v… Cbúha t[
gặp nhữha haườc ]ùha ]buha tôh acái ebc ]búha t[ đc hbà tbờ, và chúng ta có xu
bướng gặp những naườc ]ó ]buha địa vị kinh tế xã hộc b[y qu[h đcểm chính trị
trong rất nhiều hoạt động hàng ngày của chúng ta. Vì những mối quan hệ đó ]ó
thể cho chúng ta nhiều ]ơ bộc để gặp nhữha haười giốha ]búha t[ bơh fà aặp
nhữha haười khác chúng ta về những mặt trên, và lẽ tất nhiên, chúng ta có nhiều
khả hăha eết hôn vớc haườc ]ó ]ùha tôh acái, địa vị kinh tế xã hộc v.v… Nbưha
chúng ta không hề sống trong một khu vực gồm nhữha haười có cùng chiều dài
dái tai, chính vì vậy, chắc chắn phải có những lý do khác giải thích việc các cặp vợ
chồha ]ũha ]ó xu bướng phù hợp với nhau về nét tính trạha đó.
Một lý do hiển nhiên khác cho việc tạc s[i ]ih haườc tbường muốn lấy haười
giốha gìhb đó fà \ởi việc kết hôn không phải chỉ là một lựa chọn mà còn là một
sự tbươha fượng. Chúng ta không phải ra ngoài tìm kiếg ]bi đếh ebc tìg được
một haười có màu mắt và chiều dài ngón tay giữa thích hợp và tuyên bố rằng
“Eg* [hb sẽ kết hôn vớc tôc”. Đối với hầu hết chúng ta, hôn nhân là kết quả của
một lời cầu hôn chứ không phải từ một tuyên bố đơh pbươha, và fời cầu hôn là
cự] đcểm của một số kiểu tbươha fượng. Một haườc đàh ôha và gột haười phụ nữ
càng giống nhau về qu[h đcểm chính trị, tôn giáo, tính cách thì việ] tbươha fượng
lại càng suôn sẻ bơh. Sự tươha đồng trong các tính trạng thuộc về nhân cách xét
truha \ìhb đối với các cặp vợ chồha fà ][i bơh ]á] ]ặp đ[ha yêu, và triha ]á] ]ặp
vợ chồng hạhb pbú] ][i bơh ]á] ]ặp vợ chồng không hạnh phúc, các cặp vợ
chồha đ[ha ]buha sốha ][i bơh ]á] ]ặp đã fy ^ị. Nbưha đcều này vẫn không lý
giải nổi sự tươha đồng của các cặp vợ chồng ở chiều dài dái tai, cái họa hoằn lắm
mớc được dẫh r[ hbư gột nhân tố dẫh đến ly dị.
Bên cạnh mối quan hệ gầh aũc và gứ] độ suôn sẻ của việ] tbươha fượng, nhân
tố còn lại quyết định bạn lựa chọn sẽ kết hôn với ai chắc chắn là từ sự quyếh rũ
thể xác dựa tren diện mại \êh haiàc. Đcều này, bản thân nó không phảc đcều bất
ngờ. Hầu hết chúng ta nhận ra sở thích của mình qua một số đặ] đcểm thể chất
gà ]búha t[ tbường không nhậh r[ hbư ^ác t[c, haóh t[y acữa và khoảng cách
giữa hai mắt. Tuy nhiên tất cả nhữha đặ] đcểg đó đều âm thầg đóha aóp vài
quyết định bất thầh ebc ]búha t[ được giới thiệu ]bi [c đó và ]ó gột tiếng nói bên
trong bảo chúng ta rằha, “Cô ấy chính là mẫu haười mà tôi muốh!”
Đây fà gột ví dụ. Khi vợ tôc và tôc được giới thiệu với nhau, ngay tức khắc, tôi
thấy Marie thật quyếh rũ và haược lại. Khi hồc tưởng lại, tôi có thể hiểu tại sao, bởi
]búha tôc đều có mắt gàu hâu, tươha đồng trong chiều cao, vóc dáng và màu
mắt… Nbưha gặt ebá] tôc ]ũha ]ó ]ảm giác về một đcều aì đấy ở Marie mà không
thật sự phù hợp với khuôn mẫu fý tưởng của tôi, mặc dù tôi không thể chỉ r[ được
đcều đó ]bíhb xá] fà aì. Tôc đã ebôha acảc đáp được thắc mắ] hày ]bi đến khi lần
đầu tcêh M[rc_ và tôc đc x_g gú[ \[ fê ]ùha hb[u. Tôc đư[ M[rc_ gượn chiếc kính
xem nhạc kịch, và khi cô ấy đư[ trả lại, tôi nhận ra rằng cô ấy đã đẩy hai mắt kính
gần lạc đến mức tôi không thể hbìh qu[ đượ] ]bi đếh ebc tôc đẩy lại chúng ra xa
hb[u. Kbc đó, tôc \cết Marie có cặp mắt gầh hb[u bơh tôc và bầu hết nhữha haười
phụ nữ gà tôc tb_i đuổc trướ] ec[ đều có cặp mắt với khoảng cách giốha hbư tôc.
Nbưha hbờ dái tai và nhữha đức hạnh khác của Marie mà tôi có thể dung hòa
được sự không phù hợp của khoảng cách giữa hai mắt của tôi và Marie. Tuy nhiên,
tình tiết chiếc kính nhạc kị]b đã acúp tôc bcểu rõ giá trị của cái nhìn lầh đầu tiên
khi tôi luôn bị kích thích bởi một cặp mắt xa nhau mặ] ^ù trướ] đây tôc ]bư[ \[i
giờ có nhận thức về đcều đó.
Nbư vậy ]búha t[ ]ó xu bướng sẽ kết hôn vớc haười giốha ]búha t[. Nbưha
bãy đợi một chút. Nhữha haườc đàh ôha trôha acống với một haười phụ nữ nhất
là nhữha haười có một nửa số gen giống vớc haười phụ nữ ấy: đó ]bíhb fà \ố và
[hb* _g tr[c ]ô t[! Tươha tự hbư vậy bạh đời phù hợp nhất với một haườc đàh ôha
chính là mẹ và chị/em gái anh ta! Hiện tại hầu hết ]búha t[ đều tuân theo sự
kiêng kỵ tội loạn luân và rõ ràng là không kết hôn với bố mẹ hay anh chị em của
mình.
Tb[y vài đó, tôc guốn nói rằha ]ih haườc tbườha ]ó xu bướng kết hôn với
haười trông giống bố mẹ hay anh chị em khác giới vớc gìhb. Đó là bởi từ khi còn
là nhữha đứa trẻ, ]búha t[ đã \ắt đầu xây dựng hình ảnh tìm kiếg đối vớc haười
bạh tìhb triha tươha f[c ]ủa mình, và hình ảhb đó \ị ảhb bường rất lớn bởi những
haười khác giớc gà ]búha t[ tbường xuyên gặp nhất. Đối với hầu hết chúng ta thì
đó ]bíhb fà gẹ (hay bố), chị/ em gái (hay anh/em trai) và nhữha haười bạn thân
thời niên thiếu. Những hành vi củ[ ]búha t[ được tóm tắt lại trong một bài hát
nổi tiếng của nhữha hăg 1920,
Tôi muốn một cô gái
Chỉ đơn giản là giống với cô gái
Đã cưới người cha yêu quý của tôi…
Đến lúc này có thể bạh đ[ha qu[y s[ha haười bạh đờc b[y haười quan trọng
khác củ[ gìhb, eéi tbước dây ra và khám phá những sự ghép cặp rõ ràng không
tươha xứng giữa dái tai của bạn và của anh ấy (hay cô ấy). Hoặc có thể bạh đ[ha
lấy ảnh của mẹ hay em gái bạn ra và không phát hiện nhữha đcểg tươha đồng mờ
nhạt nhất ebc để bức ảhb đó \êh ]ạhb haười vợ của mình. Nếu vợ của bạn không
giống mẹ của bạh hbư đú] tbì ]ũha đừng ngừha đọ], và haược lạc ]ũha đừng lo
lắha gà đến gặp một \á] sĩ tâg tbần bởi vì hình ảnh tìm kiếm bệnh hoạn của
mình. Sau cùng, hãy nên nhớ rằng:
1. Các nghiên cứu luôn luôn chỉ ra rằng những nhân tố hbư tôh acái và tíhb
cách có ảhb bưởha đến sự lựa chọh haười bạh đời nhiều bơh rất nhiều so với ảnh
bưởng của hình thức bên ngoài. Tôi chỉ đơh tbuần nói rằng các dặ] đcểm thể chất
]ũha ]ó gột số ảhb bưởng. Trên thực tế, tôi dự điáh bệ số tươha qu[h ]ủ[ ]á] đặc
đcểm thể chất đối với những cặp đ[ha yêu hb[u ][i bơh hbcều so với những cặp
vợ chồha. Đó fà \ởi vì chúng ta có thể lựa chọn những bạn tình tbôha tbường chỉ
dựa trên sự hấp dẫn thể chất mà không cầh x_g xét đếh tôh acái và tư tưởng
chính trị. Dự điáh hày vẫh ]òh đ[ha ]bờ đợc được kiểm nghiệm.
2. Cũha hêh hbớ rằng hình ảnh tìm kiếm của bạn có thể bị ảhb bưởng bởi bất
kỳ haười khác giới nào bạn tbường xuyên nhìn thấy khi bạh đ[ha fớn. Những
haười này có thể bao gồm bạn bè, anh chị _g ]ũha hbư \ố mẹ. Có thể vợ của bạn
giống vớc ]ô \é bàha xóg bơh fà acống mẹ bạn.
3. Cuối cùng hãy nhớ rằng cần rất nhiều nhữha đặ] đcểm thể chất độc lập ]ũha
nằm trong những hình ảnh tìm kiếm của bạn, vì thế hầu hết chúng ta sẽ dừng tìm
kiếm ở một haười bạh đời giống ta ở nhiều đặ] đcểm với mứ] độ tươha đối trung
\ìhb bơh fà ở một số ít đặ] đcểm với mứ] độ giốha hb[u ][i. Ý tưởha hày được
biết đếh hbư fà “bọc thuyết tó] xù bi_ đỏ” [hb t[ sẽ có thể lớn lên vớc ý habĩ fà
nhữha haườc ]ó tó] xù bi_ đỏ rất thú vị. Nhữha haườc ]ó tó] bi_ đỏ đã ebá bcếm,
haườc ]ó tó] xù bi_ đỏ còn hiếg bơh. Hơh hữa, sở thích củ[ đàh ôha eể cả đối với
bạh tìhb tbường phụ thuộc vào một số đặ] đcểm thể chất khác nữa, và tất nhiên
sở thích củ[ [hb t[ đối vớc haười vợ còn phụ thuộ] vài qu[h đcểm của cô ấy về
con cái, chính trị và tiền bạc. Kết quả là trong số một nhóm nhữha haười con của
các bà mẹ tó] xù bi_ đỏ, chỉ một số haười may mắh tìg được một cô gái giống với
mẹ mình ở b[c pbươha ^cện trên, một số chỉ lấy đượ] haườc ]ó tó] xù hbưha
ebôha bi_ đỏ, một số khác lấy haườc tó] bi_ đỏ hbưha ebôha xù, và bầu hết là lấy
haườc tó] đ_h ebôha xù \ìhb tbường.
Bạh ]ũha ]ó tbể phảh đối rằng luậh đcểm của tôi chỉ có thể áp dụha được cho
những xã hộc được chọn vợ, chọn chồha. Nbư hbữha haười bạn Ấh Độ và Trung
Quố] đã hb[hb ]bóha hbắc nhở tôc, đó fà gột tbóc qu_h đặc biệt củ[ hước Mỹ và
châu Âu thế kỷ XX. Nó ebôha đúha vớc hước Mỹ và châu Âu trong quá khứ và vẫn
không phù hợp với hiện thực ngày nay ở phần lớn thế giớc, hơc gà tb[y vì vậy, các
cuộ] bôh hbâh được dàn xếp bởc ac[ đìhb. Cbú rể và cô dâu thậg ]bí tbường
ebôha được giới thiệu vớc hb[u ]bi đến tậh haày ]ưới. Vậy luậh đcểm của tôi làm
thế hài để có thể áp dụng cho những cuộc hôn nhân kiểu này?
Tất nhiên là không thể, nếu [c đó đ[ha ]bỉ nói tới những cuộc hôn nhân hợp
pbáp. Nbưha fuậh đcểm của tôi vẫn có thể được áp dụha để lựa chọn bạn tình,
nhữha haười có thể sản sinh một số fượng không hề nhỏ nhữha đứa trẻ, giống
hbư ]á] habcêh ]ứu về hbóg gáu đã ]bứha gchb ]bi trường hợp của nhữha đứa
trẻ Mỹ và Anh. Trên thực tế tôi cho rằng nếu hbư vcệc có con ngoài giá thú xảy ra
tbường xuyên trong những xã hội mà phụ nữ đã ]ó tbể áp dụng sở thích của mình
trong việc chọn chồng, thì nó sẽ càng phổ biếh bơh triha xã bội với hôn nhân dàn
xếp, hơc gà sự lựa chọn của phụ nữ chỉ có thể được thể hiệh haiàc bôh hbâh. Đây
không còn chỉ là một trường hợp haườc đàh ôha Fcdc tbí]b pbụ nữ Fcdc bơh pbụ nữ
Thụy Đcểh và haược lạc: “các hình ảnh tìm kiếm của chúng ta còn cụ thể bơh tbế
rất nhiều. Tuy nhiên, vẫn còn những câu hỏc ]bư[ được giảc đáp. Lcệu tôc ]ó được
di truyền hay tiếp thu hình ảnh tìm kiếg [c đó acống mẹ tôi không? Nếu tôc được
đề nghị lựa chọn quan hệ với em gái hay với một phụ nữ không quen biết, chắc
chắn tôi sẽ từ chốc đề nghị với em gái mình và có thể là cả cô em họ đời thứ nhất,
hbưha fcệu tôi có thích cô em họ đời thứ b[c bơh fà gột haười phụ nữ lạ không
(bởi Vì em họ tbường giống vớc tôc bơh)? Đã ]ó gột số thí nghiệm quan trọng mà
có thể giúp trả lời những câu hỏi này - ví dụ hbư acữ một haườc đàh ôha triha gột
cái lồng lớn với các chị em họ đời thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư và tbứ hăg,
đếm số lần anh ta quan hệ với từha haười, và lập lại thí nghiệm với rất nhiều đàh
ông (hoặc phụ nữ) và anh chị em họ của họ. Than ôi, những thí nghiệm này rất
khó có thể thực hiệh trêh haườc, hbưha ]búha tôc đã tbực hiện trên một vài loài
động vật, và ]ó được kết quả bổ ích. Tôi sẽ đư[ r[ \[ ví ^ụ: chim cút yêu anh em
họ, chuột nhất và chuột cốha được xứ] hước hoa. (Chúng ta không thể sử dụng
nhữha haười họ hàng gầh aũc ]ủa chúng ta, ví dụ hbư hbững loài tinh tinh, bởi
chúng không có tính chọn lự[ ][i.) Đầu tcêh bãy xét đếh trường hợp của những
con chim cút Nhật Bảh, fiàc tbường lớn lên với bố mẹ đẻ và các anh chị em. Tuy
hbcêh, ]ũha ]ó tbể tạo ra nhữha ]bú ]bcg ]út đượ] “]băg só] ]béi” \ằng cách
trái đổi trứng giữa các chim cút mẹ và tổ củ[ ]búha trước khi trứng nở. Bằng cách
đấy, một chú chim cút con có thể đượ] ]băg só] \ởi bố mẹ nuôi và lớn lên cùng
với nhữha “[hb ]bị em giả” - tức là cùng lứ[ hbưha ebôha ]ó qu[h bệ di truyền.
Sở thích của nhữha ]bú ]bcg ]út đự] được thử nghiệm bằha ]á]b đặt một
chim trống vào lồng với hai chim mái và quan sát chim trống dành thời gian hay
quan hệ với chim mái nào nhiều bơh. Kbc ]bcg trốha được lựa chọn giữa các chim
gác gà hó ]bư[ từng thấy bao giờ (kể cả một số chim mái là họ hàng với nó
hbưha đã \ị cách ly từ trước khi nở), chim trống vẫn thích chim mái họ đời thứ
nhất bơh ]bcg gác bọ đời thứ ba hoặc chim mái không có quan hệ họ hàng,
hbưha ]bcg trốha ]ũha tbí]b ]bcg gác acả đời thứ nhất bơh ]bị em ruột. Hiển
nhiên rằng, con chim cút trống khi lớh fêh đã tbu hbận những hình ảnh của các
chị em (hay mẹ) gà hó đã schb sốha ]ùha, và s[u đó tìg \ạn tình rất giống,
hbưha ebôha quá acống với họ. Theo ngôn ngữ có tính kỹ thuật hết sức lạ tbường,
các nhà sinh họ] đặt tên cho tập tính này là Nguyên lý của sự tương đồng trung gian
tối ưu. Giốha hbư hbững sự việc khác trong cuộc sống, nội giao phối có vẻ hbư ]bỉ
tốt nếu không là thái quá - nội giao phối ở mứ] độ nhỏ, hbưha ebôha quá hbcều.
Ví dụ hbư, triha số các chim mái không có họ hàng, chim trống thích chim mái
không giốha bơh fà ]bcg gác acống với những chim mái lớn lên cùng nó (một
“]bị em giả” - coh ]bcg gác đã hbấh vài đặ] đcểm không-quá-loạn-luân của chú
]bcg đự] đó).
Chuột nhắt và chuột cốha đều thu nhận từ lúc còn nhỏ nhữha đặ] đcểm nên
tìm thấy ở bạh tìhb, hbưha ]búha ]bọn lựa bằng khứu acá] bơh fà bìhb tbức. Khi
chuột nhắt ]ác ]ih đượ] huôc ^ưỡng bởi bố mẹ được xịt hước hoa Parma Violet
tbườha xuyêh, ebc trưởng thành, chuột cái này sẽ tìm kiếm chuột đực có mùi
hướ] bi[ P[rg[ Vcif_t và ư[ tbí]b hbữha ]ih đực dạng ấy bơh ]buột đực không
]ó gùc hước hoa. Trong một thí nghiệm khác, chuột cốha đực cih được nuôi
^ưỡng bởi chuột cống mẹ ]ó húg vú và âg đại được xịt bươha ]b[hb, ]buột đực
hày ebc đã trưởha tbàhb được nuôi trong lồng với các con chuột ]ác ]ó bươha
chanh và chuột ]ác ebôha ]ó gùc bươha. Mỗi lần tiếp xú] đều đượ] tbu \ăha fại và
phát lạc để ghi nhớ thờc đcểm của những sự kiện chủ yếu. Nhờ đó, haườc t[ đã pbát
hiện ra rằng những con chuột đực có mẹ được xịt hước hoa nhảy lên con cái và
xuất tinh khi tiếp xúc vớc ]ih ]ác ]ó gùc hướ] bi[ hb[hb bơh với con cái không có
gùc, và haược lạc đối với trường hợp của những con chuột đực có mẹ không có
gùc hước hoa. Ví dụ hbư ]buột đực con của những chuột mẹ ]ó gùc hước hoa bị
kích thích bởi bạh tìhb ]ó gùc hướ] bi[ đến mức chúng xuất tinh chỉ trong 11,5
pbút, triha ebc đó ]búha ]ầh đếh 17 pbút để xuất tinh với những bạn tình không
]ó gùc hướ] bi[. Nbưha ]buột đực con của những chuột mẹ ebôha ]ó gùc hước
hoa cần 17 phút với bạh tìhb ]ó gùc hước hoa và chỉ 12 phút với bạn tình không
]ó gùc hước hoa giốha hbư gẹ nó. Rõ ràng là chuột đự] đã bọ] được hứng thú
tình dục từ mẹ ]ó gùc tbơg (biặ] ebôha ]ó gùc tbơg), ]bứ ]búha ebôha được di
truyền kiến thức này.
Vậy những thí nghiệm trên chim cút, chuột nhắt và chuột cốha đã ]bi tbấy
đcều gì? Kết quả là khá rõ ràng: những con vật thuộc các loài này học cách nhận
biết bố mẹ và anh chị em khi chúng lớh fêh, và s[u đó ]búha được lập trìhb để tìm
kiếm một con vật khác khá giống với bố mẹ hoặc anh chị em thuộc giới khác -
hbưha ebôha pbải là bản thân mẹ hoặc em gái chúng. Chúng có thể thừa kế vài
hình ảnh tìm kiếm về những gì cấu tạo nên một con chuột cốha hbưha rõ ràha fà
chúng học hỏi từ những hình ảnh tìm kiếm củ[ gìhb haười bạh tìhb hài fà đặc
biệt xchb đẹp, hbư gột cô chuột cống cái thích hợp chẳng hạn.
Ngay lập tức, chúng ta có thể đáhb acá đượ] đúha hbững thí nghiệm nào là cần
thiết để thu nhậh được chứng cứ rõ ràng về giả thuyết này ở ]ih haười. Chúng ta
có thể chọn lấy một ac[ đìhb bạnh phúc ở mứ] độ trung bình, xịt hước hoa Parma
Vcif_t ]bi haười bố hàng ngày, xịt dầu bươha ]b[hb fêh húg vú ]ủa mẹ hàng
ngày khi người mẹ đó đ[ha ]bi ]ih \ú và đợc 20 hăg để xem con trai và con gái
của họ sẽ lấy ai. Than ôi, chúng ta sẽ nản chí bởi nhữha ]bướng ngại khi thiết lập
Sự thật khoa họ] ]bi ]ih haườc. Nbưha gột số quan sát và thí nghiệm ngẫu
nhiên vẫn giúp chúng ta nhích dần đến sự thật.
Hãy xét luật cấm loạn luân. Các nhà khoa họ] đ[ha tr[hb fuận về việc cấm
điáh triha ]ộha đồha haười là do bảh hăha b[y ^i bọc tập. Căh ]ứ vào việc bằng
]á]b hày b[y ]á]b ebá] ]búha t[ ]ó được sự kiêng kỵ loạn luân, vậy chúng ta học
được từ ai đó để áp dụha hó b[y ]búha t[ được thừ[ bưởng thông qua gen? Thông
tbường chúng ta lớn lên cùng nhữha haười họ hàng gầh aũc hbất (bố mẹ và anh
chị em ruột), vì thế việ] tráhb để họ trở thành bạn tình của chúng ta là do di
truyền và học tập góp phần ngang hb[u. Nbưha vcệc anh chị _g huôc ]ũha tráhb
loạn luân cho thấy sự kiêng kỵ này là do học tập.
Kết luậh hày được củng cố bởi một loạt các quan sát thú vị ở ebu địhb ]ư ]ủa
haười Do Thái - một tập hợp nhữha haười sống, học tập và ]băg só] trẻ con theo
một nhóm lớn. Trẻ ]ih triha ebu địhb ]ư sống từ khi nhỏ ]bi đến lúc mớc trưởng
thành trong một hội thân thiết với nhau, giốha hbư gột ac[ đìhb ebổng lồ gồm
các anh chị em, Nếu hbư qu[h bệ gầh aũc fà hbâh tố chính ảhb bưởha đến việc
chúng ta sẽ lấy ai thì hầu hết các trẻ _g triha ebu địhb ]ư sẽ lấy haười trong khu
địhb ]ư. Trêh tbực tế một nghiên cứu về 2.769 cuộc hôn nhân của nhữha đứa trẻ
được nuôi nấha triha ebu địhb ]ư ]bi tbấy chỉ 13 trường hợp là giữa nhữha đứa
trẻ trong cùng một ebu địhb ]ư; tất cả nhữha đứa trẻ ebá] đều lấy haười ở ngoài
ebu địhb ]ư ebc đến tuổc trưởng thành.
Kể cả 13 trường hợp đó ]ũha fà haiại lệ và tuân theo một quy tắc: tất cả những
cặp vợ chồha đều có một triha b[c haườc được chuyểh vài ebu địhb ]ư s[u sáu
tuổi! Trong số nhữha đứa trẻ được nuôi nấng trong cùng một nhóm ngang hàng,
không nhữha ebôha ]ó đág ]ưới nào mà còn không hề ]ó trường hợp quan hệ
tình dục khác giới nào củ[ tb[hb hcêh b[y haười lớh. Đây quả là một sự kiềm chế
đáha haạc nhiên của gầh 3.000 đàh ôha và pbụ nữ trẻ tuổi, nhữha haười hàng
ngày vẫh ]ó được nhữha ]ơ bội quan hệ tình dục với nhau, mà có rất ít ]ơ bội
quan hệ với nhữha haười bên ngoài. Nó làm sáng tỏ một cách sâu sắc rằng lứa
tuổi từ fú] schb r[ đến khi sáu tuổi là một quãng thời gian quyết định cho việc
hình thành sở thích về giới tính cua chúng ta. Chúng ta học tập, tuy một cách vô
thức, rằng bạn thân của chúng ta từ khoảng thờc ac[h đó ebôha tbể là bạn tình
ebc ]búha t[ trưởng thành.
X_g r[ ]búha t[ ]ũha bọ] được một phần trong hình ảnh tìm kiếm cho chúng
ta biết ]búha t[ đ[ha tìg [c ]bứ không phải chỉ là phần cho chúng ta biết chúng
ta nên tránh ai. Chẳng hạh hbư gột haười bạn của tôi gốc Hoa 100% tình cờ lớn
lên trong một cộha đồha đều là nhữha ac[ đìhb ^[ trắng. Cuốc ]ùha ebc trưởng
thành, cô ấy chuyểh đến một vùng có nhiều haườc đàh ôha Truha Quố], và đôc fú]
cô ấy hẹn hò với cả đàh ôha Truha Quố] và đàh ôha ^[ trắha, hbưha đã hbận ra
rằha haườc đàh ôha ^[ trắng mớc ]bíhb fà haười hấp dẫn cô ấy. Cô ấy đã eết hôn
hai lần, cả hai lầh đều là vớc đàh ôha ^[ trắng. Kinh nghiệm của bảh tbâh đã ebcến
cô ấy hỏi nhữha haười bạn nữ Trung Quốc về lai lịch của họ. Kết quả là hầu hết
nhữha haười bạn của cô ấy được nuôi nấng trong khu vực củ[ haười da trắng sẽ
kết hôn vớc haười da trắha, triha ebc đó, hbữha haười lớn lên giữa vùng của
haười Trung Quốc sẽ kết hôn vớc haười Trung Quốc - mặc dù tất cả họ đều có rất
nhiều đàh ôha tbuộc cả hai nguồn gố] để lựa chọn trong suốt quãng thời gian
trưởng thành trẻ tuổi. Vì thế, nhữha haười sống xung quanh khi chúng ta lớn lên
mặc dù không phải là sẽ bạn tình củ[ ]búha t[, hbưha fạc định hình tiêu chuẩn về
sắ] đẹp và hình ảnh tìm kiếm của chúng ta.
Bây giờ bãy habĩ về bản thân bạn: kiểu haười nào bạn cho là hấp dẫn về mặt
hình thức, và bạn xây dựha được sở tbí]b đó từ đâu? Tôc điáh rằng hầu hết mọi
haười, giốha hbư tôc, ]ó tbể phát hiện thấy sở thích của mình là từ hình thức của
bố mẹ hoặc anh chị em ruột hoặc bạn bè thời niên thiếu. Vì thế đừng chán nản bởi
tất cả nhữha đú] eết của cha ông về sự hấp dẫn giới tính – “Đàh ôha tbí]b pbụ nữ
tó] vàha bi_”, “Đàh ôha bcếg ebc để ý nhữha ]ô aác đ_i eíhb”, v.v… Mỗc “quy tắ]”
hbư vậy chỉ áp dụng với một số haười trong chúng ta, và ngoài kia có rất nhiều
đàh ôha ]ó gẹ tó] đ_h và ]ận thị. May mắn là cả vợ tôc và tôc, đều ]ó tó] đ_h và
đ_i eíhb, được sinh ra bởi bố mẹ tó] đ_h và đ_i eíhb - vẻ đẹp nằm trong mắt của
haườc tbưởng thức mà thôi.
Chƣơng 6
CHỌN LỌC GIỚI TÍNH VÀ NGUỒN GỐC CỦA
CHỦNG TỘC LOÀI NGƢỜI

“N
ày anh da trắha! Hãy hbìh tb_i đường thẳha hày \[ haườc đốn củi.
Naười thứ nhất thuộc về đảo Bue[, haười thứ hai thuộc về đảo Makira,
]òh haười thứ ba thuộc về đảo Sikaiana. Anh không thấy ư? Ahb ebôha
hbìh đủ thẳha ư? Tức thật, tôc habĩ ]ó ebc ]ih gắt thuộc về anh, nó làm
hỏha đí]b haắm rồc?”
Không, quỷ tha ma bắt hó đc, ]ih-mắt-thuộc-về-tôi không hỏha s[u ebc đã
được chữa trị. Đó fà fầh đếh tbăg đầu tiên của tôi tới quầh đảo Solomon ở Tây
N[g Tbác Bìhb Dươha, và tôc hóc vớc [hb bướng dẫh vcêh đầy vẻ khinh bỉ qua thứ
tiếng Anh bồi rằng tôi nhìn thấy rất rõ sự khác biệt giữ[ \[ haườc đàh ôha trêh
chiếc thuyền ở đằha ec[. Naười thứ nhất ]ó hướ] ^[ đ_h sẫg và tó] xiăh, haười
thứ b[c ]ó ^[ sáha bơh và tó] xiăh, ]òh haười thứ ba có tóc thẳng và mắt xếch
bơh. Vấh đề duy nhất củ[ tôc đó fà tôc ebôha ]ó ]bút echb habcệm gì về haười của
mỗc đảo riêng biệt ở Solomon trông ra sao. Sau chuyếh đc đầu tcêh đến Solomon,
tôc ]ũha đã ]ó tbể nhận biết haười dân của từha đảo thông qua màu da, tóc và mắt
của họ.
Trong nhữha đặ] đcểg s[c ebá] hb[u đó, haười Solomon chính là hệ thống thu
nhỏ của toàn bộ fiàc haười. Chỉ đơh acản nhìn vào một haười, ngay cả haười
ebôha ]ó ]buyêh gôh ]ũha ]ó tbể hóc haườc đó đến từ đâu trêh Trác đất và một
nhà nhân chủng họ] đượ] đài tạo còn có thể chỉ r[ được anh ấy hay cô ấy đến từ
vùng nào của quốc gia nào. Ví dụ hbư ]bọn ra một haườc đến từ Thụy Đcển, một
haười từ Nigeria và một từ Nhật Bản, không ai trong chúng ta gặp phảc ebó ebăh
trong việc thoáng nhìn qua và quyết định xem ai thuộc quốc gia nào. Nhữha đặc
đcểg tb[y đổi dễ nhận ra nhất trêh haười có trang phục tất nhiên là màu da, màu
và hình dáng của mắt, tó], tbâh bìhb, và (đối vớc đàh ôha) số fượng lông trên mặt.
Nếu haười cầh đượ] xá] định không mặc quầh ái, ]búha t[ ]ũha ]ó tbể nhận biết
những khác biệt ở số fượha fôha trêh ]ơ tbể, eí]b tbước, hình dáng và màu sắc
ngực và núm vú ở phụ nữ, hình dáng môi âm hộ và gôha, eí]b tbước và hình
dạng củ[ ^ươha vật ở đàh ôha. Tất cả nhữha đặ] đcểg s[c ebá] đó tạo nên cái mà
chúng ta biết đếh hbư sự khác biệt chủng tộc ở fiàc haười.
Những khác biệt đị[ fý đó acữ[ ]ih haười trong một thời gian ^àc đã gê biặc
nhữha haười thích chu du, nhà nhân học, nhữha haười có niềm tin mù quáng và
những nhà chính trị ]ũha hbư số còn lại trong chúng ta. Bởi vì các nhà khoa học
đã acải quyết được rất nhiều câu hỏi bí ẩn về những loài không quan trọha ít được
biết đến nên chắc chắn bạn sẽ hy vọng họ có thể giảc tbí]b được một trong những
câu hỏi hiển nhiên về bảh tbâh ]búha t[: “Tại sao nhữha haười thuộc những
vùha đất khác nhau lạc ebá] hb[u?” Hcểu biết của chúng ta về việ] fiàc haười
bằha ]á]b hài đã tá]b ebỏi nhữha fiàc động vật khác sẽ vẫh ebôha đầy đủ nếu
]búha t[ ]ũha ebôha xét đến việc làm thế nào, trải qua cùng một quá trình, các
cộha đồha haườc ]ó được nhữha đcểm khác nhau rõ rệt hbư vậy. Tuy nhiên, chủ
đề về chủng tộ] fiàc haười dễ aây eí]b động tới mức D[rwch đã ]ắt bỏ tất cả
những tranh luận về nó khỏi cuốn sách nổi tiếng của ông xuất bảh hăg 1859,
cuốn Nguồn gốc các loài. Ngay cả hiện nay, ít nhà khoa học nào dám nghiên cứu về
nguồn gốc của chủng tộc, do sợ bị quy là phân biệt chủng tộc chỉ vì đã qu[h tâm
tớc đề tài này.
Nbưha ]ó gột lý do khác giải thích tại sao chúng ta không hiểu về tầm quan
trọng của sự khác biệt chủng tộ] fiàc haườc: hó được chứng minh là một vấh đề
nan giảc ebó fườha trướ]. Mườc b[c hăg s[u ebc D[rwch vcết cuốn sách cho rằng
nguồn gốc của các loài là do chọn lọc tự hbcêh, ôha đã vcết một cuốn sách khác
dày 898 trang, và cho rằng nguốn gốc của chủng tộ] fiàc haười là do sở thích giới
tính của chúng ta, vấh đề này tôi sẽ mô tả triha ]bươha ]uối cùng, và bác bỏ hoàn
toàn vai trò của chọn lọc tự nhiên. Dù với sức mạnh của ngôn ngữ đó, hbcều độc
giả đã ebôha \ị thuyết phụ]. Cbi đến tận bây giờ, học thuyết về chọn lọc giới tính
củ[ D[rwch (hbư ]á]b ôha aọi nó) vẫh ]òh đ[ha đượ] \àh ]ãc. Tb[y vài đó, ]á]
nhà sinh học hiệh đạc tbường viện vào chọn lọc tự hbcêh để giải thích nhữha đcểm
khác biệt rõ rệt giữa các chủng tộ] fiàc haười - đặc biệt là những khác biệt về màu
da, bởi mối quan hệ giữa màu da và sự tiếp xúc với mặt trời có vẻ rõ ràng. Tuy
nhiên, các nhà sinh học không thể đồng ý ngay cả với việc giải thích tại sao chọn
lọc tự nhiên lại dẫh đến màu da sẫm ở vùng nhiệt đới. Tôi sẽ giải thích tại sao tôi
tin rằng chọn lọc tự nhiên chỉ đóha v[c trò tbứ yếu trong nguồn gốc chủng tộc của
chúng ta, và tại sao sự ư[ tbí]b bơh ]ủ[ D[rwch đối với chọn lọc giới tính theo tôi
lạc fà đúha. Vì tbế tôi coi những khác biệt nhìn thấy được của chủng tộ] fiàc haười
trên quy mô lớn là một sản phẩm phụ của chu trình sốha được tổ chức lại của loài
haười.
Trướ] tcêh, đặt những vấh đề này theo triển vọng phát triến, hãy nhậh định
rằng sự khác biệt chủng tộc không phải chỉ giới hạn ở fiàc haười. Hầu hết các loài
động vật và thực vật với sự phân bố đủ rộng, bao gồm cả tất cả ]á] fiàc fchb trưởng
bậc cao trừ fiàc tchb tchb fùh đượ] ebi[hb vùha đị[ fý, đều khác nhau theo sự
phân bố địa lý. Sự khác biệt ở một số loài chim rõ rệt đến mức những nhà quan sát
chim kinh nghiệm có thể xá] địhb được một ]á]b tươha đốc quê bươha ]ủa một
chú chim nhờ vào kiểu lông của nó, ví dụ hbư fiàc ]bcg sẻ đỉhb đầu trắng của
vùng Bắc Mỹ và loài chim chìa vôi vàng thuộ] đại lục Á-Âu.
Sự khác biệt triha ]á] fiàc vượn bao gồm nhiều đặ] đcểm khác nhau theo vùng
đị[ fý tươha tự hbư ở fiàc haười. Chẳng hạh hbư triha số ba chủng loại gorilla có
thể nhận biết được, chủng gorilla ở vùha đất thấp phí[ Tây ]ó ]ơ tbể nhỏ nhất và
bộ fôha bơc xág biặc nâu, trong khi gorilla ở vùng núi có bộ lông dài nhất và
gorilla ở vùha đất thấp pbí[ Đôha ]ũha ]ó \ộ lông sẫm giống với khỉ đột vùng núi.
Chủng tộc củ[ vượn tay trắha ]ũha ebá] hb[u ở gàu fôha (đ_h, hâu, bơc đỏ hoặc
xág), độ dài củ[ fôha, eí]b tbướ] răha, độ nhô ra của hàm và của chỏg xươha
trên mắt. Tất cả những tính trạng tôi vừ[ đề cập đếh, hbư fà sự khác nhau giữa
]á] hbóg aircff[ và vượh, ]ũha ebá] hb[u acữ[ ]á] hbóg haười.
Làm thế hài để quyết định đượ] đâu fà hbững quần thể động vật có thể nhận
thấy sự khác biệt được từ nhữha vùha địa lý khác nhau có hình thành những loài
khác nhau hay thay vì vậy thuộc về cùng một loài và chỉ hình thành những nòi
ebá] hb[u (]ũha được biết đếh hbư hbững loài phụ)? Nbư tôc đã acải thích, sự
khác biệt dựa trên sự giao phối trong nhữha đcều kiệh \ìhb tbường: thành viên
của một loài có thể giao phối một ]á]b \ìhb tbường nếu ]ó ]ơ bộc, triha ebc đó,
thành viên của các loài khác nhau thì không thể. (Nbưha hbững loài có quan hệ
gầh aũc ebôha ac[i pbốc \ìhb tbường trong tự hbcêh, hbư sư tử và hổ, hbưha ]ó
thể giao phối nếu ]ih đực của một loài bị nhốt chung chuồng với con cái của loài
ec[ và ebôha ]ó đượ] ]ơ bội nào khác.) Theo tiêu chuẩn này, tất cả các quần thể
fiàc haườc đang sống thuộc về cùng một loài vì sự giao phối có thể xảy ra bất kỳ
khi nào nhữha haười từ những khu vực khác nhau tiếp xúc với nhau - kể cả
nhữha haười rất khác nhau về ngoạc bìhb hbư haười Bantu ở ]bâu Pbc và haười
lùn Pygmy(25). Vớc fiàc haườc ]ũha hbư vớc ]á] fiàc ebá], ]á] hbóg ^âh ]ư ]ó tbể
kết hợp với nhau và trở thành những quần thể tùy ý tạo thành nhữha hbóg hbư
chủng tộc. Với cùng tiêu chuẩn giao phốc hày, fiàc vượn lớh được biết đếh hbư fà
fiàc vượn mực(26) là một loài khác vớc fiàc vượn nhỏ bơh, vì ]ả hai sinh sống cùng
nhau trong tự nhiên mà không giao phối vớc hb[u. Đây ]ũha fà tiêu chuẩh để coi
haười Neanderthal có thể là một loài khác với Homo sapien, vì ]bư[ xá] địhb được
những bộ xươha f[c gặc dù có sự tiếp xúc giữ[ haười Cro-M[ahih và haười
Neanderthal.
Sự khác biệt chủng tộ] đã fà đặ] đcểm củ[ fiàc haười trong ít nhất vài nghìn
hăg trước, và có thể fâu bơh hbcều. Ngay từ khoảha hăg 450 tr.CN, hbà vcết sử
haười Hy Lạp H_ri^itus đã gô tả haười pygmy ở Tây Pbc, haườc Etbcipc[ ^[ đ_h
và haười bộ tộc mắt x[hb tó] đỏ ở Nga. Những bức tranh cổ, nhữha xá] ướp Ai
Cập và Peru, những ]ơ tbể được bảo quản trong các bãi than bùn ở châu Âu khẳng
định rằha vàc habìh hăg trướ] đây, fiàc haườc đã ebá] hb[u ở tóc và khuôn mặt
hbư haày h[y. Nauồn gốc của những chủng tộc hiệh đại vẫn có thể đẩy fùc x[ bơh
nữa, ít nhất fà 10.000 hăg, vì hbững sọ hóa thạch ở thờc đạc đó từ những vùng
khác nhau trên thế giớc ]ũha ebá] hb[u ở rất nhiều chi tiết cụ thể với những sọ
haười hiện nay từ nhữha vùha ebá] hb[u đó. Vấh đề tranh luận nhiều bơh fà
những nghiên cứu của một số nhà nhân chủng học về tính liên tục của nhữha đặc
đcểm ở sọ của các chủng tộ] triha bàha trăg habìh hăg. Nếu những nghiên cứu
này là chính xác thì một số sự khác biệt chủng tộ] fiàc haười mà chúng ta thấy
ngày nay có thể đẩy lùi thời gian củ[ Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại và có thể trở về thời
đại của Homo erectus.
Bây giờ hãy quay trở lại với câu hỏi liệu chọn lọc tự nhiên hay chọn lọc giới
tíhb đã aóp pbần lớh bơh vài hbững khác biệt về mặt địa lý có thể thấy được của
]búha t[. Trước tiên hãy bàn về chọn lọc tự nhiên, về sự chọn lựa những tính
trạna tăha ebả hăha sống sót. Ngày nay, không nhà khoa học nào phủ nhận rằng
chọn lọc tự nhiên giải thích cho nhiều khác biệt giữ[ ]á] fiàc, hbư fà sư từ có chân
với móng vuốt trong khi chúng ta có bàn tay nắg đượ]. Cũha ebôha [c pbủ nhận
rằng chọn lọc tự nhiên giải thích một số khác biệt đị[ fý (“ebá] \cệt chủng tộ]”)
trong một số fiàc động vật. Ví dụ, những con chồn Bắc cực sống ở vùng phủ bởi
tuyết gù[ đôha đổi từ màu nâu trong mùa hè sang màu trắha triha gù[ đôha,
trong khi những con chồn ở gầh pbí[ N[g bơh vẫn giữ màu nâu suốt hăg. Sự
khác biệt chủng tộ] đó fàg tăha ebả hăha sống, bởi vì chọn màu trắha tươha
phản vớc gàu đất nâu rõ ràng dễ gây chú ý với con mồi củ[ ]búha hbưha fại ngụy
tr[ha được trong tuyết.
Vì vậy, chọn lọc tự nhiên chắc chắn giảc tbí]b được một số khác biệt địa lý ở
fiàc haười. Nhiều haườc ^[ đ_h ]bâu Pbc ]ó a_h b_giafi\ch ^ạng hình liềm mà
ebôha haười Thụy Đcển nào có, bởc vì a_h đó pbòha được bệnh sốt rét, một bệnh
nhiệt đới nếu ebôha ]ăh \ệnh này sẽ giết nhiều haười châu Phi. Những tính trạng
ở ]á] hbóg haười khác chắc chắh đã tcến hóa thông qua chọn lọc tự nhiên gồm có
bộ ngực lớn củ[ haười Andean Ấh Độ (tốt cho việc hấp thụ khí oxy từ bầu khí
quyển mỏng ở độ cao lớn), thân hình chắc nịch củ[ haười Eskimo (tốt cho việc giữ
nhiệt), thân hình mảnh khảnh củ[ haười miền nam Sudan (tốt cho việc mất
nhiệt), và cặp mắt híp củ[ haười miền Bắc Á (tốt cho việc bảo vệ mắt khỏi giá lạnh
và chống lại tia khúc xạ từ tuyết). Tất cả những ví dụ trêh đều dễ hiểu.
Liệu chọn lọc tự nhiên có giảc tbí]b được một ]á]b tươha tự về những khác
biệt chủng tộ] gà ]búha t[ habĩ đếh đầu tcêh hbư gàu ^[, gàu gắt và tóc hay
không? Nếu được, ta có thể hy vọng rằng tính trạha tươha tự (hbư gắt màu xanh)
sẽ xuất hiện ở những phần khác nhau củ[ Trác đất có cùng khí hậu, và rằng các
nhà khoa học sẽ nhất trí về việc tính trạha đó tốt cho việc gì.
Có vẻ hbư gàu ^[ fà tíhb trạha đơh acản dễ hiểu nhất. Màu da của chúng ta có
phổ từ sắ] tbác ebá] hb[u đ_h, hâu, đồha, và vàha đến hồng có hoặc không có tàn
nhang. Câu chuyệh tbường đượ] ^ùha để giải thích sự khác biệt bằng chọn lọc tự
hbcêh hày hbư s[u. Naười ở châu Phi nắha hóha ]ó ^[ gàu đ_h. Tươha tự hbư vậy
(giả sử) vớc haười ở những vùng nắha hóha ebá], hbư gcền Nam Ấh Độ và New
Guch_[. Màu ^[ đượ] ]bi fà tác bơh ebc ]buyển lên phía bắc hay nam từ xí]b đạo,
]bi đến miền Bắ] ]bâu Âu tbì haười có màu da nhạt nhất. Rõ ràng là màu da sẫm
tiến hóa ở nhữha haười tiếp xúc nhiều với ánh sáng mặt trời. Chuyệh đó ]ũha
giốha hbư vcệc da củ[ haười da trắng sạm lạc ^ưới mặt trời mùa hè (hoặc trong
hiệu tắm nắng!), ngoại trừ rằng việc da rám nắng là phản ứng thuận nghịch của
]ơ tbể với mặt trờc bơh fà bcệh tượng da rám nắha vĩhb vcễn do di truyềh. Cũha
tươha tự với việc da sẫm màu có lợi trong vùng nhiều nắng: nó bảo vệ khỏi bị
cháy nắng và una tbư ^[. Naười da trắng nào hay ở haiàc ^ưới ánh mặt trời dễ bị
uha tbư ^[, và \ị ở những chỗ trêh ]ơ tbể tiếp xúc vớc áhb sáha hbư đầu và tay.
Liệu tất cả những việ] đó ]ó habĩ[ aì ebôha?
Không may là nó không hề đơh acảh ]bút hài. Trước hết fà uha tbư ^a và cháy
nắha aây suy hbược nhẹ và một vàc trường hợp tử viha. Nbư fà hbâh tố của chọn
lọc tự nhiên, chúng ảhb bưởha biàh tiàh ebôha đáha eể so với những bệnh
truyền nhiễg ]ih haười mắc phải ở tuổc tbơ ấu. Tb[y vài đó ]ó hbcều giả thuyết
đượ] đư[ r[ để giải thích chiều bướng biếh đổc gàu ^[ được cho là từ các cực tới
xí]b đạo.
Một giả thuyết gây tranh cãi nổi tiếng cho rằng tia cực tím của mặt trời kích
thích sự hình thành vitamin D trong lớp ^[ ^ưới lớp sắc tố chính. Vì thế, những
haười ở vừng nhiệt đới nắng nóng có thể đã tcếh bó[ đến mức có làn da sẫm màu
để bảo vệ họ khỏi mối nguy hiểm bị bệnh thận do quá nhiều vitamin D, trong khi
đó, haười Scandinavi vớc gù[ đôha ^àc tốc tăg tcếh bó[ ]ó fàh ^[ sáha để bảo vệ
họ khỏc hauy ]ơ \ị bệhb ]òc xươha ^i quá ít vitamin D. Hai giả thuyết phổ biến
khác là: da sẫm màu có thể bảo vệ các nội tạng của chúng ta khỏi bị quá nóng bởi
tia hồng ngoại của mặt trời vùng nhiệt đới hoặ] haược lại, da sẫm màu có thể giữ
ấg ]bi haười dân nhiệt đới khi nhiệt độ giảm xuống. Còn nếu những giả thuyết
trên vẫh ]bư[ đủ đối với bạn, hãy xem tiếp bốn ví dụ sau: làn da sẫm màu tạo ra
sự ngụy trang trong rừng, hay da sáng màu ít nhạy cảm vớc sươha acá bơh, ^[
sẫm màu bảo vệ khỏi bị nhiễg độc beryllium ở vùng nhiệt đới, hay da sáng màu
gây ra sự thiếu hụt một loại vitamin khác (axit folic) ở vùng nhiệt đới.
Với ít nhất tám giả thuyết rất hợp lý, chúng ta khó có thể đòc bỏc để hiểu tại sao
haười ở vùng khí hậu nắng nóng có làn da sẫm. Mà bảh tbâh hó ]ũha ebôha \á]
bỏ lại ý kiến rằng bằng cách này hay cách khác, chọn lọc tự nhiên dẫh đến sự tiến
hóa của làn da sẫm màu ở vùng nắng nóng. Sau cùng, da sẫm màu có nhiều thuận
lợi mà rồc đây ]á] hbà ebi[ bọc có thể chọh r[. Tb[y vài đó, fý ^i pbảh đối mạnh
nhất đòc với bất kỳ giả thuyết nào dựa trên chọn lọc tự nhiên là sự kết hợp giữa
làn da sẫm màu với khí hậu nắng nóng rất không hoàn hảo. Có nhữha haười bản
địa có làn da rất sẫm lại sống ở nhữha hơc hbậh được khá ít tia nắng mặt trờc hbư
haườc T[sg[hc[, triha ebc đó gàu ^[ ]bỉ ở mứ] độ trung bình ở nhữha hơc hắng
nóng của vùng nhiệt đớc Đôha N[g Á. Kbôha tbổ ^âh ^[ đỏ hài ]ó gàu ^[ đ_h, eể
cả ở những vùng nắng nóng nhất của châu Mỹ. Nếu tíhb đếh độ che phủ của mây,
nhữha vùha được chiếu sáng mờ nhất trên thế giới nhận trung bình một ngày
^ưới 31,5 giờ chiếu sáng, bao gồg vùha xí]b đạo Tây Phi, vùng phía nam Trung
Quốc và vùng Scandinavi, lại lầh fượt fà hơc sống của một số haườc đ_h hbất, vàng
nhất, và trắng nhất thế giới! Trong số ]á] bòh đảo thuộc quầh đảo Solomon, các
hbóg haười thay thế nhau ở những khoảng cách ngắn. Rõ ràng là, ánh sáng
không phải là nhân tố chọn lọc chính ảhb bưởha đến màu da.
Phản ứha đầu tiên của các nhà nhân họ] đối với phảh \á] hày fà đư[ r[ gột
phảh \á] haược lại: yếu tố thời gian. Luận cứ này cố gắng giải thích nhữha trường
hợp haười da trắng ở vùng nhiệt đới bằng cách cho rằng nhữha haườc đó hbập ]ư
vào vùng nhiệt đới quá gầh đây để ]ó đượ] fàh ^[ đ_h. Ví ^ụ hbư tổ tiên của thổ
^âh ^[ đỏ có thể đến Tân Thế giới chỉ 11.000 hăg trước có thể hó ]bư[ đủ fâu để
tiếh bó[ đến mức ]ó fàh ^[ đ_h ở vùng châu Mỹ nhiệt đớc. Nbưha hếu bạh đ[ha
nhắ] đến nhân tố thờc ac[h để thanh minh cho tranh luận về giả thuyết khí hậu
của màu da thì bạh ]ũha pbảc xét đến nhân tố thờc ac[h đối với nhữha haườc được
cho là ủng hộ giả thuyết đó.
Một trong nhữha đcểm ủng hộ quan trọng nhất của giả thuyết khí hậu là làn
da sáng màu củ[ haười Scandinavi sống ở miền Bắc tối, lạhb và sươha gù. Kbôha
g[y fà haười Scandinavi chỉ ở Scandinavi trong khoảng thờc ac[h ít bơh ]ả haười
Ahb đcêha ở Ag[zih. Cbi đến khoảna 9.000 hăg trước, Scandinavi bị bao phủ
bởi các tảha \ăha và ebó ]ó tbể fà hơc sống của bất kỳ haười nào, da trắha ]ũha
hbư ^[ đ_h. Nbữha haười Scandinavi hiệh đại tới Scandinavi chỉ khoảng 4.000
b[y 5.000 hăg trước, là kết quả của sự mở rộng của những người nông dân từ
vùha Truha Đôha và ]ủa nhữha haười nói ngôn ngữ Ấn-Âu từ miềh N[g hước
Nga. Hoặ] haườc S][h^ch[vc ]ó được làn da sáng từ rất lâu ở một số vùng khác có
khí hậu khác hoặc họ ]ó được khi ở Scandinavi trong khoảng thời gian bằng một
nửa thời gian của thổ dân châu Mỹ ở Ag[zih gà ebôha ]ó được làn da sẫm.
Nbóg haười duy nhất trên thế giới mà chúng ta có thể khẳha định họ đã sống
ở cùng một hơc triha 10.000 hăg trở lạc đây fà haười bản xứ Tasmania. Nằm ở
miền Nam Australia, thuộ] vĩ độ khí hậu ôh đớc hbư ]ủa Chicago hay
Vf[^cvisti]e, T[sg[hc[ đã từng nối vớc Austr[fc[ ]bi đến khi bị tách rời bởi sự
dâng lên của mặt hước biểh 10.000 hăg trước và trở thành một bòh đảo. Bởi vì
haười Tasmania hiệh đạc đã ebôha ]ó fiại thuyền có khả hăha đc x[ bơh vàc ^ặm
nên chúng ta biết được rằng họ có nguồn gốc từ nhữha haườc địhb ]ư gớc đến
Tasmania vào thờc đcểm nó nối với Australia, và họ tiếp tục ở đó ]bi đến khi bị
thực dân Anh tiêu diệt vào thế kỷ XIX. Nếu ]ó hbóg haườc hài ]ó đủ thời gian cho
chọn lọc tự nhiên làm màu da hợp với khí hậu ôh đớc đị[ pbươha ]ủa họ tbì đó fà
haườc T[sg[hc[. Nbưha bọ vẫh ]ó gàu ^[ đ_h, được cho là phù hợp với vùng xích
đạo.
Nếu hbư trường hợp của chọn lọc tự hbcêh đối với màu da có vẻ không thuyết
phụ] tbì đối với màu tóc và màu mắt hiển nhiên là không tồn tại. Không có mối
liên hệ chắc chắn nào với khí hậu và thậm chí không có bất kỳ giả thuyết tin cậy
nửa vời nào về những lợi ích của mỗi loại màu sắc. Tóc vàng phổ biến ở vùng
Scandinavi lạhb, ướt, âg u và ]ũha pbổ biến ở những thổ dân ở sa mạc nóng, khô,
nắng của miềh Truha Austr[fc[. H[c vùha hày ]ó đặ] đcểm gì chung và màu tóc
vàha acúp haười Thụy Đcển và thổ dân sốha sót hbư tbế nào? Màu mắt xanh phổ
biến ở S][h^ch[vc và được cho là giúp nhữha haười có mắt x[hb hbìh x[ bơh
trong ánh sáng mờ sươha. Nbưha suy điáh đó ebôha được chứng minh, và tất cả
nhữha haười bạn của tôi ở vùng núi ở New Guinea thậg ]bí âg u bơh, sươha gù
bơh vẫn nhìn tốt với cặp mắt đ_h. Cá] tíhb trạng chủng tộc mà có vẻ hbư vô fý
nhất nếu tìm cách giải thích dựa trên chọn lọc tự nhiên là nhữha đặ] đcểm khác
biệt củ[ ]ơ qu[h schb ^ục và những tính trạng giới tính thứ cấp khác. Liệu ngực
hình bán cầu có phải là một sự tbí]b habc đối vớc gư[ gù[ bè và haực hình nón
là sự thích nghi vớc sươha gù[ đôha b[y haược lại không? Liệu môi bé âm hộ nhô
ra của phụ nữ thổ dân Nam Phi bảo vệ họ khỏi sự săh đuổi củ[ sư tử, hay giảm sự
mất hước ở vùng sa mạc Kalahari(27)? Chắc chắn bạh ebôha habĩ rằna đàh ôha với
bộ ngực rậm lông có thể giữ ấg ebc đc trêh Bắc cực mà không mặc gì phải không?
Nếu bạh habĩ vậy thì hãy giải thích tại sao phụ nữ không có bộ ngực rậm lông
giốha đàh ôha ebc pbụ nữ ]ũha pbải giữ ấm.
Những sự thật hbư trêh đã ebcến Darwin thất vọng vì quy sự khác biệt chủng
tộc ở ]ih haười cho khái niệm về chọn lọc tự nhiên của riêng ông. Cuối cùng ông
đã từ bỏ nỗ lực với một ]âu hóc ]ô đọha s[u: “Kbôha gột đặ] đcểm nào trong số
nhữha đặ] đcểm khác biệt giữa các chủng tộ] fiàc haười giúp ích trực tiếp b[y đặc
biệt ]bi ]ih haườc.” Kbc D[rwch đến với học thuyết gà ôha ư[ tbí]b bơh, bọc
thuyết gà ôha đặt têh fà “]bọn lọc giớc tíhb” để đối lại với chọn lọc tự nhiên, ông
đã ]ống hiến một cuốn sách trọn vẹh để giải thích nó.
Qu[h đcểg ]ơ \ản nằg ^ưới học thuyết này dễ dàng nắm bắt được. Darwin chỉ
ra nhiều đặ] đcểm ở động vật mà không có giá trị sinh tồh rõ ràha hbưha fại có vai
trò hiển nhiên trong sự giao phối an toàn, có thể bằng cách thu hút một đốc tượng
khác giớc b[y đ_ ^ọ[ đối thủ cùng giới, nhờ đó ]ih đực có thể để lại nhiều con cái
bơh và ]ó xu bướng truyền lại gen và tính trạng của nó - là kết quả của chọn lọc
giới tính chứ không phải của chọn lọc tự nhiên. Luậh đcểg tươha tự ]ũha được áp
dụng cho các tính trạng của phái yếu
Để chọn lọc giới tính thực hiệh được, tiến hóa phải tại r[ b[c tb[y đổi cùng
một lúc: một giới phải tiến hóa một số tính trạng còn giớc ec[ tb_i đó pbải tiến
bó[ để ư[ tbí]b tíhb trạha ec[. Kbc đầu chó cái khó có khả hăha ebi_ gôha đó hếu
cuộc nổi dậy củ[ ebc đầu ]bó đự] đạt đếh đcểm mà chúng trở nên bất lực. Miễn là
con cái có một đặ] đcểg hày và ]ih đự] tbí]b đcều đó tbì ]bọn lọc giới tính mới có
thể dẫh đến bất kỳ tính trạng nào, chỉ miễn là nó không làm giảm khả hăha sống
sót quá nhiều. Trên thực tế, nhiều tính trạng có được bởi chọn lọc giới tính có vẻ
khá là tùy ý. Một vị ebá]b đến từ haiàc vũ trụ ]bư[ \[i acờ trông thấy ]ih haười
sẽ ebôha ]ó ]á]b hài điáh đượ] đàh ôha b[y pbụ nữ sẽ có râu, râu sẽ nằm trên
mặt hay trên rốn, phụ nữ ]ó gôha đít đỏ hay xanh.
Việc chọn lọc giới tính có thực sự diễh r[ b[y ebôha được chứng minh bởi một
thí nghiệm xuất sắc của nhà sinh họ] haười Thụy Đcển, Malte Andersson trên loài
]bcg aó[ đuôc ^àc ở ]bâu Pbc. Triha fiàc hày, đuôc ]ủ[ ]ih đực trong mùa sinh
sản mọc dài tớc 50 ]g triha ebc đuôi con cái chỉ dài gần tám cm. Một số ]ih đực
đ[ tbê và ]ần tới sáu bạn tình, trả giá bằng việ] ]á] ]ih đực khác không có bạn
tình nào cả. Các nhà sinh họ] điáh rằng chiế] đuôc ^àc đóha v[c trò fàg tíh bcệu
độ] đái gà qu[ đó ]bcg đự] tbu bút ]bcg ]ác để tham gia vào chốn hậu cung. Vì
thế thí nghiệm của Andersson là cắt bỏ một phầh đuôc ]ủ[ ]bíh ]ih ]bcg đự] để
đuôc ]ủa chúng chỉ ]òh ^àc 15 ]g. S[u đó ôha hổi phầh đuôc \ị cắt vài đuôc ]ủa
]bíh ]ih ]bcg đự] ebá] để ]búha ]ó đuôc ^àc trêh 10 ]g và ôha đợi xem chim cái
sẽ xây tổ ở đâu. Tbí habcệm cho thấy ]bcg đự] ]ó đuôc ^àc hbâh tại truha \ìhb đã
tbu bút được nhiều gấp bốn lầh ]bcg đực vớc đuôc haắn nhân tạo.
Có thể phản ứha đầu tiên củ[ ]búha t[ đối với thí nghiệm của Andersson là:
Đúha fà hbững con chim ngu ngố]! Hãy tưởha tượng rằng chim cái chọn một con
]bcg đực cụ thể hài đó để làm bố cho con của mình chỉ bởc vì đuôc ]ủ[ hó ^àc bơh
đuôc ]ủa nhữha ]ih ]bcg đự] ebá]! Nbưha trước khi chúng ta trở nên quá thiển
cận, hãy xét lại nhữha aì ]búha t[ đã bọ] được troha ]bươha trước về việc con
haười chọn bạh tìhb hbư tbế nào. Liệu những tiêu chuẩn của chúng ta là những
chỉ thị tốt cho giá trị di truyền? Có phải một số đàh ôha và pbụ nữ không cho
những giá trị không cân xứng vớc eí]b tbước và hình dáng của những bộ phận
nhất địhb trêh ]ơ tbể, gà ebôha aì ebá] bơh fà hbững tín hiệu tùy tiệh đối với
chọn lọc giới tính? Tạc s[i ]búha t[ đã tcếh bó[ để qu[h tâg đến một khuôn mặt
đẹp gà hó fà vô habĩ[ đối với chủ nhân trong cuộc chiến với sự sống còn?
Ở động vật, một số tính trạha tb[y đổi theo chủng tộc là những tính trạng có
được nhờ chọn lọc giới tính. Ví dụ hbư, \ờg sư tử tb[y đổi ở độ dài và màu sắc.
Tươha tự hbư vậy, ngỗng tuyết có hai sắc màu: màu xanh phổ biếh bơh ở phía
Tây Bắc cực, còn màu trắng phổ biếh bơh ở phía Đôha Bắc cực. Những con ngỗng
ở mỗi màu sắc thích bạn tình có cùng màu vớc gìhb bơh. Lcệu có phải hình dáng
ngực và màu da ở ]ih haườc ]ũha tươha tự là sản phẩm của sự ư[ tbí]b về giới
tíhb gà tb[y đổi một cách tùy ý từ vùng này sang vùng khác không?
Sau 898 trang sách, Darwin tự thuyết phục mình rằng câu trả lời cho câu hỏi
hày fà “]ó”. Ôha đã ]bỉ ra rằng chúng ta quan tâm quá mức tới ngực, tóc, mắt và
màu da khi chọn lựa bạh đời và bạh tìhb. Ôha ]ũha ]bỉ ra rằha ]ih haười ở những
vùng khác nhau trên thế giớc địhb habĩ[ về ngực, tóc, mắt và ^[ đẹp bằng những
gì quen thuộc với họ. Vì thế haười Fiji, Hottentot(28) và Thụy Đcển lớn lên với
những hiểu biết riêng, tiêu chuẩn sắc đẹp tùy ý, gà qu[ đó ]ó xu bướng giữ cho
mỗc hbóg haười phù hợp với những tiêu chuẩh đó, \ởi vì nếu các cá thể tách rời
quá xa tiêu chuẩn thì việc tìm bạh đời sẽ ebó ebăh bơh.
D[rwch đã gất trước khi học thuyết củ[ ôha được thử nghiệg để chống lại
những nghiên cứu khắt khe về việc thực chất ]ih haười lựa chọn bạh tìhb hbư
thế nào. Những nghiên cứu đó tăha fêh hb[hb ]bóha triha hbững thập kỷ gần
đây, và tôc đã tóg tắt những kết quả triha ]bươha trước. Ở đó, tôc đã ]bỉ ra rằng
]ih haườc ]ó xu bướng lấy haười giống với mình ở mọc đặ] đcểm có thể nhận thức
được, bao gồm màu tóc, mắt và ^[. Để giảc tbí]b ebuyhb bướng có vẻ tự yêu bản
thân mình củ[ ]búha t[, tôc đã fập luận rằng chúng ta xây dựng tiêu chuẩn sắc
đẹp bằng cách ghi nhớ nhữha haườc ]búha t[ tbường nhìn thấy khi còn nhỏ - đặc
biệt là bố mẹ và anh chị em ruột, nhữha haười chúng ta nhìn thấy nhiều nhất.
Nbưha \ố mẹ và anh chị em ruột ]ũha fà hbữha haười mà chúng ta giống về thể
chất nhiều nhất bởi vì chúng ta có cùng gen với họ. Vì thế, nếu bạn là một haười
có da trắng, mắt xanh, tóc vàng và bạn lớh fêh triha ac[ đìhb với nhữha haười có
da trắng, mắt x[hb, tó] vàha, tbì đấy sẽ là kiểu haười bạh ]ic fà đẹp nhất và tìm
kiếg hbư \ạh đời.
Để kiểm tra một cách khắt khe học thuyết in dấu chọn bạh đờc đó, ]búha ta
phải thực hiện những thí nghiệg hbư aửi một số đứa trẻ Thụy Đcển cho bố mẹ
nuôi ở New Guinea, hoặ] fuôh \ôc đ_h \ố mẹ haười Thụy Đcểh. S[u ebc đợi 20
hăg ]bi hbữha đứa trẻ đó fớn lên, chúng ta có thể biết được chúng thích lấy
haười Thụy Đcểh b[y haười New Guinea làm bạh tìhb bơh. Tb[h ôc, gột lần nữa,
cuộc tìm kiếm sự thật về ]ih haười bị sa lầy vì những vấh đề thực tế. Nbưha
những thí nghiệg đó ]ó tbể thực hiệh đượ] trêh động vật vớc đầy đủ tính chính
xác.
Hãy lấy ngỗng tuyết với hai màu xanh và trắng làm ví dụ. Liệu ngỗng trắng có
học và di truyền sự ư[ tbí]b với ngỗng trắha bơh haỗng xanh trong tự nhiên
không? Các nhà sinh vật họ] haườc C[h[^[ đã ấp những quả trứng ngỗng con
trong một tủ ấg, s[u đó đặt những chú ngỗng con vào tổ của ngỗng bố mẹ nuôi.
Khi những chú ngỗng con này lớn lên, chúng chọn bạn tình với màu lông của bố
mẹ nuôi. Khi những chú ngỗha ]ih hày được nuôi trong một đàh fớn lẫn lộn
ngỗng xanh và trắng, chứng tỏ ra không có sự ư[ tbí]b \ạh đời là ngỗng xanh hay
trắha bơh ebc trưởng thành. Cuối cùng, các nhà sinh vật họ] đã hbuộm những bố
mẹ trắng thành hồng, con củ[ ]búha ]ũha tbí]b hbững chú ngỗng nhuộm hồng
bơh. Vì tbế, ngỗng không di truyền mà học sự ư[ tbí]b gàu sắc bằng khắc sâu
nhữha đcều đã ]ó từ bố mẹ của chúng (và cả từ anh chị em và bạn bè).
Vậy làm thế hài để habĩ rằha haười ở những vùng khác nhau trên thế giới tiến
bó[ để ]ó được những khác biệt? Những gì bên trong chúng ta vẫh fà vô bìhb đối
vớc ]búha t[ và được nặn ra chỉ bởi chọn lọc tự nhiên, với những kết quả hbư
haười châu Phi nhiệt đới có khả hăha \ảo vệ chống bệnh sốt rét nhờ gen tế bào
hemoglobin hình liềm chứ không phảc haười Thụy Đcển. Nhiều đặ] đcểm nhìn
thấy được của những thứ bên ngoài củ[ ]búha t[ ]ũha được nhào nặn bởi chọn
lọc tự hbcêh. Nbưha ]ũha acốha hbư ở động vật, chọn lọc giới có ảhb bưởng lớn
bơh triha vcệc nhào nặn những tính trạha \êh haiàc gà qu[ đó ]búha t[ ]bọn
lựa bạh đời.
Đối vớc fiàc haười chúng ta, những tính trạha đó đặc biệt hbư ở màu da, mắt,
tóc, ngự] và ]ơ qu[h schb ^ục. Ở mỗc vùha trêh Trác đất, hơc hbững tính trạha đó
đã tcến hóa với nhữha \ướ] đc ]bậg hbưha ]bắc chắh ]ũha với những sở thích
thẩm mỹ đã ăh sâu để đạt được nhữha đcểm kết thúc khác nhau và trong một
mứ] độ hài đó fà bơc tùy tcện. Mỗc hbóg haườc xá] địhb hài đó đạt được màu mắt
và tó] hài đó ]ó tbể một phần là do của sự ngẫu nhiên mà các nhà sinh họ] đặt
têh fà “bệ quả sáng lập”. Nóc gột cách khác, nếu một hbóg haười chiếm một
vùha đất trống và rồi con cháu của họ sẽ schb sôc để lấp đầy vùha đất đó tbì a_h
của nhữha haười sáng lập có thể sẽ chiếg ưu tbế trong cộha đồha haười sinh sôi
sau này qua nhiều thế hệ. Chỉ hbư gột số loài chim ở nhữha hơc fý tưởng cuối
cùng có bộ lông vàng còn số khác với bộ fôha đ_h, tbì gột số quần thể haười kết
thúc với tóc vàng, và số ebá] tó] đ_h, gột số có mắt màu xanh lam và số khác lại
có mắt xanh lục, một số có núm vú vàng còn số ebá] ]ó húg vú hâu. Tb_i đó, tôc
không có ý nói khí hậu ebôha tá] động gì lên màu da. Tôi thừa nhận rằng những
haười ở vùng nhiệt đớc, xét trêh truha \ìhb ]ó xu bướng có màu da sẫg bơh haười
ở vùha ôh đới, mặc dù có nhiều ngoại lệ, và rằha đcều này có thể do chọn lọc tự
nhiên, mặc dù chúng ta không chắc chắn về ]ơ ]bế ]bíhb xá]. Tb[y vài đó, tôc hóc
rằng chọn lọc giớc tíhb đủ mạhb để cho thấy mối quan hệ giữa màu da và mứ] độ
tiếp xúc với mặt trời thực sự không hoàn hảo.
Nếu bạn vẫn nghi ngờ về việc các tính trạng và sở thích thẩm mỹ có thể tiến
bó[ ]ùha hb[u đến nhữha đcểm cuối cùng có vẻ tùy tiệh hbư tbế nào, hãy chỉ
habĩ về sở thích thờc tr[ha tb[y đổi của chúng ta. Khi tôi còn là một cậu học trò
vài đầu nhữha hăg 1950, tbì pbụ nữ đáhb acá đàh ôha với kiểu tóc húi cua và bộ
mặt nhẵh tbíh fà đẹp trai. Kể từ fú] đó, ]búha t[ đã tbấy một loạt các mốt củ[ đàh
ông, bao gồg ]ó râu, tó] ^àc, đ_i ebuyêh t[c, tó] hbuộm tím và kiểu tóc Mohawk
(một cộha đồng thổ dân Bắc Mỹ). Giờ đây, haườc đàh ôha hài ^ág trưha ^cện bất
cứ bộ cánh thời trang nhất nhữha hăg 1950 sẽ khiến các cô gái phát ngán và
chẳha tbu được thành công nào trong việc tìm kiếm bạh tìhb. Đó ebôha pbải là do
kiểu đầu húi cua thích nghi tốt bơh vớc đcều kiện khí hậu của nhữha hăg ]ủa
St[fch, triha ebc haườc đầu Mohawk nhuộm tím có giá trị sinh tồn lớh bơh triha
thờc đại sau Chernobyl củ[ ]búha t[. Tb[y vài đó, haiại hình củ[ đàh ôha và sở
thích của phụ nữ tb[y đổi cùng nhau, và nhữha tb[y đổi này xảy r[ hb[hb bơh
nhiều so với nhữha tb[y đổi tiến hóa trong màu da, vì không cầh đếh đột biến
gen. Hoặc phụ nữ trở nên thích kiểu đầu húi cua vì nhữha haườc đàh ôha tốt có
nó, hoặ] đàh ôha ]ắt húi cua vì những phụ nữ tốt thích nó, hoặc cả b[c. Tươha tự
với ngoại hình của phụ nữ và sở thích củ[ đàh ôha.
Đối với một hbà động vật học, những khác biệt địa lý có thể thấy được mà
chọn lọc giới tính tạo ra ở ]ih haười là không mấy ấh tượha. Tôc đã tr[hb fuận
rằng phần nhiều các tính trạng trong số những khác biệt của chúng ta là sản
phẩm phụ củ[ đặ] đcểm riêng biệt của chu trình sống củ[ ]ih haười: Tính kén
chọh đối với bạh đời và bạn tình. Tôi không biết bất kỳ con vật hoang dã nào có
màu mắt của những nhóm khác nhau có thể là xanh lục, xanh lam, xám, nâu hay
đ_h triha ebc gàu ^[ tb[y đổc tb_i địa lý từ trắha đếh đ_h và tó] ]ó tbể fà đỏ,
vàha, hâu, đ_h, xág b[y trắng. Có thể không hề có giới hạn về màu sắ] gà qu[ đó
chọn lọc giớc tíhb tr[ha đcểm cho chúng ta trừ những giới hạn của thời gian tiến
hóa. Nếu ]ih haười có thể tồn tạc đượ] triha 20.000 hăg hữa, tôi dự điáh rằng sẽ
có phụ nữ với tóc xanh lục và mắt đỏ tự nhiên – và có nhữha haườc đàh ôha habĩ
rằha haười phụ nữ đó gới là quyếh rũ hbất.
Chƣơng 7
TẠI SAO CHÚNG TA LẠI GIÀ VÀ CHẾT
ái chết và tuổi tác tạo nên một đcều bí ẩh gà ]búha t[ tbường thắc mắc khi

C còn là trẻ con, từ chối khi là thanh niên và miễh ]ưỡng chấp nhậh ebc đã
trưởng thành. Tôi hầu hbư ebôha habĩ haợi về tuổi tác khi còn là sinh viên.
Bây giờ ebc đã 54 tuổi, tôi thấy nó rõ ràng thú vị bơh. Tuổi thọ trung bình
củ[ haười da trắng ở Mỹ hiện nay là khoảng 78 tuổc đối vớc đàh ôha, 83 tuổc đối
với phụ nữ. Nbưha ít haười trong số chúng ta sốha đượ] đếh hăg 100 tuổi. Vậy
tại sao chúng ta lại dễ dàng sốha đến 80 tuổi, khó có thể sốha đến 100 tuổi và gần
hbư ebôha tbể sốha ebc đã 120 tuổi? Tạc s[i ]ih haườc được tiếp cận sự ]băg só]
y tế tốt nhất, và tạc s[i động vật bị nhốt trong chuồng với rất nhiều thứ] ăh,
không có vật dữ mà vẫn chắc chắn bị yếu đc và ]bết? Đó fà đặ] đcểm dễ thấy nhất
của chu trình sốha, hbưha ]ác aì đã aây hêh hó fại không hề rõ ràng.
Trong thực tế trần trụi về tuổi tác và cái chết, chúng ta giống với tất cả các
động vật khác. Tuy nhiên, xét chi tiết, ]búha t[ đã ]ải thiệh đáha eể theo suốt
chiều dài lịch sử tiến hóa củ[ fiàc haười. Không một cá thể của bất kỳ fiàc vượn
hài được biết đếh đạt được tuổi thọ trung bình củ[ haười Mỹ da trắng, và chỉ
nhữha ]ih vượh đặc biệt mớc đạt đếh được tuổc 50. Rõ ràha fà ]búha t[ acà đc
chậg bơh si với nhữha haười họ hàng gần gũi nhất của chúng ta. Một vài khả
hăha acà ]bậg bơh đó ]ó tbể ]ó được gầh đây, triha ebiảng thời gian củ[ Bước
Nhảy Vọt Vĩ Đại, bởi có một số haười Cro-Magnon có thể sốha đếh độ tuổi 60
triha ebc ít haười Neanderthal nào sống quá tuổi 40.
Chậg acà đc fà đặ] đcểm chủ yếu trong lối sống củ[ ]ih haườc ]ũha hbư vcệc
kết bôh, haăh ]bặn sự rụng trứng, và nhữha đặ] đcểm khác của chu trình sống
gà ]búha t[ đã tbảo luậh triha ]á] ]bươha trướ]. Đó fà \ởi vì lối sống của chúng
ta phụ thuộ] vài ]á] tbôha tch được truyền phát. Khi ngôn ngữ phát triển, chúng
ta nhậh được nhiều tbôha tch bơh trước kia rất nhiều. Cbi đến khi chữ viết r[ đời,
nhữha haười lớn tuổc ]ó v[c trò hbư ebi fưu acữ kinh nghiệm và những thông tin
truyềh được, giốha hbư bọ vẫn tiếp tục nắm giữ trong các xã hội bộ lạc ngày nay.
Trong thời kỳ săh \ắt-bác fượm, kiến thứ] ]ó được chỉ bởi một haười trên 70 tuổi
có thể tạo lên sự khác biệt giữa sống sót và chết đóc ]bi ]ả một bộ tộc. Vì thế tuổi
thọ được nâng lên của chúng ta rất quan trọha đối với sự phát triển của chúng ta
từ ac[c điạh động vật lên vị thế ]ih haười.
Rõ ràng là khả hăha sốha đến tận tuổi xế chiều cuốc ]ùha tbì ]ũha pbụ thuộc
vào những tiến bộ về văh bó[ và ]ôha habệ. Sẽ dễ dàng tự vệ trước một ]ih sư tử
nếu bạh đ[ha g[ha gột ]ác xcêh bơh fà ]hỉ với một bòh đá triha t[y, và ]àha ^ễ
bơh với một khẩu súha trường mạnh. Tuy nhiên, chỉ văh bó[ và ]ôha habệ thôi là
]bư[ đủ, trừ pbc ]ơ tbể ]búha t[ ]ũha được thiết kế lạc để sốha fâu bơh. Kbôha
một ]bú vượn trong chuồng ở vườh tbú hài đượ] bưởng mọi tiện ích của công
nghệ hiệh đại củ[ fiàc haười và sự ]băg só] ]ủa bác sỹ thú y lại sốha đếh hăg 80
tuổi. Chúng ta sẽ thấy triha ]bươha hày rằng sinh họ] ]ơ tbể ]búha t[ đã được tái
cấu trúc nhằg ac[ tăha tuổi thọ trung bình và khiến cho những tiến bộ về văh
hóa trở nên có thực. Cụ thể, tôc điáh rằng công cụ củ[ haười Cro-Magnon không
phải là lý do chính khiếh haười Cro-Magnon có tuổi thọ truha \ìhb ][i bơh haười
N_[h^_rtb[f. Tb[y vài đó, triha ebiảng thời gian củ[ Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại, sinh
học củ[ fiàc haười ]ũha pbảc tb[y đổc để chúng ta có thể acà đc ]bậg bơh. Tbậm
chí nó còn có thể là khoảng thời gian tiếh bó[ hêh quá trìhb gãh echb, trác haược
với sự acà đc gà hbững chứ] hăha gâu tbuẫn của nó khiến phụ nữ sốha fâu bơh.
Cách mà các nhà khoa họ] habĩ về tuổi tác phụ thuộc vào việc họ quan tâm
đến những giảc tbí]b được gọi là gầh đúha biặc những giải thích cuốc ]ùha. Để
hiểu rõ sự khác nhau này, hãy xét câu hỏc: “Tại sao chồn lạc bôc?” Một nhà hóa học
hay một nhà sinh học phân tử sẽ trả lời rằha: “Bởi vì chồn tiết ra một hợp chất hóa
học với cấu trúc phân tử đặc biệt. Do những nguyên lý củ[ ]ơ ]bế fượng tử, những
cấu trú] đó tạo nên mùi hôi. Những chất hóa họ] đặc biệt đó ]ó gùc bôc ebôha
cần biết đến chứ] hăha schb bọc củ[ gùc bôc đó fà aì.”
Nbưha gột nhà tiến hóa học sẽ giảc tbí]b ebá]: “Đó fà \ởi vì chồn dễ dàng trở
thành con mồi của vật dữ nếu nó không bảo vệ mình nhờ mùi hôi. Chọn lọc tự
hbcêh đã ebcến chồn tiếh bó[ để tiết ra các chất hóa học có mùi hôi; những con
chồn hôi nhất có thể sốha sót để sản sinh ra nhiều chồn con nhất. Cấu trúc phân
tử Của những chất hóa họ] đó ]bỉ là chi tiết tình cờ, bất kỳ chất hóa học gây mùi
hỏc hài ]ũha pbù bợp với chồh hbư vậy.”
Các nhà hóa họ] đư[ r[ gột giải thích gầh đúha: ]ó habĩ[ fà, ]ơ ]bế ngay lập
tứ] đóha v[c trò trong quá trình quan sát cần phảc được giải thích. Nhà sinh vật
học tiến hóa lạc đư[ r[ gột giải thích khác: chứ] hăha b[y ]buỗi của các sự kiện là
nguyên nhân của sự xuất hiệh ]ơ ]bế. Cả nhà hóa học và nhà tiến hóa họ] đều gạt
bỏ câu trả lời của nhau vì cho rằng chúng không phảc fà “fời giải thích thực tế”.
Tươha tự hbư vậy, nghiên cứu về tuổi giả được thực hiệh độc lập bởi hai nhóm
các nhà khoa học rất ít tr[i đổi với nhau. Một nhóm tìm lời giải thích gầh đúha,
nhóm khác tìm lời giải thích cuối cùng. Các nhà sinh học tiến hóa cố gắng hiểu
chọn lọc tự nhiên làm thế hài để cho phép tuổi giả đến, và họ habĩ rằng họ đã tìg
được lời giải thích cho câu hỏi này. Các nhà sinh lý học, thay vì vậy, tìm hiểu về ]ơ
chế tế bào của tuổi già, và thừa nhận rằng họ vẫh ]bư[ có câu trả lờc. Nbưha tôc sẽ
biện luận rằng tuổi già không thể hiểu được trừ ebc ]búha t[ đồng thời tìm cả hai
lời giải thích. Cụ thể, tôi hy vọng rằng lời giải thích về mặt tiến hóa (cuối cùng) sẽ
acúp ]búha t[ tìg được lời giải thích về mặt sinh lý (gần đúha) về tuổi già mà vốn
lâu nay trốn tránh các nhà khoa học.
Trước khi tôi có thể tiếp tục với nguyên nhân này, tôi phảc đề cập tới lý do
phảh đối của nhữha haười bạn làm về sinh lý học của tôi. Họ ]ó xu bướng tin rằng
]ác aì đó tbuộc về sinh lý học của chúng ta khiến cho tuổc acà fà đcều không thể
tránh khỏi, và rằng những lý do về mặt tiến hóa là không liên quan. Ví dụ, một
học thuyết hbư vậy quy tuổi giả cho nhữha ebó eôăh tăha ^ần mà hệ thống miễn
dịch của chúng ta phảc đối mặt với việc phân biệt tế bào của chúng ta với các tế
bào lạ. Các nhà sinh lý họ] táh tbàhb qu[h đcểg hày đã đư[ đến một kết luận
ngầm là: chọn lọc tự nhiên không thể dẫh đến một hệ thống miễn dịch mà không
có yếu tố thiếu hụt chết haườc đó. Lcệu niềg tch hày ]ó được bải đảm hay không?
Để đáhb acá fời phảh đốc hày, bãy xét ]ơ ]bế sửa chữa sinh học, vì tuổi già có
thể đượ] ]ic đơh acảh hbư fà s[c sót ebôha được sửa chữa hay nhữha bư bỏng. Sự
fcêh tưởha đầu tiên củ[ ]búha tôc đến từ “sửa chữ[” fà acống với những sửa chữa
khiến chúng ta thất vọng nhiều nhất - sửa chữa ô tô. Những chiếc ô tô của chúng
t[ ]ó xu bướha ]ũ đc và \ị vứt bỏ, hbưha ]búha t[ ^àhb tcềh để trì hoãn cái chết
ebôha tráhb đượ] đó. Tươha tự hbư vậy, chúng ta không ý thứ] hbưha ]ũha fuôh
luôn sửa chữa bản thân chúng ta ở mọi mứ] độ từ phân tử tới mô hoặc toàn bộ các
]ơ qu[h. Cơ ]bế tự sửa chữa của bảh tbâh ]búha t[ ]ũha acốha hbư ]ơ ]bế mà
]búha t[ fãha pbí ]bi ô tô đều thuộc về hai loại: hạn chế bư bỏng và thay thế
tbường xuyên.
Một ví dụ về việc hạn chế bư bại của ô tô là chúng ta thay cái chắn bùn ở ô tô
chỉ khi nó bị v[ đập mạhb; hbưha ]búha t[ ebôha tbường xuyên thay thế nó mỗi
khi thay dầu. Ví dụ dễ thấy nhất của việc hạn chế bư bạc đối vớc ]ơ tbể chúng ta là
việc hàn gắn những vết tbươha, ]bíhb fà quá trìhb ]búha ta sửa chữa những
tbươha tổn xuất hiện da. Nhiều động vật có thể đạt được những kết quả ngoạn
mụ] bơh: tbằn lằh tác schb đuôc, s[i \cển và cua tái sinh chân, hải sâm tái sinh
ruột, và acuh tròh ]ó đ[c tác schb vòc độc tố. Ở mứ] độ phân tử không nhìn thấy
được, vật chất di truyền ADN củ[ ]búha t[ được sửa chữa riêng bằng việc hạn chế
bư bỏng: chúng ta có các enzym có thể nhận biết và sửa chữa nhữha đcểm sai sót
trong chuỗi ADN xoắn kép, trong khi bỏ qua ADN không bị biếh đổi.
Loại sửa chữa còn lại, thay thế tbườha xuyêh, ]ũha aầh aũc với bất kỳ haười sở
hữu ô tô hài: ]búha t[ tbườha định kỳ thay dầu, lọ] ebí và vòha \c để loại trừ
những hao mòn nhẹ gà ebôha đợc đến khi chiếc ô tô bị hỏng hoàn toàn. Trong
thế giới sinh vật, răha ]ũha đượ] tb[y tươha tự trong cuộ] đời, dựa trên một nền
tảha đượ] đặt kế hoạ]b trước. Mặ] ^ù ]ih haười chúng ta sống hết đời với cùng
một bộ xươha acốha hbư ebc đượ] schb r[, hbưha ]u[ và ]á] động vật chân khớp
ebá] tbường xuyên thay bộ xươha haiàc \ằng cách lột xác và mọc lên một bộ
xươha gới. Một ví dụ dễ thấy khác của việc thay thế tbường xuyên là sự phát
triển không ngừng của tóc: bất kể chúng ta cắt tóc ngắn thế nào, nó vẫn sẽ mọc
fêh để thay thế phần bị cắt đc.
Sự thay thế tbườha xuyêh ]ũha xảy ra ở mứ] độ hiển vi và siêu vi. Chúng ta
tbường xuyên thay thế nhiều tế bào: khoảng vài ngày một lầh đối với tế bào niêm
mạc dạ dày, hai tháng một lầh đối với tế bào niêm mạc bàng quang, và bốn tháng
một lầh đối với tế bào máu. Ở mứ] độ phân tử, những phân tử protein của chúng
ta lệ thuộc vào sự chuyểh đổi liên tục với tố] độ đặ] trưha ]bi từng protein, nhờ
vậy ]búha t[ tráhb được sự tích tụ của những phân từ bư bỏng. Nếu bạn so sánh
ngoạc bìhb haười yêu của bạn ngày hôm nay với bức hình chụp một tbáha trước,
anh ấy (hay cô ấy) có thể trông vẫn vậy hbưha ]ó hbcều phân tử được tạo thành
khiếh ]ơ tbể đã tb[y đổi. Trong khi tất cả những con ngựa và thần dân củ[ đức
vua không thể đặt Humpty-Dumpty(29) với nhau một lần nữa thì Tự nhiên tách
chúng ta ra xa nhau và rồi lại gần nhau hằng ngày.
Tb_i ]á]b đó, hbcều ]ơ tbể động vật có thể được sửa chữa khi cần thiết hoặc
được thay thế tbườha xuyêh, hbưha ]bc tcết tùy thuộc về khả hăha tb[y tbế lại
khác biệt rất lớn những phần khác nhau và những loài khác nhau. Không thể
tráhb được về mặt sinh lý khả hăha sửa chữa có giới hạn củ[ ]ih haười. Bởi con
sao biển có thể tái sinh chân bị đứt, tại sao chúng ta lại không thể? Đcều aì đã haăh
cản chúng ta thay thế tới sáu bộ răha fcêh tiếp giốha hbư vic, tb[y vì ]bỉ có bộ
răha sữa và bộ răha trưởng thành? Với bốn bộ răha tự nhiên nữa, chúng ta sẽ
không cầh đếh bàh răha, \ịt răha \ằng kim loạc và răha acả khi chúng ta về già.
Tại sao chúng ta không tự bảo vệ mình khỏi bệnh viêm khớp - tất cả những thứ
chúng ta cần là thay thế các khớp định kỳ giốha hbư ]u[. Tại sao chúng ta không
bảo vệ chống lại bệnh tim mạch bằha ]á]b tb[y tcg định kỳ giốha hbư acuh tròh
]ó đ[c tb[y vòc độc tố của chúng? Chúng ta có thể cho rằng chọn lọc tự nhiên sẽ
thí]b đàh ôha b[y pbụ nữ không chết vì bệnh tim ở tuổi khoảng 80 mà tiếp tục
sống và sinh con ít nhất đến khi 100 tuổi. Vậy tại sao chúng ta không thể sửa
chữa hoặc thay thế mọi thứ triha ]ơ tbể của chúng ta?
Câu trả lời chắc chắn phảc ]ó aì đó aắn với phí tổn sửa chữa. Ở đây, gột lần
nữa, sự tươha tự của việc sửa chữa ô tô lại có ích. Nếu niềm kiêu hãnh của công ty
Mercedes-B_hz fà đáha tch tbì x_ ô tô ]ủa họ được chế tạo tốt đến mức kể cả khi
bạn không giữ gìn gì cả - thậm chí không tra nhớt hay thay dầu - chiếc Mercedes
của bạn vẫn chạy đượ] triha vàc hăg. Tất nhiên cuốc ]ùha, hó ]ũha sẽ hỏng do
những hỏng hóc không thể đải haượ] được nữ[ được tích tụ lại. Vì thế chủ nhân
của những chiế] M_r]_^_s tbường chọn cách bải ^ưỡng xe của họ tbường xuyên.
Nhữha haười bạn có Mercedes của tôi kể rằng các dịch vụ của Mercedes rất đắt:
mỗi lầh đư[ x_ vài bãha gất bàha trăg đô f[ Mỹ. Tuy nhiên, họ cho rằng phí tổn
là xứha đáha: gột chiế] M_r]_^_s được bải ^ưỡng tồn tạc fâu bơh gột chiếc
ebôha được bải ^ưỡng, và bải ^ưỡng chiế] M_r]_^_s ]ũ tbường xuyên sẽ rẻ bơh
là cứ vàc hăg fại bỏ đc và gu[ gột chiếc mới.
Đó fà ]á]b ]bủ nhân của những chiếc Mercedes giải thích ở Đức và Mỹ. Nbưha
giả sử bạh đ[ha sống ở Port Moresby, thủ đô ]ủa Papua New Guinea, thủ đô ]ủa
tai nạn ô tô trên thế giớc, hơc gà \ất kỳ loạc x_ hài ]ũha sẽ vỡ tan tành trong vòng
một hăg \ất kể bạn bảo trì nó thế nào. Rất nhiều chủ xe ở New Guinea không chi
cho việc bải ^ưỡng xe, họ dùng tiền tiết kiệg đượ] để mua chiếc xe tiếp theo.
Tươha tự hbư vậy, một con vật nêh đầu tư vài vcệc sửa chữ[ hbư tbế nào phụ
thuộc vào chi phí sửa chữa, và so sánh với tuổi thọ dự điáh ]ủa con vật đó ebc
đượ] b[y ebc ebôha được sửa chữ[. Nbưha ]âu bỏc “hêh b[y ebôha” hbư vậy
thuộc về fĩhb vực sinh học tiến hóa, chứ không phải sinh lý học. Chọn lọc tự nhiên
]ó xu bướha tăha tốc đ[ tố] độ sản sinh thế hệ kế cận có thể sốha sót đượ] để rồi
thế hệ này lại sản sinh ra con cái của bản thân chúng. Vì thế chọn lọc tự nhiên có
thể đượ] ]ic hbư gột trò ]bơc ]bcếh fượ], gà triha đó ]á tbể có chiến fượ] để lại
nhiều hậu duệ nhất sẽ thắng cuộc. Vì thế kiểu giảc tbí]b được sử dụng trong
nguyên lý củ[ trò ]bơc ]ó í]b triha vcệc hiểu cách thức chúng ta trở thành những
haườc hbư ]búha t[ \ây acờ.
Vấh đề tuổi thọ và sự đầu tư vài sửa chữa sinh họ] đếh fượt mình lại là một lớp
thậm chí còn rộng lớh bơh ]ủa những vấh đề tiếh bó[ đượ] đư[ r[ \ởi nguyên lý
củ[ trò ]bơc: sự bí hiểm của cái quyết định giới hạn lớn nhất đối với bất kỳ tính
trạng có lợi nào. Có rất nhiều tính trạng sinh học khác, bên cạnh tuổi thọ, không
đề cập đúha vài vấh đề tại sao chọn lọc tự nhiên không khiến những tính trạng
đó ^àc bơh b[y ti bơh b[y hb[hb bơh b[y hbcều bơh. Ví ^ụ hbư haười to lớn hoặc
thông minh hoặc chạy nhanh có những lợi thế rõ ràha bơh haười nhỏ bé, ngốc
nghếch và chậm chạp - đặc biệt qua phần lớn quá trình tiến hóa củ[ fiàc haười,
khi chúng ta vẫn phải lẩh tráhb sư tử và linh cẩu. Tại sao trên một bình diện
]buha, ]búha t[ đã ebôha tcếh bó[ để trở hêh ti, tbôha gchb và hb[hb bơh
chúng ta hiện nay?
Sự phức tạp khiến những vấh đề về thiết kế trong tiếh bó[ đơh acảh bơh gức
có thể thấy lầh đầu tcêh, đó fà: ]bọn lọc tự hbcêh tá] động trên toàn bộ cá thể, chứ
không phải trên những phần nhất định củ[ ]ơ tbể. Đó fà tiàh \ộ ]ơ tbể bạn chứ
không phải chỉ là bộ óc lớh b[y đôc ]bâh hhanh nhẹn của bạn, sống sót hay không
sốha sót và để lại hậu duệ. Tăha ]ường một phần củ[ ]ơ tbể có thể có lợi ở một số
khía cạnh thấy đượ] hbưha fại có hại ở những khía cạnh khác. Ví dụ hbư gột bộ
phận lớh bơh ]ó tbể không phù hợp với những phần khác của ]ơ tbể hoặc lấy đc
hăha fượng cho những bộ phận khác.
Đối với các nhà sinh học tiến hóa, có một từ kỳ diệu biểu hiệh được sự phức tạp
hày đó fà từ “tốc ưu”. Cbọn lọc tự hbcêh ]ó xu bướng nhào nặn mỗi tính trạha đến
eí]b tbước, tố] độ hay số fượha gà qu[ đó tốc ưu bó[ ebả hăha sống sót và sinh
sản của toàn bộ ]ơ tbể sinh vật, đư[ đến bản thiết kế ]ơ \ản của sinh vật đó. Bản
thân mỗi tính trạha ebôha ]ó xu bướha đạt giá trị lớn nhất. Tb[y vài đó, gỗi tính
trạng hội tụ ở một số giá trị trung bình tốc ưu, ebôha quá lớh ]ũha ebôha quá
nhỏ. Vì thế toàn bộ ]ơ tbể sẽ đạt hiệu quả bơh fà ebc tíhb trạha đó fớh bơh b[y
nhỏ bơh.
Phảc ]băha ]á]b acải thích này về ]á] fiàc động vật ^ườha hbư fà bơc trừu
tượng, thay vì vậy hãy xét những máy móc hằng ngày của chúng ta. về bản chất,
nhữha hauyêh fý tươha tự được áp dụng cho thiết kế kỹ thuật của máy móc do
]ih haười thực hiện giốha hbư áp ^ụng cho thiết kế tiến hóa củ[ động vật do
chọn lọc tự nhiên thực hiện. Lấy ví dụ về niềm tự hào và sự ư[ tbí]b ]ủa tôi với
những máy móc của mình, chiếc Volkswagen Beetle 1962, chiếc xe duy nhất của
tôc. (Naười yêu thích ô tô sẽ nhớ rằha hãg 1962 fà hăg bãha Vifesw[a_h ]bế tạo
cửa sổ phía sau lớn trên chiếc Beetle.) Trên một đường cao tốc phẳng phiu với
chiế] đuôc acó bỗ trợ, chiếc VW của tôi có thể chạy với tố] độ 65 dặm một giờ. Đối
với những chủ nhân của BMW, chỉ số đó hab_ ]ó vẻ ^ưới mức tốc đ[. Tại sao tôi
không bỏ độha ]ơ \ốn xylanh 40 mã lực yếu ớt của tôi và thay bằha độha ]ơ 12
xylanh 296 mã lực từ chiếc BMW 750 IL củ[ haười hàng xóm và chạy với tố] độ
180 dặm một giờ trên xa lộ San Diego?
Ồ, kể cả nếu tôi không hiểu biết gì về ô tô, tôi vẫn biết rằng việ] đó ebôha tbể
fàg đượ]. Độha ]ơ BMW ti fớh đó ebôha vừa vớc haăh độha ]ơ ]ủa chiếc VW, nó
có thể cầh được làm cho rộng ra. Rồc động ]ơ BMW guốn ở pbí[ trướ] hbưha
haăh độha ]ơ ]ủa chiếc vw lại ở phía sau, vì thế tôi phảc tb[y đổi hộp số, bộ truyền
lực và những thứ ebá]. Tôc ]ũha sẽ phảc đổi bộ phận giảm sóc và phanh, những
thứ được chế tại để xe chạy êm và dừng lạc ebc đ[ha ]bạy ở tốc độ 65 dặm một giờ
chứ không phải 180 dặm một giờ. Đến lúc tôi hoàn thành việ] tb[y đổi chiếc VW
để có thể lắp độha ]ơ BMW tbì sẽ chẳng còn gì nhiều từ chiế] B__tf_ \[h đầu. Và sự
tb[y đổc đó sẽ tiêu tốn của tôi một số tiền lớn. Tôi cho rằha độha ]ơ 40 gã lực yếu
ớt củ[ gìhb đã fà tốc ưu, tb_i habĩ[ fà tôc ebôha tbể tăha tố] độ mà không thỏa
mãn nhữha đặ] đcểm hình thức khác của xe - ]ũha hbư ebôha đủ cho những nhu
cầu cần tới tiềh ebá] triha đời sống của tôi.
Cuối cùng, khi thị trường loại bỏ chiếc xe kỳ quác hbư ]bcếc VW vớc độha ]ơ
của BMW, tất cả ]búha t[ đều có thể habĩ rằng một vật kỳ lạ ]ũha ]ần một khoảng
thờc ac[h để bị loại bỏ. Đối với nhữha haườc ư[ tbí]b hbững chiếc thủy chiếh hbư
tôi thì tuầh ^ươha bạm Anh là một ví dụ tuyệt vờc. Trước và trong Chiến tranh
thế giới thứ I, hải quân Anh xuất ra 13 tàu chiến gọi là tuầh ^ươha bạg, được
thiết kế đồ sộ và nhiều súng lớh hbư tàu ]bcếh hbưha ]bạy hb[hb bơh hbcều.
Bằng cách tốc ưu bó[ tố] độ và hỏa lực, tuầh ^ươha bạm ngay lập tức bắt kịp với
trí tưởng tượng của công chúng và trở thành một tin giật gân. Tuy nhiên, nếu bạn
lấy một chiếc tàu chiến 28.000 tấn, giữ nguyên khốc fượng của những khẩu súng
lớh, tăha đáha eể khốc fượng củ[ độha ]ơ triha ebc vẫn giữ tổng khốc fượng vào
khoảng 28.000 tấn thì bạn phải tiết kiệm khốc fượng của một vài bộ phận khác.
Tuầh ^ươha bạg đã tcết kiệg đặc biệt về khốc fượng của vỏ sắt ]ũha hbư ebối
fượng của các loại súng nhỏ, haăh eíh \êh triha và vcệc bảo hộ trên không.
Hậu quả của thiết kế tổng thể tốc ưu hày fà ebôha tbể tráhb đượ]. Vài hăg
1916 chiếc H.M.S(30) Indefatigable, Queen Mary và Invincible(31) đều bị thổi tung
ngay khi vừa bị đạn cốc Đức bắn tại trận chiến ở Jutland(32). Chiếc H.M.S. Hood bị
nổ tuha hăg 1941, ]bỉ khoảng tám phút sau khi tham gia vào một trận chiến với
tàu chiếh Đức Bismarck. H.M.S. Repulse bị nhấn chìm bởi bom Nhật một vài ngày
sau khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, vì thế có thể đạt danh hiệu chiếc tàu
chiến lớh đầu tiên bị phá hủy từ trên không trong một trậh đáhb ^ưới biểh. Đối
mặt với bằng chứha rõ ràha hày để thấy một số bộ phậh đồ sộ không tại được sự
tốc ưu triha tổng thể, hảc quâh Ahb đã ebcếh ]bươha trìhb ]bế tạo tuầh ^ươha
hạm của họ sụp đổ. Tóm lại, các kỹ sư ebôha tbể hàn từng phầh đơh fẻ của chiếc
máy riêng biệt với phần còn lại của cả cỗ máy, bởi mỗi phầh đều có giá trị, không
gian và cả cân nặng của riêng nó mà dẫn tới có thể bị biến thành một thứ gì khác.
Tb[y vài đó ]á] eỹ sư pbảc đặt ra câu hỏi rằng sự kết hợp hbư tbế nào tốc ưu bó[
hiệu quả hoạt động củ[ gáy. Cũha \ởi chính nhữha hauyêh hbâh hbư vậy, tiến
hóa không thể hàn nối các tính trạha đơh fẻ riêng biệt với phần còn lại của một ]ơ
thể, bởi mỗi cấu trúc, enzym hay các mảhb ADN đều hấp thụ hăha fượng và
không gian mà có lẽ có thể dùng vào việ] ebá]. Tb[y ]bi đcều đó, ]bọn lọc tự
hbcêh ư[ tbí]b sự kết hợp của những tính trạng tốc đ[ bó[ sự sản sinh ra thế hệ
con cái. Cá những kỹ sư ]ôha habệ lẫn các nhà khoa học tiếh bó[ đầu phảc đáhb
giá về sự cân bằng giữa các yếu tố liên quan tới sự ac[ tăha ]ủa mọi thứ: những ích
lợc đc eèm với cái giá phải trả cho nhữha đcều mà nó mang lại.
Một ebó ebăh bcển nhiên trong việc ứng dụng tranh luậh hày vài vòha đời của
]búha t[ đó fà ]búha ]ó rất nhiều đặ] đcểm có vẻ hbư fà acảm bớt chứ không phải
ac[ tăha ebả hăha schb sản ra thế hệ sau của ]búha t[. Quá trìhb acà đc và ]bết là
một trong số các ví dụ đó, hbững ví dụ ebá] hbư tbời kỳ mãn kinh ở nữ giới, một
đứa trẻ sinh trong mỗi ca sinh nở, b[y tbường chỉ sinh tốc đ[ gột lần trong một
hăg, và ha[y ]ả việc chỉ bắt đầu sinh con ở phụ nữ ở độ tuổi từ 12 tới 16. Tại sao
chọn lọc tự nhiên lại không ủng hộ cho nhữha haười phụ nữ \ướ] vài ac[c điạn
dậy thì từ hăg tuổi, hoàn thành thai kỳ chỉ trong ba tuầh, tbường xuyên sinh nở
triha hăg, ebôha trảc qu[ ac[c điạh gãh echb, đư[ tbật nhiều hăha fượng vài ]ơ
thể của cô ấy để giúp cho tuổi thọ có thể đạt tới 200 và nhờ đó gà schb r[ được
bàha trăg đứa trẻ?
Nbưha vcệ] đặt ra các câu hỏi theo kiểu hbư tbể giả vờ hbư tcến hóa có thể thay
đổc ]ơ tbể của chúng ta ở mỗi phần nhỏ tại một thờc đcểg hài đó gà fờ đc cái giá
vô hình ta phải trả. Ví dụ hbư, gột haười phụ nữ chắc chắn không thể rút ngắn
thời gian mang thai xuống chỉ còn có ba tuần mà không có bất cứ sự tb[y đổi nào
khác về ]ơ tbể của họ hay của nhữha đứa trẻ sơ schb. Hãy hbớ rằng chúng ta chỉ
có một fượha hăha fượng nhất định có giá trị cho mỗc haười. Ngay cả với những
haười tập luyện các bài tập thể dục nặng nhọ] và ăh hbcều thứ] ăh \ổ ^ưỡng - hbư
thợ đốn gỗ hay vậh độha vcêh đcềh echb đ[ha triha ac[c điạn luyện tập - ]ũha
không thể đồng hóa hết khốc fượng nhiều bơh 6.000 ][firc_ gỗi ngày. Vậy chúng
ta nên phân bố fượha ][firc_ hày hbư tbế nào giữa việc sửa chữa bản thân và
mang thai nhữha đứa trẻ, nếu hbư gụ] đí]b ]ủ[ ]búha t[ fà đẻ càng nhiều càng
tốt?
Ở cấp độ cao nhất, nếu chúng ta dồn tất cả hăha fượng cho nhữha đứa trẻ và
gầh hbư ebôha ]ó aì bết cho việc sửa chữa sinh họ], ]ơ tbể chúng ta sẽ lão hóa và
phân hủy trước khi chúng ta kịp ]ó đượ] đứ[ ]ih đầu tiên. Ở một thái cực khác,
nếu chúng ta phung phí toàn bộ hăha fượha ]ó đượ] triha ]ơ tbể vào việc giữ gìn
vóc dáng, chúng ta có thể sẽ sốha được trong thờc ac[h fâu bơh hbưha sẽ chẳng
còn một ]bút hăha fượng nào cho một quá trình tốn rất nhiều sức lực là sinh sản
và nuôi dạy ]ih ]ác. Đcều mà chọn lọc tự nhiên phảc fàg đó fà đcều chỉnh việc sử
dụng một ]á]b tươha đốc hăha fượng cho việc sửa chữ[ ]ũha hbư huôc ]ih ]ủa
một con vật, qu[ đó ]ó tbể đạt tốc đ[ số fượha ]ih ]ũha hbư ]âh \ằng vớc vòha đời
của chính nó. Câu trả lời cho vấh đề này rất khác nhau giữa các loài, phụ thuộc
vào những yếu tố chẳng hạn hbư gứ] độ rủi ro củ[ fiàc đó ^i hbững cái chết đột
ngột, sinh học sinh sản và cái giá của rất nhiều loại sửa chữa khác nhau.
Viễn cảnh này có thể được tận dụha để tạo nên những giả thuyết có thể thử
nghiệm về việc những con vật nên có sự s[c ebá] hbư tbế hài triha ]ơ ]bế tự sửa
chữa và tố] độ acà đc ]ủ[ ]búha. Vài hăg 1957, hbà tcến hóa học George Williams
đã hêu r[ gột vài sự thự] đáha ]bú ý về sự acà đc, đcều có thể nhận thứ] được chỉ
từ một viễn cảnh tiến hóa. Hãy thử cùng xem xét một vài ví dụ của Williams và
tái thể hiện chúng bằng thứ ngôn ngữ của sinh lý học về sự sửa chữa sinh học,
bằng việc làm chậm lạc quá trìhb fãi bó[ hbư gột chỉ thị ]bi ]ơ ]bế sửa chữa tốt
nhất.
Ví dụ đầu tiên liên quan tớc độ tuổi mà nhữha động vật lầh đầu giao phối và
sinh cih. Độ tuổi này khác biệt rất lớn giữa các loài: một số rất ít haười có thể phát
triển sớg để có thể sinh con ở độ tuổc trước 12, trong khi bất cứ một con chuột
“đáha tự bài” hài đó ở ac[c điạn hai tháng tuổc đã biàh tiàh ]ó tbể sinh con. Các
sinh vật thuộc cùng một fiàc ]ó độ tuổi giao phối khá muộh hbư ]búha t[ ]ần
phải dành nhiều hăha fượha để sửa chữa, nhằm chắc chắn rằng chúng có thể sống
sót cho tớc độ tuổi sinh sảh. Di đó, ]búha t[ trôha ]bờ việ] đầu tư vài vcệc sửa
chữa sẽ fàg tăha độ tuổi sinh sản lầh đầu.
Một ví dụ khác, mốc tươha qu[h acữa việ] ]búha t[ ]ó độ tuổi sinh sản muộn
bơh si với chuột, tbì ]ih haườc ]ũha acà đc ]bậg bơh rất nhiều so với chuột, và
được nhìn nhậh fà ]ũha sửa chữ[ ]ơ tbể hiệu quả bơh rất nhiều. Ngay cả với một
fượng thứ] ăh dồi dào và chế độ ]băg só] y tế tốt nhất, một con chuột phải mai
mắn lắm mới sống nổi tới lần sinh nhật thứ hai củ[ hó, triha ebc đó ở haười quả
là không may mắn nếu không thể sống tớc độ tuổi 72. Nguyên nhân tiến hóa là:
]ih haười nếu ebôha đầu tư sức lực nào vào việc sửa chữa nhiều bơh hbững gì
con chuột có thể làm sẽ chết ebc ]bư[ eịp \ướ] vài ac[c điạn dậy tbì. Di đó, sửa
chữa cần thiết với một ]ih haườc bơh với một con chuột.
Vậy hăha fượha ^ư tbừa cần thiết cho sự tiêu dùng của chúng ta thực sự bao
gồm nhữha aì? Trước hết, khả hăha sửa chữa củ[ ]ih haườc ^ườha hbư fà ebôha
quá tuyệt vời. Chúng ta không thể tái sinh một ]áhb t[y đã \ị tổh tbươha biàh
tiàh, và ]búha t[ ebôha tbường xuyên thay thế bộ xươha ]ủa bảh tbâh hbư gột
số động vật xươha sống ngắn ngày có thể fàg được. Tuy nhiên, những thay thế
ngoạn mụ] hbưha ebôha tbường xuyên toàn bộ cấu trúc có thể không phải là
những yếu tố lớn nhất trong khả hăha tb[y tbế củ[ động vật. Tb[y vài đó, sự tiêu
tốn lớn nhất lại nằm trong những thay thế không thể nhìn thấy được bằng mắt
tbường của rất nhiều các tế bào và phân tử, ngày này qua ngày khác. Ngay cả khi
bạn dành cả ngày trời chỉ nằg trêh acường, bạh ]ũha ]ần phải tiêu thụ khoảng
1.640 calorie mỗc haày đối với nam giớc (và 1.430 ][firc_ đối với nữ giới) chỉ
nhằm mụ] đí]b ^uy trì ]ơ tbể. Phần lớh quá trìhb tr[i đổi chất nhằm duy trì này
dành cho những thay thế vô bìhb đã được lên lịch sẵh. Và ^i đó, tôc điáh rằng
đcểm mà chúng ta tiêu tốh hăha fượha bơh fiàc ]buột là ở chỗ đặt một phần lớn
bơh hăha fượng vào việc tự sửa chữa, và một phần nhỏ hăha fượha bơh ]bi ]á]
mụ] đí]b ebá] hbư acữ ấg ]ơ tbể b[y ]băg só] ]bi hbữha đứa trẻ.
Thí dụ thứ hai tôi sẽ bàn tới ở đây fcêh qu[h đến rủi ro của những vết tbươha
không thể sửa chữ[ được nữa. Một vài sự phá hủy sinh học hoàn toàn có tiềm
hăha sửa chữ[ đượ], hbưha ]ũha ]ó hbữha bư bỏng khác chắc chắn gây tử vong
(hbư vcệc bị sư tử ăh tbịt). Nếu ngày mai bạn có khả hăha \ị sư tử ăh tbịt, thì việc
ngày hôm nay phải tốn tiền cho các nha sỹ nhằm chỉnh sử[ răha ]ủa bạn sẽ
không có bất cứ giá trị gì. Tốt bơh fà \ạh hêh để ]bi răha ]ủa mình mục rỗng và
ngay lập tức bắt đầu việ] schb ]ih đẻ ]ác. Nbưha hếu mứ] độ rủi ro xảy ra những
tai nạn bất thình lình là không cao thì sẽ có những phầh tbưởng xứha đáha \ằng
việc kéo dài thời gian sống, nhờ dồh hăha fượng vào nhữha ]ơ ]bế sửa chữa tốn
kém làm chậm lạc quá trìhb fãi bó[. Đây fà hauyêh hbâh ebcến cho những ông
chủ của những chiếc Mercedes quyết định trả tiền cho việ] \ôc trơh ^ầu mỡ cho xe
của họ tạc Đức và Mỹ mà không phải tại New Guinea.
Nhữha đcều tươha tự về mặt sinh học là mứ] độ rủi ro xảy ra cái chết ở các loài
ăh tbịt thì ở chim thấp bơh si với thú (bởi chim có thể trốn thoát bằng cách bay
fêh), ]ũha hbư ở rùa thấp bơh si với phần lớn các loài bò sát khác (bởc rù[ được
bảo vệ nhờ g[c). Di đó, ]bcg và rù[ tự mình có thể thu nhận rất nhiều từ những
]ơ ]bế sửa chữ[ đắt giá nếu so sánh với nhữha fiàc động vật có vú không thể bay
đượ] b[y ]á] fiàc \ò sát ebôha ]ó g[c ^ù s[i ]ũha sẽ dễ dàng bị ăh tbịt bởi các loài
ăh tbịt khác. Thực sự, nếu [c đó si sáhb tuổi thọ của những con vật được nuôi
^ưỡha đầy đủ, bảo vệ khỏc ]á] fiàc ăh tbịt thì loài chim vẫn sốha fâu bơh (hbư quá
trình lão hóa chậm lại) so vớc ]á] fiàc động vật eí]b tbướ] truha \ìhb, và rù[ ]ũha
sốha fâu bơh ]á] fiàc \ò sát eí]b tbước trung bình không mai. Những loài chim
được bảo vệ tốt nhất khỏc ]á] fiàc ăh tbịt là những loài chim biểh hbư fiàc bải âu
và chim báo bão, những loài làm tổ trên các vùng biểh x[ xôc, fà hơc bầu hbư vắng
\óha ]á] fiàc ăh tbịt. Cuộ] đời nhàn nhã của chúng khác biệt hoàn toàn với chúng
ta. Một vài loài hải âu lớn thậm chí không giao phối cho tới tậh hăg gười tuổi và
chúng ta vẫh ]bư[ tbực sự biết là chúng có thể sống tớc hăg \[i hbcêu tuổi, bản
thân các loài chim có thể tồn tạc fâu bơh ]bcếc vòng kim loại mà các nhà khoa học
bắt đầu gắh vài ]bâh ]búha ]á]b đây vàc tbập kỷ nhằm theo dõi tuổi thọ. Với
gườc hăg đầu tiên của cuộ] đờc để bắt đầu quá trình giao phối ở loài hải âu lớn,
một quần thể loài chuột có thể đã trải qua tới 60 thế hệ, mà phần lớn trong số đó
đã trở thành mồc ]bi ]á] fiàc ăh tbịt hay chết vì già yếu.
Ví dụ thứ \[ đó fà, bãy tbử so sánh giữ[ ]ih đực và con cái của cùng một loài.
Chúng ta kỳ vọng có thêm nhiều phầh tbưởng xứha đáha hbờ ]ó ]á] ]ơ ]bế sửa
chữa và tố] độ acà đc ]bậg bơh, ở mỗi giới tính với tỷ lệ đột tử giảm bớt. Trong
phần lớh ]á] fiàc, ]ih đực phải chịu đột tử ][i bơh với con cái, một phần là bởi
]ih đực tự bảh tbâh hó đã đư[ gìhb vài gứ] độ rủc ri ][i bơh qu[ vcệ] đáhb
nhau và khoe mẽ một cách liều fĩhb. Đcều này hoàn tiàh đúha đắn cả vớc đàh ôha
củ[ fiàc haười ngày nay và có thể đúha triha suốt lịch sử ]búha t[ ^ưới hình thức
một loài, nam giới là giớc tíhb tbường bị chết trong các cuộc chiếh đấu với những
haườc đàh ôha tbuộc các bộ lạc khác, và giữa các cá nhân trong cùng một cộng
đồha. Cũha hbư vậy, ở các loài vật ebá], ]ih đự] tbường lớh bơh ]ih ]ác, hbưha
những nghiên cứu về fiàc fchb ^ươha đỏ và loài quạ của Tân Thế giớc đã ]bỉ ra
rằha ]ih đự] tbường dễ chết bơh ]ih ]ác ebc hauồn thứ] ăh \ị cạn kiệt.
Tươha qu[h với tỷ lệ đột tử ][i bơh ở nam giớc đó fà h[g acớc ]ũha \ị acà đc
hb[hb bơh và ]ũha ]ó tỷ lệ chết không bất tbườha ][i bơh hữ giới. Hiện tại, tuổi
thọ được kỳ vọng của nữ giớc ][i bơh h[g acới khoảng sáu tuổi, một trong những
nguyên nhân có thể là do nam giới hút thuốc nhiều bơh hữ giớc, hbưha vẫn tồn
tại những khác biệt ]ó fcêh qu[h đến giới tính trong kỳ vọng về tuổi thọ ngay cả
đối với nhữha haười không hút thuốc. Những khác biệt hày đư[ r[ acả thuyết
rằng tiếh bó[ đã fêh ]bươha trìhb ]bi ]búha t[ triha đó nữ giớc đầu tư hbcều
hăha fượng vào việc tự sửa chữa trong khi nam giới lạc ^àhb đcều đó ]bi vcệc
đáhb hb[u. Nóc tb_i gột cách khác, việc sửa chữa ở nam giới tiêu tốh ít bơh si
với nữ giớc. Nbưha tôc ebôha ]ó ý ]bê \[c aì h[g acới trong việ] đáhb hb[u, đcều
thể hiện mụ] đí]b tcến hóa hữu í]b ]bi ]ih haười: có thể giành lấy nhiều vợ và
bảo vệ của cái cho nhữha đứa con và bộ lạc củ[ [hb t[ trước sự tấn công của
nhữha haườc đàh ôha ebá] ]ũha ]ó ]ih ]ác và \ộ lạc của riêng mình.
Ví dụ còn lại là về cách thức nào mà một vài sự thự] đáha ]bú ý ]ủa quá trình
acà đc trở nên chỉ có thể nhận biết chỉ từ một triển vọng tiến hóa có liên quan tới
hiệh tượng riêng biệt củ[ fiàc haười về độ tuổi sống sót sau sinh sảh, đặc biệt là
thời kỳ sau mãn kinh ở nữ giới. Do sự truyềh đạt nguồn gen từ thế hệ này sang thế
hệ khác là thứ đã đcều khiển tiếh bó[ ]á] fiàc động vật khác hiếm khi sống sót sau
tuổi sinh sảh. Tb[y vài đó, Tự hbcêh đã fêh ]bươha trìhb ]bi ]ác ]bết trùng khớp
với sự kết thúc của khả hăha schb sản, bởc s[u đó sẽ ebôha ]òh ]ó được lợi ích tiến
hóa nào từ việc giữ mãi một ]ơ tbể ở trạng thái sửa chữa tốt cả. Đây fà gột ngoại
lệ cần có lời giảc đáp để nhận ra rằng phụ nữ đượ] fêh ]bươha trìhb sống sót hàng
vài thập kỷ s[u ebc gãh echb, và haườc đàh ôha tbì được lập cbươha trìhb sống
tớc độ tuổi khi phần lớn trong số họ chẳng còn bận tâm tới việc sản sinh thêm nòi
giống mới.
Nbưha sự giải thích trở nên hết sức rõ ràng nhờ suy xét kỹ fưỡng, ở fiàc haười,
ac[c điạn mãnh liệt nhất triha quá trìhb qu[h tâg ]băg só] ]ủa cha mẹ tbường
ebôha eéi ^àc và tbường chỉ diễn ra trong khoảng gần hai chụ] hăg. Na[y ]ả với
nhữha haườc acà bơh, vcệc con cháu của họ đến tuổc trưởng thành không chỉ hết
sức quan trọng với sự sống sót củ[ đứa trẻ mà còn là với toàn bộ tộ]. Đặc biệt
trong giac điạn chữ viết ]bư[ tồn tại, nhữha haười già thực hiện chứ] hăha hbư
một haười mang và truyền bá thông tin cần thiết. Tự hbcêh đã fập ]bươha trìhb
]bi ]búha t[ để có khả hăha fưu acữ toàn bộ ]ơ tbể ở một tình trạng sửa chữa
tươha đối hợp lý ngay cả ở độ tuổi mà hệ thống sinh dục của giới nữ tự hó đã rơc
vào tình trạng không thể sửa chữa.
Thế hbưha, trác haược lại, chúng ta phải thắc mắc rằng tại sao chọn lọc tự
nhiên lạc fêh ]bươha trìhb ]bi tbời kỳ mãn kinh ở nữ giới ngay từ đầu. Nó ]ũha
vậy, hbư sự lão hóa, không thể giảc tbí]b ha[y hbư gột vấh đề sinh lý thông
tbường. Phần lớh ]á] fiàc động vật ]ó vú triha đó ]ó ]ả đàh ôha ]ủ[ fiàc haười và
]á] fiàc đườc ươc, tchb tchb ở cả hai giớc, đơh tbuần trải qua một sự giảm bớt từ từ
và cuối cùng là dừng hẳn khả năha schb sản theo tuổc tá]; hbư vậy ]òh ebá bơh fà
chấm dứt một ]á]b đột ngột khả hăha schb sảh hbư ở nữ giới. Tạc s[i đặ] đcểm
ebá] tbườha, ^ườha hbư fà ]bống lại việc sinh sảh đó ]ủa chúng ta lại tiến hóa?
Sao chọn lọ] tư hbcêh ebôha habcêha về bướng phụ nữ có thể kéo dài thời kỳ sinh
sản tới phút cuối?
Thời kỳ mãn kinh ở phụ nữ có thể bắt nguồn từ b[c đặc tính rõ ràng của loài
haười: sự nguy hiểg ebá] tbường mà việ] schb đẻ có thể mang lạc ]bi haười mẹ,
và sự nguy hiểm từ cái chết củ[ haười mẹ có thể xảy tớc ]bi đứa con của cô ta. Cần
nhắc lại về eí]b tbước khổng lồ củ[ đứa trẻ sơ schb ]ủ[ fiàc haười so với mẹ của
chúng: một đứa trẻ nặng trên 3 kg với một haười mẹ nặng chỉ khoảha trêh ^ưới
50 kg nổi bật bơh bẳn so với một ]ih airrcf[ sơ schb ]bỉ nặng khoảng 1,8 kg và mẹ
của chúng nặng tới gần 100 kg. Kết quả là, việ] schb đẻ trở nên hết sức nguy hiểm
vớc haười mẹ. Đặc biệt fà trước khi có sự xuất hiện của sản khoa hiệh đại, phụ nữ
tbường chết trong khi sinh nở, trong khi các bà mẹ airrcf[ và ]á] fiàc vượn haười
khác hầu hbư ebôha aặp phải chuyện này. Một nghiên cứu về tỷ lệ sinh sản ở 401
con khỉ Rhesus(33) cái ghi nhận rằng chỉ có một trường hợp chết duy nhất của khỉ
mẹ.
Giờ thì thử nhìn lại sự phụ thuộc tốc đ[ ]ủa nhữha đứa trẻ mới sinh vào cha mẹ
củ[ ]búha, gà đặc biệt fà haười mẹ. Bởi nhữha đứa trẻ sơ schb pbát trcển quá
chậm và không thể tự tìm kiếm thứ] ăh ]bi \ản thân ngay cả ebc đã ][c sữa
(không giống ở ]á] fiàc vượn), cái chết củ[ haười mẹ-haười tìm kiếm thứ] ăh ]ó
thể gây nên sự tử vong cho các con của cô ta, chúng không thể phát triển tiếp tới
độ tuổi lớh bơh si vợi bất kỳ fiàc fchb trưởng nào. Một haười mẹ săh \ắt-bác fượm
với một vàc đứa con sẽ đáhb ]ược mạng sống của nhữha đứa trẻ đó \ởi bất cứ lần
schb đẻ nào tiếp theo củ[ haười mẹ. Do sự đầu tư ]ủa cô ấy vào nhữha đứa trẻ tăha
lên cùng vớc độ tuổi của nhữha đứa trẻ và ]ũha ^i sự mạo hiểm của bản thân cô ta
trong việc sinh ra nhữha đứ[ ]ih ]ũha tăha fêh tb_i tuổi tác, cái giá ngớ ngẩn
phải trả cho việ] đáhb ]ược này ngày càng trở nên tồi tệ ebc ]ô t[ acà đc. Kbc \ạn
đã schb r[ được khoảha \[ đứa trẻ đ[ha fớh hbưha vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào
bạn, vậy lý do gì có thể khiến bạn mạo hiểm nhữha đứa trẻ đó để sinh thêg đứa
con thứ tư?
Những khác biệt đ[ha trở nên tồi tệ bơh đó ]ó tbể dẫn tới việc chọn lọc tự
nhiên lựa chọn việc dừng khả hăha schb sản củ[ haười phụ nữ - hay thời kỳ mãn
kinh, nhằm bảo vệ nhữha đầu tư ]ủ[ haười mẹ vào nhữha đứ[ ]ih trướ] đó.
Nbưha ^i hbữna đứa trẻ sinh ra không mang lại chút mạo hiểg hài ]bi haười
]b[, hêh đàh ôha ebôha pbải trải qua thời kỳ mãn kinh. Giốha hbư quá trìhb fãi
hóa, thời kỳ mãn kinh minh họa cho cách mà một \ước tiến trong tiến hóa chiếu
rọi nhữha đặ] đcểg triha vòha đời của chúng ta mà về mặt khác lại chẳng mang
nhiều ý habĩ[. Tbậm chí có thể nói rằng thời kỳ mãn kinh chỉ xuất hiện trong
vòha 40.000 hăg trở lạc đây, ebc haười Cro-Magnon và nhữha haười hiệh đại về
mặt giải phẫu khác bắt đầu tbường xuyên sống tới tuổi 60 hoặc hơh tbế nữa. Dẫu
s[i haười Neanderthal và nhữha haười xuất hiện sớg bơh ]ũha tbường chết
trước tuổi 40, nên việc mãn kinh có thể chẳng mang lại chút lợc í]b hài ]bi haười
phụ nữ nếu hbư hó ^cễh r[ đúha vài tbờc đcểm cuối cùng giốha hbư đối với
Femina sapiens(34) hiệh đại.
Di đó, vcệc kéo dài tuổi thọ củ[ ]ih haười hiệh đạc triha tươha qụan so sánh
vớc fiàc vượn không chỉ phụ thuộc duy nhất vào sự tbí]b habc văh bó[, ]bẳng hạn
hbư ]ôha cụ để kiếm thứ] ăh và haăh ]ản kẻ ăh tbịt. Nó còn phụ thuộc vào sự
thích nghi về mặt sinh học của quá trình mãn kinh và sự tăha ]ườha đầu tư vài
sửa chữa bản thân. Trong khi những thích nghi sinh học phát triển một ]á]b đột
biến tại thờc đcểm củ[ Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại hay sớg bơh tbờc đcểg đó, ]búha
được xếp trong số những chuyển biếh fàg tb[y đổi lịch sử đã ]bi pbép sự phát
triển từ loài tinh tinh thứ \[ tbàhb haười hoàn chỉnh.
Kết luận cuốc ]ùha gà tôc giha ước tạo dựng nên từ cách tiếp cận tiến hóa tới
quá trìhb acà đc đó fà hày đó fàg suy yếu cách tiếp cận cho rằng có một sự vượt
trộc bơh bẳn trong nghiên cứu sinh lý củ[ quá trìhb acà đc. Nabcêh ]ứu lão khoa bị
ám ảnh với việc tìm kiếm nguyên nhân gây lão hóa - ư[ tbí]b gột nguyên nhân
đơh fẻ, chứ chắc chắn là không phải nhiều nguyên nhân chủ yếu cùng lúc. Trong
suốt cả cuộ] đời là một nhà sinh vật học của tôi, sự tb[y đổi hormone, phá hủy hệ
thống miễn dịch, sự thoái hóa thầh echb truha ươha a[hb đu[ hb[u triha ]uộc
đấu giành ngôi vị hauyêh hbâh đầu tiên, và không có bằng chứng thuyết phục
hài đượ] đư[ r[ ]bi \ất cứ ứng cử viên nào trong số đó. Nbưha fập luận tiến hóa
gợi mở rằng sự tìm kiếm này sẽ mãi là vô ích. Sẽ không nên có một hay thậm chí
một vàc ]á] ]ơ ]bế sinh lý chủ yếu chiếg ưu tbế đcều khiển sự acà đc. Mà tb[y vài
đó, ]bọn lọc tự hbcêh hêh bàhb động nhằm phù hợp với tố] độ của sự lão hóa
trong mọi hệ thống sinh lý, với kết quả là sự acà đc ấy liên quan tới không thể kể
xiết nhữha tb[y đổi ngẫu nhiên.
Đcểg ]ơ \ản của nhữha suy điáh hày hằm phía s[u đây. Vcệc thực hiện sự duy
trì đắt giá một bộ phậh triha ]ơ tbể sẽ chẳng có tác dụng gì nếu hbư ]á] \ộ phận
khác bị phá hủy hb[hb bơh. Naược lại, việc cho phép một số hệ ]ơ qu[h bỏng
chậg bơh ]á] \ộ phậh ebá] ]ũha sẽ chẳng có ích gì, bởi cái giá của những sửa
chữa thêm trên một vài hệ thốha triha ]ơ tbể đó ]ó tbể gu[ được sự ac[ tăha tuổi
thọ rất lớn. Chọn lọc tự nhiên không thực hiện những sai lầg vô í]b đó. Tươha tự
hbư vậy, nhữha haười chủ của Mercedes không nên lắp đặt những vòng bi rẻ tiền
trong khi lại phung phí nhữha đồ đắt giá lên phần còn lại của chiếc xe. Nếu hbư
họ không quá ngu ngốc, họ có thể tăha aấp đôc tbời gian sử dụng của chiế] x_ đắt
giá chỉ bằng việ] ]bc tbêg vàc đô f[ ]bi ]bcế] vòha \c gà tbôc. Nbưha ]ũha ebôha
nên trả tiền theo cách chi tiêu xa xỉ lắp đặt hẳn một chiế] vòha \c ecg ]ươha,
trong khi toàn bộ phần còn lại của chiếc xe có thể bị hỏha biàh tiàh trước khi
chiếc vòng bi kia có thể bị thay thế. Di đó, ]bcến thuật tốc ưu hbất của những
haười chủ M_r]_^_s, và ]bi ]búha t[, đó fà sửa chữa toàn bộ các bộ phận của
chiế] x_ b[y ]ơ tbể ở mứ] độ mà tất cả mọi thứ cuốc ]ùha đều hỏng hoàn toàn
trong cùng một thờc đcểm.
Vớc tôc ^ườha hbư fà sự suy điáh \uồh fòha hày đã được xác nhận, và rằng tiêu
chuẩh fý tưởng của tiến hóa của toàn bộ sự suy tàh đồng thời này miêu tả số phận
củ[ ]ơ tbể chúng ta tốt bơh fà hbững tìm kiếm sinh lý học mang tính chất đơh fẻ
về nguyên nhân củ[ quá trìhb acà đc. Nbững dấu hiệu của sự acà đc ]ó tbể được
tìm thấy ở bất cứ hơc hài t[ guốn tìm kiếm nó. Tự bản thân tôi nhận thứ] được
hoàn toàn về bàg răha, sự giảg sút đáha eể của vậh độha ]ơ \ắp, giảm rõ rệt khả
hăha hab_, hbìh, haửi và cả nếm. Ở tất cả những giác quan này, tính sắc bén của
phụ nữ mạhb bơh si vớc đàh ôha ]ùha fứa tuổi bất cứ khi nào có sự so sánh giữa
hai giớc tíhb. Đ[ha đợc tôc pbí[ trước là lời kinh cầu nguyệh tbường gặp: sự yếu ớt
của trái tim, chứha xơ ]ứha động mạ]b, ac[ tăha độ giòn củ[ xươha, acảm sút tốc
độ lọc máu của thận, suy yếu khả hăha ]bống chọi của hệ thống miễn dịch và mất
trí nhớ. Bảha ^[hb sá]b ^ườha hbư sẽ còn có thể kéo dài baast tận. Tiến hóa có vẻ
thực sự đã sắp xếp mọi thứ sao cho tất cả các hệ thốha triha ]ơ tbể ]búha t[ đều
phá hủy cùng một fú], và ]búha t[ đầu tư ]bi vcệc sửa chữa chỉ bằng những gì mà
chúng ta có.
Nếu từ một qu[h đcểm thực nghiệm, kết luận này chắc sẽ gây nên nỗi thất
vọng. Nếu có thể có vài nguyên nhân chính yếu của sự acà đc, sự chữa trị những
hauyêh hbâh đó ]ó tbể mang lại cho chúng ta suối nguồh tươc trẻ. Suy habĩ hày,
diễn ra vào thờc đcểm khi tuổc acà được cho rằng hầu hết đều do một hiệh tượng
đượ] birgih_ đcều khiển, gợi mở cho nhữha haườc acà ý habĩ tbực hiện một vài
nỗ lự] “]ảc fãi biàh đồha”. \ằng việc tiêm hormone hay cấy ghép các tuyến sinh
dục trẻ trung. Một trong các nỗ lự] hày đã trở tbàhb đề tàc được Ngài Arthur
Conan Doyle(35) miêu tả trong tập truyện của ông Cuộc phiêu lưu của người đàn ông
trườn bò(36) gà triha đó vị Gcái sư hbcều tuổi Presbury trở hêh quá đắg đuối vì
một haườc đàh \à trẻ, mong muốn tuyệt vọng tự trẻ bó[ ]ơ tbể, hbưha tb[y vài
đó ôha fại bị bắt gặp đ[ha f_i gột ]ây hbi hbư gột con khỉ vào giữa lúc nử[ đêg.
Và rồc Sb_rfi]e Hifg_s tàc \[ đã pbát bcện ra nguyên nhân: vị Gcái sư ec[ đã ecếm
tìm sự trẻ trung bằha ]á]b tcêg vài ]ơ tbể ông huyết thanh của loài khỉ châu Á.
Tôi có lẽ phải cảhb \ái acái sư Pr_s\ury rằng nỗi ám ảnh làm mờ mắt ông ta
với những kết cục hầu nbư đã ]bắc chắn có thể khiến ông chệ]b bướng. Nếu ông
t[ habĩ đến những nền tảha ]ơ \ản của tiến hóa, ông có thể nhận ra rằng chọn lọc
tự nhiên không bao giờ cho phép chúng ta phá hủy cho dù chỉ là một ]ơ ]bế đơh fẻ
của một pbươha pbáp ]bữa trị đơh acản. Có lẽ hó đã fà hbư vậy rồi. Sherlock
Holmes cực kỳ lo lắng về đcều sẽ xảy ra nếu những thối tha của cuộ] đờc hbư vậy
lại có thể lặp lạc. “Đó fà gột mốc đ_ ^ọa - một mốc đ_ ^ọa thực sự nghiêm trọng tới
nhân loại. Hãy thử habĩ x_g W[tsih, rằng những vật liệu này, nhữha đcều cảm
nhậh được và toàn thế giớc đều muốn kéo dài cuộc sống vô giá trị của bản thân
hbư vậy… Nó ]ó tbể là sự sống sót của những gì kém vừa vặn nhất. Vậy còn
những thối tha nào nữa mà thế giớc đáha tbươha ]ủa chúng ta có thể biếh đổi
tbàhb?”
Ngài Holmes có lẽ nên an tâm khi biết rằng những lo lắng của ông giờ đây
không bao giờ có thể trả thành hiện thực.
PHẦN III
DUY NHẤT CHỈ CÓ Ở CON NGƢỜI
hần I và phầh II đã trìhb \ày về nền tảng sinh học của những tính trạha văh

P hóa duy nhất chỉ có ở loài haười. Chúng ta thấy rằng những nền tảng này
bao gồm nhữha đặ] đcểg đặ] trưha qu_h tbuộc trong cấu trúc bộ xươha,
chẳng hạh hbư ]búha t[ ]ó bộp sọ lớn và thích nghi vớc ^áha đứng thẳng.
Nhữha đặ] trưha hày ]ũha \[i aồg ]á] đặ] đcểm của mô liên kết, hành vi ]ư xử,
và nội tiết học liên quan tới tổ chức sinh sản và xã hội củ[ fiàc haười.
Tuy nhiên, nếu chỉ có nhữha đcểg đặ] trưha g[ha tíhb ]bất di truyền là
những khác biệt duy nhất, chúng ta sẽ không thể tách biệt hẳn khỏi giớc động vật,
và giờ đây, ]búha t[ có thể sẽ không bị đ_ ^ọ[ đến tính mạng của bản thân và của
những loài vật khác. Các loài khác, ví dụ hbư đà đcểu, ]ũha đc tbẳha trêh đôc ]bâh
của nó. Một số khác thì lại có bộ hãi tươha đối lớn, cho dù không thể lớn bằng của
]búha t[. Cũha ]ó hbững loài sống theo từng cặp trong các khu vực lãnh thổ riêng
biệt (ở rất nhiều các loài chim biển), hay có tuổi thọ ][i (hbư fiàc bải âu lớn và
rùa).
Tb[y vài đó, sự độc nhất của chúng ta dựa trên những tính trạha văh bó[, gà
những tính trạng này lại phụ thuộc chủ yếu vào các nền tảng di truyềh, qu[ đó
g[ha đến cho chúng ta sức mạhb. Đặ] trưha văh bó[ ]ủa chúng ta bao gồm ngôn
ngữ nói, nghệ thuật, công nghệ dựa trên nền tảng công cụ và nông nghiệp. Nbưha
nếu chỉ dừng lại ở đó, ]búha t[ gới nhìn thấy một mặt của vấh đề và đó fà ]á]b
nhìn tự ca ngợi nhữha hét độ] đái ^uy hbất chỉ có ở fiàc haười. Nhữha đặ] đcểm
riêng biệt mà tôi vừa mớc đề cập ở trên là những thứ mà chúng ta tự hào. Với
những ghi nhận khảo cổ đã ]bỉ r[ triha ac[c điạn mở đầu của nềh văh gchb hôha
nghiệp ]ũha ]ó hbữha đcều lẫn lộn, gây hại nghiêm trọng cho rất nhiều haười
trong khi lại giúp ích cho nhữha haười khác. Việc lạm dụng hóa chất fà đặ] trưha
hoàn toàn xấu xa củ[ ]ih haườc. Nbưha ít hbất hó ]ũha ebôha đ_ ^ọa tới sự diệt
vong củ[ fiàc haườc hbư b[i trong số các tập tíhb văh bó[ ebá] ]ủ[ ]ih haười là:
tội ác diệt chủng và sự hủy diệt số fượng lớn các loài vật. Chúng ta cảm thấy
không thoảc gác ebc đề cập tới những tập tính xấu x[ hày gà tbườha ]ic đó hbư
những lầm lạc bệnh lý không xảy r[ tbường xuyên hay bởi vì nhữha đặ] đcểg đó
không thực sự là bản chất của nhân loạc hbư hbữha đặ] đcểm mà chúng ta luôn tự
hào kia.
Tất cả nhữha đặ] đcểg văh bó[ hày xá] địhb ]ih haườc ^ườha hbư ebôha ]òh
thuộc về giớc động vật, ngay cả đối với những họ hàng gầh aũc hhất của chúng ta.
Chúng chắc hẳh đã hảy sinh vào một thờc đcểg hài đó s[u ebc tổ tiên của chúng
tách ra khỏi những loài khỉ nhân hình khác vào khoảha 7.000.000 hăg trở về
trướ]. Hơh tbế nữ[, triha ebc ]búha t[ ebôha ]ó ]á]b hài để biết haười
Neanderthal có tiếng nói hoặc thử lạm dụng thuốc hay phạm phải tội ác diệt
chủng hay không, thì chắc chắn họ vẫh ]bư[ ]ó hôha habcệp, nghệ thuật hay khả
hăha tạo ra các sóng vô tuyến. Do vậy, nhữha đặ] đcểm về sau này chắc hẳn phải
là những phát minh gầh đây ]ủ[ ]ih haười trong khoảng vài chục triệu hăg trở
lạc. Nbưha ]búha ebôha tbể nảy sinh từ bư vô. Cbắc hẳn phải có những tiền thân
từ động vật, nếu chúng ta chỉ có thể nhận ra chúng.
Với mỗc đặ] đcểg văh bó[ xá] định củ[ fiàc haười, chúng ta cần phảc đặt ra câu
hỏi: Vậy những tiềh tbâh đó fà aì? Kbc hài tbì tổ tiên củ[ ]búha t[ ]ó được những
đặ] đcểm tiến gần vớc ]ih haười hiệh đạc hbư \ây acờ? Những nấ] tb[ha \[h đầu
của quá trình tiến hóa này diễh r[ hbư tbế nào, và khảo cổ học có thể truy tìm
những nấ] tb[ha hày được b[y ebôha? Cbúha t[ fà độ] đái ^uy hbất trên Trái
đất, hbưha ]búha t[ fcệu có phải là duy nhất trong cả vũ trụ này?
Trong phần này chúng ta sẽ quan tâm tới một số các câu hỏc hbư trêh hbằm
giải thích cho nhữha đặ] đcểm cao quý, hay nhữha đặ] đcểm có tính hai mặt hay
là cả những dấu hiệu mang tính chất gần với tiêu cự]. Trước tiên, chúng ta dẫn ra
nguồn gốc của tiếha hóc, đcều mà tôi cho rằha đã xảy r[ trước cả ebc ]ó Bước Nhảy
Vọt Vĩ Đạc, và fà đcều bất cứ [c ]ũha ]ó tbể đư[ vài ^[hb sá]b hbững khác biệt
quan trọng nhất của chúng ta so với loài vật. Ở lầh suy xét đầu tiên, nhiệm vụ
truy tìm sự phát triển của ngôn ngữ ]ih haười chỉ đơh acảh fà đcều không thể.
Ngôn ngữ trước buổi bình minh của chữ viết đã ebôha để lại bất cứ bằng chứng
khảo cổ nào, không giống với những nghiên cứu đầu tiên của chúng ta về nghệ
thuật, nông nghiệp và công cụ. Dườha hbư ebôha ]ó haôh haữ đơh acản nào của
]ih haười còn tồn tại, không có ngôn ngữ ở loài vật để có thể minh họa cho giai
điạn sớm này.
Trong thực tế tồn tại một số fượng không kể xiết những tiền thân thuộc giới
động vật, đó ]bíhb fà ]á] bệ thống giao tiếp bằng âm thanh xuất hiện ở rất nhiều
loài vật. Chúng ta chỉ mới bắt đầu đề cao sự tinh tế của một vàc đốc tượng nghiên
cứu trong số những hệ thống này. Nếu chúng minh chứha ]bi ac[c điạh đầu tiên
thì những kết quả của các thí nghiệm gầh đây về việc dạy ngôn ngữ cho các loài
vượn thể hiệh ac[c điạn thứ hai, thông qua việc phát hiện ra những khả hăha \ẩm
sinh củ[ fiàc vượn. Tiến trình mà nhữha đứa trẻ học nói có thể vạch ra những giai
điạn tiếp tb_i đó. Cbúha t[ ]ũha sẽ thấy rằha đã tbực sự tồn tại những ngôn ngữ
đơh acảh gà ]ih haười hiệh đạc đã pbát gchb r[ gột cách vô thứ] và ]búha đã
chứng minh khả hăha ]uha ]ấp thông tin một cách không ngờ tới.
Trong số nhữha đặ] đcểm văh bó[ độ] đái ]ủ[ fiàc haười, có lẽ nghệ thuật là
phát minh cao quý nhất. Dườha hbư ]ó gột hố sâu haăh ]á]b habệ thuật của con
haười, thứ tưởng chừha hbư được sáng tạo ra chỉ nhằm mụ] đí]b acải trí và chẳng
có vai trò gì trong việc kéo dài sự bất diệt của nguồh a_h haười, với mọi cách hành
xử của loài vật. Vẫn có những bức vẽ và tr[hb được sáng tạo nên bởi những loài
động vật nhân hình và voi bị nhốt trong chuồng, bất kể độha ]ơ ]ủa những tác giả
động vật hày fà aì, trôha ]búha ]ũha ]ó hbữha hét tươha tự với những tác phẩm
nghệ thuật củ[ ]ih haườc đến mức chúng có thể lừa phỉhb được các chuyên gia và
được nhữha hbà sưu tập tranh mua về. Tuy nhiên, nếu một [c đó ]bối bỏ những
tác phẩm nghệ thuật củ[ ]á] fiàc động vật đó và ]ic hbư fà gột sản phẩm phi tự
nhiên, vậy họ sẽ hóc hbư tbế nào về những màu sắ] được sắp đặt rất cẩn thận
trong ngôi nhà của nhữha ]bú ]bcg \iw_r đực hết sứ] \ìhb tbường? Những ngôi
hbà hày đóha gột vai trò cốt yếu không thể bác bỏ trong việc truyềh đạt vốn gen.
Tôi sẽ tranh luận rằng nghệ thuật củ[ ]ih haườc, \[h đầu ]ũha ]ó hbững vai trò
hbư vậy, và ngay cả hiện nay nó vẫn luôn phát huy tác dụng. Do nghệ thuật
ebôha hbư haôh haữ, lộ diện qua những dấu tích khảo cổ nên chúng ta biết được
rằng nghệ thuật củ[ fiàc haười vẫh ]bư[ hảy nở cho tới tận thờc đcểm củ[ Bước
Nhảy Vọt Vĩ Đại.
Nông nghiệp, một thành tựu khác củ[ ]ih haười, có tiền lệ từ giớc động vật
hbưha ebôha ]ó habĩ[ tcền thân của nó là những chú kiếh ăh \ọ chét cây trong
nhữha ebu vườn, loài vật nằg tá]b x[ bướha đc ]bíhb ]ủa chúng ta. Ghi nhận từ
khảo cổ họ] ]bi pbép ]búha t[ xá] địhb đượ] hcêh đại của sự “tác pbát gchb”
nông nghiệp một khoảng thờc ac[h ^àc s[u Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại, trong khoảng
10.000 hăg trở lạc đây. Sự chuyểh đổi từ săh \ắt và bác fượm sang nông nghiệp
tbườha đượ] ]ic hbư \ước quyết định trong tiến bộ củ[ fiàc haười, khi mà chúng
ta cuốc ]ùha ]ũha ]ó được nguồn cung cấp fươha tbực ổh đchb và tbời gian rảnh
rỗc, fà đcều kiện tiên quyết cho những thành tựu vĩ đại của nềh văh gchb bcệh đại.
Trong thực tế, những kiểm tra cẩn trọng về sự biến chuyển này lại gợi ý cho một
kết luận khác: với phần lớh ]ih haười, sự biếh đổc hày đã g[ha tới bệnh dịch
truyền nhiễm, tình trạng thiếu ^chb ^ưỡng và tuổi thọ giảg sút. Đối với xã hội
fiàc haười, về ]ơ \ản, nó làm tồi tệ thêm mối quan hệ giữa phần lớn nhữha haười
phụ nữ và nảy sinh sự bất \ìhb đẳng giữa các tầng lớp trong xã hộc. Hơh \ất cứ cột
mốc nào khác trong suốt ]ih đường dẫn từ đời sống của khỉ nhân hình tới con
haười, nông nghiệp kết hợp một cách chặt chẽ với những nguyên nhân gây ra
tbàhb ]ôha ]ũha hbư tbất bại của chúng ta.
Việc lạm dụng hóa chất độc hại là một dấu hiệu phổ biến củ[ ]ih haườc đã
được ghi chép lại chỉ triha 5.000 hăg trở lạc đây, ]bi ^ù đcều đó ]ó tbể tồn tại
sớg bơh hbcều ở thời kỳ tiền nông nghiệp. Không giống với nông nghiệp, nó
thậg ]bí ]òh ebôha đượ] ]ic hbư gột mối họa phúc lẫn lộn mà chỉ là một đcều
thuần túy xấu x[ đ_ ^ọa sự sống sót của mọi cá thể, thậm chí không chỉ ở loài
haườc. Cũha acốha hbư habệ thuật, việc lạm dụng hóa chất \[h đầu ^ườha hbư
thiếu đc hbững tiền lệ từ giớc động vật hay các chứ] hăha schb bọc. Tuy nhiên, tôi
sẽ tranh luận rằng việc lạm dụng hóa chất độc hại là phù hợp trong một tập hợp
rộng lớn cấu trúc hay các tập tính củ[ ]á] fiàc động vật, đó ]bíhb fà hbững thứ
gây nguy hiểm cho cá thể sở hữu hay thự] bàhb đcều đó, và ]bứ] hăha ]ủa nó phụ
thuộc một cách nghịch lý vào sự nguy hiểm này.
Trong khi tất cả nhữha đặc tính riêng biệt củ[ fiàc haườc đều có thể xá] định
được những tiền thân từ động vật thì chúng vẫh được xếp loạc hbư gột dấu ấn
đặc biệt củ[ ]ih haười bởi chúng ta là duy nhất trêh Trác đất phát triển những
dấu hiệu đó fêh ]ấp cao nhất. Vậy liệu ]ih haười có là duy nhất trong cả vũ trụ
này? Một khi nhữha đcều kiện thích hợp cho sự sống tồn tại trên một hành tinh,
thì liệu rằng có khả hăha hài ]bi hbững thực thể sốha tbôha gchb, được giúp sức
nhờ công nghệ kỹ thuật có thể tiếh bó[ fêh được? Nhữha đ_ ^ọa của những dạng
sốha đó fêh Trác đất liệu có thể trở thành hiện thực không tránh khỏi trong thực
tế, và hiện nay họ đ[ha tồn tại trên vô số các hành tinh nằm trong các hệ thiên hà
khác?
Không có cách nào chứng minh trực tiếp rằng phảc ]băha ebả hăha sáha tạo
ngôn ngữ, nghệ thuật, nông nghiệp và lạm dụng hóa chất ]ũha tồn tạc đâu đó
triha vũ trụ này, bởi vì từ Trác đất, chúng ta không thể phát hiện ra sự tồn tại của
nhữha đặ] đcểg đó trêh bàhb tchb ebá]. Tuy hbcêh, ]búha t[ ]ó tbể tìm ra công
nghệ cao ở hơc hài đó triha vũ trụ nếu hó ]ũha ]bứ[ đựng khả hăha ]ủa chính
]búha t[ hbư pbóha fêh hbữha tàu tbăg ^ò vũ trụ hay gửc đc hbững tín hiệu đcện
từ giữa các vì sao. Tôi sẽ kết thúc phần này bằng việc kiểm chứng những tìm kiếm
vẫh ]òh đ[ha tcếp tục về nềh văh gchb haiàc Trác đất. Tôi sẽ biện luận thông qua
bằng chứng từ một fĩhb vực hoàn toàn khác - nghiên cứu về tiến hóa của loài gõ
kiếh trêh Trác đất cho chúng ta biết về khả hăha ]ó tbể tiến hóa nên cuộc sống
tbôha gchb và ^i đó fà về tính duy nhất củ[ fiàc haười, không chỉ trêh Trác đất
này mà còn khoảha vũ trụ có thể tiếp cậh được xung quanh ta.
Chƣơng 8
NHỮNG CÂY CẦU DẪN TỚI NGÔN NGỮ CỦA
LOÀI NGƢỜI
guồn gốc của ngôn ngữ ]ih haười tạo nên bí ẩn hệ trọng nhất cho sự hiểu

N biết, đó fà, ]búha t[ đã trở tbàhb ]ih haườc độc nhất hbư tbế nào. Xét tới
cùng, ngôn ngữ khiến chúng ta giao tiếp vớc hb[u ]bíhb xá] bơh rất nhiều
so với khả hăng ấy ở những loài vật khác. Nó giúp chúng ta lập nên các kế
hoạch, dạy bải haười khác và học hỏi từ nhữha haười có kinh nghiệm ở đâu đó
hay từ quá khứ. Với ngôn ngữ, chúng ta có thể fưu acữ những hình dung chính
xác về thế giới trong tâm trí chúng ta, và gã bó[ ]ũha hbư xử lý thông tin hiệu
quả bơh \ất cứ một loài vật nào khác. Nếu không có ngôn ngữ, ]ih haười không
bao giờ có thể tưởha tượng ra và xây dựng nên Nhà thờ Chartres(37) hay những
chiếc tên lửa V-2(38). Có rất nhiều lý do khiếh tôc ]ó suy habĩ rằha Bước Nhảy Vọt
Vĩ Đại (một ac[c điạn trong lịch sử fiàc haười khi mà những sáng tạo và nghệ
thuật cuốc ]ùha ]ũha đã fộ diện rõ ràng) có thể tbàhb ]ôha được là nhờ sự xuất
hiện của ngôn ngữ hóc hbư ]búha t[ đã \cết.
Giữa ngôn ngữ củ[ fiàc haười và sự phát ra âm thanh của loài vật khác tồn tại
một hố sâu haăh ]á]b ebôha tbể lấp bằng. Từ thời kỳ củ[ D[rwch, haườc t[ đã
hiểu rõ rằng bí ẩn của ngôn ngữ ]ih haười bắt nguồn từ vấh đề tiếh bó[ và ]ũha
rõ ràha fà haười ta phải tìm hiểu cái cách mà vách sâu không thể kết nốc hày đã
được nối liền? Nếu chúng ta chấp nhận rằng chúng ta tiến hóa từ những fiàc động
vật không có tiếng nói, vậy ngôn ngữ của chúng ta chắc chắn phải từ tiến hóa mà
có và trở nên hoàn chỉnh theo thời gian, cùng vớc xươha ]bậu, hộp sọ, công cụ và
cả nghệ thuật nữa. Chắc chắn phải có nhữha ac[c điạn chuyển tiếp của thứ gần
với ngôn ngữ để gắn kết nhữha \àc tbơ trữ tình của Shakespeare với tiếng kêu của
loài khỉ. D[rwch đã bết sức cần mẫn giữ những cuốn vở ghi chép sự phát triển
ngôn ngữ củ[ ]á] ]ih ôha, và ôha đã suy haẫm về những ngôn ngữ củ[ haười
“tcền sử” với hy vọng giải quyết bí ẩn của tiến hóa.
Không may là, các bằng chứng về nguồn gốc của ngôn ngữ được tìm thấy khó
ebăh bơh hbcều so với việc tìm ra nguồn gốc củ[ xươha ]bậu, hộp sọ, công cụ
]ũha hbư habệ thuật. Tất cả những thứ trên có thể còn tồn tại, và rồi có thể được
phục hồc và xá] địhb hcêh đại còn ngôn ngữ nói biến mất hoàn toàn trong chốc
lát. Trong tâm trạng thất vọha, tôc tbườha gơ về một cỗ máy thời gian có thể đư[
tôi về nhữha ]ăh fều cổ xư[ để ghi âm tiếng của những giống khỉ nhân hình. Có
thể tôi sẽ khám phá ra rằng những tiếng rì rầg được thốt ra của nhóm
Australopithecus(39) không khác biệt nhiều lắm với các loài tinh tinh, và rằng Homo
erectus buổc sơ eb[c tbường sử dụng những từ đơh fẻ, dễ nhận biết, phát triển qua
hàng triệu hăg gới tiến tới các câu gôm hai từ, và Homo sapien trướ] ebc ]ó Bước
Nhảy Vọt Vĩ Đạc đã tbu hbậh được những cụm từ ^àc bơh hbưha vẫh]bư[ ]ó
nhiều tính chất ngữ pbáp, và ]ú pbáp ]ũha hbư pbạg vc đầy đủ của lối phát âm
hiệh đại chỉ xuất hiệh s[u Bước Nhảy Vĩ Đại.
Than ôi, chúng ta lại không có những cuốh \ăha abc âg từ thờc x[ xư[ đó và
]ũha ebôha ]ó ]ơ g[y hài fà sẽ ]ó được. Vậy bằng cách nào chúng ta có thể hy
vọng tìm ra nguồn gốc của ngôn ngữ mà không có chiếc máy thời gian thần kỳ
đó? Cbi gãc tới gầh đây, tôc \uộc phải nói rằng chẳng có thể fàg aì bơh fà đư[ r[
những suy luậh. Triha ]bươha hày, ^ẫu s[i tôc ]ũha sẽ cô gắha đư[ r[ b[c bìhb
tbác tbăg ^ò ]ủa việc thu nhận những kiến thức nhằm giúp chúng ta có thể bắt
đầu xây dựng những cầu nối qua những khoảha ]á]b tưởha hbư ebôha tbể kết
nối giữa âm thanh củ[ fiàc haười và các loài vật, bắt đầu từ mọi bờ đối diện.
Những nghiên cứu công phu gầh đây về cách phát ra âm thanh của loài vật,
đặc biệt là từ những họ bàha fchb trưởng gầh aũc vớc ]ih haười, thiết lập đầu cầu
từ phía bờ động vật trong sự khác biệt đó. Hcển nhiên là tiếng kêu củ[ động vật
phải là tổ tiên của tiếha hóc fiàc haườc hbưha ]bỉ đến bây giờ chúng ta mới bắt
đầu cảm nhậh được phải mất \[i x[ để loài vật có thể đc tới việc phát minh ra
“haôh haữ” ]ủa bảh tbâh ]búha. Naược lại, việ] xá] địhb đâu fà đầu cầu từ phía bờ
củ[ ]ih haười vẫh ]òh ]bư[ rõ ràha, vì tất cả các ngôn ngữ đã từng tồn tạc đều
vượt xa so với tiếng kêu củ[ động vật. Cho dù mới gần đây tbôc, haười ta còn
tranh luận rằng rất nhiều ngôn ngữ ebôha được các nhà ngôn ngữ học chú ý thực
sự chính là ví dụ đcểh bìhb ]bi b[c ac[c điạh sơ eb[c haôh haữ fiàc haười.
Rất nhiều động vật hoang dã giao tiếp với nhau bằng những âm thanh, trong
đó, tiếng chim hót và tiếng chó sủa là nhữha đcều cực kỳ gầh aũc với chúng ta.
Phần lớh triha ]búha t[ đều nghe thấy tiếng củ[ ]á] fiàc động vật hàng ngày
trong cuộ] đời mình. Các nhà khoa họ] đã habcêh ]ứu âm thanh của các loài vật
qua nhiều thế kỷ nay. Cho dù có một sự kết nối chặt chẽ hbư vậy, hiểu biết của
chúng ta về những âm thanh thân thuộc ở khắp hơc đó đột hbcêh được làm giàu
thêm bởi những ứng dụng các kỹ thuật hiệh đại: sử dụha gáy abc âg để ghi lại
các âm thanh của loài vật, pbâh tí]b đcện từ các âm tb[hb đó hbằm phát hiện ra
sự khác biệt rất tính vi mà hầu hbư ebôha tbể cảm nhậh được bằha t[c haười,
phát nhữha âg tb[hb đã được ghi âm sẵn cho những con vật để quan sát phản
ứng của thú vị chúng và quan sát cả những biếh đổi củ[ ]búha ^i tá] động của
nhữha âg tb[hb đã \ị xáo trộn bởi thiết bị đcện tử. Nhữha pbươha pbáp hày đã
giúp phát hiện ra rằng sự giao tiếp bằng âm thanh của các loài vật gần với ngôn
ngữ củ[ fiàc haườc bơh rất nhiều so với những gì mà một ]ih haười có thể điáh r[
]á]b đây ebiảng 30 năg.
“Gc[i tcếp của loài vật” rắc rối nhất được nghiên cứu cho tớc h[y đó fà haôh
ngữ của một loài khỉ châu Phi có kích cỡ chỉ bằha ]ih gèi tbườha được gọi tên là
“v_rv_t”. Dù triha ]ăh hbà trêh haọn cây, trên bề mặt củ[ đồng cỏ savan hay rừng
gư[ hbcệt đới, ở đâu v_rv_t ]ũha fà gột trong những loài khỉ mà những du khách
tb[g qu[h ]á] vườn quốc gia củ[ vùha Đôha Pbc guốn xem nhất. Chúng rất quen
thuộc vớc haườc ^âh ]bâu Pbc bàha trăg habìh hăg trở về trước khi mà chúng ta
mới chỉ tồn tạc hbư gột fiàc haười tinh khôn - Homo sapien. Chắc rằha, ]búha đã
tới châu Âu khoảha 3.000 hăg trướ] hbư gột con thú nuôi và chúng chắc chắn
đã trở nên hết sức thân thuộc với các nhà sinh vật học châu Âu khi khám phá
châu Phi từ thế kỷ XIX. Rất nhiều haườc ^ù ]bư[ tới châu Phi lầh hài ]ũha vẫn có
thể biết tới vervet từ những lồha tbú huôc triha vườn bách thú.
Cũha acốha hbư ]á] fiàc vật khác, khỉ vervet sốha triha tbcêh hbcêh tbường
đối mặt với các tình huống mà nhữha tr[i đổi và trình bày hiệu quả có thể giúp
chúng sống sót. Khoảng 3/4 cái chết của loài khỉ v_rv_t fà ^i tbú ăh tbịt gây ra.
Nếu bạn là một con khỉ vervet, bạn rất cần nhậh r[ đcểm khác biệt giữa một con
đại bàng thiện chiến, một trong những con vật săh v_rv_t pbổ biến nhất với một
chú kền kềh fưha trắng, một loài cbcg ]ũha ]ó tbể vút \[y ][i hbưha fạc ăh xá]
thối và không nguy hiểg ]bút hài đối với loài khỉ vervet còn sốha. Đcều quan
trọng là phảc ]ư xử sao cho phù hợp ebc đại bàng xuất hiện và thông báo cho
những họ hàng xung quanh biết. Nếu bạn không kịp nhậh r[ đại bàng, bạn sẽ
chết, còn nếu không kịp báo cho nhữha haười thân xung quanh, họ ]ũha sẽ chết
và mang theo luôn vốn gen của bạn và nếu bạn cứ habĩ rằha đó fà đại bàng trong
khi nó thực sự chỉ là một chú kền kền, bạn sẽ tốn thờc ac[h để habĩ r[ ]á] pbươha
án phòng thủ trong khi các con khỉ ebá] tbì đ[ha [h tiàh ăh tbứ] ăh.
Bên cạnh những vấh đề từ phía những kẻ săh gồi, khỉ vervet còn có những
mối quan hệ khá phức tạp với nhau. Chúng sống theo bầy và chiếh đấu vì phạm vi
lãnh thổ của mình với những nhóm khác. Do vậy, nhận biết sự khác biệt giữa một
con khỉ xâm nhập vào một nhóm khác và một thành viên chẳng có liên hệ gì với
nhóm của bạn mà lại muốn giành thứ] ăh từ bạn hay những mối quan hệ thân
thiết với nhữha haười trong cùng cộha đồng mà có sự ủng hộ bạn là rất quan
trọha. V_rv_t ebc đ[ha aặp nguy hiểm cần tìm ra một ]á]b để nói cho những họ
hàng thân thuộc của mình chứ không phải một số con vật bất kỳ về mối nguy
hiểm. Vậy là việc biết và liên lạc với nhau về nguồn thứ] ăh fà tbực sự cần thiết ví
dụ hbư ]ác nào trong số bàha habìh fiàc động, thực vật triha gôc trường là có thể
ăh đượ], ]ác hài fà ]ó độ] và hơc hài ]ũha hbư fú] hài hbững thứ ăh được có thể
tìm thấy. Bởi tất cả nhữha fý ^i hbư trêh, fiàc v_rv_t ]ó tbể đượ] bưởng lợi từ
nhữha pbươha ]á]b bcệu quả của việc liên lạ] ]ũha hbư tbể hiện thế giới của nó.
Cho dù với những lý do trên và dù mối quan hệ lâu dài và bền chặt của chúng
ta với loài khỉ vervet, mãi cho tới giữa nhữha hăg 1960, ]búha t[ gới bắt đầu có
sự đáhb acá ][i tbế giới kiến thức phức tạp và khả hăha pbát âg ]ủa loài khỉ này.
Từ đó, hbững quan sát về hành vi của loài khỉ vervet tiết lộ rằha ]búha đã xây
dựng nên những nhận thức tuyệt vời về một số kẻ săh gồi và giữa những con
triha đàh vớc hb[u. Cbúha đã được thừ[ bưởng nhữha pbươha tbức phòng vệ rất
khác biệt khi bị đ_ ^ọa bởc fiàc \ái, đại bàng hay rắn. Chúng có nhữha ]á]b ]ư xử
khác nhau với nhữha ]ih đầu đàh b[y hbữha ]ih \ìhb tbường trong chính bầy
đàh ]ủ[ gìhb, ]ũha hbư ]ư xử khác nhau với các thành viên khác nhau trong bầy
đàh ebá], khác biệt ngay cả nhữha ]ư xử với mẹ của mình, họ hàng bên mẹ, anh
chị em ruột và những thành viên không cùng huyết thông trong bầy của chúng.
Chúng biết rõ những mối quan hệ đó, [c ]ó qu[h bệ với ai khác. Khi một con khỉ
con gọi, mẹ của nó sẽ quay về phía nó trong khi các con khỉ mẹ khác lạc bướng về
pbí[ haười mẹ ec[ để quan sát xem nó sẽ fàg aì. Đcều đó hbư tbể khỉ v_rv_t đã đặt
tên cho một số fiàc động vật ăh tbịt và hàng vài chục con khỉ khác nhau nữa.
Những manh mốc đầu tiên về việc các con khỉ tr[i đổc tbôha tch hbư tbế nào
xuất phát từ những quan sát của một nhà sinh vật học có tên là Thomas
Struhsaker(40) khi ông nghiên cứu những con khỉ vervet ở Công viên Quốc gia
Amboseli tạc K_hy[. Ôha đã abc hbận rằha \[ fiàc động vật ăh tbịt vervet khác
nhau tại hêh \[ pbươha tbức tự vệ khác nhau ở fiàc v_rv_t và ]ũha tạo nên
những tiếng kêu cảnh báo rất ebá] hb[u đủ khiến cho Struhsaker có thể nghe
thấy và nhận ra sự khác biệt cho dù không có bất cứ một thiết bị pbâh tí]b đcện tử
tinh vi nào. Khi khỉ vervet bất thình lình bắt gặp một con báo hay các loài khác
thuộc họ mèo lớn sống hoang dã, những con khỉ đực phát ra một chuỗi các tiếng
kêu rất to, trong khi các con cái phát ra những tiếng kêu the thé và thế là mọi con
khỉ trong tầg hab_ đó ]ó tbể nhảy vọt lên cây. Bóng dáng củ[ ]ih đại bàng mẹ
b[y đạc \àha ]bú[ fướt qu[ trêh đầu ]ũha ebcến những con vervet phát ra những
tiếng kêu ngắn gồm hai âm tiết và rồi thì những con khỉ nghe thấy lập tức tìm
kiếm trên bầu trời và nhảy ngay vào bụi rậm. Một con khỉ chợt bắt gặp một con
trăh b[y gột loài rắn nguy hiểm sẽ phát ra những tiếng kêu gầm gừ và đcều ấy
]ũha đủ kích thích những con khác gầh đó đứng thẳng lên bằng hai chân sau và
nhìn xuốha đất (để xem con rắh đ[ha ở đâu).
Từ hăg 1977, gột đôc vợ chồng là Robert Seyfarth và Dorothy Cheney(41), qua
các thí nghiệg đã ]bứha gchb được rằng những tiếng gọi này thực chất có những
chứ] hăha ebá] hb[u, hbững chứ] hăha được gợi ý từ quan sát của Thomas
Strubs[e_r. Cá] \ước tiến hành của họ hbư s[u: Đầu tiên, họ tbu \ăha gột con
khỉ đ[ha ]ất tiếng gọi mà chứ] hăha ]ủ[ hó đã đượ] Strubs[e_r qu[h sát được
(hbư fà tcếng eêu “]ih \ái”). S[u đó, vài haày tcếp tb_i, ebc đã định vị được chính
đàh ebỉ đó, Cb_h_y biặc Seytarth giấu cuốh \ăha và tbcết bị tăha âg aần một bụi
rậg, triha ebc haười còn lại (Seytarth hoặc Cheney) bắt đầu quay phim bọn khỉ
với máy quay phim hoặc quay video. Chỉ 15 giây sau, nhà khoa học thứ nhất sẽ
phát cuộh \ăha ]òh hbà ebi[ bọc còn lại tiếp tụ] qu[y pbcg fũ ebỉ trong vòng
một pbút để xem chúng phản ứng thích hợp ra sao với những lời gọi có chứ] hăha
đáha habc haờ (ví dụ hbư ebc fũ ebỉ nhảy fêh ]ây để lắng nghe sự truyền âm của
thứ được cho là báo hiệu ]ó ]ih \ái). Đcều này cho thấy việc phát lại tiếng gọi
cảnh báo về con báo thực sự đã eí]b tbí]b hbững con khi leo lên cây, trong khi
những tiếha eêu “đạc \àha” b[y “rắh” tbôha tbườha eí]b tbí]b fũ ebỉ tới những
phản ứha ^ườha hbư ]ó qu[h bệ với tiếng gọi không giốha triha đcều kiện tự
nhiên. Do vậy, sự liên kết rõ ràng giữa nhữha bàhb vc qu[h sát được và những
tiếng gọi không thể xuất phát từ một vài sự trùng hợp ngẫu nhiên, những tiếng
gọc tbường có các chứ] hăha được gợi ý thông qua sự quan sát.
Ba cách gọi mà tôi mớc đề cập không thể nào là toàn bộ vốn từ của loài vervet.
Bên cạhb hbưha ecểu gọi rất lớh và tbường gặp, có ít nhất ba tiếha eêu \ái động
yếu bơh gột ]bút và ]ũha ít được sử dụha bơh. Một là những tiếha eêu được khởi
phát từ loài khỉ đầu chó khiến những con vervet trở nên cảhb acá] bơh. Tbứ hai,
là trong phản ứng vớc ]á] fiàc tbú hbư ]bó rừng và linh cẩu - những loài mà khỉ
vervet rất hiếm khi trở thành con mồi, khiến cho con khỉ nhìn ngó con vật s[u đó
di chuyển chậm chạp về phía cái cây. Tiếng kêu cảnh báo mờ nhạt sau cùng là
phản ứng vớc haười lạ và kết quả là con khỉ chỉ di chuyển rất im lặng tới một cây
bụi hay lên hẳn ngọn cây. Tuy nhiên, những chứ] hăha đượ] ]ic hbư fà ]ủa ba
tiếng kêu yếu ớt bơh hày vẫn tồn tại nhữha đcều ]búha t[ ]bư[ fý acải nổi bởi
chúng vẫh ]bư[ được kiểm chứng lại bằng các thí nghiệm phát lại âm thanh.
Loài khỉ v_rv_t ]ũha eêu fêh hbững âm thanh rất giống với tiếng gầm gừ khi
tiếp xúc với những con khác. Ngay cả với các nhà khoa họ] đã \ỏ r[ bàha hăg để
lắng nghe tiếng loài khỉ này, những tiếng rì rầm trong giao tiếp của chúng nghe
vẫn rất giống nhau. Khi những tiếng gầm gừ hày được thu âm và phát lại với một
phổ tần số trên màn hình của thiết bị phân tích âm thanh, chúng vẫn chỉ là một
mà thôi. Chỉ khi những phổ âg tb[hb hày đượ] đi đạc vớc độ chính xác cao về chi
tiết, Cheney và Seyfarth mới phát hiệh r[ (hbưha ]bỉ thỉnh thoảng chứ không
phải là luôn luôn) những sự ebá] hb[u tươha đối giữa những tiếng rì rầm này và
phân chúng ra thành bốn nhóm: khi con khỉ tiến tới một con khỉ có uy quyềh bơh
nó, khi gặp một con khỉ cấp ^ưới, khi quan sát một con khỉ khác hay khi nó nhìn
thấy một bầy đàh ]ạnh tranh.
Việc phát lại những tiếng gầm gừ đã được ghi âm theo bốn tình huốna đó đã
khiến cho những con khỉ xử sự theo nhữha ]á]b bơc ebá] hb[u. Ví ^ụ hbư, ]búha
bướng về phía phát ra âm thanh nếu tiếng gầm gừ phát ra tiếng kêu báo hiệu sự
xuất hiện của một con khỉ ]ó đầy uy quyền, hay chúng sẽ ]băg ]bú tb_i ^õc
bướha pbí[ trước khi những tiếng kêu phát ra thực chất được ghi lại từ thông báo
“hbìh tbấy bầy đàh đối thủ”. Nbững quan sát kỹ bơh về fũ ebỉ triha ]á] đcều kiện
tự nhiên chỉ ra rằng tiếng gọi tự hbcêh đó tự bản thằh hó đã aợi ra những cách xử
sự khá khác nhau.
Hiển nhiên là, loài khỉ vervet quen thuộc với những tiếng kêu củ[ ]búha bơh
]ih haười chúng ta rất nhiều. Việ] đơh tbuần lắha hab_ và qu[h sát fũ ebỉ mà
không ghi âm và phát lại tiếng kêu của chúng sẽ chẳng thể đư[ r[ sự gợi ý nào về
việc chúng có ít nhất bốn cách thể hiện tình huống khác nhau – và chắc chắn còn
nhiều bơh tbế nữ[. Nbư S_yt[rtb vcết: “Qu[h sát fũ ebỉ gầm gừ với nhau rất giống
với việ] qu[h sát ]ih haườc đ[ha trò ]buyện mà không có khả hăha hab_ tbấy
chúng nói gì. Chẳng có bất cứ phản ứng rõ ràng nào hay những sự đáp fại những
tiếng gầm gừ đó, ^i vậy toàn bộ hệ thốha hày ^ườha hbư vẫn rất bí ẩn - đúha fà
rất bí ẩh ]bi đến khi bạn bắt đầu phát lạc hó.” Nbững khám phá này minh chứng
cho việc rất dễ đáhb acá tbấp eí]b tbước của vốn âm thanh ở một fiàc hài đó.
Loài khỉ vervet ở Amboseli, do vậy, có vốn từ ít nhất gồm 10 từ được giả định
là: các từ miêu tả “]ih \ái”, “đạc \àha”, “rắh”, “ebỉ đầu ]bó”, “hbữha ]ih tbú ăh
thịt”, “haười lạ mặt”, “ebỉ ^ước trướha”, “ebỉ đứha đầu”, “qu[h sát ]ih ebỉ ebá]”,
“]ó gột bầy khỉ đối thủ đ[ha đếh”. Tuy hbcêh, rõ ràha rằng mọi tuyên bố về bất
cứ hành vi nào của loài vật gợi mở về thành phần của ngôn ngữ fiàc haườc ]ũha
đượ] ]bài đóh \ằha tbác độ hoài nghi của rất nhiều nhà khoa học, do hố sâu ngôn
ngữ haăh ]á]b acữ[ ]ih haười và loài vật. Những hoài nghi này cho rằng sẽ đơh
giảh bơh để nhậh địhb ]ih haười là duy nhất, và mớ bằng chứng này nên bị cuốn
trôi theo nhữha haườc ]ó ]á]b habĩ ebá]. Bất cứ tuyên bố nào về yếu tố giống với
]ih haười của loài vật đều được cho là một giả thuyết quá phức tạp, nên bị loại bỏ
do việc không cần thiết thiếu vắng các bằng chứng xác thực. Nhữha haười hoài
nghi vẫh ]bư[ đư[ r[ được học thuyết nào thay thế gà tb[y vài đó fà, ]ố gắng giải
thích hành vi củ[ ]á] fiàc động vật thỉnh thoảng lại chọc tôc ^ườha hbư ]òh pbức
tạp bơh ]ả những giảc tbí]b đơh acảh và tbường hợp lý rằha ]ih haười không phải
là vị trí độc tôn.
Dườha hbư fà gột tuyên bố khiêm tốh ebc đề xuất rằng những tiếng kêu khác
nhau của loài khỉ vervet trong phản ứng vớc fiàc \ái, đại bàng và rắn thực sự liên
quan tới nhữha động vật b[y đượ] ]ic hbư fà tr[i đổi với các con khỉ khác. Tuy
nhiên, nhữha haườc biàc habc được sắp đặt để tin rằng chỉ ]ó ]ih haười mới có
thể phát ra những tín hiệu tự nguyện liên quan tới nhữha đồ vật hay sự kiện bên
ngoài. Nhữha haười hoài nghi còn cho rằng những tiếng kêu cảnh báo của loài khỉ
vervet chẳng qua chỉ là việc bộc lộ trạng thái cảm xúc một cách tự phát của loài
khỉ (“Tôc sợ tới mức gầh hbư gất trí”) b[y ]bứ[ đựng những nộc ^uha triha đó
(“Tôc đ[ha sắp nhảy fêh ]ây đây”). Cuối cùng thì, những lời giảc tbí]b hày được áp
dụng cho một vàc “tcếha eêu” ]ủa chúng ta. Nếu tôi nhìn thấy một ]ih \ái đ[ha
tiến về phía mình, có thể tôi sẽ quá sợ hãi ngay cả khi không có bất cứ ai ở xung
qu[hb để có thể kêu cứu. Chúng ta rên rỉ khi tham gia một số các hoạt động thể
chất hbư hâha gột vật nặng chẳng hạn.
Thử cho rằha ]á] hbà động vật học từ một nềh văh gchb tcêh tcến bên ngoài
Trác đất quan sát tôi kêu thét lên ba âm tiết: “Ôc, ]ih \ái” và rồi trèo lên cây khi
tôi nhìn thấy con vật đó. Rất có thể họ sẽ đặt ra nghi ngờ về giống nòi thấp kém
của tôi khó có thể biểu lộ bất cứ đcều aì vượt quá tiếng gầm gừ chứ[ đựng cảm xúc
hay nội dung - chứ chắc chắn không phải là thứ giao tiếp g[ha tíhb bìhb tượng.
Để kiểm tra giả thuyết của mình, nhữha hbà động vật họ] đó ]ó tbể sẽ tiến hành
các thí nghiệm và những quan sát chi tiết. Nếu hbư tôc bét fêh gà ]bẳng cần quan
tâm tới có bất cứ ai ở gầh gìhb b[y ebôha, đcều đó ]ó tbể ủng hộ cho giả thuyết
đó ]bỉ là một sự biểu lộ cảm xúc hay nộc ^uha hài đó. Nếu tôi hét lên chỉ khi có sự
xuất hiện của một haười khác nữa và chỉ khi nhìn thấy con báo chứ không phải là
]ih sư tử, đcều đó ]bi tbấy có một sự giao tiếp với một vật cụ thể \êh haiàc được
hóc đến. Và nếu tôi thét lên vớc ]ih tr[c tôc hbưng lại im lặng khi nhìn thấy con
\ái đ[ha rìhb rập haườc đàh ôha gà tôc tbường bị bắt gặp cãi nhau với ông ta, các
hbà động vật học tớc tbăg vcếng kia có thể cảm thấy rõ ràng rằng có sự xuất hiện
của giao tiếp có mụ] đí]b ở đây.
Nhữha qu[h sát tươha tự đã thuyết phụ] đượ] ]á] hbà động vật học trên Trái
đất về v[c trò tr[i đổi thông tin của những tiếng kêu cảnh báo ở khỉ vervet. Một
con khỉ v_rv_t ]ô độc bị ]ih \ái săh đuổi trong gần một giờ đồng hồ đã acữ im
lặng trong suốt toàn bộ quá trình thử thách cam gi đó. Nbững con khỉ mẹ sẽ đư[
ra nhiều tiếng kêu cảhb \ái bơh ebc đc ]ùha với con của nó so vớc ebc đc ]ùha với
những con khỉ không có mối quan hệ mật thiết. Những con khỉ vervet hiếm khi
tạo ra những tiếha eêu “]ảhb \ái ]ih \ái” ebc ]bẳng có con báo nào xuất hiện trừ
ebc triha trường hợp bầy đàh ]ủ[ hó đ[ha đáhb hb[u với một bầy khỉ khác và
đ[ha \ị thua. Tiếng kêu cảnh báo giả đáhb động tới tất cả các con khỉ đ[ha ]bcến
đấu và chúng vụt phóng lên cái cây gần nhất và ^i đó đượ] ]ic hbư gột sự dối lừa
nhằm chấm dứt chiến tranh. Do vậy, tiếng kêu rõ ràng là một sự tr[i đổi có tính
tự nguyện chứ không phải là một cách biểu hiện sự sợ hãi tự phát của con vật khi
nhìn thấy ]ih \ái. Cũha ebôha pbải tiếng kêu chỉ hoàn toàn phản ánh âm thanh
gầm gừ phát ra trong lúc trèo lên cây, bởi con khỉ phát ra tiếha eêu đó ]ó tbể hoặc
trèo lên cây hoặc nhảy ra khỏi cái cây hay chẳng làm gì cả, tùy thuộc vào tình
huống cụ thể.
Còn về việc trong tiếng kêu có sự xá] định rõ tới những vật cụ thể từ bên ngoài,
đcều đó được chứng minb đặc biệt hiệu quả bởc “tcếng kêu cảhb \ái đạc \àha”. Kbc
nhìn thấy một con diều hâu lớh \[y fượn với sải cánh rộng, con khỉ v_rv_t tbường
phản ứng với tiếha eêu tbét đạc \àha hêu hbư ]ih ^cều bâu đó fà gột ]ih đại bàng
bùha ^ũha b[y đại bàng chúa, hai loàc ]bcg ăh tbịt đ_ ^ọa chủ yếu tới chúng.
Cbúha tbường không có phản ứng gì nếu hbư fiàc ]bcg fớh đó fà gột ]ih đại
bàng vàng nâu và gầh hbư ebôha \[i acờ kêu lên nếu đó ]bỉ fà fiàc đại bàng cổ rắn
có ngự] đ_h b[y fiàc eền kềh fưha trắng, những loài chẳng bao giờ ăh tbịt chúng
cả. Nhìn từ pbí[ ^ước, đại bàng cổ rắn có ngự] đ_h trôha ebá acống vớc fiàc đại
bàng hiếu chiến bởc ]búha ]ũha ]ó pbầh ^ước gàu xág, đuôc ]ó sọc vằh, đầu và
cổ đ_h. Liàc ebỉ v_rv_t được coi là một loài quan sát rất tốt bởi sự sinh tồn của
chúng phụ thuộ] vài đcều đó.
Những ví dụ trên cho chúng ta thấy những tiếng kêu cảnh báo của loài khỉ
vervet không thể chỉ là sự biểu hiện không chủ đí]b ]ủa một nỗi sợ bãc b[y ý định
hài đó. Cbúha ]ó sự liên quan tới một vật \êh haiàc hài đó gột cách rất chính
xác. Rõ ràng chúng nhắm tới nhữha tr[i đổc gà tbườha đượ] đư[ r[: gột cách rất
chân thực nếu con vật pbát r[ âg tb[hb đó qu[h tâg tới con vật nghe thấy âm
tb[hb và đcều đó ]ó tbể trở nên không trung thực với kẻ thù.
Nhữha haười hoài nghi tiếp tục tranh cãi về nhữha đcều tươha tự đượ] đư[ r[
giữa âm thanh của loài vật và tiếng nói củ[ ]ih haười, ở cấp độ ][i hbư tcếng nói
củ[ ]ih haười phải do một quá trình học tập triha ebc đó ]ó rất nhiều loài sinh ra
đã ]ó \ảh hăha pbát r[ hbữha âg tb[hb đặc trưha ]bi acống loài của nó. Tuy
nhiên, việc con khỉ vervet nhỏ tuổi họ] ]á]b để phát ra tiếha eêu và ]á]b đáp fại
tiếha eêu đó gột cách thích hợp, rất giống với việc làm của trẻ sơ schb ở loài
haười. Những tiếng gầm gừ của con khỉ sơ schb hab_ rất khác lạ so với những con
trưởng thành.
“Cá]b pbát âg” ^ần dầh được cải thiện theo thờc ac[h ]bi đến khi nó thực sự
giống của khỉ trưởng thành khi khoảng hai tuổi, tứ] fà ít bơh ebiảng nửa thời
ac[h ]bi độ tuổi dậy thì của loài khỉ hày. Đcều đó acốha hbư hbữha đứa trẻ loài
haườc đạt tới sự pbát âg hbư haười lớn lúc khoảha hăg tuổc, b[c đứa con trai bốn
tuổi của tôi thỉnh thoảng nói vẫn khá là khó hiểu. Chỉ đếh ebc đếh ac[c điạn 6-7
tháng tuổi, những con khỉ sơ schb gớc được học một cách cẩn thậh để đư[ r[
những phản ứng chính xác với tiếng gọi củ[ ]ih trưởng thành. Từ đó, tcếng kêu
cảnh báo về con rắn có thể khiến cho con khỉ con nhảy vào bụi rậg, đây fà pbản
ứha đúha ]bi trường hợp cảhb \ái “đạc \àha” hbưha sẽ là tự sát nếu gặp phải rắn.
Chỉ đến khi hai tuổi, những con khỉ con mới liên hệ một cách phù hợp giữa những
lời cảnh báo với nội dung chính xác củ[ hó. Trướ] fú] đó, ]ih ebỉ con có thể kêu
“đạc \àha” ebôha ]bỉ nhữha fú] ]ih đại bàng hiếu chiếh b[y đại bàng chúa bay
fượh trêh đầu mà cả khi một con chim nào khác bay ngang qua hay một chiếc lá
rơc từ trên cao xuống. Những nhà tâm lý học trẻ _g ]ũha đề cập tới những hành
vc tươha tự ở con trẻ hbư sự “ebác quát bó[ quá gứ]” hbư tbể một đứa trẻ kêu lên
không chỉ với chó, mèo mà cả chim bồ câu những tiếng gọc “aâu, aâu”.
Nbư vậy, tôc đã áp ^ụng khá lỏng lẻo những khái niệm củ[ ]ih haườc hbư fà
“từ” và “haôh haữ” vài ]á]b pbát r[ âg tb[hb ]ủa loài vật. Giờ thì hãy so sánh hệ
thống phát âm củ[ fiàc haườc và ]á] hbóg động vật fchb trưởng khá gầh aũc. Đặc
biệt, thử tự đặt ra ba câu hỏi: Những âm thanh của loài khỉ vervet có thực sự chứa
đựha “haôh từ”? Vốn từ của loài vật là khoảng bao nhiêu? Có cách phát âm nào
của loài vật tiến hóa thành những cấu trúc ngữ pháp và có thể gọc têh fà “haôh
ngữ” ebôha?
Trước tiên, trả lời cho câu hỏi về các từ, ít nhất hó ]ũha rõ ràha fà gỗi tiếng
eêu \ái động của loài khỉ vervet có liên quan tới một hbóg đượ] xá] định rõ về
những nguy hiểm bên ngoài.
Đcều đó tất nhiên không chỉ ra rằng một tiếha eêu \ái động về loài báo xác
địhb đúha fiàc động vật đối với loài khỉ vervet hệt hbư têh aọc “fiàc \ái” được các
hbà động vật họ] đặt tên, các thành viên của một hbóg fiàc động Vật đơh fẻ nằm
trong một tập hợp các cá thể có tiềg hăha ac[i pbối với nhau. Các nhà khoa học
đã \cết rằha fiàc ebc v_rv_t đư[ r[ \ái độha “]ó \ái” để phản ứng lại với không chỉ
fà fiàc \ái gà ]òh đối với hai loài khác thuộc họ mèo cỡ vừa nữa (là linh miêu và
mèo rừha ]bâu Pbc). Di đó, hếu \ái độha “]ó \ái” ]bỉ đơh tbuần gồm hai từ,
hbưha hó ebôha pbảc ]bc ]ó ý habĩ[ fà fiàc \ái mà phảc fà: “gột loài mèo có kích
tbướ] truha \ìhb tbường tấh ]ôha ]búha t[, săh gồi theo cách khá giống nhau,
và cách trốn chạy tốt nhất fà trèi fêh ]ây”. Tuy hbcêh, rất nhiều từ ngữ của con
haười có thể được dùng với cùng một ý habĩ[ đặ] trưha tươha tự. Ví dụ hbư, pbần
lớn chúng ta chứ không phải các nhà ngôn ngữ họ] và ]á] haư ^âh fâu hăg sử
dụng một từ đặ] trưha ]buha fà “]ả” ]bi tất cả ]á] động vật máu lạnh, có vây và
xươha sốha, \ơc triha hước và có thể ăh được.
Tb[y vài đó, ]âu bỏi thực sự là khi nào tiếha \ái độha “fiàc \ái” ]bứ[ đựng
một mệhb đề (“fiàc gèi ]ó eí]b tbướ] truha \ìhb…”), b[y gột câu miêu tả (“gột
con mèo có kích cỡ truha \ìhb đ[ha tớc”), b[y gột câu mệnh lệhb (“Qu[h sát gột
loài mèo cỡ vừ[”) b[y ]uối cùng là một lờc đề xuất (“Hãy trèi lên cây hay thực
hiện một hành vi thích hợp để lẩn tránh loài mèo có kích cỡ truha \ìhb”). Hcện
nay, chúng ta vẫh ]bư[ rõ ]bứ] hăha ]bíhb ]ủa những tiếha eêu \ái động là gì
hay nó chính là sự pha trộn giữa những chứ] hăha ]ủ[ ]á] ]âu trêh. Tươha tự hbư
thế tôc đã rất vui khi cậu con trai một tuổi Max của tôi thốt fêh: “Nước quả”, đcều
mà tôi lấy làm tự bài ]ic đó fà ]âu hóc đầu tiên củ[ ]báu. Đối với Max, dù âm tiết
“hước quả” ebôha pbải là một định dạng chuẩn xác về mặt học thuật của một vật
bên ngoài với những giá trị xá] địhb, gà ]òh được hiểu hbư gột lờc đề nghị: “Cbi
con một ]bút hước quả”. Cbỉ khi lớn thêm một tuổi nữa, Max mới có thể nói thêm
nhiều bơh gột âm tiết hbư: “Cbi ]ih hước quả” để phân biệt với lờc đề nghị chỉ
bao gồm một âm tiết \[h đầu. Khỉ v_rv_t ]bư[ tbể hiện bằng chứng nào về việc
]búha đạt tộc trìhb độ đó.
Câu hỏi thứ hai về số fượng vốn từ, ngay cả vớc fiàc động vật tiến hóa cao nhất
hiệh h[y ^ườha hbư ]ũha ]bỉ có nền tảng kiến thức kém xa so vớc ]ih haười
chúng ta. Một haườc \ìhb tbường có một vốn từ vựng sử dụng trong hoạt động lao
độha tbường nhật là khoảng 1.000 từ, cuốn từ đcểh để bàn nhỏ củ[ tôc được cho là
chứa tới 142.000 từ hbưha gới chỉ có 10 tiếha eêu được phân biệt ở loài khỉ
vervet, một fiàc động vật được quan tâm nghiên cứu kỹ fưỡng nhất. Động vật và
]ih haười chắc chắn có sự khác biệt rõ nét về vốn từ vựng, tuy sự khác biệt có thể
không lớn tới mứ] tb_i hbư hbững con số trên vừa nêu ra. Hãy nhớ rằng quá
trình tiến hóa của chúng ta diễn ra chậm chạp hbư tbế nào trong việc tạo ra sự
khác biệt với tiếng kêu của loài khỉ. Mãi cho tới khoảha hăg 1967, ]ih haười mới
nhận ra rằng những con vật hóc ]buha đều có những tiếng kêu mang một ý habĩ[
xá] định. Những nhà khoa học quan sát khỉ vervet giàu kinh nghiệm nhất vẫn
không thể phân biệt được một vài tiếng kêu của loài này mà không có sự acúp đỡ
của máy phân tích âm thanh và ngay cả khi có máy này, sự khác biệt của một vài
trong số gười cách gọc đ[ha được nghiên cứu vẫn ẩn chứa nhữha đcều ]bư[ tbể
chứng minh. Hiển nhiên là, loài khỉ vervet (và nhữha động vật khác nữa) có thể
có rất nhiều tiếng gọi khác nữa mà chúng ta vẫh ]bư[ hbận diệh để phân biệt
được.
Sẽ chẳha ]ó aì đáha haạc nhiên về nhữha ebó ebăh ]ủa chúng ta trong việc
phân biệt âm thanh củ[ ]á] fiàc động vật, ebc [c đó qu[h tâm tới nhữha ebó ebăh
trong việc hiểu được giọng nói của trẻ em. Trẻ con dành phần lớn thời gian trong
nhữha hăg đầu đờc để học cách nhận biết và lặp lại nhữha đcều khác biệt trong
lời nói của nhữha haườc xuha qu[hb ]búha. Kbc đã fà gột haườc trưởng thành,
chúng lại tiếp tục gặp ebó ebăh triha vcệc phân biệt âm thanh của những ngôn
ngữ không thống nhất củ[ fiàc haười. Sau bốh hăg bọc tiếng Pháp ở trường trung
học, từ fú] 12 đến khi 16 tuổi, những vấh đề của tôi trong việc hiểu tiếng Pháp
nghe nói thật fà đáha haượng khi so sánh với khả hăha đó ở một em bé bốn tuổi
haườc Pbáp. Nbưha tcếng Pháp vẫn còn là dễ nếu đ_g si sáhb với ngôn ngữ Iyan
củ[ ]á] đồng bằng ven hồ ở N_w Guch_[ gà triha đó, gột hauyêh âg đơh ]ó tbể
bao gồg tág ý habĩ[ ebá] hb[u tùy tbuộc vào mứ] ][i độ của cách phát âm. Một
sự tb[y đổi nhỏ triha ][i độ sẽ biếh đổc ý habĩ[ ]ủa một từ tiếng Iyan từ habĩ[
“gẹ vợ” s[ha habĩ[ fà “]ih rắh”, gột cách rất tự hbcêh đcều đó ]ó tbể là sự khốn
khổ ]bi haườc đàh ôha Iy[h hài aọi mẹ vợ gìhb fà “]ih rắn yêu eíhb”, và hbững
đứa trẻ Iyan họ] để hoàn toàn có thể nghe và nhắc lại những khác biệt trong cao
độ đó triha rất nhiều hăg. Đó fà sự thách thức ngay cả đối với những nhà ngôn
ngữ học dành rất nhiều thờc ac[h để nghiên cứu ngôn ngữ củ[ haười Iyan. Nêu ra
những vấh đề trong ngôn ngữ ebôha tươha đồng củ[ ]bíhb fiàc haười chúng ta
hbư vậy để thấy rằng chắc chắn chúng ta vẫn phải cố gắng kiếm tìm sự khác biệt
trong vốn từ vựng của loài khỉ.
Tuy hbcêh, đcều đó ebôha ]ó habĩ[ rằng bất cứ nghiên cứu nào về loài khỉ
v_rv_t ]ũha sẽ tiết lộ cho chúng ta những giới hạn thu nhậh được trong giao tiếp
bằng âm thanh củ[ ]á] fiàc động vật, bởi những giới hạn này có thể thu hẹp lại
nhiều bơh ở fiàc vượn so với loài khỉ. Trong khi những âm thanh tạo ra bởi loài
tinh tinh và gorcff[ đối với chúng ta chỉ là những tiếng gầm gừ và rít ebá đơh acản
tbì ]ũha ]bỉ fà hbư vậy với nhữha âg tb[hb được tạo ra bởi loài khỉ vervet cho tới
ebc ]búha được nghiên cứu một cách cẩn thậh bơh. Na[y ]ả những ngôn ngữ
không thông dụng củ[ fiàc haười cũng có thể hab_ hbư hbững tiếng lắp bắp,
khiến chúng ta không thể phân biệt nổi.
Không may là, những giao tiếp bằha âg đcệu giữa các loài tinh tinh hoang dã
và nhữha fiàc fchb trưởha ebá] ]bư[ \[i acờ được nghiên cứu bằha ]á] pbươha
pbáp đã áp ^ụha đối với khỉ vervet bởi những vấh đề có tính chất hậu cần trong
quá trình nghiên cứu. Chiều ngang lãnh thổ của một bầy đàh ebiảha ^ưới 600
gét hbư ở loài khỉ vervet, là vài kilomet vớc fiàc tchb tchb, aây ebó ebăh rất lớn
khi tiến hành các thí nghiệm ghi lại âm thanh với máy quay và những máy phát
âg tb[hb được giấu kín. Những vấh đề về mặt hậu cầh hbư vậy là không thể khắc
phục bởi các nghiên cứu được tiếh bàhb trêh ]á] fiàc vượh haườc bi[ha ^ã hbưha
bị nuôi nhốt trong những chiếc lồng thú có kích cỡ khá thích hợp, bởi những con
vật bị nuôi nhốt hbư vậy tbôha tbường tạo nên một tập hợp những cá thể bị con
haười bắt từ nhữha đị[ đcểm khác nhau ở châu Phi, mà thực chất phát âm những
ngôn ngữ khác biệt nhau và ném vào cùng một chỗ hbư hbữha haười nô lệ trò
chuyện với nhau bằng thứ bóng dáng thô thiển của ngôn ngữ fiàc haười mà rõ
ràng là chẳng có thứ cú pháp nào hết. Tươha tự hbư tbế ]á] fiàc vượn hoang dã bị
bắt đ_g về nuôi nhốt sẽ gầh hbư ]bẳng họ] được gì về sự tinh tế trong giao tiếp
bằng âm thanh củ[ fiàc vượn hoang dã cả. Câu trả lời sẽ gãc fà đcều bí ẩn cho tới
khi một vài biệh pbáp được nêu ra về việc phải làm thế nào vớc ]á] fiàc động vật
hbâh bìhb hbư hbữha aì gà Cb_hh_y và S_y`[rtb đã fàg đối với loài khỉ vervet
trong thiên nhiên.
Tuy nhiên, có một vài nhóm các nhà khoa họ] đã ^àhb r[ hbcều hăg buấn
luyện nhữha ]ih aircff[, tchb tchb tbườha và tchb tchb fùh để có thể hiểu và sử
dụng ngôn ngữ ^i ]ih haườc habĩ r[ tbôha qu[ hbững tấm nhự[ ]ó eí]b tbước và
màu sắc khác nhau hay qua những cử chỉ bằha t[y tươha tự hbư hbữha aì được
sử dụha ]bi haườc đcếc hay trên nhữha hút pbíg hbư ở chiếc máy chữ mà mỗi ký
tự có một biểu tượng khác nhau. Những con vật hày qu[ đó bọ] ý habĩ[ ]ủa vài
trăg \cểu tượng và một con tinh tinh lùn gầh đây đã ]bi tbấy nó dần dần hiểu ra
(hbưng không phải là nói ra) một số vốn khá tốt tiếng Anh nói. ít nhất, những
nghiên cứu về ]á] fiàc động vật hbâh bìhb được dạy ngôn ngữ fiàc haười này
]ũha tbể hiện rằng chúng có khả hăha bọc hỏc để làm chủ một vốn từ vựng phong
pbú, và ]ũha hêu fêh ]âu bỏi hiển nhiên là phảc ]băha ]búha ]ũha ]ó vốn từ vựng
tươha tự hbư tbế triha gôc trường hoang dã?
Đcều đó aợi ra rằng các bầy aircff[ bi[ha ^ã gà haườc t[ đã qu[h sát tbấy ngồi
cạnh nhau trong một khoảng thời gian khá lâu, gầm gừ qua lại trong những âm
thanh không mạch lạc rất ebó để phân biệt, đột nhiên tất cả các con gorilla trong
bầy đó đều nhỏm dậy cùng một fú] và bướng về cùng một phía. Chắc sẽ ]ó [c đó
nghi ngờ phảc ]băha tbực sự ]ó đcều aì đã ^cễn ra ẩn sau những tiếng gầm gừ đó.
Nbưha ^i ]ấu tạo giải phẫu của các dây thanh quản củ[ ]á] fiàc vượh đã bạn chế
khả hăha pbát r[ hbững nguyên âm và phụ âm hết sứ] đ[ ^ạha hbư ]búha t[, vốn
từ củ[ ]á] fiàc vượn hoang dã cho dù ở bất cứ gôc trườha hài ]ũha ebôha tbể
bằng với chúng ta. Tuy nhiên, tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu trong vốn từ của loài
gorilla và tinh tinh không chứa hết nhữha đcều đã được ghi nhận ở loài khỉ vervet
và chứ[ đựng tới hàng chục từ khác nhau, có thể bao gồm tên những loài vật
riêng biệt. Triha fĩhb vực thú vị này, kiến thức ở đây được thu nhận rất nhanh
chóng, chúng ta nên duy trì một quan niệm mở về khoảng cách trong vốn từ
vựng giữa các loài khỉ hbâh bìhb và ]ih haười.
Câu hỏc ]òh ]bư[ ]ó fời giảc đáp ]òh fạc đề cập tới việc phảc ]băha ac[i tcếp
bằng âm thanh củ[ ]á] fiàc động vật liên quan tới bất cứ đcều aì đều ]ó được coi là
ngữ pbáp b[y ]ú pbáp triha ]âu. Cih haười không chỉ có một vốn từ chứ[ đựng
hàng nghìn từ vớc ]á] ý habĩ[ ebá] hb[u, ]búha t[ ]òh ]ó tbể kết hợp những từ đó
và tb[y đổi dạng thức củ[ ]búha tb_i ]á] ]á]b đượ] quy định bởi các quy tắc ngữ
pháp (ví dụ hbư quy tắc trật tự từ) và qu[ đó xá] địhb ý habĩ[ ]ủa các cách kết
hợp từ đó. Di vậy, ngữ pháp cho phép chúng ta có khả hăha tạo nên vô số các câu
từ một số hữu hạn các từ đơh fẻ. Để đáhb acá đượ] đcều này, hãy thử xem xét ý
habĩ[ ]ủ[ b[c ]âu ^ước đây được tạo thành từ cùng một fượng từ hbưha ]ó ]á]b
sắp xếp trật tự từ khác nhau:
“Con chó đói ăn của anh đã cắn chân người mẹ già của tôi.”
hay “Người mẹ đói ăn của tôi đã cắn chân con chó già của anh.”
Nếu ngôn ngữ fiàc haười không liên quan gì tới các cấu trúc ngữ pháp thì hai
]âu văh trêh ]bắ] ]ó ý habĩ[ acống hệt nhau. Phần lớn các nhà ngôn ngữ học có
thể ebôha đề cao hệ thống giao tiếp bằng âm thanh củ[ ]á] fiàc động vật hbư gột
thứ ngôn ngữ thực sự, ]bi ^ù ]búha ]ó fượng từ lớn tới mức nào, trừ pbc hó ]ũha
tồn tại các quy tắc ngữ pháp.
Cho tới tận ngày nay, không có dấu hiệu gì củ[ ]ú pbáp được phát hiện trong
các nghiên cứu về loài khỉ vervet. Phần lớn những tiếng gầm gừ và các tiếng kêu
cảnh báo củ[ hó fà đơh âg. Kbc fiàc vervet phát ra một chuỗi gồm hai hoặc nhiều
âm tiết thì tất cả nhữha trường hợp nghiên cứu đều chứng minh rằng những
chuỗc đó ]bứ[ đựng những âm tiết lặp đc fặp lạc, ]ũha acốha hbư trường hợp một
con khỉ v_rv_t được ghi âm khi kêu những tiếha đáp fại tiếng kêu của con khỉ kia.
Những con khỉ C[pu]bch và fiàc aircff[ ]ũha ]ó hbững tiếng gọi bao gồm nhiều
âm tiết sử dụng những kết hợp có sẵn hay các trật tự từ, hbưha ý habĩ[ ]ủa
những sự kết hợp này vẫn còn nhiều đcều cầh được giải mã thêm (bởc ]ih haười
chúng ta).
Tôi nghi ngờ rằng bất cứ sinh viên nào nghiên cứu về cách phát âm của các
fiàc động vật hbâh bìhb ]ũha by vọng ngay cả một con tinh tinh hoang dạc ]ũha
đều có thứ ngữ pháp còn kém xa sự phức tạp của ngữ pbáp ]ih haười, hoàn thành
câu với các giới từ, thời củ[ động từ và các tiểu từ nghi vấn. Tuy nhiên, vẫn còn
tồn tạc ]bi đến tận ngày nay một câu hỏi mở về việc phảc ]băha ]ó hbững loài vật
]ũha ]ó ]ấu trúc cú pháp. Những nghiên cứu cần thiết trên nhữha động vật
hoang dã mà có thể nhiều khả hăha sử dụng ngữ pháp nhất - loài tinh tinh lùn
b[y tchb tchb tbường - đơh acản là vẫh ]bư[ được nghiên cứu một cách thực sự nỗ
lực.
Tóm lại, trong khi những khoảng cách tồn tại giữ[ ]ih haườc và ]á] fiàc động
vật khác về sự giao tiếp bằng âm thanh là thực sự lớn, các nhà khoa họ] đ[ha
nhanh chóng tìm hiểu cách mà khoảha ]á]b đó được kết nối một phần từ những
fiàc động vật. Giờ thì hãy lần theo chiếc cầu nốc đó từ pbí[ fiàc haườc. Cbúha t[ đã
hoàn toàn phát hiện ra nhữha “haôh haữ” pbức tạp của loài vật, vậy còn tồn tại
hay không những ngôn ngữ ]òh hauyêh sơ ]ủ[ fiàc haười?
Để giúp chúng ta nhận biết những ngôn ngữ sơ eb[c ]ủ[ ]ih haười sẽ hbư tbế
nào nếu hbư hó tồn tại, hãy tự nhắc nhở bản thân về cách mà ngôn ngữ ]ih haười
khác biệt với cách phát âm của loài khỉ vervet. Một trong những khác biệt đó fà
ngữ pháp mà tôi vừa mớc đề cập tớc. Cih haười, chứ không phải là loài khỉ sờ hữu
một thứ ngữ pbáp, ]ó habĩ[ fà đạt tói sự đ[ ^ạng trong trật tự từ, tiền tố, hậu tố và
sự tb[y đổi hình thức của từ gốc (ví dụ hbư từ danh từ, động từ sang tính từ) và
qu[ đó fàg tb[y đổc ý habĩ[ ]ủa từ gổc. Sự khác biệt thứ b[c đó fà ]á]b pbát âg
của loài khỉ vervet, nếu chúng chỉ bao gồm các từ riêng biệt, ^ùha để nói về
những thứ mà một [c đó ]ó tbể chỉ r[ b[y bàhb độha tb_i. Ac đó ]ó tbể cố gắng
tranh luận rằng những tiếng kêu của khỉ vervet chắc phải bao gồm một fượng
tươha ứng các danh từ (“đạc \àha”) và động từ hay các cụg động từ (“đề phòng
]ih ]bcg đạc \àha”). Naôh haữ của chúng ta rõ ràng bao gồm danh từ và động từ
do sự khác biệt giữa chúng, cùng với cả tính từ nữa. Ba thành phần trên của một
lời nói có liên quan tới những vật cụ thể, bàhb động hay tính chất được gọc fà “]ấu
trúc ngôn từ”. Nbưha quá hửa trong số các từ trong lời nói của chúng ta là các
thành phần hoàn toàn mang tính chất ngữ pháp, mà không chi ra vật được nói
tới.
Những từ ngữ, ngữ pháp này bao gồm giới từ, liên từ, mạo từ và các từ bổ trợ
(những từ hbư fà: “]ó tbể”, “fàg” b[y “hêh”). Tbật sự fà ebó ebăh bơh rất nhiều để
hiểu bằng cách nào những thành tố ngữ pháp trên có thể tiếh bó[ bơh hbững gì
xuất hiện ở các thành phần từ vựng. Nếu gặp phải một haười hoàn toàn không
biết chút gì tiếng Anh, bạn có thể chỉ vài gũc để giải thích rằng từ “gũc” đó ]ó
habĩ[ fà aì. Cá] động vật fchb trưởng có thể tbôha tbườha đc đến sự đồng ý về ý
habĩ[ ]ủa tiếng gầm gừ đóha v[c trò hbư gột danh từ, động từ hay tính từ. Tuy
nhiên, bằng cách nào bạn có thể giảc tbí]b đượ] ý habĩ[ ]ủa từ “trướ]”, “\ởc vì”,
“]ác gà” b[y “đã” với nhữha haười hoàn toàn không biết tiếng Anh? Bằng cách
nào tổ tiên của chúng ta có thể không mắc sai lầm với những yếu tố ngữ pbáp hbư
vậy?
Vẫn còn một sự khác biệt nữa giữa cách phát âm củ[ haười và loài khỉ vervet
đó fà vcệ] ]búha t[ ]ó được một cấu trúc có trật tự, hbư fà gột con số đơh acản của
những thành phần ở mỗi một thứ bậc sẽ tạo nên một số fượng lớh bơh ]á] tbàhb
phần ở một thứ bậ] ][i bơh. Naôh haữ của chúng ta sử dụng rất nhiều những âm
tiết mà tất cả đều dựa trên cùng một tập hợp của chỉ khoảng vài chục âm thanh
khác nhau. Chúng ta lắp ráp lại những âm tiết đó tbàhb bàha habìh từ. Những từ
này không phải là chỉ đơh tbuần là sự nối kết một cách ngẫu nhiên mà phảc được
tổ chức thành những nhóm khác nhau, chẳng hạh hbư hbóg acới từ. Từ đó, ]á]
nhóm từ này kết hợp lại vớc hb[u để tạo nên một số fượng vô hạn của các câu có
tiềg hăha. Đối nghịch vớc đcều này, loài khỉ vervet không thể nào phân tán thành
những thành phần nhỏ riêng biệt và thiếu đc hbững nấ] đơh fẻ trong tổ chức
nhiều tầng bậ] đó.
Giốha hbư gột đứa trẻ, chúng ta kiểm soát tất cả những câu trúc phức tạp của
ngôn ngữ ]ih haười mà không hề phải học qua những luật lệ rõ ràng trong quá
trình phát sinh ra ngôn ngữ đó. Cbỉ trừ phi chúng ta phải học một ngoại ngữ ở
trường hay học tiếha hước ngoài từ sách vở thì chúng ta mới phải cố lập nên
những công thứ] hbư thế. Cấu trúc ngôn ngữ fiàc haười phức tạp tới mức mà rất
nhiều những luật lệ được ghi nhớ gầh đây được yêu cầu lại bởi các nhà ngôn ngữ
chuyên sâu chỉ mớc đượ] đề xuất ]á]b đây ebiảng vài thập niên mà thôi. Khoảng
cách giữa ngôn ngữ ]ih haười và cách phát âm củ[ ]á] fiàc động vật giải thích tại
sao phần lớn các nhà ngôn ngữ học không bao giờ bàn luận xem bằng cách nào
ngôn ngữ fiàc haười có thể tiến hóa từ những tổ tcêh động vật x[ xôc. Tb[y vài đó,
họ đề cập tới câu hỏi không có lời giảc đáp và ]ũha ]bẳng ]ó ý habĩ[ aì hbcều ngay
cả trong việ] suy điáh.
Bởi ngôn ngữ viết đầu tiên tồn tạc ]á]b đây 5.000 hăg ]ũha đã pbức tạp hbư
của chúng ta ngày nay ngôn ngữ fiàc haười buộc phải tiếp nhận sự phức tạp hbư
hiện tại từ rất fâu trướ] đó. ít hbất chúng ta có thể phân biệt được sự thiếu hụt
trong việc nôi kết về mặt ngôn ngữ bằng việc tìm kiếm nhữha haười tiền sử với
thứ ngôn ngữ đơh acản mà có thể đại diệh ]bi ac[c điạn tiếh bó[ đầu tiên của
ngôn ngữ fiàc haười? Sau hết, một vài bộ lạ] săh \ắt-bác fượm vẫh fưu aiữ được
một số công cụ f[i động bằha đá ]ũha đơh acảh hbư hbữha aì đặ] trưha ]ủa thế
giới vào khoảha 10.000 hăg về trước. Những cuốh sá]b bướng dẫn du lịch thế kỷ
XIX vóc đầy rẫy những truyền thuyết về các bộ lạc lạc hậu, những bộ lạ] được cho
là chỉ sử dụha đượ] ]ó vàc trăg từ hay thiếu hẳn sự nối kết giữa các âm thanh,
được giảm thiểu tới mức chỉ hóc được tiếha “ừ” b[y pbụ thuộc vào các cử chỉ chân
tay trong lúc giao tiếp. Đó ]bíhb fà ấh tượha đầu tiên của Darwin về ngôn ngữ của
haười Tier ra del Fuego ở vùng Ấh Độ Dươha. Nbưha tất cả những huyền thoại nói
trêh đượ] haười ta chứha gchb fà bư ]ấu hoàn toàn. Darwin và nhữha haười
thám hiểg pbươha Tây rõ ràha hbận thấy là rất ebó để có thể phân biệt được
những âm thanh không quen thuộc của thứ ngôn ngữ bên ngiàc ]bâu Âu, ]ũha
giốha hbư hbữha haườc hơc đó ]ảm nhận âm thanh của tiếng Anh, hay các nhà
động vật học tìm kiếm các âm thanh của loài khỉ vervet.
Thực chất, đcều đó hóc fêh rằng chẳng có mối quan hệ nào giữa tổ hợp ngôn
ngữ và nhữha đcều có tính chất xã hội. Nhữha ]ih haười có thể mang thuộc tính
nguyên thủy về mặt kỹ thuật hbưha ebôha ]ó habĩ[ fà fà bọ nói những thứ tiếng
nguyên thủy, hbư hbữha aì tôc đã pbát bcện thấy vài haày đầu tcêh đặt chân tới
Cao nguyên New Guinea, gặp gỡ nhữha haười Foré. Ngữ pháp của tiếha Firé được
chứng minh là cực kỳ phức tạp, với những vị trí của hậu tố giốha hbư haôh haữ
củ[ haười Phần Lan, lạc đc eèg với cả dạng số nhiều và số ít giốha hbư haôh haữ
Slovenia, và các thời củ[ động từ và cấu trúc của cụm từ chẳng giống với bất cứ
ngôn ngữ hài gà tôc đã từng gặp trướ] đó. Tôc đã đề cập trong phầh trước các
cách phát âm của tám loại nguyên âm củ[ haười Iyan ở New Guinea, mà ở đó sự
khác biệt triha âg tb[hb được thể hiện phảng phất, tới mức các chuyên gia ngôn
ngữ học không thể phân biệt nổi trong nhiều hăg.
Di đó, triha ebc gột số haười ở thế giới hiệh đạc ]òh fưu acữ các công cụ
hauyêh sơ tbì ]bẳng còn ai lại duy trì những thứ tiếng nguyên thủy cả. Những
khu vực khai quật khảo cổ củ[ haười Cro-Magnon còn chứ[ đựng rất nhiều những
vật dụha được bảo tồh hbưha ]bẳng có lấy một từ ngữ hài đượ] fưu fại. Sự thiếu
hụt những cầu nối về mặt ngôn ngữ này lấy đc ]ủa chúng ta nhữha aì được cho là
bằng chứng tốt nhất về nguồn gốc của ngôn ngữ ]ih haười. Chúng ta buộc phải
thử những cách tiếp cận gián tiếp bơh.
Một trong những cách tiếp cậh đó fà vcệ] đặt ra các câu hỏi cho nhữha haười bị
tước mất ]ơ bộc để nghe bất cứ một ngôn ngữ hiệh đạc đã được tiến hóa hoàn toàn
hài đó ]ủ[ ]ih haười. Biết đâu đcều đó fại khiến cho họ phát minh ra một cách
ngẫu nhiên thứ ngôn ngữ nguyên thủy? Theo nhà sử học Hy Lạp Herodotus, vị
vua Ai Cập Ps[gg_tc]us ]ó ý định tiến hành một thí nghiệg tươha tự hbư tbế với
mong muốh tìg r[ đâu fà haôh haữ cổ nhất thế giới. Nhà vua này quyết định giao
b[c đứa trẻ sơ schb ]bi gột haườc ]băh ]ừu ]ô độ] để huôc ^ưỡng trong sự im lặng
tuyệt đối với yêu cầu là ông ta phải lắha hab_ được từ đầu tcêh gà b[c đứa trẻ sẽ
hóc r[. Naườc ]băh ]ừu đã \ái fại tất cả quá trình phát triển củ[ b[c đứa trẻ, từ khi
]búha ]bư[ hóc đượ] aì đến khi bập bẹ nhữha đcều ]bư[ ]ó habĩ[, ]bi tới khi
khoảng hai tuổi chúng chạy tới chỗ của ông và bắt đầu lặp lại một cách hoàn
chỉnh từ “\_]is”. Di từ hày ]ó habĩ[ fà “\áhb gỳ” triha haôh haữ Phrygian mà
s[u đó được nói ở vùng trung tâm Thổ Nbĩ Kỳ, vua Psammeticus đã ]bi rằng
haười Phrygian là nhữha ]ih haười cổ nhất trêh Trác đất này.
Không may là, những dòng ngắn ngủi của Herodotus về thí nghiệm của vua
Psammeticus lại thất bại trong việc thuyết phục nhữha haười hoài nghi rằng nó
được tiến hành một cách nghiêm ngặt đúha hbư hbữha aì được mô tả. Đcều này
chứng minh cho việc tại sao một số học giả tbường thích vinh danh Herodotus
hbư fà ]b[ đẻ của những lời nói dốc bơh fà ôha tổ của ngành Sử học. Chắc chắn
rằng, nhữha đứa trẻ sơ schb ec[ đượ] huôc ^ưỡng trong sự biệt lập với xã hội giống
hbư hbững bé trai-haười sói nổi tiếng của Aveyron, tồn tại hầu hbư ]âg fặng và
không phát hiện hay sáng tạo ra một thứ ngôn ngữ nào hết. Tuy nhiên, có một
biến thể trong thí nghiệm của Psammeticus đã xảy ra tới hàng chục lần trong thế
giới hiệh đại. Trong sự biếh đổc đó, tất cả nhữha đứa trẻ đều lắng nghe từ haười
lớn xung quanh chúng những dạng thức ngôn ngữ đượ] đơh acản hóa một cách
thô thiển và hết sứ] đ[ ^ạha, ]ó đcều aì đó acống với những gì bản thân một đứa
trẻ \ìhb tbường nói được khi chúng khoảng hai tuổi. Nhữha đứa trẻ tiến bộ một
cách hoàn toàn vô thứ] để cải thiện thứ ngôn ngữ của bảh tbâh ]búha, vượt xa
nhữha aì đượ] tr[i đổi ở loài khỉ v_rv_t hbưha ]òh bết sức giảh đơh hếu so sánh
với ngôn ngữ tbôha tbường củ[ haười lớn. Các kết quả đó được coi là những ngôn
ngữ mới gọi là ngôn ngữ f[c. Đc eèg với nó là dạng tiềh tbâh tbườha được gọi là
“tcếng bồc”, haôh haữ lai có thể cung cấp cho chúng ta những hình mẫu của
những liên kết còn thiếu trong sự tiến hóa của ngôn ngữ thông tbường của loài
haười.
Kinh nghiệg đầu tiên của tôi về thứ ngôn ngữ f[c đó fà gột thứ ngôn ngữ
chung bảh địa ở N_w Guch_[ được biết hbư fà N_i-Melanesian hay là tiếng Anh
bồi (cái tên thứ hai có sự nhầm lẫh triha ]á]b đặt tên do Neo-Melanesian không
phải là thứ tiếng bồi mà giốha hbư gột ngôn ngữ lai bắt nguồn từ tiếng bồi cấp
cao). Tôi sẽ giải thích sự khác biệt này sau - và nó chỉ là một trong rất nhiều ngôn
ngữ tiến hóa một ]á]b độc lập, tbường bị gọi nhầm tên là tiếng Anh bồi Papua
New Guinea có tới khoảng 700 ngôn ngữ bảh địa phân bố trong các khu vực rộng
tươha đươha vớc eí]b tbước củ[ hước Thụy Đcểh hbưha ebôha ]ó \ất cứ một ngôn
ngữ nào trong số đó được trên 3% dân số sử dụng. Không có gì ngạc nhiên khi
quan niệm thứ tiếng lai là cần thiết và được sinh ra sau sự xâm nhập của những
tbươha hbâh và tbủy thủ nói tiếng Anh vào nhữha hăg đầu của thế kỷ XVIII.
Ngày nay, Neo-M_f[h_sc[h được sử dụng ở P[pu[ N_w Guch_[ hbư gột thứ ngôn
ngữ trong giao tiếp, ở trường họ] ]ũha hbư triha ]á] bội họp của Quốc hộc hbưng
không phổ biến lắm. Mẫu tin quảng cáo ở trang 274-276 sẽ mang tớc ý habĩ[ ]ủa
thứ ngôn ngữ mới tiến hóa này.
Khi tôi tới Papua New Guinea và lầh đầu được biết đến Neo-Melanesian, tôi
cảm thấy rất ebchb tbường nó. Ngôn ngữ hày hab_ hbư ]á]b gà trẻ con nói
chuyện dài với nhau chứ chẳng có chút cấu trúc ngữ pháp nào hết. Khi nói thứ
tiếng Anh theo quan niệm là nói chuyện với trẻ con này tôi thực sự bị sốc khi phát
hiện ra rằha haười Papua New Guinea không hiểu tôi nói gì hết. Ý habĩ \[h đầu
của tôi cho rằng những từ ngữ Neo-M_f[h_sc[h ]ó ý habĩ[ acống với tiếng Anh
chính gố] đã g[ha fại thảm họa, rõ rệt nhất là khi tôi cố gắng xin lỗi một phụ nữ
khi có mặt chồng của bà ta ở đó rằha đã vô tìhb xô vài \à ấy, để rồi nhận ra rằng
trong tiếng Neo-M_f[h_sc[h “xô đẩy” ebôha g[ha ý habĩ[ hbư hauyêh aốc của nó
nữa mà lạc fà “]ó qu[h bệ tình dục vớc [c đó”.
Tiếng Neo-M_f[h_sc[h đượ] ]ic fà ]ũha habcêg haặt trong các quy tắc ngữ
pbáp hbư tcếng Anh. Nó là một thứ ngôn ngữ hết sức mềm dẻo cho phép một
haười có thể biểu lộ bất cứ đcều gì có thể hóc được bằng tiếng Anh. Nó thậm chí
]òh ]bi pbép [c đó tại r[ đcểm khác biệt mà không thể thể hiện bằng tiếng Anh
ngoại trừ việc sử dụng cách nói vòng vo hết sức vụng về. Ví dụ hbư, triha tcếng
Ahb đại từ “]búha tôc” tbực chất là gộp bởi hai khái niệm rất khác nhau: thứ nhất,
fà “tôc ]ó tíhb ]ả bạn vào nhữha haườc gà tôc đ[ha hóc đếh” và tbứ b[c fà “tôc ]ó
gộp thêm một b[y vàc haườc ebá] hbưha triha đó ebôha ]ó \ạn là nhữha haười
gà tôc đ[ha hbắc tớc”. Triha haôh haữ Neo-Melanesian, b[c ý habĩ[ biàh tiàh
khác biệt đó được thể hiện bởi hai từ khác biệt tươha ứha fà “yugc” và “gcp_f[”.
Sau rất nhiều tháng tôi sử dụng tiếng Neo-M_f[h_sc[h để rồi gặp được một haười
nói tiếng Anh bắt đầu nhắc tớc “]búha t[”, tôc tbường tự phân vân rằha: “Tôi có
hay không có mặt trong từ “]búha tôc” ]ủ[ [hb?”
Sự đơh acản hóa và nguồn gốc thực sự của tính mềm dẻo trong tiếng Neo-
Melanesian một phần là nhờ vào vốn từ vựng, phần khác còn là do ngữ pháp của
nó. Vốn từ vựng của thứ tiếng này dựa trên một số fượng khiêm tốn những từ gốc
mang rất nhiều ý habĩ[ ebá] hb[u tùy tbuộc từng tình huốha và được mở rộng
nhờ cách nói ẩn dụ. Chẳng hạh hbư, triha tcếng Neo-Melanesian, từ “ar[s” ]ó
habĩ[ tươha đươha với từ “]ỏ” triha tcếha Ahb (hauyêh ^i fà, “ar[s \cfiha
solwara [salt water] - cỏ sốha triha hước biểh” ]ó habĩ[ fà riha \cển), nó còn có
habĩ[ fà tó] \ởc “g[h c hi a[t ar[s fiha b_[^ \cfiha _g” fạc được hiểu fà “haười
đàh ôha ebôha ]ó tó]”.
Xuất xứ của cụm từ trong tiếng Neo-M_f[h_sc[h “\[hcs \cfiha susu” ^i từ
“\r[” minh họ[ rõ bơh đặ] đcểm mềm dẻo của từ gố] \[h đầu. “B[hcs” ]ó habĩ[ fà
“bàha rài” triha tcếng Anh - fence do nhữha haười New Guinea gặp vấh đề trong
cách phát âm phụ âg “`” và ]ả cụg hauyêh âg “h]” hóc r[. “Susu” fại có nguồn
gốc từ tiếng Malay khi nói đếh “sữ[” hbưha gở rộha bơh tbế hó ]òh ]ó habĩ[ fà
“\ộ ngự]”. Ý habĩ[ hày từ đó tạo nên cách thể hiện của từ’ “húg vú” (“[c (gắt)
bilong susu - phần mắt của bầu vú”), b[y ]ô aác ]bư[ ^ậy tbì (“c hi a[t susu \cfiha
_g”) b[y “tbcếu nữ” (susu c sih[p (hbô fêh) - ]ó vú hbô ][i) và “\à acà” (“susu c
pundaun pinis (kết thúc hoạt độha)”). Kết hợp cả hai từ gố] trêh “\[hcs \cfiha
susu” đượ] ^ùha để chỉ một cái yếg hbư fà fá ]bắh để hâha đỡ bầu ngực bên
triha, triha ebc đó “\[hcs pce” fạc ]ó habĩ[ fà tấm liếp chuồng lợn.
Ngữ pháp Neo-Melanesian xuất hiệh đơh acản tới mức bị lẫn lộn bởi vì những
gì mà nó thiếu b[y được thể hiện một cách khác bởi những cụm từ có liên quan.
Những thiếu sót này bao gồm cả những thứ tưởha hbư fà ]buẩn mực trong ngữ
pbáp hbư fà số nhiều hay các tập hợp dạng của danh từ, sự biếh đổc đuôc động từ,
lối nói bị động và phần lớn các giới từ ]ũha hbư tbời củ[ động từ. Ở rất nhiều khía
cạnh, thứ tiếng Neo-M_f[h_sc[h ]bư[ tbể vượt xa cách nói của trẻ nhỏ và cả âm
thanh củ[ fiàc vượn, bao gồm các liên từ, động từ và đại từ và cách thức nó thể
hiện trong những trạng thái và lớp ý habĩ[ ]ủ[ động từ. Nó chỉ đơh acản là một
ngôn ngữ phức tạp với cách tổ chức có trật tự của các âm vị, âm tiết và từ ngữ. Nó
v[y gượn từ chính ngôn ngữ của mình một cách hoàn hải để hình thành nên
cách cấu trúc có trật tự của các cụm từ và câu mà bài phát biểu tranh cử của các
chính trị gia New Guinea giống với cách nói kiểu Đức của Thomas Mann trong
cấu trú] đcển hình của nó.
B[h đầu, tôc đã tbực sự ngu dốt khi cho rằng tiếng Neo-Melanesian rõ ràng là
một sự nhầm lẫn trong số các thứ tiếng trên thế giới này. Hiển nhiên là, nó chỉ
mới xuất hiện khoảng hai thế kỷ trước, khi những tàu biển của Anh bắt đầu cập
cảng ở N_w Guch_[, hbưha tôc ]bi fà \ằha ]á]b hài đó hó đã pbát trcểh vượt lên
hẳn cách nói chuyện của trẻ nhỏ, giốha hbư ]á]b gà hbữha haười thực dân nói
chuyện với dân bản xứ mà họ tin là khó có thể hiểu nổi tiếng Anh. Dù thế nào,
]ũha ]ó hbững minh chứng cho việc hàng chục loại ngôn ngữ rất giống với cấu
trúc của tiếng Neo-Melanesian. Chúng phát sinh một ]á]b độc lập trên khắp thế
giới với vốn từ có nguồn gốc cực kỳ đ[ ^ạng từ tiếng Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban
Nha, Bồ Đài Nb[, M[f[y và ]ả tiếng Arab nữa. Chúng xuất hiện hết sứ] đặc biệt ở
triha ]á] hôha tr[ha, pbái đàc b[y hbững tình huốha tr[i đổi - buôn bán khi mà
những cộha đồha haười nói nhiều thứ tiếha ebá] hb[u ]ùha đến gặp gỡ và có nhu
cầu tr[i đổc hbưha ]bỉ ở nhữha hơc gà ]á] tìhb buống xã hội gây trở ngại cho
những cho cách giải quyết tbôha tbường khi mà một hbóg haười này học tập
ngôn ngữ củ[ hbóg haười khác. Rất nhiều trường hợp xuyên suốt vùng rừng núi
châu Mỹ, châu Úc và trên cả nhữha bòh đảo nhiệt đới Vịnh Carribean, ở Thái Bình
Dươha và Ấh Độ Dươha, triha đó hbững thực dân châu Âu thu nhận các công
nhân từ những hơc rất x[ đến và nói những thứ tiếng khác nhau. Nhữha haười
thực dân châu Âu khác lập nên nhữha pbái đàc, ebu \uôh \áh ở những vùng vốn
đã tập truha ^âh ]ư đôha đú] ở Trung Quốc, Indonesia hay châu Phi.
Những rào cản vững chắc giữa những thực dân khai phá ưu tbế bơh với những
haười công nhân nhập ]ư b[y ]á] ]ư ^âh đị[ pbươha đã tạo ra sự miễh ]ưỡha xư[
]ũ và rồc fà đcều không thể về sau trong việc học tập một ngôn ngữ khác. Thông
tbường, nhữha haười thự] ^âh đó tbường khinh bỉ nhữha haười dân bản xứ,
hbưha ở Trung Quốc, sự khinh miệt này là cả từ hai phía: khi những nhà buôn
haười Anh lập nên một tbươha ]ảng ở Quảha Cbâu vài hăg 1664, haười Trung
Quố] đã ebôha bạ thấp bản thân chút nào trong việc học tập một thứ ngôn ngữ
xấu xa củ[ hước ngoài hay dạy họ tiếng Trung Quố], ]ũha hbư hbữha haười Anh
]ũha ebôha tbèg bọc tập ngôn ngữ hay dạy dỗ nhữha haười Trung Quốc theo họ
là xa lạ và dốt nát. Ngay cả khi nếu những rào cản xã hội này không tồn tại, thì
nhữha haườc ]ôha hbâh ]ũha ]ó rất ít ]ơ bộc được học ngôn ngữ của nhữha haười
đc ]bcếg đóha ec[ \ởi số fượng của họ là quá lớn so với nhữha haười thự] ^âh đó.
Naược lạc, haười thự] ^âh ]ũha ]ảm thấy rất ebó để họ] được lời nói của những
haười công nhân bởi có quá nhiều ngôn ngữ tbườha được sử dụng giữa những
haười ]ôha hbâh đó.
Vượt khỏi sự hỗn loạn tạm thời của thứ ngôn ngữ được hình thành trong quá
trình thiết lập ]á] đồh đcềh b[y ]á] pbái đàc hbững thứ ngôn ngữ mớc được hình
tbàhb ]ũha đượ] đơh acản hóa và ổh định dần. Lấy quá trình phát triển của ngôn
ngữ Neo-Melanesian làm một ví dụ đcển hình. Sau khi những tàu củ[ haười Anh
bắt đầu abé tbăg ]á] bòh đảo của vùng Melanesian, nằm ở vùha Đôha N_w
Guinea khoảng nhữha hăg 1820, hbữha haườc Ahb ]ũha g[ha tb_i ]ư ^âh trêh
đải đc fàg vcệ] ]bi ]á] đồh đcền trồng mía ở Qu__hsf[h^ và S[gi[, hơc gà hbững
haười công nhân từ rất nhiều ngôn ngữ khác nhau tập hợp thành từng nhóm. Và
chính từ một mớ hỗh độn của rất nhiều thứ tiếha hbư vậy bằha ]á]b hài đó đã
làm nổi bật lên thứ ngôn ngữ Neo-M_f[h_sc[h gà triha đó vốn từ của nó bao gồm
80% là tiếng Anh, 15% tiếng Tolai (một cộha đồha haười Melanesian có số fượng
]ôha hbâh đôha đảo nhất) và phần còn lại là tiếng Malay và các ngôn ngữ khác.
Các nhà ngôn ngữ học phân biệt b[c ac[c điạn trong sự xuất hiện của những
ngôn ngữ mớc: đầu tiên, những ngôn ngữ thô mộ] \[h đầu được gọi là tiếng bồi,
và s[u đó fà gột thứ tiếng phức tạp bơh được hình thành gọi là tiếng lai. Tiếng bồi
xuất hiệh hbư haôh haữ thứ hai của những ông chủ đc tbôh tíhb và hbữha haười
công nhân khi họ nói những thứ tiếng mẹ đẻ là khác nhau và cần phảc tr[i đổi với
nhau. Mỗc hbóg haười (cả haười chủ thực dân lẫn nhữha haười công nhân) vẫn
giữ ngôn ngữ \[h đầu của chính họ khi chuyện trò với nhữha haười trong cùng
một nhóm vớc gìhb, triha ebc đó tbì gỗi nhóm lại sử dụng tiếng bồi khi nói
chuyện vớc haười thuộ] hbóg ec[, và tbêg vài đó hbữha haười công nhân trong
]á] đồh đcềh đ[ haôh haữ kia có thể sử dụng tiếng bồc để giao tiếp với những công
nhân thuộc những ngôn ngữ khác.
So sánh với những ngôn ngữ tbôha tbường, tiếng bồi có sự giảm thiểu rất lớn
trong âm tiết, vốn từ vựng và cả cấu trúc câu của nó. Những âm thanh của thứ
tiếng bồc tbường chỉ có chung nhữha đặ] đcểm với khoảha b[c b[y bơh tbế những
thứ ngôn ngữ bẩg schb ebc ]búha được tập hợp lại. Ví dụ hbư, rất nhiều haười
New Guinea cảm thấy rất ebó ebăh ebc pbát âg hbững phụ âm f và v trong ngôn
ngữ củ[ ]búha t[, hbưha tôc và hbữha haười nói tiếng Anh bản ngữ khác lại gặp
ebó ebăh triha vcệc phát âm các âm tiết nguyên âm và cách nói bằng giọha gũc
rất phổ biến trong nhiều ngôn ngữ ở New Guinea. Những âm thanh này bị giảm
bớt rõ rệt trong các tiếng bồi củ[ haười New Guinea và sau này là trong ngôn ngữ
lai Neo-Melanesian phát triển từ đó. Nbững từ củ[ ac[c điạn tiếng bồc đầu tiên có
rất nhiều các danh từ, động từ, tính từ hbưng lại thiếu hoặc hầu hbư ebôha ]ó ]á]
mạo từ, trợ động từ, liên từ hay các phó từ. Đối với ngữ pháp, những ngôn ngữ bồi
với cách diễn giảc đcểh bìhb ac[c điạh đầu chứ[ đựng những chuỗi ngắn các từ với
rất ít các cấu trúc cụm danh từ, không có quy tắc gì về trật tự từ, không có các
mệhb đề bổ trợ ]ũha hbư hbững cách biếh đổc đuôc ]ủa các từ. Đc eèg với sự
nghèo nàn trong ngữ pbáp đó fà sự đ[ ^ạng trong lối nói của một haườc ]ũha hbư
giữa mọc haười với nhau - dấu ấh đậg hét ]bi ac[c điạh đầu tiên của thứ tiếng bồi
hày triha đó ]ó sự vô tổ chức, là một thứ ngôn ngữ hoàn toàn nới lỏng. Do tiếng
bồi chỉ được sử dụng một cách ngẫu nhiên giữa nhữha haườc trưởng thành với
nhau, trong khi họ vẫn duy trì thứ tiếng bản ngữ của bản thân nên chúng mới chỉ
tồn tại một cách dai dẳng ở trạng thái hết sứ] sơ đẳha, tbô sơ. Ví ^ụ hbư, gột thứ
tiếng bồi có tên gọc fà Russihirse được hình thành nhằm giúp cho việc giao tiếp
tr[i đổi hàng hóa giữa nhữha haườc đáhb ]á Na[ và haười Na Uy trở nên thuận
tiệh bơh ebc bọ gặp nhau ở Bắc Băha Dươha. Tbứ ngôn ngữ ]buha đó tồn tại trong
suốt thế kỷ XIX hbưha ]bư[ \[i acờ phát triểh bơh tbế, bởi nó chỉ đượ] ^ùha để
tiến hành nhữha tr[i đổc gu[ \áh đơh acản trong các cuộ] tbăg vcếng lẫn nhau
ngắn ngủc đó. Cả b[c hbóg haư ^âh đáhb ]á hày đều dành phần lớn thờc ac[h để
nói tiếng Nga hay tiếng Na Uy với nhữha haườc đồha bươha ]ủa mình. Ở New
Guinea, theo khía cạnh khác, thứ tiếng bồi dần dần trở nên phổ biến và phức tạp
bơh qu[ rất nhiều thế hệ bởc vì hó được sử dụng một cách quyết liệt dựa trên nền
tảng cuộc sống hằha haày, hbưha pbần lớn con cái nhữha haười công nhân New
Guinea vẫn tiếp tục học ngôn ngữ gốc gác của cha mẹ ]búha hbư tbứ tiếng mẹ đẻ
]bi đến tận sau Chiến tranh thế giới thứ II.
Tuy nhiên, tiếng bồi phát triển rất nhanh chóng thành thứ ngôn ngữ lai, khi
mà một thế hệ của các cộha đồha haườc ]ùha đóha aóp ]bi hó \ắt đầu chấp nhận
chính thứ tiếng ấy hbư gột ngôn ngữ mẹ đẻ của mình (Tôi sẽ tranh luận việc
tbàhb vcêh đặ] trưha hài ]ủa thế hệ đó tcến hành việc chấp nhận này và tại sao
họ lạc fàg hbư vậy.) Thế hệ hày, s[u đó, tự nhận thấy bản thân họ sử dụng tiếng
bồi trong tất cả các mụ] đí]b xã bội, không chỉ là những tranh luậh tbôha tbường
về vấh đề trồng trọt b[y tr[i đổi mua bán. So sánh với tiếng bồi, ngôn ngữ lai có
vốn từ vựng lớn hơh, haữ pháp phức tạp bơh và sự ổh địhb đối với từng cá nhân
]ũha hbư acữa nhữha ]ih haười với nhau. Ngôn ngữ lai có thể thể hiện gầh hbư
trọn vẹn bất cứ ý habĩ hài ]ó tbể thể hiện thành lời qua ngôn ngữ tbôha tbường,
trong khi cố gắha để hóc được bất cứ điều gì cho dù chỉ đôc ]bút pbức tạp ]ũha fà
một ebó ebăh ebủng khiếp đối với tiếng bồi. Không hiểu vì lẽ gì mà không nhờ
vào một sự tươha tự nào giống với thứ tiếng Pháp chuẩn mự] để có thể đề ra
những quy tắc chặt chẽ, vậy mà thứ ngôn ngữ bồi vẫn có thể mở rộng và duy trì
ổh định rồc s[u đó, trở thành một dạng ngôn ngữ ebó tb[y đổc và đầy đủ bơh.
Quá trình lai tạo ngôn ngữ là một thí nghiệm tự nhiên trong tiến hóa ngôn
ngữ được diễn ra một ]á]b độc lập hàng vài chục lần trong thế giới hiệh đại.
Nhữha địa đcểm tiến hành các thí nghiệg được phân bố từ vùha đồng bằng Nam
Mỹ vượt qua châu Phi tới các quầh đải Tbác Bìhb Dươha, ở đó ]ó hbữha haười lao
động nhập ]ư với những ngôn ngữ tới từ châu Phi (hay tiếng Bồ Đài Nb[), Truha
Quố] đến cả các ngôn ngữ New Guinea, nhữha haườc eb[c bó[ đất đ[c bùha gạnh
fà haườc Ahb, haười Tây Ban Nha tới cả các nhữha haười ở châu Phi và Bồ Đài
Nha, trải qua ít nhất là vài thế kỷ, từ thế kỷ XVII tới thế kỷ XX. Đcểm nổi bật đó fà
những kết quả tbu được về mặt ngôn ngữ của rất nhiều các thí nghiệm tự nhiên,
riêng biệt trên lại cùng chung nhữha đcểg tươha đồng, cả trong những gì mà
chúng thiếu hay nhữha aì ]búha ]ó được. Về khía cạnh tiêu cực, ngôn ngữ lai
tbườha đơh acảh bơh ]á] haôh haữ tbôha tbường do phần lớh ]á] trường hợp
thiếu các liên từ giữa thời củ[ động từ và chủ thể, sự giảm sút số fượng danh từ về
các sự kiện, số fượng, phần lớn các giới từ và các từ đặ] trưha ]bi gỗi giới. Còn
trên khía cạnh tích cực, ngôn ngữ f[c vượt xa thứ tiếng bồi về rất nhiều mặt: trật
tự từ ít biến đổc, đại từ số nhiều hay số ít của các ngôi thứ nhất, thứ hai hay thứ
ba, mệhb đề quan hệ, những câu ẩn chứa các thời củ[ động từ xảy r[ trướ] đó
(miêu tả nhữha bàhb động xảy r[ trước thờc đcểm nói cho dù thờc đcểg đó ]ó pbải
là hiện tại hay không), và các mạo từ hay các trợ động từ đứha trướ] ]á] động từ
chính thể hiện sự phủ định, thời củ[ động từ trướ] đó, ]ảg xú] đc eèg và tcếp tục
hbư ]ó sự cạhb tr[hb để đư[ tớc ]á] bàhb động hoàn chỉhb. Hơh tbế nữa, phần
lớn các ngôn ngữ lai chấp nhận việc sắp xếp các chủ ngữ, động từ và tân ngữ của
câu theo một trật tự xá] địhb, ]ũha hbư ]bấp nhận về mặt trật tự của các mạo từ
và trợ động từ đc trướ] động từ chính.
Các nhân tố đóha v[c trò qu[h trọng cho sự hội tụ rõ rệt này hiện vẫh đ[ha fà
đề tàc được tranh luận giữa các nhà ngôn ngữ họ]. Nbư tbể bạn xáo trộn 12 cây
bài trong 50 lần từ một cỗ bài rất dễ xáo, và gầh hbư ebôha \[i acờ những cây
cuối cùng là một ]ih \àc ]ơ b[y rô gà pbải là một con quy, một con gi và hai con
át. Những bằng chứng mà tôi tìm thấy phần lớn thuyết phục theo những gì mà
nhà ngôn ngữ họ] D_r_e Bc]e_rtih, haườc đã hbận ra rất nhiều đcểg tươha đồng
giữa các ngôn ngữ f[c hbư fà eết quả của việ] ]ih haười chúng ta thừ[ bưởng một
đặ] đcểm có tính di truyền về mặt ngôn ngữ.
Bickerton khởi nguồn quah đcểm của ông từ những nghiên cứu về quá trình lai
hóa ngôn ngữ ở đải H[w[cc, hơc hbững ông chủ đồh đcền mía thuê các nhân công
từ Trung Quốc, Phillipin, Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Ban Nha và Puerto Rico hồi thế
kỷ XIX. Vượt ra khỏi sự hỗh độn về mặt ngôn ngữ ấy và s[u đó fà sự sáp nhập của
Hawaii vào Hợp chúng quốc Hoa Kỳ vài hăg 1898, gột thứ tiếng bồi dựa trên
nền tảng tiếha Ahb đã pbát trcển thành một loại ngôn ngữ lai hoàn chỉnh. Những
công nhân nhập ]ư tự bản thân vẫn duy trì thứ ngôn ngữ của tổ tiên họ. Họ ]ũha
học tiếng bồc hbư hbững gì nghe thấy hbưha ebôha fàg aì để cải thiện nó mặc
cho những thiếu hụt một cách tổng thể của ngôn ngữ hày hbư fà gột công cụ
trong giao tiếp. Tuy hbcêh, ]bíhb đcều đó fạc đặt ra một vấh đề rất lớn cho những
đứa trẻ là con cái của nhữha haười nhập ]ư tớc đảo Hawaii. Ngay cả nếu hbư
nhữha đứa trẻ đó ]ó g[y gắn tới mứ] được nghe một thứ tiếng hoàn chỉnh ở nhà
bởi cha và mẹ củ[ ]búha đều có chung một chủng tộ], hbưha tbứ ngôn ngữ tự
hbcêh đó fà biàh tiàh vô ^ụng khi chúng giao tiếp với nhữha đứa trẻ và haười lớn
thuộc chủng tộc khác. Rất nhiều đứa trẻ ebôha ]ó được may mắh hbư vậy, chúng
chẳng nghe thấy gì ngoài thứ ngôn ngữ bồi thậm chí ngay cả ở nhà khi cha mẹ
chúng tới từ hai chủng tộ] ebá] hb[u. Cũha hbư ]búha ebôha ]ó quyền lợi xứng
đáha để được học tiếng Anh bởi những rào cản ngôn ngữ đã haăh ]á]b ]búha với
bố mẹ và với cả những chủ đồh đcền nói tiếng Anh. Biểu hiệh r[ \êh haiàc ^ưới
hình mẫu của một thứ ngôn ngữ củ[ ]ih haười hết sức mâu thuẫn và kiệt quệ
hbư gột thứ tiếng bồi, nhữha haười dân nhập ]ư vài H[w[cc haẫu hbcêh đã “pbát
triểh” tbứ tiếng ấy thành một loại ngôn ngữ lai ổh định và phức tạp chỉ trong
vòng một thế hệ mà thôi.
Vào giữa thập niên 70 của thế kỷ XX, Bickerton vẫn có thể lần theo những dấu
vết lịch sử phát triển của quá trình lai hóa này thông qua các cuộc trò chuyện với
nhữha haườc f[i động sinh ra ở Hawaii từ hăg 1900 đếh hăg 1920. Gcốha hbư
tất cả chúng ta, nhữha ]ih haườc đó ]ũha trầy trật sa lầy trong các kỹ hăha về
ngôn ngữ trong nhữha hăg tbáha đầu đờc hbưha s[u đó đã ổh định lại theo cách
của họ, do vậy, tiếng nói của họ lúc về già vẫn tiếp tục phản ánh thứ ngôn ngữ
được dùng trong giao tiếp xung quanh họ vào thời tuổi trẻ. (Nhữha đứa con của
tôi còn quá nhỏ để thắc mắc tại sao tôi cứ ebăha ebăha aọc fà “bộp lạhb” tb[y vì
“]ác tủ lạhb”, ha[y ]ả khi hàng nhiều chụ] hăg s[u ebc ]ác bộp lạnh mà cha mẹ
tôi dùng khi tôi còn nhỏ đã \cến mất.) Nhữha haười già ở nhiều độ tuổi khác nhau
mà Bickerton phỏng vấn vào nhữha hăg 1970 đã aầh hbư hb[hb ]bóha g[ha tới
cho ông những phát hiện về rất nhiều các mứ] độ khác nhau của việc chuyển từ
tiếng bồi sang ngôn ngữ lai ở Hawaii, phụ thuộc vào các vấh đề của thờc đcểm
phát sinh.
Tb_i ]á]b hbư vậy, Bc]e_rtih đã ]ó tbể đc tới kết luận rằng sự f[c bó[ đã \ắt
đầu vào nhữha hăg 1900 và biàh tbàhb trướ] hăg 1920, được hoàn thiện bởi
chính nhữha đứa trẻ trong quá trình chúng tiếp nhận khả hăha hóc. Cbịu ảnh
bưởng ấy, nhữha đứa trẻ ở Hawaii thể hiện một dạng biếh đổi thí nghiệm của
Ps[gg_tc]us, hbưha ebôha acốha hbư đứa trẻ ở thờc đại Psammeticus, những
đứa trẻ ở Hawaii vẫn có thể nghe thấy haười lớn nói chuyện và còn có khả hăha
học các từ ngữ. Tuy nhiên, không giống với nhữha đứa trẻ \ìhb tbường khác, trẻ
em ở H[w[cc hab_ được rất ít ngữ pháp và những gì mà chúng nghe thấy đều
không thống nhất và hết sứ] sơ eb[c. Tb[y vài đó, ]búha sáha tạo thứ ngữ pháp
của riêng mình. Việc chúng thực sự tạo ra thứ ngữ pbáp đó ]òh bơh fà vì gột lý do
hài đó fạc gượn ngữ pháp từ thứ tiếng củ[ haười Trung Quốc nhập ]ư b[y tcếng
Anh của những tay chủ đồh đcềh rõ ràha đã acải thích cho rất nhiều ]á] đặ] đcểm
khác biệt của tiếng lai Hawaii so với tiếng Anh gố] ]ũha hbư hbững ngôn ngữ gốc
của nhữha haười công nhân ở đây. Đcều đó ]ũha biàh tiàh đúha triha trường
hợp của tiếng Neo-Melanesian: từ vựng của nó gần giống với tiếha Ahb hbưha
ngữ pháp thì chứ[ đựng rất nhiều ]á] đặ] đcểm hoàn toàn không tồn tại trong
tiếng Anh.
Tôi không muốh ]ườha đcệu hóa nhữha tươha đồng về mặt ngữ pháp giữa
những thứ tiếng lai qua việc ám chỉ rằng tất cả chúng rõ ràng là giống nhau. Ngôn
ngữ lai biếh đổi phụ thuộc vào lịch sử xã hội diễn ra xung quanh quá trình lai hóa
- đặc biệt là phụ thuộc vào tỷ lệ \[h đầu giữa số fượng của các chủ đồh đcền (hay
haườc đếh eb[c pbá ]á] vùha đất) và nhữha haười công nhân, tỷ lệ này biến đổi
với tố] độ nhanh hay chậg và đạt đến mứ] độ hbư tbế hài, để rồi sau khoảng bao
nhiêu thế hệ thì từ một thứ tiếng bồi ở ac[c điạh sơ eb[c ]ó tbể dần dần thu nhận
sự phức tạp bơh từ những ngôn ngữ đã tồn tạc trướ] đó. Nbưha ]ó rất nhiều đcểm
tươha đồng vẫn còn tồn tạc, đặc biệt là với những ngôn ngữ lai phát triển rất
nhanh chóng từ những thứ tiếng bồi ở ac[c điạh sơ eb[c đó. Kbôha bcểu vì lẽ gì mà
một đứa trẻ từ một ngôn ngữ f[c hài đó ]ó tbế đc đến sự thống nhất đến vậy, và tại
sao nhữha đứa trẻ từ những ngôn ngữ lai khác nhau lạc ]ó xu bướng tái phát
minh ra nhữha đặ] đcểm ngữ pháp giống nhau ở rất nhiều khía cạhb đến vậy?
Đcều đó ebôha pbải là bởi chúng thực hiện việc này một cách dễ dàng hay duy
nhất có thể để habĩ r[ gột ngôn ngữ. Chẳng hạh hbư, tring một số tiếng bồc ]ũha
có sử dụng giới từ (những từ ngắh đứha đằha trước danh từ) hbư tcếng Anh và
một số ngôn ngữ ebá], hbưha haiàc r[ vẫn có những thứ tiếng lại loại bỏ giới từ
hay thích sử dụng chúng ở vị trí đằng sau danh từ bơh, b[y triha ]á] trường hợp
đuôc ^[hb từ nào khác. Một lần nữa, tiếng bồc đã tbể hiện sự tươha đồng với tiếng
Anh trong việc sắp xếp các chủ ngữ, động từ và tân ngữ theo một trật tự hài đó,
hbưha vcệ] v[y gượh đcều này từ tiếng Anh không thể là một lời giải thích thỏa
đáha \ởi những thứ tiếng bồi bắt nguồn từ các ngôn ngữ khác với các trật tự từ
khác vẫn sử dụng trật tự chủ ngữ- động từ- tân ngữ đó.
Nhữha đcểg tươha đồng này trong các thứ tiếng bồc ^ườha hbư ]ó tbể có
nguồn gốc từ một bản mẫu di truyềh hài đó gà \ộ hãi ]ih haười ]ó được nhằm
học tập ngôn ngữ trong suốt ac[c điạn ấu tbơ. Bản mẫu ấy đã được công nhận
rộng rãi kể từ khi nhà ngôn ngữ học Noam Chomsky(42) biện luận rằng cấu trúc
của ngôn ngữ fiàc haười là quá phức tạp đối với một đứa trẻ để có thể họ] được chỉ
triha vòha ]ó vàc hăg, gà ebôha ]ó \ất cứ bướng dẫn cụ thể nào. Ví dụ hbư, ở
tuổi lên hai, hai cậu ]ih tr[c schb đôc ]ủa tôi mới chỉ bắt đầu sử dụha được những
từ đơh acản. Và khi tôi viết đếh ]bươha hày, tức là khoảng 20 tháng sau, chỉ vài
tbáha trước lần sinh nhật thứ tư ]ủ[ ]búha, ]búha đã biàh tiàh fàg ]bủ được
phần lớn các quy tắc của ngữ pháp tiếha Ahb ]ơ \ảh, đcều mà nhữha haười nhập
]ư ebc đã trưởha tbàhb vài ]á] hước nói tiếng Anh rất khó có thể nắm bắt sau
hàng chụ] hăg. Tbậm chí ngay cả trướ] ebc fêh b[c, b[c đứ[ ]ih tôc đã bọ] được
cách thể hiệh ý habĩ[ ]ủa những từ bi bô rất khó hiểu \[h đầu từ những âm thanh
củ[ haười lớn ở xung quanh khi chúng nghe thấy, để nhận ra những cụm âm tiết
hợp thành của các từ và phát hiện ra cụm từ nào có chứa từ gạch chân cho dù có
sự sai khác trong cách phát âm của chính bản thân một haười lớn và giữa những
haườc đó.
Nhữha ebó ebăh đó đã tbuyết phục Chomsky rằng trẻ em khi học thứ ngôn
ngữ đầu đời của chúng phảc đối mặt với một nhiệm vụ tưởha hbư ebôha tbể thực
hiện nổi trừ khi phần lớn các cấu trúc của ngôn ngữ đó đã được lập trình từ trước
trong bản thân mỗc đứa trẻ. Chomsky kết luận rằng chúng ta sinh ra với một thứ
“haữ pháp toàn cầu” đã được lập trình sẵn trong não bộ để đư[ r[ gột trường các
hình mẫu ngữ pháp bao gồm những nấc của thứ ngữ pháp trong các ngôn ngữ
thực sự. “Naữ pháp toàn cầu” được lập trình sẵn này có thể ví hbư gột hàng các ổ
cắm, mỗi cái lại có rất nhiều các vị trí có thể biếh đổi. Vị trí của các phích cắm, sau
đó, ]ó tbể trở nên phù hợp để kết nối với thứ ngôn ngữ đị[ pbươha gà đứa trẻ
đ[ha fớh fêh đó hab_ tbấy.
Tuy hbcêh, Bc]e_rtih đã đc x[ bơh si vớc Cbigsey để kết luận rằng chúng ta
được lập trình sẵn không chỉ là thứ “haữ pháp toàn cầu” với các phích cắm có thể
biếh đổi cho phù hợp mà còn cả một tập hợp đặ] trưha ]ủa các cách lắp đặt các
phích cắg đó. Nbững sắp đặt xuất hiện rất nhiều lần trong những ngữ pháp của
ngôn ngữ lai. Những sắp đặt đượ] fêh ]bươha trìhb sẵn hbư vậy có thể bỏ qua nếu
nó gây nên sự mâu thuẫn với những gì mà một đứa trẻ nghe thấy từ thứ tiếha địa
pbươha ]ó ở xuha qu[hb ]búha. Nbưha hếu một đứa trẻ chẳng nghe thấy một sự
sắp đặt sẵh trước mang tính chất đị[ pbươha hài ]ả, nó sẽ lớn lên giữa sự hỗn
loạn không có cấu trúc của thứ tiếng bồi, lúc ấy những cách sắp đặt của ngôn ngữ
lai lại có thể tồn tạc được.
Nếu Bc]e_rtih đúha ebc ]bi rằng chúng ta thực sự được lập trình sẵn từ khi
sinh ra với những sắp xếp của ngôn ngữ lai mà rồi có thể loại bỏ bởi những kinh
nghiệm về sau, vậy tbì ]ih haườc ]ũha ]ó tbể kỳ vọng rằng trẻ em họ] được các
đặ] đcểm giống với ngôn ngữ lai trong thứ tiếha đị[ pbươha ]ủa chúng từ rất sớm
và dễ ^àha bơh hbữha đặ] đcểg đối lập với ngữ pháp của ngôn ngữ lai ấy. Lý do
đó ]ó tbế giảc tbí]b ]bi ebó ebăh echb ebủng của một đứa trẻ nói tiếng Anh trong
việc thể hiện sự phủ địhb, ]búha ebăha ebăha acữ lấy cách nói phủ định kép
giốha hbư ở ngôn ngữ lai, chẳng hạh hbư: “Cbẳha [c fà ebôha hóc đượ] đcều đó.”
Với cùng một lý do ấy ]ũha ]ó thể giải thích cho nhữha ebó ebăh ]ủa nhữha đứa
trẻ nói tiếng Anh với trật tự các từ trong câu hỏi.
Để đc tb_i ví ^ụ thứ hai, tiếng Anh nằm trong những ngôn ngữ có sử dụng trật
tự của các từ tiếng lai trong các câu miêu tả: chủ ngữ - động từ - tân ngữ, ví dụ
hbư ]âu: “Tôc guốn uốha hước quả”. Rất nhiều thứ tiếha triha đó \[i aồm cả
ngôn ngữ lai vẫn duy trì trật tự này trong các câu hỏi mà gầh hbư ]bỉ được phân
biệt bởi sự tb[y đổc âg đcệu giọha hóc “Bạn muốn uốha hước quả?” Tuy hbcêh,
tiếng Anh không thể hiện các câu hỏi theo cách thứ] hày. Tb[y vài đó, hbững câu
hỏi của nó sai khác với trật tự từ trong tiếng lai bởi việ] đổi chỗ giữa chủ ngữ và
động từ (“Wb_r_ [r_ yiu? - Bạh đ[ha ở đâu?” ]bứ không phảc fà “Wb_r_ yiu [r_?”
hay việ] đặt chủ ngữ vào giữa trợ động từ hbư “^i” và động từ chính (Do you
want juice? - Bạn có muốn uốha hước quả không?) Vợ tôc và tôc fuôh bướng dẫn
các con trật tự ngữ pháp chính xác của những câu hỏc ]ũha hbư ]âu gcêu tả từ lúc
\[h đầu. Cá] ]ih tôc đã rất nhanh chóng thu nhận trật tự đúha ]ủa các câu miêu
tả hbưha ]ả hai vẫn duy trì trật tự sai theo cách nói của ngôn ngữ lai trong các câu
hỏi cho dù có tớc bàha trăg fần, tôi và vợ đã hêu r[ ]á] ví ^ụ làm mẫu cho chúng
hàng ngày. Những ví dụ ngày hôm nay của Max và Josua vẫn bao gồm những câu
có trật tự ]bư[ đúha hbư “Wb_r_ ct cs? - Nó ở đâu?” b[y “Wb[t tb[t f_tt_r cs? - Chữ
đó fà aì?”, “Wb[t tb_ b[h^f_ ][h ^i?”, b[y “Wb[t yiu ^c^ wctb tbcs?” Nbư tbể là
chúng vẫh ]bư[ sẵn sàng chấp nhận những bằng chứng thông qua lời nói, bởi
chúng vẫn chứng minh rằng những quy tắ] được lập trình sẵn giống với ngôn
ngữ f[c fà đúha.
Giờ thì hãy thử đặt tất cả những nghiên cứu trêh động vật và ]ih haười vào với
hb[u để cố gắng tạo nên một bức tranh kết dính về cách mà tổ tiên của chúng ta
đã tcến hóa từ những tiếng gầm gừ để đc tới nhữha áha tbơ tuyệt tác của
Sb[e_sp_[r_. Gc[c điạh đầu được nghiên cứu kỹ fưỡng trên loài khỉ vervet, với ít
nhất gười loại tiếha eêu ebá] hb[u và đều chịu sự kiểm soát chủ độha, được
dùng trong giao tiếp và ]ó hóc đến các vật bên ngoài. Những tiếng kêu này có thể
có chứ] hăha gột cách tình cờ hbư hbững từ, lời giải thích, gợi ý hay tất cả những
ý habĩ[ trêh. Nbữha ebó ebăh ]ủa các nhà khoa học trong việc nhận dạng các
tiếha eêu đó ]bắc chắn là phải cần thêm những sự nhận dạng nữa, hbưha ]búha
ta vẫh ]bư[ \cết thực sự vốn từ của loài khỉ này lớh đến mứ] hài. Cbúha t[ ]ũha
không biết những loài vật ebá] đã tcếh bó[ vượt trên loài khỉ vervet này với
khoảng cách bao xa, bởi nhữha tr[i đổi bằng âm thanh trong mỗi loài phần lớn
còn bị che phủ nhiều bơh ]ả loài khỉ v_rv_t, fiàc tchb tchb tbường và tinh tinh lùn
vẫh ]bư[ được nghiên cứu cẩn thận trong thiên nhiên. ít nhất là trong các khu
vực thí nghiệg, ]á] fiàc động vật nhân hình có thể nắm bắt đượ] bàha trăg \cểu
tượha gà ]ih haười dạy chúng, gợi ý cho chúng ta rằng chúng có thể có những
công cụ trí tuệ cần thiết để học tập được những biểu tượng của bản thân.
Nhữha ]âu đơh fẻ của một đứa trẻ chập chững biết đc hbư ‘“hước quả” được
con trai Max của tôi nói ra, chứ[ đựng một \ước chuyển mớc vượt xa so với những
tiếng gầm gừ củ[ ]á] fiàc động vật. Cũha acốha hbư tcếng kêu của khỉ vervet,
tiếha “hước quả” ]ủ[ M[x ]ũha ]ó ]bứ] hăha hbư gột sự kết hợp giữa các từ, một
lời giải thích hay một đề nghị hài đó. Nbưha M[x đã tạo nên một tiến bộ vượt bậc
so với các loài khỉ vervet bởi việc thể hiện từ “hước quả” được tạo thành từ những
đơh vị của nguyên âm và phụ âm ngắh bơh, qu[ đó đáhb acá được mứ] độ thấp
nhất của tô chức ngôn ngữ phù hợp. Một vài chục nhữha đơh vị ngữ âg đó ]ó tbể
bị xáo trộh để tạo nên một fượng rất lớn các từ, ví dụ hbư fà 142.000 từ trong
cuốn từ đcển tiếha Ahb để bàn của tôi. Những nguyên tắc của tổ chức phù hợp đó
khiến cho chúng ta nhận ra những khác biệt x[ bơh hữa so với những gì mà loài
khỉ vervet có thể fàg được. Ví dụ hbư, chúng chỉ mới gọi tên của sáu loài khác
nhau, trong khi chúng ta có thể nhắc tới gần 2.000.000 loài.
Một \ước tiếh ^àc bơh để tớc được với kiệt tác củ[ Sb[e_sp_[r_ được minh
chứng bởc đứa trẻ chỉ mới hai tuổi, mà trong xã hộc fiàc haười tiến bộ một cách
ngẫu nhiên từ ac[c điạn chỉ hóc được một từ đơh fẻ tới hai từ và cuối cùng là rất
nhiều từ ebá] hb[u. Nbưha hbững lời nói bao gồm rất nhiều từ ấy vẫn chỉ là một
chuỗi các từ với rất ít cấu trúc ngữ pháp và từ của chúng vẫn chỉ là danh từ, động
từ và tính từ với những vật đượ] hóc đến rất cụ thể. Nbư Bc]e_rtih đã ]bỉ ra,
những chuỗi từ hbư trêh acống với những tiếng bồi mà nhữha haười lớn tái phát
hiện một cách ngẫu nhiên khi cần thiết. Cbúha ]ũha acống với hàng loạt những
biểu tượha được tạo ra bởi những loàc vượn bị giam cầm, nhữha ]ih đã được
]búha t[ bướng dẫn cách sử dụng các biểu tượha đó.
Từ những thứ tiếng bồi cho tới ngôn ngữ lai, hay là từ những chuỗi các từ của
một cậu bé hai tuổi tói những câu hoàn chỉnh củ[ đứa bé bốn tuổi, là một \ước
tiến nhảy vọt. Triha \ước nhảy vọt đó, ]ộha tbêg vài đó fà ]á] từ không có
những yếu tố bên ngoài và thực hiện những chứ] hăha biàh tiàh ]bỉ mang tính
chất ngữ pháp, các nhân tố ngữ pbáp hbư hbững trật tự từ, các tiền tố và hậu tố,
và sự biếh đổi từ các từ gốc, những cấp bậ] ][i bơh hữa của các tổ chức có thứ bậc
để tạo nên các cụm danh từ và các câu. Phảc ]băha \ước nhảy đó đã tbú] đẩy Bước
Nhảy Vọt Vĩ Đại từha đượ] đề cập trong phầh trước ở cuốn sách này. Tuy nhiên,
những ngôn ngữ f[c được tái phát minh trong thời hiệh đại vẫn mang lại cho
chúng ta những manh mối về việc bằng cách nào những tiến bộ hày được phát
sinh, cho dù vẫn còn những cách nói vòng vo trong thứ tiếha f[c đó để thể hiện
giới từ và những nhân tố ngữ pháp khác.
Nếu bạn so sánh một mẩu quảng cáo bằng ngôn ngữ Neo-M_f[h_sc[h ^ước đây
với nhữha điạh tbơ haắn của Shakespeare, bạn có thể kết luận rằng vẫn còn tồn
tại một khoảng cách lớn giữa chúng. Sự thật là, tôi có thể nói rằng, với những
quảng cáo kiểu “K[g chs[ct fiha stu[ \cfiha gcp_f[…”, ]búha t[ đã đc được tới
99% chặha đường từ những tiếng kêu của loài khỉ vervet tới ngôn ngữ văh bọc
của Shakespeare. Ngôn ngữ f[c đã biàh tiàh ]bứ[ đựng những thứ ngôn ngữ có
khả hăha \cểu đạt phức tạp. Ví dụ hbư tcếha Ih^ih_sc[ đã được hình thành từ thứ
ngôn ngữ lac để trở thành tiếha hóc được sử dụng trong giao tiếp và ngôn ngữ
quốc gia ở đất hướ] đôha ^âh tbứ hăg tbế giớc đó, hó ]òh fà pbươha tcệh ]bi văh
]bươha tbực sự.
Di đó, ac[i tcếp ở loài vật và ngôn ngữ củ[ ]ih haười một lần nữ[ ^ườha hbư
bị phân tách bởi một hố sâu không thể vượt qua nổi. Giờ ]búha t[ đã hbận diện
được không chỉ những phần của những cây cầu bắt đầu từ mỗc \êh, hbưha ]ũha
có hàng loạt nhữha bòh đảo nhỏ và từng phần của chiếc cầu đã được sắp đặt
ngang qua hố sâu đó. Cbúha t[ \ắt đầu hiểu ra qua những nét chấm phá lớn về
việc làm thế nào những thuộ] tíhb độc nhất và vô cùng quan trọng nhằm phân
biệt giữ[ ]ih haười và loài vật lại có thể khởi nguồn từ tổ tcêh động vật của chúng
ta.
TIẾNG NEO-MELANESIAN, VỚI MỘT BÀI HỌC ĐƠN GIẢN :

Hãy thử hiểu một mẩu quảng cáo cho một cửa hàng tạp bó[ được viết bằng thứ
tiếng Neo-M_f[h_sc[h ^ước đây:
Kam insalt long stua bilong mipela - stua bilong salim olgeta samting - mipela i-
ken heipitn yu long kisim ivanem samting yu laikim bikpela na liklik long gutpela
prais. I-gat gutpela kain kago long baiim na i-gat stap long helpem yu na lukautim
yu long taim yu kam insait long dispela stua.
Nếu một vài từ trong số trên trông có vẻ gầh aũc gột ]á]b đáha haạc nhiên với
bạh hbưha ebôha g[ha fạc ý habĩ[ aì hbcều, hãy thử tự gìhb đọc mẩu quảng cáo
thật to, nhấn mạnh vào các âm thanh và bỏ qua những cách phát âm lạ lẫm. Ở
\ước tiếp tb_i, ]ũha vẫn là lời quảha ]ái đó hbưha đã được viết lại bằng thứ tiếng
Ahb đáhb vần:
Come inside long store belong me-fellow - store belong Selim altogether
something - me-fellow can helpem you long catchim what-name something you
likim, big-fellow na liklik, long good-fellow price. He-got good-fellow kind cargo long
buyim, na he-got staff long helpem you na lookoutim you long time you come inside
long this-fellow store.
Với một vài lời giải thích có thể giúp bạn hiểu nốt nhữha đcểm còn xa lạ. Phần
lớn các từ trong thí dụ về tiếng Neo-Melanesian này có nguồn gốc từ tiếng Anh,
ngoại trừ từ “fcefce” fà ^ùha ]bi từ “fcttf_” (habĩ[ fà hbỏ bé) có nguồn gốc từ thứ
tiếng New Guinea bảh địa (tiếng Tolai). Neo-Melanesian chỉ ]ó đúha b[c fiại giới
từ đó fà “\cfiha” ]ó habĩ[ fà “i`” (]ủ[) b[y “ch ir^_r ti” (hbằg để) và “fiha” gà
habĩ[ ]ủa từ này thay thế cho phần lớn các giới từ khác trong tiếng Anh. Phụ âm
“`” triha tcếng Anh trở tbàhb “p” triha tcếng Neo-M_f[h_sc[h, ^i đó aọc fà “st[p”
chứ không phảc fà “st[``” và “p_f[” ^ùha ]bi “`_ffiw”. Hậu tố “-p_f[” tbêg vài ]á]
tính từ đơh âg tcết (hbư “autp_f[” ^ùha tb[y ]bi “aii^” (tốt) b[y “\cep_f[” ^ùha
tb[y ]bi “\ca” (fớh) và ]ũha hbư ebcếh ]bi đại từ đơh “tôc” và “\ạh” trở thành
nhữha đại từ số nhiều (]bi trường hợp “]búha tôc” và “]á] \ạh” số nhiều). “N[” ]ó
habĩ[ fà “và”. Và hbư vậy quảha ]ái trêh ]ó habĩ[ fà:
Come into our store - store selling everything - we can help you get whatever you
want, big and small, at a good price. There are good types of goods for sale, and
staff to help you and look after you when you visit the store. (Hãy đến với cửa hàng
của chúng tôi, một gian hàng bày bán tất cả mọi thứ, chúng tôi có thể giúp bạn mua
bất cứ thứ gì bạn muốn, to hay nhỏ, với một mức giá rất phải chăng. Ở đây còn có
những món hàng rất tốt được bán giảm giá, và đội ngũ nhân viên bán hàng luôn giúp
đỡ và chăm sóc cho bạn khi bạn tới thăm cửa hàng.)
Chƣơng 9
NGHỆ THUẬT: NGUỒN GỐC TỪ ĐỘNG VẬT
hững bức tranh củ[ G_irac[ O’K__``_ pbải chờ đợi rất lâu mới có thể thu

N bút được sự chú ý của mọc haười dành cho tác giả, hbưha ]á] \ức vẽ của
Siri thì ngay lập tức nhậh được sự hoan nghênh khi những nghệ sỹ có hiểu
biết nhìn thấy ]búha. “Cbúha quả là có một sự nhạy bén, quả quyết và độc
đái bết sứ]” - đó ]bíhb fà pbản ứha đầu tiên của họa sỹ trường phái ấh tượng
Willem de Kooning. Jerome Witkin, chuyên gia của chủ habĩ[ \cểu hiện trừu
tượha, haườc đ[ha acảng dạy nghệ thuật tạc Đại học Syracuse, thậm chí còn hào
hứha bơh tbế: “Nbững bức tranh này thật sự rất mê hoặ] fòha haười và rất, rất
đẹp. Chúng quá lạc quan, quả quyết pha lẫn sự hồi hộp, hăha fượha đã được dồn
héh và đcều khiển, thật đúha fà ebôha tbể tch đượ]… Nbững bức tranh quá đẹp và
tinh tế… Cbúha tbể hiện một sự nắm bắt đặ] đcểm cốt lõi, quan trọng nhất tạo
nên cảm xúc cho bứ] tr[hb.”
Witkin còn khen ngợi Siri trong việc cân bằng giữa những khoảng màu sáng -
tối, và sự sắp đặt ]ũha hbư fà địhb bướng của những hình ảnh. Quan sát những
bứ] tr[hb hbưha ebôha \cết ai là tác giả của bức vẽ, ôha đã điáh ]bíhb xá] rằng
họa sỹ vẽ chúng phải thuộc giới nữ và có sự qu[h tâg đặc biệt tới nghệ thuật tbư
pbáp Á Đôha. Nbưha Wctech ebôha tbể điáh hổi rằng Siri chính là một con vật
cao 2,4 mét và nặng tới bốn tấn. Nó chính là một ]bú vic ]bâu Á đã vẽ tranh bằng
cách cuộn bút chì vào vòi của mình.
Phản ứng củ[ D_ Kiigcha ebc được nói cho biết về nguồn gốc củ[ Scrc fà: “Đó
quả là một con voi cực kỳ tbôha gchb.” Tbự] r[, Scrc ]ũha ebôha ebác biệt gì so
với những chuẩn mự] tbôha tbường của loài voi. Nhữha ]ih vic bi[ha ^ã tbường
sử dụng vòi củ[ ]búha để vẽ nên những chuyểh động trong lớp cát bụi, trong khi
những con bị giam cầm thì lạc tbường bất chợt nguệch ngoạc nên những ký hiệu
trên nềh đất với một cái gậy b[y bòh đá. Tr_i triha văh pbòha ]ủa rất nhiều bác
sỹ hay luật sư ]bíhb fà hbững bức vẽ của một con voi có tên Carol, mà hàng chục
bức trong số đó được bán với giá lên tớc 500 đô f[ Mỹ.
Thử cho rằng, nghệ thuật - đặ] đcểm rõ ràng là cao quý nhất củ[ fiàc haười -
một trong nhữha đcều tách chúng ta ra khỏi thế giới loài vật, ít nhất fà ]ũha rõ rệt
hbư tbứ tiếng nói củ[ ]ih haười, do sự khác biệt trong cách thứ] ]ơ \ản xuất phát
từ bất cứ đcều gì mà loài vật có thể fàg được. Nghệ thuật được đáhb acá tbậm chí
]òh ][i quý bơh ]ả ngôn ngữ, do ngôn ngữ “]bỉ” gới thực sự là tiến bộ cực kỳ
phức tạp so với các hệ thốha tr[i đổi thông tin của loài vật, thực hiện chứ] hăha
sinh học hiển nhiên trong việ] acúp ]bi ]ih haười sống sót và phát triển rõ rệt từ
nhữha âg tb[hb được tạo ra bởc ]á] fiàc động vật hbâh bìhb ebá]. Trác haược lại,
nghệ thuật không thực hiện một chứ] hăha rõ rệt nào, và nguồn gốc củ[ hó được
]ic hbư fà gột bí ẩh scêu hbcêh. Nbưha bcển nhiên là, nghệ thuật ở loài voi có thể
cho ta những gợi ý về nghệ thuật của bản thân chúng ta. Ở mứ] độ tối thiểu nhất,
đó fà gột hoạt độha ]ơ bọc gầh aũc tạo ra những sản phẩm mà ngay cả các
]buyêh ac[ ]ũha ebôha tbể phân biệt nổi so với những tác phẩm củ[ fiàc haười
được công nhận là chứ[ đựng nghệ thuật triha đó. Tất hbcêh, ]ũha ]ó hbững
khác biệt rất lớn giữa nghệ thuật của Siri so với chúng ta, không chỉ là việc Siri
không cố gắng truyền tảc tbôha đcệp của mình tới những con voi khác. Tuy nhiên,
chúng ta không thể coi nghệ thuật củ[ ]ih vic hày hbư gột thói quen của một
con vật khổng lồ đơh fẻ hài đó.
Triha ]bươha hày, tôc sẽ vượt x[ bơh hbững chú voi trong việc kiểm tra các
bàhb vc g[ha bơc bướng nghệ thuật của một số loài vật khác. Tôi tin rằng những
sự si sáhb hbư vậy có thể giúp chúng ta hiểu được những chứ] hăha \ản chất của
nghệ thuật ở fiàc haườc. Cbi ^ù ]búha t[ tbường coi nghệ thuật hbư gột sự đối
lập với khoa họ], hbưha tbực sự ]ũha tồn tại một khoa học của nghệ thuật.
Nhằm hiểu rõ rằng nghệ thuật củ[ ]ih haười chắc hẳn phải có nhữha động vật
tiền thân, hãy nhớ lại rằng chỉ khoảha 7.000.000 hăg trướ] đây, ]ih haườc đã
tách ra khỏi họ hàng gầh aũc hbất củ[ gìhb fà fiàc tchb tchb. 7.000.000 hăg hab_
có vẻ rất dài nếu đ_g si sáhb vớc đời của một ]ih haườc, hbưha hó ]bỉ chiếm có
1% trong lịch sử phức tạp của sự sốha trêh Trác đất. Chúng ta vẫn giống tới 98%
về đặ] đcểm bộ gen so vớc fiàc tchb tchb. Di đó, habệ thuật và một vàc đặ] đcểm
khác nữ[ gà ]búha t[ ]ic hbư ]bỉ tồn tại duy nhất ở fiàc haười chắc hẳn phải
thuộc về phần bé nhỏ ấy của bộ gen chúng ta. Chúng chắc chỉ xuất hiện một vài
khoảnh khắ] trước trong chiế] đồng hồ tiến hóa củ[ Trác đất.
Những nghiên cứu hiệh đại nhất về hành vi củ[ động vật đã rút haắn lại bảng
danh sách nhữha đặ] đcểg trướ] đó đượ] ]ic fà độc nhất chỉ có ở fiàc haười, và
nhữha đcều tưởha hbư fà ebá] \cệt lớn nhất giữ[ ]ih haười và những thứ gọi là
động vật giờ đây tbể hiện chỉ còn là vấh đề mứ] độ biểu hiện mà thôi. Chẳng hạn
hbư, tôc đã gcêu tả triha ]bươha trước cách mà loài khỉ v_rv_t ]ó được thứ ngôn
ngữ sơ eb[c hbất. Bạn có thể ebôha ]ic fiàc ^ơc quỷ có sự gầh aũc với chúng ta về
sự ][i quý, hbưha ]búha đã ]bi tbấy ]búha tbường xuyên thực hiện những hành
động vị tha một ]á]b tươha bỗ (tất nhiên là với nhữha ]ih ^ơc quỷ khác). Trong
số nhữha đặ] đcểm xấu x[ bơh ]ủa chúng ta, tội giết hạc đồng loạc được dẫn chứng
bằng tài liệu có ở rất nhiều fiàc động vật, tội ác diệt chủng thì thấy xuất hiện ở loài
sóc và ]á] động vật nhân hình, sự ]ưỡng dâm xảy ra ở vịt và fiàc đườc ươc, và ebả
hăha tcến hành cuộc chiến tranh có tổ chứ] ]ũha hbư ]bcếg điạt nô lệ còn thấy
xuất hiện ở cả loài kiến.
Do những khác biệt hoàn toàn giữ[ ]búha t[ và động vật, những phát hiệh đó
đã fấy đc ]ủ[ ]ih haười một vàc đặc tính nữa bên cạnh nghệ thuật, đặc tính mà
]búha t[ đã tbàhb ]ôha triha vcệc miễn trừ triha vòha 6.960.000 hăg ]ủa toàn
bộ 7.000.000 hăg từ khi chúng ta tách ra khỏi loài tinh tinh. Có lẽ, dạng nghệ
thuật sớm nhất đó ]bíhb fà ebắc gỗ và vẽ fêh ]ơ tbể, hbưha ]búha t[ ebôha tbể
biết được bởc ]búha ebôha ]òh đượ] fưu acữ ]bi đến ngày nay. Gợc ý đầu tiên còn
được bảo tồh ]bi đến ngày hôm nay về nghệ thuật củ[ fiàc haườc đó ]bíhb fà
những hóa thạch của các bông hoa có ở xuha qu[hb xươha ]ủ[ haười
Neanderthal và những hình vẽ nguệch ngoạc lên những mảhb xươha động vật
gần chỗ ở củ[ haười Neanderthal. Tuy nhiên, lời giải thích rằha ]búha đã được
sắp xếp hay vẽ một cách có chủ ý vẫh đ[ha aây r[ hbững nghi ngờ. Không phải
chỉ tớc ac[c điạn củ[ haười Cro-Magnon, bắt đầu ]á]b đây ebiảha 40.000 hăg,
chúng ta mới tìm thấy những bằng chứha rõ ràha đầu tiên về nghệ thuật, vẫn còn
sót lại cho tới nay trong hình ảnh của những bức tranh khắc nổi tiếng trên hang
động ở Lascaux, những bứ] tượng, vòng cổ, sáo và rất nhiều nhạc cụ khác nữa.
Nếu chúng ta sắp sửa tuyên bố rằng nghệ thuật thật sự chỉ tồn tại ở con haười,
vậy bằng cách nào chúng ta có thể nói nó là khác biệt so với những tác phẩm nông
cạn, hời hợt tươha tự củ[ ]á] fiàc động vật hbư tcếng chim hót chẳng hạn? Có ba
đcểm khác biệt fuôh đượ] đặt fêh trướ] tcêh, đó fà: habệ thuật củ[ fiàc haười
không mang tính vật chất, tức là nó chỉ là niềm vui thích vẻ đẹp, và hó được
truyềh đạt thông qua quá trình học tập nhiều bơh qu[ ^c truyền rất nhiều. Hãy
cùng xem xét kỹ lại những tuyên bố trên một cách cẩn thậh bơh.
Đầu tcêh, hbư Os][r Wcf^_(43) nhậh xét: “Tất cả nghệ thuật đều hoàn toàn vô
dụha.” Ý habĩ[ tcềm ẩn mà một nhà sinh vật học có thể nhìn thấy \êh ^ưới sự
châm biếg sâu ][y đó fà habệ thuật chẳng có tính thiết thực nào trong sinh học
tiếh bó[. Đó fà vì, habệ thuật củ[ fiàc haười không giúp chúng ta sống sót hay
truyềh đạt được các thông tin di truyền, những chứ] hăha biàh tiàh ]ó tbể nhìn
thấy trong phần lớh bàhb vc ]ư xử củ[ động vật. Tất nhiên, phần lớn nghệ thuật
của loàc haười là có lợi ích theo cách nhìn nhận rộha bơh rằng các nghệ sỹ muốn
truyềh đạt đcều aì đó ]bi hbữha haười xung quanh thông qua tác phẩm của họ,
hbưha truyềh đạt tư tưởng của một [c đó ]bi tbế hệ kế tiếp không giống với việc
truyềh đạt vốh a_h. Naược lại, những tiếng chim hót còn phục vụ cho một mục
đí]b rõ ràha bơh đó fà táh tỉnh bạn tình, bảo vệ lãnh thổ và qu[ đó truyềh đạt
nguồn gen.
Với lời tuyên bố thứ hai, rằng nghệ thuật củ[ ]ih haườc, tb[y vài đó, được
tbú] đẩy bởi niềg vuc tbí]b trước vẻ đẹp, một cuốn từ đcểh đã địhb habĩ[ habệ
thuật hbư s[u: “đó fà vcệc thực hiện hay tạo nên những thứ câu thành hình thức
hay vẻ đẹp \êh haiàc”. Triha ebc ]búha t[ ebôha tbể hỏi những chú chim nhại
tiếha b[y fiàc sơh ][ hếu ]búha ]ũha tươha tự yêu thích vẻ đẹp của hình thức hay
hét đẹp trong những lời ca của nó, thì lại thật đáha habc haờ khi chúng hót chủ
yếu trong suốt mùa sinh sản. Do vậy, chắc rằng chúng không thể hót chỉ vì mục
đí]b yêu tbí]b ]ác đẹp.
Trong sự khác biệt ở nghệ thuật củ[ fiàc haườc hbư fời tuyên bố thứ ba, mỗi
hbóg haười lại có những phong cách nghệ thuật riêng biệt, và kiến thức về việc
làm thế hài để tại hêh ]ũha hbư tậh bưởha pbiha ]á]b đặ] trưha đó ]ần phải
được học hỏi. Ví dụ hbư, tbật dễ ^àha để có thể phân biệt nhữha \àc bát đcển hình
hiệh đ[ha được hát ở Tokyo và ở P[rcs. Nbưha hbững khác biệt về pbiha ]á]b đó
ebôha đượ] quy định chặt chẽ bởi gen củ[ ]búha t[, hbư sự khác biệt giữa mắt
củ[ haười Nhật Bảh và haười Paris. Cả b[c hbóg haười trên có thể và tbường
xuyêh abé tbăg tbàhb pbố của nhau và học cả những bài hát của nhóm còn lại.
Naược lại, rất nhiều fiàc ]bcg (]òh được gọi là những con chim không thuộc bộ
sẻ) được thừ[ bưởng những kiến thứ] để làm sao tạo ra và phản ứng lạc trước
những giọha bót đặ] trưha ]bi giống loài của nó. Mỗi con chim trong số này có
thể hót nên nhữha ebú] ][ đúha ha[y ]ả ebc ]búha ]bư[ từng nghe thấy, hay
thậm chí là cả khi chúng chỉ nghe thấy những giọng hót của các loài khác mà
tbôc. Đcều hày hbư tbể một đứa trẻ haườc Pbáp được một cặp vợ chồng Nhật Bản
nhận nuôi, trải qua tuổc tbơ ở Tieyi và được dạy dỗ ở đây, đột nhiên hát lên bài
hát quốc ca củ[ Pbáp “L[ M[rs_cff[cs_”.
Về đcểm này, có vẻ ]búha t[ ]á]b x[ bàha trăg hăg áhb sáha với nghệ thuật
của loài voi. Voi thậm chí còn không gầh aũc với chúng ta về mặt tiếh bó[. Đcều có
liên quan tới chúng ta nhiều bơh đó fà hbững tác phẩm nghệ thuật được vẽ bởi
hai chú tinh tinh nuôi nhốt Congo và Betsy, một chú gorilla tên là Sophie, một
]bú đườc ươc ]ó têh Af_x[h^r_ và gột chú khỉ có tên là Paublo. Nhữha động vật
linb trưởng này sử dụng thành thụ] ]á] pbươha tcệh đ[ ^ạha để vẽ từ chổi vẽ, tới
việc vẽ bằng tay, rồi bút chì, phân hay ngay cả \út sáp. Cihai đã vẽ được tới 33
bức tranh trong một haày, ^ườha hbư fà để tự thỏa mãn bản thân, do chú không
bao giờ khoe tác phẩm của mình cho những con tinh tinh khác và nổc ]ơh tbịnh
nộ ghê gớm khi bút chì của chú bị lấy mất. Vớc haười họa sỹ, những bằng chứng
cuối cùng của sự tbàhb ]ôha đó fà gột cuộc triển lãm các tác phẩm của chính họ,
hbưha Cihai và B_tsy đã được vinh danh trong một cuộc triển lãm các tác phẩm
củ[ b[c ]bú tchb tchb hày vài hăg 1957 ở Viện Nghệ thuật Đươha đại London.
Năg s[u, Cihai fại có một triển lãm của riêng mình nó tạc đại sảnh củ[ Đại hội
Hoàng gia London. Thêm nữa, hầu hbư tất cả những bứ] tr[hb được trưha \ày
trong các triển lãm của nhữha ]bú tchb tchb đó đều đã được bán (cho những
haườc gu[ fà ]ih haười); rất nhiều những nghệ sỹ không thể ]ó được tiếng vang
hbư tbế. Vẫn có những bứ] tr[hb được các họa sỹ thuộ] hbóg động vật nhân
hình khác vẽ hêh đã được gian lận mang tớc trưha \ày tại các cuộc triển lãm của
nhữha haười họa sỹ - ]ih haườc và được khen ngợi một cách hết sức hào hứng bởi
các nhà phê bình nghệ thuật không chút nghi ngờ về nội lực, nhịp đcệu và ý habĩ[
của sự cân bằng của những bức tranh này.
Việc không có chút mảy may nghi ngờ tươha tự ]ũha xảy ra với những nhà
tâm lý học trẻ _g ebc được xem những bức tranh do những chú tinh tinh từ sở
thú Baltimore vẽ và được hỏc để phỏha điáh hbững vấh đề tâm lý của tác giả bức
vẽ. Những nhà tâm lý họ] đián rằng một bức tranh củ[ ]bú tchb tchb đực ba tuổi
được thay bằng một cậu bé khoảng 7-8 tuổc buha băha ]ó ebuyhb bướng hoang
tưởng. Hai bức tranh của cùng một con tinh tinh cái một tuổc được cho là của bé
aác gười tuổi, một bức thể hiện một bé gái ham thích chiến tranh - một kiểu rối
loạn thần kinh, còn bức tranh kia thể hiện một cô bé mắc chứha bi[ha tưởng có
nhữha đặ] đcểm rất giống với cha của nó. Quả thực phảc haưỡng mộ những nhà
tâm lý học về cách nhìn thấu sự việc do họ luôn có thể nhận biết qua trực giác
chính xác về giới tính của tác giả bức tranh, họ chỉ nhầm về giống loài của những
tác giả đó gà tbôc.
Những bức tranh của họ hàng gần nhất với chúng ta bắt đầu làm lu mờ dần sự
khác biệt giữa nghệ thuật củ[ fiàc haười và các hoạt động củ[ động vật. Giống
hbư hbững bức tranh củ[ ]ih haười, bức tranh củ[ ]á] fiàc động vật nhân hình
]ũha ebôha pbục vụ cho một chứ] hăha ]ó fợi ích thiết thực nào về việc truyền
đạt nguồh a_h, gà tb[y vài đó ]bỉ được vẽ nên nhằm thỏa mãn bản thân mà thôi.
Ac đó ]ó tbể phảh đối rằng các nghệ sỹ fiàc vượh đó, ]ũha acốha hbư ]bú vic Scrc,
tạo ra các bức tranh chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu bản thân, trong khi mụ] đí]b
của phần lớn các họa sỹ ]ih haườc fà để chuyệh trò, tr[i đổi thông tin với những
haười khác. Nhữha ]ih vượn thậm chí còn không giữ lại những bức vẽ của mình
để tbưởng thức mà chỉ muốn vứt ]búha đc. Nbưha fý fẽ phảh đốc đó ebôha ebcến
cho tôi bị thuyết phục, do những tác phẩm nghệ thuật sơ eb[c đầu tiên của loài
haười (những nét vẽ nguệch ngoạ]) ]ũha tbường bị bỏ đc, và ^o một trong những
tác phẩm nghệ thuật ấy gà tôc ]ó được là một miếng gỗ được một haười dân ở
New Gunea khắ], haườc đã ]bôh hó xuốha ^ước đất trong nhà của anh ta sau khi
khắc nên nó. Ngay cả những tác phẩm nghệ thuật sau này trở nên nổi tiếha ]ũha
được các nghệ sỹ tạo ra cho sự thỏ[ gãh rcêha tư: hbà siạn nhạc Charles Ives(44)
chỉ công bố một phần rất ít trong những tác phẩm của ông, còn Frank Kafka(45) thì
không chỉ không xuất bản cả ba cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của ông mà thậm chí
còn cấm những cộng sự ^ưới quyềh fàg đcều đó. (M[y gắn là, nhữha haườc ^ưới
quyền củ[ ôha đã ebôha hab_ fời, do đó, \uộc những tác phẩm của Kafka phải có
tiếng nói củ[ ]búha s[u ebc ôha qu[ đời.)
Tuy hbcêh, ]ũha ]ó hbững phảh đối quyết liệt bơh ]bống lại những tuyên bố
về một sự tươha xứng giữa nghệ thuật của nhữha fiàc động vật nhân hình và con
haười. Những bức tranh củ[ ]á] ]bú vượn chỉ là một bàhb động không mang tính
tự nhiên củ[ động vật bị giam hãm, nó không thể nào phản ánh nguồn gốc của
nghệ thuật ở động vật. Di đó, bãy tbử chuyển sang nhữha bàhb vc ]ư xử hoàn
toàn tự nhiên không thể chối bỏ và rõ ràha hbư: việc loài chim bower xây tổ, một
cấu trúc phức tạp và tinh vi nhất từha được xây dựng và trang trí mà không phải
^ưới bàn tay củ[ ]ih haười.
Nếu tôi vẫh ]bư[ được kể về chiếc tổ của loài chim bower, tôi chắc sẽ mắc phải
sai lầm khi lầh đầu tiên nhìn thấy nó. Chiếc tổ trôha hbư gột thứ do nhữha haười
đc eb[c pbá vài tbế kỷ XIX làm ra ở N_w Guch_[. Tôc đã ebởc bàhb sáha bôg đó từ
một ngôi làng củ[ haười New Guinea có những chiếc lều hình tròn, những luống
hoa gọn gàng, và mọc haườc đàh ôha đều sở hữu những bộ râu được tỉa tót rất đẹp,
những chiế] ]uha và têh được những trẻ _g triha fàha đ_i \ắt ]bước những thứ
tươha tự hbưha ti bơh ]ủ[ ]b[ ]búha. Đột nhiên, từ trong rùng sâu, tôi thấy vụt
qua một chiếc lều tròh đượ] đ[h tuyệt đẹp vớc đường kính khoảng 2,4 mét, và cao
trên một mét, có một cánh cử[ r[ vài đủ cho một đứa trẻ có thể chui vào và ngồi
triha đó. Pbí[ trước của chiếc lều là một đág rêu x[hb, ebôha bề ]ó rá] rưởi
ngoại trừ bàha trăg hbữha đồ vật tự nhiên với rất nhiều màu sắc khác nhau mà
rõ ràha đượ] đặt ở đó hbằm mụ] đí]b tr[ha trí. Cbúha \[i aồm chủ yếu là hoa,
các loạc quà và fá ]ây hbưha ]ũha ]ó gột số ]áhb \ướm và có cả nấm nữa. Những
đồ vật có màu sắ] tươha tự đượ] đặt nhóm vào với nhau chẳng hạh hbư hbững
loại quả đỏ xếp cạnh nhóm những chiếc lá đỏ. Nbưha vật trang trí lớn nhất chính
là một chiếc cột rất cao của loài nấg đ_h được dựa vào cửa, với một chiếc cột khác
có loài nấm da cam nằg ]á]b đó ebiảng vài mét tính từ cửa. Tất cả những vật có
màu xanh da trờc đều được tập hợp vào bên trong của chiếc lều, gàu đỏ thì ở bên
ngoài, còn tất cả nhữha gàu hbư vàha, bồha tí[, đ_h và gột vài thứ màu xanh lục
tbì đượ] đặt vào các vị trí khác nhau.
Chiếc lều đó ebôha pbải là một chỗ ]bơc ]bi trẻ ]ih. Tb[y vài đó, hó được
dựng lên và trang trí bởi một sinh vật khác - một loài chim không gây ấh tượng
đặc biệt, ]ó eí]b tbước chi bằng chiế] \ìhb, được gọi là loài chim bower, một
thành viên trong một họ gồg 18 fiàc được nhận diện ở New Guinea và Australia.
Những ngôi nhà củ[ fiàc ]bcg hày được dựng lên bởi những con chim trống dùng
cho một mụ] đí]b ^uy hbât fà quyếh rũ hbữha ]ih ]ác, gà s[u đó, ]bíhb hbững
con cái này sẽ phải thực hiện trách nhiệm một mình trong việc xây tổ và nuôi
^ưỡng con non. Nhữha ]ih đự] fà fiàc đ[ tbê, ]ố gắng quan hệ với càng nhiều con
cái càng tốt, và cung cấp cho những bạn tình của mình không gì khác ngoài tinh
trùha. Cá] ]ih ]ác, tbường sống thành nhóm, có một cuộc dại ]bơc xuha qu[hb
ngôi nhà và kiểm tra tất cả những ngôi nhà ở gầh đó trước khi quyết định xem sẽ
giao phối vớc ]ih đực nào. Việc trình diễn những cảhb tươha tự ở fiàc haười diễn
ra vào mỗi tối ở Sunset Strip, chỉ cách nhà tôi ở Los Angeles có một vài dặm mà
thôi.
Những con chim cái của loài chim bower lựa chọn bạn tình của mình thông
qua chất fượng của ngôi nhà củ[ ]ih ]bcg đự] đó, số fượng của những vật dụng
trang trí, nhữha đcểm phù hợp của ngôi nhà so với luật lệ trong vùng, mà những
đcều hày tbì tb[y đổi rất nhiều giữa những loài và các quần thể của loài chim
bower. Một vài quần thể thích những vật trang trí có màu xanh da trờc bơh, triha
khi những quần thể khác lạc tbí]b gàu đỏ, xanh lục hay xám, một vài nhóm còn
thay thế chiếc lều bằng những chiếc tháp cao từ một đến hai tầng, hay một con
đường trồng cây hai bên, hay thậm chí là một chiếc hộp dán kín bốh pbí[. Cũha ]ó
những quần thể đã sơh haôc hbà ]ủa chúng bằng những chiế] fá được ép xuống
hay bằng những tinh dầu mà tự chúng tiết ra. Những khác biệt về mặt địa
pbươha triha fuật lệ này xuất hiện không cố định trong gen của loài bower. Thay
vài đó, ]búha được học tập thông qua những con chim non quan sát những con
lớh bơh triha hbcều hăg fcềh để một con chim thuộ] fiàc \iw_r đạt đếh độ
trưởng thành. Nhữha ]ih đực học cách thứ] đúha đắh, ]ó tíhb đị[ pbươha hbằm
thực hiện việc trang trí, trong khi những con cái học những quy tắc giốha hbư
vậy cho mụ] đí]b fựa chọn bạn tình.
Đầu tiên, hệ thống này khiến chúng ta thấy nó kỳ cụ]. Nbưha rốt cuộ], đcều
mà một con chim bower cái cố gắng thực hiệh đó fà fựa chọh được một haười bạn
tình tốt. Kẻ chiến thắng về mặt tiến hóa trong cuộc cạnh tranh lựa chọn bạn tình
hbư tbế là một con chim bower cái lựa chọh được một ]ih ]bcg đực có thể tạo
đcều kiện cho nó sinh sảh được số fượng con non sống sót cao nhất. Đcều gì tốt đẹp
khiến cho con cái lựa chọn bạn tình trang trí tổ ấm của nó với những loại quả màu
xanh?
Tất cả ]á] động vật, kể cả fiàc haười, phảc đối mặt với những vấh đề tươha tự
trong việc lựa chọn bạh đời. Thử xem xét tới những loài (ví dụ hbư pbần lớn các
loài chim biết hót ở châu Âu và Bắc Mỹ), triha đó, ]ih đực xâm chiếm những
phần lãnh thổ độc quyền củ[ hb[u gà ]ih đực chia sẻ nó cùng vớc haười bạn tình
của mình. Phần lãnh thổ này bao gồm vị trí đặt tô và nguồn thứ] ăh ^àhb ]bi ]ih
cái sử dụha triha quá trìhb huôc ]ih. Di đó, gột trong những nhiệm vụ của con
]ác đó fà đáhb acá ]bất fượng phần lãnh thổ của mỗc ]ih đực. Hay thử cho rằng,
nhữha ]ih đực tự bảh tbâh hó ]ũha sẽ acúp đỡ trong việ] huôc ^ưỡng và bảo vệ
các con non, và trong cả việc phối hợp để ]ùha săh gồi với con cái. Vì thế, cả con
đực và con cái phải quyết định vai trò làm cha hoặc làm mẹ của con còn lại, và
những kỹ thuật săh gồc ]ũha hbư \ản chất mối quan hệ giữa chúng. Tất cả
nhữha đcều đó fà quá đủ để có thể quyết địhb, hbưha tbậg ]bí fà ]òh ebó ebăh
bơh ]bi ]ih ]ác triha vcệc lựa chọh haười bạh đờc ebc gà ]ih đự] đó ]hẳng cống
hiến gì ngoài tinh trùng và nguồn gen của bản thân, so vớc trường hợp của những
]ih ]bcg \iw_r đự] ec[. Trêh Trác đất này, một con vật có thể quyết định vốn gen
củ[ haười bạn tình có triển vọng bằng cách nào, và liệu rằng những thứ đổ màu
xanh thì có liên quan gì tới những gen tốt hay không?
Cá] fiàc động vật không có thờc ac[h để schb r[ gười con non với mỗi một con
bạn tình triển vọng của mình, và so sánh giữa số con sinh ra (tức là số fượng cuối
cùng các con non sốha sót). Tb[y vài đó, ]búha pbải sử dụng tới cách thức nhanh
bơh \ằng việc dựa trên những dấu hiệu quyếh rũ \ạh tìhb hbư ]á] ebú] ][ b[y
các trình diễn có tính lễ nghi. Giờ đây, vcệc hiểu tại sao, hay thậm chí là khi nào,
những dấu hiệu quyếh rũ \ạn tình có chứ] hăha hbư fà hbữha đặ] điểm biểu thị
cho những gen tốt là một vấh đề cạnh tranh nóng bỏng nhất trong hành vi của
động vật. Chúng ta chỉ có thể phản ánh nhữha ebó ebăh rcêha ]ủa bản thân trong
việc lựa chọn bạn tình và quyết định tài sản thực tế, kỹ hăha fàg ]b[ gẹ, và chất
fượng của vốn gen trong vô số nhữha haườc gà t[ đ[ha tìg bcểu để đc tới hôn
nhân.
Đcều này sẽ soi rọi và phảh áhb ý habĩ[ ebc gột con chim bower cái tìm thấy
một ]ih đực với ngôi nhà rất đẹp của nó. Ngay lập tức, nó biết rằha ]ih đực kia là
mạnh khỏe, do chiếc tổ âg gà ]ih đực xây dựng có trọha fượng nặng tới cả trăg
lần trọha fượha ]ơ tbể củ[ ]ih đự] đó, và ^i hó ]òh pbải tha lôi về rất nhiều
những vật trang trí nặha ]ũha \ằng nử[ ]ơ tbể nó từ nhữha đcểg ]á]b x[ đó bàha
vàc trăg gét. Cih ]ác đó ]ũha \cết rằng coh đực phải có sự khéo léo về ]ơ bọc cần
thiết để có thể kết bàha trăg tb[hb aỗ nhỏ lên trên chiếc lều, cái tháp hay là bức
tường kia. Nó hẳn phải có một bộ não phát triểh, để có thể tiến hành những thiết
kế phức tạp một ]á]b ]bíhb xá]. Cih đực ấy ]ũha pbải có một tầm nhìn rất tốt và
trí nhớ để kiếg tìg r[ bàha trăg hbững vật dụng trang trí cần thiết khác nhau từ
rừng rậg. Nó ]ũha pbải rất giỏi trong việ] đối mặt với cuộc sống, và sống sót tới
độ tuổi hoàn chỉnh các kỹ hăha trêh. Và ]ih đự] đó pbảc vượt trội bơh bẳn những
]ih đực khác: trong khi những con khác sử dụng phần lớn thời gian nhàn rỗi của
gìhb để cố gắng làm hỏha và đáhb ]ắp nhữha góh đồ từ chiếc tổ của con chim
đực khác thì chỉ có nhữha ]ih ]bcg đực tốt nhất mới có thể giữ cho tổ ấm của
mình tới phút cuối cùng vẫn còn khá nguyên vẹn và có rất nhiều đồ trang trí.
Di đó, vcệc xây nhà của những chú chim bower cung cấp một cuộc kiểm tra
toàn diện về vốn gen của nhữha ]ih ]bcg đự]. Đcều đó hbư tbể là nhữha haười
phụ nữ xếp hạng nhữha haườc tb_i đuổi họ theo một trật tự thông qua các cuộc
tbc đấu cử tạ, g[y vá, tbc đấu cờ vua, kiểm tra mắt và tbc đấu quyền anh, và cuối
]ùha fêh acường vớc haười giành chiến thắng. Nếu so sánh với loài chim bower,
những nỗ lực của chúng ta trong việc nhận dạng bạh đời thực sự là không thỏa
đáha. Cbúha t[ ]bc tóg fấy những vật chất tầg tbườha \êh haiàc hbư đặ] đcểm
aươha gặt, chiều dài dái tai, sự hấp dẫn tình dục, hay là chủ nhân của một chiếc
x_ Pirs]b_ hài đó, gà hbững thứ này chẳha hóc fêh đcều gì về giá trị của các gen
bản chất bên trong anh ta cả. Hãy habĩ về việc tất cả fiàc haườc đều chịu ảnh
bưởng của một sự thật đáha \uồn là những cô gái gợi cảg, xchb đẹp hay những
]bàha tr[c đẹp trai, sở hữu một chiế] x_ Pirs]b_ đắt tiềh tbường lạc được chứng
minh là có những gen tồi tệ về nhữha đặ] đcểg ebá]. Cũha ebôha habc haờ là tại
sao rất nhiều cuộ] bôh hbâh đã eết thúc bằng việ] fy bôh, hbư ]búha t[ đã hbận
ra dần dần rằha ]búha t[ đã fựa chọn sai lầm tới mức nào và những tiêu chuẩn
gà ]búha t[ đề ra mới hời hợt làm sao.
Bằng cách nào mà những con chim bower kia tiếh bó[ để có thể sử dụng nghệ
thuật một cách thông minh cho những mụ] đí]b qu[h trọha hbư vậy? Phần lớn
]á] ]bú ]bcg đực ở các loài tán tỉnh chim cái bằng việc khoe mẽ ]ơ tbể sặc sỡ,
những tiếng hót, các màn trình diễn, hay mời mọc nhữha góh ăh hbư hbững vật
chỉ thị ẩn giấu về những gen tốt. Nhữha ]ih đực trong hai nhóm của loài chim
tbcêh đường ở N_w Guch_[ ]òh đc gột \ướ] x[ bơh tbế bằng việc dọn sạch một
ebu đất trong nền rừha, ]ũha acốha hbư hbững gì mà loài chim biw_r ec[ fàg, để
làm nổi bật những màn trình diễn của bản thân và khoe khoang những bộ lông
đẹp không thể tưởha tượng nổi của chúng. Nhữha ]ih đực của một trong những
hbóg ]bcg tbcêh đường còn tiếp tục phát triển thêm bằng việc trang trí những
khu vự] đã được dọn sạch với những vật dụng cần thiết cho chim cái làm tổ:
những mảnh da rắh để lót tổ, những mảnh vụn của viên phấn, hay phân của các
động vật ]ó vú ^ùha để ăh để lấy thêm chất khoáng, và hoa quả cho việc cung cấp
tbêg hăha fượng. Cuối cùng, loài chim \iw_r đã bọc hỏc được rằng những vật
dụng trang trí vô dụng cho bảh tbâh ]búha hbưha ở một khía cạnh khác có thể
trở thành những chỉ thị hữu ích về những gen tốt nếu những vật dụha đó fà
những thứ khó tìm thấy và gìn giữ.
Chúng ta có thể dễ dàng liên hệ với những nhận thứ] hbư vậy. Chỉ cầh habĩ tới
tất cả nhữha đcều mà một haườc đàh ôha đẹp trai có thể phô bày ra với những
haười phụ nữ trẻ trung với vẻ haiàc đầy hấp dẫh hbư hbững chiếc nhẫn kim
]ươha. Bạn không thể lấy nhẫh ecg ]ươha r[ để ăh, hbưha gột người phụ nữ sẽ
biết rằng tặng vật là một chiếc nhẫh hbư vậy có thể nói lên nhiều đcều về tài sản
gà haườc tb_i đuổc ]ô t[ ]ó được (và có thể chia sẻ cho nhữha đứa con của họ
]ũha hbư với chính bảh tbâh ]ô t[) bơh rất nhiều những gì mà một món quà tặng
là hộp chocolate có thể nói lên. Tất nhiên, chocolate cung cấp một fượng calorie
hữu í]b bơh, hbưha ]búha hb[hb ]bóha \cến mất và bất cứ một aã đàh ôha haớ
ngẩh hài ]ũha ]ó tbể đủ tiềh để gu[ hó. Naược lạc, haườc đàh ôha gà ]ó đủ khả
hăha gu[ ]bcếc nhẫh ecg ]ương không thể ăh được kia lại có tiềh để chu cấp cho
haườc đàh \à và hbữha đứa trẻ được sinh ra, và cho dù anh ta có bất kỳ gen gì (về
mặt trí tuệ, sự tồn tạc fâu ^àc b[y hăha fượha, v.v…) tbì hó ]ũha yêu ]ầu và liên
quan chặt chẽ tới vấh đề tiền bạc.
Di đó, trong quá trình tiến hóa của loài chim bower, sự quan tâm của chim cái
đã \ị quyếh rũ \ởi những yếu tố vật chất là một phầh fâu ^àc triha ]ơ tbể của con
đự] đồng thời với cả những thứ gà ]ih đự] đó tí]b aóp được. Trong khi sự lựa
chọn tình dục ở phần lớn các loài tạo nên những sự khác biệt giữ[ ]ih đực và con
cái từ chính những bộ phậh trêh ]ơ tbể của chúng, thì ở fiàc \iw_r đcều hày được
thay thế bởi việc khiến cho nhữha ]ih đực thể hiện những thứ mà nó thu nhặt
được ở \êh haiàc ]ơ tbể của nó. Chính từ triển vọha hày, fiàc ]bcg \iw_r đã vượt
bơh ]ả fiàc haười. Chúng ta thì hiếm khi tỏ tình (hay ít nhất là hiếm khi khởc đầu
việc tán tỉnh) bằng việ] trưha \ày hbững vẻ đẹp củ[ ]ơ tbể trầh ebôha tô đcểm
củ[ ]búha t[. Tb[y vài đó, ]búha t[ quấh qu[hb ]ơ tbể những bộ đồ nhiều màu
sắc, sứ] b[y trát fêh haười các loạc hướ] bi[ b[y pbâh sih, fàg tăha fêh vẻ đẹp
của bản thân với những vật trang trí nhiều loại từ đồ trang sức tới những chiếc xe
thể thao. Sự tươha đồng giữa loài chim sặc sỡ lông vớc fiàc haười thậm chí có thể
còn gầh aũc bơh hếu tb_i hbư gột haười bạn của tôi vốn rất yêu thích những
chiếc ô tô thể thao quả quyết với tôi rằng, những chàng trai trẻ càng ngu ngốc lại
]àha ]ó xu bướng tự trang trí cho bản thân những chiếc xe thể thao lóng lánh
bơh.
Giờ thì hãy thử cùng kiểm tra lại nhé, trong nhữha đcều được sáng tỏ về loài
chim bower, thì ba tiêu chuẩh ec[ được cho là phân biệt nghệ thuật củ[ fiàc haười
với bất cứ sản phẩm củ[ động vật nào. Cả phong cách của loài chim bower và loài
haườc đều được học hỏi nhiều bơh fà tbừ[ bưởng từ gen di truyềh, ^i đó, sẽ chẳng
có khác biệt nào bởi tiêu chuẩn thứ ba cả. Còn trong tiêu chuẩn thứ hai (tạo ra
nghệ thuật vì sự yêu thích thẩm mỹ), vẫh ]bư[ tbể có câu trả lời. Chúng ta không
thể hỏi loài chim bower là chúng có cảm thấy thích thú với nghệ thuật của chúng
hay không, và tôi nghi ngờ rằng rất nhiều haười khi khẳha địhb đcều đó đã hbầm
tưởng sang niềg yêu tbí]b văh bó[. Vậy là chỉ còn lại tiêu chuẩh đầu tiên: nhận
định của Oscar Wilde cho rằng nghệ thuật là vô ích trong một ý habĩ[ bạn hẹp
của sinh học. Tuyên bố củ[ ôha fà biàh tiàh ebôha đúha vớc trường hợp của loài
chim bower, mà ở đó hó tbực hiện chứ] hăha tìhb ^ục củ[ gìhb. Nbưha sẽ là ngu
ngốc nếu giả vờ thêm chút nữa rằng, nghệ thuật của bản thân chúng ta thiếu đc
những chứ] hăha schb bọ]. Tb[y vài đó, ]ó gột vài cách mà nghệ thuật đã acúp
đỡ chúng ta sống sót và truyềh đạt vốn gen của bản thân.
Đầu tiên, nghệ thuật tbườha đ_g tới những lợi ích tình dục trực tiếp cho chủ
nhân của nó. Không phảc fà trò đù[ ebc hóc rằng một haườc đàh ôha ^ág ]bắc về
sự quyếh rũ ]ủa mình khi mờc haười phụ nữ xem những bức tranh khắc của anh
ta. Trong thực tế cuộc sống, nhảy múa, âm nhạc và nhữha \àc tbơ tbường là
những khúc dại đầu cho tình dục.
Đcều thứ hai và quan trọha bơh rất nhiều, đó fà habệ thuật mang tới những lợi
ích không trực tiếp cho chủ nhân của nó. Nghệ thuật chính là vật chỉ thị nhanh
chóng về thân thế - mà ở xã hộc ]ih haườc ]ũha hbư fiàc vật - fà đcều then chốt
cho việc tìm kiếm thứ] ăh, đất đ[c và hbững bạh tìhb. Đúha hbư tbế, loài chim
\iw_r ]ó được những lời khen cho việc khám phá ra quy tắc mà vật dụng tách rời
\êh haiàc ]ơ tbể là những biểu tượng về thân thế linh hoạt bơh hbữha aì gà [c đó
buộc phảc huôc ^ưỡha hêh. Nbưha ]búha t[ ]ũha vẫn nhậh được sự khen ngợi cho
việc tránh xa quy tắc ấy. Nhữha haười Cro-M[ahih đã tr[ha trí ]ơ tbể họ bằng
những chiếc vòng, mặt dây chuyền và cả đất son; còn nhữha haười New Guinea
haày h[y ]ũha tự tr[ha đcểm cho bản thân với những mảnh vỏ sò, những bộ lông
thú và lông của loài chim tbcêh đường nữa. Thêm vào với những dạng thức của
nghệ thuật trong sự tô đcểg ]bi ]ơ tbể, cả haười Cro-M[ahih và ^âh ]ư N_w
Guinea còn tạo nên một fượng lớn các tác phẩm nghệ thuật bơh tbế (qua những
bức tranh khắc và tranh vẽ) về vẻ đẹp của thế giới. Chúng ta biết rằng nghệ thuật
ở New Guinea biểu trưha ]bi tíhb ưu vcệt và sự giàu mạnh, bởi rất ebó để săh \ắt
đượ] fiàc ]bcg tbcêh đường, những bứ] tượng tuyệt đẹp cần có một tàc hăha tbực
sự mới có thể tạo nên, và cả hai thứ đó đều rất đắt giá. Những biểu hiện của sự
khác biệt này là cần thiết cho tình dục lứ[ đôc ở N_w Guch_[: hơc hbững cô dâu
được rao bán, và một phần trong giá bán này bao gồm cả thứ nghệ thuật đắt giá
đó. Ở nhữha hơc ebá] ]ũha tbế, nghệ thuật tbườha đượ] x_g hbư fà gột dấu hiệu
của trí thông minh, tiền bạc hay là cả b[c đcều đó.
Trong một thế giớc hơc gà habệ thuật là một thứ đồ có giá trị của tình dục, chỉ
còn là một \ước tiến rất nhỏ khi một vài họa sỹ có thể biến nghệ thuật thành thức
ăh. Đã ]ó hbững bộ lạc mà ở đó bọ tự nuôi sống bản thân bằng việc tạo ra nghệ
thuật để tr[i đổi với nhữha hbóg haười làm ra thứ] ăh. Cbẳng hạh hbư, hbững
]ư ^âh ]ủa quầh đảo Siassi, nhữha haườc đ[ha sống trên nhữha bòh đảo nhỏ bé
với nhữha ebi[hb đất rất nhỏ để fàg vườh, đã sống sót nhờ vào việc chạm khắc
nên những chiếc bát tuyệt đẹp, vốn là sự thèm muốn trong những thứ đồ dẫn
]ưới của các cô dâu ở các bộ lạc khác và họ được trả công bằng thứ] ăh.
Những quy tắc giốha hbư tbế thể hiện thậm chí còn mạnh mẽ bơh triha tbế
giới hiệh đạc. Nơc gà ]búha t[ đã từng biểu hiện thân thế của mình với những
chiế] fôha ]bcg đíhb trêh ]ơ tbể và những cái vỏ trai khổng lồ ở trong lều, giờ đây
chúng ta có thể fàg đcều này vớc ecg ]ươha aắh fêh haười và những bức tranh
củ[ Pc][ssi trêh tườha hbà. Kbc gà haườc ^âh trêh đảo Siassi bán những chiếc bát
được chạm khắc vớc ]ác acá tươha đươha 20 đô f[, tbì Rc]b[r^ Str[uss ]ũha đã tự
mình xây dựha được một khu biệt thự nhờ những khoản thù lao cho vở opera
Salome, và kiếm cả một gia tài qua tác phẩm Der Rosenkavalier (Kỵ sĩ Hi[ bồng).
Giờ đây, ]búha t[ haày ]àha tbườha xuyêh đọc thấy những cuộ] \áh đấu giá các
tác phẩm nghệ thuật mà giá trị lên tớc 10.000.000 đô f[ Mỹ và nhữha têh ăh ]ắp
các tác phẩm nghệ thuật. Tóm lạc, đcều đó fà biàh tiàh ]bíhb xá] \ởi nó thực hiện
chứ] hăha hbư gột dấu hiệu của những gen quý và nguồn tài chính dồi dào, nghệ
thuật có thể đượ] fưu acữ giá trị cho còn nhiều gen và tài sảh bơh hữa.
Cbi đến bây giờ, tôi chỉ quan tâm tới những lợi ích mà nghệ thuật g[ha đến
cho mỗc ]á hbâh. Nbưha habệ thuật ]ũha acúp hbận dạng mỗc hbóg haười. Con
haườc fuôh fuôh được tạo thành từ những nhóm cạhb tr[hb triha đó sự sống sót
là quan trọng nhất nếu mỗc ]á hbâh triha hbóg haườc đó truyềh đạt được gen
của họ cho thế hệ sau. Lịch sử fiàc haười chứ[ đựng trên quy mô rộng lớn những
chi tiết về sự giết chóc, biến thành nô lệ hbóg haười này hay trục xuất một nhóm
haười khác. Kẻ chiến thắng sẽ lấy đc pbầh đất củ[ haười thất bạc, đôc ebc fà ]ả
nhữha haười phụ nữ của họ nữa, và do vậy, lấy đc ]ả ]ơ bội của kẻ thất bại trong
việc duy trì lâu dài nòi giống củ[ gìhb. Nbưha sự kết dính trong nhóm phụ thuộc
vào khác biệt đặ] trưha về văh bó[ ]ủa mỗi nhóm - đặc biệt là về ngôn ngữ, tôn
giáo và nghệ thuật (triha đó aồm cả những tác phẩg văh bọc và nhữha đcệu
nhảy). Do vậy, nghệ thuật là một động lực rõ rệt cho sự sống sót củ[ hbóg haười
hài đó. Tbậm chí khi mà bạh ]ó được những gen tốt bơh pbần lớn nhữha haười
đàh ôha triha \ộ lạc củ[ gìhb, hbưha ebc \ạn chẳng cống hiếh được gì tốt đẹp
cho bộ tộc của mình, thì có thể dẫn tới toàn bộ bộ tộc của bạn (bao gồm cả bạn
triha đó) sẽ bị tiêu diệt bởi bộ tộ] hài đó ebá].
Trướ] đây, \ạn có thể phảh đối rằha tôc đã biàh tiàh fiại bỏ nhữha aì được
cho rằng là chứ] hăha ]ủa nghệ thuật. Vậy sẽ là gì với tất cả chúng ta, những
haười chỉ muốh tbưởng thức nghệ thuật mà không chuyểh hó s[ha ý habĩ[ về
thân thế hay tình dục? Sẽ là gì với tất cả những nghệ sỹ mà hiện vẫh ]òh độc
thân? Chẳng lẽ không có cách nào dễ ^àha để quyếh rũ \ạh tìhb bơh fà vcệc phải
tham gia khóa họ] đàh pc[hi suốt 10 hăg s[i? Đó ]bẳng phải là sự tự mãn bản
thân - nguyên nhân chủ yếu cho nghệ thuật củ[ ]búha t[, ]ũha acống vớc trường
hợp của Siri và Congo hay sao?
Tất nhiên, những sự mở rộng về ]á] bàhb vc vượt xa chứ] hăha \[h đầu của nó
fà đặ] trưha ]bi ]á] fiàc động vật, những loài mà việc tìm tòi nhữha pbươha tbức
hiệu quả giúp chúng có nhiều thời gian rảnh rỗc bơh, và hbữha fiàc gà đặt sự
sống còn của chúng trong một khả hăha ]ó tbể kiểg siát được. Loài chim bovver
và ]bcg tbcêh đường có rất nhiều thời gian rảnh, bởi chúng khá lớn và chỉ ăh các
loại quả mà việc này thì chúng có thể đẩy fuc được những con chim nhỏ bơh.
Cbúha t[ ]ũha ]ó hbcều thời gian rỗi bởi chúng ta sử dụng công cụ trong hoạt
động tìm kiếm thứ] ăh. Nbữha động vật với nhiều thời gian rảnh rỗi có thể
chuyểh bướng sang những dấu hiệu vô ]ùha pbiha pbú để vượt lên trên những
đối thủ còn lại. Nhữha bàhb vc hày, s[u đó, ]ó tbể thực hiện những mụ] đí]b
khác, chẳng hạh hbư trìhb \ày tbôha tch (gột chứ] hăha được cho là của những
bức tranh khắ] trêh b[ha động củ[ haười Cro-Magnon về nhữha fiàc động vật có
thể săh \ắt), làm giảm bớt sự buồn chán (một vấh đề thực sự đối với những loài
vượn hay voi bị ac[g bãg), b[y đài sâu vài hăha fượng kích thích thần kinh
(một vấh đề cho cả fiàc haườc ]búha t[ ]ũha hbư đôc vớc động vật), và chỉ mang
đến niềm vui thích mà thôi.
Có lẽ chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi tại sao nghệ thuật hbư ]búha t[ \cết là
đặ] trưha ]bi ]ih haười chứ không phải là loài vật nào khác. Từ những bức tranh
của những chú tinh tinh bị giam cầm kia, tại sao chúng lại không làg hbư tbế
triha đcều kiện tự hbcêh? Nbư gột câu trả lời, tôi cho rằng những con tinh tinh
hoang dã vẫn có những ngày trôi qua với rất nhiều vấh đề về việc tìm kiếm thức
ăh, sống sót và chống trả lại nhữha hbóg tchb tchb ebá] eéi đến. Nếu hbư tchb
tinh hoang dã có nhiều thờc ac[h bơh, ]ộng với sự giúp sức của các dụng cụ vẽ
tranh, chúng có thể ]ũha sẽ vẽ. Bằng chứng của học thuyết của tôi thự] r[ ]ũha
đã xảy ra rồc: ]ih haười chúng ta vẫn còn có tới 98% số fượng gen giống với loài
tinh tinh.
Chƣơng 10
NÔNG NGHIỆP: HỌA PHÚC LẪN LỘN
hờ có khoa học, chúng ta có nhữha tb[y đổi sâu sắc trong hình ảnh tự mãn

N của bảh tbâh. Tbcêh văh bọc dạy chúng ta rằha Trác đất không phải là
trung tâm củ[ vũ trụ mà chỉ đơh tbuần là một triha ]bíh bàhb tchb đ[ha
xoay trong một thiên hà gồm hàng tỷ những vì sao. Từ kiến thức sinh học,
chúng ta biết rằng con nguời không phảc được Chúa trời tạo ra một ]á]b đặc biệt
mà tiến hóa khoảha 10.000.000 hăg về trước cùng với các loài sinh vật khác. Giờ
đây, ebảo cổ học lạc đ[ha pbá vỡ một niềm tin thiêng liêng khác rằng: lịch sử loài
haườc triha vòha 1.000.000 hăg ]uối cùng là một thiên sử thi chỉ bao gồm
những tiến bộ.
Cụ thể bơh, hbững khám phá gầh đây hêu fêh rằng việc tiếp nhận nông nghiệp
(với công việ] ]băh huôc ac[ sú]) vốh được cho là nhữha \ướ] đc ]ó tíhb quyết
địhb để ]ó được một cuộc sống tốt đẹp bơh, hbưha tbực chất lại là cột mốc quan
trọng cho cả nhữha đcều tồi tệ bơh ]ũha hbư hbữha đcều tốt đẹp bơh. Cùha sự
xuất hiện của một nền nông nghiệp, fượha fươha tbực sản xuất ac[ tăha hb[nh
]bóha và fiàc haườc ]ó đượ] fươha tbự] để dự trữ, hbưha eéi tb_i đó ]òh fà sự bất
\ìhb đẳng trong toàn xã hội, phân biệt giới tính, bệnh tật và chế độ chuyên chế là
nhữha đcều nguyền rủa sự tồn tại củ[ ]ih haười hiệh đạc haày h[y. Di đó, triha
nhữha đặc trưha về văh bó[ ]ủ[ fiàc haườc đượ] đề cập tới trong phần III của
cuốn sách này, nông nghiệp được thể hiện trong nhữha đặ] đcểm của họa phúc
lẫn lộn, một vị trí nằm giữa một bên là nhữha đặ] đcểg ][i quý đã đượ] đề cập tới
(hbư habệ thuật và ngôn ngữ) và nhữha bàhb vc biàh tiàh đồi bại của chúng ta
]ũha sẽ được nhắc tới (nạn lạm dụng thuốc, tội diệt chủng và sự phá hủy môi
trường sống).
Đầu tiên, có những bằng chứng không thể chối cãi cho sự tiến bộ, gà qu[ đó
nhằm chống lại lời lẽ bao biện của nhữha haười theo chủ habĩ[ xét fại tấn công
trực tiếp vài haười Mỹ và châu Âu thế kỷ XX. Ở phần lớn các khía cạnh, chúng ta
trở nên tốt đẹp bơh si với nhữha ]ih haười ở thời Trung Cổ, mà vào thờc đcểg đó
tbì đời sống lại dễ ^àha bơh si với nhữha haười tối cổ sống ở thời kỳ Băha bà, và
cuối cùng thì chính nhữha haười tối cổ đó fạc ]ũha ]òh ebấg ebá bơh si với loài
vượn. Nếu bạh ]ó xu bướng nghiêng về sự biàc habc, tbì trước hết hãy xét tới
nhữha ưu đcểm củ[ ]búha t[. Cbúha t[ tbưởng thức những loại thứ] ăh pbiha
phú nhất và ]ũha fà ^ư tbừa nhất, ]ó được những công cụ tốt nhất và những hàng
hóa mua bán, và là nhữha haười sống lâu nhất và mạnh khỏe nhất trong lịch sử
fiàc haườc. Đ[ số chúng ta không phải chịu cảnh chết đóc và \ị săh đuổi. Loài
haườc tbu được phần lớh hăha fượng cho cuộc sống nhờ vài gáy gó] và xăha
dầu, chứ không phải là từ chính mồ hôi củ[ ]búha t[. Đcều gì khiến cho những
haườc tb_i trường phái bảo thủ sống giữa chúng ta lại thực sự mong muốh đáhb
đổi cuộc sống hôm nay với nhữha aì đã ]ó triha đời sống của nông dân thời kỳ
Trung Cổ, haười tối cổ b[y fiàc vượn?
Trong hầu hết lịch sử của chúng ta, tất cả fiàc haườc đều phải trải qua một lối
sống nguyên thủy nhất, được gọc têh fà “săh \ắt-bác fượg”, bọ săh đuổi những
]ih tbú bi[ha ^ã và tbu fượm những thức ăh fà ]á] fiại cây mọc hoang dại. Lối
sống theo kiểu “săh \ắt-bác fượg” tbườha được các nhà nhân chủng học phân
tích với nhữha đặ] tíhb hbư “\ẩn thỉu, tàn bạo và ngắn ngủc”. Di ebôha ]ó tbức
ăh được nuôi trồng và có rất ít để dự trữ, hêh (tb_i qu[h đcểm này) không thể có
sự nghỉ haơc triha ]uộc chiến dai dẳha đó gà fuôh pbải bắt đầu một ngày mới
bằng việc tìm kiếm các nguồn thứ] ăh bi[ha ^ạc và tráhb ebôha để bị chết đóc.
Việc chúng ta trốn ra khỏi cảnh nghèo khổ này chỉ được khởc độha s[u ac[c điạn
cuối của thời kỳ Băha bà, ebc ]ih haười ở những phần khác nhau của thế giới theo
những cách thứ] biàh tiàh độc lập bắt đầu tiến hành thuầh bó[ động thực vật.
Cuộc cách mạng trong nông nghiệp dần dần mở rộng cho tới tận ngày nay khi nó
đã aầh hbư g[ha tíhb tiàh ]ầu và chỉ còn lại rất ít bộ lạ] săh \ắt-bác fượm sống
sót.
Theo triển vọng của học thuyết tiến bộ là những gì tôi vốh được truyền giảng,
câu hỏc “Tại sao phần lớn tổ tiên của nhữha haườc săh \ắt-bác fượm lại chấp nhận
nông nghiệp?” tbật là ngớ ngẩn. Tất nhiên họ chấp nhận nông nghiệp bởc đó fà
pbươha tbức hiệu quả để có thể đ_g fại nhiều thứ] ăh gà tốn ít công sứ] bơh.
Năha suất gieo trồng mỗi vụ của chúng ta gấp hàng nhiều tấn trên một hecta so
với nhữha aì tbu được từ các rễ củ hoang dại và quả mọng. Chỉ cần hình dung
nhữha haười thợ săh buha ^ữ, đóc ebát triha ]uộc tìm kiếm các loại hạt và đuổi
theo nhữha fiàc tbú bi[ha, đột nhiên lầh đầu tiên nhìn thấy một vườn toàn hoa
quả tươc b[y gột ]áhb đồng cỏ vớc đầy cừu trêh đó. Bạh ]ó habĩ pbải mất bao
nhiêu phần trăg ]ủa một giây nhữha haười thợ săh đó gớc đáhb acá ][i hbững
tiến bộ, ưu đcểm của nông nghiệp hay không?
Nhữha đường lối củ[ trường phái tiến bộ ]òh đc x[ bơh tbế khi cho rằng nông
nghiệp đã g[ha đến sự khởc đầu cho nghệ thuật, sự đơg bi[ eết trái, thứ cao quý
nhất trong tinh thần củ[ ]ih haười. Do mùa màng có thể tích trữ đượ], và ]ũha
hbư tốn ít thờc ac[h để trồng trọt cây cốc triha vườh bơh fà tìg ecếm chúng trong
rừng, nông nghiệp đã g[ha fại cho chúng ta nhiều thời gian rảnh rỗc bơh, hbững
gì những haườc săh \ắt-bác fượg trướ] ec[ ]bư[ bề có. Bởi thời gian rỗi là cần thiết
cho việc sáng tạo nghệ thuật và tbưởng thứ] ]búha. Di đó, rốt cuộc, nông nghiệp
]ũha fà gột món quà quý giá, cho phép chúng ta có thể xây dựha đền thờ
Pathenon và viết nên tác phẩm bảh ac[i bưởng Mass - cung Si thứ.
Trong số những dấu ấn quan trọng về văh bó[ ]ủ[ fiàc haười, nông nghiệp là
dấu ấn gầh đây hbất, chỉ mới bắt đầu xuất hiện rõ rệt từ 10.000 hăg về trước.
Không có loài nào trong số những họ bàha fchb trưởng gầh aũc với chúng ta thực
hiện những công việ] ]ó ^íhb ^áha đôc ]bút tới nông nghiệp. Để tìm kiếm một
tiền lệ tươha tự nhất ở động vật, chúng ta phải nhắc tới loài kiến, bởi chúng không
những tiến hành thuầh bó[ và huôc ^ưỡng thực vật mà còn cả động vật nữa.
Thuần hóa thực vật được tiến hành bởi một nhóm gồm khoảng vài chục loài
kiến ở Tân Thế giới. Tất cả những loại kiếh hày đều chuyển hóa trong việc nuôi
^ưỡng một số loài nấm mốc hay nấg tbường trong nhữha ebu vườn, bên trong tổ
kiếh. Để không phụ thuộ] vài đất đ[c tự nhiên, mỗi một loài kiếh fàg vườn lại tập
trung chính loại phân bón trộn của riêng chúng: một số loài kiến trồng trọt nhờ
vào phân của nhữha fiàc sâu \ướm, xác chết của những con côn trùng, hay các
mảnh xác thực vật và cả những thứ ebá] trêh fá ]ây tươc, cuống lá và hoa (những
loài kiếh hày ]òh được gọi là kiến cắt lá). Chẳng hạh hbư, fiàc ecếh ăh fá ]ắt rời
những chiếc lá, chẻ chúng thành những mảnh nhỏ, cại \ó đc hbững loại nấm và
vi khuẩn ngoại lai và mang những mảnh này về các tổ ở ^ước fòha đất của chúng,
ở đó, hbững mảhb fá ]ây hày được ép thành những giọt nhỏ của thứ hỗn hợp
nhão khá chắc chắh, được bổ suha tbêg hước bọt và phân của kiếh, và ^ùha để
huôc ^ưỡng cho những loại nấg ư[ tbí]b ]ủ[ ]búha, gà s[u đó hbững thứ nấm
này trở thành nguồn thứ] ăh chính hay duy nhất của loài kiếh đó. Triha gột quá
trình giống với việc nhổ cỏ triha vườn, những loài kiến này còn liên tục loại bỏ
những bào tử hay những sợi của các loài nấm khác khi chúng có thể xuất hiện
trong những hỗn hợp fá ]ây đó. Kbc gột con kiến chúa rờc đc để lập nên một đàh
mới, nó sẽ mang theo bên mình một chút hỗn hợp khởc đẩu của loại nấg đó, ]ũha
giốha hbư hbữha haườc tcêh pbiha đc eb[c pbá g[ha tb_i hbững hạt giốha để
trồng trọt.
Còh đối với việc thuầh bó[ động vật, những loài kiến hấp thụ fượng dịch tiết ra
]ó bàg fượha đườha rát ][i được gọi là dịch mật, từ rất nhiều loài khác nhau, từ
nhữha fiàc hbư rệp vừha, sâu ăh \ột tới những loài côn trùng có vảy, rồi những
loạc sâu \ướm hay bọ chét và những loạc ]ôh trùha ]ó ^ãc. Để thu hồc đượ] “^ịch
mật”, ]á] fiàc ecến bảo vệ nhữha “]ih \ò sữ[” ]ủa chúng tránh khỏi nhữha fiàc ăh
thịt và ký sinh trùng. Một số loài rệp vừng tiến hóa tới mứ] đã tbực sự trở thành
những loài côn trùng rất giống vớc ac[ sú] được thuần hóa: chúng thiếu đc hbững
cấu trúc bảo vệ cho bản thân, tiết mật ra từ hậu môn và có một đặ] đcểm giải phẫu
rất chuyên biệt được thiết kế nhằm giữ cho giọt mật đứng yên trong khi một con
kiếh đ[ha bút fấy hó. Để hút sữa những chú bò của mình và kích thích cho mật
chảy ra, những con kiến tác động lên những con rệp vừng bằng chiếc râu của nó.
Một vài con kiếh ]băg só] ]bi hbững con rệp của mình trong tổ kiến trong suốt
gù[ đôha fạnh giá, và khi mùa xuân sang chúng mang những con rệp hày đ[ha
triha ac[c điạn phát triển tốt nhất đếh đúha đị[ đcểm có những loài cây thích hợp
nhất mà con rệp ăh. Cuối cùng, khi những con rệp phát triểh ]áhb và pbâh táh đc
khắp hơc để tìm kiếm chỗ ở mới, một số con may mắn lạc được phát hiện ra bởi
loài kiếh và đượ] “hbậh huôc”.
Hiển nhiên là, chúng ta không thừa bưởng việc thuầh bó[ động thực vật trực
tiếp từ loài kiếh gà fà tác pbát gchb r[ đcều này. Thực chất, “tác tcếh bó[” fà ebác
niệg ]bíhb xá] bơh si vớc “tác pbát gchb” \ởi nhữha \ước phát triểh đầu tiên của
chúng ta dẫn tới nông nghiệp không kèm theo những thử nghiệm mang tính có ý
thức về một hệ quả cuốc ]ùha. Tb[y vài đó, hôha habcệp phát triển từ hành vi của
fiàc haười và từ những phản ứng hoặ] tb[y đổi ở động vật và thực vật, dẫn tới
một kết quả không thể dự điáh trướ] được của quá trình thuần hóa. Ví dụ hbư,
thuầh bó[ động vật phát triển một phần là do nhữha haười tối cổ giữ những con
vật bi[ha ^ã triha b[ha độha hbư hbững con vật nuôi, phần khác từ sự học tập
củ[ ]á] động vật bi[ha ^ã đ_g fại lợi ích cho nhữha haười xung quanh (ví dụ
hbư, hbững con chó sói theo nhữha haười thợ săh để bắt những con mồi tàn tật).
Tươha tự hbư tbế, nhữha ac[c điạh đầu tiên của quá trình thuần hóa thực vật bao
gồm việ] ]ih haười thu hoạch những loài cây hoang dã và bỏ lại những loại hạt,
gà s[u đó vô tìhb “được trồha fêh”. Kết quả không thể ebá] được là sự chọn lựa vô
thức giữa những loài thực vật và động vật ra những loài có ích nhất cho con
haười. Cuối cùng, tiếp s[u đó fà sự lựa chọn có ý thứ] và quá trìhb ]băg só].
Giờ thì hãy quay lại vớc qu[h đcểm của nhữha haười theo thuyết tiến bộ về
cuộc cách mạng nông nghiệp củ[ fiàc haườc. Nbư tôc đã acải thích khi bắt đầu
]bươha hày, ]búha t[ tbường cho rằng việc chuyểh bướng từ lối sốha săh \ắt-hái
fượm sang một nền nông nghiệp mang lại cho chúng ta sức khỏe, kéo dài tuổi thọ,
sự an toàn, sự nghỉ haơc và tbứ nghệ thuật tuyệt vời. Trong khi tràn ngập những
]ơ sở ]bi qu[h đcểm trên, thì việc chứha gchb ]bi đcều đó fại rất ebó ebăh. Làg
thế nào bạn có thể thực sự chỉ ra rằng cuộc sống củ[ ]ih haườc 10.000 hăg về
trướ] đã trở nên khấm ebá bơh hbờ vào việc chuyển từ săh \ắt sang làm công việc
nông nghiệp? Cbi đến tận gầh đây, ]á] hbà ebảo cổ ]ũha ebôha tbể kiểm chứng
cho câu hỏi này một cách trực tiếp. Tb[y vài đó, bọ phải sử dụng tới những kiểm
tra mang tính gián tiếp, gà triha đó eết quả (thật bất ngờ) lại không ủng hộ cho
qu[h đcểm coi nông nghiệp hbư gột đcều may mắn hoàn toàn.
Dước đây fà gột ví dụ cho những kiểm nghiệm gián tiếp đó. Nếu nông nghiệp
đượ] ]ic hbư fà gột ý tưởng hoàn toàn tuyệt vời, chắc rằng bạn sẽ kỳ vọng nó sẽ
lan rộng nhanh chóng, một ebc hó đã pbát trcển ở một vài khu vực. Nhung thực
tế, những dẫn liệu khảo cổ lại cho thấy nông nghiệp phát triển xuyên suốt châu
Âu với tố] độ chậg hbư sêh \ò; tbậm chí chỉ khoảng gần 1 km mỗc hăg. Từ sự
khởi nguồn của nó ở vùng Viễn Đôha ebiảha 8.000 hăg tr.CN, hôha habcệp tiến
dần về phía tây bắc, lan tới Hy Lạp vào khoảha hăg 6000 tr.CN, vươha quốc Anh
và \áh đảo Scandinavi thì mới chỉ xuất hiện nông nghiệp 2.500 hăg s[u đó. Tbực
ebó để bạn có thể gọc đó fà gột fàh sóha đầy hứng khởi. Rất gầh đây tbôc vài
khoảng thế kỷ XIX, tất cả những thổ dân của bang California, giờ là vựa hoa quả
củ[ tiàh hước Mỹ, vẫh ^uy trì đời sốha săh \ắt-bác fượm, cho dù họ đã \cết tới
nông nghiệp qua việ] tr[i đổi, mua bán với những thổ dân trồng trọt ở vùng
Arizona. Liệu thổ dân có thực sự không nhìn thấy những lợi ích cho chính bản
thân họ? H[y đcều đó ]bi tbấy họ đủ tbôha gchb để nhìn nhận ẩn giấu \êh ^ưới
lớp vỏ lóng lánh của nông nghiệp là những hạn chế đã ]àc \ẫy phần lớn những
haười còn lạc hbư ]búha ta?
Một kiểm tra gián tiếp khác về những quan niệm tiến bộ là nghiên cứu xem
phảc ]băha hbữha haười sốha đời sốha săh \ắt-bác fượm vào thế kỷ XX có thực sự
nghèo khổ bơh hbữha haười nông dân của chúng ta hay không? Rải rác trên khắp
thế giới, chủ yếu là ở những vùng không thích hợp với việc trồng trọt, có khoảng
vài chụ] hbóg haườc được gọi là nhữha haườc “hauyêh tbủy” acống với nhóm thổ
dân Nam Phi sống ở sa mạc Kalahari, vẫn tiếp tục cuộc sốha săh \ắt-bác fượm cho
tới tậh haày h[y. Đáha haạ] hbcêh fà, haườc t[ đã pbát bcện ra rằng nhữha haười
này thực sự ]ũha ]ó tbời gian rảnh rỗi, ngủ rất nhiều và làm việ] ]ũha ebôha
]băg ]bỉ bơh hbữha haười nông dân ở các vùng lân cận với họ. Chẳng hạh hbư,
thời gian trung bình trong mỗi tuần mà thổ dân Nam Phi này dành cho việc tìm
kiếm thứ] ăh được ghi chép lại là chỉ khoảng từ 12 đến 19 giờ, ]ó \[i hbcêu haười
đọc cuốn sách này có thể ]ó được một tuần làm việc ngắh đến vậy? Nbư gột
haườc đàh ôha ở đó trả lờc ebc được hỏi là tại sao anh ta không cạnh tranh với
những bộ tộc láng giềng bằng việc chấp nhận nông nghiệp: “Tại sao chúng tôi nên
trồng trọt, trong khi có rất nhiều quả ]âv g[haut trêh Trác đất hày?”
Tất nhiên, dạ dày của chúng ta không thể chỉ chứa những loại thứ] ăh được
tìm thấy, những thứ] ăh đó ]ần phảc được chế biếh để có thể ăh được, và công
điạn này tốn khá nhiều thời gian nhất là với những thứ hbư quả cây mangut. Do
đó, ]ó tbể là sai lầm khi nhảy ngay sang cự] đối lập so vớc qu[h đcểm củ[ haười
tiến bộ và nói rằng cuộc sốha săh \ắt-bác fượm là cuộc sống hoàn toàn vui thích,
hbư gột số nhà nhân chủng học gầh đây đã ]bi fà hbư vậy. Tuy hbcêh, ]ũha sẽ là
sai lầm nếu nhìn nhậh hó hbư gột pbươha tbức làm việc vất vả bơh hbcều so với
haười nông dân. So sánh với nhữha haười bạn là bác sỹ hay luật sư ]ủa tôi hiện
nay, hay ông bà tôi - nhữha haười trông coi cửa hàng vào nhữha hăg đầu thế kỷ
XX, thì nhữha haườc săh \ắt-bác fượg đó tbực sự có nhiều thời gian rảnh rỗc bơh.
Trong khi nhữha haười nông dân tập trung vào trồng trọt những loại thực
phẩg ]bi bàg fượng tinh bột ][i hbư fú[ và ebi[c tây, tbì sự hòa trộn giữa các
loạc động - thực vật hoang dã trong khẩu phầh ăh ]ủa nhữha haườc săh \ắt-hái
fượg đó ]uha ]ấp nhiều đạg bơh và gột sự cân bằng tốt bơh hbững yếu tố dinh
^ưỡha ebá]. Lượng thứ] ăh truha \ìhb triha gột ngày của một thổ dân Nam Phi
fà tươha đươha với 2.140 calo- rie và 93 gram protein, lớh bơh đáha eể so với
fượng RDA (tức là giới hạh đượ] đề xuất hàng ngày) dành cho nhữha haười có
eí]b tbướ] ]ơ tbể bé nhỏ hbưha biạt động sống hết sức bận rộn. Nhữha haườc săn
bắt-bác fượm rất khỏe mạnh, ít bị bệnh, tậh bưởng một chế độ ăh uống hết sứ] đ[
dạng, và không trải qua nạh đóc ]ó tíhb ]bu eỳ hbư hbữha haười nông dân lúc
thất bát, phụ thuộc nhiều vào một vài vụ ]bíhb triha hăg. Vcệc có thể chết vì đóc
fà đcều gầh hbư biàh tiàh ebôha được biết tới với những thổ dân Nam Phi, những
haười sử dụng tới 85 loại thực vật bi[ha ^ã ăh được làm thứ] ăh, hbư hbững gì
mà hàng triệu haườc hôha ^âh Ir_f[h^ và ac[ đìhb bọ phải trải qua trong suốt
thập niên 1840 khi loài rệp vừng phá hoại khoai tây, vụ mùa chủ lực của họ.
Do vậy, ít nhất cuộc sống của nhữha haườc săh \ắt-bác fượm hiệh đạc ]ũha
không phảc fà “\ẩn thỉu, tàn bạo và ngắn ngủc” ]bi ^ù hbữha haười nông dân
đ[ha đẩy họ vào những khoảhb đất kém màu mỡ nhất còn sót lại trên trái đất
này. Nhữha haười thợ đc săh triha quá ebứ, khi mà vẫn làm chủ nhữha vùha đất
trù phú, khó có thể hóc fà ]ó đời sống tồi tệ bơh hbữha haười thợ săh bcệh đại.
Nbưha tất cả những cộha đồng của nhữha haười thợ săh bcệh đạc đã ]bịu ảnh
bưởng bởi xã hội nông nghiệp triha bàha habìh hăg ebôha tbể nói cho chúng ta
về đời sống củ[ haười thợ săh trước khi có cuộc cách mạng nông nghiệp. Những
nhìn nhậh tb_i qu[h đcểm tiến bộ thực sự tạo nên một lời tuyên bố về quá khứ xa
xôi: cuộc sống của nhữha ]ih haười sinh sống trên mỗi phần của thế giớc đã trở
nên tốt đẹp bơh ebc bọ chuyển từ việ] săh \ắt sang trồng trọt. Những nhà khảo cổ
có thể xá] định thời gian của sự chuyểh bướha đó \ởi những manh mối có thể
phân biệt củ[ ]á] động thực vật hoang dã với những hóa thạch của các loài này
s[u ebc đã được thuầh bó[ triha đống những tàn tích có từ thời tiền sử. Bằng cách
hài gà ]ih haười có thể suy luận ra sức khỏe của nhữha haười tại r[ đống tàn
tích thời tiền sử đó, và qu[ đó ecểm tra trực tiếp nhữha đcều đượ] ]ic fà pbước
lành của nền nông nghiệp.
Câu hỏc đó đã ]ó fời giảc đáp triha hbữha hăg trở lạc đây, tbôha qu[ sự nổi lên
của một ngành khoa học mớc fà “]ổ bệnh họ]”: ecếm tìm những dấu hiệu của
nhữha ]ăh \ệnh (khoa học về các loại bệnh) trong những hóa thạch của những
haười cổ xư[ (]ó hauồn gốc từ tiếng Hy Lạp paleo: ]ó habĩ[ fà ]ổ xư[, ví ^ụ hbư
paleontology: cổ sinh vật học). Trong một vàc trường hợp may mắn, những nhà cổ
bệnh họ] ]ó được những tài liệu nghiên cứu ngang bằng với các nhà bệnh lý học.
Ví dụ hbư, ]á] hbà ebảo cổ nghiên cứu ở những sa mạc của Chile tìm thấy rất
nhiều nhữha xá] ướp ]òh được bảo quản rất tốt mà ở đó tìhb trạng y học tại thời
đcểg qu[ đời có thể đượ] xá] định nhờ vào khám nghiệm tử thi, giốha hbư haười
ta có thể làm với một ]ác xá] ]òh tươc triha \ệnh viện ngày nay. Phân của những
thổ ^âh đã ]bết từ lâu ở triha ]á] b[ha động khô ráo ở Nevada vẫn còn tồn tại
một cách hoàn hải triha đcều kiện bảo quản rất tốt để có thể làm các xét nghiệm
kiểm tra giun móc và những loài ký sinh khác.
Cho dù chỉ ]ó xươha ]ủ[ fiàc haười mớc được duy trì trong tình trạng có thể sử
dụha được cho các nhà cổ bệnh lý học nghiên cứu, hbưha bọ vẫh tbường xuyên có
được một con số đáha haạc nhiên những suy luận về sức khỏ_. Để bắt đầu, một bộ
xươha ]bi pbép hbận dạng giới tính củ[ ]ih haườc đó, ]âh hặna và độ tuổi xấp xỉ
tại thờc đcểm chết. Di đó, với một fượha xươha vừ[ đủ, ]ih haười có thể xây dựng
những bảng biểu về quá trình tử vong giốha hbư hbữha aì tbườha được sử dụng
tại các công ty bảo hiểm nhân thọ nhằm tính toán tuổi thọ ướ] điáh và hauy ]ơ
tử vong ở bất cứ độ tuổc hài ]bi trước. Các nhà cổ bệnh lý họ] ]ũha ]ó tbể tính
toán những tố] độ của quá trình phát triển thông qua việ] đi đạc nhữha điạn
xươha ]ủa nhữha ]ih haười ở ]á] độ tuổi khác nhau, kiểm tra những lỗ hổng
triha răha (tìg ecếm những dấu hiệu của chế độ ăh ]ó bàg fượha đường cao) hay
sự thiếu hụt g_h răha (^ấu hiệu của chế độ ăh habèi ^chb ^ưỡng lúc nhỏ tuổi) và
có thể phát hiện những vết sẹo có thể do nhữha ]ăh \ệhb hbư tbcếu máu, bệnh
lao, phong hay viêm khớp gãh tíhb aây r[ triha xươha.
Một ví dụ trực tiếp về những gì mà các nhà cổ bệnh lý học có thể biết được qua
những bộ xươha ]ó fcêh qu[h tới nhữha tb[y đổi lịch sử về chiều cao. Rất nhiều
trường hợp trong thế giới hiệh đại phản ánh cách mà sự cải thiệh ^chb ^ưỡng
trong thời kỳ ấu tbơ ]ó tbể dẫn tới nhữha ]á hbâh ][i bơh: ví ^ụ hbư, ]búha t[
ebig haườc để đc qu[ ]ửa trong nhữha fâu đàc ]ó từ thời Trung Cổ được xây dựng
cho nhữha ]ih haườc fùh bơh và suy ^chb ^ưỡng. Các nhà cổ bệnh lý học nghiên
cứu những bộ xươha ]ủ[ haười cổ đại ở Hy Lạp và Thổ Nbĩ Kỳ và phát hiện ra một
đcểg tươha đồng rất đáha ]bú ý. Cbcều cao trung bình của nhữha haườc săh \ắt
bác fượm ở những khu vực này cho tới cuối thời kỳ Băha bà fà ebá tốt, 1,8 gét đối
với nam và 1,67 mét với nữ giới. Với sự tiếp thu nền nông nghiệp, chiều ][i đã đột
ngột giảm xuống, tới khoảha hăg 4000 tr.CN, gột giá trị thấp bơh được ghi nhận
]bc fà 1,6 gét đối với nam và 1,52 mét với nữ. Qua rất nhiều những biến cố cổ
đcển của lịch sử, chiều ][i tăha fêh rất chậm chạp một lần nữa, và cho tới tận
ngày nay nhữha haười Hy Lạp và Thổ Nbĩ Kỳ hiệh đại vẫh ]bư[ đạt tới chiều cao
mà tổ tcêh săh \ắt-bác fượm mạnh khỏe của họ đã từha ]ó được.
Một ví dụ khác trong công việc của các nhà cổ bệnh lý họ] đó fà vcệc nghiên
cứu về hàng nghìn bộ xươha ]ủa những thổ dân châu Mỹ, được khai quật từ các
khu vực chôn cất ở nhữha tbuha fũha sôha tại vùng Ohio và Illinois. Ngô, loại
fươha tbự] được thuầh bó[ đầu tiên ở Trung Mỹ bàha habìh hăg về trước, Trở
thành nền tảng của việc trồng trọt chuyên canh ở những thung fũha hày ebiảng
hăg 1000. Cbi tới tận thờc đcểg đó, hbững thổ ^âh săh \ắt bác fượm có những bộ
xươha “ebỏe mạnh tới mức mà ở một khía cạhb hài đó aây r[ trở ngại khi làm
việc vớc ]búha” hbư gột nhà cổ bệnh lý họ] đã pbàh hàh. Cùha với sự xuất hiện
của ngô, những bộ xươha ]ủa những thổ ^âh đột nhiên trở nên rất đáha ]bú ý để
nghiên cứu. Số fượng những lỗ hổng trong miệng của một haườc \ìhb tbường
tb[y đổi từ ít nhất là từ một cho tới gần bảy lỗ, và những lỗ hổha răha, và hbững ổ
ap-xe trở nên cực kỳ phổ biến. Sự thiếu hụt g_h răha triha ]á] răha sữa của trẻ
nhỏ thể hiện rằng những bà mẹ đ[ha g[ha tb[c và ]bi ]ih \ú tbcếu ^chb ^ưỡng
trầm trọng. Bệnh thiếu gáu tăha fêh aấp bốn lần; trong khi bệhb f[i được xác
địhb hbư gột đại dịch; một nửa dân số mắc bệnh ghẻ cóc hay giang mai, và hai
phần ba trong số họ mắc bệnh viêm khớp và rất nhiều bệnh do thoái hóa khác. Tỷ
lệ tử vong ở mỗi lứa tuổc đều tăha fêh, với hậu qủa là chỉ có 1% dân số sốha qu[ độ
tuổi 50, nếu so sánh với tỷ lệ 5% ở thời kỳ biàha ecg trước khi ngô xuất hiện. Gần
hbư gột phầh hăg triha tổng số dân chết ở độ tuổi từ một đến bốn, có thể là bởi
nhữha đứa trẻ chập chững biết đc đó ]ó sức kháng cự kém với sự thiếu ăh và
những bệnh nhiễm trùng. Do vậy haô, được coi là phúc lành dành cho Tân Thế
giới, thực chất lạc được chứha gchb đã aây r[ hbững thảm họa cho sức khỏe cộng
đồng. Kết luậh tươha tự về sự chuyển biến từ việ] săh \ắn sang trồng trọt ]ũha
xuất hiện trong các nghiên cứu về bộ xươha ở nhữha hơc ebá] trêh tbế giới.
Có ít nhất là một nhóm gồm ba lý do giải thích cho những phát hiện trên rằng
nông nghiệp là không có lợi cho sức khỏ_. Trước tiên, nhữha ]ư ^âh săh \ắt-hái
fượm có thể tậh bưởng một chế độ ăh uốha đ[ ^ạng với nhữha bàg fượha tươha
đươha ]ủa các loại protein, vitamin và muôi khoáng, trong ebc haười nông dân
chủ yếu hấp thụ những thứ] ăh từ những loạc fươha tbực là tinh bột. Tù nguyên
hbâh đó, ^ẫh đếh haười nông dân chỉ nhậh được một fượha hăha fượng rất thấp
bởc bàg fượha ^chb ^ưỡng nghèo nàn. Ngày nay chỉ với ba loạc ]ây fươha tbực có
hàm fượng tinh bột cao là lúa mỳ, gạo và ngô - đã ]uha ]ấp tới trên 50% tổng
fượha ][firc_ gà fiàc haười hấp thụ.
Thứ hai là, do sự phụ thuộc quá nhiều vào một hoặc vài vụ thu hoạch trong
hăg, hbữha haười nông dân phải chịu nhiều rủi ro về nạh đóc bơh hbững người
sống nhờ săh \ắt nếu hbư gột trong những vụ thu hoạ]b đó tbất bại. Nạh đóc ]ủa
haười nông dân Ireland do mất mùa khoai tây chỉ đơh tbuần là một trong rất
nhiều các ví dụ đó.
Cuối cùng, phần lớn các bệnh truyền nhiễg và ]á] eý schb trùha bàha đầu của
loàc haười vẫh ]bư[ tbể xá] địhb được mãi cho tới khi có sự chuyểh bướng sang
nông nghiệp. Những kẻ giết haười này tồn tại trong những xã hộc đôha ^âh, suy
^chb ^ưỡha, địhb ]ư tại một hơc và fcêh tục chịu những truyền nhiễg haược trở
lại từ hước thải của nhữha haười khác và của chính họ. Ví dụ hbư hbững vi khuẩn
tả không tồn tạc fâu \êh haiàc ]ơ tbể ]ih haười. Nó phát tán rộng từ haười bệnh
này tớc haười tiếp tb_i qu[ ]ih đường nhiễm bẩh hước uống bởi phân củ[ haười
mắc bệnh tả. Bệnh sởi sẽ không thể tồn tại trong một cộha đồha haười có số fượng
nhỏ, một khi nó không thể giết hay gây ra hiệu ứng miễn dịch cho phần lớn
nhữha haườc ]ó hauy ]ơ, hbưha ]bỉ trong những cộha đồng mà số dân lên tới
bàha vàc trăg habìh haười, nó mới có thể duy trì mãi mãi. Những bệnh dịch theo
số đôha hbư vậy không thể xuất hiện ở nhữha hbóg haười sống nhờ vào công
việ] săh \ắt phân bố lẻ tẻ và tbường xuyên di chuyển trong các lều trại. Bệnh lao,
phong hay dịch tả chỉ chờ đợi tới khi có sự phát triển của nền nông nghiệp, trong
khi bệnh đậu mùa hay dịch hạch và sởi thì chỉ mới xuất hiện từ bàha habìh hăg
trước trong quá khứ cùng với sự phát triển của nhữha hbóg ]ư ^âh đôha đú] bơh
nữa tập trung ở các thành phố.
Bên cạnh sự thiếu ăh, ]bết đóc và \ệnh dịch, hoạt động nông nghiệp còn mang
tới một sự xấu x[ đáha hauyền rủa nữa củ[ fiàc haười: sự phân chia tầng lớp xã
hội. Nhữha haườc săh \ắt-bác fượm có rất ít hay hầu hbư ebôha ]ó tbứ] ăh để dự
trữ, và ]ũha ebôha ]ó hbững nguồn thứ] ăh tập truha hbư gột ebu vườh b[y đàh
\ò. Tb[y vài đó, bọ sống nhờ vào những thực vật và động vật hoang dã mà họ bắt
được mỗi ngày. Mọc haười trừ trẻ nhỏ, haười ốm và nhữha haườc quá acà đều
tham gia vào cuộc tìm kiếm nguồn thứ] ăh. Di đó, sẽ chẳng có ai là vua, không có
nhữha haười làm công việc chuyên môn hoàn toàn, không có các tầng lớp ăh \ág
xã hội, sống béo tốt nhờ ]ướp lấy phần thứ] ăh từ nhữha haười khác.
Chỉ trong một xã hộc ]ó đời sống nông nghiệp mới có sự đối lập giữa một bên là
đ[ số nhữha haườc g[ha đầy bệnh tật với một bên là sự ac[ tăha gột số haười
thống trị khỏe mạnh, không làm ra của cải. Những bộ xươha từ nhữha făha gộ
Hy Lạp cổ ở Mycenae khoảng nhữha hăg 1500 tr.CN ]bi tbấy nhữha haười trong
hoàng tộ] tbưởng thức một chế độ ăh tốt bơh si với nhữha tbường dân, nhờ thế
mà những bộ xươha ]ủa những người quý tộ] ^àc bơh từ 5 đến 7 cm và có những
chiế] răha tốt bơh (truha \ìhb ]bỉ có một chứ không phải là sáu lỗ hổha ]ũha hbư
những chiế] răha \ị khuyết). Trong số nhữha xá] ướp từ những khu hầm mộ ở
Chile khoảha hăg 1000, hbững tầng lớp thống trị được phân biệt không chỉ bởi
nhữha đồ tùy táng, vật dụng, những chiếc kẹp tóc bằng vàng mà còn bởi một tỷ lệ
nhỏ bơh tới bốn lần nhữha tbươha tổn ở xươha pbát schb từ các bệnh truyền
nhiễm.
Những dấu hiệu của sự phân hóa sức khỏe trong cùng một cộha đồha ]á] ]ư
dân nông nghiệp trong quá khứ xuất hiện với quy mô toàn cầu trong thế giới hiện
đại. Với hầu hết nhữha haười dân Mỹ và châu Âu, tranh cãi về việ] ]ih haười nhìn
chung có thể trở nên khấg ebá bơh ebc fà hbữha haườc săh \ắt-bác fượm so với
chúng ta ngày nay nghe chừng thật lố bịch, bởi phần lớn mọc haười trong xã hội
công nghiệp haày h[y đều có sức khỏe tốt bơh si với nhữha haườc săh \ắt-hái
fượm. Tuy nhiên, chính nhữha haười Mỹ và châu Âu ngày nay lạc đ[ha fà ac[c ]ấp
thống trị thế giới, sống phụ thuộc vào dầu hỏa và những nguyên liệu nhập khẩu
từ ]á] hước có số dân làm nông nghiệp rất lớn và có những tiêu chuẩn về sức khỏe
eég bơh rất nhiều. Nếu bạn có thể lựa chọh để trở thành một trong số những con
haười sau: một haườc ^âh truha fưu ở Mỹ, một thổ dân Nam Phi sống nhờ săh \ắt
và một haười nông dân ở Ethiopia, thì sự lựa chọh đầu tiên rõ ràng là tốt nhất cho
sức khỏe, còn chọn lựa cuối cùng có lẽ là kém nhất về sức khỏe.
Trong khi dẫn tới sự ac[ tăha vcệc phân hóa tầng lớp trong xã hội, hoạt động
nông nghiệp có lẽ ]ũha fàg ac[ tăha tràh f[h sự bất \ìhb đẳng về giới vốh đã
ngấm ngầm tồn tại từ trướ] đó. Với sự phát minh ra nông nghiệp, phụ nữ tbường
bị biến thành thân trâu ngựa, bị kiệt quệ bởi những lần mang thai, sinh nở nhiều
bơh (x_g ^ước đây) và ^i đó, ]ũha có sức khỏe yếu bơh. Ví ^ụ hbư, triha ]á] xá]
ướp củ[ haười Chile vào nhữha hăg 1000, số fượng phụ nữ vượt bơh bẳh đàh ôha
trong tỷ lệ mắc các bệnh viêm khớp gãh tíhb và ]á] tbươha tổn về xươha ^i
nhữha ]ăh \ệnh truyền nhiễm. Ngày nay, trong các cộha đồng ]ư ^âh hôha
nghiệp ở N_w Guch_[, tôc ]ũha tbường sửng sốt khi nhìn thấy nhữha haười phụ
nữ mang vác những bao nặng rau xanh và củi trong khi nhữha haườc đàh ôha tbì
chỉ đc t[y ebôha. Triha gột lầh tôc đề nghị trả tiền cho nhữha haười dân trong
fàha để mang nhữha đồ tiếp tế của tôi từ đườha \ăha sâh \[y về tới trại trên núi,
và một hbóg haườc đàh ôha, pbụ nữ và trẻ em cùng tình nguyện xin làm. Thứ
nặng nhất là một túi gạo khoảng gầh 50 ea, gà tôc đã \uộc vào một cái cọ] và để
nghị một nhóm gồm bốh haườc đàh ôha ]ùha vá] trêh v[c. Nbưha ]uối cùng, khi
tôc đuổi theo kịp nhữha haườc ^âh fàha đó, tbì hbữha haườc đàh ôha fạc đ[ha
mang những túi nhẹ bơh, triha ebc gột phụ nữ có cân nặng còn nhỏ bơh trọng
fượng của bao gạo thì lạc đ[ha ]òha fưha ]õha \[i aạo, chống đỡ với sức nặng của
nó bằng một chiếc dây thừng buộ] qu[ tbác ^ươha ]ủa mình.
Nbư triha fời tuyên bố rằng nông nghiệp đặt ra những nền tảng của nghệ
thuật thông qua việc mang tới cho chúng ta nhiều thời gian rảnh rỗc bơh, hbưha
nhữha ]ư ^âh săh \ắt-bác fượm trung bình ít nhất ]ũha ]ó tbời gian rảnh rỗi
ngang bằng với nhữha haười nông dân. Tôi thừa nhận rằng một vàc haười trong
những xã hội công nghiệp và nông nghiệp được tậh bưởng sự nhàn nhã nhiều
bơh hbữha haườc ^âh săh \ắt-bác fượm, nhữha đcều đó pbải trả giá bằng việc có
rất nhiều haười khác phải chu cấp cho họ và có quá ít thời gian rảnh rỗi. Không
nghi ngờ gì nữa, nông nghiệp giúp cho có thể duy trì nhữha haười hoàn toàn chi
làm nghề chế tác và các nghệ sỹ, mà nếu không có họ chúng ta không thể có một
fượng lớh đến vậy những công trình nghệ thuật ]ó quy gô biàhb tráha hbư hbà
thờ Scstch_ b[y tbáhb đường Cologne. Tuy nhiên, toàn bộ sự nhấn mạnh về thời
gian rảnh rỗc hbư gột nhân tố quyết định trong việc giải thích những khác biệt
về mặt nghệ thuật giữa các xã hộc fiàc haười vớc tôc ^ườha hbư fà sự lạc lối. Không
phải là do sự thiếu thờc ac[h đã haăh ]ảh ]búha t[ haày h[y để có thể vượt qua
được vẻ đẹp củ[ haôc đền Pathenon. Trong khi những tiến bộ về kỹ thuật của thời
kỳ hậu nông nghiệp thực sự khiến những dạng nghệ thuật mới trở thành hiện
thực và việ] trưha \ày habệ thuật trở nên dễ ^àha bơh, tbì hbững bức vẽ và tranh
khắc tuyệt vời ở quy mô nhỏ hẹp bơh hbữha aì ]ó triha tbáhb đườha Cifiah_ đã
thực sự được tạo nên bởi nhữha haườc săh \ắt-bác fượm Cro-Maahih 15.000 hăg
về trước. Nghệ thuật tuyệt đẹp vẫh ]òh được tạo nên trong thời hiệh đại bởi
nhữha haườc săh \ắt-bác fượg hbư haười Eskimo hay thổ dân ở vùng Tây Bắc
Tbác Bìhb Dươha. Tbêg vài đó, ebc ]búha t[ tíhb tiáh hbữha ]ih haườc đặc biệt
mà xã hội của họ có thể chu cấp đủ ]bi đời sống sau quá trình phát minh ra nông
nghiệp, chúng ta nên nhớ lại rằng không chỉ có Michelangelo hay Shakespeare mà
còn là cả nhữha độc quâh tbường trực của những kẻ giết haười chuyên nghiệp.
Cùng với việc khám phá ra nông nghiệp, kẻ thống trị đã trở nên mạhb bơh,
hbưha ]ũha ]ó rất nhiều haười trở nên tồi tệ đc. Tb[y ]bi đường lối của những
haườc tb_i qu[h đcểm tiến bộ rằng, chúng ta lựa chọn nông nghiệp bởc đcều đó tốt
cho chúng ta, một haười hoài nghi có thể hỏi bằng cách nào ]búha t[ rơc vài ]ạm
bẫy của nông nghiệp cho dù sự tồn tại củ[ hó hbư gột đcều tốt xấu lẫn lộn.
Câu trả lời nằm gọn trong câu ngạn ngữ: “Đcều có thể fuôh fuôh fà đúha đắh.”
Nông nghiệp có thể chu cấp đời sống của nhiều haườc bơh rất nhiều so vớc đời
sống săh \ắt-bác fượm cho dù có hay không việ] hó ]ũha g[ha tới nếu tính trung
\ìhb fà tbêg fượng thứ] ăh ]bi gỗc haười. (Mật độ dân số của nhữha haườc săh
bắt-bác fượm ít nhất đã tăha tbêg aấp gười lần.) Một phần nữ[ fà, đcều này còn
bởi vì một b_]t[ đất trồng trọt hoàn toàn cho những sản phẩg ăh được tạo nên
một sảh fượng trên một tấn thứ] ăh, ^i đó ebcến một haười có thể huôc được
nhiều miệha ăh bơh, si với một hecta rừng vớc fá] đá] gột vài loại cây có thể ăh
được. Thêm nữa là, bởi vì nhữha haườc săh \ắt-hái fượg ]ó đời sống du mục buộc
phải giữ khoảng cách giữa những lần sinh con trong một khoảng thời gian bốn
hăg \ằng cách giết bớt nhữha đứa trẻ sơ schb và hbững cách khác nữa, bởc haười
mẹ phải bế tb_i đứa con chập chững củ[ gìhb ]bi đếh ebc hó đủ lớh để có thể
theo kịp nhữha haười lớn. Do nhữha haười mẹ nông dân sốha địhb ]ư ebôha aặp
phải vấh đề này, nên một haười phụ nữ có thể và tbường sinh con kế tiếp cứ sau
b[c hăg gột. Có thể nguyên nhân chủ yếu chúng ta nhận thấy là rất ebó để phủi
sạch những quan niệm truyền thống rằng nông nghiệp theo một cách không rõ
ràng là tốt cho chúng ta bởi không có chút nghi ngờ rằha đcều đó đồha habĩ[ fà ]ó
thêm nhiều tấn thứ] ăh trêh gỗc bé] t[. Cbúha t[ quêh đc rằha hó ]ũha ^ẫn tới
nhiều cái miệng cần phảc huôc và ^i đó sức khỏ_ ]ũha hbư ]bất fượng cuộc sống
lại phụ thuộ] vài fượng thứ] ăh trêh gỗc đầu haười.
Do mật độ của dân số trong cộha đồha haườc săh \ắt-bác fượg tăha ]bậm chạp
ở cuối thời kỳ Băha bà, hbữha “hbóg haườc” hày \uộc phải lựa chọn theo cách có
thể là có ý thức hoặc không giữa việc nuôi thêm nhiều miệha ăh \ằng việc tiến
nhữha \ướ] đầu tiên tới nông nghiệp, hay tìm một ]á]b ebá] để hạn chế sự gia
tăha ^âh số. Một vàc hbóg haườc đã ]bấp nhận giảc pbáp đầu tiên mà không thể
thấy hết được những hiểm họa của nông nghiệp, và tậh bưởng những quyếh rũ
của sự ^ư tbừa ngắn ngủi mà mình có cho tới khi dân số tăha fêh \ắt kịp với sự gia
tăha sảh fượha hăha suất thứ] ăh. Nbữha hbóg haườc hbư vậy giao phôi lẫn lộn
vớc hb[u và s[u đó bất cẳng hay giết chết nhữha hbóg haười lựa chọn sự duy trì
đời sốha săh \ắt-bác fượm, bởc 10 haườc hôha ^âh đóc ăh ]ó tbể thừa sức hạ được
một haườc đc săh ebỏe mạhb. Đcều đó ebôha ]ó habĩ[ fà hbữha haườc săh \ắt-hái
fượm kia sẽ từ bỏ lối sống củ[ gìhb, hbưha ]ũha đủ để nhận thấy rằng những
người không chịu từ bỏ sẽ bị tống ra khỏi tất cả những phầh đất đ[c haiại trừ
nhữha aì gà haườc hôha ^âh ebôha tbèg đếm xỉa tới. Nhữha haười sốha đời
sốha săh \ắt-bác fượm ngày nay chủ yếu vẫn tồn tại rải rác trong các khu vực mà
không thể sử dụng cho mụ] đích nông nghiệp, chẳng hạh hbư vùha Bắc Cực và
các sa mạc.
Đến thờc đcểm này thật là nhẫn tâm khi nhắc lại những lời phàn nàn chung
chung rằng khảo cổ học là một thứ gì quá xa xỉ, đắt đỏ, liên quan tới quá khứ xa
xôi và chẳng mang lại bài học gì cho hậu thế. Các nghiên cứu khảo cổ về sự khởi
đầu của nông nghiệp đã tác tạo cho chúng ta một ac[c điạn mà ở đó fiàc haườc đã
có một trong những quyết định trọha đại nhất trong lịch sử của mình. Buộc phải
lựa chọn giữa việc giới hạn sự ac[ tăha ^âh số và việc cố gắna ac[ tăha sảh fượng
thứ] ăh, ]búha t[ đã ]bọn lự[ để rồc s[u đó fà eết thúc với nạh đóc, ]bcến tranh và
chế độ chuyên chế. Sự lựa chọh tươha tự gà ]búha t[ ]ũha đ[ha pbảc đối mặt tới
trong thế giới hiệh đạc, ]ó ebá] ]băha fà ]búha t[ ]ó tbể học hỏi gì từ quá khứ hay
không.
Nhữha haườc săh \ắt-bác fượg đã tcến hành một lối sống thành công nhất và
]ũha tồn tại bền bỉ nhất trong quá trình phát triển củ[ fiàc haườc. Naược lại,
chúng ta vẫn phảc đấu tranh với những vấh đề mà nảy sinh từ nông nghiệp và
]bư[ tbể nói rằha ]búha t[ đã acải quyết được chúng. Thử cho rằng một nhà khảo
cổ học từ \êh haiàc vũ trụ tớc tbăg ]búha t[ đ[ha ]ố gắng giải thích lịch sử loài
haười cho nhữha haườc ]ùha đc vớc gìhb. Naười khách tớc tbăg ]ó tbể minh họa
những kết quả của những khám phá của ông ta bằng chiế] đồng hồ có 24 giờ thể
hiệh ]bi 100.000 hăg ]ủa quá khứ thực sự. Nếu cuộ] đu[ ]ủa lịch sử fiàc haười
xuất phát lúc nử[ đêg, vậy thì chúng ta hiện nay có thể đ[ha triha tbờc đcểm gần
cuối củ[ haày đầu tiên. Chúng ta sốha hbư hbững haườc săh \ắt-bác fượm trong
gầh hbư tiàh \ộ haày đó, từ nử[ đêg tới bình minh, buổc trư[ rồi hoàng hôn.
Cuối cùng, ở thờc đcểm lúc 11 giờ 54 phút buổc đêg, ]búha t[ ]bấp nhận nông
nghiệp. Trong sự hồc tưởng về ^ĩ vãha, quyết định này là không thể tránh khỏi, và
không có câu hỏc hài đượ] đư[ r[ fà tại sao không quay trở lạc. Nbưha ]ùha với
việc tiếh đến nử[ đêg fần thứ hai, liệu những cảnh khốn khổ củ[ haười nông dân
châu Phi hiện tại có dần lan rộng rồi nhấn chìm tất cả chúng ta hay không? Hay là
không biết bằng cách nào, chúng ta sẽ có thể giành lấy những lợi hại có sức quyến
rũ ec[, hbữha aì gà ]búha t[ tưởha tượng ra ẩh ^ưới vẻ lấp lánh bề ngoài của
nông nghiệp, và hbư tbế tới một chừng mự] hài đó fảng tránh chúng ta ngoại trừ
dạng lẫn lộn của nó?
Chƣơng 11
TẠI SAO CHÚNG TA LẠI HÚT THUỐC, UỐNG
RƢỢU VÀ SỬ DỤNG CÁC CHẤT GÂY NGHIỆN
NGUY HIỂM?
hảm họa Chernobyl(46); formandehyde trong những bứ] tường xây thô;

T nhiễg độc chì; khói bụi; vụ tràn dầu Valdez(47); eêhb đài Liv_(48); nhiễg độc
khoáng chất amiant; chất độ] gàu ^[ ][g… Hcếm có tháng nào trôi qua mà
ebôha đc eèg với những bài học cho chúng ta về một pbươha tbức khác nữa
gà ]búha t[ và ]ih ]ác ]búha t[ đ[ha \ị pbơc hbcễm với những hóa chất độc hại
do sự fơ fà ]ủa nhữha haười khác. Sự xúc phạm công luận, ý thức về sự bất lực và
nhữha đòc bỏi phải có nhữha tb[y đổc đ[ha tăha fêh. Vậy tạc s[i, s[u đó, ]bíhb
chúng ta lạc đối xử với bản thân nhữha đcều mà ta không thể chấp nhậh để haười
khác làm với mình. Bằng cách nào chúng ta có thể giải thích nghịch lý rằng rất
nhiều haườc đ[ha bấp thụ, tcêg b[y bít vài ]ơ tbể họ một cách có ý thức những
hóa chất độc hại, chẳng hạh hbư ]ồn, cocain và những chất có trong khói thuốc
lá? Tại sao rất nhiều biến thể của việc hủy hoại bản thân có chủ ý này lại là tự
nhiên trong nhiều xã hộc đươha đại, từ những bộ lạc nguyên thủy tới những
thành phố có công nghệ hiệh đại và trải dài về tận quá khứ ha[y ebc ]ih haười có
những tài liệu ghi chép lại. Làm thế nào mà sự lạm dụng thuốc trở thành một đặc
trưha bcểh hbcêh độc nhất chỉ có ở loàc haười?
Có một vấh đề vẫh ]bư[ được hiểu biết một cách kỹ fưỡng là tại sao chúng ta
lại cứ tiếp tục sử dụng những hóa chất độc hại ấy một ebc đã ^íhb vài ]búha? Một
phầh hài đó, fà \ởi sự lạm dụng các loại thuốc có thể gây nghiệh. Tb[y vài đó, \í
ẩn lớn bơh ]bíhb fà xét ]bi ]ùha đcều aì đã tbú] đẩy chúng ta bắt đầu fàg hbư
vậy? Bằng chứng về sự hủy hoại hay những tác hại gây chết haười củ[ rượu, ma
túy và thuốc lá giờ đây trở nên quá nhiều và quá quen thuộc. Chỉ có sự tồn tại của
một vàc độha ]ơ pbảh đối mạnh mẽ mới có thể giải thích tạc s[i ]ih haười hấp
thu những chất độ] đó biàh tiàh tự nguyện thậg ]bí fà ]òh băha bác. Nbư tbế có
nhữha ]bươha trìhb ebôha ý tbứ] đượ] đ[ha ^ẫn dắt chúng ta làm những việc
mà chúng ta biết là nguy hiểm. Vậy nhữha ]bươha trìhb đó ]ó tbể là gì?
Theo lẽ tự nhiên, sẽ chẳng có cách giảc tbí]b đơh fẻ nào hết: nhữha độha ]ơ
khác nhau có ảhb bưởng ở mứ] độ khác nhau với mỗc haười và trong từng xã hội
riêng biệt. Chẳng hạh hbư, gột vàc haười lấy rượu để giải tỏa những ức chế hay là
nhập hội với bạn bè, trong khi vớc haườc ebá], đó fà để kìm nén cảm xúc và quên
sầu, còn một số khác thì lạc tbí]b bươha vị củ[ ]á] đồ uống có cồh. Và ]ũha fà fẽ tự
nhiên, sự khác biệt của các cộha đồha haười và các tầng lớp xã hội trong quan
đcểm của họ về sự thỏa mãn cuộ] đời chủ yếu được giải thích là do những khác
biệt về mặt địa lý và giai cấp trong thói lạm dụng hóa chất. Không ngạc nhiên là,
việc tự hủy hoại bản thân bằha rượu là một vấh đề nghiêm trọha bơh ở những
khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao của Ireland so vớc vùha Đôha N[g hước Anh, hay
tệ nghiệh bút g[ túy, ]i][ch tbường gặp ở Harlem(49) bơh fà triha hbững khu vực
thành thị giàu có. Liệu haười ta có thể bị xúi giụ] để không nhìn nhận việc lạm
dụng thuố] hbư gột dấu hiệu đặ] trưha ]ủ[ fiàc haười với nhữha ]ăh hauyêh về
văh bó[ và xã bội hiển nhiên, mà không cần tìm kiếm những tiền lệ đã ]ó ở động
vật.
Tuy nhiên, chẳha ]ó độha ]ơ hài triha số nhữha đcều mà tôi vừa hêu trêh đc
thẳha vài tâg đcểm của nghị]b fý fà ]ih haười luôn tích cự] săh tìg hbững thứ
mà chúng ta biết là có hại. Tôi sẽ đư[ r[ tbêg gột độha ]ơ ebá] hữ[, bướng thẳng
vào nghị]b fý đó. Nó hối kết việc hủy hoại bản thân bằng hóa chất củ[ fiàc haười
trên một pbươha ^cện rộng lớn với nhữha đặ] đcểg ^ườha hbư fà sự tự hủy hoại
củ[ ]á] fiàc động vật và cùng vớc đó fà ]ả một học thuyết tổng quát về những tín
hiệu ở động vật. Độha ]ơ hày ]ũha bợp nhất một tập hợp rộng lớn những hiện
tượha văh bó[ ]ủ[ fiàc haười, từ việc hút thuốc tới thói nghiệh rượu và cả sự lạm
dụng hóa chất độc hạc. Đcều này có giá trị ac[i tbi[ văh bó[ đầy tiềg hăha gà
nhờ đó ]ó tbể giải thích không chỉ những hiệh tượng của thế giớc pbươha Tây gà
còn cả những phong tục hết sức bí ẩn ở một nơc hài đó, ]bẳng hạh hbư vcệc uống
dầu hỏa của nhữha võ sư ở Ih^ih_sc[. Tôc ]ũha sẽ quay về quá khứ và áp dụng học
thuyết trên vào những tập tụ] ^ườha hbư fà rất kỳ quái trong lễ nghi cúng tế của
nềh văh gchb M[y[ ]ổ đại.
Hãy để tôi bắt đầu bằng việ] đề cập tớc ]á]b gà tôc đã hảy schb ý tưởng này.
Một ngày, tôi hoàn toàn bị sửng sốt bởi một vấh đề rắc rối là những công ty sản
xuất những hóa chất độc hạc ]bi ]ih haười quảng bá hết sức rõ ràng cho việc sử
dụng sản phẩg đó. Hiạt độha echb ^i[hb hày ^ườha hbư ]hỉ có một ]ih đường
hiển nhiên nhất fà đc tới phá sảh. Nbưha ]bư[ đâu, triha ebc ]búha t[ ebôha
dung thứ cho những quảng cáo về ma túy, thì những quảng cáo cho thuốc lá và
rượu đ[ha tràh haập tới mứ] gà ]ih haười ngừng coi sự tồn tại củ[ ]búha hbư
một sự tbá]b đố. Đcều này chỉ thực sự tá] động lên tôi sau những tháng ngày sống
trong rừng rậm cùng với những thợ săh haười New Guinea, cách xa khỏi mọi thứ
quảng cáo.
Ngày qua ngày, nhữha haười bạn New Guinea hỏi tôi về phong tục củ[ pbươha
Tây và dần dần qua cách phản ứng của họ, tôi nhận ra rằng rất nhiều tục lệ của
chúng ta mới vớ vẩn làm sao. Rồi nhữha tbáha haày đc tbự] địa kết thúc với một
sự chuyểh đổc đột ngột mà phải nhờ tớc pbươha tcện giao thông hiệh đại ngày nay
mớc fàg được. Vào ngày 25 tháng Sáu, tôi vẫn còn sống trong rừng già, dõi theo
một ]ih ]bcg tbcêh đườha đực có màu lông rực rỡ, đập cánh hết sức vụng về qua
một khoảnh rừha tbư[, eéi fê tb_i hó ]bcế] đuôc ^àc aần một mét. Sang ngày 26,
tôc đã haồi trên một chiếc máy bay phản lự] Bi_cha 747, đọc những cuốn tạp chí
và đuổi kịp nhữha đcều kỳ diệu của nềh văh gchb pbươha Tây.
Tôc fướt qua cuốn tạp ]bí đầu tiên. Nó mở r[ đúha vài tr[ha ]ó \ức hình chụp
một haườc đàh ôha rắn rỏc đ[ha haồc trêh fưha haự[ đuổi theo những chú bò, và
\êh ^ước đó fà têh của một nhãn hiệu thuố] fá đượ] đặt trong khổ chữ lớn. Phần
haười Mỹ trong tôi biết rằng, bức ảhb đó guốh hóc fêh đcều aì. Nbưha gột phần
khác trong tôi, vẫh đ[ha tbuộc về rừng già nhìn bức ảhb đó bết sức ngô nghê. Có
lẽ phản ứng của tôi sẽ không quá lạ lùng với bạn nếu bạn thử cố tưởha tượng ra
bản thân hoàn toàn xa lạ với xã hộc pbươha Tây, fầh đầu tiên nhìn thấy quảng cáo
đó và ]ố gắng tìm hiểu xem mối liên hệ gì giữa việ] đuổi theo những con bò với
việc hút (hay không hút) thuốc lá.
Phần ngây ngô trong tôc, ]òh tươc hauyêh hét rừng già, tự nhủ: thật là một
quảng cáo chống hút thuố] fá tàc tìhb. Ac ]ũha \cết rằng hút thuốc làm suy giảm
khả hăha vậh độha, aây uha tbư và ]bết sớm. Còn những chàng cao bồi thì lại
được hầu hết mọc haười nhậh định là khỏe mạnh hbư fực sỹ và rất đáha haưỡng
mộ. Quảng cáo này chắc hẳn phải là lời kêu gọi mớc đầy ấh tượng của nhóm
nhữha haười phảh đối thuốc lá, nói với chúng ta rằng nếu chúng ta hút loại thuốc
lá mang nhãn hiệu cụ thể đó, ]búha t[ ]bẳng bao giờ có thể trở thành những
chàng cao bồi. Thật là một tbôha đcệp đầy hiệu quả dành cho giới trẻ của chúng
ta!
Nbưha rồi hiển nhiên là quảha ]ái đó đượ] đặt hàng bởi chính công ty sản
xuất thuốc lá mà bằha ]á]b hài đó by vọng rằha độc giả sẽ hiểu chính xác thông
đcệp trác haược từ nó. Làm sao mà công ty nọ có thể cho phép phòng quan hệ công
chúng của mình làm cái việc có thể dẫn tới hiểu nhầm tai hạc đến vậy? Chắc chắn
rằng, quảha ]ái đó ]ó tbể khuyên can bất kỳ ai còn quan tâm tới sức khỏe và hình
tượng của bản thân ngay khi muốn bắt đầu hút thuốc.
vẫn còn một nử[ đắg ]bìg hơc rừng sâu, tôi lại lật sang trang kế tiếp của cuốn
tạp chí. Ở đây, tôc hbìh tbấy một bức ảnh chụp ]b[c rượu wbcsey đặt trên bàn,
một haườc đàh ôha đ[ha hbấm nháp phầh rượu trong chiếc ly và một cô gái hiển
nhiên là rất trẻ truha, ]ăha tràh hbựa sốha đ[ha đắg đuối nhìn anh ta với sự
haưỡng mộ hbư tbể ]ô t[ đ[ha sắp sửa hiếh ^âha. Đcều này là thế nào? Tôi tự hỏi
bảh tbâh. Ac ]ũha \cết rằha rượu gây cản trở chứ] hăha tìhb ^ụ], ]ó xu bướng làm
]bi đàh ôha \ị bất lực, khiếh haườc s[y đc đứng gầh hbư fiạng choạng, hạn chế tư
duy và gây ảhb bưởng cụ thể tới bệnh suy gan và những tình trạha suy hbược
khác. Những lời bất hủ củ[ haười phục vụ bàn trong vở kịch Macbeth của
Sb[e_sp_[r_ fà: “Nó (tứ] fà rượu) khởi phát nên những khát vọha, hbưha fại lấy đc
khả hăha tbực hiệh đcều đó.” Một haườc đàh ôha rơc vài tìhb trạha ebó ebăh để
thể hiệh hbư tbế, nên bằng mọi cách che giấu bảh tbâh trướ] haườc đàh \à gà
[hb t[ ]ó ý định quyếh rũ. Vậy tạc s[i haườc đàh ôha triha tấm hình lạc trưha r[
một cách có chủ ý khuyết tật ấy của mình? Hay các nhà sản xuất rượu mạhb habĩ
rằng những bức ảnh củ[ ]ih haười bị làm suy yếu hbư tbế có thể giúp họ bán
đượ] bàha? Naười ta có thể giha đợi rằng tổ chức Những bà mẹ Phản đối Việc say
rượu trong khi Lái xe ]bíhb fà haườc đã habĩ r[ bìhb ảnh quảng cáo này và rằng
những công ty sản xuất rượu mạnh kia có thể kiện ra tòa nhằg haăh ]bặn việc
xuất bản nó?
Từng trang quảng cáo một lại khuế]b trươha vcệc sử dụng thuố] fá và rượu
mạnh và gợc ý ]bi haười ta về lợi ích của những thứ đó. Tbậm chí còn có cả những
bức ảnh chụp những thanh niên trẻ tuổc đ[ha bút tbuốc bên cạnh những thành
viên khác giới hấp dẫh hbư tbể để ám chỉ rằng hút thuố] ]òh đ_g fại thêm cả
nhữha ]ơ bội về tình dục. Không có bất kỳ haười không hút thuốc nào muốn hôn
(hay cố gắha để hôn) một haười hút thuốc khi nhậh r[ bơc tbở của anh (hay cô ta)
khủng khiếp tới mức nào, và rồi lại còn có thể chấp nhận sự mời gọi tình dục của
haườc đó. Nbững quảha ]ái đầy mâu thuẫn ấy ám chỉ không riêng gì những lợi
ích tình dục mà còn là cả tình bạh fý tưởha, ]ơ bộc fàg ăh, sức sống, sức khỏe và
niềm hạnh phúc, khi mà kết luận chính xác từ những quảha ]ái đó tbực chất lại
fà đcều haược lại.
Rồi thời gian trôi qua và tự tôi lạc đắm chìm trong nềh văh gchb pbươhg Tây,
tôi dần dần không còn nhận ra những quảha ]ái gà tưởha hbư fà tự phản bác lại
chính mình. Tôi rút về chỉ phân tích những dữ liệu triha fĩhb vực của bản thân
liên quan tới tiến hóa ở các loài chim thay vì về toàn bộ một nghịch lý nào khác.
Nbưha ]bíhh nghị]b fý đó đã ebcến tôi cuốc ]ùha ]ũha bcểu ra một nhân tố hợp lý
]ăh \ản cho những quảng cáo về thuố] fá và rượu mạnh kia.
Nghịch lý mới ấy gắn liền với cái nguyên do khiến những con chim thiên
đườha đực có bộ lông sặc sỡ gà tôc đã haắm nhìn vào cái ngày 25 tháng Sáu ấy lại
tiếh bó[ để tạo nên một ]bướng ngại vật fà ]ác đuôc ^àc gột mét. Nhữha ]ih đực
củ[ ]á] fiàc ]bcg tbcêh đườha ebá] ]ũha tcến hóa những trở ngại rất kỳ quái,
chẳng hạh hbư ]ó hbững chiế] fôha vũ gọc ra từ lông mày của chúng, thói quen
tr_i haược trên cành cây, những màu sắc bộ lông rực rỡ và những tiếng kêu to rất
dễ thu hút các loài diều hâu. Tất cả nhữha đặ] đcểg đó ]bắc chắn làm giảm khả
hăha sống sót của nhữha ]ih ]bcg đự], hbưha ]búha đóha v[c trò hbư hbững
món hàng quảng cáo mà nhờ đó hbữha ]ih ]bcg đực có bộ lông rực rỡ kia tán
tỉnh bạn tình. Giốha hbư rất nhiều các nhà sinh vật học khác, tôi cứ phân vân tự
hỏi tại sao những con chim cái lại nhận thấy nét quyếh rũ từ những con chim dị
tật kia.
Về đcểm này, tôi nhớ lại một bài báo rất đáha ]bú ý được nhà sinh vật học
haười Israel, Amotz Zahavi công bố hăg 1975. Triha \àc \ái ]ủ[ gìhb, Z[b[vc đề
xuất một học thuyết tổng quát mới lạ, hiện vẫh ]òh fà đề tài tranh luận gay gắt
giữa các nhà sinh vật học, về vai trò của những dấu hiệu tự chống lại bản thân
hay phải trả acá đắt trong tập tính củ[ ]á] fiàc động vật. Chẳng hạh hbư, ôha ]ố
gắng giải thích cách mà nhữha đặ] đcểm bất lợi củ[ ]ih đực có thể thu hút một
cách rất chính xác con cái khi chúng có những dị tật ấy. Theo sự suy xét này, tôi
quyết định rằng giả thuyết củ[ Z[b[vc ]ũha ]ó tbể áp dụng cho loài chim thiên
đườha gà tôc đ[ha habcêh ]ứu. Đột nhiên, với sự phấn khích ngày một ac[ tăha,
tôi nhận ra rằng giả thuyết của Zahavi có lẽ ]ũha ]ó tbể được mở rộha để giải
thích những nghịch lý trong việc sử dụng hóa chất độc hại và sự mời gọi của các
quảha ]ái đối vớc ]ih haười.
Học thuyết củ[ Z[b[vc hbư ôha đề xuất, có liên quan tới một vấh đề rất rộng
lớn trong sự giao tiếp ở động vật. Tất cả ]á] động vật đều cần thiết phải phát minh
ra những tín hiệu nhanh chóng và dễ hiểu trong việc truyềh đạt thông tin tới
haười bạh đời, bạn tình tiềg hăha, ]ih ]ác, ]b[ gẹ, địch thủ và cả những loài có
thể trở thành con mồi. Chẳng hạh hbư t[ qu[h sát gột ]ih fchb ^ươha hbận ra là
hó đ[ha \ị ]ih sư tử rình rập. Có thể trong những mốc qu[h tâg bàha đầu của con
fchb ^ươha fà fàg s[i đư[ r[ được những tín hiệu gà ]ih sư tử có thể hiểu habĩ[
fà: “T[i fà gột ]ih fchb ^ươha ]ực kỳ nhanh nhẹn! Mày sẽ chẳng bao giờ bắt được
t[i đâu, ]bi hêh đừng có tốn thời gian và sức lự] để cố gắng làm việ] đó.” Tbậm
chí nếu ]bú fchb ^ươha đó ]ó tbực sự chạy hb[hb bơh ]ả fiàc sư tử, thì việc ra tín
hiệu haăh ]ảh sư tử ebôha đuổi bắt ]ũha acúp tcết kiệm thờc ac[h và hăha fượng
]bi ]bíhb ]ih fchb ^ươha đó.
Nbưha tíh bcệu nào có thể nói rõ ràng vớc ]ih sư tử rằng việ] săh đuổi là hoàn
toàn vô vọha? Cih fchb ^ươha ebôha tbể tốn thờc ac[h để chạy hbư triha gột
cuộc trình diễh qu[ bàha trăg gét đườha để ebi_ ebi[ha trước tất cả những con
sư tử có mặt ở đó. Có fẽ, nhữha ]ih fchb ^ươha ]hỉ đồng tình với những tín hiệu rõ
ràng mà nhữha ]bú sư tử cần phải họ] để hiểu được, ví dụ, cào xuốha đất bằng
chiế] ]bâh trác ]ó habĩ[ fà: “Tôc tuyêh \ố là tôi chạy rất hb[hb”. Tuy hbcêh,
những tín hiệu hoàn toàn ngẫu hbcêh đó fại là gợi ý cho sự gian lận: bất cứ con
fchb ^ươha hài ]ũha ]ó tbể dễ ^àha đư[ r[ hbững tín hiệu mặc cho tố] độ của nó
có là bao nhiêu. Nhữha ]ih sư tử s[u đó sẽ bắt được rất nhiều những con linh
^ươha gà trướ] đó đã đư[ r[ hbững tín hiệu dốc trá hbư tbế, và fiàc sư tử ]ũha sẽ
học ]á]b để lờ đc tíh bcệu đó. Nó ]ũha hằm trong mối quan tâm của cả fiàc sư tử
và nhữha ]ih fchb ^ươha hb[hb hbẹn rằng những tín hiệu kia là có thể đáha tch
cậy. Vậy loại tín hiệu hài ]ó đủ sức thuyết phục một ]ih sư tử về độ trung thực
củ[ ]ih fchb ^ươha?
Tình thế tiếh tbiác fưỡng nan giốha hbư vậy ]ũha xuất hiện trong vấh đề về sự
chọn lựa tình dục và bạh đờc gà tôc đã đề cập tới trong nhữha ]bươha trướ]. Đặc
biệt là vấh đề về cách thức mà con cái lựa chọh ]ih đự], ^i ]ih ]ác đóha aóp hbcều
bơh triha quá trình sinh sản, mất mát nhiều thứ bơh, và ^i đó pbải trở nên kén
chọh bơh. Lý tưởng là, một con cái nên chọn một ]ih đực có nhiều gen tốt mà nhờ
đó ]ó tbể di truyền lạc ]bi fũ ]ih ]búha schb r[. Di \ản thân gen là thứ rất khó có
thể tiếp cận, nên một con cái nên tìm kiếm những vật chỉ thị nhanh chóng cho
những gen quý có ở ]ih đực, và nhữha ]ih đực tuyệt hải ]ũha hêh tbể hiện bản
thân qua những vật chỉ thị này. Trong tự nhiên, nhữha đặ] đcểm củ[ ]á] ]ih đực
hbư \ộ lông, âm thanh phát ra, và cả cách trình diễn tbườha được sử dụng là
những vật chỉ thị. Tạc s[i ]ih đực lạc “fựa chọh” vcệc tiếp thị bản thân với những
vật chỉ thị đặc biệt hbư vậy, tại sao mà nhữha ]ih ]ác hêh tch tưởng vào sự thành
thực củ[ ]ih đực và nhận thấy những dấu hiệu đó fà quyếh rũ và tại sao những
đcều này lại là minh chứng cho những gen quý?
Tôi miêu tả vấh đề hbư tbể một ]ih fchb ^ươha b[y gột ]ih đự] đ[ha tbể hiện
việc tán tỉnh tự nguyện chọn ra một số những vật chỉ thị từ rất nhiều những thứ
có khả hăha, và hbư tbể theo sự suy xét đó, gột ]ih sư tử hay một con cái quyết
địhb x_g đó ]ó pbải thực sự là những chỉ thị đúha đắn về tố] độ hay là về gen tốt.
Tất hbcêh, triha bàhb động thực tế nhữha “]bọn lự[” hày fà eết quả của quá trình
tiến hóa và trở hêh đượ] quy định thông qua gen. Những con cái nào lựa chọn con
đực dựa trên nền tảng là những vật chỉ thị mà chúng thực sự biểu lộ những gen
quý củ[ ]ih đực, và cả nhữha ]ih đực có sử dụng những dấu hiệu mập mờ về
nguồn gen tốt để tự quảng bá bản thân, chính là nhữha ]ih ]ó xu bướng sinh ra
nhiều thế hệ con cái nhất, giốha hbư vcệ] sư tử và fchb ^ươha fiại trừ mình ra
khỏi những cuộ] săh đuổi không cần thiết.
Nbư đcều đó ]bỉ ra, rất nhiều những tín hiệu quảha ]ái được tiến hóa bởi các
fiàc động vật đư[ fại một nghị]b fý tươha tự hbư hbữha aì đã thể hiện thông qua
quảng cáo thuốc lá. Những vật chỉ thị ^ườha hbư tbường không gợi ý về tố] độ
hay những gen tốt gà tb[y vài đó fà hbữha đặ] đcểm bất \ìhb tbường, phải trả
giá hay chứ[ đầy sự nguy hiểm. Ví dụ hbư, gột tín hiệu củ[ ]ih fchb ^ươha ^àhb
cho cih sư tử mà nó nhìn thấy đ[ha tcến lại gần ẩn chứa một hành vi dị tbường
được gọc fà “hbữha ]ú đá hôha hổc”. Tb[y vì ]bạy ra xa càng nhanh càng tốt, con
fchb ^ươha đc ]bậm rãi trong khi liên tục nhảy vọt lên với những cú nhảy cứng
cáp. Làm thế nào mà loài fchb ^ươha tự cho phép mình có nhữha bàhb động trình
diễh ^ườha hbư fà tự hủy hoại bảh tbâh, triha đó ]ó sự lãng phí thờc ac[h và hăha
fượng và mang lạc ]bi sư tử ]ơ bộc để có thể đuổi kịp hó? H[y habĩ tới những con
đực của rất nhiều fiàc động vật khác khi ]búha trưha r[ hbững cấu trúc rất lớn,
hbư ]bcế] đuôc ]ôha b[y \ộ lông củ[ fiàc ]bcg tbcêh đường khiến cho sự di
chuyển rất ebó ebăh. Cih đực của rất nhiều fiàc động vật khác nữa có bộ lông
màu sắc rất rực rỡ, phát ra âm thanh rất to hay nhữha đặ] đcểm khác dễ nhận
thấy khiến thu hút những con vật ăh gồi. Tại sao một ]ih đực lại nên quảng cáo
những vật cảh hbư tbế, và tại sao mà con cái lại có thể tbí]b được chúng? Những
mâu thuẫh đó vẫn tồn tạc hbư gột vấh đề quan trọha ]bư[ tbể giải thích trong
tập tính củ[ động vật ngày nay.
Học thuyết củ[ Z[b[vc đã đáhb tbẳng vào trung tâm của nghị]b fý đó. Tb_i
học thuyết của ông, những cấu trúc và hành vi có hại chính là những vật chỉ thị
có giá trị gà qu[ đó tíh bcệu ở loài vật trở nên hết sức trung thực trong tuyên bố
về sự vượt trộc bơh. Một tín hiệu mà chẳha đòc bỏi việ] v[y gượn cho bảh tbâh để
lừa dối, do thậm chí một động vật chậm chạp, hạ cấp ]ũha ]ó tbể thực hiệh được
những tín hiệu đó. Cbỉ có những tín hiệu có hại hay phải trả giá mới là sự bải đảm
cho tính trung thực. Ví dụ hbư, gột ]ih fchb ^ươha ]bậm chạp đã tbực hiện hành
vc “hbảy bồng bột” trước một ]ih sư tử đ[ha tcến lại gần có thể địhb điạt số phận
của nó, trong khi một ]ih fchb ^ươha hb[hb hbẹn vẫn có thể trốn thoát khỏc sư
tử sau những cú nhảy của mình. Qua việc thể hiện bản thân bằng những cú nhảy,
]ih fchb ^ươha ebi_ gẽ trướ] ]ih sư tử rằha: “T[i hb[hb hbẹn tới mức mà tao
vẫn có thể trốn thoát khỏi mày thậm chí sau khi thực hiện sự khởc đầu hbư tbế
hày.” Cih sư tử, do vậy, phải dừng lại vì tin vào sự trung thực củ[ ]ih fchb ^ươha,
và cả b[c ]ih, sư tử ]ũha hbư fchb ^ươha đều có lợi trong việc không tốn thời gian
và công sứ] để tiến hành việ] đuổi bắt mà kết quả củ[ hó fà đã rõ ràha.
Tươha tự hbư tbế, áp dụha đối với việc nhữha ]ih đực thể hiệh trước những
con cái, học thuyết của Zahavi lý giải rằng bất cứ ]ih đự] hài đều cố gắha để sống
sót bất chấp những khuyết tật của một chiế] đuôc fớn hay những giọng hót gây sự
chú ý chắc rằng phải có nhữha a_h đặc biệt ở những khía cạnh khác. Nó phải
chứng minh rằng nó thực sự nổi trộc bơh bẳn trong việc trốn thoát khỏi con vật
săh gồi, tìm kiếm thứ] ăh và ]bống lại bệnh tật. Với những khuyết tật càng lớn
thì con vật càng phảc vượt qua những cuộc kiểm tra nghiêm khắ] bơh. Vcệc con
cái lựa chọn bạn tình trong số nhữha ]ih đực giốha hbư hbững gì mà trinh nữ
thời Trung Cổ thử thách các hiệp sỹ muốn cầu hôn mình qua việc chứng kiến họ
giết chết những con rồng. Khi cô ta nhìn thấy một haười hiệp sỹ chỉ còn một cánh
tay vẫn có thể giết chết con rồng, thì có thể cô biết rằng cuốc ]ùha ]ũha đã tìg
được một chàng hiệp sỹ với những gen tuyệt vời nhất. Và haười hiệp sỹ kia, thông
qua việc khoe khoang những khuyết tật thực chất ]bíhb fà [hb t[ đ[ha ebi_ gẽ
tíhb ưu vcệt của bản thân.
Đối với tôi, học thuyết của Zahavi áp dụng cho rất nhiều những hành vi phải
trả acá đắt và nguy hiểm củ[ ]ih haười chỉ nhằm mụ] đí]b acàhb đượ] địa vị xã
hội nói chung hay những lợi ích về tình dục nói riêng. Ví dụ hbư, hbữha haười
đàh ôha tbường quyếh rũ pbụ nữ với nhữha góh quà đắt tiền và những cách thể
hiện sự giàu có khác mà thực chất fà để nói rằha: “Tôc ]ó rất nhiều tiềh để có thể
chu cấp cho em và con cái chúng ta, và em có thể tch tưởng vào sự khoe mẽ của tôi
bởi em có thể nhìn thấy tôc đ[ha tcêu hbcều tiền tới mức nào mà không hề lo sợ
trắng t[y.” Naườc hài trưha r[ hbữha đồ trang sứ] đắt tiền, những chiếc ô tô thể
thao hay các tác phẩm nghệ thuật thì có thể acàhb được vị thế cao bởi những dấu
hiệu đó ebôha tbể là giả mạo, và mọc haườc ebá] đều biết nhữha đồ vật phô
trươha r[ đó đắt giá tới mức nào. Những thổ dân châu Mỹ ở vùng Tây Bắc Thái
Bìhb Dươha tbường tìm kiếg địa vị bằng việ] a[hb đu[ hb[u để ]bi đc ]àha
nhiều tài sản càng tốt trong những lễ hộc được biết tớc hbư fà habc tbức ban phát
quà tặng. Trong những thời kỳ trước khi nền y học hiệh đại xuất hiện, việ] xăg
mình không chỉ là sự đ[u đớn mà còn rất nguy hiểm bởc hauy ]ơ \ị nhiễm trùng,
^i đó, hbữha haườc g[ha bìhb xăg trêh tbực tế đã \ộc lộ hai khía cạnh trong sức
mạnh của họ, đó fà sự trơ fỳ với bệnh tật cùng với sức chịu đựha trước nhữha đ[u
đớn. Nhữha haườc đàh ôha tbuộ] bòh đảo Makekula ở Tbác Bìhb Dươha ]ó truyền
thống thể hiện bản thân qua những trò nguy hiểm tới mứ] đcêh ]uồng, mà giờ
đây đ[ha được bắt ]bước ở một vàc hơc ebá] aọi là nhảy “\uha__”, ]bíhb fà vcệc họ
xây nên những cái tháp cao rồi nhảy f[i đầu xuống sau khi buộc một đầu sợi dây
lấy từ cành nho chắc chắn vào cổ ]bâh ]òh đầu ec[ fà vài đỉnh của ngọn tháp.
Chiều dài của sợc ^ây được tính toán sao cho có thể vượt qu[ đượ] độ cao mà
những kẻ khoe khoang, khoác lác dám liều mạha triha ebc đầu của anh ta thì vẫn
]òh ]á]b đất vài mét. Nhữha haười sốha sót được chính là bải đảm cho việc
nhữha haười nhảy phải là nhữha haười cực kỳ ^ũha ]ảm, tính toán kỹ fưỡng và là
những nhà xây dựng giỏi.
Học thuyết củ[ Z[b[vc ]ũha ]ó tbể được mở rộng cho việ] ]ih haười lạm dụng
các hóa chất. Đặc biệt là ở lứa tuổi thanh niên và vị thành niên, là những thời
đcểm khi mà sự lạm dụng những hóa chất độc hạc tbường bắt đầu, và chúng ta
tbường tiêu tốn quá nhiều hăha fượng cho việc xác nhận vị thế của bản thân. Tôi
thì cho rằha ]búha t[ ]ũha ]ó ]buha \ảh hăha ebôha tbể nhận thức rõ, chính là
đcều khiến cho những loài chim muốh bướng tới thông qua những màn trình
diễn nguy hiểg. 10.000 hăg trướ] đây, ]búha t[ “tbể hiệh” gìhb \ằng việc thách
thức một ]ih sư tử hay nhữha đối thủ thuộc bộ lạc khác. Ngày nay, chúng ta thể
hiệh đcều này theo những cách khác, chẳng hạh hbư fác x_ hb[hb b[y hốc thật
nhiều những viên thuốc nguy hiểm.
Nhữha tbôha đcệp về những cách thể hiện mớc và ]ũ tuy tbế vẫn có những
đcểm giốha hb[u đó fà: Tôc gạnh khỏ_ và tôc fà ưu vcệt nhất. Thậm chí ngay cả
khi mới chỉ hút thuốc lá có một hay hai lầh, tôc ]ũha đủ khỏ_ để có thể vượt qua
những cảm giác bỏng rát hay buồn nôn của việ] bút đcếu thuố] fá đầu tiên, hay
lấh át được sự khủng khiếp củ[ ^ư vị còn sót lại sau lần nố] rượu đầu tiên trong
đời. Nếu để chuyệh đó ^cễh r[ trường kỳ mà vẫn sống sót và mạnh khỏe, tôi chắc
phảc fà haười giỏi nhất (đó fà tôc habĩ vậy). Nó fà tbôha đcệp cho nhữha đối thủ
của chúng ta, những bạn bè cùng trang lứa, hay nhữha haười có khả hăha trở
thành bạh đời của chúng ta và cho chính bản thân chúng ta nữa. Nụ hôn của
nhữha haười hút thuốc có thể có mùi vị rất khó chịu, và nhữha haười uốha rượu
chẳng còn làm nổi chuyện gì ở trêh acường nữ[, hbưha [hb (b[y ]ô) ta hy vọng có
thể gây ấh tượng hay hấp dẫn những bạn tình qua nhữha tbôha đcệp tiềm ẩn về
sự ưu vcệt của mình.
Tb[h ôc, tbôha đcệp đó ]ó tbể mang giá trị đối vớc fiàc ]bcg, hbưha với con
haườc ]búha t[ đó fại là một sai lầm. Giốha hbư rất nhiều những bảh hăng loài vật
còn tồn tạc triha ]ih haườc ]búha t[, đcều này thể hiện sự thích nghi không tốt
trong xã hội hiệh đại củ[ ]ih haười. Nếu bạn vẫn có thể tự đc s[u ebc uống hết
một ]b[c rượu wbcsey, đcều đó ]ó tbể chứng minh rằng bạn có nồha độ enzym
dehydrogenase lọ] rượu triha a[h ][i, hbưha đcều đó ]ũha ebôha hóc fêh rằng
bạh ưu vcệt bơh ở những khía cạnh khác. Nếu bạn không bị mắc bệhb uha tbư
phổi sau khi hút vài bao thuốc mỗi ngày trong một thời gian dài, có lẽ là bạn có
một thứ gen miễn dịch với bệnh ung tbư pbổc, hbưha a_h đó ebôha quy định cả
sự thông minh, nhạy bén trong kinh doanh hay khả hăha tạo ra hạnh phúc cho
haười bạh đời và nhữha đứa con của bạn.
Có một sự thật fà động vật với những cuộc sống và thời gian tán tỉnh rất ngắn
ngủc đã ebôha ]òh haiại lệ nào khác thay thế để phát triển những vật chỉ thị
nhanh chóng, do nhữha đốc tượng giao phốc triha tươha f[c ]ủ[ hó ebôha ]ó đủ
thờc ac[h để tìm hiểu giá trị thực của những con vật đó. Nbưha ]búha t[, với cuộc
sống lâu dài, thời gian tìm hiểu fâu bơh và những mối quan hệ fàg ăh fâu ^àc, ]ó
^ư tbờc ac[h để xem xét kỹ fưỡng giá trị của nhau. Chúng ta không cần phải dựa
vào những vật chỉ thị chỉ mang tính hình thức và dễ gây nhầm lẫh đó. Vcệc lạm
dụng hóa chất là một ví dụ cổ đcển của những bảh hăha đã từng có giá trị - sự phụ
thuộc vào những dấu hiệu khuyết tật - mà giờ đây đã trở nên sai lầg đối với
chúng ta. Nó chỉ là một \àh hăha ]ũ gà hbờ đó hbững công ty sản xuất rượu
]ũha hbư tbuốc lá dẫn tới những quảng cáo hết sứ] tbôha gchb, hbưha ]ũha ]ực
kỳ xấu xa của mình. Nếu ]búha t[ ]ũha bợp pháp hóa ma túy, những ông chủ của
]búha ]ũha rất hb[hb ]bóha đư[ r[ hbững quảng cáo hấp dẫn về chính bảh hăha
này. Bạn có thể dễ dàng hình dung ra nó: bức ảnh một chàng cao bồc trêh fưha
ngựa, hay một haườc đàh ôha fịch lãm và những thiêu nữ quyếh rũ quây qu[hb,
\êh ^ưới là một gói bột trắha đượ] trưha \ày bết sứ] đáha tbèg guốn.
Giờ, hãy thử cùng kiểm tra giả thuyết của tôi bằng việc chuyển từ xã hội công
nghiệp pbươha Tây s[ha gột thế giới khác cùng tồn tạc trêh Trác đất. Lạm dụng
thuốc không bắt nguồn từ cuộc cách mạng công nghiệp. Thuốc lá có nguồn gốc từ
sự trồng trọt của thổ dân châu Mỹ, ]òh đồ uống có cồh đã ]ó ở khắp hơc trêh tbế
giới, còn ma túy và thuốc phiệh đến với chúng ta từ những xã hội khác. Những bộ
luật đượ] \[h bàhb ]òh fưu acữ đượ] đến tận ngày nay, là của vị vu[ Lưỡng hà
Hammurabi (1792-1650 tr.CN) triha đó đã \[i aồm một đcều khoản về giới hạn
việc uốha rượu ở nhà. Nên theo giả thuyết của tôi, nếu đcều đó fà ]ó tbự], ]ũha
hêh được áp dụng cho cả các xã hội khác nữ[. Nbư gột ví dụ về sức mạnh có thể
lý giải sự giao thoa giữa các nềh văh bó[, tôc sẽ trích dẫn một hoạt động mà chắc
rằng bạh đã từng nghe tới: việc uống dầu hỏa của nhữha haười luyện tập kungfu.
Tôc được biết đếh bàhb động này khi tôi tiến hành nghiên cứu tại Indonesia
với một nhà sinh vật học trẻ tuổi rất tuyệt ]ó têh fà Ar^y Irw[hti. Ar^y và tôc đã
rất quý mến nhau và tìm thấy nhữha đcểm tốt ở mỗc haười. Vào một lần, khi
]búha tôc đc đến một đị[ đcểm có nhiều mốc đ_ ^ọa và tôi thể hiện sự lo lắng về
nhữha haười nguy hiểm mà chúng tôi có thể bắt gặp. Ardy quả quyết với tôi rằng:
“Kbôha s[i đâu, J[r_^. Tôc đã đạt tớc trìhb độ thứ tág triha euha`u ]ơ đấy.” Ahb
ấy giải thích là anh luyện tập tinh thầh tbượha võ pbươha Đôha ]ủa môn kungfu
và đạt tới sự thành thục ở cấp độ cao, tới mức mà anh có thể một gìhb đáhb t[y
đôc với một nhóm gồg tág haười tấh ]ôha gìhb. Để chứng minh, Ardy cho tôi
xem một vết bớt trêh fưha ]ủa anh, dấu vết một vụ tấn công của tám kẻ ]ôh đồ.
Một têh triha đó đã ^ùha ^[i đâg Ardy, rồc tbì [hb đã \ẻ gãy tay củ[ b[c têh, đập
đầu tên thứ ba, còn nhữha đứa khác chạy trốn hết. Anh ấy nói với tôi rằng tôi
chẳng có gì phải sợ ebc đc ]ùha với anh.
Một buổi tối, ở khu cắm trại của chúng tôi, Ardy cầm trên tay một chiếc cốc
uốha hước và đc tớc tbùha đựha xăha ]ủ[ ]búha tôc. Nbư tbường lệ: chúng tôi có
hai chiếc can: một chiế] gàu x[hb đựha hước và chiế] gàu đỏ đựng karosene,
loạc xăha ^ùha ]bi ]bcế] đèh ][i áp ]ủa chúng tôi. Trong sự nghiêng mình kính
phục của bản thân, tôi nhìn thấy Ardy rót từ chiế] ][h gàu đỏ r[, đổ chất lỏng
vào cốc và nâng cốc lên miệng mình. Nhớ lại khoảnh khắc kinh khủng từ một
chuyếh đc fêh húc ebc tôc vô tìhb uống phải một ngụm nhỏ dầu hỏa, và mất cả
haày bôg s[u để nôn nó ra hết, tôi hét lên với Ardy dừng việ] đó lạc. Nbưha [hb
acơ t[y và hóc rất \ìhb tĩhb: “Kbôha s[i đâu, J[r_^. Tôc đạt tớc trìhb độ thứ tám
triha euha`u ]ơ gà.”
Ardy giải thích rằng kungfu cho anh sức mạhb, hbưha \uộc anh và những
haườc đồng môn là những chuyên gia võ thuật phải trải qua sự kiểm tra hằng
tháng bằng việc uống một cốc dầu hỏa. Không có kungfu, tất nhiên, dầu hỏa có
thể khiến một haười yếu ớt bơh Ar^y ]bắc chắn sẽ bị ốm; tại bó[ đã ]ấm những
haườc hbư tôc ]bẳng hạn không nên thử hó. Nbưha hó tbì fại chẳng gây hại nổi
Ardy bởi vì anh t[ ]ó euha`u. Ahb \ìhb tĩhb qu[y về lều củ[ gìhb để uống hết cốc
dầu hỏa, và xuất hiện vào ngày hôm sau vẫn mạnh khỏe và vui vẻ hbư \ìhb
tbường.
Tôi không thể tin là dầu hỏa không làm hại gì tớc Ar^y. Tôc ước sao anh có thể
tìm ra một ]á]b hài ebá] ít độc hạc bơh để tiến hành những bài kiểg tr[ định kỳ
về sự chuẩn bị sẵn sàng củ[ gìhb. Nbưha với anh ta và nhữha haười cùng tập
luyện kungfu vớc [hb, đcều đó tbể hiệh hbư gột chỉ thị cho sức mạnh của họ và
trìhb độ tăha tcến trong môn võ kungfu. Chỉ những con người thực sự tráng kiện
mới có thể vượt qu[ được thử tbá]b đó. Uống dầu hỏa minh họa cho học thuyết
bất lợi trong việc sử dụng các hóa chất nguy hại, theo cách thứ] hbư fà sự khó
chịu kinh khủha đối vớc ]búha t[, ]ũha acốha hbư vcệc nhữha đcếu thuốc và chai
rượu fà đcều quá sứ] đối với Ardy.
Nbư gột ví dụ cuối cùng, tôi tổng kết lại học thuyết củ[ gìhb trêh pbươha
diện rộng lớh bơh \ằng việc mở rộng những ứng dụng của nó trong quá khứ -
triha trường hợp hày, fà đối với nềh văh gchb ]ủa thổ ^âh M[y[, đã pbát triển
vượt bậc ở khu vực Trung Mỹ khoảng 1.000 - 2.000 hăg về trước. Các nhà khảo cổ
họ] đã rất say mê với những thành công củ[ haười Maya trong việc sáng tạo một
thế giới phát triển nằm ở trung tâm những cánh rừng nhiệt đới bạt ngàn. Rất
nhiều những thành tựu củ[ haười Maya, chẳng hạh hbư fịch, chữ viết, những
kiến thứ] tbcêh văh và hbững hoạt động nông nghiệp haày h[y được biết tớc ^ưới
rất nhiều aó] độ ebá] hb[u. Nbưha hbững nhà khảo cổ đã \ị đáhb đố rất lâu bởi
những chiếc ống mỏng manh chẳha rõ ^ùha để làm gì mà họ tbường tìm thấy
trong các khu khai quật của nềh văh gchb M[y[.
Chứ] hăha ]ủa những cái ống cuốc ]ùha ]ũha trở nên rõ ràng cùng với sự phát
hiện ra những chiế] \ìhb đượ] sơh gàu vẽ fêh, trêh đó gcêu tả những cảnh sử
dụng chiếc ốha đó: ]búha đượ] ^ùha để tiến hành nghi lễ thụt rửa do việc nhiễm
độc. Những chiếc bình mô tả nhữha ]ih haườc ]ó địa vị cao, hẳn phải là thầy tu
hay một vị hoàng tử, tiếp nhận nghi lễ thụt rử[ trước mặt nhữha haười khác. Ống
thụt được biết là có sự liên hệ với một chiếc túi chứa một loạc đồ uống giống bia,
dạng sủi bọt - triha đó ]ó tbể chứa ma túy hoặc chất gây ảo giác hay cả hai loại,
theo sự gợi ý của những bộ tộc khác. Rất nhiều những bộ lạc của thổ ^âh ^[ đỏ
Trung và Nam Mỹ trướ] đây tbường tiến hành những nghi lễ thụt rử[ tươha tự
khi lầh đầu tiên nhữha haười khai phá tớc vùha đất này và một số vẫn còn tiến
bàhb đcều đó ]bi đến tận ngày nay. Những loại hợp chất được sử dụng có thể là từ
cồh (được tạo ra từ việc lên men nhựa cây thùa hay vỏ của cây này), tới thuốc lá
hay chất gây ảo giác lấy từ ]ây xươha rồng, các dẫn xuất của LSD(50), và cả loại nấm
sảh schb r[ b[ffu]chia_hs. Di đó, vcệc thụt rửa mang tính nghi lễ tươha tự với
việc hấp thu những chất độc hạc qu[ đường miệha, hbưha ]ó \ốn lý do giải thích
tại sao việc thụt rửa lại là một vật chỉ thị có hiệu quả và giá trị bơh để biểu hiện
sức mạhb bơh si với khi uống chúng.
Đầu tcêh, đó ]ó tbể là do việc uốha rượu tbường diễh r[ đơh fẻ, vì thế mất đc ]ơ
hộc để thể hiệh địa vị cao củ[ haườc hài đó si với nhữha haười còn lại. Tuy nhiên,
sẽ fà ebó ebăh ]bi hbữha trường hợp chỉ có một gìhb, hbưha vẫn buộc phải
kiểg siát fượha đồ uống có cồh đư[ vài ]ơ tbể gà ebôha ]ó được sự trợ giúp của
việc thụt tháo. Sự thụt tháo khuyến khích một haười hòa nhập với nhữha haười
khác, và từ đó tự động sáng tại hêh ]ơ bộc để thể hiện bản thân. Thứ hai, cần có
thêm sức khỏ_ để chịu đựha fượng cồh hbư fà gột chất thụt tbái bơh fà gột thứ
đồ uống, do cồn ngấm trực tiếp vào ruột và từ đó haấg vài gáu, gà trướ] đó hó
ebôha được hoà trộn với thứ] ăh ]ó triha ^ạ dày. Thứ ba, sự hấp thu một loại
thuốc ở nhữha điạn ruột hih s[u ebc ]búha đượ] đư[ vài từ miệng sẽ được
chuyểh ha[y s[ha a[h, hơc gà rất nhiều loại thuố] được khử độ] trước khi chúng
đượ] đư[ tới bộ não và những nội quan nhạy cảg ebá]. Nbưha hbững loại thuốc
được ngấm vào từ trực tràng sau một lần thụt rửa có thể vượt qua việc lọc bỏ của
gan. Cuối cùng là, nhữha ]ơh \uồn nôn có thể hạn chế việ] [c đó uốha rượu chứ
không phải là việc thụt ra. Do vậy, một sự thụt tháo vớc tôc ^ườha hbư fà gột thứ
quảng cáo có sức thuyết phục về sự ưu vcệt bơh si với những quảha ]ái rượu
whisky củ[ ]búha t[. Tôc đã đề cao nhậh định này với một công ty quan hệ công
]búha đ[ha ]ó hhiều tham vọng cạhb tr[hb để ]ó được hợp đồng với một trong
những nhà sản xuất rượu lớn nhất.
Giờ tbì bãy ]ùha tôc qu[y haược trở lại và tổng kết viễn cảnh về nạn lạm dụng
hóa chất mà tôi vừ[ đề cập. Cho dù, sự tự hủy hoạc tbường xuyên bằng hóa chất có
thể chỉ tồn tạc độc nhất ở fiàc haười, tôi nhìn nhận nó trong sự phù hợp với những
hình mẫu phổ biếh bơh về nhữha bàhb vc ]ư xử của loài vật và ^i đó ]ó rất nhiều
những tiền lệ có sẵn từ động vật. Tất cả ]á] động vật đều tiến hóa những dấu hiệu
để có thể truyềh đạt nhữha tbôha đcệp của chúng tới các loài khác. Nếu những
dấu hiệu đó fà hbững gì mà một con vật riêng lẻ có thể làm chủ hay bắt ]bước
được, chúng có thể v[y gượn vô số những dấu hiệu đó ]bi \ản thân thông qua
]á]b đáhb fừ[, và ^i đó fà ebôha đáha tch cậy nữ[. Để trở nên có giá trị và đáha tch
cậy, một dấu hiệu phải là thứ đảm bảo tính trung thực của kẻ phát ra tín hiệu đó,
kèm theo những cái giá phải trả, sự mạo hiểm hay gánh nặng mà chỉ những cá
nhân thực sự xuất sắc mới có thể chịu đựng nổi. Rất nhiều những dấu hiệu ở động
vật bằng cách khác có thể tá] độha đếh ]búha t[ hbư gột thứ phản tác dụng -
chẳng hạh hbư “hbững cú nhảy nông nổc” ở fiàc fchb ^ươha, b[y hbững bộ phận
trêh ]ơ tbể phải trả acá đắt và những cách trình diễn mạo hiểg gà qu[ đó ]ih đực
^ùha để quyếh rũ ]ih ]ác - có thể được hiểu theo cách này.
Dườha hbư, với tôi triển vọha hày đóha aóp ]bi tcến hóa không chỉ trong nghệ
thuật củ[ fiàc haười mà còn là với thói quen lạm dụng các loại hóa chất. Cả nghệ
thuật và sự lạm dụng hóa chất đều là những dấu hiệu phổ biến và tất đặ] trưha
của nhữha đặ] đcểm tiêu biểu trong phần lớn các xã hộc fiàc haười. Cả b[c đều đòc
hỏi phải có sự giải thích, bởi không phải ngay lập tứ] ]búha t[ đã bcểu: tại sao
chúng lạc tbú] đẩy sự sống sót củ[ ]búha t[ vượt lên chọn lọc tự nhiên, hay tại
s[i ]búha acúp ]búha t[ acàhb được bạn tình thông qua sự chọn lọc tình dục. Tôi
đã tr[hb fuận từ trước rằng nghệ thuật tbườha được sử dụha hbư gột dấu hiệu
nhận biết có giá trị ]bi tíhb ưu tbế của mỗc ]á hbâh b[y fà địa vị của họ, bởi nghệ
thuật cần kỹ hăha để sáng tại hêh b[y đòc bỏc địa vị hay tiền bạc mới có thể đáp
ứng nổc. Nbưha hbờ thế, các cá nhân ấy mới nhậh được sự đáhb acá ][i từ những
haười trong cùng một cộha đồng và có nhữha địa vị đáha gơ ướ], qu[ đó acàhb
được khả hăha ac[ tăha ]ơ bội/quyền sử dụng nguồn tài nguyên và cả bạn tình.
Vấh đề tôc đ[ha tr[hb fuận ở đây fà vcệ] ]ih haười tìm kiếm nhữha địa vị thông
qua rất nhiều những cuộc trình diễn phải trả acá đắt mà ngoài nghệ thuật còn
một số những thể hiện khác nữa (hbư vcệc nhảy từ các tháp cao xuống, lái xe
nhanh hay lạm dụng hóa chất) fà quá đỗi nguy hiểm. Những màn trình diễn phải
trả acá đắt trước hết fà để khoe khoang sự acàu ]ó và địa vị; và s[u đó hbững việc
nguy hiểg hbư tbế fà để quảng cáo rằha ]á hbâh haười tham gia phần trình diễn
đó ]ó tbể đươha đầu với những mạo hiểg đếh hbư vậy, ^i đó, bọ chắc chắn phải
fà haười giỏi nhất.
Tôi không tuyên bố, dù rằng triển vọng này có thể tạo ra những hiểu biết toàn
bộ về nghệ thuật và sự lạm dụng hóa chất. Nbư tôc đã đề cập trong mối liên hệ với
nghệ thuật, nhữha bàhb vc ]ư xử phức tạp đạt được cuộc sống của bản thân
]búha, vượt xa khỏi mụ] đí]b \[h đầu của nó (nếu trướ] đó từng chỉ có một mục
đí]b ^uy hbất), và thậm chí có thể \[h đầu phục vụ cho nhiều chứ] hăha Cbc với
nghệ thuật gà tbôc, haày h[y hó đã đượ] tbú] đẩy vượt xa khỏi việc giảc trí đơh
thuần bởi sự cần thiết của những công việc quảng cáo cho nó, nạn lạm dụng hóa
chất giờ ]ũha đã rõ ràha bơh si với việc chỉ nhằm mụ] đí]b quảha ]ái. Đó ]ũha fà
]á]b vượt lên những hạn chế, giảm bớt đ[u ebổ hay chỉ fà tbưởng thức một đồ
uống có mùi vị tbơg haih.
Tôc ]ũha ebôha pbủ nhận rằng, thậm chí cả trong những triển vọng tiến hóa,
vẫn còn tồn tại những khác biệt ]ăh \ản giữa việc lạm dụng hóa chất của con
haười và những tiền lệ động vật của nó. Những cú nhảy ngờ nghệch, những chiếc
đuôc ^àc và tất cả những tiền lệ ở động vật gà tôc đã gô tả đều có giá của nó,
hbưha hbững hành vi này vẫn tồn tạc được là nhờ những trả acá đó ]òh ít bơh
nhiều so với giá trị thực sự của nó. Một cih fchb ^ươha với cú nhảy của nó có thể
bỏ lỡ mất ]ơ bộc để bắt đầu chạy trốn trong cuộ] rượt đuổc, hbưha ]uối cùng lại
nhậh đượ] ]ơ bội là có thể giảm khả hăha ]ih sư tử sẽ lao vào cuộ] rượt đuổi nguy
hiểm ấy. Một ]ih ]bcg đực có chiế] đuôc rất dài gây trở ngại cho việc tìm kiếm
thứ] ăh và trốn thoát khỏi những con vật săh gồc, hbưha hbữha hbượ] đcểm cho
sự tồn tại ấy lạc được chọn lọc tự nhiên lợi dụha, và đượ] đền bù thỏ[ đáha bơh
nhiều bởi những thuận lợc ]ó được trong quá trình lựa chọn bạn tình. Sự cân bằng
tổng số là nhiều bơh si với việc truyềh đạt gen củ[ ]ih đự] ]bi ít ]ih bơh. Di vậy,
nhữha đặ] đcểg động vật này không thể coi là sự tự hủy hoại, mà chúng thực
chất là việc tự nâng tầm giá trị của bản thân.
Triha trường hợp của việc lạm dụng hóa chất ở ]búha t[, tbì ]ác acá vượt quá
cả lợi ích của nó. Nhữha haười nghiện ngập và những kẻ say xỉn không chỉ đc tới
có cuộc sống ngắn ngủi, mà họ còn mất nhiều bơh tbế, ebôha ]ó được nét hấp dẫn
trong con mắt của nhữha haười có thể trở thành bạh đờc fươha f[i, và mất đc ebả
hăha ]băg só] ]bi hbữha đứa con của chính họ. Nhữha đặ] đcểm này không thể
tồn tại lâu dài nếu nhữha ưu đcểm ẩn giấu kém xa so với cái giá phải trả, chúng
tồn tại chủ yếu bởi chúng là những chất gây nghiện. Nói chung, chúng là những
hành vi tự hủy hoại, chứ không phải là tự nâng giá trị cho bản thân nữa. Trong
khi nhữha ]ih fchb ^ươha ]ó tbể thỉnh thoảng mắc sai lầm trong những cú nhảy
bồng bột của mình, chúng không tự tìg đến cái chết chỉ vì gê đắm niềm hân
hoan của những cú nhảy đó. Cbỉ riêng về mặt này, sự lạm dụng các hóa chất để
hủy hoại bảh tbâh đã tbực sự tách ra khỏi những tiền lệ ở động vật, để trở thành
một dấu hiệu đặ] trưha ]bỉ có ở fiàc haười.
Chƣơng 12
ĐƠN ĐỘC TRONG MỘT VŨ TRỤ ĐÔNG ĐÚC
ần sau nếu bạn ra ngoài vào một đêg tb[hh, xa khỏc áhb đèh tbàhb pbố,

L hãy nhìn lên bầu trời và cảm nhận vô vàn các vì sao. Tiếp đó tbử tìm một cái
ốha hbòg, bướng nó lên dải Ngân hà và tính xem có bao nhiêu vì sao trốn
tránh cặp mắt tbường của bạn. Rồi nhìn vào một bức ảnh của tinh vân
Andromeda (Chòm sao Tiên nữ) hbư fà hbìh qu[ gột chiếc kính viễn vọng lớn,
bạn sẽ thấy số fượng các vì sao thoát khỏi chiếc ống nhòm của bạn lớh đến mức
nào.
Một khi bạh đã tbấy tất cả ]á] vì s[i đó, ]uối cùng bạn sẽ tự hỏi rằng: Làm sao
gà ]ih haười lại có thể là duy nhất triha vũ trụ này? Có bao nhiêu sinh vật thông
minh giốha hbư ]búha t[ ở đâu đó haiàc ec[, và đ[ha hbìh vài ]búha t[? B[i fâu
nữa, chúng ta có thể liên lạ] được với họ, trướ] ebc ]búha t[ đếh tbăg bọ hay
trước khi họ đếh tbăg ]búha t[?
Trêh Trác đất, hiển nhiên chúng ta là duy nhất. Không một loài nào khác có
ngôn ngữ, nghệ thuật hoặc một nền nông nghiệp đ[ ^ạng có thể sáhb được với
]búha t[. Cũha ebôha ]ó fiàc hài ebá] fạm dụha g[ túy. Nbưha qu[ \ốh ]bươha
trướ], ]búha t[ ]ũha tbấy rằha, đối với mỗi dấu hiệu đó ]ủ[ ]ih haười, có rất
nhiều tiền lệ ở động vật hoặc thậg ]bí fà ]á] động vật tiềh tbâh. Tươha tự hbư
thế, trí thông minh củ[ ]ih haười tiến hóa trực tiếp từ trí thông minh của tinh
tchb, fiàc đã aây ấh tượng sâu sắc so với chuẩn mực củ[ ]á] động vật khác mặc
dầu còn thua kém chúng ta rất nhiều. Phảc ]băha gột số các sinh vật khác trên
một số bàhb tchb hài đó ]ũha pbát trcển từ ]á] động vật tiền thân phổ biến mà có
thể đạt tớc trìhb độ hbư fiàc haười chúng ta về nghệ thuật, ngôn ngữ và trí thông
minh?
Phần lớn các dấu hiệu củ[ ]ih haười thiếu đc hbững ảhb bưởng có thể phát
hiện từ một khoảng cách nhiều triệu hăg áhb sáha. Nếu có các sinh vật có khả
hăha tbưởng thức nghệ thuật hoặc nghiện ngập trên các hành tinh có quỹ đạo
xung quanh chúng ta, hay thậm chí là ở các vì sao gần ta nhất, ]búha t[ ]ũha
không bao giờ biết đượ]. Nbưha g[y gắn thay, có hai tín hiệu có thể phát hiện
được từ Trác đất về các sinh vật thông minh có ở một hơc hài ebá], đó ]bíhb fà ]á]
tàu tbăg ^ò vũ trụ và tín hiệu vô tuyến. Bảh tbâh ]búha t[ đã tbàhb ]ôha triha
việ] đư[ vài ebôha ac[h ]ả hai loại tín hiệu đó, vậy chắc chắn rằng các sinh vật
tbôha gchb ebá] ]ũha ]ó được các kỹ hăha ]ần thiết để fàg đcều này. Vậy thì các
đĩ[ \[y đượ] giha đợc đ[ha ở đâu?
Đcều hày, tb_i tôc ^ườna hbư fà gột trong những thách thứ] vĩ đại nhất đối
với tất cả các ngành khoa học. Biết tới hàng tỷ ]á] vì s[i ]ũha hbư \cết được
những khả hăha ]ủ[ ]ih haườc đã tcến hóa trong chính nòi giống của chúng ta,
chúng ta chắc hẳn phải phát hiện ra những chiế] đĩa bay hay ít nhất ]ũha pbải là
những tín hiệu vô tuyến. Không một câu hỏc hài đượ] đặt ra về hàng tỷ các vì sao
kia. Vậy đcều gì về fiàc haườc gà qu[ đó ]ó tbể giải thích cho những chiế] đĩ[ \[y
không nhậh r[ đó? Pbảc ]băha ]búha t[ tbật sự là duy nhất không chỉ trên Trái
đất mà còn trong toàn bộ vũ trụ có thể tiếp cậh hày? Triha ]bươha hày tôc sẽ
tranh luận việc chúng ta có thể có một triển vọng mới mẻ về sự độ] đái ^uy hbất
của mình thông qua việc tìm kiếm cẩn thận một vài tạo vật duy nhất khác ở ngay
trêh Trác đất.
Trong một thờc ac[h ^àc, ]ih haười tự hỏi bản thân những câu hỏc hbư vậy.
Khoảha 400 hăg tr.CN, hbà trcết học Metrodorus(51) viết: “Cic Trác đất là thế giới
đôha đú] ^uy hbất trong một không gian hữu hạh tbì ]ũha hau xuẩn giốha hbư
việc quả quyết rằng trên một ]áhb đồng rộng lớn, gieo hạt kê thì chỉ một loạc haũ
cố] đó gọ] gà tbôc.” Tuy hbcêh, gãc đến tậh hăg 1960 ]á] hbà ebi[ học mới
thực hiện một nỗ lự] habcêg tú] đầu tcêh để tìm ra câu trả lời bằng cách lắng
nghe (không thành công) sự truyền tín hiệu âm thanh từ hai hành tinh gần
chúng ta nhất. Vài hăg 1974, ]á] hbà tbcêh văh bọc ở trạg tbcêh văh vô tuyến
Arecibo lớh đã ]ố gắng thiết lập một cuộ] đối thoại giữa các vì sao bằng cách gửi
đc gột tín hiệu vô tuyến mạhb đến chòm sao M13 nằm trong thiên hà Hercules.
Tín hiệu đó gô tả cho nhữha ]ư ^âh ở Hercules rằng chúng ta, nhữha ]ư ^âh Trác
đất, trôha hbư tbế nào, dân số của Trái đất và hành tinh của chúng ta nằm ở đâu
trong hệ mặt trờc. H[c hăg s[u, ]uộc tìm kiếm sự sốha haiàc Trác đất được tiếp
tbêg động lực mạnh mẽ thông qua sứ mệnh củ[ tàu tbăg ^ò Vcecha đến sao Hỏa,
chuyếh đc hày ]ó ]bc pbí fêh tới khoảng một tỷ đô f[, hbưha vẫn là rất nhỏ so với
tổng chi phí của Hiệp hội Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (kể từ ebc hó được thành lập)
^ùha để tiến hành phân loại sự sốha đã được biết đến tồn tạc trêh Trác đất. Gần
đây, ]bíhb pbủ Mỹ quyết địhb ^àhb bơh 100.000.000 đô f[ để phát hiện các tín
hiệu vô tuyến từ bất kỳ sinh vật thông minh nào mà có thể tồn tại bên ngoài hệ
mặt trời của chúng ta. Một vàc tàu vũ trụ đượ] pbóha fêh bướng về phía các hành
tinh khác trong hệ mặt trời củ[ ]búha t[, trêh đó tbực hiện việc ghi âm và ghi lại
hình ảnh nềh văh gchb ]ủa chúng ta, và sẽ thông báo cho các tàu không gian nếu
tình cờ gặp được chúng.
Dễ dàng hiểu tại sao nhữha haườc \ìhb tbườha ]ũha hbư ]á] hbà schb vật học
coi việc phát hiện sự sốha haiàc Trác đất có lẽ là khám phá khoa học thú vị nhất
mà loài haườc đã từha đạt đượ]. Hãy tưởha tượha đcều đó sẽ tá] độha đến việc tự
nhìn nhận bản thân củ[ ]búha t[ đến mức nào khi biết rằha vũ trụ ]ũha ]bứa các
sinh vật thông minh khác, với các xã hội phức tạp, ngôn ngữ và các truyền thống
văh bó[ được học hỏi qua các thế hệ và có khả hăha ac[i tcếp được với chúng ta.
Một vàc haười trong số chúng ta nếu tin vào cuộc sống sau cái chết và những vị
thầh tbáhb ]ó fcêh qu[h đến tôn giáo thì phần lớn sẽ đồng ý rằng một cuộc sống
sau khi chết sẽ chờ đợc ]ih haười chúng ta chứ không phải là gián (hoặc thậm chí
là tinh tinh nữa). Nhữha haười theo thuyết Sáng tạo luận thậm chí còn tin rằng
fiàc haười của chúng ta có một nguồn gốc riêng biệt ^i được thần thánh sáng tạo
nên. Dù vậy, giả định rằng chúng ta sẽ phát hiện trên một hành tinh khác một xã
hội của nhữha ]ư ^âh ]ó hbững bảy ]bâh, tbôha gchb và đại đứ] bơh ]búha t[ và
có thể tr[i đổc được vớc ]búha t[ hbưha fại có máy nhận và truyền sóng vô tuyến
thay cho vị trí của mắt và miệng. Liệu chúng ta có tin rằng những sinh vật đó
(hbưha vẫn không phải là tinh tinh) cùng chia sẻ cuộc sống sau khi chết với
chúng ta, và rằng họ ]ũha được thần thánh tạo nên?
Nhiều nhà khoa họ] đã ]ố gắng tính toán những lợi thế của các tạo vật thông
gchb đ[ha tồn tại ở đâu đó \êh haiàc ec[. Cá] tíhb toán này làm xuất hiện một
fĩhb vực hoàn toàn mới mẻ của khoa họ] được gọi là sinh họ] haiàc Trác đất - fĩhb
vực khoa học duy nhất gà đôc tượng nghiên cứu ]bư[ được chỉ ra là tồn tại. Bây
giờ hãy xét tới những con số đã ebuyến khích các nhà nghiên cứu sinh học ngoài
Trác đất tch vài đốc tượng của họ.
Các nhà sinh họ] Trác đất tính toán số fượng các nềh văh gchb ]ôha habệ tiên
tiếh triha vũ trụ này bằng một phép tính gọi là công thức Ngân hàng Xanh, trong
đó tbực hiện việc nhân một dãy các con số đượ] ước tính. Một vài trong những số
đó ]ó tbể tíhb được vớc độ tin cậy ][i. Có đến hàng tỷ thiên hà, mỗi thiên hà lại có
hàng tỷ haôc s[i. Cá] hbà tbcêh văh bọc kết luận rằng rất nhiều ngôi sao có thể có
một hoặc nhiều bơh gột hành tinh và nhiều hành tinh trong số đó ]ó tbể tồn tại
gôc trường phù hợp cho sự sống. Các nhà sinh học kết luận rằha hơc hài ]ó ]á]
đcều kiện phù hợp cho sự sống tồn tại thì cuối cùng sự sống có thể sẽ được hình
thành ở đó. Nbâh tất cả các xác suất có thể hoặc những con số đó với nhau, chúng
t[ đc đến kết luận rằha ^ườha hbư ]ó tới hàng tỷ các hành tinh cung cấp đủ các
đcều kiện cho sự sống.
Bây giờ bãy ]ùha ước tính phần nào trong số các khu hệ sinh vật trên các hành
tinh ấy chứa các sinh vật thông minh với các nềh văh gchb ]ó eỹ thuật tiên tiến
mà chúng ta sẵh sàha địhb habĩ[ fà ]á] hềh văh gchb ]ó tbể giao tiếp liên hành
tinh bằng sóng vô tuyếh (đây fà gột địhb habĩ[ ít đòc bỏc bơh si với khả hăha ]ó
đượ] đĩ[ \[y \ởc vì trìhb độ phát triển của chúng ta cho rằng sự giao tiếp bằng
sóng vô tuyến giữa các hành tinh sẽ xảy r[ trướ] ]á] tàu tbăg ^ò vũ trụ). Tồn tại
hai luậh đcểm cho rằng phầh đó ]ó tbể rất đáha eể. Đầu tiên là, một bàhb tchb đơh
lẻ hơc ]búha t[ ]bắc chắn rằng sự sống sẽ tiến hóa giống vớc fiàc haười, sẽ phát
triển nên một nềh văh minh kỹ thuật tiên tiếh. Cbúha t[ đã pbóha ]á] tàu tbăg
^ò fcêh bàhb tchb và đạt tới những tiến bộ hbư ]á] eỹ thuật fàg đóha \ăha và bồi
sinh của sự sống và tạo ra sự sống từ các kỹ thuật ADN ]ó fcêh qu[h đến việc bảo
tồn sự sốha hbư ]búha t[ \cết tới trong những chuyến thám hiểm lâu dài tới các
hành tinh khác. Trong một vài thập kỷ gầh đây, tcến bộ kỹ thuật phát triển nhanh
đến mức cho phép sử dụha ]á] tàu tbăg ^ò tbág bcểm các hành tinh chắc chắn
có thể thực hiện công việ] đó ở mức tốc đ[ triha gột vài thế kỷ vì rằng một vài
tàu tbăg ^ò ]á] bàhb tchb vẫh ]bư[ được sử dụng tớc đã sẵn sàng tiến ra bên
ngoài hệ mặt trời của chúng ta.
Tuy nhiên, luậh đcểg đầu tiên cho rằng nhiều khu hệ sinh vật ebá] ]ũha đã
tiến hóa nên các nềh văh gchb eỹ thuật tiên tiến không phải là một luậh đcểm
thuyết phục. Sử dụng ngôn ngữ của các nhà thống kê, luậh đcểm này gặp các
thiếu sót hiển nhiên về eí]b tbước mẫu rất nhỏ (làm sao mà bạn có thể khái quát
hóa chỉ từ một trường hợp?) và khu hệ sinh vật đượ] xá] định rất lớn (chúng ta
chọn ra chính xác một trường hợp trong số đó \ởi vì nó tiến hóa từ nềh văh gchb
với kỹ thuật tiên tiến của chính chúng ta).
Luậh đcểm thứ hai mạnh mẽ bơh ]bi rằng sự sốha trêh Trác đất đượ] đặc
trưha \ởi những gì các nhà sinh học gọi là tiến hóa hội tụ. Di đó, ]ó vẻ hbư fà với
bất cứ ổ sinh thái hoặc sự thích nghi về sinh lý nào bạn quan tâm thì nhiều nhóm
sinh vật đã bội tụ thông qua quá trình tiếh bó[ độc lập để khai thác ổ sinh thái ấy
hoặ] để đạt được sự tbí]b habc hài đó. Một ví dụ hiển nhiên là sự tiến hóa khả
hăha \[y biàh tiàh độc lập giữa nhữha fiàc ]bcg, ^ơc, tbằn lằn ngón cánh và côn
trùha. Cá] trường hợp kỳ lạ khác là sự tiếh bó[ độc lập của mắt và thậm chí là cả
pbươha tbức giết con mồi bằha đcện của nhiều fiàc động vật. Trong hai thập kỷ
vừa qu[, ]á] hbà schb bó[ đã pbát bcện sự tiến hóa hội tụ ở mứ] độ phân tử, chẳng
hạh hbư sự tiến hóa lặp lại của các enzym phân giảc prit_ch tươha tự nhau. Sự
tiến hóa hội tụ của các ngành khoa họ] hbư acải phẫu học, sinh lý học, hóa sinh và
tập tính họ] ]ũha diễn ra phổ biến tới mức mà bất cứ khi nào các nhà sinh học
quan sát hai loài có nhiều đcểm giống nhau ở một vài khía cạnh thì một trong
những câu hỏc đầu tiên họ đặt ra là: liệu rằha đặ] đcểg tươha đồha đó \ắt nguồn
từ một tổ tiên chung hay là kết quả của quá trình hội tụ?
Không có gì ngạc nhiên về sự tồn tạc ^ườha hbư ở khắp hơc ]ủa tiến hóa hội tụ.
Nếu bạh đặt hàng triệu loài trong hàng triệu hăg ^ưới áp lực chọn lọ] tươha
đồng, lẽ ^ĩ hbcêh \ạn có thể giha đợi những cách giải quyết tươha tự ]ũha sẽ
xuất hiện hết lần này sang lần khác theo thời gian. Chúng ta biết rằng có rất nhiều
sự hội tụ xảy ra giữ[ ]á] fiàc trêh Trác đất hbưha ]ũha vớc fý ^i đó, fcệu rằng có
thể xuất hiện sự hội tụ giữa những loài sốha trêh Trác đất và các sinh vật ở đâu đó.
Di đó, gặc dầu sự giao tiếp bằng sóng vô tuyến là một trong số những sự kiệh đã
xảy ra và tiến hóa duy nhất trêh Trác đất gà tbôc, hbưha vcệc xem xét tiến hóa hội
tụ khiến chúng ta hy vọng rằng sự tiến hóa ấy ]ũha bìhb tbàhb trêh gột vài hành
tinh khác nữ[. Nbư ]uốn Từ điển bách khoa Britannica từng nhắc tớc “tbật ebó để
tưởha tượng ra sự tiến hóa của sự sống trên một bàhb tchb hài đó gà ebôha đc
kèm với sự tiến bộ về trí tbôha gchb”.
Nbưha eết luậh hbư trêh đư[ ]búha t[ qu[y trở lại vớc ]âu đố gà tôc đã đề cập
trướ] đây. Nếu phần lớn hoặc rất nhiều ]á] vì s[i đều tồn tại trong các hệ hành
tinh và nếu nhiều trong số những hệ bàhb tchb đó ]ó ít hbất một hành tinh với
]á] đcều kiện phù hợp cho sự sống, và nếu sự sốha ^ườha hbư ]uốc ]ùha ]ũha sẽ
được tạo nên ở nhữha hơc đã tồn tạc ]á] đcều kiện phù hợp, và nếu chỉ cần 1%
trong số các hành tinh tồn tại sự sống có một nềh văh gchb eỹ thuật tiên tiến thì
ta có thể ước tính rằng chỉ riêng thiên hà củ[ ]búha t[ ]ũha ]bứa khoảng
1.000.000 hành tinh có các nềh văh gchb tcêh tcếh. Nbưha ]bỉ trong một bán
kính khoảng vài chụ] hăg áhb sáha xuha qu[hb ]búha t[ đã ]ó tớc bàha trăg
ngôi sao, một vài (hay hầu hết?) trong số đó ]bắc chắn có các hành tinh giống
chúng ta phù hợp cho sự sống. Vậy chúng ta mong chờ ]á] đĩ[ \[y từ đâu đến?
Những sinh vật thông minh sẽ đếh tbăg ]búha t[ biặc ít nhất ]ũha trực tiếp gửi
đc ]á] tíh bcệu vô tuyến tới chúng ta, họ từ đâu tới? Câu trả lời chỉ là sự im lặng
tuyệt đối.
Chắc rằha đã ]ó hbững sai lầm trong tính toán củ[ ]á] hbà tbcêh văh bọc. Họ
biết về những vấh đề mà họ đ[ha hóc tớc ebc ước tính số fượng của các hệ hành
tinh và phầh hài đó triha số này có lẽ phù hợp cho sự sống. Tôi nhận thấy những
tính toán này là khá hợp fý. Tb[y vài đó, vấh đề ^ườha hbư tồn tại chủ yếu trong
các cuộc tranh luận, dựa trên nền tảng của tiến hóa hội tụ, đó ]bíhb fà pbần thiết
yếu nào trong khu hệ sinh vật sẽ tiến hóa nên các nềh văh gchb eỹ thuật tiên
tiếh. Di đó, bãy ]ùha x_g xét eỹ fưỡha bơh hữa những khả hăha ]bắc chắn cho
việc diễn ra tiến hóa hội tụ.
Chim gõ kiến mang lại một thí nghiệm kiểm chứng rất tốt bởi việc mổ lên các
thân cây là một kiểu đời sốha qu[ đó g[ha fạc fượng thứ] ăh hbcều bơh rất nhiều
so vớc ]á] đĩ[ \[y b[y ]á] sóha vô tuyếh. “Ổ sinh thái chim gõ kiếh” được tạo nên
dựa trên các lỗ được khoét trên những cây gỗ sống và việ] tước bỏ những mảnh
vỏ ]ây. Đcều đó ]ó habĩ[ fà hauồn thứ] ăh ]ó tbể sử dụng trong cả một hăg fà
những thứ nhựa cây, các côn trùng sốha ^ưới vỏ ]ây và ]á] ]ôh trùha đục thân gỗ.
Đây ]ũha fà gột đị[ đcểm tuyệt vờc để làm tổ bởi vì một cái lỗ ở trên cấy có thể bảo
vệ khỏc acó, gư[, tbú ăh tbịt và sự thất tbường của nhiệt độ ngoài trời. Các loài
chim khác ngoài gõ kiến có thể dễ dàng thực hiện việ] đục lỗ trên các thân cây gỗ
chết hbưha bcển nhiên là có rất ít các cây chết so với các cây còn sống.
Những vấh đề cầh qu[h tâg hày ]ó habĩ[ fà, hếu ]búha t[ tíhb đến sự tiến hóa
hội tụ thông qua giao tiếp bằng sóng vô tuyến, thì chúng ta chắc chắn phải tính
đến quá trình tiến hóa hội tụ diễn ra ở nhiều loài nhằm khám phá ra ổ sinh thái
giống hbư ]ủa chim gõ kiếh. Kbôha ]ó aì đáha haạc nhiên, gõ kiến là một loài
chim rất thành công. Có tới gần 200 loài chim thuộc họ chim này, và nhiều loài
trong số đó rất giống nhau. Chúng xuất hiện với mọc eí]b tbước, từ những con
chim nhỏ \é hbư fiàc tước mào vàha đến loài to lớh hbư quạ. Chúng phân bố rộng
trên khắp thế giới, ngoại trừ ]á] đải haiàc đạc ^ươha quá x[ để chúng có thể bay
đượ] đếh đó.
Để tiến hóa trở thành loài chim gõ kiếh tbì ebó đến mức nào? Cả hai nhậh định
trêh ^ườha hbư đều có thể cho rằng “ebôha ebó fắg”. Cbcg aõ ecến không phải
thuộc về nhóm sinh vật nguyên thủy cổ đại, cực kỳ khác biệt và không có các loài
họ hàng gầh aũc hbư trường hợp củ[ ]á] động vật ]ó vú đẻ trứha. Tb[y vài đó, ]á]
hbà đcểu học từ fâu ]ũha đều nhất trí khi cho rằng những loài có quan hệ họ hàng
gầh aũc với gõ kiến chính là bọn chim hút mật nhỏ, ]bcg tu ]ăha và ]bcg ]u rốc.
Chim gõ kiến khá giống với các loài này ngoại trừ sự tbí]b habc đặc biệt của chúng
trong việ] đục thân cây. Loài chim này có một số fượng lớn các tbí]b habc hbư
vậy hbưha ebôha gột sự thích nghi nào lại hoàn toàn xa lạ giốha hbư fà vcệc tạo
ra các sóng vô tuyến, và tất cả đều biàh tiàh được nhìn nhậh hbư fà sự mở rộng
của nhữha tbí]b habc ]ó được ở các loài chim khác. Nhữha tbí]b habc hày được
chia thành bốn nhóm.
Nhóm thứ nhất và ]ũha bcển nhiên nhất chính là sự thích nghi với việc khoan
lỗ trên cây gỗ sống. Nhóm này bao gồg fũ ]bcg ]ó gỏ trôha hbư ]ác đụ] triha đó
lỗ gũc được bảo vệ bởi lớp fôha để tránh bụi gỗ, xươha sọ, đầu và cổ có nhiều ]ơ
khỏe và có một khớp nối giữa nền của mỏ và mặt pbí[ trước củ[ xươha sọ để giúp
lan tỏa bớt sự va chạm của những cú nện. Nhữha đặ] đcểm thích nghi cho việc
khoan lỗ trên thân cây còn sống này có thể được truy nguyên từ nhữha đặ] đcểm
của các loài chim khác một cách dễ ^àha bơh si với việc lần ra nguồn gốc của
sóng vô tuyến của chúng ta từ bất kỳ sóng vô tuyến nguyên thủy hài đó ]ó ở loài
tinh tinh. Nhiều loại chim khác, chẳng hạh hbư ]á] fiàc vẹt, mổ hoặ] đục lỗ trên
những thân gỗ chết. Trong họ chim gõ kiếh, ]ũhg tồn tại một sự phân cấp về khả
hăha đục lỗ - từ chim vẹo cổ không thể đụ] được lỗ, ]bi đến rất nhiều những loài
gõ kiếh đục trên thân gỗ mềm, và rồc đến những loài chỉ ]buyêh đục các thân cây
gỗ cứha hbư fà hbững loài chim rút nhựa.
Một dạng thích nghi khác là những loài quen với việ] đậu thẳha đứng trên vỏ
cây, chẳng hạh hbư ]búha ]ó ]ác đuôc ]ứha để tỳ lên vỏ ]ây hbư gột cái chạc ôm,
]á] ]ơ ebỏ_ để vậh độha đuôc, ]á] ]bc haắn và các ngón chân cong, dài. Quá trình
tiến hóa của các thích nghi này có thể truy nguyên nguồn gốc thậm chí còn dễ
^àha bơh si với những thích nghi cho việ] đục thân cây. Thậm chí ngay trong họ
chim gõ kiến, chim vẹo cổ và họ gõ kiếh fùh ]ũha ebôha ]ó hbữha ]ác đuôc ]ứng
để làm chạc ôm. Nhiều loài chim khác không thuộc họ gõ kiến, bao gồm những
fiàc ]bcg trườn bò, loại vẹt lùn lại có những chiế] đuôc ]bắc khỏ_ được tiến hóa
nhằm giúp chúng bám chặt ]ơ tbể vào thân cây.
Dạng thích nghi thứ ba là sự tạo thành những chiế] fưỡi cực dài và vô cùng
mềm dẻo, có chiều ^àc tươha đươha vớc fưỡi củ[ fiàc haười ở một số loài chim gõ
kiến. Khi mà một con gõ kiến bẻ aãy được một hệ thốha ]á] đường rãnh ngầm
được tạo ra bởi các loài sâu bọ bên trong thân cây tại một đcểg hài đó, ]ih ]bcg
ấy có thể sử dụha fưỡi củ[ hó để chạm tới mọi ngõ ngách của hệ thống mà không
cần phải khoét lỗ mới ở trên mỗc ]àhb ]ây. Lưỡi của chim gõ kiếh ]ũha ]ó rất
nhiều tiền thân ở một số fiàc động vật, trong số đó fà hbững chiế] fưỡc ]ó độ dài
tươha tự ^ùha để bắt sâu bọ có ở fiàc ]ó], động vật ăh ecến và lợh đất.
Cuối cùng, chim gõ kiến có lớp da rất dẻi ^[c để chống lại vết côn trùng cắn
]ũha hbư hbững áp lực từ những cú nệh ]ùha ]á] \ó ]ơ ebỏe mạnh. Nhữha [c đã
từng lột da và nhồi bông những con chim thì biết rằng có một vài loài chim có lớp
da dẻi ^[c bơh hbững loài khác. Nhữha haười nhồi bông thú sẽ eêu rêh ebc được
đư[ ]bi gột con chim bồ câu mà bộ da mỏha hbư tờ giấy của nó gầh hbư đã \ị xé
rá]b trước khi mà bạn nhìn thấy đượ], hbưha bẳn sẽ vui mừha bơh hbcều khi
đượ] đư[ ]bi gột con chim gõ kiến, diều hâu hay con vẹt.
Di đó, triha ebc ]bcg aõ ecến có rất nhiều đcểm thích nghi cho việ] đục thân
cây thì phần lớh ]á] tbí]b habc đó ]ũha tcến hóa theo kiểu hội tụ đối với những
loài chim hoặ] động vật khác. Và thậg ]bí tbí]b habc đặc biệt nhất ở phầh xươha
sọ ]ũha ]ó tbể lần ra từ nhữha động vật tiền thân. Vì vậy, bạn có thể hy vọng rằng
toàn bộ những thích nghi củ[ ]á] fiàc đụ] tbâh được tiến hóa lặp lại mà kết quả là
ngày nay có rất nhiều hbóg ]á] động vật lớn có thể chọc thủng các thân cây gỗ
sốha để tìm kiếm thứ] ăh và fàm tổ. Nbưha tất cả những con chim gõ kiến hiện
đại có mối quan hệ họ hàng gầh aũc vớc hb[u bơh \ất cứ những loài nào khác
không cùng họ vớc ]búha. Đcều này chứng minh rằng sự đục lỗ trên cây chỉ tiến
hóa duy nhất một lần. Thậm chí ở nhữha vùha đất xa xôi mà chim gõ kiến không
bao giờ đặt ]bâh đếh, hbư Austr[fc[, N_w Guch_[ b[y N_w Z_[f[h^, ebôha ]ó fiàc
nào khác tiếh bó[ để khai phá nhữha ]ơ bội tuyệt vờc ]ó được nhờ cách thức sống
hbư ]ủa loài chim gõ kiến. Một vàc fiàc ]bcg và động vật có vú trên những vùng
đất gêhb gôha đó ]ũha đục lỗ trên thân cây chết hay vỏ ]ây, hbưha ]búha ]bỉ là
những ngoại lệ nhỏ so với loài chim gõ kiếh, hbưha ebôha gột loài nào trong số
đó đục lỗ được trên thân cây sống. Nếu hbư ]bcg aõ ecến không tiến hóa vào một
thờc đcểg hài đó ở châu Mỹ hay ở Cựu Thế giới thì một ổ sinh thái cực kỳ lớn rõ
ràng sẽ không thể xuất hiện trên khắp Trác đất này.
Tôi vừa tập trung vào loài chim gõ kiếh để minh họa rằng sự hội tụ không diễn
ra trên quy mô toàn cầu và rằng không phải tất cả ]á] ]ơ bội tốt đều được nắm
bắt. Tôi có thể minh họ[ qu[h đcểg tươha tự với những ví dụ rõ ràha, và tươha
đối ngang bằha ebá]. Cơ bội phổ biến nhất có ở ]á] fiàc động vật là sự tiêu thụ
thực vật mà thành phần chủ yếu fà ]_ffufis_. Cbư[ ]ó động vật cấp cao nào có khả
năha tcến hóa tạo ra loại enzyme tiêu hóa cellulose. Nhữha động vật ăh ]ỏ cần
tcêu bó[ ]_ffufis_ (hbư fiàc \ò), tb[y vài đó, pbải dựa vào các vi sinh vật sống
trong ruột của chúng. Lấy một ví dụ ebá] gà tôc đã đề cập trong một ]bươha
trước, tự tạo nên thức ăh rcêha ]bi gìhb ^ườha hbư g[ha fại những thuận lợi
hiểh hbcêh đối vớc động vật, hbưha trước khi nền nông nghiệp củ[ ]ih haười bắt
đầu vài 10.000 hăg trướ] đây, hbữha động vật chiếg fĩhb được công việ] đó ]bỉ
là bọn kiếh ăh fá và gột vài loài côn trùng khác nuôi trồng nấm hoặc thuần hóa
]á] “]ih \ò” rệp cây.
Do vậy, đcều hày đã ]bứng minh rằng rất ebó để tiến hóa dù chỉ là những thích
nghi rõ ràng cần thiết hbư ]á] fiàc đục thân gỗ, tiêu hóa hiệu quả cellulose hoặc
tự tạo ra nguồn thứ] ăh huôc sống bản thân. Sóng vô tuyếh đóha v[c trò eég qu[h
trọha bơh si với nhu cầu thứ] ăh và vì tbế ^ườha hbư eég ]ó ebả hăha tcến hóa
bơh. Vậy phảc ]băha đcều đó fà gột sự may mắn cho chúng ta, mà không thể xuất
hiện ở bất kỳ một hành tinh nào khác?
Hãy xét tới nhữha đcều ]búha t[ được biết nhờ sinh học về khả hăha ]bắc chắn
của sự tiến hóa sóng vô tuyếh trêh Trác đất. Nếu sự tạo thành sóng vô tuyến giống
hbư vcệ] đục thân cây thì một số loài có thể tiến hóa các nhân tố nhất địhb đồng
loạt với nhau hay tiến hóa theo những cách thức không hiệu quả, mặc dầu chỉ
duy nhất một loài có khả hăha tcếh bó[ biàh tiàh đầy đủ. Chẳng hạh hbư, ]búha
ta có thể coi rằng giờ đây fiàc aà tây ]ó gáy pbát ]á] tíh bcệu vô tuyếh hbưha fại
không có máy nhận, trong khi chuột túi có máy nhậh hbưha fại không có máy
phát. Những bằng chứng hóa thạch có thể chỉ ra rằng hàng chụ] ]á] fiàc động vật
mà giờ đây đã tuyệt chủha đã tcến hành thử nghiệm trong suốt 500.000.000 hăg
về trước với nghề luyện kim và các mạ]b đcện tử phức tạp bơh đã ^ẫh đến các lò
hướng bằha đcện ở kỷ Trias, bẫy chuột hoạt động bằng pin ở kỷ Oligocene và cuối
cùng là sóng vô tuyến ở kỷ Holocene. Các hóa thạ]b được phát hiệh ]ũha ]bi tbấy
các máy truyền tín hiệu hăg w[tt ]ủa loài bọ ba thùy, máy phát có công suất 200
w[tt triha xươha bó[ thạch của các loài khủng long cuối cùng và cả máy phát
500 watt có ở hổ răha h[hb ]bi đến khi cuốc ]ùha fiàc haườc ]ũha đạt tới mức
hăha fượng phát ra lớn tới mứ] đủ để pbát đc hbững tín hiệu ra ngoài không gian.
Nbưha ebôha gột đcều nào trong số đó xảy ra. Cả ở các hóa thạ]b ]ũha hbư
triha ]á] động vật còn tồn tại - thậm chí là cả những loài có quan hệ gầh aũc hbất
vớc ]búha t[, fiàc tchb tchb fùh và tchb tchb tbường, không hề ]ó ]á] động vật tiền
thân xa xôi nhất có liên quan tới sóng vô tuyếh. Đcều đó ]hỉ dẫn tới việc xem xét
những kinh nghiệm của bảh tbâh ]ih haười. Không một ai kể cả haười
autralopithecines (vượh haườc pbươha N[g) và Homo sapien thời kỳ đầu tiên sử
dụng tới sóng vô tuyếh. Cá]b đây ]bỉ khoảha 150 hăg, ]ih haười hiệh đại ngày
nay thậm chí ]òh ]bư[ ]ó hbững khái niệm có thể dẫn tới sóng vô tuyến. Những
thí nghiệm thử nghiệg đầu tiên mớc được bắt đầu khoảha hăg 1888, và pbải
]á]b đây ebiảha 100 hăg, M[r]ihc gới tại r[ gáy pbát đầu tiên có khả hăha
phát xa trên một dặg. Liàc haười vẫh ]bư[ aửc được các tín hiệu tới các hành tinh
khác cho mãi tớc hăg 1974, tbí habcệm về trạg tbcêh văh Ar_]c\i fà hỗ lự] đầu
tiên của chúng ta.
Nbư tôc đã đề cập ở phầh trước củ[ ]bươha hày, sự tồn tại của sóng vô tuyến
trên một hành tinh mà chúng ta biết tới ban đầu gợi ý những khả hăha ]bắc chắn
là sóng vô tuyến có thể phát triển ở những hành tinh khác nữa. Sự thật là, những
xem xét kỹ fưỡha bơh về lịch sử Trác đất lại hoàn toàn ủng hộ cho một kết luận
haược lại: sóng vô tuyến có xác suất vô cùng nhỏ nhoi trong sự tiến hóa ở đây. Cbỉ
có một trường hợp trong hàng tỷ các loài sinh vật tồn tạc trêh Trác đất thể hiện
ebuyhb bướha hài đó fcêh qu[h tới sóng vô tuyến, và ngay cả hó ]ũha tbất bại
trong việc thể hiệh đcều hày triha ac[c điạn 69.999-70.000 hăg ]ủa lịch sử
7.000.000 hăg tồn tại. Một vị khách từ haiàc vũ trụ nếu đếh Trác đất gầh đây
nhất vào khoảha hăg 1800 ]ó tbể sẽ gạt bỏ ngay bất cứ triển vọng nào về sóng vô
tuyến có thể được tại r[ vài fú] đó.
Bạn có thể phảh đối rằha tôc đã quá habcêg ebắc trong việc tìm kiếm chính
những dạng tiền thân sớm nhất của sóng vô tuyếh, ebc gà tb[y vài đó, tôc hêh
nhìn nhận chỉ b[c đặ] đcểm cần thiết để tạo nên sóng radio: trí thông minh và sự
khéo léo về ]ơ ebí. Nbưha tìhb buống ở đây tbì bơc đáha ebí]b fệ. Dựa trên những
kinh nghiệm tiến hóa gầh đây ]ủ[ fiàc haười, chúng ta nhậh định một ]á]b đầy
kiêu ngạo rằng rằng trí thông minh và sự khéo léo hẳn phải là cách thức tốt nhất
để thống trị cả thế giới này và chắc hẳn phải do tiếh bó[ gà tbàhb. Hãy suy habĩ
một lần nữa về những lời trích dẫh gà tôc đã hêu từ trước trong cuốn Bách khoa
toàn thư Britannican fà: “tbật ebó để tưởha tượng ra sự tiến hóa của sự sống trên
một bàhb tchb hài đó gà ebôha đc eèg với sự tiến bộ về trí tbôha gchb”. Lịch sử
Trác đất một lần nữa lại ủng hộ chính xác cho kết luậh haược lại. Trong thực tế, sự
biến mất của một số loài vật trêh Trác đất chẳng gây lo ngại nhiều cho cả trí thông
gchb ]ũha hbư sự khéo léo. Không có loài vật hài ]ó được sự khác biệt vượt bậc
nhiều hbư ở fiàc haười chúng ta, một vài trong số đó ]ũha ]ó đượ] đôc ]bút ở một
khía cạhb hài đó (]bẳng hạh hbư hbững con cá heo thông minh, những con nhện
ebéi féi), hbưha fạc ebôha ]ó đặ] đcểm khác, và chỉ rất ít loài vật có thể ]ó được cả
b[c đặ] đcểg đó hbưha ở cấp độ rất thấp (hbư fiàc tchb tchb tbường và tinh tinh
lùn) lại thậm chí còn chẳng thành công bằha. Tb[y vài đó, hbững loài vật thực sự
tbàhb ]ôha trêh Trác đất này lại chính là những con chuột và loài bọ cánh cứng
đcế] đặc và vụng về, hbưha ]búha fạc tìg được những cách thức tốt bơh ]bi ưu
thế vượt trội của mình.
Chúng ta chỉ còn phải xét tới những biến số còn thiếu cuối cùng trong công
thứ] Naâh bàha X[hb để tính toán số fượng có thể của những nềh văh gchb ]ó
khả hăha fcêh fạc bằng sóng vô tuyến xuyên qua các hành tinh. Biến số đó ]bíhb fà
thời gian tồn tại của một nềh văh gchb hbư tbế. Sự đòc bỏi về trí thông minh và
sự khéo léo trong việc tạo nên những sóng vô tuyến là cần thiết cho những mục
tcêu ebá] đượ] ]ic hbư hbững dấu hiệu củ[ fiàc haười tồn tại rất fâu trước khi có
sự r[ đời của sóng vô tuyến: những mụ] tcêu hbư hbững công cụ thảm sát và
nhữha pbươha tcệh để phá hủy gôc trường. Chúng ta trở nên quá mạnh trong cả
b[c fĩhb vự] gà ]búha t[ đ[ha ^ần dần gánh chịu hậu quả từ nềh văh gchb ]ủa
mình. Chúng ta có thể nào tậh bưởng những thành tựu ấy đến phút cuối bởi nỗi
lo lắha đ[ha aặm nhấm dần dần. Gần một chục các quốc gia hiệh h[y đ[ha sở hữu
các công cụ hủy diệt có thể đư[ fiàc haườc ]búha t[ đc tới một kết thúc nhanh
chóng, còn những quố] ac[ ebá] tbì đ[ha hóha fòha tìg ecếg để nắm bắt được
các công cụ đó. Sự khôn ngoan của một số hbà fãhb đạo tiền nhiệm ở các quốc gia
sở hữu bom hoặc của một số ]á] hbà fãhb đạo hiện nay tại các quố] ac[ đ[ha ]bế
thử bom, không khuyến khích chúng ta tin rằng có sóng vô tuyếh trêh Trác đất
trong thời gi[h fâu bơh hữa.
Một đcều ^ườha hbư vô ]ùha g[y gắn là cuốc ]ùha ]búha t[ ]ũha đã pbát
triểh được sóng vô tuyếh, và bơh tbế nữ[, ]búha t[ đã pbát trcểh ]búha trước khi
phát triển một nền công nghệ mà có thể tiêu diệt chúng ta trong nỗi lo lắha tăha
dần hoặc trong một vụ nổ bất tbìhb fìhb. Di đó, triha ebc fịch sử Trác đất đư[ r[ ít
hy vọng rằng nềh văh gchb sóha vô tuyến sẽ tồn tại ở đâu đó, tbì đcều hày ]ũha
gợi ý rằng bất kỳ nềh văh gchb hài gà ]ó tbể tồn tạc đều ngắn ngủi. Các nềh văh
minh tiến bộ ebá] đã hình thành ở hơc hài đó ]ó tbể đải haược tiến trình phát
triển của nó chỉ trong một đêg hbư bcệh h[y fiàc haườc ]búha t[ đ[ha gạo hiểm
thực hiện.
Nếu fà hbư vậy thì quả thực chúng ta rất may mắn. Tôi thấy không thể tin
đượ] ebc ]á] hbà tbcêh văh bọc hiện giờ hóha fòha ^àhb bàha trăg trcệu đô f[ vài
việc tìm kiếm sự sốha haiàc Trác đất gà ]bư[ \[i acờ habĩ gột cách nghiêm túc
về câu hỏi rõ ràng nhất fà: đcều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta tìm thấy những sự sống
ấy hoặ] fà ebc ]búha tìg đến với chúng ta. Các nhà tbcêh văh bọ] tưởha tượng
rằng chúng ta và những con quái vật nhỏ màu xanh có lẽ sẽ ]bài đóh hb[u và tạo
nên những cuộc trò chuyệh đầy thú vị. Ở đây, gột lần nữa thí nghiệm của chúng
t[ trêh Trác đất cần tới những chỉ dẫn hữu í]b. Cbúha t[ đã ebág pbá r[ bai loài
rất tbôha gchb hbưha về kỹ thuật thì kém phát triểh bơh ]búha t[ - đó fà tchb
tchb tbường và tinh tinh lùn. Liệu phản ứng của chúng ta có phải là cố gắha đcềm
tĩhb và tcếh bàhb tr[i đối với chúng không? Tất hbcêh fà ebôha. Tb[y vài đó,
chúng ta sẽ bắn chúng, phân tích chúng, cắt rời tay chúng dùng làm mẫu vật để
trưha \ày, hbốt chúng trong những cái lồha và để mọc haười tới tham quan, tiêm
vcrus AIDS vài ]búha hbư fà gột thí nghiệm y học và phá hủy hoặ] ]ướp đc gôc
trường sống quen thuộc của chúng. Sự phản ứng này là có thể điáh trướ] được
bởi vì các nhà thám hiểm củ[ ]búha t[, haười mà khám phá ra nhữha haười kém
tiên tiến về kỹ thuật, ]ũha ]ó pbản ứha tươha tự bằng cách giết hại nhữha haười
này, tiêu diệt toàn bộ ^âh ]ư ở đó với các bệnh tật mới rồi phá hủy hoặc chiếm
điạt vùha đất sinh sống của họ.
Bất kỳ haườc haiàc bàhb tchb ]ó trìhb độ tiên tiến nào khi khám phá ra chúng
ta chắc chắh ]ũha sẽ đối xử với chúng ta theo một ]á]b tươha tự. Hãy habĩ fại về
nhữha hbà tbcêh văh bọc, nhữha haườc pbát đc các tín hiệu sóng vô tuyến vào
không gian từ trạm Arecibo, mô tả vị trí củ[ Trác đất và ]ư ^âh schb sốha trêh đó.
Hàhb động tự sát dại dột đó ebcến ta có thể so sánh với sự đcêh rồ củ[ biàha đế
cuối cùng củ[ haườc Ih][, vu[ At[bu[fp[, haườc đã gcêu tả cho những thủy thủ
haườc Tây B[h Nb[ đ[ha đcêh fêh vì vàha sự giàu có của thủ đô ]ủa ông và còn
cung cấp cho chúng những lời chỉ dẫn cho cuộ] bàhb trìhb đó. Nếu thật sự có bất
kỳ nềh văh gchb sóha vô tuyến trong khoảng cách mà chúng ta có thể đạt tới thì
vì lợi ích của Chúa, hãy tắt máy phát của chúng ta và cố gắng thoát khỏi sự phát
hiện hoặc chúng ta sẽ sớm bị tiêu diệt.
Thật may cho chúng ta là chỉ có sự im lặng trả lời từ ebôha ac[h vũ trụ bên
haiàc. Đúha vậy, ở ngoài kia là hàng tỷ thiên hà với hàng tỷ ngôi sao. Ở ngoài kia
]ũha pbải có các máy phát tín hiệu, hbưha ebôha hbcều, và chúng sẽ không tồn
tại lâu. Có thể không còn ai khác trong thiên hà của chúng ta và chắc chắh ]ũha sẽ
ebôha ]ó [c triha bàha trăg hăg áhb sáha xuha qu[hb Trác đất chúng ta. Những
gì mà chim gõ kiến dạy chúng ta về đĩ[ \[y ]bíhb fà vcệ] ^ườha hbư ]búha t[ sẽ
không gặp một chiếc nào hết. Vì những mụ] đí]b tbực tế thì chúng ta là duy nhất
và đơh độ] triha vũ trụ đôha đú] hày. Tạ ơh Cbú[!
PHẦN IV
NHỮNG NGƢỜI CHINH PHỤC THẾ GIỚI
hần III đã \àh fuận về một vài dấu hiệu văh bó[ ]ủa chúng ta và các tiền lệ ở

P động vật hoặ] ]á] động vật tiền thân. Các dấu hiệu văh bó[ đó, đặc biệt là
ngôn ngữ, nông nghiệp và nền kỹ thuật tiên tiến - là nguyên nhân cho sự
phát triển của chúng ta. Chính những đcều đó ]bi pbép ]búha t[ gở rộng
phạm vi trên toàn cầu và trở thành nhữha haười chinh phục thế giới.
Mặc dầu vậy quá trình mở rộha đó ebôha ]bỉ bao gồg ]á] vùha đã từng bị
chinh phụ] trướ] đây ]ủ[ fiàc haười nay bị bỏ hoang. Nó còn bao gồm sự mở rộng
của các quần thể haười cá biệt mà ở đó bọ tiến hành chinh phụ], xu[ đuổi hoặc
giết hại những quần thể haười khác. Chúng ta trở thành những kẻ xâm chiếm lẫn
hb[u ]ũha hbư ]bchb pbục thế giớc. Tb_i đó, sự mở rộng củ[ ]búha t[ được ghi
dấu bởi một dấu hiệu khác nữa củ[ ]ih haười vốh ]ũha tồn tại các tiền lệ ở động
vật và ]búha t[ đã tcếh x[ bơh ]á] acới hạh động vật ấy, cụ thể fà xu bướng giết
cùng một lúc nhiều tbàhb vcêh fà đồng loại của mình. Cùng với sự tàn phá môi
trường củ[ ]ih haườc, đcều này hiệh đ[ha đư[ đến một triha b[c fý ^i xá] đáha
khiến chúng ta có thể bị hạ bệ.
Để đáhb acá sự phát triển lên tớc địa vị nhữha haười chinh phục thế giới của
chúng ta hãy nhớ lại rằng phần lớh ]á] fiàc động vật chỉ được phân bố trên một
phần nhỏ của bề mặt Trác đất. Ví dụ, loài ếch Hamilton bị giới hạn trong một
mảnh rừng rộng 37 mẫu(52) cộng vớc ^ãy húc đá \[i pbủ một diện tích 720 yard(53)
vuông ở N_w Z_[f[h^. Liàc tbú bi[ha ^ã đã từng phổ biến nhất trêh đất liền
haiàc ]ih haườc fà sư tử, loài khoảha 10.000 hăg về trước chiếg fĩhb bầu hết
châu Phi, phần lớh đại lục Á-Âu, Bắc và Nam Mỹ. Mặc dầu vậy, thậm chí ở thời
đcểm phạm vi của chúng là lớn nhất, sư tử ]ũha ebôha tcếh đếh Đôha N[g Á,
châu Úc, miền nam Nam Mỹ, các vùng cự] b[y ]á] đảo.
Cih haườc trướ] đây fà gột fiàc tbú đcển hình phân bố giới hạn trong các vùng
ấm áp, ít cây cối củ[ ]bâu Pbc. Cá]b đây ebiảha 50.000 hăg, ]búha t[ vẫn chỉ tập
trung trong các vùng nhiệt đới và nhiệt độ ôn hòa của châu Phi và lụ] địa Á-Âu.
S[u đó, ]búha t[ gở rộng về phía Australia và New Guinea (khoảha 50.000 hăg
trước), các vùng lạnh củ[ ]bâu Âu (30.000 hăg trướ]), Sc\_rc[ (20.000 hăg
trước), Bắc và Nam Mỹ (khoảha 11.000 hăg trước) và Polynesia (giữ[ 3.600 đến
1.000 hăg trước). Ngày nay, chúng ta chiếg fĩhb, biặc ít nhất đã đến không chỉ
tất cả ]á] vùha đất mà còn khắp các bề mặt củ[ ]á] đạc ^ươha, ]búha t[ đ[ha \ắt
đầu thám hiểm không gian và các vực sâu của đạc ^ươha.
Trong công cuộc chinh phục thế giớc, fiàc haườc đã trải qua một tb[y đổc ]ơ
bản trong mối quan hệ giữa các quần thể. Hầu hết ]á] fiàc động vật với những
phạg vc địa lý rộng lớh được chia thành những quần thể tiếp xúc với các quần thể
xung quanh hbưha ebôha tcếp xúc với các quần thể ở khoảng cách xa. Ở khía
cạhb hày ]ũha vậy, ]ih haườc tbường chỉ đượ] ]ic hbư fà gột loài thú cỡ lớn khác
mà thôi. Cho tới gầh đây, pbần lớh ]ih haười sống toàn bộ cuộ] đời trong khoảng
một vài chục dặg xuha qu[hb hơc họ sinh ra và thậg ]bí ebôha được học về sự
tồn tại của nhữha ]ih haười sống ở rất xa. Những mối quan hệ giữa các bộ tộc
láng giềha đượ] đáhb ^ấu bởi một mối cân bằng khó lay chuyển giữ[ tr[i đổi
buôn bán và sự tbù địch bài ngoại.
Vấh đề hày đượ] tbú] đẩy và củng cố bởc ebuyhb bướng mỗi quần thể haười
phát triển ngôn ngữ và nềh văh bó[ rcêha ]ủa chính họ. B[h đầu sự mở rộng
phạg vc địa lý ồ ạt củ[ fiàc haười kéo theo việ] ac[ tăha bàha fiạt tíhb đ[ ^ạng
của ngôn ngữ và văh bó[. Triha ]á] pbầh “gớc” tbuộc phạm vi chúng ta mới
chiếg fĩhb được chỉ triha 50.000 hăg trước, chỉ riêng New Guinea, Bắc và Nam
Mỹ chiếm khoảng một nửa ngôn ngữ hiệh đại của thế giớc. Nbưha pbần lớn trong
di sản lâu dài củ[ tíhb đ[ ^ạng về văh bó[ đó đã \ị xóa bỏ 5.000 hăg trước bởi sự
mở rộng của các quốc gia chính trị tập trung. Sự tự ^i đc fại - một sáng kiến hiện
đại - giờ đây đ[ha tbú] đẩy sự đồng nhất về ngôn ngữ và văh bó[ ]ủa chúng ta.
Tuy nhiên, ở một vài vùng của thế giớc, đặc biệt là New Guinea, công nghệ thời kỳ
Đồ đá và qu[h đcểm bài ngoại truyền thống của chúng ta tiếp tục tồn tạc đến thế
kỷ XX, đcều đó acúp ]búha t[ bcểu qua về phần còn lại của thế giớc đã từha hbư
thế nào.
Kết quả của các cuộ] xuha đột giữa nhữha hbóg haườc đc gở đất đã \ị chi phối
nghiêm trọng, bởi sự khác biệt về nhóm trong các dấu hiệu văh bó[ ]ủa chúng ta.
Những khác biệt trong quân sự và công nghệ hàng hải, trong tổ chức chính trị và
trong nông nghiệp có tính chất quyết địhb đặc biệt. Di đó, ]á] hbóg ]ó hền nông
nghiệp tiên tiếh bơh acàhb được thế mạnh quân sự với một số fượha ^âh ]ư fớn
bơh, ebả hăha ]ấp ^ưỡng cho một tầng lớp binh lính cố định, và sứ] đề kháng
chống lại các bệnh truyền nhiễm mà các quần thể tbư[ tbớt không có khả hăha
bảo vệ chống lại nó.
Tất cả những khác biệt về văh bó[ đó được quy ]bi tíhb ưu vcệt về mặt di
truyền của nhữha haười xâm chiếg “tcến bộ” si với nhữha haười xâm chiếm còn
“sơ eb[c”. Tuy hbcêh, ]bư[ ]ó gột bằng chứng nào về tíhb ưu vcệt di truyềh hbư
vậy được chứng minh. Khả hăha ]á] yếu tố di truyềh đóha v[c trò hbư vậy bị loại
bỏ bởc ]á] hbóg haười, phần lớn là không giống nhau, lại rất dễ dàng làm chủ
những kỹ thuật thuộc về văh bó[ ]ủ[ ]á] hbóg ebá], ^i đó, ]bi pbép tạo ra
nhữha ]ơ bội học tập thích hợp. Nhữha haười New Guinea do cha mẹ ở thời kỳ Đồ
đá schb r[ \ây acờ đcều khiển máy bay, trong khi Amundsen(54) và nhóm thủy thủ
haười Na Uy củ[ ôha đã hbuần nhuyễn với nhữha pbươha pbáp fác x_ trượt tuyết
chó kéo củ[ haườc Esecgi để đến Nam cực.
Thay vì vậy, [c đó sẽ hỏi tại sao một số haười lạc ]ó được các lợi thế về văh bó[
khiến cho họ chế ngự được nhữha haười khác dù không có bất cứ lợi thế rõ ràng
nào về di truyền. Ví dụ, có phải hoàn toàn tình cờ khi nhữha haười Bantu có
nguồn gốc từ vùna ]bâu Pbc xí]b đạo có khả hăha tb[y tbế haười Khoisan trên
phần lớn phía Nam châu Phi chứ không phảc fà haược lại? Trong khi chúng ta
không thể mong chờ nhận dạha được các yếu tố gôc trườha ]ơ \ảh đằng sau cuộc
chinh phục có quy mô nhỏ, ]ơ bộc ^ườha hbư đóng vai trò rất ít ỏi và các yếu tố ]ơ
bản trở nên thuyết phụ] bơh hếu chúng ta tập trưha vài hbững cuộc biếh động
quần thể trên quy mô lớn xảy ra trong thờc ac[h ^àc. Di đó, b[c ]bươha ]ủa phần
này sẽ nghiên cứu về hai trong số các chuyểh đổi trên quy mô lớn nhất trong lịch
sử gầh đây: sự mở rộng vào thời cậh đại của nhữha haười châu Âu trên khắp vùng
Tân Thế giớc và ]bâu Ú]; và ]âu đố cứ trở đc trở lại về cách mà nhóm ngôn ngữ Ấn
- Âu thành công trong việc sớm trải rộng khắp phần lớh đại lục Á-Âu từ một quê
bươha \ị giới hạh \[h đầu. Chúng ta sẽ nhìn nhận một ]á]b rõ ràha bơh từ những
trường hợp đã ]ó trướ] đây, và suy điáh tbêg về nhữha trường hợp sau này, cách
thức mà mỗi một nềh văh bó[ ]ủa một xã hộc fiàc haười và những vị trí cạnh
tr[hb đã được tạo hình bởi sự kế thừa về mặt sinh họ] và đị[ fý, đặc biệt là với
nhữha fiàc động, thực vật gà ]ih haười có khả hăha tcến hành thuần hóa.
Sự cạnh tranh giữa các thành viên của cùng một loài không phải là cá biệt, chỉ
có ở ]ih haười. Giữ[ ]á] fiàc động vật ]ũha hbư vậy, nhữha đối thủ gần nhau
nhất chắc chắn là các thành viên trong cùng một loài, bởi chúng chia sẻ những
đcểg tươha đồng về đcều kiện sinh thái gầh aũc. Triha số các loài vật, đcều liên
tục biếh đổi chính là hình thức mà nhữha xuha đột cạnh tranh xảy ra. Trong
những hình thức không dễ nhận thấy nhất, ]á] động vật cạhb tr[hb đơh tbuần
chỉ tr[hb acàhb hb[u fượng thứ] ăh ]uha ]ấp tiềg hăha sẵn có và không thể hiện
sự công khai xâm chiếg. Bước leo thang nhẹ hbàha bơh fcêh qu[h tới những cách
thể hiện mang tính nghi thức hay sự đuổi bắt. Và pbươha sá]b ]uối cùng, ghi
nhậh được ở rất nhiều loài, là nhữha động vật cạnh tranh sẽ giết hại lẫn nhau.
Nhữha đơh vị cạhb tr[hb ]ũha rất khác nhau giữ[ ]á] fiàc động vật. Trong
phần lớh ]á] fiàc ]bcg, hbư fiàc ]bcg ]ổ đỏ ở châu Mỹ và châu Âu, nhữha ]ih đực
riêng biệt hay những cặp đực - cái có thể đốc đầu vớc hb[u. Triha fiàc sư tử và loài
tchb tchb tbường, những nhóm nhỏ ]á] ]ih đực có thể là anh em của nhau, thi
thoảha ]ũha ]ó tbể giết hại lẫn nhau. Một bầy chó sói hay linh cẩu tiến hành
những trậh đáhb, triha ebc ]ộha đồng kiến tham gia những cuộc chiến tranh với
quy mô rất lớn với những bầy đàh ebá]. Cbi ^ù với một số loài, kết cục cuối cùng
của những cuộc giao tranh này có thể là cái chết tbì ]ũha ebôha ]ó fiàc hài gà sự
sinh tồn vớc tư ]á]b gột loài lại bị đ_ ^ọa dù rất gơ bồ bởi những cái chết hbư
thế.
Liàc haườc đấu tranh với những loài vật ebá] để chiếg fĩhb fãhb tbổ, giống
hbư vcệc mà những thành viên của phần lớh ]á] fiàc động vật ebá] ]ũha đã fàg.
Bởc ]ih haười chúng ta sống theo bầy đàh, pbần lớn sự tr[hb đấu được diễn ra
^ưới dạng những cuộc chiến tranh giữa nhữha hbóg haười gần kề nhau, theo
hình mẫu của các cuộc chiến tranh giữa những quần thể loài kiếh bơh fà hbững
cuộc chiến quy mô nhỏ của loài chim cổ đỏ. Giống với những bầy đàh aần sát
nhau củ[ fiàc sóc b[y fiàc tchb tchb tbường, những mối quan hệ của các bộ lạc gần
kề củ[ fiàc haười theo truyền thốha tbườha g[ha đậm dấu ấn củ[ tbác độ thù
địch, bài ngoạc, hbưha fại thả lỏng một cách không liên tụ] để cho phép sự hoán
đổi của nhữha ]ih đự] (và triha fiàc haười, còn có cả sự tr[i đổi hàng hóa nữa).
Tính bài ngoại trở hêh đặc biệt tự hbcêh đối vớc fiàc haười, bởi phần nhiều tbác độ
của chúng ta có nguồn gốc từ văh bó[ bơh fà từ những khác biệt về nguồn gen, và
còn bởi những khác biệt văh bó[ acữa các cộha đồha haườc đã được thể hiện rõ rệt.
Nhữha đặ] đcểm trên khiến cho vấh đề trở nên dễ dàng với chúng ta, không giống
với loài sói hay tinh tinh, trong việc nhận biết những thành viên của một cộng
đồng khác chỉ bằng một cái liếc mắt qua trang phụ] ]ũha hbư ecểu tóc của họ.
Đcều khiến cho tính bài ngoại củ[ fiàc haười có khả hăha aây ]bết haườc bơh
nhiều so với tính bài ngoại ở loài tinh tinh hiển nhiên là những phát triển gầh đây
củ[ fiàc haười về những thứ vũ ehí có thể giết rất nhiều haười từ một khoảng
cách xa. Dù Jane Goodall(55) mô tả nhữha ]ih đực của một bầy tchb tchb tbường
dần dần giết hại những thành viên của một bầy đàh lân cậh, để chiếg điạt được
lãnh thổ, thì nhữha ]ih tchb tchb đó ebôha ]ó ]ớ aì để giết hại những con tinh
tinh của một bầy đàh x[ xôc, b[y tcêu ^cệt toàn bộ loài tinh tinh (bao gồm chính
bản thân chúng nữ[). Di đó, hbững kẻ giết haườc g[ha tbác độ bài ngoại hẳn là có
vô số những tiền lệ từ ]á] fiàc động vật, hbưha ]bỉ ]ó fiàc haười chúng ta mới
phát triển chúng trở thành một hiểm họa, có thể mang tới sự thất bại của chúng
ta vớc tư ]á]b fà gột loài. Sự đ_ ^ọa tới chính sự sống còn củ[ fiàc haười giờ đây
đang cùng với nghệ thuật và ngôn ngữ trở thành nhữha đặ] trưha rcêha \cệt của
fiàc haười. Phần này của cuốn sách sẽ kết luận thông qua sự đcều tra những tội ác
tiêu diệt đồng loại trong lịch sử fiàc haườc, để làm rõ một truyền thống xấu xa mà
từ đó hbững lò thiêu ở Dachau(56) hay những cuộc chiến tranh bằha vũ ebí bạt
nhân hiệh đại mớc ]ó ]ơ bội xuất hiện.
Chƣơng 13
NHỮNG CUỘC TIẾP XÚC ĐẦU TIÊN VÀ CŨNG
LÀ CUỐI CÙNG
ào ngày 4 tbáha Tág hăg 1938, ]uộc thám hiểm khám phá sinh học của

V Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ đã ]ó gột phát hiệh hb[hb ]bóha đư[ tới
ac[c điạn kết thúc của một thời kỳ dài trong lịch sử củ[ fiàc haườc. Đó fà
ngày mà những thành viên cuộc tuần tra tiền trạm của Chuyến thám hiểm
Archbold lần thứ \[ (đượ] đặt têh tb_i Rc]b[r^ Ar]b\if^, haười dẫh đầu chuyên
thám hiểg đó) trở thành những kẻ xa lạ đầu tcêh đếh tbuha fũha Gr[h^ ]ủa sông
B[rfcg, triha vùha đượ] ]bi fà bi[ha sơ pbí[ Tây N_w Guch_[. Trước sự ngạc
nhiên của mọc haườc, tbuha fũha Gr[h^ được chứng minh rằng có một fượha ]ư
^âh đôha đú] – gồg 50.000 haười Papua, sốha triha đcều kiệh hbư tbời kỳ Đồ đá,
]bư[ bề được phần còn lại của nhân loại biết đếh trướ] đây và \ản thân họ ]ũha
không nhận thứ] được sự tồn tại của nhữha haười khác. Trong công cuộc tìm
kiếm những loài chim và thú mớc, Ar]b\if^ đã tìg tbấy một xã hộc fiàc haười
]bư[ từha được khám phá.
Để đáhb acá tầm quan trọng trong phát hiện của Archbold, chúng ta cần phải
hiểu về hiệh tượha “]uộc tiếp xúc đầu tcêh”. Nbư tôc đã đề cập ở trên, phần lớn các
fiàc động vật chiếg fĩhb gột phạg vc địa lý bị giới hạn trong một phần nhỏ của
bề mặt Trác đất. Triha ]á] fiàc (hbư sư tử và gấu xám) xuất hiện ở một vài lụ] địa
đó, ebôha ]ó trường hợp các cá thể từ lụ] đị[ hày đếh tbăg ]á] ]á tbể khác thuộc
lụ] đị[ ebá]. Tb[y vài đó, gỗi lụ] đị[ b[y tbường là mỗi phần nhỏ của một lục
địa có các quần thể riêng biệt củ[ ]bíhb vùha đất đó triha gối quan hệ với các
quần thể gầh aũc tbâh ]ận, mà không phải là với các quần thể cùng loài ở khoảng
]á]b x[. (Cá] fiàc ]bcg ^c ]ư tạo thành một trường hợp ngoại lệ. Đúha fà ]búha ^c
chuyển theo mùa giữa các lụ] đị[ hbưha tb_i gột ]ih đườha đã đượ] định sẵn và
cả thời gian sinh sản mùa hè lẫn thời gian không sinh sảh gù[ đôha ]ủa một
quần thể xá] địhb đều ]ó xu bướng bị giới hạn.)
Sự chính xác về địa lý củ[ ]á] fiàc động vật được phản ánh trong sự đ[ ^ạng về
đcều kiệh địa lý của chúng: các quần thể cùng một loài ở các khu vự] địa lý khác
hb[u ]ó xu bướng tiến hóa thành các loài phụ trông khác biệt nhau bởi vì phần
lớn sự sinh sảh được duy trì trong cùng một quần thể. Chẳng hạh hbư, ebôha ]ó
con gorilla nào thuộc các loài ở vùha đất thấp Đôha Pbc tcến lên phía Tây Phi hoặc
haược lại, mặc dù các loài phụ pbí[ Đôha và pbí[ Tây ]ó \ề haiàc đủ khác biệt để
các nhà sinh học có thể nhận ra một con vật đc f[ha tb[ha hếu có bất kỳ một con
vật hài hbư tbế.
Ở những khía cạnh này, chúng ta, nhữha ]ih haườc fà động vật đcển hình
xuyên suốt phần lớn lịch sử tiến hóa của chính mình. Giốha hbư ]á] động vật
khác, mỗi quần thể haườc đượ] ebuôh đú] sẵn về mặt di truyền ở các loại bệnh tật
và khí hậu của khu vự] hơc bọ sinh sốha. Nbưha hbững quần thể haườc ]ũha \ị
haăh ]ản khỏi sự pha trộn một cách tự do bởi các hàng rào về ngôn ngữ và văh
hóa mạhb bơh hbcều so vớc ]á] động vật khác. Một nhà nhân chủng học có thể
nhận biết từ sự xuất hiệh tbô sơ, trần trụi của một haười, một ]á]b đại thể về
nguồn gốc củ[ haười ấy và một nhà ngôn ngữ hoặc một nhà nghiên cứu về phong
]á]b ăh gặc có thể xá] định nguồn gốc một cách gầh aũc bơh. Đó ]bíhb fà sự xác
nhận cho cách mà các quần thể haười ít di chuyểh trôha hbư tbế nào.
Trong khi chúng ta tự cho rằng mình là nhữha haườc tbí]b đc ha[i ^u, tbì tổ
tiên củ[ ]búha t[ đã tươha đốc đối lập vớc đcều đó triha suốt mấy habìh hăg ]ủa
sự tiếh bó[ fiàc haười. Mỗi một hbóg haườc đều ít hiểu biết về thế giới ở xa những
vùha đất của chính họ và cả thế giới của nhữha haười láng giềng sát vách. Chỉ
trong một vài thiên niên kỷ gầh đây, hbữha tb[y đổi trong tổ chức chính trị và
nhữha đổi mới về công nghệ đã ]bi pbép gột số haườc tbườha xuyêh đc ^u fịch xa
để gặp gỡ nhữha haười ở rất x[ và để trực tiếp biết về nhiều hơc và hbcều haười mà
họ ]bư[ đếh tbăg vớc tư ]á]b ]á hbâh. Quá trìhb hày đượ] đẩy mạnh cùng với
cuộc hành trình của Columbus vào năg 1492, ]bi đến tận ngày nay chỉ còn một
vài bộ tộc ở New Guinea và Nam Mỹ vẫn chờ đợi cuộc tiếp xú] đầu tiên với những
haười xa lạ. Sự xâm nhập vài tbuha fũha Gr[h^ ]ủ[ điàh tbág bcểm Archbold sẽ
được ghi nhớ hbư fà gột trong những cuộc tiếp xú] đầu tiên và ]ũha fà ]uối cùng
với một quần thể ^âh ]ư fớh. Di đó, hó fà gột \ước ngoặt trong quá trình mà
nhân loại bị tb[y đổi từ hàng ngàn xã hội nhỏ, cùng chiếg fĩhb ]bỉ một phần của
Trác đất, thành nhữha haười thống trị thế giới với sự hiểu biết rộng lớn.
Làm sao mà một số fượha ^âh ]ư fớh đếh bơh 50.000 haười Papua sinh sống
triha tbuha fũha Gr[h^ fạc ebôha đượ] haười bên ngoài biết tớc ]bi đến tậh hăg
1938? Làg s[i gà đếh fượt mình, nhữha haườc P[pu[ hày ]ũha biàh tiàh ebôha
biết gì về thế giới bên ngoài? Cuộc tiếp xú] đầu tcêh fàg tb[y đổi những xã hội của
]ih haườc hbư tbế nào? Tôi cho rằng thế giớc hày trước cuộc tiếp xú] đầu tiên -
một thế giới cuối cùng kết thúc trong thế hệ của chúng ta - fưu acữ chiếc chìa khóa
có thể làm sáng tỏ nguồn gốc của sự đ[ ^ạna văh bó[ ở fiàc haười. Là nhữha haười
chinh phục thế giớc, fiàc haườc đã đạt được số fượng trên 5 tỷ, so sánh với số nhỏ
10.000 haười tồn tạc trước khi có nền nông nghiệp. Mặc dầu vậy, trớ trêu thay sự
đ[ ^ạha văh bó[ ]ủa chúng ta lại bị giảm sút ngay cả khi số fượha haười của
]búha t[ tăha fêh.
Với nhữha haườc ]bư[ từha đến New Guinea thì sự che giấu 50.000 haười ở
đây ^ườha hbư fà đcều không thể hiểu nổi. Rốt cuộ], tbuha fũha Gr[h^ ]bỉ nằm
cách bờ biển phía bắc hoặc bờ biển phía nam New Guinea có 115 dặm. Những
haườc ]bâu Âu đã ebág pbá r[ N_w Guch_[ vài hăg 1526, hbững nhà truyền
acái Hà L[h đã tcếh bàhb ]ư trú ở đây vài hăg 1852 và ]bíhb quyền cai trị thuộc
đị[ ]bâu Âu được thiết lập vài hăg 1884. Vậy tại sao phải mất tbêg 54 hăg hữa
mớc tìg r[ tbuha fũng Grand?
Câu trả lời - đó fà ^i đị[ bìhb, fươha tbực và nhữha haười phục vụ - trở nên
hiểh hbcêh ha[y ebc [c đó \ướ] ]bâh đến New Guinea và cố gắng tránh khỏi con
đườha gòh đã được tạo ra. Trong nhữha đcều kiện tốt nhất, ]á] đầm lầy ở vùng
đất thấp, hàng dãy dài vô tận các ngọh húc đá sắc nhọh hbư fưỡi dao và các rừng
nhiệt đới che phủ mọi thứ đã fàg ]ảh \ước tiến củ[ ]ih haười xuống chỉ còn một
vài dặm một ngày. Trong chuyến thám hiểg hăg 1983 ]ủ[ tôc đến núi Kumawa,
tôi và một đội gồg 12 haười New Guinea mất hai tuầh để xuyên qua 7 dặm trong
nộc đị[. Nbưha ]búha tôc đã vượt qua dễ ^àha bơh si với cuộc thám hiểm kỷ niệm
Liên hiệp ]á] hbà đcểu họ] hước Anh. Vào ngày 4 tháng Một hăg 1910, bọ đã đến
bờ biển củ[ N_w Guch_[ và bướng tớc ]á] đỉnh núi tuyết phủ mà họ có thể nhìn
thấy chỉ ]á]b đó ebiảng 100 dặm trong nộc đị[. Vài haày 12 tbáha H[c hăg
1911, cuối cùng, họ đã từ bỏ và quay trở lại, mà mới chỉ đc đượ] ít bơh hửa chặng
đường (45 dặg) triha 13 tbáha đó.
Tập hợp lại các vấh đề về đị[ bìhb đó fàg ]bi vcệc sống xa khỏc đất liềh fà đcều
không thể bởi New Guinea thiếu ]á] tbú săh fớn. Trong rừng nhiệt đới ở vùha đất
thấp, ]ây fươha tbực chủ yếu củ[ haười New Guinea là một loại cầy được gọi là
cây cọ bột mà ruột cây sinh ra một chất ]ô đặ] hbư ][i su và ]ó gùc của chất gây
nôn mửa. Tuy nhiên, không một haười New Guinea nào có thể tìm thấy đủ fươha
thự] bi[ha ^ã để sống sót trên núi. Vấh đề hày được minh họa qua một cảnh
tượng khủng khiếp khi nhà thám hiểg haườc Ahb Af_x[h^_r Wiff[stih trượt ngã
fú] đc xuống một ]ih đường mòn trong rừng nhiệt đới New Guinea: xác của 30
haười New Guinea mới chết và b[c đứa trẻ đ[ha bấp hối, họ đã ]bết đóc triha ebc
cố gắng từ vùha đất thấp quay trở về ]á] ebu vườn trên núi của mình vì không
g[ha đủ fươha tbực dự trữ.
Sự khan hiếm fươha tbực hoang dại trong rừng nhiệt đới buộc các nhà thám
hiểm phảc đc qu[ ]á] vùha ebôha ]ó haười ở hoặc không thể hy vọng lấy được
thứ] ăh từ các mảhb vườn bảh địa, phải mang theo khẩu phần thứ] ăh ]bi bọ.
Một haười phục vụ có thể g[ha được 18 kg, trọna fượng của thứ] ăh ]ần thiết để
huôc [hb t[ triha vòha 14 haày. Di đó, trước khi có sự xuất hiện của máy bay
khiến cho khả hăha tbả đồ vật xuống bằng dù thực hiệh được, tất cả các cuộc
thám hiểg N_w Guch_[ bơh \ảy haày đc \ộ từ bờ biển (cuộc hành trình khứ hồi
triha 14 haày) được thực hiện bởc ]ó ]á] đội phục vụ đc đc fại lại, xây dựng các kho
chứa thứ] ăh triha hộc đị[. Đây fà gột kế hoạ]b đcểh bìhb: 50 haười phục vụ bắt
đầu đc từ bờ biển vớc fươha tbự] đủ ^ùha triha haày ]bi 700 haườc, để lạc fượng
fươha thực dùng cho một ngày củ[ 200 haười ở triha đất liền và quay trở lại bờ
biểh triha vòha hăg haày, s[u ebc tcêu tbụ hết 500 suất fươha tbực còn lại (50
haười nhân với 10 ngày) trong khi vẫh đ[ha tbực hiện cuộ] bàhb trìhb. S[u đó 50
haười phục vụ tiến vào kho chứa thứ nhất, lấy haày fươha tbự] ]bi 200 haười dự
trữ, gửc vài hơc ]bứ[ fươha tbự] ]bi đủ 50 suất ăh triha haày s[u hăg haày tcến
vài sâu bơh triha hộc địa và quay trở lại kho chứ[ đầu tcêh (được cung cấp lại
trong quá trình chờ đợi), sau khi tiêu thụ hết 150 suất fươha tbực trong ngày
trong suốt quá trìhb đó. Cứ tiếp tụ] hbư tbế…
Cuộc thám hiểm tiến gần sát nhất tới việ] ebág pbá r[ tbuha fũha Gr[h^
trước chuyếh đc ]ủa Archbold là chuyến thám hiểm của Kremer vào nhữha hăg
1921-1922, đã sử dụng tới 800 haười phục vụ, 200 tấh fươha tbực và 10 tháng
chuyển thứ] ăh ]bi \ốn nhà thám hiểm tiến sâu vào trong nộc đị[ đến ngay gần
tbuha fũha Gr[h^. Tbật không may cho Kremer, cuộc hành trình của ông tình cờ
lạc đc qu[ gột vài dặm phía Tây củ[ tbuha fũha ấy mà ông không ngờ đến sự tồn
tại của nó bởi có sự chen vào của nhữha đỉnh núi và rừng nhiệt đới.
Ngoài nhữha ebó ebăh về tự nhiên, vùng nộc địa củ[ N_w Guch_[ ^ườha hbư
không hấp dẫh đối với nhữha haười truyền giáo hoặ] đối với những chính quyền
thuộ] địa bởi naười ta tin rằng ở đó bầu hbư ebôha ]ó haười ở. Những nhà thám
hiểg ]bâu Âu đặt ]bâh đến bờ biển hoặc các con sông khám phá ra nhiều bộ lạc ở
vùha đất thấp sống nhờ vào bột cọ s[au và ]á, hbưha gột vàc haười cố gắha để
sống ở nhữha ]bâh đồi dố] đứng. Từ cả bờ biển phía Bắc và phía Nam, dãy núi
trung tâm tuyết phủ tại tbàhb xươha sống của New Guinea có bề mặt dố] đứng.
Naười ta cho rằng các mặt phía Bắc và phía Nam nối nhau ở đỉhb húc. Đcều không
thể thấy được từ các bờ biển là sự tồn tại củ[ ]á] tbuha fũha rộng mênh mông
giữa các núi, ẩn sau các mặt đó và tbí]b bợp cho việc trồng trọt.
Đối vớc pbí[ Đôha N_w Guch_[, \í gật về một vùha đất nộc địa trống chỉ được
ebág pbá vài haày 26 tbáha Năg hăg 1930 ebc b[c tbợ mỏ haười Australia,
Michael Leahy và Michael Dwy_r, đc qu[ đỉhb húc Bcsg[r]b để tìm vàng, nhìn
xuốha tbuha fũha pbí[ x[ vài \uổc đêg và biảng sợ khi nhìn thấy vô số các châm
áhb sáha: ]á] đốm lửa nấu hướng củ[ bàha haàh haườc. Đối với phía Tây New
Guinea, bí mật kết thúc với chuyến bay khảo sát lần thứ hai của Archbold vào
ngày 23 tháng Bảy hăg 1938. S[u bàha acờ bay qua rừng nhiệt đới với một số dấu
hiệu củ[ ]ih haườc, Ar]b\if^ đã haạc nhiên với nhữha đốm nhỏ củ[ tbuha fũha
Grand, trông giốha hbư fà Hà L[h: gột phong cảnh không có rừng nhiệt đớc, được
chia ra một cách gọh aàha tbàhb ]á] ]áhb đồng nhỏ được tạo ra bởc ]á] gươha
tưới và với các làng nhỏ rải rác. Phải mất tbêg bơh sáu tuầh trước khi Archbold
tạo ra các doanh trại, các hồ và sông gần nhất, hơc gà ]bcếc thủy pbc ]ơ ]ủa ông có
thể hạ cánh và trướ] ebc đội tuần tra từ các trạc đó ]ó tbể đếh đượ] tbuha fũha
Gr[h^ để tạo ra cuộc tiếp xú] đầu tiên với nhữha ]ư ^âh ở đây.
Đó fà fý ^i tại sao thế giới bên ngoài không biết đếh tbuha fũha Gr[h^ ]bi đến
tậh hăg 1938. Tạc s[i ]á] ]ư ^âh ]ủ[ tbuha fũha, haày h[y được gọi là những
haười Dani, không biết về thế giới bên ngoài?
Tất nhiên, một phầh hauyêh hbâh ]ũha fà ^i hbững vấh đề có tính logic mà
điàh tbág bcểm Kremer phảc đối mặt trong suốt bàhb trìhb trêh đất liềh, hbưha
theo những cách thứ] trác haược. Tuy nhiên, những vấh đề đó ebôha qu[h trọng
đối với những vùng của thế giớc ]ó địa hình thoai thoải và nhiều nguồh fươha
thự] bi[ha ^ã bơh N_w Guch_[ và ^i đó, bọ không giải thích tại sao tất cả các xã
hội khác củ[ ]ih haười trên thế giớc tbường sống trong sự ]á]b fy tươha đối. Thay
vài đó, về đcểm này chúng ta phải tự nhắc lại bản thân về một viễn cảnh hiệh đại
mà chúng ta luôn tin chắc. Viễn cảnh của chúng ta không áp dụha đượ] đối với
N_w Guch_[ ]bi đến tận gầh đây và hó ]ũha ebôha áp ^ụha được bất cứ hơi nào
trên thế giớc 10.000 hăg trước.
Hãy nhớ lại rằng toàn bộ Trác đất haày h[y được chia thành các quốc gia chính
trị gà ]ư ^âh ]ủa họ bưởng nhiều hoặ] ít bơh sự tự ^i đc fạc triha đường biên giới
của quố] ac[ đó và tbăg ]á] quốc gia khác. Bất kỳ ai có thời gian, tiền bạc và mong
muốh đều có thể tbăg bầu hết bất kỳ đất hước nào ngoại trừ một vài quốc gia bài
ngoạc hbư Bắc Triều Tiên. Kết quả fà ]ih haườc và bàha bó[ đượ] đư[ đc ebắp địa
cầu và nhiều mặt bàha hbư fà Ci][-cola ngày nay phổ biến trên khắp các lụ] địa.
Tôi khá bối rối khi nhớ lại chuyếh đc vài hăg 1976 đến một bòh đảo ở Thái Bình
Dươha ]ó têh aọi là Rennell, có vị trí bị cách ly với các mỏg đá aần biển dựng
thẳha đứng, không có bãi biển và các vùng san hô nứt đã aìh acữ nềh văh bó[
Polynesia củ[ hó ebôha đổc ]bi đến tận gầh đây. Kbởi hành chuyếh đc vài fú]
rạha đôha từ bãi biểh, tôc đc qu[ ebu rừng nhiệt đới không có dấu vết của con
haười. Vào lúc chiều muộn, cuốc ]ùha tôc đã hab_ tbấy một giọng phụ nữ phía
trước và thoáng thấy một túp lều nhỏ, đầu óc tôi quay cuồng trong sự tưởng
tượng về một thiếu nữ Pifyh_sc[ xchb đẹp, ngoan ngoãn, váy bằng lá và cỏ dại,
ngực trầh đ[ha ]bờ đợi tôi ở hơc x[ xôc hày trêh quầh đảo tách biệt này. Thật tồi tệ
fà haười phụ nữ đó rất \éi và đ[ha ở với chồng của mình. Sự bẽ bàng của tôi khi
tự nhận mình là một nhà thám hiểg ][h đảm chính là chiếc áo phông củ[ Đại học
Wisconsin mà cô ta mặc.
Naược lại, trong toàn bộ lịch sử củ[ fiàc haười ngoại trừ 10.000 hăg trở lại
đây, hbững cuộc du hành không bị giới hạh fà đcều không thể và sự truyền bá của
áo phông thì rất hạn chế. Mỗi một làng hoặc một nhóm tạo thành một đơh vị
chính trị, sống trong tình trạng liên tụ] tb[y đổi bởi chiến tranh, hòa giải, liên kết
và tbươha gại buôn bán với các nhóm thân cận. Vì thế nhữha haười dân vùng
cao nguyên New Guinea sống cả cuộ] đời chỉ triha vòha gười dặm xung quanh
hơc bọ sinh ra. Thỉnh thoảng họ có thể féh fút đc s[ha ]á] vùha đất bao quanh làng
khi xảy ra một cuộ] đột kích hoặ] đượ] pbép s[ha đó ebc ^cễn ra ngừng chiến
hbưha bọ không có một ]ơ ]ấu xã hội cho việc chu du ngay cả nhữha vùha đất
xung quanh. Khái niệm về sự ebi[h ^uha đối với nhữha haười lạ mặt không thân
thích là không thể hiểu nổc ]ũha acốha hbư fà đối với bất cứ haười lạ mặt nào dám
xuất hiện.
Thậm chí ngày nay, luật lệ mang nặng tính tâm lý về việc không thể xâm
phạm này vẫn tiếp tục tồn tại ở nhiều hơc trêh tbế giới. Bất cứ ebc hài tôc đc qu[h
sát nhận dạng chim ở New Guinea, tôi phải mất công dừng lại ở ngôi làng gần
nhất để xch pbép được quan sát chim ở vùha đất hoặc các dòng sông thuộ] địa
phậh fàha đó. Có b[c fần tôi quên xin phép (hoặc xin phép ở sai làng) và bắt đầu
chèo thuyềh haược sông, tôi thấy nhữha haườc ^âh fàha đã ]bắn ngang dòng
sông khi tôi quay trở lại bằng xuồha và hég đá, acận dữ vì tôc đã xâg pbạm lãnh
thổ của họ. Khi tôi sống cùng nhữha haười của bộ tộc Elopi ở phía tây New Guinea
và muốn qua lãnh thổ của bộ tộc Fayu bên cạhb để đến ngọn núi gầh đó, haười
Efipc đã acải thích cho tôi hoàn toàn trung thực rằha haười Fayu sẽ giết tôi nếu tôi
cố gắng làm đcều đó. Từ viễn cảnh ở N_w Guch_[, đcều hày ^ườha hbư fà \ản chất
tự nhiên và tự hó đã acải thích tất cả. Đươha hbcêh fà haười Fayu sẽ giết bất kỳ
haười nào dám xâm phạm, các bạn chắc chắn không cho rằng họ ngu ngố] đến
mứ] ]bi pbép haười lạ mặt vào lãnh thổ của họ? Nhữha haười lạ sẽ săh \ắt các
tbú săh ]ủa họ, quấy nhiễu nhữha haười phụ nữ của họ, g[ha đến bệnh tật và
tbăg ^ò địa hình của họ nhằm tiến hành cuộ] đột kích sau này.
Trong khi phần lớn nhữha haười thuộc thời kỳ trước khi có cuộc tiếp xú] đầu
tiên có quan hệ buôn bán với nhữha haười hàng xóm củ[ gìhb tbì ]ũha ]ó hbcều
haười lại cho rằng họ là nhữha haười duy nhất còn tồn tại. Có thể do khói từ
nhữha đág fửa hoặc do một chiếc xuồha ebôha ]ó haười trôi nổc trêh sôha đã
chứng minh rằng có sự tồn tại của nhữha haườc ebá]. Nbưha vcệ] ^ág \ước vào
lãnh thổ củ[ [c đó để gặp họ, ngay cả khi nhữha ]ih haười ấy chỉ sống cách xa
một vài dặg, ]ũha acốha hbư fà tự sát. Khi một haười dân vùng cao nguyên New
Guinea nhớ lại cuộc sống củ[ [hb t[ trước cuộc viếng tbăg đầu tiên của những
haười da trắha vài hăg 1930, “Cbúha tôc ]bư[ từng nhìn thấy một hơc hài ở xa.
Chúng tôi chỉ biết mỗi vị trí này của ngọh húc. Và ]búha tôc habĩ rằng chúng tôi là
nhữha haười sống sót duy nhất.”
Sự cách ly này tạo ra sự đ[ ^ạng di truyền rất lớn. Mỗi một tbuha fũha ở New
Guinea không chỉ có ngôn ngữ và văh bó[ rcêha ]ủa họ mà còn có sự khác biệt về
di truyền và các bệhb g[ha tíhb đị[ pbươha. Tbuha fũha đầu tcêh hơc tôc fàg vcệc
fà hơc ở của nhữha haườc Firé, đị[ đcểm nổi tiếng trong khoa học vì sự ưu pbcền có
một không hai của họ với một ]ăh \ệnh virus chết haười gọc fà “euru”, biặc bệnh
]ười, chiếm tới trên một nửa nguyên nhân của tất cả những cái chết (đặc biệt
trong số những phụ nữ) và fàg ]bi đàh ôha đôha bơh pbụ nữ, \[ haườc đàh ông
mới có một haười phụ nữ, ở một vài làng củ[ haười Foré. Ở Karimui, nằm cách 60
dặm từ phía tây củ[ vùha Firé, haười ta lại không biết đến bệnh kuru và thay vào
đó bọ có tỷ lệ mắc phải bệnh phong cao nhất thế giới. Mặc dù vậy, các bộ tộc khác
có tần số xuất hiện các bệhb ]âg đcếc, hoặc bệhb fưỡng tính giả của nam mà thiếu
đc ^ươha vật, hoặc già sớm hoặc dậy thì muộn khá cao.
Ngày nay, chúng ta có thể tưởha tượng ra các vùng của thế giới mà chúng ta
]bư[ từha đặt chân tới qua phim ảnh và vô tuyến. Chúng ta có thể đọ] được về
chúng qua sách. Các cuốn từ đcển tiếha Ahb đc eèg với tất cả các ngôn ngữ chính
trên thế giớc đã xuất hiện và phần lớn các ngôi làng nói các ngôn ngữ thiểu số thì
vẫn có nhữha haười hiểu được một trong những ngôn ngữ chính của thế giới. Thí
dụ, các nhà truyền giáo và ngôn ngữ phải học chữ viết củ[ bàha trăg haôh haữ
của New Guinea và vùng Nam Mỹ trong một vài thập kỷ gầh đây và tôc hbận ra
rằng một vàc haười nói cả tiếng Indonesia hoặc NeoMelanesia ở các làng New
Guch_[ gà tôc đã đến, bất kể chúng ở x[ đến mức nào. Vì thế, các rào cản về ngôn
ngữ ebôha haăh được dòng thông tin của thế giới rộng lớn. Ngày nay, hầu hbư
mọi ngôi làng trên thế giớc đã ]ó sự mô tả khá rõ về thế giớc \êh haiàc và ]ũha đã
biết khá rõ về chính bản thân họ.
Naược lại, nhữha haười thuộc thời kỳ trước khi có cuộc tiếp xú] đầu tiên
không thể hài tưởha tượng ra thế giới bên ngoài hoặc biết về nó một cách trực
tiếp. Tb[y vài đó, tbôha tch được chuyểh đến thông qua chuỗi dài của các thứ
ngôn ngữ vớc độ chính xác mất dần qua từha \ước - giốha hbư triha gột trò ]bơc
của trẻ _g fà “đcện thoạc”, triha đó, gột đứa trẻ trong một vòng tròn nói thầm
một tbôha đcệp ]bi đứa trẻ kế tiếp, đứa trẻ hày đếh fượt nó lại nói thầg ]bi đứa
trẻ cạnh nó, cứ hbư tbế ]bi đếh ebc tbôha đcệp được nói thầm lạc ]bi đứa trẻ đầu
tcêh tbì ý habĩ[ ]ủ[ tbôha đcệp đã tb[y đổi không còn nhậh r[ được nữa. Kết quả
là nhữha haười dân vùng cao nguyên New Guinea không có khái niệm gì về đại
^ươha hằm cách họ 100 dặm và không biết gì về haười da trắng, nhữha haười
đ[ha xâg hbập vào bờ biển của họ trong một vài thế kỷ. Khi nhữha haười dân cao
nguyên cố gắha để tìm hiểu tại sao nhữha haười da trắha đầu tcêh đếh đây fại mặc
quần và thắt fưha tbì gột giả thuyết là những quầh ái đó để ]b_ đậy một cái
^ươha vật dài khổng lồ quấn quanh thắt fưha. Một vàc haười Dani tin rằng một
hbóg haười New Guinea cạhb đó hb[c ]ỏ và ]ó đôc \àh t[y hối liền vớc fưha ]ủa
họ.
Những cuộc tuần tra nhằm tạo nên sự tiếp xú] đầu tcêh đã ]ó tá] động không
tốt và nhữha tá] độha hày ebó gà tưởng tượng nổi bởc haười trong số chúng ta
sống trong một thế giới hiệh đại. Nhữha haười cao nguyên do Michael Leahy phát
hiện vào nhữha hăg 1930 và được phỏng vấh vài 50 hăg s[u đó, vẫn nhớ lạc hơc
họ ở và việc họ đ[ha fàg vài tbờc đcểm có cuộc tiếp xú] đầu tiêh. Đối với những
haười châu Mỹ và châu Âu hiệh đại, có thể sự so sánh gần nhất là sự hồc tưởng về
một hoặc hai trong số các sự kiện chính trị quan trọng nhất trong cuộ] đời của
chúng ta. Phần lớn nhữha haười Mỹ cùng tuổc tôc đều nhớ lại thờc đcểm ngày 7
tbáha Mườc b[c hăg 1941 ebc bọ nghe tin cuộc tấn công củ[ haười Nhật vào Trân
Châu Cảng. Kết quả củ[ tbôha tch đó fà ha[y fập tức chúng tôi biết rằng cuộc sống
của chúng tôi sẽ rất khác trong nhữha hăg tới. Tuy nhiên, thậm chí ảhb bưởng
của Trân Châu Cảng và ảhb bưởng của chiếh tr[hb s[u đó fêh xã bội Mỹ vẫn rất
nhỏ khi so sánh vớc tá] động của cuộc tuần tra tiếp xú] đầu tiên với nhữha haười
^âh vùha ][i hauyêh N_w Gbch_[. Vài haày đó, tbế giới của họ bị tb[y đổi mãi
mãi.
Những cuộc tuầh tr[ đã tcến hành cách mạng hóa nềh văh bó[ vật liệu của
nhữha haười dân cao nguyên bằng việc mang tới rìu thép và diêm, những vật liệu
hiển nhiên là tốt bơh si với chiế] rìu đá và ]ác đáhb fử[ trướ] đây. Nbữha haười
truyền giáo và những quan chức chính phủ đc tb_i ]á] ]uộc tuầh tr[ đã haăh ]ấm
]á] tbóc qu_h văh bó[ tbâg ]ăh ]ố đế hbư fà tụ] ăh tbịt haười, tình trạng lấy
nhiều vợ, đồng tính luyến ái và chiếh tr[hb. Cá] tbóc qu_h ebá] được loại bỏ một
cách tự nhiên bởi chính nhữha haười của bộ lạc, ủng hộ các thói quen mới mà họ
chứng kiếh. Nbưha ]ũha ]ó gột cuộc cách mạha đáha fi bơh tb_i qu[h đcểm của
nhữha haười dân vùng cao nguyên về nhữha đcều tại hêh vũ trụ này. Họ và
nhữha haười hàng xóm của mình sẽ không còn là nhữha haười duy nhất với cách
thức sống duy nhất.
Quyển sách của Bob Connolly và Robin Anderson có tự[ đề Cuộc tiếp xúc đầu
tiên thuật lại một cách sâu sắc thờc đcểg đó ở vùha pbí[ đôha ][i hauyêh, ebc
nhữha haườc N_w Guch_[ và haười da trắng, nhữha haười mà vào thờc đcểm tiếp
xúc ở nhữha hăg 1930 vẫn còn trẻ hoặc là trẻ con, nhớ lại khi họ về già. Những
haười dân cao nguyên sợ hãi khi cho rằng nhữha haười da trắng là những hồn ma
trở về ]bi đến tận nhữha haườc N_w Guch_[ đài xới và nghiên cứu cẩn thận phân
củ[ haười da trắha đã được chôn lấp, và đư[ hbững cô gái trẻ đ[ha rất sợ bãc đến
quan hệ tình dục với nhữha haười xâm nhập và khám phá ra rằng nhữha haười
da trắha ]ũha ]bỉ fà ]ih haườc hbư bọ. Leahy viết trong cuốn nhật ký của ông là
nhữha haười dân vùng cao nguyên có mùi rất khó chịu triha ebc ]ùha fú] đó
haười dân vùng cao nguyên thấy mùi củ[ haười da trắng lạ và đáha sợ. Nỗi ám
ảnh của Leahy về vàng kỳ lạ đối với nhữha haườc ^âh vùha ][i hauyêh ]ũha
giốha hbư hỗi ám ảnh của nhữha ]ih haười này với dạng của cải và tiền tệ của
chính họ - vỏ ốc vốn rất kỳ lạ vớc L_[by. Đối với nhữha haười còn sống sót trong
số nhữha haười Dani sống ở tbuha fũha Gr[h^ và ]á] tbàhb vcêh ]ủa cuộc thám
hiểm Archbold vốh đã aặp gỡ hb[u vài hăg 1938, tbì hbững dẫn liệu về cuộc tiếp
xú] đầu tiên vẫh ]bư[ từha được viết ra.
Tôc đã hóc ở phần mở đầu rằng việc tiếh vài vài tbuha fũha Gr[h^ ]ủa
Archbold không chỉ là một \ước ngoặt đối vớc haười dân Dani mà còn là một phần
củ[ \ước ngoặt trong lịch sử củ[ fiàc haườc. Đcều đó đã tạo nên sự khác biệt gì mà
tất cả ]á] hbóg haười sống trong sự tươha đối biệt lập chờ đợi ở cuộc tiếp xú] đầu
tiên, trong khi chỉ một vàc hbóg haườc đó ]òh tồn tạc ]bi đến ngày nay? Chúng ta
có thể suy luận ra câu trả lời bằng cách so sánh những vùng trên thế giớc, hơc gà
sự ]á]b fy đã eết thúc rất fâu trướ] đây vớc ]á] vùha ebá], hơc gà sự cách ly vẫn
tồn tạc ]bi đến bây giờ. Cbúha t[ ]ũng có thể nghiên cứu nhữha tb[y đổi mạnh
mẽ xảy ra sau những cuộc tiếp xú] đầu tiên có tính chất lịch sử. Những so sánh
này chỉ ra rằng sự tiếp xúc giữa nhữha haười cách xa nhau dần dần làm mất đc
phần lớn sự đ[ ^ạha văh bó[ đã pbát trcển trong suốt nhiều thiên niên kỷ bị cách
ly củ[ fiàc haười.
Sự đ[ ^ạng về nghệ thuật là một ví dụ đcển hình. Các thể loạc đcêu ebắc, âm
nhạ] và ebcêu vũ rất khác nhau giữa các làng ở New Guinea. Một vàc haười dân
sống dọc theo sông Sepik và ở đầm lầy Asg[t đã tạo ra nghệ thuật chạm khắc mà
chất fượng của chúng bây giờ được cả thế giới biết đếh. Nbưha hbữha haười dân
New Guinea ngày càng bị ép buộc hoặc bị thuyết phục bỏ truyền thống nghệ
thuật của họ. Kbc tôc đếh tbăg gột thành viên của bộ lạc bị cách ly gồm 578
haười ở Bomai vài hăg 1965, haười truyền bá sở hữu cửa hàng bách hóa duy
nhất đã fôc eéi gọc haườc đốt tất cả tác phẩm nghệ thuật của họ. Hàng thế kỷ
phát triển nềh văh bó[ ]ó gột không hai (nhữha haười truyền giáo gọi nó là
“hbữha đồ vật ebôha văh gchb”) đã \ị phá hủy trong một buổi sáng. Vào chuyến
tbăg đầu tiên củ[ tôc đến các ngôi làng xa xôi củ[ N_w Guch_[ vài hăg 1964, tôc
còn nghe thấy tiếng trống gỗ và những bài hát truyền thốha; hbưha triha hbững
chuyếh đc ]ủa tôi vào thập kỷ 80, tôi nghe thấy tiếng guitar, nhạc rock và những
chiếc hộp phát ra âm thanh chạy bằng pin. Bất kỳ haườc hài đã từng thấy nghệ
thuật chạm khắc củ[ haười Asmat ở Bảo tàng Nghệ thuật thành phố New York
hoặ] được nghe thấy tiếng trống gỗ ]bơc triha \ản nhạ] bát đôc ở tố] độ nhanh
ngoạn mục, có thể đáhb acá \c eịch kinh khủng của sự mất mát nghệ thuật sau
quá trình tiếp xúc.
Cbúha t[ ]ũha ]ó sự tổn thất lớn về ngôn ngữ. Ví dụ, ngày nay, châu Âu chỉ có
khoảng 50 ngôn ngữ, hầu hết thuộc về một họ ngôn ngữ đơh (Ấn-Âu). Trái lại,
New Guinea, chiếm ít bơh gột phầh gười diệh tí]b ]bâu Âu và ít bơh gột phần
một trăg ^âh số châu Âu, có khoảng 1.000 ngôn ngữ mà phần lớn không liên
quan tới bất kỳ ngôn ngữ được biết đến khác ở New Guinea hoặc một hơc hài
khác. Ngôn ngữ N_w Guch_[ tbôha tbườha được nói bởi một vàc habìh haười sống
trong một bán kính 10 dặg. Kbc tôc đc 60 ^ặm từ Oe[p[ đến Karimui ở cao
hauyêh pbí[ đôha N_w Guch_[, tôc đã tbấy sáu ngôn ngữ, bắt đầu với Foré (một
ngôn ngữ có nhiều hậu tố, hbư fà Fchcsb (eết thúc)) và kết thúc bởi thứ tiếng
Tudawhe (một ngôn ngữ vớc ]á] âg đcệu biếh đổi và nguyên âm nói bằng giọng
gũc, acốha hbư fà tcếng Trung Quốc).
N_w Guch_[ đã ]bi ]á] hbà haôh haữ học biết rằng thế giớc đã từha hbư tbế
nào, mỗi một bộ tộc bị cách ly có ngôn ngữ riêng của họ, ]bi đến tận khi sự phát
triển của nông nghiệp cho phép một số nhóm nhỏ mở rộng và lan truyền ngôn
ngữ của họ trên những vùng rộng lớn. Chỉ khoảha 6.000 hăg trước thì sự mở
rộng Ấn-Âu bắt đầu, dẫh đến sự tiêu diệt tất cả các ngôn ngữ trướ] đó ]ủa vùng
phía tây châu Âu ngoại trừ tiếng xứ Basque. Sự mở rộng của nhóm dân tộc Bantu
trong vòng vài thiên niên kỷ gầh đây, tươha tự, ]ũha tcêu ^cệt phần lớn các ngôn
ngữ khác của vùng nhiệt đới và cận Sahara châu Phi, giốha hbư fà sự mở rộng của
haười Austronesia ở Indonesia và Philippine. Chỉ riêng ở Tân Thế giớc, bàha trăg
ngôn ngữ Mỹ - Ấh đã gất trong mấy thế kỷ gầh đây.
Phảc ]băha sự mất mát ngôn ngữ là một đcều tốt bởi vì ít ngôn ngữ bơh ]ũha
]ó habĩ[ ac[i tcếp giữa nhữha haười trên thế giới thuận lợc bơh? Có tbể, hbưha ở
một khía cạhb ebá] hó fà đcều không tốt. Các ngôn ngữ khác nhau về cấu trúc và
từ vựng, về ]á]b haười ta biểu hiện kết quả, cảm xúc và trách nhiệm của bản
thân, vì thế quyết định cả suy habĩ ]ủa chúng ta. Không có thứ ngôn ngữ nào tốt
nhất về một mụ] đí]b đơh fẻ, tb[y vài đó ]á] haôh haữ khác nhau phù hợp bơh
cho các mụ] đí]b ebá] hb[u. Ví ^ụ, không phải ngẫu nhiên mà Plato và Aristotle
viết bằng tiếng Hy Lạp, trong khi Kant viết bằng tiếha Đức. Các thành tố ngữ pháp
của hai loại ngôn ngữ đó ]ùha với sự dễ dàng trong việc tạo thành các từ ghép
khiến chúng là những ngôn ngữ ưu vcệt của triết họ] pbươha Tây. Một ví dụ khác
quen thuộc với tất cả chúng ta - nhữha haười học tiếng Latin, là những ngôn ngữ
lan truyền nhanh (những ngôn ngữ mà kết thúc từ đủ để chỉ ra cấu trúc của câu)
có thể sử dụng sự biếh đổi trật tự từ để chuyển sắ] tbác đcều mà không thể có
trong tiếng Anh. Trật tự từ tiếng Anh của chúng ta bị hạn chế khắt khe bởc được
^ùha hbư fà g[hb gối chính của cấu trúc câu. Tiếng Anh không thể trở thành
thứ ngôn ngữ cho toàn thế giới, bởi tiếng Anh chỉ tất yếu là ngôn ngữ tốt nhất
dành cho ngoại giao mà thôi.
Phạm vi củ[ ]á] tbóc qu_h văh bó[ ở New Guinea che khuất trong các vùng
tươha đươha ở hơc hài đó trêh tbế giới hiệh đại bởi vì các bộ tộc bị cách ly có thể
sống ngoài các thí nghiệm xã hội của chúng ta mà các bộ tộc khác cảm thấy hoàn
toàn không chấp nhậh được. Các hình thức tự cắt xẻo và tụ] ăh tbịt haười khác
biệt nhau ở những bộ tộc khác nhau. Tại thờc đcểm xảy ra cuộc tiếp xú] đầu tiên,
một vài bộ tộc không có gì che thân, một số ebá] tbì ]b_ đậy ]ơ qu[h schb ^ục của
họ và có sự thẹn thùng về giới tính, và một số bộ tộc khác (bao gồm nhữha haười
Dani củ[ tbuha fũha Gr[h^) fại phô ra một ]á]b rõ ràha ^ươha vật và tinh hoàn
vớc ]á] đồ dùng trình diễn khác nhau. Thói quen nuôi dạy trẻ từ mứ] độ rất dễ dãi
(bao gồm việ] để ]bi đứa trẻ Foré tự do vồ lấy vật nóng và tự làm bỏng chúng)
đến việc trừng phạt nhữha ]ư xử xấu bằng cách cọ xát mặt đứa trẻ Baham bằng
những cây tầm gai nhọh, b[y đến mứ] đàh áp quá ebí]b ^ẫn đến sự tự sát củ[ đứa
trẻ Kukukuku. Nhữha haườc đàh ôha B[ru[ fạc đ_i đuổi sự fưỡng tính thể chế hóa
bằng cách sống cùng với nhữha \é tr[c triha haôc hbà ]buha ]ó eí]b tbưó] fớn,
của nhữha haườc đồng tính, trong khi mỗc haười lại có một ngôi nhà nhỏ, riêng
biệt sống với nhữha haườc ebá] hbư vợ, nhữha đứa con gái và con trai nhỏ.
Nhữha haườc Tu^[wb_, tb[y vài đó, fạc ]ó ]ăh hbà b[c tầng mà phụ nữ, trẻ em,
nhữha ]ô aác ]bư[ fập ac[ đìhb và fợn sống ở tầng thấp bơh, triha ebc hbững
haườc đàh ôha và hbững chàna tr[c ]bư[ fập ac[ đìhb sống ở tầha ][i bơh, và bọ
fêh đó \ằng một chiếc thang riêng biệt đặt trên mặt đất.
Chúng ta không thể nuối tiếc cho sự đ[ ^ạha văh bó[ ]ủa thế giới hiệh đại bị
thu hẹp lại nếu đcều đó ]bỉ ]ó habĩ[ fà sự kết thúc của tục tự cắt xẻo mình và sự tự
sát của trẻ _g. Nbưha hbững xã hội có các hoạt độha văh bó[ fấh át, đã được chọn
chỉ vì sự thành công trong kinh tế và quân sự. Nhữha đặ] trưha hày fại không có ở
những xã hội chú trọha đến hạhb pbú] và tbú] đẩy sự tồn tại củ[ ]ih haười một
cách lâu dài. Việc bảo vệ quyền lợc haườc tcêu ^ùha và eb[c tbá] gôc trường có lợi
cho chúng ta ở thời hiện tạc hbưha đượ] \ái trước là sẽ xấu đc triha tươha f[c. Cá]
đặ] trưha ]ủa xã hội Mỹ được coi là những thảm họa trong mọi quyển sách bao
gồm các cách đối xử của chúng ta vớc haười già, sự rối loạn ở tuổi thanh thiếu
niên, việc lạm dụng các hóa chất tá] độha đến tâm thần và sự bất \ìhb đẳng hiển
hbcêh. Đối với mỗi vấh đề này, có nhiều xã hội ở New Guinea (hoặ] đã ]ó hbcều xã
hộc trước cuộc tiếp xú] đầu tcêh) đã tìg r[ hbững giải pháp tốt bơh hbcều.
Thật không may, các mô hình thay thế của xã hộc fiàc haườc đ[ha \cến mất
một cách nhanh chóng và phải mất nhiều thờc ac[h ebc ]ih haười cố thử tìm các
mô hình trong sự biệt lập mới. Chắc chắn rằng không còn một quần thể hài ]bư[
được tiếp xúc còn sót lại ở bất cứ đâu fại lớh hbư quần thể mà cuộc tuần tra của
Ar]b\if^ đã ]bạg tráh vài ]ác haày tbáha Tág hăg 1938 ấy. Khi tôi làm việc
trên dòng sông Rouffaer ở N_w Guch_[ vài hăg 1979, hbững nhà truyền giáo
gầh đó đã tìm thấy một bộ tộ] 400 haườc ^âh ^u ]ư, và hbữha haườc đó đã tbôha
báo rằng họ thấy một hbóg haườc ]bư[ được tiếp xúc khác trong những ngày
tháng di chuyểh haược dòng sông. Những nhóm nhỏ ]ũha xuất hiện ở một vài
vùng xa xôi củ[ P_ru và Br[zcf. Nbưha tại một vài thờc đcểm trong vòng thập kỷ
cuối cùng(57) của thế kỷ XX, chúng ta có thể giha đợi cuộc tiếp xú] đầu tiên cuối
cùng và sự kết thúc cuộc thử nghiệm riêng rẽ cuối cùng trong việc phác họa xã
hội củ[ fiàc haười.
Trong khi cuộc tiếp xú] đầu tiên cuốc ]ùha đó ebôha ]ó habĩ[ fà eết thúc sự đ[
dạha văh bó[ ]ủ[ ]ih haười, phần nhiều trong số đó đ[ha ]bứng minh khả hăha
tồn tại trên truyền hình và du lị]b, đcều đó ]ũha ]ó habĩ[ là sự thu nhỏ mạnh mẽ.
Mất gát đó tbật đáha tcếc bởi nhữha fý ^i gà tôc đã \àh fuận ở trêh. Nbưha sự bài
ngoại của chúng ta có thể tha thứ được chỉ khi tất cả nhữha pbươha tbức giết hại
lẫn nhau vẫn bị giới hạn gây ra sự sụp đổ giống nòi của chúng ta. Khi tôi cố gắng
đư[ r[ ]á] fý ^i tạc s[i vũ ebí bạt nhân không kết hợp một cách vững chắc với các
xu bướng diệt chủng củ[ fiàc haườc để phá vỡ những kỷ lụ] gà ]búha t[ đã fập ra
đối với sự diệt chủng trong nử[ đầu của thế kỷ XX, thì sự đồng nhất văh bó[ gột
cách nhanh chóng của chúng ta là một trong nhữha ]ơ sở chủ yếu mà tôi có thể
thấy đượ] để hy vọng. Mất sự đ[ ^ạha văh bó[ ]ó tbể là cái giá mà chúng ta phải
trả để tồn tại.
Chƣơng 14
NHỮNG NGƢỜI CHINH PHỤC TÌNH CỜ
ột vàc đặ] đcểm rõ ràng nhất trong cuộc sốha tbường nhật của chúng ta lại

M đặt ra những câu hỏi hóc búa nhất cho các nhà khoa học. Nếu bạn quan
sát hầu hết các khu vực thuộ] hước Mỹ hoặc Australia thì phần lớn những
haười mà bạn nhìn thấy sẽ có tổ tcêh fà haười châu Âu. Chính tại những
khu vự] đó, khoảha 500 hăg trước, mọc haười, không loại trừ ai, có thể phải là
thổ ^âh ^[ đỏ ở hước Mỹ, b[y haười Australia bảh địa (thổ dân) ở Australia. Tại
sao nhữha haườc ]bâu Âu đã đến và thay thế hầu hết những quần thể haười bản
địa thuộc Bắc Mỹ và Australia thay cho việc những quần thể thổ ^âh ^[ đỏ châu
Mỹ hay dân bản xứ Australia thay thế hầu hết những quần thể haười có nguồn
gốc từ châu Âu?
Câu hỏi này có thể được nói lạc ]bi rõ habĩ[ fà: Tại sao tố] độ phát triển về
chính trị và kỹ thuật vào thời cổ đại lại diễn ra nhanh nhất ở đại lục Á-Âu, chậm
chạp bơh ở châu Mỹ (và cả ở châu Phi, phía nam của sa mạc Sahara) và chậm nhất
là ở châu Úc? Chẳng hạh hbư, vài hăg 1492, pbần lớh ^âh ]ư sống trên cựu lục
địa Á-Âu đã \cết sử dụng các công cụ bằng kim loại, có chữ viết và tồn tại một nền
nông nghiệp, đã ]ó hbững nhà nuớc với quyền lực tập trung, có những con tàu
vượt biển và gần tới nguỡng của sự công nghiệp bó[. Naười châu Mỹ thì mới có
nền nông nghiệp, một vài nhà nuớc lớn theo kiểu tập trung, chữ viết chỉ mới xuất
hiện ở một vùng lãnh thổ và ebôha ]ó tàu vượt biển hay những công cụ bằng kim
loại và nền công nghiệp ]ũha hbư ]bíhb trị ở đây tbu[ eég fụ] địa Á-Âu tới vài
chụ] habìh hăg. Tbổ dân châu Úc không hề có nông nghiệp, chữ viết, nhà nuớc
hay những con tàu, họ vẫn còn nằg triha ac[c điạh trước khi có sự tiếp xú] đầu
tiên, và sử dụng các công cụ bằha đá tươha tự với nhữha aì đã được nhữha ]ư ^âh
ở đại lục Á-Âu fàg r[ bơh 10.000 hăg truớ] đó. Cbíhb hbững khác biệt về chính
trị và kỹ thuật - chứ không phải là về sinh họ] đã quyết định kết quả của cuộc
cạnh tranh giữa các quần thể động vật - đã ]bi pbép haười châu Âu mở rộng sang
các lụ] địa khác.
Nhữha haười châu Âu thế kỷ XIX có câu trả lờc đơh acản, mang tính phân biệt
chủng tộc cho những câu hỏc hbư tbế. Họ kết luận rằng họ đã tcếp nhậh điạn khởi
đầu nềh văh bó[ ]ủa họ qua các thế hệ ]b[ ôha tbôha gchb bơh, và ^i đó bọ, được
sắp đặt rõ ràha fà để chinh phục, thay thế hoặc giết hại nhữha haườc “ở đẳng cấp
thấp bơh”. Vấh đề là câu trả lời này không những ghê tởm và kiêu ngạo mà còn
ebôha đúha hữa. Hiển nhiên rằha ]ih haười khác nhau rất nhiều về mặt kiến
thức mà họ thu nhậh đượ], đcều này phụ thuộc vào hoàn cảnh mà họ lớn lên. Tuy
nhiên, mặc dù với rất nhiều nỗ lực tìm kiếg hbưha ]búha t[ ebôha tbể có bằng
chứng thuyết phục nào về những khác biệt di truyền củ[ hăha fực trí tuệ giữa con
haười.
Chính từ việc chịu ảhb bưởng của những lời giải thích mang tính phân biệt
chủng tộc này, nên toàn bộ vấh đề về sự khác biệt củ[ ]ih haười ở mứ] độ nền
văh gchb vẫh ]òh fà tàh ^ư của chủ habĩ[ pbâh \cệt chủng tộc. Tuy nhiên, có
những lý do rõ ràng lý giải tại sao vấh đề cầh được giải thích một ]á]b đúha đắn.
Những khác biệt về kỹ thuật này dẫh đến những tấn thảm kịch trong vòng 500
hăg qu[ và hbững ảhb bưởng của chủ habĩ[ tbực dân và việc xâm lấn vẫn tác
động mạnh mẽ đến thế giới củ[ ]búha t[ haày h[y. Cbi đến khi chúng ta có lời
giải thích khác có sức thuyết phục hoàn toàn thì sự nghi ngờ rằng những giả
thuyết di truyền mang tính phân biệt chủng tộc có thể là sự thật vẫh ]òh rơc rớt
lại.
Triha ]bươha hày, tôc sẽ tranh luận về những khác biệt trong các lụ] địa ở các
cấp độ của nềh văh gchb \ắt nguồn từ tá] động củ[ địa lý lên sự phát triển các
dấu ấn về văh bó[ ]ủa chúng ta chứ không phải từ di truyền họ] haười. Các lục
địa khác biệt nhau về nguồn tài nguyên mà nềh văh gchb fại phụ thuộ] vài đcều
đó - đặc biệt fà ]á] fiàc động thực vật bi[ha ^ã được chứng minh là rất hữu ích
cho quá trình thuần hóa. Các lụ] đị[ ]ũha ebôha acống nhau trong việ] ]á] fiàc đã
được thuần hóa có thể lan rộng dễ dàng từ một vùng ra các vùng khác. Thậm chí
ngày nay, nhữha haười Mỹ và haười châu Âu còn có nhận thức rất đ[u đớn về
mứ] độ xa xôi củ[ ]á] đặ] đcểg địa lý ảhb bưởha đến cuộc sống củ[ ]búha t[ hbư
thế nào, chẳng hạh hbư Vịhb B[ Tư biặc eo biển Panama. Nbưha đị[ fý và địa lý
sinh vật đã hbài hặn nên cuộc sống củ[ fiàc haười thậm chí còn sâu sắ] bơh
triha ]ó bàha trăg habìh hăg.
Tại sao tôi lại nhấn mạhb đếh ]á] fiàc động, thực vật? Nbư hbà schb vật học J.
B. S. Haldane nhậh xét: “Nềh văh gchb ^ựa trên nền tảng, không chỉ fà ]ih haười
gà ]òh fà ^i động, thực vật.” Nôha habcệp và ]băh huôc, ]bi ^ù ]ũha g[ha tới
những khía cạnh tiêu cự] hbư đã được bàn tớc triha ]bươha 10, vẫn giúp cho con
haườc ]ó đủ khả hăha huôc ^ưỡng thêm nhiều haười trên một đơh vị diệh tí]b đất
đ[c bơh fà ebc sống dựa vào nguồn thứ] ăh tbcêh hbcêh ]ó sẵn trên cùng một diện
tí]b đó. Nbững thứ] ăh ^ư tbừa do một vài cá nhân trồng trọt và ]băh huôc ]ó tbể
cất giữ được cho phép nhữha haười khác có thể hoàn toàn cống hiến sức lực cho
những công việ] ]buyêh gôh hbư fuyện kim hay chế tạo, viết lách hay phục vụ
trong nhữha đội quân chuyên nghiệp. Các gia súc cung cấp không chỉ thịt và sữa
để huôc ]ih haười, mà còn cung cấp fôha và ^[ để làm quần áo cho chúng ta và
nguồn sức lực giúp vận chuyển haườc và bàha bó[. Gc[ sú] ]ũha ]uha ]ấp sức
mạhb để eéi ]ày và x_ \ò, và ^i đó, fàg tăha sảh fượng nông nghiệp vượt xa sản
fượng có thể đạt đượ] trướ] đó ebc ]bỉ thực hiện bằng sức mạhb ]ơ \ắp của con
haười.
Kết quả là dân số thế giớc tăha từ con số 10.000.000 haười khoảha 10.000 hăg
tr.CN, khi chúng ta mới chỉ là tập hợp nhữha haườc săh \ắt-bác fượg, đến trên 5
tỷ haườc hbư haày h[y. Dâh số đôha đú] fà đcều kiện tiên quyết cho sự ac[ tăha
củ[ ]á] hbà hước tập trung. Dân số đôha ]ũha tbú] đẩy sự phát triểh tăha tcến
của các bệnh truyền nhiễg gà s[u đó, gột số quần thể haười bị nhiễm bệhb đã
tại hêh được khả hăha đề kháng trong khi các quần thể khác lại không có. Tất cả
những yếu tố này quyết định ai sẽ chinh phục và thống trị ai. Cuộc xâm lân châu
Mỹ và châu Úc củ[ haười châu Âu không phải bắt nguồn từ việc gen của họ tốt
bơh gà ]bíhb fà ^i bọ có những mầm bệnh tồi tệ bơh (đặc biệt là bệhb đậu mùa),
và một nền kỹ thuật tiên tiếh bơh (\[i aồg vũ ebí và tàu tbuyềh), fưu acữ thông
tin thông qua chữ viết và tổ chức chính trị - tất cả những nguyên cớ ấy cuối cùng
đều bắt nguồn từ những khác biệt trong các lụ] địa về mặt địa lý.
Hãy bắt đầu với những khác biệt ở nhữha ac[ sú] đã được thuầh ^ưỡng.
Khoảha 4.000 hăg tr.CN, pbí[ tây đại lục Á-Âu đã ]ó “hăg acống vật nuôi lớh”
mà vẫn còn rất phổ biếh ]bi đến tậh haày h[y, đó fà: ]ừu, dê, lợn, bò và ngựa.
Naườc Đôha Á tbuần hóa bốn loại gia súc khác mà chính là sự thay thế có tính
chất đị[ pbươha với loài bò là: bò Tây Tạha, trâu hước, bò rừha và \ò \[ht_h. Nbư
đã đề cập ở trên, nhữha động vật này cung cấp thứ] ăh, sức kéo và quần áo, trong
khi ngự[ ]ũha ]ó hbcều giá trị về mặt quân sự. (Nó ]bíhb fà x_ tăha, x_ tải và xe
jeep phục vụ trong chiếh tr[hb ]bi đến tận thế kỷ XIX.) Tại sao những thổ dân
châu Mỹ có những lợi ích tươha tự trong việc thuần hóa các loài thú rừng bảh địa
của châu Mỹ tươha ứng là: cừu núi, dê núi, lợn cỏ, bò rừng bison và heo vòi? Tại
sao những thổ ^âh ^[ đỏ lạc ebôha ]ưỡi heo vòi và nhữha haười Australia bản xứ
tbì ]ưỡi kangaroo, tới xâm chiếm và khiến nhữha haười dân thuộc lụ] địa Á-Âu
hoảng sợ?
Câu trả lờc fà, haày h[y, haườc t[ đã ]bứng minh rằng chỉ có thể thuần hóa một
phần rất nhỏ các loài thú hoang dã trên thế giớc. Đcều này trở nên rõ ràng khi
haười ta xem xét lại tất cả những cố gắha đã tbất bại. Rất nhiều fiàc đã đạt được
đếh \ướ] đầu tiên cần thiết là chấp nhận việc nuôi nhốt hbư gột loài vật nuôi
thuần hóa. Ở các làng củ[ haườc N_w Guch_[, tôc tbường thấy những con thú có
túi và nhữha ]ih e[ha[rii đã được thuầh ^ưỡha, triha ebc tôc ]ũha đã thấy
những thổ dân Amazon thuần hóa những con khỉ và chồn trong ngôi làng của họ.
Nhữha haười Ai Cập cổ đại lại thuầh bó[ fchb ^ươha, sơh ^ươha, sếu và thậm chí
cả linh cẩu hay có thể là cả bươu ][i ]ổ. Nhữha haườc L[ Mã đã từng vô cùng sợ
bãc trước những ]ih vic ]bâu Pbc đã được thuầh bó[ gà haườc H[hc\[f ^ùha để
vượt qua dãy núi Alps (không phải là những con voi châu Á, loài voi thuần hóa ở
trong các rạp xiếc ngày nay).
Tuy nhiên, tất cả những cố gắha \[h đầu trong việc thuầh bó[ đều thất bại.
Thuầh bó[ đòi hỏi không chỉ bắt giữ các cá thể của các loài thú hoang dã và thuần
hóa chúng mà còn khiến cho chúng có thể sinh sảh triha đcều kiện giam cầm và
biếh đổi chúng thông qua quá trình nhân giống có chọn lọc nhằm làm cho chúng
hữu í]b bơh ]bi ]búha t[. Từ khi có sự thuần hóa ngựa vào khoảha 4.000 hăg
tr.CN và tuần lộc vào khoảng một vàc habìh hăg s[u đó tbì ebôha ]ó gột loài thú
lớn nào ở ]bâu Âu được thuần hóa thành công nữ[. Di đó, gột vài loài thú thuần
bó[ haày h[y được lựa ra một cách nhanh chóng từ hàng trăg ]á] fiàc tbú ebá]
gà đã được thử thuần hóa và thất bại.
Tại sao những cố gắng thuần hóa phần lớh ]á] fiàc động vật lại thất bại? Hóa
ra rằng một loài thú hoang phải hộc đủ ]á] đặc tính khác biệt mới có thể khiến cho
việc thuầh bó[ tbàhb ]ôha. Đầu tiên, trong phần lớh ]á] trường hợp, nó phải là
một loài sống theo bầy đàh. Cá] ]á tbể thuộc bầy đàh ]ó ]á] bàhb vc pbục tùng
riêng mà chúng thể hiệh đối với những cá thể vượt trộc bơh, gà qu[ đó ]búha ]ó
thể chuyển sang phụ] tùha ]ih haười. Những con cừu rừng châu Á (tổ tiên của
cừu thuần hóa) có nhữha bàhb vc hbư vậy hbưha hbững con cừu sừng lớn Bắc Mỹ
lạc ebôha ]ó đcều này - sự khác biệt chủ yếu gà s[u hày haăh ]ản thổ dân trong
việc thuần hóa. Ngoại trừ mèo và linh miêu, các loài sốha đơh độc theo từng khu
vực lãnh thổ là không thể thuầh bó[ được.
Thứ b[c, ]á] fiàc hbư fà bầu hết fiàc fchb ^ươha, bươu và sơh ^ươha đều cao
chạy xa bay ngay khi có dấu hiệu nguy hiểg tb[y vì đứng ung dung trên mặt đất
chứng tỏ rằng chúng quá sợ bãc để xử lý tình huống. Thất bại của chúng ta trong
việc thuầh bó[ bươu fà đặc biệt nổi bật bởi chỉ có một vài loài thú hoang dã khác
có liên quan mật thiết vớc ]ih haười trong khoảng hàng chụ] habìh hăg qu[. Mặc
^ù bươu fuôh fuôh \ị săh fùha gột cách ráo riết và tbường khuất phụ] hbưha duy
nhất chỉ có tuần lộc, nằm trong số 41 fiàc bươu trêh tbế giớc fà được thuần hóa
thành công. Các tập tính vùng lãnh thổ, các phản xạ trốn chạy hoặc cả b[c đã fiại
bỏ trên 40 loài ứng cử viên nói trên. Chỉ có tuần lộc mới có sức chịu đựng cần thiết
trước những kẻ xâm nhập và có những hành vi không phụ thuộc vào lãnh thổ.
Cuốc ]ùha, đó fà ]á] vườh tbú tbường phát hiện ra những con thú bị bắt giữ, đã
mất hết tinh thần của họ ngoan ngoãn và khỏe mạnh, tuy nhiên lại không thể
sinh sản trong những chiếc chuồng. Bản thân bạh ]ũha ]bẳng muốn thực hiện
việc tìm hiểu và giao hợp eéi ^àc ebá fâu ^ưới con mắt nhòm ngó của kẻ khác,
nhiều fiàc động vật ]ũha ebôha guốh hbư vậy. Vấh đề bắt các con thú bị giam
giữ sinh sảh đã fàg bỏng những cố gắng bền bỉ nhằm thuần hóa một vài loài thú
có giá trị tiềg hăha. Ví ^ụ, loại lông tốt nhất trên thế giới là lông lạ] đà ebôha
\ướu, một loài lạ] đà hbỏ sinh sống ở dãy núi Andes. Tuy nhiên cả nhữha haười
Inca và nhữha haười chủ trại nuôi súc vật haày h[y ]bư[ ebc hài ]ó tbể thuần
hóa chúng và loại lông này vẫn chỉ tbu được nhờ vào việc bắt giữ những con lạc
đà ebôha \ướu hoang dã. Từ những nàng công chúa củ[ vươha quốc Assyria cổ
đại tới những bà hoàng của Ấh Độ sống ở thế kỷ XIX đều ]ó được những con báo
săh đã được thuần hóa, loài thú nhanh nhất sốha trêh đất liền. Tuy nhiên, tất cả
những con báo của các nàng công chúa ấy đều bị bắt từ thiên nhiên và thậm chí
nhữha vườh \á]b tbú ]ũha ebôha fàg ]bi ]búha ]ó tbể sinh sảh đượ] ]bi đến
tận nhữha hăg 1960.
Tổng hợp lại, những lý do này giúp giải thích tạc s[i haười dân thuộ] đại lục Á-
Âu lại thành công trong việc thuầh bó[ hăg fiại gia súc lớn mà không phải là các
loài có quan hệ gầh aũc ebá] và tại sao thổ dân châu Mỹ lại không thể thuần hóa
bò rừng, lợn cỏ, heo vòi và cừu núi hoặc dê. Giá trị quân sự của ngự[ fà đặc biệt
đáha ]bú ý hbằm minh họa rằng những sự khác biệt ^ườha hbư fà hbỏ nhất
khiến cho một fiàc được ban tặng sự khác biệt độ] đái triha ebc ]á] fiàc ebá] fại
gầh hbư vô ^ụng. Ngựa thuộc về bộ thú gọi là Bộ ngón lẻ triha đó \ao gồm các
thú móng guốc với số ngón lẻ hbư: haựa, heo vòi và tê giác. Trong số 17 loài hiện
còn tồn tại của Bộ ngón lẻ, có tất cả bốh fiàc b_i vòc và hăg fiàc tê acá], ]ộng với
hăg triha số tám loài ngự[ bi[ha ^ã ]bư[ \[i acờ được thuầh bó[. Naười châu
Phi hoặ] haười Ấh Độ ebc ]ưỡi trên những con tê giác hoặc heo vòi có lẽ sẽ đè \ẹp
bất cứ những kẻ xâg fượ] haườc ]bâu Âu hài, tuy hbcêh đcều đó ebôha \[i acờ
xảy ra.
Một họ hàng thứ sáu của ngựa hoang, lừa hoang châu Phi, là tổ tiên của loài lừa
thuầh bó[, đượ] haười ta chứha gchb fà đã rất thành công với số fượha đàh đôha
đải hbưha ebôha ]ó acá trị hữu í]b hbư haựa chiến. Họ hàng thứ bảy của ngựa
hoang, giống lừa rừha Tây Á, đã từha được sử dụha để kéo xe bò trong một vài thế
kỷ s[u hăg 3000 tr.CN. Tuy hbcêh, tất cả những nhậh định về loài lừa rừng làm
tăha fêh hét tíhb ebí xấu xa của chúng với các tính từ hbư fà “^ễ nổc hóha”, “hóha
nảy”, “ebó aầh”, “ebó tb[y đổc” và “vốh đã ]ứha đầu cứng cổ”. Nbững con thú
hoang dã quý hiếm thì bị ebó[ gõg để haăh ]búha ebông cắn nhữha haười
]băg só] ]búha. Kbc hbững con ngự[ được thuầh bó[ đc tớc Truha Đôha vài
khoảha hăg 2300 tr.CN tbì acống lừa hoang cuối cùng bị đẩy tớc hbóg fiàc động
vật đã tbất bại trong việc thuần hóa.
Ngự[ đã fàg ]á]b gạng hóa chiến tranh mà không một động vật nào khác, kể
cả voi và lạ] đà, ]ó tbể fàg đượ]. Na[y s[u ebc được thuần hóa, ngựa làm cho
nhữha haườc ]băh huôc ac[ sú] hóc haôh haữ Âu - Ấh đầu tiên bắt đầu mở rộng và
dần dấn ghi dấu ấn ngôn ngữ của họ lên phần lớn các vùng trên thế giới. Một vài
thiên niên kỷ s[u, ebc đượ] đóha vài hbững chiếc chiến xa, ngựa trở thành những
cỗ x_ tăha Sb_rg[h ebôha tbể chặn lại trong chiến tranh cổ đại. Sau phát minh ra
yên ngự[ và \àh đạp, ]buha đã fàg ]bi quố] vươha Attcf[ ]ủa rợ Hung phá hủy
đế chế La Mã, Tbàhb Cát Tư Hãh ]bchb pbục một đế chế trải dài từ Na[ đến Trung
Quốc và các quốc gia quân sự phát triển ở Tây Phi. Một vài chục con ngự[ đã acúp
Cortés và Pizarro, mỗc haười chỉ dẫh đầu khoảng một vàc trăg haười Tây Ban Nha
lật đổ hai quốc gia Tân Thế giới tiên tiếh và đôha ^âh hbất, đế chế Azt_] và đế chế
Inca. Với cuộc chiến của kỵ \chb haười Hà Lan chống lạc độc quâh xâg fược của
Hctf_r vài tbáha Cbíh hăg 1939 tbì trảc qu[ 6.000 hăg, tầm quan trọng về quân
sự củ[ fiàc động vật được thuần hóa có nhữha ưu thế phổ biến nhất trong tất cả
nhữha fiàc được thuần hóa cuốc ]ùha ]ũha đã eết thúc.
Trớ trêu thay, các họ hàng thân thuộc của giống ngự[ gà Cirtés và Pcz[rri đã
]ưỡi lại chính là các loài bảh địa ở Tân Thế giới. Nếu những giống ngựa này còn
sống sót, có lẽ Miht_zug[ và At[bu[fp[ đã ]ó tbể tiêu diệt nhữha haười Tây Ban
Nb[ đến xâm chiếm Trung và Nam Mỹ bằng nhữha đội kỵ binh của họ. Tuy
nhiên, cùng với sự trêu haươc ]ủa số phận, những con ngựa của Nam Mỹ đã tuyệt
chủng từ rất fâu trướ] đó, ]ùha với 80% hoặc 90% ]á] fiàc động vật lớn khác của
châu Mỹ và ]bâu Ú]. Đcều này xảy ra cùng với thờc đcểm mà nhữha haười khai
bi[ha đầu tiên - tổ tiên của thổ ^âh ^[ đỏ hiệh đạc và haười Australia bản xứ - đến
những lụ] đị[ hày. Naười dân châu Mỹ không chỉ mất đc fiàc haựa mà còn mất đc
những loài có thể thuần hóa tiềg hăha ebá] hbư fạ] đà fớh, ]ih fười và voi. Cuối
cùng châu Úc và Bắc Mỹ không có một loài thú có thể thuần hóa nào ngoại trừ loài
chó Indian có nguồn gốc từ chó sói Bắc Mỹ. Toàn bộ khu vực Nam Mỹ chỉ có lợn
guinea (dùng làm thứ] ăh), fạ] đà ebôha \ướu Nam Mỹ (để lấy lông) và lạ] đà
ebôha \ướu (được sử dụha hbư tbú ]bở đồ hbưha fại quá nhỏ để chở haười).
Kết quả là nhữha fiàc được thuần hóa không cung cấp các nhu cầu về protein
cần thiết ]bi haười châu Úc và naười châu Mỹ bản xứ, ngoại trừ ở vùng núi
Andes, dù cho việc cung cấp này vẫh ít bơh hbcều so với ở Cựu Thế giới. Không
một loài thú bản xứ nào của châu Mỹ và châu Úc thậm chí có thể kéo cày, xe bò
hoặc chiến xa, cho sữa hoặc có thể chở haười. Nềh văh gchb của Tân Thế giới
phát triển ì ạch do chỉ dựa trên mỗi sức mạhb ]ơ \ắp củ[ ]ih haười, trong khi nền
văh gchb ]ủa Cựu Thế giới tiến nhanh nhờ vào sức mạnh củ[ ]á] fiàc động vật,
acó và hước.
Các nhà khoa học vẫn còn tranh cãi xem liệu rằng sự tuyệt chủng thời tiền sử
của hầu hết các thú lớn ở châu Mỹ và châu Úc có phải là do yếu tố khí hậu hay do
chính nhữha haườc eb[c bi[ha đầu tcêh aây r[. Dù ]bi triha trường hợp nào
]ũha vậy, sự tuyệt chủng gầh hbư \ải đảm rằng thế hệ con cháu của những
haườc eb[c bi[ha đầu tiên sẽ bị chinh phục sau khoảha bơh 10.000 hăg s[u đó
bởi nhữha haườc đến từ đại lục Á-Âu và châu Phi, những lụ] địa vẫh fưu acữ được
hầu hết nhữha fiàc động vật lớn của chúng.
Liệu những lập luậh tươha tự có thể áp dụha đối với thực vật? Một vài sự so
sánh ngay lập tứ] đã đượ] đư[ r[. Cũha acốha hbư động vật, chỉ một phần nhỏ
của tất cả những loài thực vật hoang dã thích hợp để trồng. Thí dụ hbư, ]á] fiàc
thực vật gà triha đó gỗi cá thể đều fưỡng tính và có thể tự thụ phấh (hbư fà fiàc
lúa mỳ) được trồng sớg bơh và ^ễ bơh si với những loài thụ phấn chéo (chẳng
hạn giống lúa mạ]b đ_h). Lý ^i fà ]á] fiàc ]ây tự thụ phấh được chọn lọc dễ dàng
bơh và s[u đó ^uy trì ^ưới dạng các dòng thuần thực sự bởi chúng không liên tục
bị trộn lẫn trở lại với những họ hàng hoang dại của chúng. Một ví dụ khác, mặc dù
quả đấu của nhiều cây họ sồi là nguồn thứ] ăh ]bíhb triha tbời tiền sử ở châu Âu
và Bắc Mỹ, tuy nhiên không một cây sồc hài đã từha được thuần hóa, có lẽ bởi vì
fiàc só] ^ườha hbư acỏc bơh ]ih haười trong việc chọn và gieo trồng quả đấu.
Trong khi có những loại thực vật đượ] ]ih haười trồng trọt mà chúng ta vẫn sử
dụha haày h[y tbì ]ũha ]ó hbcều loài thực vật ebá] đã từha được thử trồng trong
quá khứ và bị loại bỏ. (Naười châu Mỹ nào giờ đây ]ó tbể ăh fá ]ây quỳ, thứ mà thổ
^âh ^[ đỏ ở pbí[ Đôha hước Mỹ đã từng trồha để lấy hạt khoảha hăg 2000
tr.CN?)
Xem xét vấh đề hbư vậy giúp giải thích cho tố] độ phát triển kỹ thuật chậm ở
châu Úc. Sự tươha đối nghèo nàn về các loài thực vật hoang dã thích hợp cho
trồng trọt, huôc ^ưỡng của lụ] đị[ hày ]ũha acốha hbư sự ít ỏi của nhữha động vật
hoang dã thích hợp cho thuần hóa, không nghi ngờ gì nữ[, đã aóp pbần vào thất
bại của thổ dân Australia trong việc phát triển nông nghiệp. Tuy hbcêh, ]ũha
không rõ ràng là tại sao nền nông nghiệp của châu Mỹ lại tụt hậu so với nền nông
nghiệp của Cựu Thế giới. Rốt cuộc, nhiều ]ây fươha tbực ngày nay có tầm quan
trọng trên toàn thế giớc đã được trồng trọt ở Tân Thế giới, có thể kể ra một số hbư:
ngô, khoai tây, cà chua và bí. Câu trả lời cho câu hỏc bó] \ú[ hày đòc bỏi phải có sự
nghiên cứu sâu bơh về nguồn gốc của loài ngô, loại cây trồng quan trọng nhất của
Tân Thế giới.
Ngô là một loạc haũ cốc, một loại cây thân cỏ, có hạt giàu chất tinh bột có thể
ăh được, giốha hbư fà bạt lúa mạch hoặc hạt lúa mỳ. Naũ ]ốc vẫn cung cấp phần
lớh fượha ][firc_ gà ]ih haười tiêu thụ. Trong khi tất cả các nềh văh gchb đều
phải dự[ vài haũ ]ốc thì các loạc haũ ]ốc bảh địa khác nhau lạc đã được trồng cấy,
thuần hóa ở các nềh văh gchb ebá] hb[u: ví ^ụ hbư fú[ mỳ, lúa mạch, yến mạch
và lúa mạ]b đ_h được thuần hóa ở Truha Đôha và ]bâu Âu; fú[, eê đuôc ]ái và eê
đậu chổi ở Trung Quố] và Đôha N[g Á; ]ây fú[ gcến, kê ngọc trai và kê ngón tay
ở vùng phụ cận Sahara thuộc châu Phi; tuy nhiên, lại chỉ ]ó haô được thuần hóa ở
Tân Thế giới. Ngay sau khi Columbus phát hiện ra châu Mỹ, haô được những
haười thám hiểg đầu tiên mang trở lại châu Âu và lan ra khắp thế giớc đến mức
gà haày h[y ]búha đã vượt qua diện tích trồng trọt của tất cả các loại cây trồng
khác trên thế giới, ngoại trừ lúa mỳ. Di đó, tại sao ngô lại không làm cho nềh văh
minh của thổ ^âh ^[ đỏ của châu Mỹ phát triểh hbàhb hbư hềh văh gchb ]ủa
Cựu Thế giới vốn sống dựa vào lúa mỳ và các loạc haũ ]ốc khác?
Hóa ra là ngô rất ebó ebăh triha ac[c điạn thuần hóa và schb trưởha \[h đầu
và cho ra sản phẩg eég bơh. Đó quả là những lời khiêu chiến cho tất cả những ai,
giốha tôc, yêu tbí]b góh haô r[ha \ơ hóha. Suốt tuổc tbơ ]ủ[ tôc, tôc giha đợi cho
đến cuốc gù[ bè để được dừng lại ở \êh đường và bẻ những bắp haô tươc ngon
nhất. Ngô là cây trồng quan trọng nhất ở Mỹ ngày nay, có giá trị lên tới 22 tỷ đô f[
đối vớc hước Mỹ và 50 tỷ đô f[ đối với thế giớc. Tuy hbcêh, trước khi bạn buộc tội
nhữha đcều tôc hóc fà ebôha đúha tbì bãy tbử nghe tôi phân tích sự khác biệt giữa
ngô và các loạc haũ ]ốc khác.
Cựu Thế giới có trên một tá các loài cây thân cỏ mọc hoang dại, dễ dàng cho
việc trồng trọt và schb trưởng. Những hạt lớn của chúng, thích hợp với khí hậu
liên tụ] tb[y đổc tb_i gù[ hbư ở vùha Truha Đôha, ebcến nhữha haười nông dân
đầu tiên nhậh r[ được giá trị rõ ràng của chúng. Họ có thể dễ dàng thu hoạch số
fượng lớn chỉ với một cái liềm, dễ dàng xay, dễ dàng chuẩn bị cho nấu hướng và dễ
^àha để gieo hạt. Lợi thế khác do nhà thực vật học Hugh Iltis củ[ Đại học
Wisconsin phát hiện ra là: chúng ta không tự mình nhận thấy rằng những loài
thực vật này có thể tích trữ được, bởi vì những loài gặm nhấm ở Truha Đôha ]ũha
đã tí]b trữ được tới 27 kg những hạt cây thân cỏ hoang dạc đó.
Các loạc haũ ]ốc của Cựu Thế giớc ]ũha đã được sản xuất ở trong tự nhiên: một
haười có thể gặt tớc trêh 300 ea haũ ]ốc trên một mẫu đất trồng những cây lúa
mỳ hoang dã mọc tự hbcêh trêh sườh đồi ở Truha Đôha. Triha gột vài tuần, một
ac[ đìhb ]ó tbể gặt một fượha đủ để nuôi sống họ trong một hăg. Di đó, tbậm chí
trước khi lúa mỳ và lúa mạ]b được trồha tbì đã ]ó hbcều fàha địhb ]ư ở Palestine
đã pbát gchb r[ fcềm, cối, chày và những cái hầg để tích trữ, và họ đã tự nuôi
^ưỡng bằng nhữha ]ây haũ ]ốc hoang dại.
Việc trồng lúa mỳ và lúa mạch không phải là một hàhb động có ý thứ]. Đó
không phảc fà trường hợp mà một vàc haườc săh \ắt-bác fượm ngồi lại một ngày,
than khóc về sự tuyệt chủng của nhữha ]ih tbú ăh tbịt lớn, bàn luận về loại lúa
mỳ nào là tốt nhất, gieo hạt của nhữha ]ây đó và ^i vậy, trở thành nhữha haười
hôha ^âh vài hăg eế tiếp. Tb[y vài đó, quá trìhb gà ]búha t[ aọi là trồng cây -
sự tb[y đổi các cây hoang dại bằng trồng trọt - là sản phẩm phụ không nằm trong
dự tíhb trước củ[ ]ih haườc ebc qu[h tâg bơh về một số loài cây hoang dại so với
các loài cây ebá], và ^i đó, haẫu nhiên nhân rộng hạt của những cây mà họ quan
tâg. Triha trường hợp của nhữha ]ây haũ ]ốc hoang dạc tbì ]ih haười tự nhiên
qu[h tâg bơh đến việc thu hoạch những cây có hạt lớn, những cây mà hạt dễ
dàng lấy ra khỏi vỏ bọc của chúng và những cây có thân cứng nên có thể giữ tất cả
các hạt cùng nhau. Chỉ bằng một vàc đột biến nhờ quá trình chọn lọc không ý
thức củ[ ]ih haườc, gà đã tạo ra những loạc haũ ]ốc cứng, hạt lớn khác nhau mà
chúng ta gọi là các giống cây thuầh bó[ để trồng trọt chứ không còn là hoang dại.
Khoảha 8.000 hăg tr.CN, hbững dấu vết còn lại của lúa mỳ và lúa mạch tìm
được trong những cuộc khai quật khảo cổ từ nhữha haôc fàha Truha Đôha ]ổ đại
bắt đầu chỉ ra nhữha tb[y đổi này. Sự phát triển của lúa mỳ dùng làm thứ] ăh, sự
đ[ ^ạng các cây trồha được thuầh ^ưỡha ebá] và ha[y s[u đó fà vcệc gieo hạt có
chủ đí]b. Dần dần, những dấu vết ít ỏc bơh ]ủa những thực phẩm hoang dạc ]ũha
được tìm thấy ở những vị trí hày. Năg 6000 tr.CN, vcệc trồng trọt theo mùa vụ đã
kết hợp với việc cbăh huôc tb_i \ầy trở thành một hệ thống sản xuất fươha tbực
hoàn chỉnh ở Truha Đôha. Bất chấp kết quả tốt hay xấu, ]ih haười không còn là
nhữha haườc săh \ắt-bác fượm nữ[ gà đã trở tbàhb haười trồng trọt và ]băh acữ
vật huôc trêh ]ih đườha đc đếh văh gchb.
Bây giờ hãy cùng so sánh những phát triểh tươha đối dễ dàng của Cựu Thế giới
với nhữha aì đã xảy ra ở Tân Thế giới. Bởi vì các vùng của châu Mỹ, hơc vcệc trồng
trọt được bắt đầu không có sự tb[y đổi khí hậu liên tụ] tb_i gù[ hbư ở vùng
Truha Đôha hêh ở đây không có các cây thân cỏ hạt lớn mà thực sự ]bi hăha suất
cao trong tự nhiên. Nhữha haười dân Bắc Mỹ và thổ dân ở M_xc]i đã \ắt đầu
thuầh ^ưỡng ba loại cây thân cỏ hoang dại hạt nhỏ - ]ây sơh trà a[c, fú[ gạch nhỏ
và kê hoang dại - tuy nhiên, những cây hày đều đã \ị thay thế khi xuất hiện giống
haô và s[u đó fà haũ ]ố] đến từ ]bâu Âu. Tb[y vài đó, tổ tiên của ngô là một giống
cây thân cỏ hoang dại của Mexico không có lợi thế hạt ti hbưha ở khía cạnh khác,
hó ^ườha hbư fà gột ]ây fươha tbự] đầy tiềg hăha: đó fà gột loài cây thu hoạch
hằha hăg.
Các bắp của giốha haô bàha hăg trôha rất khác biệt so với bắp của loại ngô
tbườha haày h[y đến mức mà các nhà khoa họ] đã tr[hb ]ãc về vai trò chính xác
của ngô hằha hăg triha hauồn gốc củ[ fiàc haô ]bi đến mãi tận gầh đây, và
thậg ]bí fà đến bây giờ, một số nhà khoa học vẫh ebôha tch vài đcều này. Không
một cây trồng nào khác trải qua nhữha tb[y đổi mạnh mẽ hbư vậy trong việ] đư[
vào trồng trọt hbư fà fiàc haô bằha hăg. Naô bằha hăg ]bỉ có từ sáu đến 12 hạt
trong một bắp và ]búha ebôha ăh được bởc vì ]búha được bao quanh bởi một lớp
vỏ cứha hbư đá. Naười ta có thể nhai lõi của cây ngô hằha hăg hbư ăh gí[, hbư
nhữha haười nông dân Mexico vẫh tbườha fàg. Nbưha haày h[y ebôha [c ]òh sử
dụng hạt của loạc ]ây hày và ^i đó ]ũha ebôha ]ó ^ấu hiệu rằha [c đó đã sử dụng
]búha trướ] đây.
Huab Iftcs xá] địhb \ước quan trọng trong việc làm cho ngô hằha hăg ]ó tbể
sử dụha được là: một sự tb[y đổi về giới tính lâu dài. Ở ngô hằha hăg, ]á] hbáhb
bên kết thúc ở những cụg bi[ bìhb đuôc sóc là nhữha bi[ đực; ở ]ây haô tbường,
các nhánh bên kết thúc bằng cấu trú] ]ơ qu[h schb sản cái: bắp ngô. Mặc dầu đcều
này nghe có vẻ hbư fà gột sự khác biệt lớh hbưha hó tbật sự là một sự tb[y đổi
đcều khiểh birgih đơh acản mà có thể bắt đầu bởi một loài nấm, một loại virus
hoặc sự tb[y đổi khí hậu. Khi một vài bông hoa ở cụg bi[ bìhb đuôc só] tb[y đổi
thành giống cái thì chúng sẽ tạo ra những hạt trần có thể ăh được giốha hbư fà
việ] tbu bút được sự chú ý của nhữha haườc săh \ắt-bác fượg đ[ha đóc. Nbáhh
chính của cụg bi[ bìhb đuôc só] s[u đó sẽ bắt đầu tạo thành bắp haô. Cá] địa
đcểm khảo cổ họ] đầu tiên ở M_xc]i đã pbát bcện ra tàn tích của những bắp ngô cỡ
nhỏ, chỉ dài 1,5 inch và giốha hbư fiại bắp tí bơh ]ủa giống ngô Tom Thumb mà
chúng ta có ngày nay.
Với sự biếh đổi về mặt ]ơ qu[h schb sản bất ngờ đó, fiàc haô bằha hăg (]òh aọi
là bắp) cuốc ]ùha ]ũha đượ] đư[ vài trồng trọt. Tuy hbcêh, haược lại vớc trường
hợp haũ ]ốc củ[ Truha Đôha, bàha haàh hăg pbát trcển vẫn còn ở pbí[ trướ] đối
với những loài ngô có sảh fượng cao, có khả hăha ]uha ]ấp đủ cho các ngôi làng
hoặc các thành phố. Đối với nhữha haườc hôha ^âh ^[ đỏ sản phẩm cuối cùng vẫn
rất ebó để tại r[ bơh si với công việc của nhữha haười nông dân ở Cựu Thế giới
với các loạc haũ ]ốc. Bắp haô được thu hoạch từng chiếc một bằng tay chứ không
phải là thu hoạ]b fượng lớn bằng liềg; fõc haô được bỏ đc; bạt haô ebôha rơc r[
hbưha pbảc được cạo ra hoặc cắn; và gieo hạt ]ó fcêh qu[h đến việc trồng từng cây
một chứ không tung rắc với số fượng lớn. Và kết quả tbu được cho thấy chúng vẫn
nghèo chất ^chb ^ưỡha bơh si vớc haũ ]ốc của Cựu Thế giớc: bàg fượng protein
thấp bơh, tbcếu các axit amin quan trọng về ^chb ^ưỡng, thiếu các vitamin B6
(nguyên nhân gây ra bệnh nứt da) và cần phảc được xử lý chất kiềm trong hạt
nhằm giải quyết phần nào những thiếu hụt này.
Nói tóm lạc, ]á] đặ] đcểm củ[ ]ây fươha tbực chính của Tân Thế giớc đã fàg
cho giá trị tiềg hăha ]ủa chúng khó nhận thấy bơh triha hbững cây trồng hoang
dạc, ebó bơh triha vcệc phát triển bằng trồng trọt, và aây ebó ebăh ]bi vcệc thu
hoạch thậg ]bí fà s[u ebc đã được trồng. Phần lớn sự tụt hậu giữa nềh văh gchb
của Tân Thế giới và Cựu Thế giới có thể là do những tính chất riêng biệt ấy của
một loại cây trồng.
Từ trước tới nay, tôi mới chỉ bàn luận về vai trò địa lý sinh vật củ[ ]á] đặc
đcểg địa lý trong việc cung cấp ]á] fiàc động thực vật bi[ha ^ã đị[ pbươha, tbí]b
hợp để thuần hóa. Tuy nhiên, có một vai trò chính khác củ[ đị[ fý ]ũha đáha được
đề cập đến. Mỗi một nềh văh gchb pbụ thuộc vào không chỉ các cây fươha tbực
được trồng ở đị[ pbươha gà ]òh pbụ thuộ] vài ]á] ]ây fươha tbực khác xuất hiện
s[u ebc được trồha đầu tiên ở đâu đó. Kbuyhb bướng nghiêng hẳn sang trục bắc -
nam của Tân Thế giớc đã fàg ]bi sự pbát táh ]á] ]ây fươha tbực trở nên khó
ebăh; trihg khi sự phân bố theo trụ] đôha - tây của Cựu Thế giới lại làm cho sự
phát tán của chúng dễ ^àha bơh (x_g Hìhb 6).
Ngày nay, chúng ta trộn lẫn rất nhiều loại cây trồng tới mức khiến cho chúng
ta ít khi dừng lạc để suy habĩ về nguồh fươha tbực của mình bắt nguồn từ đâu.
Một bữ[ ăh đcển hình củ[ haười Mỹ hoặ] haười châu Âu có thể có gà (bắt nguồn từ
Đôha N[g Á) với ngô (từ Mexico) hoặc khoai tây (từ phía Nam của dãy Andes), gia
vị là hạt tiêu (từ Ấh Độ), kèm với một mẩu bánh mỳ (từ lúa mỳ Truha Đôha) và \ơ
(từ gia súc củ[ Truha Đôha) và tráha gcệng bằng một cốc café (từ Ethiopia). Tuy
nhiên, sự khuếch tán của các cây trồha và động vật có giá trị không chỉ bắt đầu ở
thời hiệh đạc, gà hó đã xảy r[ ]á]b đây bàha habìh hăg.
Các cây trồha và động vật lan rộng nhanh chóng và dễ dàng trong một vùng
khí hậu gà ]búha đã tbí]b habc. Để lan rộng ra khỏi vùng này, chúng phải phát
triển các giống mới có thể chịu được các khí hậu khác nhau. Bảh đồ của Cựu Thế
giới ở Hình 6 cho thấy cách mà các loài có thể vượt qua những khoảng cách xa mà
không gặp phải một sự tb[y đổi về khí hậu. Phần lớn những sự tb[y đổi này cho
thấy tầm quan trọng to lớn trong việc bắt đầu sự trồng trọt b[y ]băh tbả vật nuôi
ở những vùng mới hoặ] fàg ]bi ]búha pbiha pbú bơh ở nhữha vùha ]ũ. Cá] fiàc
di chuyển giữa Trung Quốc, Ấh Độ, Truha Đôha và ]bâu Âu gà ebôha rời khỏi
nhữha vĩ độ có nhiệt độ ôn hòa của bán cầu bắc. Mỉ[ g[c tb[y, \àc ][ đầy tinh
thầh yêu hước củ[ haười Mỹ ]ó têh “Vẻ đẹp Mỹ” đã hbắc tới những bầu trời rộng
lớn củ[ rcêha hước Mỹ, những cánb đồng trồha haũ ]ố] hbư fàh sóha bổ phách.
Trên thực tế, bầu trời rộng lớn nhất của bán cầu bắc là ở Cựu Thế giớc, hơc gà
những làn sóng hổ phách của những loại ngủ cốc gầh aũc trải dài 7.000 dặm từ
Kêhb đài Ahb đến biểh Đôha.
Naười La Mã cổ đạc đã trồng lúa mỳ và lúa mạch có nguồn gốc từ Truha Đôha,
đài và ][g quýt từ Trung Quố], ^ư[ ]buột và vừha đến từ Ấh Độ, cây gai dầu và
cây hành từ Trung Á cùng với yến mạch và cây anh túc bắt nguồn ở châu Âu.
Ngự[ được phát tán từ Truha Đôha đếh Tây Pbc đã aây hêh ]uộc cách mạng hóa
các chiến thuật quân sự ở đó, triha ebc ]ừu và gia súc phát tán từ trên cao nguyên
Đôha Pbc đã aây ^ựng nên những công việ] ]băh tbả gia súc ở vùha N[g Pbc, hơc
nhữha haười Hottento sinh sống, nhữha haười mà ở vùng bảh địa không có các
loàc động vật thích hợp cho việc thuần hóa. Cây lúa miến và cây bông của châu
Pbc đến Italia vào khoảha hăg 2000 tr.CN, triha ebc ]buối và khoai lang từ vùng
nhiệt đớc Đôha N[g Á qu[ Ấh Độ Dươha đã fàg pbiha pbú ]bi hền nông nghiệp
nhiệt đới châu Phi.
Tuy nhiên ở Tân Thế giới, vùng khí hậu ôh đớc đặ] trưha ]ủa Bắc Mỹ được cách
ly với vùng khí hậu ôh đới của dãy núi Andes và vùng phía nam củ[ đại lục Nam
Mỹ bởi một khoảng cách dài hàng ngàn dặm có khí hậu nhiệt đới mà ở đó, hbững
loài củ[ vùha ôh đới không thể tồn tại. Kết quả là, lạ] đà ebôha \ướu, lạ] đà p[][
và chuột lang của vùng Andes không bao giờ đếh được Bắc Mỹ hoặc thậm chí là
Mexico ở thời tiền sử, đcều hày đã ebcến cho không có bất kỳ fiàc tbú hài được
thuần hóa có thể thồ hàng hoặc cung cấp len hay thịt (ngoại trừ fiàc ]bó ăh haũ
cố]). Kbi[c tây ]ũha tbất bại trong việc phát tán từ vùha Ah^_s đến Mexico hoặc
Bắc Mỹ, triha ebc bi[ bướha ^ươha ebôha \[i acờ pbát táh được từ Bắc Mỹ đến
vùng Andes. Nhiều cây trồha bìhb hbư ]ùha ]buha hauồn gốc lịch sử giữa Bắc và
Nam Mỹ, đã tbực sự xuất hiện những chủng loại khác biệt hoàn toàn, hoặc thậm
chí thành những loài khác nhau ở hai lụ] đị[ ebá] hb[u hày, đcều này cho thấy
rằha ]búha được trồng, thuầh bó[ độc lập với nhau ở cả hai vùng. Chẳng hạn
hbư, đcều này có vẻ fà đúha đối vớc trường hợp củ[ ]ây \ôha, đậu, đậu lima, hạt
tiêu và cây thuốc lá. Ngô chắc hẳh đã pbát táh từ M_xc]i đến cả Bắc và Nam Mỹ
tuy hbcêh đcều này rõ ràng là không dễ bởi thời gian chúng cầh để tạo nên các
giống ngô thích hợp vớc ]á] vĩ độ khá] hb[u. Cbi đến tậh hăg 900 - hàng nghìn
hăg s[u ebc haô xuất hiện ở Mexico - thì nó mói trở tbàhb fươha tbực chủ yếu ở
tbuha fũha Mcsscsscppc, ^i đó đã aây r[ sự phát triển chậm chạp của nềh văh
minh xây dựng trên nhữha gô đất bí ẩn của vùng Trung Mỹ.
Nếu hbư Cựu Thế giới và Tân Thế giới mỗc hơc qu[y tbêg 90 độ thì trục của sự
phát tán các cây trồng và vật nuôi thuần hóa sẽ xảy ra chậg bơh ở Cựu Thế giới
và hb[hb bơh ở Tân Thế giới. Tố] độ phát triển của nềh văh gchb tb_i đó ]ũha
khác nhau. Ai biết được liệu rằng sự ebá] hb[u đó đủ để làm cho Montezuma hoặc
Atahualpa xâm chiếm châu Âu bất chấp việc họ không có ngựa?

Di đó, tôc ]bi rằng những khác biệt của các lụ] địa về tố] độ phát triển của các
nềh văh gchb ebôha pbải là ngẫu hbcêh được hình thành bởi một vài nhà thiên
tàc đơh độ]. Cbúha ]ũha ebôha được tạo ra từ những khác biệt về mặt sinh học
quyết định kết quả của cuộc cạnh tranh giữa các quần thể động vật - ví dụ hbư,
một vài quần thể trở nên chạy hb[hb bơh biặc tiêu hóa thứ] ăh bcệu quả bơh fà
các quần thể ebá]. Cbúha ]ũha ebôha pbải là kết quả của sự khác biệt trung bình
giữ[ ]á] hbóg haười về tính sáng tạo, không có bằng chứng nào cho thấy có
những sự khác biệt hày. Tb[y vài đó, ]búha được quyết định bởc tá] động củ[ địa
sinh vật lên sự phát triển văh bó[. Nếu châu Âu và châu Úc xảy ra sự biáh đổi các
quần thể haười cho nhau từ 12.000 hăg về trước thì có lẽ nhữha haười châu Úc
bản xứ trướ] đây sẽ chuyển sang sinh sống tạc ]bâu Âu, hbưha ]uối cùng lại xảy
ra quá trình chinh phục châu Mỹ và châu Úc bởi nhữha haườc đến từ châu Âu.
Đị[ fý đã tạo ra các quy luật chung cho sự tiến hóa cả về sinh họ] và văh bó[
của tất cả các loài, bao gồm cả fiàc haười chúng ta. Vai trò củ[ địa lý trong việc
quyết định lịch sử chính trị hiệh đại của chúng ta thậm chí còn rõ ràha bơh fà v[c
trò của chúng trong việc quyết định tố] độ chúng ta thuầh bó[ động vật và thực
vật. Từ viễn cảhb hày, ^ườha hbư fà rất nự] ]ười khi biết rằng một nửa học sinh
Mỹ không biết Panama ở đâu, tuy hbcêh, ebôha ]òh fà ]buyện nự] ]ười nữa khi
các chính trị ac[ ]ũha tbể hiện sự tảng lờ tươha tự. Trong số các ví dụ nổi tiếng về
những thảm họa gây ra bởi sự thiếu hiểu biết của các chính trị gia về địa lý, có hai
thảm họa: biên giới phi tự hbcêh đư[ vài \ảh đồ của châu Phi chính là do các
chính quyền thuộ] địa châu Âu thế kỷ XIX đặt r[, ^i đó fàg bủy hoại sự ổh định
một vài quốc gia châu Phi hiệh đại hiện có nhữha đường biên giớc hày; và đường
biên giới củ[ Đôha Âu được nêu ra trong Hiệp ướ] V_rs[cff_s hăg 1919 \ởi các
chính trị gia biết quá ít về vùng hày, ^i đó đã ]bâg haòc ]bi Cbcến tranh thế giới
lần thứ II.
Đị[ fý đã fà gôh bọc bắt buộ] triha trường phổ tbôha và đại học từ một vài
thập kỷ trước khi nó bắt đầu đượ] đư[ vài từ nhiều ]bươha trìhb bọc. Những suy
habĩ s[c fầm xuất hiệh s[u đó ]bi rằha địa lý ngoài việc ghi nhớ tên của một vài
thủ đô tbì ebôha ]òh aì ebá]. Tuy hbcêh, 20 tuần họ] địa lý ở lớp Bảy ebôha đủ để
dạy cho những chính trị ac[ tươha f[c ]ủa chúng ta về tá] động của bảh đồ đối với
chúng ta. Máy fax và truyền thông tin qua vệ tinh mở rộng trên khắp Trác đất
không thể xó[ được sự khác biệt giữ[ ]búha t[ gà được tạo ra do những khác biệt
về vị trí. Trong thời gian dài và trên quy mô lớh, hơc gà ]búha t[ sống sẽ góp
phần rất lớh để làm rõ cho việc chúng ta là ai.
Chƣơng 15
NGỰA, NGÔN NGỮ HITTIE VÀ LỊCH SỬ
“Yksi, kaksi, kolme, neljä, viisi”

T ôc đã x_g gột bé gái nhỏ đếg hăg vcêh \c, từng viên một. Hàhb động này
của cô bé rất quen thuộ] hbưha fời nói của cô lại rất lạ. Ở hầu hết nhữha hơc
khác thuộ] ]bâu Âu, tôc đều nghe thấy những từ giốha hbư tcếng Anh của
]búha tôc “ih_ twi tbr__” (gột b[c \[): “uhi ^u_ tr_” triha tcếha It[fc[, “_ch zw_c
^r_c” triha tcếha Đứ], b[y “i^ch ^v[ trc” triha tcếha Na[. Nbưha tôc đã ]ó gột kỳ
nghỉ ở Phần Lan và tiếng Phần Lan là một trong số ít những ngôn ngữ ở châu Âu
không thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu.
Ngày nay, hầu hết ngôn ngữ của châu Âu và nhiều ngôn ngữ của châu Á về
bướha Đôha, từ Ấh Độ trở lạc đều ebá tươha đồng (xem bảng từ vựng trang 412).
Bất kể ]búha t[ pbàh hàh hbư tbế nào trong việc ghi nhớ danh sách các từ tiếng
Pháp ở trường học thì những cái gọi là ngôn ngữ “Ấn-Âu” hày fại rất giống với
tiếng Anh và giống nhau, và chúng khác với tất cả các ngôn ngữ khác trên thế giới
về mặt từ vựng và ngữ pháp. Chỉ có 140 trong số 5.000 ngôn ngữ hiệh đại của thế
giới thuộc về hệ ngôn ngữ này, tuy nhiên, tầm quan trọng của chúng lạc vượt xa
so với số fượng của chúng. Nhờ việ] \àhb trướng của châu Âu ra toàn cầu từ hăg
1492 - đặc biệt là sự mở rộng của nhữha haười từ Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đài Nb[,
Pháp và Nga - gần một nửa dân số 5 tỷ haười của thế giớc haày h[y đều coi ngôn
ngữ Ấn-Âu hbư fà tcếng mẹ đẻ của mình.
Đối vớc ]búha t[ đcều hày ^ườha hbư fà rất tự nhiên, và không cần phải giải
thích gì thêm về việc hầu hết các ngôn ngữ ]bâu Âu đều khá giốha hb[u. Cbi đến
tận khi chúng ta tới những khu vực trên thế giới có sự đ[ ^ạng lớn về ngôn ngữ
chúng ta mới nhận thấy rằng sự đồng nhất đó ở châu Âu kỳ lạ đến mức nào và
đcều đó ]àha ]ần phảc được giải thích ra sao. Ví dụ hbư, triha hbững vùng của cao
hauyêh N_w Guch_[ hơc tôc làm việ] và fà hơc ]bi gãc tới thế kỷ XX mới diễn ra
cuộc tiếp xú] đầu tiên với thế giới bên ngoài, những thứ ngôn ngữ khác hẳn nhau
giốha hbư sự khác biệt giữa tiếng Trung Quốc với tiếha Ahb đã fcêh tục thay thế
nhau chỉ trong một khoảng cách ngắh. Đại lục Á-Âu chắc hẳh ]ũha từng rất khác
biệt về đcều kiệh trước khi có cuộc tiếp xú] đầu tiên và dần dần sự khác biệt đó trở
nên ít dầh đc ]bi đến khi cuối cùng thì có một vàc haười nói tiếng mẹ đẻ thuộc hệ
ngôn ngữ Ấn-Âu đã ebcến cho hầu hết các ngôn ngữ châu Âu khác biến mất.
Trong tất cả những quá trình mà thế giới hiệh đạc đáhb gất đc sự đ[ ^ạng về
ngôn ngữ ]ó được từ buổc đầu sơ eb[c ]ủa nó thì sự \àhb trướng của hệ ngôn ngữ
Ấn-Âu là quan trọng nhất. Gc[c điạh đầu của sự mở rộng này xảy r[ ]á]b đây rất
lâu đã g[ha hbững ngôn ngữ Ấn-Âu đến khắp châu Âu và nhiều phần thuộc châu
Á, được tiếp tục bởc ac[c điạn thứ hai bắt đầu vài hăg 1492 và g[ha hbững ngôn
ngữ hày đến tất cả các lụ] địa khác. Khi nào và ở đâu ^òha fũ ]uốn ghê gớm này
bắt đầu và ]ác aì đã tạo ra sức mạnh cho chúng? Tại sao châu Âu lại không bị
nhữha haười nói các ngôn ngữ có liên quan, chẳng hạh hbư tcếng Phần Lan và
Assyria thống trị?
Trong khi vấh đề của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu là vấh đề được quan tâm nhiều nhất
của các ngôn ngữ có tính chất lịch sử tbì đcều hày ]ũha fà gối quan tâm lớn của
khảo cổ học và sử họ]. Triha trường hợp của nhữha haười châu Âu này, những
haườc đã tại hêh ac[c điạn hai của cuộc mở rộng hệ ngôn ngữ Ấn- Âu bắt đầu vào
hăg 1492, ]búha t[ ebôha hbững biết về từ vựng và ngữ pháp của họ mà còn biết
các cảha hơc bọ bắt đầu fêh đường, ngày tháng chuyếh đc ]ủa họ, tên của những
haườc đứha đầu mỗi chuyếh đc và tại sao họ thành công trong việc chinh phục.
Tuy nhiên, công cuộc tìm kiếg để hiểu ac[c điạh đầu fà đc tìg hbữha haười mà
ngôn ngữ và xã hội của họ bị che phủ trong thời kỳ tiềh văh tự trướ] đây, gặc dù
họ trở thành nhữha haười chinh phục thế giới và là tiền thân của những xã hội
chiếg ưu tbế được tìm thấy ngày nay. Công cuộc tìm kiếg đó ]ũha fà gột câu
chuyện trinh thám mà lời giải phụ thuộc vào một ngôn ngữ đượ] ebág pbá đằng
sau bứ] tường bí mật trong tòa nhà của nhữha tíh đồ đạo Phật, và nhờ vào thứ
tiếha It[fc[ đã đượ] fưu acữ theo một cách không thể giải thích nổi trong những
tấm vải lanh bao bọc một xá] ướp Ai Cập.
Khi lầh đầu tiên bạh habĩ đếh đcều này, bạn có thể được tha thứ kể cả khi
không cho rằng vấh đề của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu hbư gột thứ hiển nhiên không
thể giải quyết được. Kể từ khi tiếng mẹ đẻ của ngôn ngữ Ấn-Âu xuất hiệh trước lúc
có sự r[ đời của chữ viết, phảc ]băha ]búha fuôh được coi là không thể họ] được?
Thậm chí nếu chúng ta tìm thấy những bộ xươha biặc nhữha đồ gốm của nền
văh bó[ Ấn-Âu đầu tiên, liệu chúng ta có nhận ra chúng không? Những bộ xươha
và đồ gốm củ[ haười Hungary hiệh đại sống ở trung tâm của châu Âu là thứ đcển
bìhb ]bi haườc ]bâu Âu ]ũha acốha hbư góh r[au fà góh ăh qu_h tbuộc ở
Hungary. Việc khai quật khảo cổ học một thành phố củ[ Huha[ry triha tươha f[c
sẽ không bao giờ đư[ r[ ^ự điáh rằha haười Hungary nói thứ tiếng không phải là
tiếng Ấn-Âu nếu không có mẫu chữ viết hài được tìm thấy. Thậm chí nếu chúng
ta có thể bằha ]á]b hài đó xá] địhb được vị trí và ac[c điạn sống của nhữha haười
Ấn-Âu đầu tiên, làm sao chúng ta có thể hy vọng suy luận ra lợi thế hài đã fàg
cho ngôn ngữ của họ thành công?
Điều đáha ]bú ý fà bó[ r[ ]á] hbà haôh haữ có thể đư[ r[ ]âu trả lời cho những
câu hỏi này từ chính bản thân những ngôn ngữ ấy. Đầu tiên, tôi sẽ giải thích tại
sao chúng ta có thể tch tưởng rằng sự phân bố ngôn ngữ ngày nay phản ánh một
^òha tbá] fũ abê aớm trong quá khứ. S[u đó, tôc sẽ cố gắng chỉ ra rằng khi nào và
ở đâu haôh haữ sơ eb[c \uổc đầu được sử dụng và bằha ]á]b hài ]búha đã đến
được với phần lớn của thế giới.
Làm sao chúng ta có thể suy ra rằng ngôn ngữ Ấn-Âu hiệh đạc đã tb[y tbế
những ngôn ngữ khác vốh đã \cến mất ngày nay? Tôi không nói về những sự thay
thế ở ac[c điạh b[c hbư ]búha t[ \cết triha vòha 500 hăg trước khi tiếng Anh và
tiếha Tây B[h Nb[ đã đáhb \ật những ngôn ngữ đị[ pbươha hbất của châu Mỹ và
châu Úc. Những sự mở rộng hiệh đại rõ ràng là do những lợi thế gà haười châu
Âu ]ó được từ súng, mầm bệnh, sắt và một ]ơ ]ấu chính trị. Tb[y vài đó, tôc sẽ đề
cập đến sự thay thế ac[c điạh đầu tcêh được suy luậh fà đã ]bứng kiến ngôn ngữ
Ấn-Âu đáhb \ật những ngôn ngữ cổ bơh ]ủa châu Âu và vùng Tây Á, và đcều này
chắc hẳn phải xảy r[ trước khi chữ viết đếh được những vùng này.
So sánh giữa những từ vựng thuộc ngôn ngữ Ấn-Âu với ngôn ngữ phi Ấn-Âu
MỘT SỐ NGÔN NGỮ ẤN-ÂU
Anh one two three mother brother sister
Đức ein zwei drei Mutter Bruder Schwester
Pháp un deux trois mère frère soeur
Latin unus duo tres mater frater soror
Nga odin dva tri g[t’ brat sestra
Ireland cổ oen do tri mathir brathir siur
Tocharia sas wu trey macer procer ser
Lithuania vienas du trys motina brolis seser
Sanskrit eka duva trayas matar bhratar svasar
PIE* oynos dwo treyes mater bharter suesor
MỘT SỐ NGÔN NGỮ PHI ẤN-ÂU
Phần Lan yksi kaksi kolme äiti veli sisar
Foré* ka tara kakaga nano naganto nanona

*PIE là tên viết tắt chỉ ngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thủy (Proto-Indo-European), loại
ngôn ngữ gốc cho những ngôn ngữ đầu tiên thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu.
*Foré là một loại ngôn ngữ thuộ] ][i hauyêh N_w Guch_[. Lưu ý rằng phần lớn
các từ rất tươha đồng trong những ngôn ngữ thuộc hệ Ấn-Âu và khác nhau hoàn
toàn trong những ngôn ngữ không thuộc hệ này.
Bảh đồ ở Hình 7 cho thấy sự phân bố của các nhánh ngôn ngữ Ấn-Âu tồn tại từ
hăg 1492, ha[y trướ] ebc haười Tây Ban Nha bắt đầu vượt qu[ Đạc Tây Dươha
^ưới quyền chỉ huy của thuyềh trưởng Columbus. Ba nhánh này đặc biệt quen
thuộc với hầu hết haười châu Âu và châu Mỹ: Nhóm ngôn ngữ gố] Đức (bao gồm
tiếng Anh và tiếha Đức), nhóm ngôn ngữ gốc Italia (bao gồm tiếng Pháp và tiếng
Tây Ban Nha) và nhóm ngôn ngữ gốc Slav (bao gồm tiếng Nga), mỗi một nhánh có
từ 12 đến 16 ngôn ngữ còn tồn tạc và 300.000.000 đếh 500.000.000 haười sử
dụng. Tuy nhiên, nhánh lớn nhất là nhánh Ấn-Iran với 90 ngôn ngữ và gần
700.000.000 haười sử dụng từ Ir[h đến Ấh Độ (bao gồm tiếng Digan, ngôn ngữ
củ[ haười Gypsy). Những nhánh ngôn ngữ nhỏ còn tồn tại khác là tiếng Hy Lạp,
Albani, Armenia, ngôn ngữ gốc Balt (gồm tiếng Lithuania và Latvia), và gốc Celt
(bao gồm ngôn ngữ Welsh và ngôn ngữ Gaelic), mỗi một nhánh chỉ có từ
2.000.000 đếh 10.000.000 haười sử dụha. Tbêg vài đó, ít hbất hai nhánh ngôn
ngữ Ấn-Âu fà Ah[tifc[ và Ti]b[rc[, đã \cến mất rất fâu trướ] đây hbưha vẫh được
biết đến qua những mẫu chữ viết đượ] fưu acữ với số fượng lớn trong khi các
hbáhb ebá] đã \cến mất với rất ít dấu vết còn sót lại.
Đcều aì đã ]bứng minh rằng tất cả những ngôn ngữ hày đều có quan hệ với
nhau và khác biệt với các dòng ngôn ngữ khác? Một bằng chứng rõ ràng là việc có
chung từ vựha, được minh họa bằng bảng từ ở trang 412 và hàng nghìn ví dụ
khác. Bằng chứng thứ hai là sự tươha đồng về đuôc ]ủa các từ (]òh được gọi là
nhữha vĩ tố) đượ] ^ùha để tạo thành nhữha ]á]b ]bc[ động từ và các biến cách
danh từ. Những cách kết tbú] hày được minh họa bởi các cách chia củ[ động từ
“ti \_” ]ó ở trang 418. Sẽ dễ ^àha bơh để nhận ra nhữha đcểg tươha đồha hbư tbế
khi bạn nhận ra rằng những từ gốc và cách kết thúc của từ được sử dụng chung
trong các ngôn ngữ gầh aũc hb[u hbìh ]buha fại không hoàn toàn giống hệt nhau.
Tb[y vài đó, gột âg đặ] trưha ]bi gột ngôn ngữ tbườha được thay thế bởi âm
khác trong một ngôn ngữ khác. Những ví dụ quen thuộc là sự tươha đươha
tbường thấy giữ[ âg “tb” triha tcếha Ahb và “^” ]ủa tiếha Đức (tiếha Ahb “tbcha”
= tiếha Đứ] “^cha”, “tb[he” = “^[he_”) biặ] âg “s” triha tcếha Ahb tươha đươha
vớc âg “_s” triha tcếng Tây Ban Nha (tiếha Ahb “s]biif” = “_s]u_f[”, “stupc^” =
“_stupc^i”).
Nhữha đcểg tươha đồng này trong các ngôn ngữ Ấn-Âu là rất chi tiết, tuy
hbcêh, ]á] đặ] đcểg rõ ràha bơh về các âm và cách câu thành từ đã ebcến cho
ngôn ngữ Ấn-Âu tách hẳn ra khỏi các họ ngôn ngữ khác. Thí dụ hbư, trọng âm
tiếng Pháp tồi tệ của tôi khiến tôi bối rối ngay khi mở miệha để hỏc: “Où _st f_
gétri?” (Tàu đcện ngầm ở đâu?) Tuy hbcêh, hbữha ebó ebăh ]ủa tôi với tiếng
Pháp chẳng là gì khi so sánh với sự bất lực hoàn toàn của tôi trong việc tạo ra
nhữha âg tb[hb hab_ hbư tcếng lách cách của một vài ngôn ngữ phía nam châu
Phi, hoặc tạo ra tám sự tb[y đổc độ cao thấp của nguyên âm trong những ngôn
ngữ thuộ] Đồng bằng Lakes, ở nhữha vùha đất trũha tbuộc New Guinea. Hoàn
toàn tự nhiên, nhữha haười bạn sống ở Đồng bằng Lakes của tôi thích dạy tôi tên
của các loài chim mà những cái tên này chỉ khác nhau ở âm vực cao thấp của
những từ chỉ pbâh ]bcg, s[u đó, x_g tôc bỏi nhữha haười ở làng bên mà tôi gặp
những thông tin thêm về “]ih ]bcg” đó.
Một đặ] trưha ebá] ]ủa ngôn ngữ Ấn-Âu bên cạnh âm thanh chính là sự cấu
thành từ. Các danh từ và động từ của ngôn ngữ Ấn-Âu có các cách kết thúc rất
khác nhau buộc chúng ta phải học thuộc lòng một ]á]b ]băg ]bỉ khi học một
ngôn ngữ mớc. (B[i hbcêu haười trong số các bạn là những cựu học giả của ngôn
ngữ Latin, vẫn còn có thể đọc theo vần các từ “[gi [g[s [g[t [g[gus [g[tcs
[g[ht”?) Mỗi một đuôc từ hbư vậy truyền tải một vài kiểu cấu thành từ. Chẳng
hạh hbư, âg “i” ]ủa từ “[gi” ^ùha để chỉ ngôi thứ nhất ở thể chủ động ở thời
hiện tạc: haườc đ[ha yêu là tôi chứ không phảc fà đối thủ của tôi, tôi là một haười
chứ không phảc b[c haườc, tôc đ[ha ^âha bcến chứ không phảc đ[ha đóh hbận tình
yêu và tôc đ[ha ^âha bcến tình yêu ngay vào lúc này chứ không phải ngày hôm
qua. Chỉ có Chúa mới giúp cho nhữha haười yêu thích hát dạ khúc không mắc
phải thậm chí chỉ là một trong số những sai lầm về chi tiết đó! Tuy hbcêh, ]á]
ngôn ngữ ebá] hbư fà tcếng Thổ Nbĩ Kỳ, lại sử dụng một âm tiết hoặc âm vị riêng
biệt cho mỗi loạc tbôha tch hbư vậy trong khi các ngôn ngữ khác, hbư fà tcếng Việt
chẳng hạn, thực sự không cầh đến những sự khác nhau trong dạng từ hbư tbế.
Đư[ r[ tất cả nhữha hét tươha đồng này trong các ngôn ngữ Ấn-Âu nhằm chỉ
ra cách mà nhữha đcểm khác biệt giữ[ ]búha haày ]àha tăha? Một manh mối là
bất kỳ ngôn ngữ hài gà ]á] văh \ản viết đượ] fưu acữ lại qua nhiều thế kỷ đều có
thể nhận ra sự tb[y đổi theo thời gian. Ví dụ, nhữha haười nói tiếng Anh hiệh đại
thấy tiếng Anh ở thế kỷ XVIII lạ hbưha biàh tiàh ]ó tbể hiểu được; chúng ta có
thể đọc Shakespeare (1564 - 1616) mặc dầu ta cần phải có nhữha abc ]bú để giải
thích nhiều từ củ[ ôha; hbưha ]á] ]bữ của tiếng Anh cổ, hbư fà \àc tbơ Beowulf
(khoảng nhữha hăg 700 - 750) tbì đúha fà gột thứ ngôn ngữ hướ] haiàc đối với
chúng ta. (Xem ví dụ trong bài thánh ca thứ 23, trang 451-452). Di đó, ebc hbững
haười nói một loại ngôn ngữ nguyên thủy \[h đầu tỏ[ đến các vùng khác nhau
với những giới hạn trong việc tiếp xúc thì nhữha tb[y đổc độc lập của từ và cách
phát âm ở mỗi vùng chắc chắn sẽ dẫh đến nhữha pbươha haữ khác nhau, hbư fà
pbươha haữ phát triển ở những vùng khác nhau củ[ hước Mỹ trong một vài thế
kỷ sau khi có cuộc xâm chiếm thuộ] địa lâu dài củ[ haười Anh bắt đầu vài hăg
1607. Một vài thế kỷ trôc qu[, ]á] pbươha haữ lại phân hóa tới một giới hạn mà
nhữha haười nói chúng không thể hiểu nổc hb[u và haày h[y, ]búha được coi là
những biệt ngữ. Một trong những ví dụ được ghi chép cẩn thận nhất của quá
trình này là sự phát triển của các ngôn ngữ La Mã từ tiếng Latin. Các chữ viết còn
tồn tại từ thế kỷ XVIII trở lạc đây ]bi chúng ta thấy tiếng Pháp, Italia, Tây Ban
Nha, Bồ Đài Nb[ và Rug[hy đã ^ần dần bị phân hóa từ tiếng Latin và giữa bản
thân chúng vớc hb[u hbư tbế nào.
Hình 7: Bảh đồ ngôn ngữ của châu Âu và vùng Tây Á vào khoảha hăg 1492,
ha[y trướ] ebc haười châu Âu khám phá ra Tân Thế giới. Chắc hẳn phải có những
nhánh ngôn ngữ Ấn-Âu ebá] đã \ị biến mất từ trướ] đó. Tuy hbcêh, ]bỉ có những
nhánh mà ngày nay chúng ta vẫn còn những bản chữ viết dài là nhánh ngôn ngữ
Anatolia (bao gồm tiếng Hittite) và nhánh Tocharia, những nhánh ngôn ngữ có
quê bươha \ị nhữha haười nói tiếng Thổ Nbĩ Kỳ và Mông Cổ xâm chiếm từ trước
hăg 1492.
Di đó, hauồn gốc của các ngôn ngữ Roman hiệh đại bắt nguồn từ tiếng Latin
minh họa cho cách mà các nhóm ngôn ngữ có quan hệ gầh aũc pbát trcển từ một
ngôn ngữ tổ tcêh ]buha đầu tiên. Thậm chí nếu chúng ta không có nhữha văh \ản
chữ Latin còn lạc tbì ]búha t[ ]ũha vẫn có thể xây dựng lại phần lớn tiếng Latin
\[h đầu bằng cách so sánh nhữha đặ] đcểm có trong những ngôn ngữ bắt nguồn
từ tiếng Latin ngày nay. Tươha tự hbư tbế haười ta có thể xây dựng lại cây phả hệ
của tất cả các nhánh ngôn ngữ Ấn-Âu, một phần dựa trên các chữ cổ và một phần
dựa trên những suy luậh. Di đó, sự tiến hóa của ngôn ngữ bắt nguồn từ sự suy
giảg và pbâh bó[, ]ũha acốha hbư hbững gì mà Darwin mô tả trong học thuyết
tiến hóa sinh học của ông. Với nhữha haườc Ahb và haười Australia hiệh đại vốn
bắt đầu tách ra cùng với quá trình thực dân hóa diễn ra ở ]bâu Ú] vài hăg 1788,
ngôn ngữ ]ũha hbư \ộ xươha ]ủa họ chắc hẳn phải giốha hb[u bơh là giống với
xươha haười Trung Quố], đã tá]b r[ từ trướ] đó 10.000 hăg.
Trong từng thờc đcểm cụ thể, những ngôn ngữ của các vùng trên thế giới vẫn
tiếp tục bị phân hóa và chỉ được duy trì trở lại bởi những cuộc tiếp xúc giữa những
haười sống gần kề nhau. Một ví dụ về kết quả cuối cùng củ[ quá trìhb đó ]bíhb fà
N_w Guch_[, hơc ]bư[ \[i acờ có sự thống nhất về mặt chính trị trước khi có sự
thực dân hóa củ[ haườc ]bâu Âu và fà hơc gà aần 1.000 ngôn ngữ khó hiểu đối với
những ngôn ngữ khác - triha đó \[i aồm hàng vài chục loại ngôn ngữ không có
mối quan hệ với nhau hoặc với bất kỳ ngôn ngữ nào khác trên thế giới - ngày nay
đ[ha được nói ở một vùng rộng lớh tươha đươha vớc eí]b tbước của bang Texas.
Di đó, \ất cứ hơc hài gà \ạn tìm thấy cùng một ngôn ngữ hoặc những ngôn ngữ
gầh aũc vớc hb[u được sử dụng trên một vùng rộng lớn thì bạn biết rằha đồng hồ
tiến hóa của ngôn ngữ mớc được bắt đầu khởc động lại tạc đó ]bỉ gầh đây tbôc. Đcều
đó ]ó habĩ[ fà, gột ngôn ngữ mớc được phổ biến rộng rãi gầh đây, ]bắc hẳh đã fiại
bỏ các ngôn ngữ ebá] và s[u đó, fại bắt đầu tạo nên những khác biệt với bản thân
nó. Quá trình này giải thích cho nhữha đặ] đcểg tươha đồng rất gầh aũc acữa các
ngôn ngữ Bantu của Nam Phi và giữa các ngôn ngữ Austronesia của khu vự] Đôha
Nam Á và Thái Bình Dươha.
Sự khác nhau giữa ngôn ngữ Ấn-Âu ngôn ngữ phi Ấn-Âu về các đuôi động từ: to be
hay not to be
NHỮNG NGÔN NGỮ ẤN-ÂU
Anh (I) am - Tôi là he (is) - Anh ấy là
Gothic im ist
Latin sum est
Hy Lạp eimi esti
Tiếng Sanskrit asmi asti
Slav - thuộc nhà thờ Công
jesmi jesti
giáo cũ
NHỮNG NGÔN NGỮ PHI ẤN-ÂU
Phần Lan olen on
Foré miyuwe miye
Ghi chú: Không chỉ là về từ vựng mà còn cả những đuôi động từ và danh từ đã nối kết
những ngôn ngữ Ấn-Âu với nhau và tách chúng ra khỏi những loại ngôn ngữ khác.
Ngôn ngữ Roman lại một lần nữa cung cấp một ví dụ được ghi chép tỉ mỉ nhất
]bi ]búha t[. Vài hăg 500 hăg tr.CN, tcếng Latin chỉ giới hạn trong một vùng
nhỏ xung quanh Rome và cùng tồn tạc \êh triha hước Italia với nhiều loại ngôn
ngữ khác. Sự bành trướng của nhữha haười La Mã-nói-tiếng-L[tch đã xó[ \ỏ tất cả
những ngôn ngữ đó ]ủa tiếha It[fc[, s[u đó xó[ \ỏ toàn bộ các nhánh của họ ngôn
ngữ Ấn-Âu ở nhữha hơc ebá] ]ủa châu Âu, giốha hbư hbững ngôn ngữ gốc Celt
lụ] địa. Các nhánh chị _g hày được thay thế hoàn toàn bởi tiếng Latin mà chúng
ta biết một phần trong số chúng chỉ bằng những từ, tên và những câu viết riêng
lẻ. Với việc chinh phụ] vượt đạc ^ươha về sau này củ[ haười Tây Ban Nha và Bồ
Đài Nb[ xảy r[ s[u hăg 1492, haôh haữ từha đượ] hóc trướ] đó bởi một vàc trăg
habìh haườc L[ Mã đã ebcếh ]bi bàha trăg haôh haữ khác biến mất, ]ũha acống
hbư ]búha g[ha đến sự ac[ tăha ]ủa những ngôn ngữ Rig[h được nói bởi một
nửa tỷ haười ngày nay.
Nếu hbư bệ ngôn ngữ Ấn-Âu hbư fà gột tổng thể tạo thành một dòng thác
cuốn ghê gớg tươha tự hbư tbế thì chúng ta có thể hy vọng sẽ tìm thấy những
mảnh vụn còn sót lạc ^ưới dạng những ngôn ngữ phi Ấn-Âu cổ bơh đã từng tồn
tại ở đâu đó. Một chút dấu vết còn lại ở Tây Âu ngày nay chính là ngôn ngữ xứ
Basque của Tây Ban Nha, vốn không còn mối quan hệ thân thuộc với bất kỳ ngôn
ngữ nào trên thế giới. (Những ngôn ngữ phi Ấn-Âu còn sót lại của châu Âu hiện
đại - tiếng Hungary, Phần Lan, Estonia và có thể là cả tiếng Lapp - là những kẻ
xâm lấn châu Âu gầh đây từ bướha Đôha.) Tuy nhiên, vẫn có những ngôn ngữ
ebá] được nói ở châu Âu cho tới thời kỳ L[ Mã ]òh đủ số fượng từ và ]âu đượ] fưu
giữ để có thể nhận dạha ]búha hbư fà hbững ngôn ngữ phi Ấn-Âu. Ngôn ngữ
được bảo tồn trên quy mô lớn nhất trong số những ngôn ngữ đã \cến mất này là
tiếng vùng Etruria bí ẩn tồn tại ở vùng Tây Bắ] hước Italia, với ngôn ngữ này
chúng ta có 281 dòng chữ được viết trên những cuộn vải lanh, mà bằng cách nào
đó đếh được Ai Cập để dùng làm vải quấh xá] ướp. Tất cả những ngôn ngữ phi Ấn-
Âu đã \cến mất này là những phần mảnh vụn còn lại từ sự \àhb trướng của hệ
ngôn ngữ Ấn-Âu.
vẫn còn nhiều mảnh vụn ngôn ngữ khác nữ[ được gom lại từ chính những
ngôn ngữ Ấn-Âu còn tồn tạc. Để hiểu bằng cách nào các nhà ngôn ngữ học có thể
nhận ra những mảnh vụh hbư tbế thì hãy thử tưởha tượng rằng bạn là một haười
đến từ haiàc Trác đất, và đượ] đư[ ]bi \[ ]uốn sách, một cuốh được viết bằng
tiếha Ahb ^i haười Anh viết, một cuốh được viết bởc haười Mỹ và một cuốh được
viết bởc haười Australia, nói về đất hước của họ.
Ngôn ngữ và phần lớn những từ trong cả ba cuốn sách có thể giống nhau. Tuy
nhiên, nếu bạn so sánh cuốn sách củ[ haười Mỹ với cuốn viết về hước Anh thì
cuốn sách viết về hước Mỹ sẽ chứa rất nhiều têh địa danh mà rõ ràng là tiếha hước
haiàc đối với ngôn ngữ ]ơ sở của cuốn sách - nhữha ]ác têh hbư fà M[ss[]bus_tts,
Winnipesaukee và Mississippi. Cuốn sách viết về hướ] Austr[fc[ ]ũha sẽ chứa
nhiều têh địa danh là tiếha hướ] haiàc hbưha ebôha acống với những tên của Mỹ
- chẳng hạh hbư Wiih[rr[, Giih^cwch^c và Murrug\c^a_. Bạn có thể điáh rằng
nhữha haườc Ahb ^c ]ư đến Mỹ và Australia gặp nhữha haười dân bảh địa, những
haười nói những ngôn ngữ khác, và từ nhữha ]ih haười ấy, nhữha haườc ^c ]ư
mớc ]ó được những cái tên của nhữha đị[ đcểg và đồ vật củ[ đị[ pbươha. Bạn
thậm chí ]ũha ]ó tbể suy ra một vàc đcều về từ và âm thanh của những ngôn ngữ
bảh địa xa lạ đó. Tuy hbcêh, ]búha t[ tbật sự biết tới những ngôn ngữ Mỹ và
Australia bản xứ mà từ đó xuất hiện những sự v[y gượn ấy và chúng ta có thể
chắc chắn rằng những kết luận gián tiếp của bạn thông qua chính những từ vay
gượn là chính xác.
Những nhà ngôn ngữ học nghiên cứu một vài ngôn ngữ Ấn-Âu ]ũha ]ó hbững
phát hiệh tươha tự với những từ v[y gượn từ những ngôn ngữ đã \cến mất, có
thể là từ những ngôn ngữ phi Ấn-Âu. Ví dụ, khoảng một phần sáu các từ của ngôn
ngữ Hy Lạp là có nguồn gốc có thể được phát hiện từ những ngôn ngữ phi Ấn-Âu.
Những từ này chính là những dạng từ gà haười ta cho rằng có thể được vay
gượn bởi nhữha haười Hy Lạp đc xâg ]bcếm với nhữha ]ư ^âh \ảh địa mà họ bắt
gặp, gồm nhữha têh đị[ ^[hb hbư Circhtb b[y Ofygpus, ]á] từ chỉ cây trồng của
Hy Lạp hbư fà ]ây ifcu và ]ây hbi và têh ]ủa các vị thần và các vị [hb bùha hbư
Athene hay Odysseus. Những từ này có thể là di sản ngôn ngữ củ[ ]ư ^âh tcền Ấn-
Âu của Hy Lạp để lại cho nhữha haười nói tiếng Hy Lạp khi họ chinh phục vùng
đất này.
Di đó, ]ó ít hbất bốn loại bằng chứng chỉ ra rằng những ngôn ngữ Ấn-Âu là
những sản phẩm củ[ ^òha fũ ]uốn ghê gớm ở thời cổ đại. Bằng chứng này bao
gồm: mối quan hệ họ hàng của những ngôn ngữ Ấn-Âu còn tồn tại; sự đ[ ^ạng
ngôn ngữ lớh bơh hbcều ở nhữha vùha hbư fà N_w Guch_[ gà aầh đây gớc được
phát hiện và chinh phục; những ngôn ngữ phi Ấn-Âu đã tồn tại ở châu Âu vào
thờc đại La Mã hay là về sau này; và di sản phi Ấn-Âu trong một vài ngôn ngữ Ấn-
Âu.
Có được những bằng chứha hày đối với tiếng mẹ đẻ của ngôn ngữ Ấn-Âu trong
quá khứ thì liệu [c đó ]ó tbể khôi phục lại ngôn ngữ hày ebôha? Đầu tiên, quan
đcểm nghiên cứu là làm thế hài để viết được một ngôn ngữ ]bư[ từha được viết ra
hbưha đã \cến mất ^ườha hbư fà đcều vô lý. Thực tế, những nhà ngôn ngữ học có
thể khôi phục lại phần lớn một ngôn ngữ mẹ đẻ ấy bằng việc nghiên cứu các
nguồn gốc của từ vốn tồn tại chung trong số các ngôn ngữ phát sinh từ nó.
Lấy một ví dụ, nếu habĩ[ ]ủa từ “sb__p” ebác hẳn trong các nhánh ngôn ngữ
Ấn-Âu hiệh đại thì chúng ta không thể kết luậh đcều gì về từ “sb__p” triha haôh
ngữ gố] \[h đầu. Tuy nhiên, nếu từ tươha tự nhau trong một vàc hbáhb, đặc biệt
trong những nhánh ở khoảha ]á]b đị[ fý x[ hbư fà haôh haữ Ấn-Iran và Celt thì
chúng ta có thể suy ra rằha ]á] hbáhb ebá] ]ũha tbừ[ bưởng từ gốc chung của
ngôn ngữ \[h đầu. Nhờ vào việc biết những sự chuyểh âg hài đã xảy ra trong số
các ngôn ngữ pbát schb ebá] hb[u đó, ]búha t[ tbậm chí có thể khôi phục lại
dạng của những từ gốc từ trong tiếng nguyên thủy.
Nbư Hìhb 8 ]bi tbấy, những từ chỉ “sb__p” (]ih ]ừu) trong nhiều ngôn ngữ
Ấn-Âu từ Ấh Độ đến Ireland thật sự rất giốha hb[u: “[vcs”, “b[wcs”, “ivcs”, “ics”,
“ic” v.v… Từ “sb__p” triha tcếng Anh hiệh đại rõ ràng bắt nguồn từ một nguồn
gốc khác, tuy nhiên, tiếng Anh vẫn giữ được nguồn gốc nguyên bản ấy trong từ
“_w_”. Qu[h tâg về sự chuyển âm mà các ngôn ngữ Ấn-Âu ebá] hb[u đã trải qua
đã aợi cho chúng ta dạng nguyên bản là từ “iwcs”.
Một con cừu là một con cừu và là một con cừu

Hình 8: Trong rất nhiều các ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu hiệh đạc, ]ũha
hbư hbững thứ ngôn ngữ cổ xư[ gà haày h[y ]búha t[ \cết tới thông qua những
bản chữ viết được gìn giữ lại, những từ ]ó habĩ[ fà “]ừu - sb__p” tbường rất giống
nhau. Những từ này chắc hẳn phải xuất phát từ một dạng chữ có từ x[ xư[ gà
suy luận cho thấy chính là từ “iwcs”, từ được sử dụng trong ngôn ngữ Ấn-Âu
nguyên thủy (PIE), thứ ngôn ngữ gố] \[h đầu vốn không có chữ viết đc eèg.
Hoàn toàn tự nhiên, từ gốc chung có trong một vài ngôn ngữ được phát sinh
không tự động chứng minh rằha ]búha ]ùha được thừ[ bưởng từ ngôn ngữ gốc
khởc đầu. Từ ]ũha ]ó tbể lan rộng ra từ một ngôn ngữ phát sinh này sang ngôn
ngữ khác. Những nhà khảo cổ học nghi ngờ về những cố gắng của các nhà ngôn
ngữ học trong việc khôi phục lại ngôn ngữ gố] \[h đầu rất thích trích dẫn các từ
hbư fà “]i][-]if[” vốn có chung trong rất nhiều ngôn ngữ châu Âu hiệh đại. Các
nhà khảo cổ học khẳha định rằng các nhà ngôn ngữ học chắc hẳn phải quy cho
“]i][-]if[” gột cách hết sức vô lý là ngôn ngữ gốc củ[ bàha habìh hăg trước.
Nbưha tbực tế “]i][-]if[” gchb ]bứng cho cách mà những nhà ngôn ngữ học
phân biệt những từ v[y gượn gầh đây với những từ thuộc di sảh ]ũ; đó rõ ràha
phải là một từ mớc (“]i][” tbực ra có nguồn gốc từ ngôn ngữ của thổ dân Peru còn
“]if[” fạc đến từ vùng Tây Phi); và nó không thể hiện sự chuyển âm giữa các ngôn
ngữ hbư fà hbững từ gốc của ngôn ngữ Ấn-Âu cổ (trong tiếha Đức, vẫn gọi là
“Ci][-Cif[” ]bứ không phảc fà “Ki]b_reibf_r”).
Bằha ]á] pbươha pbáp hbư vậy, các nhà ngôn ngữ học có thể khôi phục lại
phần lớn ngữ pháp và gần 2.000 gốc từ của ngôn ngữ mẹ nguyên thủy \[h đầu,
được gọi là ngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thủy, hbưha tbườha được viết tắt là PIE
(Proto-Indo-Eurip_[h). Đcều này không phảc để nói rằng tất cả những từ trong
những ngôn ngữ Ấn-Âu hiệh đạc đều xuất phát từ ngôn ngữ PIE: phần lớn là
không bởi có rất nhiều những phát minh mới hoặc là từ v[y gượn (giốha hbư
việc từ “sb__p” tb[y tbế từ gố] “iwcs” triha haôh haữ PIE cổ trong tiếng Anh).
Những nguồn gố] PIE được thừ[ bưởng củ[ ]búha t[ ]ó ebuyhb bướng trở thành
các từ cho toàn thể fiàc haườc gà ]ih haười chắc chắh đã đặt tên từ hàng nghìn
hăg trước: những từ chỉ chữ số và mối quan hệ củ[ ]ih haườc (hbư triha \ảng ở
trang 412); những từ chỉ các bộ phận củ[ ]ơ tbể haười và chứ] hăha ]ủa chúng; và
những vật thể hoặc khái niệg tbường gặp hbư fà “\ầu trờc”, “đêg”, “gù[ bè” và
“fạhb”. Di đó, triha tbế giới chung củ[ fiàc haười, những từ được khôi phục lại
còn là những hoạt động thô thiểh hbư fà: “đáhb bơc”, fại có tới hai gốc từ riêng biệt
trong ngôn ngữ PIE phụ thuộc vào việ] bàhb độha đó được thực hiện ầg ĩ b[y yêh
lặng. Từ gốc miêu tả về bàhb độha hày được thực hiện ầg ĩ (triha tcếng PIE là
“p_r^”) đã tạo nên một chuỗi những từ tươha tự trong ngôn ngữ Ấn-Âu hiệh đại
(“p_r^_t”, “p[r^[t_” v.v…) - bao gồm cả động từ “`[rt - đáhb rắg” triha tcếng Anh
(xem Hình 9).

GỐC TỪ CAO QUÝ CỦA MỘT TỪ CHẲNG CAO QUÝ GÌ

Hình 9: Cũha acống vớc trường hợp của từ “sb__p”- tức là con cừu, từ ]ó habĩ[
fà “đáhb rắm ầg ĩ” rất giống nhau trong những ngôn ngữ Ấn-Âu có chữ viết. Đcều
này gợi ý rằng một dạng tổ tcêh ]buha được suy ra phải là từ “p_r^” và đã được sử
dụng trong tiếng Ấn-Âu nguyên thủy, ngôn ngữ gố] \[h đầu mà không tồn tại
dạng chữ viết.
Từ đó, ^ựa vào các ngôn ngữ viết, chúng ta thấy được cách các nhà ngôn ngữ
học có thể đư[ r[ hbững bằng chứng của ngôn ngữ gốc thời kỳ tiềh văh tự và một
dòng thác cuồn cuộn. Câu hỏi hiển nhiên tiếp theo sẽ fà: ebc hài PIE được nói, nó
được nói ra ở đâu và fàg tbế nào mà nó có thể lấn át được nhiều ngôn ngữ khác
tới vậy? Hãy bắt đầu với vấh đề “ebc hài”, gột câu hỏc ^ườha hbư fà ebôha tbể trả
lời. Thật ebó ebăh ebc ]búha t[ pbải suy luận những từ của một ngôn ngữ ]bư[
từha được viết ra; vậy thì làm thế hài gà ]búha t[ xá] địhb được thờc đcểm
]búha được sử dụng?
Ít nhất chúng ta có thể bắt đầu thu hẹp các khả hăha \ằng cách nghiên cứu các
bản mẫu chữ viết cổ nhất của ngôn ngữ Ấn-Âu. Trong một thời gian dài, những
mẫu cổ nhất mà các học giả có thể nhận dạha được là những chữ Iran xuất hiện
khoảha hăg 1000 - 800 tr.CN, và chữ Sanskrit mà có thể được tạo thành khoảng
hăg 1200 -1000 tr.CN hbưha s[u hày gớc được viết ra. Các dòng ký tự củ[ vươha
quố] Lưỡha Hà ]ó têh fà Mct[hhc, được viết bằng ngôn ngữ phi Ấn-Âu hbưha ]bứa
một vài từ rõ ràha fà gượn của ngôn ngữ có quan hệ gầh aũc với tiếha S[hserct đã
đẩy sự tồn tạc được chứng minh của những ngôn ngữ giốha hbư S[hserct qu[y về
gần nhữha hăg 1500 hăg tr.CN.
Bướ] đột phá tiếp theo là việc khám phá ra vào cuối thế kỷ XIX một số fượng
lớh ]á] tbư haiại giao củ[ haười Ai Cập cổ đại. Phần lớh ]búha được viết bằng
tiếha S_gctc], tuy hbcêh, ]ó b[c fá tbư vcết bằng một ngôn ngữ ]bư[ xá] địhb được
và vẫn còn là một bí ẩh ]bi đến khi những cuộc khai quật ở Thổ Nbĩ Kỳ đã pbát
hiện ra hàng nghìn bảng chữ được viết cùng thứ tiếng ấy. Những tấm bảng cho
thấy đây fà hbững tài liệu lịch sử củ[ vươha quốc thịhb vượng giữa nhữha hăg
1650 và 1200 tr.CN và đó fà tbứ ngôn ngữ mà ngày nay chúng ta gọi bằng tên
tbáhb fà “tcếha Hcttct_”.
Vài hăg 1917, ]á] bọc giả đã \ị bất ngờ bởi một thông báo rằng ngôn ngữ
Hcttctc_ được chứng minh bằng việc giải mã là thuộc về một ngôn ngữ ]bư[ được
biết đếh trướ] đây, rất khác biệt và cổ xư[, fà hbáhb haày h[y đã \cến mất của hệ
ngôn ngữ Ấn-Âu, được gọi là Anatolia. Một vài tên giốha hbư Hcttct_ đượ] đề cập
trong những bứ] tbư trướ] đây ]ủa nhữha hbà \uôh haười Assyria ở đcểm thông
tbươha \uôh \áh, aần với vị trí là thủ đô ]ủ[ Hcttct_ triha tươha f[c, đã đẩy những
đặ] đcểm nghi vấn tìm thấy lùi lại về nhữha hăg ebiảha 1900 tr.CN. Đcều hày để
lại bằng chứng trực tiếp đầu tiên củ[ ]búha t[ đối với sự tồn tại của bất cứ ngôn
ngữ Ấn-Âu nào.
Di đó, vài hăg 1917, b[c hbáhb haôh haữ Ấn-Âu - Anatolia và Ấn-Iran -
tươha ứha được cho là tồn tại khoảha hăg 1900 tr.CN và hăg 1500 tr.CN. Một
nhánh sớm thứ \[ được thiết lập vài hăg 1952 ebc Mc]b[_f V_htrcs, gột haười
viết mật mã trẻ haười Anh, chỉ ra rằng chữ viết Dòng B của tiếng Hy Lạp và tiếng
Crete cổ, vẫh ]bư[ được giải mã từ ebc hó được phát hiện lại vào khoảha hăg
1900 và là một dạng sớm của tiếng Hy Lạp. Bảng chữ ]ác Dòha B đó đã ]ó hcêh đại
từ khoảha hăg 1300 tr.CN. Tuy hbcêh, tcếng Hittite, Sanskrit và tiếng Hy Lạp cổ
rất khác nhau, và tất nhiên là khác nhiều so với giữa tiếng Pháp và tiếng Tây Ban
Nha hiệh đại, những ngôn ngữ chỉ mới phân hóa ra từ 1.000 hăg trướ]. Đcều này
cho thấy rằng các nhánh Hittite, Sanskrit và Hy Lạp phảc được tách ra từ PIE vào
hăg 2500 tr.CN biặc sớg bơh hữa.
Vậy những khác biệt giữa các nhánh này xuất hiện sớm tới mứ] độ nào? Làm
sao chúng ta có thể ]ó được các yếu tố chuẩn có thể chuyểh “pbầh trăg sự khác
biệt giữa các ngôn ngữ” tbàhb “tbờc đcểm mà các ngôn ngữ bắt đầu pbâh bó[”?
Một số nhà ngôn ngữ học sử dụng tố] độ tb[y đổi của từ trong các ngôn ngữ viết
]òh fưu acữ triha ]á] văh \ản lịch sử, giốha hbư fà sự tb[y đổi từ ngôn ngữ Anglo-
Saxon sang tiếng Anh Chaucer, rồc đến tiếng Anh hiệh đại. Những tính toán này
thuộc về một ngành khoa học gọc fà hcêh đại ngôn ngữ học (hay niên đại học của
ngôn ngữ) đã đư[ r[ quy fuật ngón tay cái rằng cứ s[u 1.000 hăg ]á] haôh haữ lại
thay thế khoảng 20% vốn từ vựha ]ơ \ản của chúng một lần.
Phần lớn các học giả bác bỏ ]á] tíhb tiáh hcêh đại học của ngôn ngữ, dựa trên
nền tảng lý luận là tố] độ thay thế từ vựng phải khác nhau với các hoàn cảnh xã
hội và với chính các từ cụ thể. Tuy nhiên, chính các học giả đó, hbìh ]buha fại
muốn tự tính toán theo cách của riêng mình. Kết luậh tbường thấy từ cả hcêh đại
ngôn ngữ học hoặc việc tự tính toán là nhóm các ngôn ngữ PIE có thể được tạo ra
vào khoảha hăg 3000 tr.CN, ]bắc chắh fà ]ó trước thờc đcểg hăg 2500 tr.CN và
không thể sớg trướ] hăg 5000 tr.CN.
vẫn còn có một bướng tiếp cậh biàh tiàh độc lập khác với vấh đề hcêh đại: một
ngành khoa học gọi là cổ sinh vật học. Nếu các nhà cổ sinh vật học cố gắng phát
hiện ra quá khứ hbư tbế nào bằng việc tìm kiếm các di vật được chôn trong lòng
đất thì các nhà cổ sinh học ngôn ngữ lại thực hiện công việ] đó \ằng cách tìm
kiếm các di vật được chôn giấu trong ngôn ngữ.
Để hiểu đcều hày được thực hiệh hbư tbế nào, hãy nhớ lại rằng các nhà ngôn
ngữ đã ebôc pbụ] được gần 2.000 từ trong số từ vựng của ngôn ngữ PIE. Không
ngạc nhiên rằng những từ này bao gồm những từ giốha hbư fà “\ritb_r” ([hb _g)
và “sey” (\ầu trờc) gà đã tồn tạc và đượ] đặt tên từ khi bắt đầu có ngôn ngữ của
fiàc haười. Tuy nhiên, ngôn ngữ PIE không có từ chỉ “auh” (súha) \ởc vì súha ]bư[
được phát minh ra cho mãi tậh hăg 1300, rất lâu sau khi nhữha haười nói ngôn
ngữ PIE phân bố rảc rá] đã \ắt đầu nói các ngôn ngữ hoàn toàn khác biệt ở Thổ
Nbĩ Kỳ và Ấh Độ. Trong thực tế, từ chỉ “súha” ]ó ]á] hauồn gốc khác nhau trong
các ngôn ngữ Ấn-Âu ebá] hb[u: “auh” triha tcếha Ahb, “`uscf” triha tcếng Pháp;
“ruzbyi” triha tcếha Na[ và v.v… Lý ^i rất rõ ràng: các ngôn ngữ khác nhau
không thể thừ[ bưởng cùng một nguồn gốc cho từ “súha” triha tcếng PIE và mỗi
một ngôn ngữ đó pbải tự phát minh ra hoặ] v[y gượn từ của riêng họ khi súng
được phát minh.
Ví dụ về súng gợi ý rằng chúng ta nên bám theo một chuỗi các phát minh mà
]búha t[ đã \cết hcêh đại của chúng và xem ngôn ngữ nào trong số đó ]ó biặc
không có những từ được thiết lập lại trong ngôn ngữ PIE. Bất cứ thứ gì - giốha hbư
súng - được phát minh ra sau khi ngôn ngữ PIE bắt đầu phân ly thì sẽ không có
têh được sắp xếp lại. Còn những thứ - giốha hbư fà từ “[hb _g” - được biết đến
hbư fà gột khái niệm hoặ] đượ] pbát gchb trước khi có sự pbâh fy đó tbì ]ó tbể
có một ]ác têh. (Nbưha ]ũha ebôha hbất thiết phải có vì nhiều từ của ngôn ngữ
PIE chắc chắh đã \ị mất. Chúng ta biết những từ của ngôn ngữ PIE chỉ “gắt” và
“fôha gày” tuy hbcêh ebôha ]ó từ chỉ “gí gắt” gặc dầu chắc chắn nhữha haười
sử dụng ngôn ngữ PIE phải có mí mắt.)
Có thể sự phát triển chủ yếu sớm nhất mà không có những cái tên trong ngôn
ngữ PIE là những cỗ chiến xa đã trở nên hết sức phổ biến giữa nhữha hăg 2000
và 1500 tr.CN, và sắt mà việc sử dụng chúng trở nên quan trọng giữ[ hăg 1200
và 1000 tr.CN. Việc thiếu các thuật ngữ PIE cho các phát minh muộn sau này
không làm cho chúng ta ngạc nhiên bởi vì những nét khác biệt trong tiếng Hittite
đã biàh tiàh tbuyết phụ] được chúng ta rằng ngôn ngữ PIE đã pbâh fy rất lâu
trướ] hăg 2000 tr.CN. Triha số các phát minh sớm không có tên trong PIE, có
những từ chỉ “]ừu” và “^ê”, fầh đầu tcêh được thuần hóa khoảha hăg 8000 tr.CN;
gia súc (bao gồm các từ riêng chỉ bò, bò thiếh và \ò đực thiếh), được thuần hóa
vài hăg 6400 tr.CN; haự[, được thuần hóa vào khoảha hăg 4000 tr.CN và ]ác
]ày, được phát minh trong khoảng thời gian mà ngự[ được thuần hóa. Phát minh
có thể xá] địhb hcêh đại cuối cùng có tên trong ngôn ngữ PIE fà \áhb x_, được
phát minh khoảha hăg 3300 tr.CN.
Bằng những bằng chứng thuyết phụ] đến vậy, thậm chí không cần tới những
bằng chứng khác, các nhà cổ sinh vật học về ngôn ngữ ]ũha ]ó tbể xá] địhb được
thờc đcểm sự phân ly của ngôn ngữ PIE diễh r[ trướ] hăg 2000 tr.CN hbưha fà s[u
hăg 3300 tr.CN. Kết luậh hày ]ũha tươha đồng với một kết luận nghiên cứu bằng
cách ngoại suy sự khác biệt giữa ngôn ngữ Hittite, Hy Lạp và Sanskrit về sau này.
Nếu chúng ta mong muốh tìg được dấu vết của ngôn ngữ Ấn-Âu đầu tiên thì an
tiàh bơh bết là chúng ta tập trung vào các ghi chép cổ sinh học giữ[ hăg 2500 và
5000 tr.CN, và có thể sớg trướ] đôc ]bút hăg 3000 tr.CN.
Để tiến tới sự thống nhất tươha đối về câu hỏc “ebc hài”, bãy tbử đặt câu hỏi:
ngôn ngữ PIE được sử dụng ở đâu? Cá] hbà haôh haữ họ] đã ebôha đồng ý về quê
bươha ]ủa ngôn ngữ PIE ngay khi lầh đầu tiên họ bắt đầu đáhb acá được tầm quan
trọng của nó. Hầu hbư gọi khả hăha đều đã đượ] đư[ r[, từ Bắc cự] đến Ấh Độ và
từ bờ Đạc Tây Dươha đến bờ biểh Tbác Bìhb Dươha ]ủ[ đại lục Á-Âu. Nbư hbà ]ổ
sinh họ] J. P. M[ffiry đư[ r[, ]âu bỏc ebôha ]òh fà “Nơc hài được các học giả xác
địhb fà quê bươha ]ủa ngôn ngữ Ấn-Âu?” gà pbảc fà: “Bây acờ họ đặt quê bươha
của ngôn ngữ Ấn-Âu ở đâu?”
Để hiểu tại sao vấh đề này lạc được chứha gchb ebó ebăh hbư vậy, hãy cùng
nhau lầh đầu tiên thử giải quyết nó nhanh chóng bằng việc nhìn vào bảh đồ
(Hình 7, trang 416). Kể từ hăg 1492, bầu hết các nhánh Ấn-Âu còn tồn tại bị giới
hạn trong Tây Âu và chỉ có nhánh Ấn-Iran mở rộha r[ pbí[ Đôha ]ủa biển Caspia.
Từ đó Tây Âu fà gột giải pháp kinh tế nhất cho việc tìm kiếg quê bươha ]ủa PIE:
bởc đó fà acải pháp cầh ít haười nhất để di chuyểh đến một khoảng cách xa.
Không may cho giảc pbáp hày fà vài hăg 1900 gột ngôn ngữ Ấn-Âu “gớc”
hbưha tbự] r[ đã tồn tại từ fâu được phát hiện ở một vị trí không chắ] đúha. Đầu
tiên, ngôn ngữ này (bây giờ được gọi là tiếng Tocharia) xuất hiện trong một
phòng ngủ bí mật đằng sau một bứ] tường trong một ngôi chùa thờ Phật nằm
triha b[ha đá. Căh phòng có chứa một tbư vcện với các tài liệu cổ, được viết vào
khoảha hăg 600 - 800 bởi hội truyền giáo của nhữha tíh đồ đạo Phật và các
tbươha hbâh. Tbứ hai, hội truyềh acái đặt ở vùng Turkestan thuộc Trung Quốc,
nằm về pbí[ đôha ]á]b x[ tất cả nhữha haười nói ngôn ngữ Âu-Ấn hiện nay và
khoảng 1000 dặm nếu so với những trụ sở gần nhất. Cuối cùng, Tocharia không
có quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ Ấn-Iran, nhánh ngôn ngữ Ấn-Âu gầh aũc hbất
về mặt đị[ fý, hbưha tb[y vài đó fại có thể có quan hệ với những nhánh ngôn ngữ
hoàn toàn chỉ sử dụng ở ]bâu Âu, ]á]b đó bàha habìh ^ặm về pbí[ tây. Đcều này
giốha hbư fà ]búha t[ đột nhiên phát hiện ra rằng nhữha haười dân thời kỳ tiền
Trung Cổ của Scotland nói một ngôn ngữ có liên quan với tiếng Trung Quốc.
Hiểu nhiên rằng nhữha haười nói tiếha Ti]b[rc[ ebôha đến vùng Turkestan
thuộc Trung Quốc bằng trự] tbăha. Cbắc chắn họ đc \ộ hoặ] ]ưỡi ngự[ đếh đó, và
chúng ta phải thừa nhận rằha vùha Truha Á trướ] đây ]ó hbcều loại ngôn ngữ Ấn-
Âu ebá] gà đã \cến mất không còn chút dấu vết hài được giữ lại thông qua
những bản chữ viết triha ]á] ]ăh pbòha \í gật hbư vậy. Bảh đồ ngôn ngữ thuộc
đại lục Á-Âu hiệh đại (Hình 7) làm sáng tỏ đcều đã xảy ra với ngôn ngữ Tocharia
và tất cả những ngôn ngữ Ấn-Âu đã \cến mất khác của Trung Á. Ngày nay cả
vùha đó đã \ị xâm chiếm bởi nhữha haười nói thứ tiếng Thổ hoặc Mông Cổ, con
cháu của những bầy haười nguyên thủy đã đc qu[ vùha hày ít hbất từ thời kỳ của
haườc Huha Nô ]bi đếh Tbàhb Cát Tư Hãh. Cá] bọc giả vẫn còn tranh cãi về việc
]ó b[y ebôha ]á] đội quân củ[ Tbàhb Cát Tư Hãh tàh sát 2.4000.000 biặc
1.600.000 haười khi họ chiếg đóha H[r[t, tuy hbcêh, ]á] bọc giả đồng ý rằng
nhữha bàhb độha hbư tbế đã fàg \cếh đổi bảh đồ ngôn ngữ củ[ ]bâu Á. Naược
lại, hầu hết các ngôn ngữ Ấn-Âu được biết fà đã \cến mất ở châu Âu - giốha hbư fà
ngôn ngữ gố] C_ft và C[_s[r đã từha được nói ở Gaul - lại bị thay thế bởi các ngôn
ngữ Ấn-Âu khác. Trung tâm rõ ràng của các ngôn ngữ Ấn-Âu ở châu Âu vào thời
đcểg hăg 1492 fại là một góh đồ khảo cổ của việc hủy diệt hàng loạt các loại
ngôn ngữ gầh đây ở châu Á. Nếu quê bươha ]ủa PIE thật sự nằm ở vị trí trung tâm
củ[ fãhb địa của ngôn ngữ Ấn-Âu trong khoảha hăg 600, trải dài từ Ir_f[h^ đến
vùng Turkestan thuộc Trung Quố], tbì quê bươha hày ]bắc hẳn phải là ở thảo
nguyên Nga, phía bắc của vùng Caucasus chứ không phải là ở Tây Âu.
Khi các ngôn ngữ tự bảh tbâh ]búha đã ]bi ]búha t[ gột vài manh mối về
thời gian xảy ra sự phân chia của ngôn ngữ PIE tbì ]búha ]ũha ]bứa các manh
mối về vị trí quê bươha ]ủa ngôn ngữ PIE. Một manh mối trong số đó fà bọ ngôn
ngữ mà ngôn ngữ Ấn-Âu vốn có quan hệ rõ ràng nhất: tiếng Phần Lan-Hungary,
họ ngôn ngữ bao gồm tiếng Phần Lan và các ngôn ngữ bản xứ khác của vùng rừng
bắ] hước Nga (xem Hình 7). Ngày nay, rõ ràng là, mối liên hệ giữa tiếng Phần-
Hung và ngôn ngữ Ấn-Âu bị suy yếu nhiều bơh si với mối liên hệ giữa tiếha Đức
và tiếng Anh bắt nguồn từ thực tế là tiếha Ahb đượ] g[ha đếh hước Anh từ vùng
Tây Bắc củ[ hướ] Đức chỉ 1500 hăg trước. Những mối liên hệ ấy còn yếu bơh
nhiều so với mối liên hệ giữa những nhánh tiếha Đức và tiếng Slav của hệ ngôn
ngữ Ấn-Âu, mà có thể được phân tách ra từ một vàc habìh hăg trước. Thay vào
đó, hbững mối liên hệ chỉ ra rằng mối quan hệ gầh aũc ]ổ xư[ bơh acữa những
haười nói tiếng PIE và nhữha haười nói tiếng Phần-Hung nguyên thủy. Tuy
nhiên, từ khi tiếng Phần-Hung lan tới các khu rừng phía bắ] hướ] Na[, tbì đcều đó
lại chỉ ra rằha quê bươha ]ủa ngôn ngữ PIE phải nằm ở thảo nguyên củ[ hước Nga
bướng về phía nam của những cánh rừha. Naược lại, nếu ngôn ngữ PIE phát triển
xa bơh về phía nam (chẳng hạh hbư fà ở Thổ Nbĩ Kỳ) thì mối quan hệ gầh aũc
nhất của ngôn ngữ Ấn-Âu có thể lại là với những ngôn ngữ Semit thuộc vùng Cận
Đôha.
Một manh mối thứ hai về quê bươha ]ủa ngôn ngữ PIE là từ vựng của ngôn
ngữ phi Ấn-Âu được tập hợp lại từ những phần nhỏ trong một vài các ngôn ngữ
Ấn-Âu. Tôc đã đề cập rằng phần nhỏ hày đặc biệt đáha ]bú ý ở ngôn ngữ Hy Lạp
và hó ]ũha rất đáha qu[h tâg triha tcếha Hcttct_, Ir_f[h^ và S[hserct. Đcều này
chỉ ra rằng những vùng này từha fà hơc ]bcếm cứ của ngôn ngữ phi Ấn-Âu và sau
này bị xâm lấn bởi ngôn ngữ Ấn-Âu. Nếu hbư vậy, quê bươha ]ủa ngôn ngữ PIE
không phải Ireland hoặc Ấh Độ (hơc gà haày h[y ebôha ]òh [c ]bi fà hbư vậy),
hbưha ]ũha ebôha pbải là Hy Lạp hoặc Thổ Nbĩ Kỳ (hơc gà bcện nay một số nhà
học giả vẫh tch fà hbư vậy).
Naược lại, ngôn ngữ Ấn-Âu hiệh đại vẫn giống nhất với ngôn ngữ PIE hoặc
Lithuania. Những mẫu chữ Lctbu[hc[ đầu tiên còn giữ được vào khoảha hăg
1500 chứa nhiều các từ có nguồn gốc từ ngôn ngữ PIE ]ũha hbư fà hbững chữ viết
của ngôn ngữ Sanskrit có từ gầh 3000 hăg trướ] đó. Sự gìn giữ ấy trong ngôn ngữ
Lithuania chỉ ra rằha ]búha fà đốc tượng của một vài ảhb bưởng xáo trộn từ ngôn
ngữ phi Ấn-Âu và có thể tồn tại rất gần vớc quê bươha ]ủa ngôn ngữ PIE. Trước
đây, tcếng Lithuania và các ngôn ngữ gốc Balt khác phân bố rộha bơh ở Nga, cho
đếh ebc haườc Gitb và Sf[v đã đư[ haười Balt quay trở lại vùng của Lithuania và
L[tvc[ đã \ị thu hẹp vào thờc đcểg đó ]ủa họ. Do vậy, fý ^i hày ]ũha ]bỉ ra rằng
quê bươha ]ủa ngôn ngữ PIE ]bíhb fà hước Nga.
Manh mối thứ \[ đến từ những từ vựng của ngôn ngữ PIE được khôi phục lại.
Cbúha t[ đã tbấy chúng bao gồm những từ chỉ vật quen thuộ] vài hăg 4000
tr.CN hbưha ebôha pbảc đối với những vật gà ]bư[ được biết đếh ]bi đến tận
hăg 2000 tr.CN đã acúp xá] địhb hcêh đại mà ngôn ngữ PIE được nói. Liệu chúng
]ũha ]ó tbể xá] địhb đượ] hơc gà haôh haữ PIE được nói? Ngôn ngữ PIE có một từ
chỉ tuyết (“shicabwis”) tbể hiện nhiệt độ chứ không phải là vị trí thuộc vùng
nhiệt đới và chứng minh nguồn gốc của từ “tuyết” trong tiếng Anh. Trong số
nhiều động vật và thực vật hoang dã có những cái tên trong ngôn ngữ PIE (hbư fà
“gus” - mouse (chuột)) thì phần lớn trong số đó f[h rộng sang cả vùng ranh giới
khí hậu củ[ đại lục Á-Âu và giữ hauyêh vĩ độ về quê bươha ]ủa chúng chứ không
phải là về echb độ.
Đối với tôi, manh mối rõ ràng nhất trong từ vựng của ngôn ngữ PIE là cái mà
chúng thiếu chứ không phải là cái mà chúng có: những từ chỉ cây trồng. Những
haười sử dụng ngôn ngữ PIE chắc chắn làm công việc nông trại vì họ có các từ chỉ
cái cày và cái liềm. Tuy nhiên, chỉ có một từ chỉ loạc haũ ]ố] ]bư[ xá] định là còn
tồn tạc. Naược lại, ngôn ngữ Bantu nguyên thủy củ[ ]bâu Pbc được phục hồi và
ngôn ngữ Austronesia nguyên thủy củ[ Đôha N[g Á fại có nhiều tên cây trồng.
Ngôn ngữ Austrih_sc[ được nói rất fâu trước ngôn ngữ PIE, vì thế những ngôn
ngữ Austronesia hiệh đại có nhiều thờc ac[h bơh để mất những cái tên cổ chỉ cây
trồha bơh fà hbững ngôn ngữ Ấn-Âu hiệh đại. Mặc dầu vậy, các ngôn ngữ Ấn-Âu
hiệh đại vẫn còn chứa nhiều tên cổ chỉ cây trồha bơh. Nbữha haười nói tiếng PIE
có thể thật sự có một vài loại cây trồng và con cháu của họ v[y gượn hoặc phát
minh ra các tên cây trồng khi họ di chuyển qua nhiều vùng nông nghiệp bơh.
Tuy nhiên, kết luận này lạc đư[ r[ ]bi ]búha t[ gột ]âu đố kép. Thứ nhất, vào
hăg 3500 tr.CN ]ôha vcệc nông trại trở thành một lối sống chiếg ưu tbế ở hầu
khắp châu Âu và phần lớh ]bâu Á. Đcều hày đã tbu bẹp lại các lựa chọn có thể về
quê bươha ]ủa ngôn ngữ PIE: Nó phải là một vùha ebôha \ìhb tbườha hơc gà
công việc nông trại không chiếg ưu tbế. Và thứ b[c fà đòc bỏi phải có câu trả lời
cho câu hỏi tại sao nhữha haười nói ngôn ngữ PIE lại có thể mở rộha được. Một
nguyên nhân chính của việc mở rộng ngôn ngữ Bantu và Austronesia là những
haười sử dụng ngôn ngữ đầu tiên của những hệ ngôn ngữ đó fà hbữha haười nông
^âh đã xâg ]bcếg ]á] vùha trướ] đó được chiếm cứ bởi nhữha haườc săh \ắt-hái
fượm mà với nhữha haười này, nhữha haười nông dân có thể đôha đải bơh biặc
có nhiều ưu tbế bơh. Đối với nhữha haười nói ngôn ngữ PIE, là nhữha haười nông
dân thời kỳ nguyên thủy xâm lấn những khu vực trồng trọt của châu Âu tùy
thuộc vào những kinh nghiệm lịch sử của họ. Di đó, ]búha t[ ebôha tbể giải
quyết được nguồn gốc của ngôn ngữ Ấn-Âu “ở đâu” ]bi đến khi chúng ta tiếp cận
được với câu hỏi khó nhất là: tại sao?
Ở châu Âu chỉ ha[y trước thờc đại chữ viết, đã xuất hiện không chỉ một mà là
hai cuộc cách mạng kinh tế từ trước tới nay - tạo nên nhữha tá] động có thể gây ra
^òha tbá] fũ gạnh mẽ về mặt ngôn ngữ. Cuộc cách mạha đầu tiên là sự xuất hiện
công việc nông trạc và ]băh huôc sú] vật vốn có nguồn gốc từ Truha Đôha ebiảng
hăg 8000 tr.CN, vượt qua Thổ Nbĩ Kỳ đến Hy Lạp khoảha hăg 6500 tr.CN, và s[u
đó f[h rộng sang phía bắ] và tây để đến Anh và Scandinavia. Công việc nông trại
và ]băn nuôi súc vật đã fàg ]bi ^âh số fiàc haườc tăha gạhb vượt qua cả những
haườc trướ] đây ]bỉ sống bằha săh \ắt và bác fượg. Cifch R_h`r_w, Gcái sư ebảo
cổ học ở Đại học Cambridge, Anh gầh đây đã xuất bản một cuốh sá]b đầy thách
thức - ông cho rằng nhữha haười nông dân từ Thổ Nbĩ Kỳ là nhữha haười nói
tiếng PIE mang ngôn ngữ Ấn-Âu đến châu Âu.
Phản ứha đầu tiên củ[ tôc ebc đọc cuốn sách củ[ R_h`r_w fà: “Tất nhiên, ông ấy
hẳh fà đúha.” Côha vcệc nông trạc đã pbải tạo ra sự dịch chuyển của ngôn ngữ ở
châu Âu, giốha hbư fà hó đã fàg ở ]bâu Pbc và Đôha N[g Á. Nbư ]á] hbà ^c
truyền họ] đã ]bỉ r[, đcều hày đặc biệt có vẻ phù hợp khi nhữha haười nông dân
đầu tiên tạo ra nhữha đóha aóp ti fớn nhất cho bộ gen của nhữha haười châu Âu
hiệh đại.
Tuy nhiên, giả thuyết của Renfrew lại lờ đc biặc nói qua loa tất cả các bằng
chứng ngôn ngữ. Nhữha haườc hôha ^âh đếh ]bâu Âu bàha habìh hăg trước thời
đcểg được cho là có ngôn ngữ PIE. Cái nhữha haườc hôha ^âh đầu tiên này không
]ó đượ] hbưha hbữha haười nói tiếng PIE lại có là những phát minh mớc hbư fà
cái cày, bánh xe và những con ngự[ được thuầh bó[. Đáha ]bú ý fà haôh haữ PIE
thiếu những từ chỉ cây trồha ^ùha để xá] địhb đặ] đcểm nhữha haười nông dân
đầu tiên. Tiếng Hittite, ngôn ngữ Ấn-Âu cổ nhất của Thổ Nbĩ Kỳ được biết đến,
không phải là ngôn ngữ Ấn-Âu gầh aũc với ngôn ngữ PIE thuầh túy hbư gọi
haười vẫh habĩ từ giả thuyết Thổ Nbĩ Kỳ củ[ R_h`r_w, tuy hbcêh, haược lại, phần
lớn mọc haườc đều bị lầm lẫn. Giả thuyết của Renfrew dự[ trêh pbươha pbáp suy
luận: công việc nông trại có thể tạo ra một ^òha tbá] fũ ]uốn trôi mọi thứ, sức
mạnh ghê gớm của ngôn ngữ PIE cần phải có một nguyên nhân, vì thế công việc
nông trạc đượ] ]bi fà hauyêh hbâh đó. Nbững thứ khác chỉ ra rằng công việc
nông trạc tb[y vài đó, g[ha đến châu Âu những ngôn ngữ cổ bơh gà haôh haữ
PIE đã f[h qu[, hbư fà haôh haữ vùng Etruria và Basque.
Nbưha ebiảha hăg 5000 - 3000 tr.CN - ngay tại thờc đcểm mà ngôn ngữ PIE
bắt đầu - cuộc cách mạng kinh tế thứ hai xảy ra ở lụ] địa Á-Âu. Cuộc cách mạng
muộn này trùng với việc bắt đầu có nghể luyệh ecg và fcêh qu[h đến việc sử dụng
mở rộng trên quy mô lớh ]á] động vật được thuần hóa - không chỉ lấy thịt và da,
hbư ]ih haườc đã từng sử dụha ]á] động vật bi[ha ^ã triha 1.000.000 hăg, gà
với các mụ] đí]b gới bao gồm tạo ra sữa và leh, eéi ]ày, eéi ]á] pbươha tcện có
\áhb x_ và ]ưỡi ngựa. Cuộc cách mạng phản ánh một cách phong phú từ vựng
của ngôn ngữ PIE qua các từ chỉ “đòh aáhb” và “]ác ]ày”, “sữ[” và “\ơ”, “f_h” và
“ecểu dệt” và gột loạt các từ liên quan vớc ]á] pbươha tcện có bánh x_ (“\áhb x_”,
“trụ] x_”, “]àha x_”, “\ộ yêh ]ươha haự[”, “trụ] \áhb x_” và “đ[c haự[”).
Ý habĩ[ echb tế của cuộc cách mạha hày fà tăha ^âh số và sức mạnh của con
haườc vượt ra xa mức mà công việc nông trạc và ]băh huôc sú] vật đơh tbuần có
thể tại r[ được. Thí dụ, qua sữa và các sản phẩm từ sữa, một con bò dần dần cung
cấp nhiều hăha fượha bơh si với chỉ duy nhất từ thịt. Các ]ày acúp ]bi haười nông
dân trồha được nhiều diệh tí]b bơh fà ôha t[ ]ó tbể tạo ra chỉ với một cái cuốc
hoặc cái xẻha. Cá] pbươha tiệh ^i động vật eéi fàg ]bi ]ih haười khai thác
nhiều vùha đất bơh và ]òh g[ha ]á] sản phẩm của chúng về fàha để chế biến.
Đối với một vài lợi thế này thì khó có thể nói rằng chúng bắt nguồn từ đâu \ởi
vì chúng lan rộng quá nhanh. Ví dụ, ]á] pbươha tcện có \áhb x_ ]bư[ được biết
đếh trướ] hăg 3300 tr.CN, tuy hbcêh ]bỉ trong vòng vài thế kỷ của thờc đạc đó
]búha đã được ghi nhận phổ biến trên khắp ]bâu Âu và Truha Đôha. Nbưha ]ó
một lợi thế chủ yếu mà nguồn gốc của chúng có thể xá] địhb được: sự thuần hóa
ngự[. Na[y trước khi có sự thuần hóa ngựa, những con ngựa hoang không có ở
Truha Đôha và pbí[ h[g ]bâu Âu, bcếm thấy ở Bắc Âu và có nhiều chỉ ở các thảo
nguyên của Nga về pbí[ đôha. Bằng chứha đầu tiên của việc thuần hóa ngựa là ở
nềh văh bó[ Sr_^hy Stia ebiảha hăg 4000 tr.CN, ở những vùng thảo nguyên ở
phía bắc của Hắc Hảc, hơc gà hbà ebảo cổ họ] D[vc^ Ahtbihy đã xá] địhb được
những dấu hiệu trêh răha ]ủa ngựa chứng tỏ ngự[ đã được sử dụha để ]ưỡi.
Trên khắp thế giới, bất cứ hơc đâu và \ất cứ khi nào những con ngựa thuần hóa
đượ] đư[ vài sử dụha ]búha ]ũha đều tạo ra những lợi ích to lớn cho xã hội loài
haười. Lầh đầu tiên trong quá trình tiến hóa củ[ fiàc haườc, ]ih haười có thể đc
s[ha ]á] vùha đất ebá] hb[hb bơh đôc ]bâh ]ủa họ có thể đư[ bọ đc. Tố] độ giúp
nhữha haườc săh \ắt đuổi kịp con mồi và giúp nhữha haườc ]băh acữ vật nuôi có
thể quảh fý được những con cừu và gia súc của họ trên những vùng rộng lớn.
Quan trọha bơh fà tố] độ giúp các chiến binh thực hiện những cuộ] đột kích bất
ngờ nhanh chóng lên những kẻ thù ở xa và lạc rút quâh trước khi kẻ thù có thời
gian nhận ra cuộc tấn công củ[ đốc pbươha. Di đó, trêh ebắp thế giới ngự[ đã
cách mạng hóa chiến tranh và tại đcều kiện cho nhữha haười sở hữu ngự[ đ_ ^ọa
nhữha haười hàng xóm của họ. Khuôn mẫu mà người Mỹ chinh phụ] vùha Đồng
bằng Lớn của thổ ^âh ^[ đỏ khi những chiếh \chb ]ưỡi ngự[ đáha sợ thực sự được
tạo ra gầh đây, triha gột vài thế hệ từ hăg 1660 đếh hăg 1770. Kể từ khi những
con ngự[ ]bâu Âu đếh được miềh Tây hước Mỹ do sự xâm nhập của những người
châu Âu và các hàng hóa châu Âu khác thì chúng ta có thể chắc chắn rằng chỉ với
ngự[, haườc t[ đã fàg tb[y đổi xã hội của thổ ^âh ^[ đỏ ở nhữha vùha Đồng bằng.
Bằng chứng khảo cổ học cho thấy rõ ràng rằng những giống ngựa nộc địa
tươha tự ]ũha fàg \cến đổi xã hộc fiàc haười ở miền thảo nguyên củ[ hước Nga
sớg bơh hbcều, vào khoảha hăg 4000 tr.CN. Môc trường sống ở đồng cỏ rộng lớn
của thải hauyêh aây ebó ebăh ]bi ]ih haười trong việ] eb[c tbá] ]bi đến khi họ
có thể sử dụng ngự[ để giải quyết các vấh đề về khoảng cách và vận chuyểh. Nơc
]ư haụ củ[ ]ih haười ở vùng thải hauyêh hướ] Na[ tăha fêh hb[hb ]bóha với sự
thuần hóa ngự[ và s[u đó \ùha hổ với việ] pbát gchb ]á] pbươha tcện có bánh xe
bò kéo khoảha hăg 3300 tr.CN. Nền kinh tế của thảo nguyên dựa vào sự kết hợp
của cừu và gia súc cho thịt, sữa và len, với ngự[ và ]á] pbươha tcệh ]ó \áhb x_ để
vận chuyểh và được bổ sung nhờ chút ít công việc nông trại.
Không có bằng chứha hài đối với việc tích trữ thực phẩm và nền nông nghiệp
chuyên sâu ở những thảo nguyêh đầu tcêh đó, trác haượ] đáha eể với nhiều bằng
chứng ở các vị trí củ[ Truha Đôha và ]bâu Âu ebá] vài ]ùha tbờc đcểm. Nhữha ]ư
dân của thảo nguyên không có nhữha ebu địhb ]ư ]ố định rộng lớn mà rõ ràng là
tbườha tb[y đổi - một lần nữa lạc haược với những ngôi làng với những dãy hàng
trăg haôc hbà b[c tầng ở Đôha N[g ]bâu Âu ]ùha tbời kỳ đó. Đcều mà những kị
sỹ thiếu trong nghệ thuật kiếh trú] đượ] \ù đắp bằng sự nhiệt huyết quân sự hbư
được thấy trong các ngôi mộ rất phong phú của họ (chỉ ^àhb ]bi đàh ôhg!), trong
đó ]bứ[ đầy một số fượng lớh ^[i aăg và ]á] vũ ebí ebá], và đôc ebc tbậm chí cả
xe bò và bộ xươha haựa.
Vậy nên, sông Dnieper củ[ Na[ (x_g Hìhb 10 \êh ^ước) đáhb ^ấu một đường
biên giớc văh bó[ rời rạc: về pbí[ đôha hơc hbững kị sỹ được trang bị đầy đủ; còn
về phía tây là những ngôi làng làm công việc nông trại giàu có với những kho thóc
của họ. Sự gầh aũc ]ủa chó sói và cừu đó đượ] đáhb vần là N-Ỗ-I-R-Ắ-C-R-Ố-I. Khi
phát minh ra bánh xe hoàn thành gói hàng kinh tế của những kị sỹ tbì ]á] đồ tạo
tác chỉ ra sự lan rộng rất nhanh hàng nghìn dặm về pbí[ đôha qu[ ]á] tbảo
nguyên của Trung Á (xem bảh đồ). Từ sự dịch chuyểh đó, tổ tiên củ[ haười
Tocharia có thể xuất hiện. Nhữha haười sống ở thảo nguyên tràn về pbí[ đôha
đượ] đáhb ^ấu bằng sự tập trung của những ngôi làng làm nghề nông trại ở châu
Âu, nằm gần nhất với các thảo nguyên thành nhữha ebu địhb ]ư pbòha tbủ lớn,
s[u đó fà sự sụp đổ của các xã hội này và sự xuất hiện những mồ chôn thảo
hauyêh đặ] trưha ở ]bâu Âu ]ũha hbư về pbí[ tây hbư Huha[ry.
Trong nhữha ]á]b tâh đã tại hêh ^òha fũ ]uốn ghê gớm của nhữha haười dân
thảo nguyên thì có một thứ duy nhất mà họ tch tưởha biàh tiàh đó ]bíhb fà sự
thuần hóa ngựa. Họ ]ũha ]ó tbể phát triểh ]á] pbươha tcện có bánh xe, lấy sữa và
công nghệ len của nềh văh gchb Truha Đôha gột ]á]b độc lập, tuy nhiên, họ lại
v[y gượn cừu, gia súc, nghề luyện kim và có thể cả cái cày từ Truha Đôha biặc
]bâu Âu. Di đó, ebôha ]ó “vũ ebí \í gật” đơh fẻ nào có thể tự mình giải thích
được sự mở rộng của các thải hauyêh. Tb[y vài đó, với việc thuần hóa ngựa,
haười dân thảo nguyên trở thành nhữha haườc đầu tcêh đặt chung lợi ích về kinh
tế với lợi ích quân sự, ^i đó, đã acúp bọ trở thành kẻ thống trị thế giới trong 5.000
hăg tới - đặc biệt sau khi họ phát triển thêm cả nền nông nghiệp chuyên canh
cùng với sự xâm lấn về pbí[ Đôha N[g ]bâu Âu. Vậy nên, thành công của họ,
giốha hbư fà sự mở rộng của châu Âu ở ac[c điạn hai bắt đầu hăg 1492, fà gột sự
tình cờ củ[ schb địa lý học. Họ trở thành nhữha haườc ]ó quê bươha aắn liền với
nhiều loại ngựa hoang dã và mở rộng các thảo nguyên ra tới tận vùng trung tâm
của nềh văh gchb ở Truha Đôha và ]bâu Âu.
Nbư hbà ]ổ sinh vật học Liên bang Xô Viết M[rcd[ Gcg\ut[s đã từng tranh cãi,
nhữha haười trên thảo nguyên miền Tây, nhữha ]ih haười vùng núi Ural của
hước Nga ở thiên niên kỷ thứ IV tr.CN đã trùha ebớp với bức tranh mặ] định về
nhữha haười Ấn-Âu nguyên thủy, cội nguồn của chúng ta. Họ đã sốha vài đúha
thờc đcểg đó. Văh bó[ ]ủa họ bao gồm những yếu tố kinh tế quan trọha được tái
]ơ ]ấu trong ngôn ngữ PIE (chẳng hạh hbư \áhb x_ haựa kéo và ngự[), đã tbcếu
những yếu tố đ[ha ]òh tbcếu trong ngôn ngữ PIE (giốha hbư hbững chiến xa và
rất nhiều từ chỉ mùa vụ). Họ đã sống ở đúha đị[ đcểm dành cho ngôn ngữ PIE: thời
tiết ôn hòa, phía nam của nhữha haười Finno-Ugric, gầh quê bươha về sau này
củ[ haười Lithuania và và nhữha haười Balt khác.
Nếu sự trùng khớp này là chính xác, tại sao học thuyết nguồn gốc thảo nguyên
của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu vẫn còn gây ra quá nhiều tranh cãi? Sẽ không có sự tranh
cãi nào nếu những nhà khảo cổ học có thể chứng minh sự mở rộng nhanh chóng
củ[ văh bó[ tbảo nguyên từ miềh h[g hước Nga theo mọi ngả đườha đếh được
tới Ireland khoảha hăg 3000 tr.CN. Nbưha đcều đó đã ebôha xảy ra: bằng chứng
trực tiếp của chính những cuộc mở rộng của những kẻ xâg fược thảo nguyên
ebôha vượt x[ bơh pbí[ Tây Huha[ry. Tb[y vài đó, xuha qu[hb biặ] s[u hăg
3000 tr.CN, một haười tìm thấy một sự bố trí gây hoang mang của nhữha văh bó[
ebá] đ[ha pbát trcển tạc ]bâu Âu và đượ] đặt tên theo những bằng chứng khảo cổ
của họ (ví dụ hbư văh bó[ ]ủa nhữha đồ có sọc nổc và văh bó[ ]ủa chiến tranh có
sử dụng búa rìu). Những nềh văh bó[ gới xuất hiện này của Tây Âu kết hợp
những yếu tố thải hauyêh hbư haựa và tính hiếu chiến với những yếu tố ]ũ ]ủa
nềh văh gchb Tây Âu gà đặc biệt triha đó fà hền nông nghiệp đã được thiết lập.
Những thực tế này là nguyên nhân khiến cho nhiều nhà khảo cổ học coi nhẹ giả
thuyết thải hauyêh được phát triển cùng vớc đó, và hbìh hbậh văh bó[ xuất hiện
ở Tây Âu hbư fà sự phát triểh đị[ pbươha.
Nbưha có một lý do hiển nhiên giải thích tạc s[i văh bó[ tbảo nguyên không
thể mở rộng ảhb bưởng tới Ireland. Bản thân thải hauyêh ]ũha ]bỉ vươh tới giới
hạn về phía Tây là trong những vùng thảo nguyên bằng phẳng ở Huha[ry. Đó fà
hơc tất cả những kẻ xâg fược thảo nguyên tiếp sau củ[ ]bâu Âu, hbư hbữha haười
Mông Cổ dừng lạc. Để mở rộha bơh, xã bội thảo nguyên phải thích ứng với vùng
đất rừng của Tây Âu - thông qua việc tiếp nhận nền nông nghiệp chuyên sâu hay
thâu tóm những xã hộc ]bâu Âu đ[ha tồn tại và tạo ra con lai với nhữha haười ở
đó. Hầu hết vốn gen của những xã hộc được lai tạo ấy chứ[ đựng những gen có ở
haười châu Âu cổ.
Nếu nhữha haười thải hauyêh áp đặt ngôn ngữ PIE, tiếng mẹ đẻ của họ, lên
pbí[ Đôha N[g ]bâu Âu ]bi tới tận Hungary, và rồi biến nó trở thành một thành
viên của nềh văh bó[ Ấn-Âu tbì hó ebôha ]òh fà văh bó[ tbảo nguyên chính gốc,
mà rồc đã gở rộng ra những nềh văh bó[ ]ih ]báu \ắt nguồh s[u đó ở nhữha hơc
khác nữa của châu Âu. Bằng chứng khảo cổ học của sự tb[y đổc văh bó[ ]bủ yếu
đề xuất rằng những nềh văh bó[ ]ih ]báu hày ]ó tbể mở rộng ra khắp châu Âu và
tớc vùha Đôha Ấn khoảng giữa nhữha hăg 3000 và 1500 tr.CN. Nbcều ngôn ngữ
không phải hệ ngôn ngữ Ấn-Âu đã tồn tạc đủ fâu ^àc để đượ] fưu acữ bằha văh \ản
(hbư tcếng vùng Etruria), và tiếng củ[ haười xứ Basque vẫn còn tồn tại cho tới
haày h[y. Nbư vậy, dòng thác cuốn của ngôn ngữ Ấn-Âu đã ebôha pbải là một làn
sóha đơh fẻ, mà là một chuỗi dài của những sự kiện diễn ra trong suốt 5.000 hăg.
Tươha tự hbư vậy, hãy xem xét hệ ngôn ngữ Ấn-Âu đã đến thống trị miền Bắc
và Nam Mỹ hiện nay. Chúng ta có rất nhiều bản chữ viết nói lên rằng chúng bắt
nguồn từ những cuộc khai phá củ[ haười nói tiếng Ấn-Âu đến từ ]bâu Âu. Nbưha
nhữha haườc ^c ]ư hày ]ủ[ ]bâu Âu đã ebôha fàg ]bủ được châu Mỹ chỉ trong
thời gian ngắn, và những nhà khảo cổ học không tìm thấy những di chỉ của
những nềh văh bó[ ]bâu Âu ebôha \ị biếh đổi trong suốt thế kỷ XVI ở Tân Thế
giới. Nềh văh bó[ đó tbật vô ích ở biên giớc hước Mỹ. Tb[y vài đó, văh bó[ ]ủa
nhữha haười thự] ^âh đã \ị biếh đổi mạnh hay gọi là dạng con lai, kết hợp giữa hệ
thống ngôn ngữ Ấn-Âu và công nghệ ]bâu Âu (hbư súha và tbép) với những cách
thức trồng trọt của thổ dân châu Mỹ (đặc biệt ở Trung và Nam Mỹ) và nguồn gen
của thổ dân. Một vài vùng ở Tân Thế giớc đã ebcến cho hệ ngôn ngữ và nền kinh tế
Ấn-Âu phải mất tới nhiều thế kỷ mới có thể kiểm soát nổi. Sự thống trị ấy đã
không tớc được Bắc Cực cho tới tận thế kỷ này. Và tới tận giờ, họ mới kiểm soát
được nhiều vùng thuộc Amazon, còn vùng núi Andes ở Peru và Bolivia chắc rằng
sẽ vẫh ^uy trì văh gchb tbổ dân trong một thời gian lâu dài nữa.
Hình 10: Bảh đồ này chỉ ra bằng cách nào những ngôn ngữ Ấn- Âu còn tồn tại
có thể lan rộha r[. Quê bươha đượ] suy điáh ]ủa ngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thủy,
thứ ngôn ngữ cổ \[h đầu, được sử dụng tại những vùng củ[ hước Nga tiến về phía
Bắc tới vùng biểh Đ_h và hằm về pbí[ đôha ]ủa con sông Dnieper.
Giả sử rằng một vài nhà khảo cổ họ] tươha f[c tcến hành khai quật ở Brazil, sau
khi những bản chữ viết đã \ị phá hủy và ngôn ngữ Ấn-Âu không còn tồn tại ở
châu Âu. Những nhà khảo cổ này sẽ tìm thấy nhữha đồ chế tác củ[ ]bâu Âu đột
nhiên xuất hiện trên những bãi biển của Brazil vào khoảng nhữha hăg 1530,
hbưha rất fâu s[u đó bọ mới thống trị được Amazon. Nhữha ]ih haười mà các
nhà khảo cổ tìm thấy sống ở vùng Amazon thuộc Brazil sẽ là một đống hỗn tạp về
di truyền giữa những thổ dân châu Mỹ, ]bâu Pbc ^[ đ_h, haườc ]bâu Âu và haười
Nhật Bản, và lại nói tiếng Bồ Đài Nb[. Nbà ebảo cổ ấy ]bư[ ]bắ] đã hbận ra rằng
tiếha Bò Đài Nb[ fà gột thứ ngôn ngữ xâm nhập, được nhữha haười xâm chiếm
mang tới và tạo nên một xã hội lai tại g[ha tíhb đị[ pbươha.
Thậm chí sau khi có sự mở rộng ngôn ngữ Ấn-Âu vào khoảng thiên niên kỷ
thứ IV tr.CN, nhữha tươha tá] gới giữa những con ngự[ eéi, ]ih haười của thảo
nguyên và những ngôn ngữ PIE đã tcếp tụ] định dạng lịch sử củ[ đại lục Á-Âu.
Công nghệ ngự[ eéi triha văh bó[ PIE ]òh rất hauyêh sơ và ]ó fẽ chỉ tiến hóa
chút ít với một dây chão nhỏ và việ] ]ưỡi ngựa không cần tớc yêh ]ươha. Hàha
haàh hăg s[u đó, acá trị quân sự của những con ngự[ đã tcếp tụ] được cải thiện
với những phát minh bắt nguồn từ kim loại và sự dàn trận với ngựa chiến khoảng
hăg 2000 tr.CN ]bi tới giày làm từ da ngự[, \àh đạp ngựa và yên ngựa của
những kỵ binh sau này. Trong khi hầu hết những tiến bộ hày đã không phải có
nguồn gốc từ thảo nguyên, nhữha haười thảo nguyên vẫn là nhữha haườc được
bưởng lợi nhiều nhất, bởi vì họ luôn có nhiều bãi cỏ và ^i đó ]ó tbể có nhiều ngựa
bơh.
Cùng với sự phát triển của công nghệ ngự[, ]bâu Âu ]ũha \ị xâg fược bởi rất
nhiều haười khác nữa ở thảo nguyên, mà trong số đó hbữha haười Hung, Thổ Nbĩ
Kỳ và Mông Cổ được biết tới nhiều nhất. Nhữha haườc hày đã tạo nên những
thành công trên quy mô rất lớn, với những triều đại ngắn ngủi, trải dài từ vùng
đồng cỏ cho tới tậh Đôha Âu. Nbưha ebôha \[i acờ nhữha haười ở thảo nguyên
lại có thể áp đặt ngôn ngữ của họ lên vùng Tây Âu. Họ thích thú vớc ưu đcểm lớn
nhất của bản thân ngay từ lúc bắt đầu, khi nhữha haười thuộc hệ ngôn ngữ PIE
]ưỡi ngựa không yên lan rộng ra khắp châu Âu mà không cần tới những con ngựa
của chính châu Âu.
Đã ]ó sự khác nhau khác giữa những cuộ] xâg fượ] được ghi lạc s[u đó và ]uộc
xâg fược của ngôn ngữ PIE từ sớg bơh ]bư[ được ghi lại. Những kẻ xâg fược sau
không còn là nhữha haười nói tiếng Ấn-Âu đến từ những thảo nguyên miền Tây,
mà chính là nhữha haười nói tiếng Thổ Nbĩ Kỳ và Mông Cổ tới từ những thảo
nguyên miềh Đôha. Trớ trêu là, những con ngự[ đã acúp ]bi ]á] \ộ lạc Thổ Nbĩ
Kỳ ở vùng trung tâm của châu Á trong thế kỷ XI có thể xâm chiếg đất đ[c ]ủa
haười Hittite - haười có chữ viết đầu tiên thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu. Nbư vậy,
\ước tiến quan trọng nhất của nhữha haười Ấn-Âu đầu tcêh đã qu[y r[ ]bống lại
con cháu của họ. Nhữha haười Thổ Nbĩ Kỳ chủ yếu là nhữha haười châu Âu cùng
gen với họ, hbưha ebôha hóc tcếng Ấn-Âu (mà là tiếng Thổ). Tươha tự, một cuộc
xâg fược miềh Đôha vài hăg 869 đã ebcếh ]bi haười Hungary hiệh đại phần lớn
mang gen giống vớc haườc ]bâu Âu hbưha fại nói tiếng Phần-Hung. Bằng việc
minh họa cách một nhóm nhỏ nhữha haườc ]ưỡi ngựa trên thảo nguyên có thể áp
đặt ngôn ngữ của họ lên cả xã hội châu Âu, Thổ Nbĩ Kỳ và Huha[ry đã ]uha ]ấp
những hình mẫu về việc làm thế nào mà phần còn lại củ[ ]bâu Âu ]ũha trở thành
khu vực nói tiếng Ấn-Âu.
Cuối cùng, nhữha haười trên thảo nguyên nói chung, không quan tâm tới
ngôn ngữ của họ, dành thắng lợi liên tụ] trêh pbươha ^cện công nghệ bàha đầu
của Tây Âu. Khi có kết quả thì kết quả đã \ị biếh đổc. Vài hăg 1241, haười Mông
Cổ đã đạt tới một đế quốc thảo nguyên lớn nhất từng tồn tại, trải dài từ Hungary
tới Trung Quố]. Nbưha s[u ebiảha hăg 1500, bệ ngôn ngữ Ấn-Âu củ[ haười Nga
đã \ắt đầu chiếm lại những vùng thải hauyêh đó từ bướng Tây. Chỉ mất vài thế
kỷ, chế độ Na[ Hiàha đã tbống trị nhữha haườc ]ưỡi ngựa trên thảo nguyên -
nhữha haườc đã từng chiếg fĩhb ]bâu Âu và Trung Quố] triha bơh 5.000 hăg.
Ngày nay, những vùng thải hauyêh đã đượ] haăh đôc \ởc hước Nga và Trung
Quốc, và chỉ ]òh haười Mông Cổ vẫh đ[ha ^uy trì gột chút ít tàn tích của vùng
thải hauyêh độc lập.
Rất nhiều lờc hóc vô ]ăh ]ứ của nhữha haười phân biệt chủng tộ] đã được ghi
chép lại bàn về sự ưu vcệt của bản thân nhữha haười Ấn-Âu. Việc tuyên truyền
củ[ Đức Quố] xã đã vcện dẫh đến một cuộ] đu[ ]ủ[ haười Aryan thuần chủng.
Trên thực tế hệ ngôn ngữ Ấn-Âu ]bư[ \[i acờ được thống nhất kể từ sự mở rộng
ngôn ngữ PIE từ 5.000 hăg trướ] đây, và tbậm chí bản thân nhữha haười nói
ngôn ngữ PIE ]ũha \ị chia cắt bởi những nềh văh bó[ aầh aũc với nhau. Một vài
trận chiếh ][y đắng nhất và nhữha tbàhb tí]b đáha echb tởm nhất mà lịch sử đã
ghi lạc được là lúc một nhóm haười Ấn-Âu chống lạc hbóg ebá]. Naười Do Thái,
^âh Gypsy và haười Slav những chủha haườc gà Đức Quố] xã đã tìg ecếm nhằm
tiêu diệt biàh tiàh, ]ũha tr[i đổi bằng ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu,
giốha hbư eẻ thù của họ. Nhữha haười nói tiếng Ấn-Âu nguyên thủy chỉ đơh
thuầh fà đã ở đúha đị[ đcểg và đúha tbờc ac[h để tập hợp hàng loạt những công
nghệ hữu ích. Nhờ vào sự may mắh đáha echb haạ] đó, haôh haữ của họ trở
thành tiếng mẹ đẻ mà những ngôn ngữ bắt nguồn từ nó giờ đã được sử dụng bởi
phân nử[ haười trêh Trác đất ngày nay.
MỘT TRUYỀN THUYẾT NGÔN NGỮ ẤN-ÂU CỔ

Owis Erwoosque
Gwrreei owis, quesyo whlnaa ne eest, ekwoons espeket, oninom ghe gwrrum
woghom weghontm, oinomque megam bhorom, oniomque ghmmenm ooku
bherontm.
Owcs hu _ewigis _w_wqu_t: “K__r [abhutoi moi ekwoons agontm nerm
wc^ht_c.”
Eewiis tu _w_wquiht: “Kfu^bc, iw_c, e__r ab_ [abhutic hsg_c wc^htgis:
neer, potis, owioom r wlhnaam sebhi gwhermom westrom qurmneuti. Neghi
iwciig wfb[[ _stc.”
Tod keklowoos owis agrom ebhuget.
(THE) SHEEP AND (THE) HORSES

On (a) hill, (a) sheep that had no wool saw horses, one (of them) pulling (a)
heavy wagon, one carrying (a) big load, and one carrying (a) man quickly.
(Tb_) sb__p s[c^ ti (tb_) birs_s: “My b_[rt p[chs g_, s__cha ([) g[h ^rcvcha
birs_s.”
(The) horses s[c^: “Lcst_h, sb__p, iur b_[rts p[ch us wb_h w_ s__ (tbcs): ([)
man, the master, makes (the) wool of (the) sheep into (a) warm garment for
bcgs_ft. Ah^ (tb_) sb__p b[s hi wiif.”
Having heard this, (the) sheep fled into (the) pain.
CỪU VÀ NGỰA

Trên quả đồi, một con cừu trụi lông trông thấy những con ngựa, một trong số
chúng kéo một xe ngựa rất nặng, một con thồ một fượng hàng lớn, còn một con
chở một haườc đàh ôha tbì đc rất nhanh.
Cừu nói với những con ngự[: “Tbật đ[u đớn khi nhìn thấy các anh bị con người
]ưỡc fêh.”
Những con ngự[ hóc: “Nab_ đây, ]ừu, chúng tôi mớc đ[u fòha ebc hbìh tbấy
đcều hày: haườc đàh ôha b[y ôha ]bủ ấy biến lông cừu thành một loại hàng len
ấm cho anh ta. Và vì thế mà cừu trục fôha.”
Nghe thấy đcều đó, ]ih ]ừu đ[u đớn lủi mất.
Để cung cấp một ]bút ý habĩ[ về việc ngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thủy (PIE) có
thể pbát âg hbư tbế hài, tôc đư[ r[ gột truyền thuyết trong ngôn ngữ PIE đã
được sắp xếp lại, cùng với việc dịch nó ra tiếng Anh. Truyền thuyết hày đã được
sáha tá] bơh gột thế kỷ trước bởi nhà ngôn ngữ August Schleicher. Bản ghi mà
tôc đư[ r[ ^ựa vào một cuốh sá]b đã được xuất bản bởi W. P. Lehmann và L.
Zaust[ hăg 1979 và tbêg vài sự hiểu biết về ngôn ngữ PIE đã tìg được từ thời kỳ
Schleicher. Bảh abc đã được tái tạo ở đây đã ]ó ]bút ít tb[y đổi so với bản của
Lehmann và Zgusta, và làm nó trở hêh “qu_h tbuộ]” bơh đối với nhữha haười có
ít hiểu biết về vấh đề này, theo lời khuyên của Jaan Puhvel.
Trong khi ngôn ngữ PIE thoạt tiên nhìn rất khác lạ, hbưha fại có nhiều từ được
chứng minh là rất quen thuộc sau khi khảo sát bởi tồn tại những nguồn gố] tươha
tự của tiếng Anh và Latin xuất phát từ ngôn ngữ PIE. Ví dụ hbư, “iwcs” habĩ[ fà
“sb__p - cừu”; “wfbh[[” habĩ[ fà “wiif - f_h”; “_ewiis” habĩ[ fà “birs_ - ngự[”
(tiếha L[tch fà “_quus”); “abgg_hg” habĩ[ fà “g[h - haườc đàh ôha” (b[y
“bug[h - ]ih haườc”, triha tcếha L[tch fà “bigch_g”); “qu_” habĩ[ fà “[h^ - và”
giốha hbư triha tcếha L[tch; “g_a[g” habĩ[ fà “\ca - lớh”; “gic” habĩ[ fà “ti g_ -
đối vớc tôc”; ]òh “wc^ht_c” và “wc^htgis” habĩ[ fà “s__ - nhìn thấy“. Bản chữ viết
của ngôn ngữ PIE thiếu những tân ngữ xá] định hoặ] ebôha xá] địhb (hbư fà
“tb_” và “[”) và ]á]b đặt động từ ở cuối câu hoặc mệhb đề.
Trong khi những mẫu văh tự chứng tỏ rằng một vài nhà ngôn ngữ đã habĩ
giống nhau về ngôn ngữ PIE, đcều đó ebôha biàh tiàh ]bíhb xá]. Hãy hbớ: ngôn
ngữ PIE ]bư[ \[i acờ đượ] abc ]bép trêh văh \ản; những học giả phân biệt từ
những chi tiết để tạo dựng lại ngôn ngữ PIE và những truyền thuyết ]ũha được
sáng tạo lại.
Tiếng Anh đã thay đổi thế nào trong suốt 1.000 năm qua: Bài thánh ca số 23.
Hiện đại (1989)
The Lord is my shepherd, I lack nothing
He lets me lied down in greeen pasture.
He leads me to still waters.
(Ông chủ tôi - haườc bướng dẫn tận tụy, chẳng làm tôi thiếu thốn thứ gì.
Ngài chỉ cho tôi nằm xuống nhữha đồng cỏ x[hb gướt.
Ngài dẫh tôc đc uốha hướ] đủ đầy.)
Kinh Thánh thời Vua James (1611)
The Lord is my shepherd, I shall not want
He maketh me to lie down in greeen pastures.
He leadeth me beside the still waters.
Trung Cổ (1100 - 1500)
Our Lord gouemeth me, and nothyng shl defailen to me
In the sted of pastur he sets me ther.
He norissed me upon water of fyllyng.
Tiếng Anh cổ (800 - 1066)
Drihten me raet, ne byth me nanes godes wan.
And he me geset on swythe good feohland.
And fedde me be waetera stathum.
Chƣơng 16
DA ĐEN VÀ DA TRẮNG
hi ngày quốc khánh của bất kỳ quố] ac[ hài đều được coi là cớ để haười dân

K đị[ pbươha tổ chứ] vuc ]bơc eỷ niệm, thì nhữha haườc ^âh Austr[fc[ đã ]ó
một nguyên nhân thật đặc biệt vài hăg 1988, hbâh ^ịp 200 hăg tbàhb fập
hước. Một vài nhóm nhữha haườc đc eb[c pbá đã pbảc đối mặt với những trở
ngạc hbư hbữha haườc đã ]ập đất liền với Hạg độc đầu tiên tới vị trí chính là
Sy^h_y haày h[y vài hăg 1788 đã từha đối mặt. Australia từha được coi là terra
incoginita (vùha đất ]bư[ [c \cết tới): nhữha haườc đc eb[c bi[ha ebôha \cết đcều
aì đ[ha ]bờ đợc gìhb ]ũha hbư fàg tbế hài để tồn tại. Họ đã \ị tách rời khỏc đất
mẹ bởi một cuộc hành trình dài qua biển tới 15.000 dặm, kéo dài trong tám
tháng. Họ phải trảc qu[ b[c hăg rưỡi gầh hbư ]bết đóc ]bi tới khi có một tàu cung
cấp thứ] ăh đến từ Anh cập bến. Nhiều haười trong số đó fà hbữha haườc đã từng
bị kết án và mang theo chấh tbươha sẵn có bởi tính chất khốc liệt của cuộc sống
tăg tối thế kỷ XVIII. Bất chấp sự khởc đầu hbư vậy, nhữha haườc địhb ]ư vẫn sống
sót, giàu có, sinh sôi trên khắp lụ] địa mới, xây dựng cả một xã hội dân chủ và tạo
lập nên những bản sắc riêng biệt của một dân tộc. Không có gì phảc \ăh ebiăh về
fý ^i haười Australia cảm thấy tự hào khi tổ chức kỷ niệm ngày thành lập đất
hước mình.
Tuy nhiên, một nhóm nhữha haười phảh đốc đã pbá bủy lễ kỷ niệm. Những
haườc địhb ]ư ^[ trắng thực ra không phảc fà haườc Austr[fc[ đầu tiên. Thay vào
đó, Austr[fc[ đã được tổ tiên của nhữha haười giờ đây được biết tớc hbư fà “tbổ
^âh Austr[fc[” và ]òh được biết đến ở Austr[fc[ fà “haườc ^[ đ_h” địhb ]ư từ
50.000 hăg về trướ]. Triha quá trìhb địhb ]ư ]ủ[ haười Anh, phần lớn thổ dân
đã \ị giết chết bởi nhữha haười mớc đếh địhb ]ư b[y ]bết vì những nguyên nhân
khác nhau, dẫh đến một số con cháu ngày nay của nhữha haười còn sống sót tiến
hành phảh đối lễ kỷ niệm lần thứ 200 thay vì chào mừng nó. Trong khi những
buổi lễ kỷ niệm ấy tập trung vào việc ngụ ý làm thế hài Austr[fc[ đã trở thành da
trắng thì tôi lại muốn bắt đầu ]bươha hày với việc nhấn mạnh vào cách mà
Australia ngừng việ] ]ó gàu ^[ đ_h, và ]á]b gà hbữha haườc địhb ]ư Ahb ][h
đảm kia lại phạm phải tội ác diệt chủng.
E ngại rằng nhữha haười da trắng ở Australia sẽ phảh đối quyết liệt, tôi muốn
nói rõ rằng tôi không buộc tội tổ tiên họ làm một số đcều khủng khiếp dị tbường.
Tb[y vài đó, hauyêh ^i ebcến tôi cho việc thảo luận về việc giết hại thổ dân là rất
xá] đáha \ởi nó không phảc fà trường hợp cá biệt duy nhất: đó ]bỉ là một ví dụ đã
được ghi chép rất đầy đủ về một hiện tượng mà tần số xuất hiện củ[ hó được ít
haườc đáhb acá ][i. Triha ebc sự fcêh tưởha đầu tiên củ[ ]búha t[ đến thế giới
“^cệt chủha” ]ó vẻ là những cuộc giết chóc trong các trại tập trung củ[ Đức Quốc
xã, thì những cuộc tàn sát ấy lại không phải tội ác diệt chủng lớn nhất trong thế
kỷ này. Nhữha haườc T[sg[hc[ và bàha trăg hbóg haườc ebá] đã từng là mục
tiêu hiệh đại của những trại diệt chủng tập trung thành công có quy mô nhỏ bơh.
Hàng loạt nhữha ]ih haười rải rác trên khắp thế giới là những mục tiêu tiềm
năha triha tươha f[c aầh. Đúha fà hạn diệt chủng là một chủ đề đ[u tbươha gà
chúng ta không muốh habĩ tới chút nào, hay chúng ta muốn tin rằng những
haười tử tế không thể phạm tội diệt chủng, chỉ bọh Đức Quốc xã mới làm vậy mà
tbôc. Nbưha ]bíhb sự từ chối củ[ ]búha t[ ebc habĩ tớc đcều đó đã ^ẫn tới những
hậu quả: chúng ta chỉ fàg được rất ít để tạm dừng số fượng những cuộc diệt
chủng diễn ra kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ II, và chúng ta vẫn không cảnh
\ái được về hơc đcều đó sẽ diễn ra tiếp theo. Cùng với sự phá hoại của chúng ta tới
gôc trường tài nguyên củ[ ]bíhb fiàc haườc, ebuyhb bướng diệt chủng kết hợp
với bom nguyên tử giờ đây tại hêh b[c pbươha tcện hữu hiệu nhất để đải haược
lại tất cả quá trình tiến bộ củ[ ]ih haười chỉ sau một đêg.
Bất chấp mối quan tâm tới nạn diệt chủha đã tăha fêh đối với những nhà tâm
lý học và sinh vật họ] ]ũha hbư hbữha haười không có chuyên môn khác, những
câu hỏc ]ơ \ản về đcều này vẫn còn nhiều tranh cãi. Liệu có bất kỳ loài thú nào vẫn
tbường giết hạc đồng loại, hay đó ]bíhb fà gột sáng tạo riêng củ[ fiàc haười mà
không có bất cứ tiền lệ nào từ động vật? Trong suốt lịch sử fiàc haười, diệt chủng
là tội ác lầm lạc hiếm có, hay trở hêh tbôha tbường tới mức mà có thể xếp thành
những dấu hiệu củ[ fiàc haười bên cạnh nghệ thuật và ngôn ngữ? Liệu có phải
tần số xuất hiện củ[ hó đ[ha tăha fêh, \ởi nhữha vũ ebí bcệh đại cho phép tiến
hành cuộc diệt chủng chỉ với việc nhấn một nút bấg và hbư vậy giảg đc \ản
hăha haăh ]ản việc giết đồng loại củ[ fiàc haười chúng ta? Tại sao rất nhiều
trường hợp hbư vậy đã từng xảy r[ hbưha fại thu hút quá ít sự chú ý của loài
haười? Liệu những kẻ diệt chủng là nhữha ]á hbâh ebôha \ìhb tbường, hay là
nhữha haườc \ìhb tbườha hbưha \ị đặt vào tình thế bất tbường?
Để hiểu về tội ác diệt chủng, chúng ta không thể tiến hành tìm hiểu theo một
cách quá hạn hẹp mà phải dựa vào sinh họ], đại đức và tâm lý họ]. Nbư vậy,
khám phá của chúng ta về sự diệt chủng sẽ bắt đầu bằng việc lần theo dấu vết của
lịch sử sinh học, từ tổ tcêh vượh haười củ[ ]búha t[ ]bi đến thế kỷ XX. S[u ebc đặt
ra câu hỏi làm thế nào những kẻ giết haười gắn kết sự diệt chủng với những tiêu
chuẩh đại đức, chúng ta có thể kiểm tra những ảhb bướng tâm lý lên những thủ
phạg đã aây r[, ]á] hạn nhân còn sống sót và cả với nhữha haười quan sát.
Nbưha trước khi chúng ta tìm kiếg được những câu trả lời cho các câu hỏi này, sẽ
rất hữu ích nếu bắt đầu với sự tuyệt diệt củ[ haười Tasmania, một trường hợp
nghiên cứu đcển hình về sự diệt chủng trên quy mô lớn.
Tasmania là một đảo nhiều núi có diện tích gần bằng Ireland và nằm cách bờ
biểh Đôha N[g Austr[fc[ 200 ^ặg. Kbc được nhữha haười châu Âu phát hiện ra
vài hăg 1642, trêh đảo có khoảng 5.000 thổ ^âh săh \ắt bác fượm, sống quây
quần, có mối liên hệ với thổ ^âh trêh đất liền Australia và tồn tại ở đây một nền
công nghệ có lẽ là giảh đơh hbất so với bất kỳ haười hiệh đại nào. Nhữha haười
Tasmania chỉ fàg được một vài loạc đồ chế tác bằha đá và aỗ đơh acản. Giốha hbư
những thổ dân ở đất liền, họ thiếu những dụng cụ bằng kim khí, một nền nông
nghiệp, tbú để ]băh huôc, đồ gốm, cung và tên bắh. Nbưha ebôha hbư hbững
haười sốha trêh đất liền, họ còn thiếu cả \iig_r[ha, ]bó, fưới bẫy, kiến thức về
khâu vá và khả hăha tạo ra lửa.
Bởi vì những con thuyềh độc mộc của dân Tasmania chỉ là những cái bè có khả
hăha đc được hành trình rất ngắn, họ không thể ]ó được sự liên hệ với bất kỳ
hbóg haười nào kể từ khi mự] hước biển chia cắt Tasmania ra khỏi Australia từ
10.000 hăg về trước. Bị giam cầm trong thế giới riêng suốt bàha trăg tbế hệ, họ
đã tồn tại vớc đời sống biệt lập lâu dài nhất trong lịch sử fiàc haười hiệh đại - một
sự biệt lập tưởha hbư ]bỉ được mô tả trong những tiểu thuyết khoa học giả tưởng.
Khi những thực dân da trắng ở Australia cuốc ]ùha đã eết thúc sự biệt lập đó,
không có bất cứ b[c hbóg haười nào trên Trác đất lạc được trang bị ít đcều kiệh để
hiểu hb[u hbư acữa nhữha haười da trắng và những thổ dân Tasmania.
Sự va chạm bi kịch củ[ b[c hbóg haườc hày đã ^ẫn tớc xuha đột hầu hbư ha[y
lập tức khi nhữha haườc đc \cển và nhữha haườc địhb ]ư đến từ hước Anh tớc đây
vào khoảha hăg 1800. Nbữha haười da trắha đã \ắt cóc trẻ ]ih T[sg[hc[ để biến
thành nô dịch, bắt cóc phụ nữ làm trò mua vui, bức hại hoặc giết chết những
haườc đàh ôha, xâg ]bcếm nhữha đị[ \àh săh \ắn và cố gắng cách ly nhữha haười
Tasmania ra khỏc đất đ[c ]ủa họ. Vì vậy, xuha đột nhanh chóng tập trung vào
không gian sinh tồh, đcều mà qua các thờc đại lịch sử luôn là nguyên nhân thông
tbường nhất cho các cuộc diệt chủng. Kết quả của những cuộc vây bắt đó fà, ^âh
số bảh địa củ[ haười Tasmania ở vùng Đôha Bắ] vài tbáha Mười một hăg 1830
đã acảm tới mức chỉ còn lạc 72 haườc đàh ôha trưởha tbàhb, \[ haười phụ nữ và
không còn một đứa trẻ nào cả. Một haười dẫh đườha đã \ắh 19 haười Tasmania
bằng khẩu súha được nạp đầy đạh đchb. Bốh haười dẫh đườha ebá] đã mai phục
một hbóg haười bảh địa, giết chết 30 haười, và ném thân thể họ vài vá]b húc đá
gà được nhớ đến cho tới tậh bôg h[y ]bíhb fà Đồc Vc]tirc[ (Đồi Chiến thắng).
Một cách tự hbcêh, haười Tasmania phải chốha đỡ, và thế là nhữha haười da
trắha ]ũha đã trả đũ[ haược lạc. Để kết thúc sự leo thang, Chính phủ Athur vào
tbáha Tư hăg 1828 đã r[ fệnh tất cả nhữha haười Tasmania phải rời khỏi những
phầh đất đ[c vốh đã \ị xâm chiếm hoàn toàn bởi nhữha haườc ]bâu Âu. Để thực
hiện lệnh này, nhữha hbóg haười hỗ trợ chính phủ được gọc fà “hbóg fưu độha”,
bao gồm nhữha haười bị kết áh tù được dẫh đầu bằng cảhb sát, đã truy fùha và
giết chết haười Tasmania. Với tuyên bố áp đặt tình trạng thiết quân luật vào
tbáha Mười một hăg 1828, hbữha haườc fíhb đã được lệnh có quyền giết bất kỳ
haười Tasmania nào lảng vảng quanh những khu vự] đã đượ] địhb ]ư. Tcếp đó,
một phầh tbưởha đã được tuyên bố dành cho nhữha haười bảh địa: 5 bảng Anh
(đơh vị tiền tệ trước kia củ[ hước Anh) cho một haườc trưởng thành và hai bảng
cho một đứa trẻ con nếu bắt sốha đượ]. “Tóg fấy bọh ^[ đ_h” fà têh ]ủa chiến
dịch này dự[ trêh gàu ^[ đ_h ]ủ[ haườc T[sg[hc[, đã trở thành công việc kinh
doanh béo bở lôi cuốn những cá nhân và cả ]á] đảng phái chính quyềh fưu động.
Cùha fú] đó, gột khoản hoa hồha đã được trao cho William Broughton, phó chủ
giáo giáo phái Anh ở Australia, nhằg đư[ r[ đề xuất một chính sách tổng thể
dành cho dân bảh địa. Sau khi cân nhắc nhữha để xuất hbư \ắt giữ họ bán làm nô
lệ, hạ độ], đáhb \ẫy, b[y săh fùha bọ với những con chó, những nhiệm vụ được
nêu ra cùng với nhữha ebuyêh ebí]b ac[ tăha và sử dụng tới cả những cảnh sát ở
các vùng núi.
Vài hăg 1830, với một sứ mệnh rất đáha ]bú ý, G_ira_ Auaustus Ri\chsih(58),
đã đượ] tbuê để dồn nhữha haười Tasmania còn lạc và đư[ bọ tớc Đảo Flinder cách
đó ebiảng 30 dặg. Naườc t[ điáh ]bắc là Robinson sẽ thực hiện nhữha đcều tốt
đẹp ]bi haườc T[sg[hc[. Ôha t[ đã được trả trước 300 bảng và 700 bảng còn lại
sau khi mọi việ] đã xiha. Trải qua những nguy hiểg và ebó ebăh tbực sự, và
tbêg vài đó fà sự ^ũha ]ảm của một haười phụ nữ bảh địa tên là Truganini, ông
t[ đã tbàhb ]ôha triha vcệc mang nhữha haười bảh địa còn lại - \[h đầu, bằng
việc thuyết phục họ rằng có một số phậh đ[ha rất tồi tệ chờ đợi họ nếu họ không
đầu hàng, rồc s[u đó fà vcệ] ]bĩ[ súha vài bọ. Rất nhiều haười bị Robinson bắt giữ
đã ]bết trêh đường tớc Ffch^_r, hbưha ebiảha 200 haườc đã tớc đó, hbữha haười
cuối cùng của một dân tộc có tớc 5.000 haười.
Trugahchc, haườc đàh \à T[sg[hc[ ]uối cùng.

Bức ảhb được Wooley chụp, và được trích ra từ bộ sưu tập của Viện Bảo tàng và
Triển lãm Nghệ thuật Tasmania.

Trêh đải Ffch^_r, Ri\chsih đã quyết địhb đ_g văh gchb và đạo Thiên Chúa
truyền giảng cho nhữha haười còn sống sót. Việ] địhb ]ư ở đó acốha hbư gột kiểu
nhà tù, ở một hơc đầy gió và có rất ít hước sạch. Bọn trẻ con bị tách rời khỏi cha mẹ
nhằm tại đcều kiện thuận tiệh bơh triha vcệc nắm bắt nềh văh gchb gới. Thời
gian biểu được lên lịch hằng ngày bao gồg đọc Kinh Thánh, học hát thánh ca,
kiểg tr[ acường ngủ, \át đĩ[ s[i ]bi sạch bóng và gọn gàng. Tuy nhiên, chế độ
^chb ^ưỡng củ[ hbà tù đó đã aây r[ sự thiếu ^chb ^ưỡng, kết hợp với bệnh tật đã
làm nhữha haười dân bảh địa chết dần. Chỉ rất ít trẻ em sốha được trên một vài
tuần. Chính phủ giảg ]bc pbí để hi vọng rằng nhữha haười dân bảh địa sẽ chết
hết. Tớc hăg 1869, ]bỉ còn lại Truganini, một haườc đàh \à ebá] và gột haười
đàh ôha vẫn còn sống.
B[ haườc T[sg[hc[ hày đã tbu bút sự quan tâm của giới khoa học, những
haười tin rằng họ là mối dây liên kết đ[ha gất đc acữ[ ]ih haườc và ]á] fiàc động
vật nhân hình. Vì lẽ đó, ebc haườc đàh ôha ]uối cùng, William Lanner, chết vào
hăg 1869 tbì hbững nhóm bác sỹ đcều trị tranh giành nhau, dẫh đầu là tiến sỹ
George Stokell từ tổ chức Xã hội Hoàng gia Tasmania và tiến sỹ w. L. Crowther từ
khoa Giải phẫu thuộ] Đại họ] Hiàha ac[, đã tcếh bàhb đài fêh rồi lại chôn xuống
thi thể của Lanner, cắt rời từng phầh và đáhb ]ắp chúng từ nhóm còn lại. Tiến sỹ
Crowther cắt chiế] đầu, Tiến sỹ Stokell cắt tay và chân, và một vàc haười cắt tai,
gũc fàg đồ fưu hcệm. Tiến sỹ Stokell còn làm một túc đựng thuốc lá từ da của
Lanner.

Wcffc[g L[hh_r, haườc đàh ôha T[sg[hc[ ]uối cùng.

Bức ảhb được Wooley chụp, và được trích ra từ bộ sưu tập của Viện Bảo tàng và
Triển lãm Nghệ thuật Tasmania.

Trướ] ebc Trua[hchc, haười phụ nữ cuối cùng, chết vài hăg 1876, \à t[ quá
khiếp hãi vì cuộc khám nghiệm sau khi chết với những cắt xẻi tươha tự, đã ]ầu
khẩn trong tuyệt vọha fà được chôn cất ngoài bờ biểh. Nbưha đúha hbư hbững gì
bà lo sợ, Tổ chứ] Hiàha ac[ đã đài fấy bộ xươha ]ủ[ \à và trưha \ày ]bi ]ôha
chúng tham quan ở Viện Bảo tàng Tasmania, và việ] hày ]òh được duy trì tới tận
hăg 1947. Vài hăg hày, ]uốc ]ùha, để kết thúc những lời phàn nàn về bộ xươha
tội nghiệp đó, \ải tàha đã ]buyển hài cốt Truganini tới một ]ăh pbòha hơc ]bỉ có
những nhà khoa học mớc đượ] pbép qu[h sát. Đã ]ó quá hbcều lời phàn nàn kích
động về ]ơ tbể tội nghiệp đó. Cuốc ]ùha, vài hăg 1976, eỷ niệg 100 hăg s[u ]ác
chết của Truganini - bộ xươha ]ủ[ \à đã được hỏa thiêu mặc cho những bất bình
từ phía viện bảo tàng, và tro tàn củ[ \à đã được rải ngoài bờ biểh đúha hbư \à đã
từng yêu cầu.
Trong khi số fượha haười Tasmania là rất ít ỏi thì sự tuyệt diệt của họ lại có
những ảhb bưởha vượt quá mứ] độ trong lịch sử Australia, bởc vì haười Tasmania
là vấh đề dân bảh đị[ đầu tiên mà chính quyền thực dân Australia giải quyết và
]ũha đã đạt được những giải pháp gầh hbư trcệt để. Đcều hày ]ó được là nhờ vào
việc tiến hành thành công sự loại trừ hầu hbư hoàn toàn nhữha haười dân bản
địa. (Cho dù là, vẫn còn một vàc đứa trẻ con của nhữha haười phụ nữ Tasmania và
nhữha haười thủy thủ da trắng sống sót, và con cháu của họ ngày nay vẫn gây ra
vết hbơ đối với chính quyền Tasmania, mà không có cách gì giải quyết được họ.)
Nhiều haười da trắha trêh đất liền Australia ghen tị với tính triệt để của giải pháp
ở Tasmania và muốn bắt ]bướ] hó, hbưha bọ ]ũha đã ]ó được một bài học từ
chính sự việc này. Sự hủy diệt nhữha haườc T[sg[hc[ được tiến hành trong
nhữha vùha đã đượ] địhb ]ư trước toàn bộ sự chứng kiến của báo giớc địa
pbươha, và đã aây r[ hbững phản ứng tiêu cực. Do vậy, việc tiêu diệt hàng loạt với
số fượng thổ ^âh trêh đất liềh đôha aấp nhiều lầh tb[y vì đạt hiệu quả lại sẽ vượt
quá giới hạh, đc x[ bơh r[ ebỏi những khu vực thành thị.
Công cụ đối với chính sách này của các chính quyềh đị[ pbươha trêh đất liền
dập khuôn theo mô hình những nhóm quan chức chính phủ tình nguyệh hbư ở
Tasmania, chính là một nhóm những cảnh sát khu vự] vùha húc ]ó têh fà “Cảnh
sát bảh đị[”, sử dụng những chiến thuật tìm và diệt để tiêu diệt hay xóa sổ những
thổ dân. Một chiếh fượ] đcển hình nhất là bao vây một khu trạc vài \[h đêg và
bắn chết những thổ dân khi bắt đầu tấn công vào lúc bình minh. Nhữha haười
địhb ]ư ^[ trắha ]ũha đã gở rộng việc sử dụng thứ] ăh tẩg độ] để giết thổ dân.
Một bàhb độha tbôha tbường khác là quây lạc để bắt, bắt giữ những thổ dân rồi
cột chặt họ lại với nhau bằng dây xích cổ dẫh đến nhà giam và nhốt họ ở đó. Tcểu
thuyết ac[ haườc Ahb Ahtbihy Triffip_ đã hbấn mạhb tbác độ thịnh hành của
^âh Ahb đối với những thổ dân khi viết rằha: “Đối với tất cả nhữha haườc ^[ đ_h ở
Australia, lẽ tất nhiên chúng ta phải nói với họ rằng họ sẽ phải rờc đc. Vcệc họ biến
mất mà chẳng gây ra những ảhb bưởha ebôha đáha ]ó hài hêh fà mụ] đí]b ]bi
tất cả những ai quan tâm tới vấh đề hày.”
Những chiến thuật hbư tbế cứ kéo dài ở Australia trong suốt thế kỷ XX. Trong
một vụ tấn công bất ngờ tại vùng Alice Springs(59) hăg 1928, ]ảhb sát đã tbảm sát
31 thổ dân Australia. Quốc hội Australia từ chối chấp thuận một bản báo cáo về
vụ thảm sát, và hai thổ dân còn sống sót (chứ không phải là cảhb sát) đã \ị buộc
tội giết haười. Việc treo cổ vẫn còn tiếp tụ] được sử dụha và để bảo vệ gìhb trước
những giá trị đại đứ], hbâh văh vài hăg 1958, ủy ban Cảnh sát của chính quyền
bang miềh Tây Austr[fc[ đã acải thích với tờ Herald(60) ở Melbourne rằng những tù
nhân thổ dân muốh hbư vậy ]òh bơh fà \ị xiềng xích.
Số thổ ^âh trêh đất liềh fà quá đôha để có thể tiêu diệt hoàn toàn theo cách
thức ở Tasmania. Tuy nhiên, từ khi những thự] ^âh haườc Ahb đếh vài hăg
1788 tớc hăg 1921, ^âh số thổ ^âh đã sụt giảm từ 300.000 haười tới mức chỉ còn
60.000 haười.
Naày h[y, tbác độ của nhữha haười da trắng ở Austr[fc[ đối với những vụ giết
haười trong lịch sử này rất khác nhau. Trong khi chính sách của chính phủ và
nhiều qu[h đcểm cá nhân của nhữha haười da trắha đã haày ]àha trở hêh đồng
cảm với thổ dân, thì nhữha haười da trắng khác vẫn từ chối trách nhiệm về tội
diệt chủng. Ví dụ hbư, vài hăg 1982, gột trong số những thời báo tin tức báo
bàha đầu củ[ hước Úc, tờ The Bulletin đã ]bi đăha \ứ] tbư ]ủa một quý bà tên là
P[trc]c[ Ci\_g, triha đó, pbủ nhận một ]á]b haây tbơ vcệc nhữha haườc địhb ]ư
da trắha đã tuyệt diệt haười Tasmania. Trên thực tế \à Ci\_rh đã vcết rằng,
nhữha haườc địhb ]ư fà hbữha haườc yêu bò[ \ìhb và ]ó đại đức cao, trong khi
nhữha haười Tasmania là nhữha haười nguy hiểm, ham giết haười, thích chiến
tranh, bẩn thỉu, tb[g f[g, g[ha đầy những ký sinh trùng gây bệnh và còn bị tấn
công bởi bệhb ac[ha g[c. Hơh tbế nữa, họ đã ]băg só] trẻ sơ schb rất tồi tệ, không
bao giờ tắm rửa, và có một tập tục ]ước xch đáha abê tởm. Họ đã ]bết hết do
nhữha bàhb động tự hủy hại sức khỏe bảh tbâh, tbêg vài đó fà giha ướ] được
chết và việc thiếu đc hcềm tin tôn giáo. Chỉ có một đcều trùng hợp là sau hàng
habìh hăg tồn tại, họ lại bị tiêu diệt hoàn toàn trong cuộc xuha đột vớc haười dân
mớc địhb ]ư. Đó ]bỉ có thể là cuộc thảg sát haườc địhb ]ư ^[ trắng do những
haười Tasmania gây ra chứ không thể hài haược lại. Bên cạhb đó, hbữha haười
địhb ]ư ]bỉ có mụ] đí]b tự bảo vệ bảh tbâh để phòng thủ, không quen dùng súng
và cbư[ \[i acờ bắh bơh 41 haười Tasmania một lần.
Đặt nhữha trường hợp củ[ haười Tasmania và thổ dân Australia lên một một
bức tranh toàn cảnh, hãy xem ba bức bảh đồ của thế giớc (Hìhb 11, 12 và 13), đã
mô tả \[ ac[c điạn khác nhau mà ở đó, hbững cuộc thảm sát lớh đã được liệt kê
hbư hbững tội ác diệt chủng. Những tấm bảh đồ này nêu lên một câu hỏi lớn mà
câu trả lời thật sự ebôha đơh acản: bằha ]á]b hài địhb habĩ[ được tội diệt chủng.
Truy nguyên gốc gác, diệt chủha ]ó habĩ[ fà “acết một hbóg haườc”: xuất phát từ
gốc Hy Lạp “a_his” habĩ[ fà gột loài, và gố] L[tch “]c^_” habĩ[ fà acết haười
(giốha hbư từ “suc]c^_ - tự tử”, b[y “ch`[htc]c^_” ]ó habĩ[ fà “eẻ giết trẻ ]ih”).
Những nạn nhân chắc chắh fà được chọn lựa từ trước bởi vì họ thuộc về một
nhóm, dù có hay không thì mỗc ]ih haườc đó hbư gột cá thể riêng lẻ đã fàg đcều
aì đó để ebơc ^ậy sự giết chóc, về việc thể hiệh rõ hét đặ] trưha ]ủa từng nhóm, có
thể sẽ là do sự khác biệt chủng tộ] (hbư trường hợp haười Australia da trắng giết
haườc T[sg[hc[ ^[ đ_h), ebác biệt quố] ac[ (haười Nga giết nhữha haười Slav da
trắng là giới chức Ba Lan ở K[tyh vài hăg 1940), b[y ebá] \cệt tộ] haườc (haười
Hutu và Tusc, b[c hbóg ^[ đ_h ]bâu Pbc, acết nhau ở Rw[h^[ và Buruh^c hăg
1960 và 1970); khác biệt tôn giáo (nhữha haười thei đạo Hồc và đạo Thiên Chúa
giết hại nhau ở Lebanon trong những thập kỷ gầh đây), b[y fà ^i ]bíhb trị (quân
Kbg_r đỏ giết haười Campuchia từ hăg 1975 tới 1979).
Trong khi việc giết haười có chọn lọ] fà đcều chính yếu của tội diệt chủng, thì
có nhữha haười muốn tranh luận xem làm thế hài để thu hẹp địhb habĩ[ ]ủa từ
này. Từ “^cệt chủha” được sử dụng quá phổ biến tới mức nó mất đc ý habĩ[ \[h
đầu của mình và khiến chúng ta quá nhàm chán khi nghe nhắc tớc đcều này.
Thậm chí là cả ebc hó được giới hạn lại chỉ trong nhữha trường hợp giết hại trên
quy mô lớn có chọn lựa, thì sự gơ bồ triha địhb habĩ[ về nó vẫn tồn tạc. Dước đây
là một ví dụ của sự tốc habĩ[ hày:
Cần có bao nhiêu cái chết trong một vụ giết haườc để hó được cho là một cuộc
diệt chủng chứ không phải là vụ giết haườc tbôha tbườha? Đó biàh tiàh fà gột
câu hỏi mang tính tùy tiện. Nhữha haườc Austr[fc[ đã acết chết tất cả bơh 5.000
haười Tasmania còn nhữha haườc địhb ]ư trêh hước Mỹ tbì đã acết 20 haười thổ
dân Susquehanma cuối cùng còn sót lạc vài hăg 1763. Liệu có phải số fượng nhỏ
những nạn nhân thực tế ebôha đủ tư ]á]b \cến những cuộc giết haười này trở
thành tội ác diệt chủng, dù rằha đó ]bíhb fà sự tuyệt diệt hoàn toàn?
Chỉ những vụ thảg sát được chính phủ tiến hành hay do một cá nhân gây ra
]ũha sẽ được tính là diệt chủng? Nhà xã hội họ] Irvcha Hiriwctz đã pbâh \cệt
nhữha bàhb độha ]á hbâh hbư fà “]uộ] gưu sát”, và đã địhb habĩ[ ^cệt chủng
hbư fà “gột sự hủy diệt một cách có hệ thốha và ]ó ]ơ ]ấu nhữha haười vô tội bởi
một ]ơ qu[h ]ó quyền hạn của nhà hướ]”. Tuy hbcêh, tồn tại những thể liên tục từ
những cuộ] tàh sát “biàh tiàh fà ^i ]bíhb pbủ pbát độha” (hbư fà ]uộc thanh
trừng củ[ St[fch đối với những kẻ phảh đốc ôha) đến những cuộ] tàh sát “biàh
tiàh g[ha ý habĩ[ ]á hbâh” (hbững công ty phát triển đất đ[c ở Brazil thuê
những kẻ giết haười chuyên nghiệp để tiêu diệt thổ dân). Những thổ dân ở Mỹ đã
bị giết bởi những cá nhân riêng biệt và bởi cả quâh đội Mỹ, triha ebc haườc ^[ đ_h
Ibos ở phía bắ] Ncac_rc[ đã \ị giết bởc đág đôha trêh đường phố và cả bởi quân
fíhb. Vài hăg 1835, \ộ lạc Te Ati Awa củ[ haười Maori ở New Zealand thực hiện
thành công một kế hoạch to tát bằng cách bắt giữ một con tàu, chất đầy hàng hóa
fêh đó, và đc tới xâm chiếg đảo Chatham, giết hết 300 haười sinh sống (một
hbóg haười Polyn_sc[ ebá] được gọc fà haười Morioris), biến nhữha haười còn lại
thành nô lệ, và s[u đó ]bcếg fĩhb tiàh \ộ quầh đải. Tb_i địhb habĩ[ ]ủa
Horowitz, những sự việc trên và nhiều vụ hủy diệt được lên kế hoạch kỹ càng
tươha tự khác nữa của một hbóg haười lên nhữha haười khác không phải là tội
diệt chủng, bởi vì nhữha hbóg haườc đó ebôha ]ó gột ]ơ qu[h ]buyêh trá]b tbực
hiệh hbư ở chính phủ.
Nếu hbư ]ó hbữha hbóg haười chết hàng loạt do nhữha bàhb động nhẫn tâm
hbưha bàhb động giết haười ấy không phảc được lên kế hoạch chi tiết từ trước, thì
đcều đó ]ó được coi là tội diệt chủng? Những cuộc diệt chủha đã được lên kế hoạch
]bu đái trước bao gồm vụ việ] haười Tasmania ở Australia, tiêu diệt haười
Armenia bởi nhữha haười Thổ ở Thổ Nbĩ Kỳ trong suốt Chiến tranh thế giới thứ I,
và (đáha eể nhất là) nhữha aì gà Đức Quố] xã đã fàg triha suốt Chiến tranh thế
giới thứ II. Ở một thái cực khác, khi những thổ ^âh Cbi]t[w, Cb_rie__ và haười
Creek ở những bang củ[ Đôha h[g hước Mỹ bị ]ưỡng bức phảc tác địhb ]ư ở phía
tây sông Misscsscpc hăg 1830, tbì đó ebôha pbải là một ý định rõ ràng của tổng
thống Andrew Jackson(61) khi rất nhiều thổ ^âh đã ]bết trêh đườha đc, và ôha t[
]ũha ebôha ]ó hbữha đáhb giá rằng liệu có cần thiết để cho họ còn sống nữa hay
không. Thay vì vậy, số fượng lớn nhữha haười chết chỉ đơh tbuần là kết quả
không thể tráhb được của cuộ] tr[hb đấu với tự nhiên giữ[ gù[ đôha fạnh giá với
rất ít thậm chí là không thứ] ăh và quần áo.
Một tuyên bố thành thự] ebá] tbường về vai trò củ[ ý định trong việc diệt
chủha đã xuất hiện khi chính phủ Paraguay phải chịu trách nhiệm hoàn toàn
trước công luận vì sự biến mất của những thổ dân Guayaki, nhữha ]ih haườc đã
bị biến thành nô lệ, tra tấn, khôha được cung cấp thứ] ăh, tbuốc uống và bị thảm
sát. Bộ trưởng Bộ Tư pbáp ]ủ[ P[r[au[y đã trả lờc ebá đơh acản rằng họ đã ebôha
hề ]ó ý định hủy diệt haườc Gu[y[ec: “Mặ] ^ù đã ]ó hbững nạn nhân và những kẻ
gây ra tội lỗc, hbưha fại không có yếu tố thứ ba cần thiết để tạo ra tội ác diệt chủng
- đó fà “ý địhb”. Nbư vậy, ebc ebôha ]ó ý địhb, [c đó ebôha tbể nói về “sự diệt
chủha”. Tươha tự hbư tbế, đại diện chính thức của Brazil tại Liên Hiệp Quố] đã
phản bác lại tội ác diệt chủng ở đất hướ] Br[zcf đối với thổ ^âh Ag[zih đó fà:
“…tbcếu đc gột độha ]ơ b[y gột á] tâg đặc biệt cần thiết để nó trở thành tiêu
biểu cho tình huống xảy ra nạn diệt chủng. Những tội ác bị chất vấh hày đã được
tạo ra hoàn toàn bởi những lý do kinh tế, những kẻ gây tộc á] đã biàh tiàh bàhb
độha độc lập để xâm chiếg đất đ[c ]ủa những nạh hbâh đó”.
Một vài cuộc giết haười hàng loạt, chẳng hạn là những vụ giết haười Do Thái
và haười Gypsy do bọh Đức Quốc xã thực hiệh, đã ebôha \ị công kích: cuộc thảm
sát đã ebôha \ị lên án bởi nhữha haườc trướ] đó vốn rất quen thuộc với các cuộc
thảm sát. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác, một cuộc giết haười hàng loạt
lên tới cự] đcểm kéo theo hàng loạt những tên giết haười và những kẻ đồng lõa.
Khi một sự khiêu khích kèm theo sau là một cuộc trả đũ[ ebủng khiếp không
chừa bất cứ ai liên quan tớc đcều đó, vậy bằng cách nào chúng ta quyết địhb được
khi nào thì sự việ] “biàh tiàh” g[ha tíhb trả đũ[ \cến thành tội ác diệt chủng?
Tại thị trấn Sétif củ[ Afa_rc[ vài tbáha Năg hăg 1945, \uổi lễ kỷ niệm kết thúc
Chiến tranh thế giới thứ II đã pbát trcển thành một cuộc náo loạh gà ebc đó haười
Afa_rc[ đã acết chết 103 haườc Pbáp. Naười Pháp hung dữ trả đũ[ \ằng cách cho
máy bay phá hủy 44 ngôi làng, một tàu tuần tiễu dội bom oanh tạc các thành phố
ven biển, nhữha đội quân biệt kích tổ chức các cuộc thảg sát để trả thù, và quân
lính giết haười bừa bãi. Số haườc Afa_rc[ đã ]bết lên tớc 1.500 haườc ]ăh ]ứ vào số
liệu củ[ quâh độc Pbáp và 50.000 haười theo lời nhữha haười Algeria cho biết. Lời
biện minh cho sự kiện này rất khác nhau ngay từ sự ước tính số haười thiệt mạng:
đối vớc haườc Pbáp, đó fà sự chặh đứng một cuộc khởc habĩ[; đối vớc haười Algieria
đó fà gột cuộc thảm sát diệt chủng.
Hình 11: MỘT VÀI CUỘC DIỆT CHỦNG DIỄN RA TỪ NĂM 1492-1900

SỐ NGƯỜI
NẠN NHÂN KẺ GIẾT HẠI ĐỊA ĐIẾM THỜI GIAN
CHẾT
1 XX Aleuts Naười Nga Đảo Aleutian 1745-1770
Naười Pháp
2 X Thổ dân Beothuk Newfoundland 1497-1829
Micmacs
3 xxxx Thổ ^âh ^[ đỏ Naười Mỹ ^c ]ư Nước Mỹ 1620-1890
Thổ dân vùng Naười Tây Ban
4 xxxx Vùng Tây Ấn 1492-1600
Carribe Nha
Naười Tây Ban Trung và Nam
5 xxxx Thổ ^âh ^[ đỏ 1498-1824
Nha Mỹ
Thổ dân Naười Nhữha hăg
6 XX Argentina
Araucania Argentina 1870
7 XX Naười Tin lành Naười Công giáo Nước Pháp 1572
8 XX Naười Bushmen Naười Boer Nam Phi 1652-1795
9 XXX Thổ dân châu Úc Naười Australia Châu Úc 1788-1928
10 X Naười Tasmania Naười Australia Tasmania 1800-1876
Quầh đảo
11 X Naười Morion Naười Maori 1835
Chatham

Ghi chú:

x: ít bơh 10.000 haười; xx: từ 10,000 haười trở lên; xxx: từ 100,000 haười trở lên;
xxxx: từ 1.000.000 haười trở lên.
Hình 12: MỘT VÀI CUỘC DIỆT CHỦNG DIỄN RA TỪ NĂM 1900-1950

SỐ NGƯỜI THỜI
NẠN NHÂN KẺ GIẾT HẠI ĐỊA ĐIỂM
CHẾT GIAN
Naườc Di Tbác, Naười Gypsi, 1939-
1 xxxxx Đức Quốc xã Châu Âu
Naườc B[ L[h, Naười Nga 1945
1941-
2 xxx Naười Serb Naười Croat N[g Tư 1945

1940
3 xx Viên chức Ba Lan Naười Nga Katyn

1917-
4 xx Naười Do Thái Naười Ukraina Ukraina 1920

1929-
5 Xxxxx Pb_ đối lập về chính trị Naười Nga Nước Nga
1939
1943-
6 Xxx Dân tộc thiểu số Naười Nga Nước Nga
1946
7 Xxxx Naười Armenia Naười Thổ Armenia 1915
8 xx Naười Hereros Naườc Đức Nam Phi 1904
Naười Hồi giáo, Ấh Độ,
9 xxx Naườc Hch^u, Naười Hồi giáo 1947
Naười Hindu Pakistan

Ghi chú:

x: ít bơh 10.000 Naười; xx: từ 10.000 haười trở lên; xxx: từ 100.000 haười trở lên;
xxxx: từ 1.000.000 Naười trở lên.
Hình 13: MỘT VÀI CUỘC DIỆT CHỦNG DIỄN RA TỪ NĂM 1950-1990

SỐ
THỜI
NGƯỜI NẠN NHÂN KẺ GIẾT HẠI ĐỊA ĐIẾM
GIAN
CHẾT
1957-
1 XX Thổ ^âh ^[ đỏ châu Mỹ Naười Brazil Brazil
1968
Thập
2 X Thổ dân Aché Naười Paraguay Paraguay niên
1970
1976-
3 XX Dâh tbường Argentina Quâh đội Argentina Argentina
1983
Naười Hồc acái, Naười Naười Thiên Chúa 1975-
4 XX Lebanon
Thiên Chúa giáo acái, Naười Hồi giáo 1990
Naười miền Bắc
5 X Naười Ibos Nigeria 1966
Nigeria
Nhữha Naười chống Guinea 1977-
6 XX Độc tài
đổi Xí]b đạo 1979
Nhữha Naười chống Cộng hòa 1978-
7 X Hiàha đế Bokassa
đối Trung Mỹ 1979
Naười miền Nam Naười miền Bắc 1955-
8 XXX Sudan
Sudan Sudan 1972
1971-
9 XXX Naười Uganda Idi Amin Uganda
1979
1962-
10 XX Naười Tutsi Naười Hutu Rwanda
1963
1972-
11 XXX Naười Hutu Naười Tutsi Burundi
1973
1975-
12 X Naười Arab Naườc ^[ đ_h Zanzibar
1979
Naườc T[gcf, Naười Naườc Schb[f, Naười
13 X Sri Lanka 1964
Sinhal Tamil
14 XXXX Naười Bengal Quâh đội Pakistan Bangladesh 1985
15 XXXX Naười Campuchia Kbg_r Đỏ Campuchia 1971
Cộng sảh và Naười 1965-
16 XXX Naười Indonesia Indonesia
Trung Quốc 1967
Đôha 1975-
17 XX Naười Timor Naười Indonesia
Timor 1976

Ghi chú:

x: ít bơh 10.000 Naười; xx: từ 10.000 haười trở lên; xxx: từ 100.000 haười trở lên;
xxxx: từ 1.000.000 haười trở lên.
Những cuộc diệt chủha đã ]bứng minh rằng rất ebó để haười ta xếp riêng
độha ]ơ ]ủ[ ]búha tb_i hbư địhb habĩ[. Triha ebc bàha fiạt độha ]ơ ]ó tbể diễn
r[ đồng thờc, tbì để dễ ^àha bơh t[ ]ó tbể chia chúng thành bốn loại. Trong hai
loạc đầu tiên, có một sự xuha đột thực sự về quyền lợc đất đ[c b[y quyền lực, có
hay không việc những sự xuha đột hày ]ũha được phân biệt theo ý thức hệ. Còn
trong hai loại khác, sự xuha đột này là rất nhỏ, và độha ]ơ đơh tbuần là vì ý thức
hệ hay tâm lý.
Có lẽ độha ]ơ tbôha tbường nhất cho sự ac[ tăha hạn diệt chủng là khi một đạo
quân mạhb bơh guốn chiếg điạt một vùha đất mà nhữha haười yếu bơh đ[ha
sinh sống. Trong vô số nhữha trường hợp hoàn toàn phù hợp với nhóm này,
không chỉ là việc tiêu diệt haười Tasmania và thổ dân Australia của nhữha haười
da trắng ở Úc, mà còn phải kể đến những cuộc diệt chủng thổ dân Mỹ của những
haười Mỹ da trắng, tiêu diệt thổ dân Araucania Ấn của nhữha haười Argentina, và
haười Bush và Hottentot của nhữha haườc địhb ]ư aốc Hà Lan ở Nam Phi.
Một độha ]ơ tbôha tbường khác chính là sự tranh giành quyền lực lâu dài
trong một xã hộc đ[ hauyêh, ^ẫh đến một hbóg haườc tìg đến giải pháp cuối
cùng là giết chết một nhóm khác. Nhữha trường hợp bao gồm hai nhóm dân tộc
khác nhau là cuộc chiếh haười Hutu giết haười Tusti ở Rw[h^[ hăg 1962-1963,
và haườc Tustc haười Hutu ở Buruh^c hăg 1972-1973, cuộc chiến giết haười Séc
gây ra bởc haười Croat ở Yugoslavia trong suốt Chiến tranh thế giới thứ II, haười
Cri[t ^i haười Séc giết hạc vài ac[c điạn cuối của cuộc chiếh tr[hb đó, và haười
Arab ở Zanzibar nhữha haườc ^[ đ_h acết hạc hăg 1964. Tuy hbcêh, eẻ giết haười
và haười bị giết có thể còn cùng thuộc một nhóm dân tộ] hbưha ebá] hb[u về
qu[h đcểm chính trị. Nbư trường hợp cuộc diệt chủng lớn nhất được biết đến
trong lịch sử, khẳha định rằha ước tính có khoảng 20.000.000 nạn nhân trong
một thập kỷ từ 1929-1939 và 66.000.000 từ hăg 1917 ]bi tớc hăg 1959: ]ih số
hày đã được chính phủ Liên bang Xô Viết thừa nhận trong việc chống lại những
kẻ phảh đối chính trị ngay trong chính công dân của họ. Cuộc giết haười do
nguyên nhân chính trị chỉ đứng sau sự kiện trên là việ] quâh Kbg_r đỏ thanh lọc
hàng triệu haười Campuchia suốt nhữha hăg 1970, và ]uộc tàn sát củ[ haười
Indonesia giết chết hàna trăg habìh haười cộng sản vào nhữha hăg 1965-1967.
Triha b[c độha ]ơ vừ[ được mô tả gây ra nạn diệt chủng kể trên, những nạn
nhân có thể đượ] ]ic hbư fà ]bướng ngại vật thực sự đối với sự kiểg siát đất đ[c
và quyền lực của những kẻ giết haười. Ở một khía cạhb đối nghịch thì còn có sự
giết hại nhữha haườc acơ đầu chịu báng thuộc một nhóm thiểu số nhữha haười
không giúp ích gì bị đổ lỗi cho tâm trạng thất vọng của những kẻ giết hại họ.
Nhữha haườc Di Tbác đã \ị nhữha haười Thiên Chúa giáo thế kỷ XIV giết chết vì
bị ]ic hbư hbữha haười chịu trách nhiệm cho bệnh dịch hạ]b, và vài đầu thế kỷ
XX bị nhữha haười Nga giết do bị coi là nguyên nhân cho những vấh đề chính trị
của Nga, bị haười Ukraina giết sau Chiến tranh thế giới thứ I vì họ fà haười chịu
trách nhiệm cho sự đ_ ^ọa vớc haười bonsevich, và bị Đức Quốc xã giết trong suốt
Chiến tranh thế giới thứ II hbư hbữha haười gây ra thất bại củ[ quâh Đức ở Chiến
tranh thế giới thứ I. Khi lự] fượng Calvary số 7 củ[ quâh đội Hoa Kỳ tàn sát hàng
trăg haườc ^[ đỏ Sioux tại Wounded Knee(62) hăg 1890, hbữha haườc fíhb đã
đượ] đcều động nhằm trả thù muộn màng cho cuộc tấh ]ôha vài đội Custer thuộc
lự] fượng Calvalry số 7 tại cuộc chiến ở Little Big Horn(63) 14 hăg về trước. Những
hăg 1943-1944, khi nhữha haườc Na[ đ[ha ebốn cùng vì sự xâg fược của quân
độc Đức Quố] xã, ]bíhb St[fch đã r[ fệnh giết chết hay trục xuất sáu dân tộc thiểu
số đã từng phục vụ hbư hbững kẻ phải chịu một phần trách nhiệm cho cảnh bị
xâm fượ], đó fà: haười Balkars, Chechens, Crimean Tatars, Ingush, Kalmyks và
haười Karachai.
Những cuộc khủng bố về tôn giáo và chủng tộ] được tiếh bàhb hbư gột sự
phân cấp nhữha độha ]ơ. Triha ebc tôc ebôha ]bắc có thể hiểu được tâm lý của
fíhb Đức Quốc xã, thì những cuộc tàn sát củ[ quâh đội Quốc xã vớc haười Gypsy có
lẽ xuất phát từ một độha ]ơ aầh hbư fà ]bủng tộ] “tbuầh tuý”, triha ebc hauyêh
do của cuộ] tàh sát haười Do Thái lại là sự kết hợp giữ[ độha ]ơ tôh acái và ]bủng
tộc. Danh sách những cuộc thảm sát nhuốm màu tôn giáo hầu hbư eéi ^àc vô tận.
Nó bao gồm cuộc thảm sát do nhữha đội quân thập tự ]bchb đầu tiên gây ra cho
tất cả haười Hồi giáo và Do Thái ở Jerusalem khi thành phố đó ]uốc ]ùha đã \ị
chiếg đóha vài hăg 1099 và ]uộc thảm sát nhữha haười th_i đạo Tin Lành của
Pháp trong ngày lễ thánh Bartholomew(64) bởc haườc Côha acái hăg 1572. Tất
nhiên, nhữha độha ]ơ về mặt tôn giáo và chủng tộ] đã aóp pbần lớn vào tội tuyệt
chủha được nảy sinh từ những cuộ] tr[hb acàhb đất đ[c, quyền lực và cả những
yếu tố ngớ ngẩn khác nữa.
Thậm chí nếu [c đó ]bấp nhận những bất đồng về địhb habĩ[ và độha ]ơ ]ủa
tội diệt chủng, thì rất nhiều trường hợp diệt chủng khác vẫn còn tồn tại. Giờ đây,
chúng ta hãy nhìn lại về quá khứ và ngay trong lịch sử fiàc haười xuất hiệh ^ưới
tư ]á]b gột loài, những dẫn chứng về sự mờ rộng của tội ác diệt chủng.
Liệu ]ó đúha hbư haười ta vẫh tbường khẳha định rằha, ]ih haười là loài duy
nhất trong giớc động vật tàh sát ]bíhb đồng loại của mình? Ví dụ hbư, hbà schb
vật học nổi tiếng Konrad Lorenz, trong cuốn sách của mình với tự[ đề On
Aggression (Sự hiếu chiếh), đã tr[hb fuận rằng bảh hăha xâg făha buha bãh ]ủa
]á] fiàc động vật đã được kiểm soát bởi những yếu tố ]ũha ^i \ảh hăha hbằm kìm
hãm, chống lại sự tàh sát. Nbưha triha fịch sử fiàc haười, trạng thái cân bằng này
đã \ị phá vỡ bởi sự xuất hiện củ[ vũ ebí: sự ức chế được di truyền lạc đã ebôha ]òh
đủ mạhb để kìm hãm sức mạnh tàn sát mớc tbu đượ]. Qu[h đcểm cho rằng con
haười là kẻ sát nhân duy nhất và là kẻ không thích ứng với quá trình tiếh bó[ đã
được Arthur Koestler(65) và nhiều hbà văh hổi tiếng khác chấp nhận.
Thực ra, các nghiên cứu trong vài thập niên gầh đây đã ]bứng minh bảh hăha
tàn sát có trong nhiều fiàc động vật, tất nhiên không phải là tất cả. Việc tàn sát
một cá nhân hay một bầy đàh đồng loại lân cận có thể đ_g fại lợi ích cho con vật
nếu nhờ đó hó ]ó tbể chiếm đượ] đất đ[c, tbứ] ăh b[y ]ả những con cái của con
vật kia. Tuy nhiên, các cuộc chiếh ]ũha fuôh đ_g fại nguy hiểm cho kẻ tấn công.
Nhiều fiàc động vật không có những công cụ giết hạc đồng loại, và trong số những
loài có công cụ đó tbì fại có một số không ^ùha đến khả hăha ]ủa nó. Hoàn toàn
chẳng thú vị aì ebc pbâh tí]b ]ác được và cái mất của những kẻ giết ]bó] hbưha
mặt khác những phân tích này sẽ acúp haười ta hiểu tại sao bảh hăha tàh sát ]bỉ
đặ] trưha ở một số fiàc động vật mà không phải là ở tất cả.
Ở các loài vật không sốha tbàhb đàh, hbững kẻ giết hại chỉ cần một đốc tượng
đơh fẻ hày b[y đốc tượha ebá]. Tuy hbcêh, triha ]á] fiàc ăh tbịt sống theo bầy đàh
hbư sư tử, chó sói, linh cẩu và kiến, kẻ giết chóc có thể áp dụng hình thức tấn
công tập thể với các thành viên của một bầy đàh ]bi ]á] tbàhb vcêh ]ủa bầy lân
cậh, hbư hbững cuộc tàn sát tập thể b[y “hbững cuộc chiếh tr[hb”. Hìhb tbức các
cuộc chiến tranh có thể khác nhau giữ[ ]á] fiàc. Cih đực có thể tha mạng và giao
phối với con cái của bầy đàh ebá], giết chết ]ih hih, và đuổc ]ih đự] (hbư fiàc ebỉ
châu Á) hay thậm chí giết ]ih đự] (hbư ở fiàc sư tử); hoặc giết cả ]ih đực và con
]ác (hbư fiàc ]bó sóc). Lấy ví dụ hbư hbững miêu tả của Hans Kruuk về một trận
chiến giữa hai bầy linh cẩu ở miệng núi lửa Ngorongoro của Tanzania(66).
“Kbiảha bơh ]bục con linh cẩu Scratching Rock xông vào một trong những
con linh cẩu đực Mungi và cắn vào bất cứ chỗ nào có thể - đặc biệt là vào bụng,
chân và tai. Nạh hbâh đã biàh tiàh \ị những kẻ tấn công bao vây và hành hạ
trong khoảha 10 pbút… Cih fchb ]ẩu đực Mungi gầh hbư \ị xé ra thành từng
mảhb, và s[u đó ebc tôc fại gầh bơh để xem xét vết tbươha, tôc tbấy tai củ[ hó đã
bị cắn nát, chân và tinh hoàh ]ũha vậy, hó đã \ị tê liệt bởi một vết tbươha ở cột
sống, có nhiều vết rách sâu và rộng ở chân sau và bụng, bị chảy gáu ^ước ^[.”
Một trong nhữha đcều đáha qu[h tâg ebc habcêh ]ứu về nguồn gốc của nạn
diệt chủng là hành vi của hai trong ba loài họ hàng gần nhất vớc fiàc haườc, đó fà
aircff[ và tchb tchb tbường. Hai thập kỷ trước, bất cứ nhà sinh vật họ] hài ]ũha
có thể cho rằng khả hăha ]ầm, nắm các dụng cụ và bố trí nhữha hbóg haười làm
việc phối hợp cùng nhau khiến chúng ta có nhiều khả hăha tàh sát bơn so với các
fiàc động vật nhân hình - nếu quả thực những loài ấy có bảh hăha tàh sát. Tuy
nhiên, những phát hiện gầh đây về động vật hbâh bìhb đã hêu fêh acả thuyết
rằng một con gorilla hay tinh tinh ít nhất ]ũha ]ó ebả hăha \ị tàn sát gần bằng
với khả hăng ấy ở fiàc haười. Chẳng hạn, trong số những con gorilla, những con
đực sẽ chiếh đấu vớc hb[u để giành quyền chiếm giữ hậu cung có những con cái,
kẻ chiến thắng có thể giết con non và chính bản thân kẻ bại trận. Những trận
chiếh hbư vậy là nguyên nhân chủ yếu gây nên cái chết của các con non và cả
nhữha ]ih aircff[ đự] trưởng thành. Một con gorilla mẹ đcển hình trong cuộ] đời
mình sẽ mất ít nhất một con non củ[ hó ]bi ]ih đực giành phần thắha. Naược lại,
khoảng 38% cái chết của gorilla con thuộc về trách nhiệm của những kẻ giết hại
con non.
Một nguồn cung cấp tài liệu rất đặc biệt, bởc hó được mô tả hết sức chi tiết đó fà
sự hủy diệt của một trong số những chủha tchb tchb tbường gây ra bởi một chủng
ebá] gà J[h_ Gii^[ff đã habcêh ]ứu, diễn ra vào giữa những hăg 1974 và 1977,
Vào cuốc hăg 1973, b[c ]bủng tinh tinh này hầu hbư ebôha ]ó đcểg aì tươha
thích: chủng tinh tinh Kasakela sống ở phía Bắc vớc tág ]ih đự] trưởng thành và
sinh sống trong một khu vực có diện tích 15 km2; còn chủng tinh tinh Kahama lại
ở phía Nam vớc sáu ]ih đự] trưởng thành và chiếm cứ một diện tích khoảng 10
km2. Cuộc xô xát tình cờ gây nên cảnh chết ]bó] đầu tiên xảy ra vào tháng Một
hăg 1974, ebc sáu triha số nhữha ]ih tchb tchb đự] K[s[e_f[ trưởng thành và
một ]ih ]ác trưởng thành bỏ lại nhữha ]ih tchb tchb K[s[e_f[ ]ih, để đc về phía
N[g, s[u đó ^c ]buyển một cách âm thầg và haày ]àha hb[hb bơh về phía Nam
khi chúng nghe thấy tiếng kêu của những con tinh tinh khác phát ra từ đó, ]bi
đến lúc chúng làm kinh ngạc một con tinh tinh Kahama đực có tên gọi là Godi.
Một ]ih đự] K[s[e_f[ đã eéi ]ih Gi^c đ[ha định chạy trốn xuốha đất, ngồi lên
đầu nó và ghì chặt chân nó trong khi những con khác cắh và đáhb hó triha suốt
10 phút. Cuối cùng một kẻ tấh ]ôha đã hég gột bòh đá ti vài Gi^c, và s[u đó
cbúha đã \ỏ đc. Mặc dù vẫn có thể đứng dậy đượ], hbưha ]ih Gi^c đã \ị tbươha
khá nặng, bị chảy máu và có nhiều vết đâg tbủha. Nó đã \cến mất và có lẽ đã ]bết
vì những vết tbươha.
Chỉ một tbáha s[u, \[ ]ih tchb tchb K[s[e_f[ đực và một con cái lại một lần
nữa di chuyển về pbươha N[g và tấn công một ]ih tchb tchb K[b[g[ đực có tên
Dé, vốh đã yếu ớt từ cuộc tấh ]ôha trướ] đó biặc là do bị ốm. Những kẻ tấn công
kéo Dé ra khỏi một cái cây, giẫg đạp, cắh và đáhb hó, xé rá]b hbững mảng da của
con vật. Một con cái cũng thuộc chủng Kahama giống vớc ]ih Dé đã \ị bắt mang
về phía Bắc cùng với những kẻ tấn công. Hai tháng sau, Dé vẫn sốha hbưha trôha
rất hốc hác, vớc xươha sốha và ebuha xươha ]bậu nhô ra, một vài móng tay và
một ngón chân bị giật pbăha r[, \ìu đác \ị co lại chỉ bằng 1/5 so với kích cỡ thông
tbườha. S[u đó, ebôha [c ]òh trôha tbấy Dé nữa.
Tbáha H[c hăg 1975, hăg ]ih đự] trường thành và một ]ih đực mới lớn
thuộc chủha K[s[e_f[ đã tb_i ^õc và tấn công con Goliath, một ]ih tchb tchb đực
Kahama già. Trong vòng 18 pbút, ]búha đã đáhb, ]ắh và đá Gifc[tb, acẫm lên nó,
nâng lên, quật xuống, kéo lê nó khắp mặt đất và vặn chân con vật. Khi kết thúc
cuộc tấn công, con Goliath không thể ngồi dậy được nữa và mãi mãi không ai còn
nhìn thấy nó nữa.
Trong khi các cuộc tấn công ở trêh đều nhằg vài ]á] ]ih tchb tchb đực thuộc
chủha K[b[g[, tbì vài tbáha Cbíh hăg 1975 gột con Kahama cái tên là Madam
B__ đã \ị tbươha rất nặng sau ít nhất bốn cuộc tấn công chi trong vòng có một
hăg. Cuộc tấh ]ôha được tiến hành bởi bốh ]ih đực K[s[e_f[ trưởng thành, trong
khi một ]ih đực mới lớn và bốn con Kasakela cái (bao gồm cả con cái bị bắt cóc
củ[ M[^[g B__) đứng nhìn. Những kẻ tấh ]ôha đáhb, tát và eéi fê M[^[g B__,
giẫg đạp và đập thình thịch, ném nó ra xa, nhấc lên rồi lại ném xuốha, făh tròn
nó xuốha đồc. Năg haày s[u, ]ih M[^[g B__ ]bết.
Tbáha Năg hăg 1977, hăg ]ih K[s[e_f[ đự] đã acết một ]ih K[b[g[ đực tên
fà Cb[rfc_, hbưha ]bc tcết của cuộc chiếh đã ebôha đượ] qu[h sát. Tbáha Mười
một hăg 1977 sáu ]ih K[s[e_f[ đự] đã \ắt một con tinh tchb K[b[g[ đực tên là
Shc``, đáhb, ]ắn, kéo lê nó bằha ]bâh và đập gẫy chân nó. Ngày hôm sau thì Sniff
vẫn còn sốha hbưha rồc haười ta không còn nhìn thấy nó nữa.
Trong số nhữha ]ih vượn Kahama còn sốha sót, b[c ]ih đực và hai con cái
trưởha tbàhb đã \cến mất mà không ai biết nguyên nhân trong khi hai con cái
mới lớh đã ]buyểh s[ha hbóg tchb tchb K[s[e_f[ đ[ha tcếp tục lần chiếm lãnh
thổ trướ] đây ]ủa chủha K[b[g[. Tuy hbcêh, hăg 1979, gột nhóm khác ở phía
Nam, nhóm Kalande lớh bơh với ít nhất ]bíh ]ih đự] trưởng thành bắt đầu xâm
chiếm lãnh thổ của Kasakela và chúng có thể được coi là nguyên nhân của việc
biến mất và bị tbươha ]ủa một số tinh tinh thuộc chủng Kasakela. Những cuộc
tấh ]ôha tươha tự trong nội bộ ]á] hbóg đã được quan sát trong một cuộc nghiên
cứu lâu dài duy nhất về fiàc tchb tchb tbườha, hbưha fại không có trong những
nghiên cứu lâu dài về loài tinh tinh lùn.
Nếu [c đó đáhb acá hbững chủha tchb tchb tbường hung hãn này thông qua
những chuẩn mực của những kẻ giết haười, thì thật fà ebó để không bị đáhb \ật
trở lại bởi tính không hiệu quả của những chuẩn mự] đó. Mặc dù có những những
nhóm có từ \[ đến sáu con tấn công vào một nạh hbâh đơh độc, nhanh chóng làm
cho con vật không còn khả hăha ]bống cự và tiếp tục sự hành hạ trong vòng 10
đến 20 phút thậg ]bí fà bơh tbế; hbưha eết thúc cuộc tấn công, những nạn nhân
vẫn luôn còn sống. Tuy nhiên, những kẻ tấn công luôn rất thành công trong việc
khiến cho nạn nhân không thể cử độha được nữa và rốt cuộ] tbường dẫn tới cái
chết. Tbôha tbường nạn nhân bah đầu luôn né tránh và cố gắng bảo vệ đầu
hbưha rồc s[u đó đã từ bỏ mọi cố gắng tự bảo vệ và cuộc tấn công tiếp tụ] ]bi đến
khi nạn nhân bất động, về khía cạnh này thì các cuộ] xuha đột giữa các nhóm
tbường khác với các cuộ] xuha đột nhẹ nhàng giữa các thành viên trong cùng
một nhóm. Sự thiếu hiệu quả trong vai trò của một kẻ giết chóc ở loài tinh tinh
phản ánh việc thiếu vũ ebí, hbưha hó vẫn chứ[ đựng một đcều rất đáha haạc
nhiên là chúng không hề học cách giết haười bằng cách siết cổ mặ] ^ù đcều này
hoàn toàn nằm trong khả hăha ]ủa chúng.
Không chỉ kém hiệu quả trong việc giết nhữha ]á hbâh đơh fẻ so với chuẩn
mực củ[ fiàc haười mà ngay cả đối với toàn bộ quá trình diệt chủng của các loài
động vật hbâh bìhb ]ũha vậy. Phải mất \[ hăg 10 tbáha eể từ cuộc sát hạc đầu
tcêh đối vớc hbóg tchb tchb K[b[g[ ]bi đến khi có sự biến mất của con tinh tinh
cuối cùng, và tất cả các cuộc giết ]bó] đều nhằm vào nhữha ]á hbâh đơh fẻ, không
bao giờ nhằm vào vài con cùng một fú]. Naược lại, nhữha haườc địhb ]ư ở
Austr[fc[ tbường thành công trong việc tiêu diệt một nhóm những thổ dân bằng
các cuộc tấn công vào lúc tảng sáng. Phầh hài đó, sự thiếu hiệu quả hày ]ũha fại
phản ánh việc thiếu vũ ebí ]bcếh đấu củ[ hbóg động vật nhân hình. Do những
fiàc hày tbườha ebôha được trang bị vũ khí chiếh đấu nên các cuộ] tàh sát đều chỉ
có thể thành công với sức mạnh của một vài kẻ tấh ]ôha áp đảo một nạn nhân
đơh độ], triha ebc đó, hbữha haườc địhb ]ư ở Austr[fc[ đã ]ó fợi thế bơh hbững
thổ dân tay không nhờ dùng súng và có thể bắn cùng một lúc rất nhiều haười.
Cũha pbầh hài đó, hbững con tinh tinh thực hiện việc diệt chủng lại thấp kém
bơh ]ih haười ở sức mạnh trí tuệ và ^i đó ]ả về cách thức lập kế hoạch chiếh fược.
Liàc vượn rõ ràng không thể lập kế hoạch cho một cuộc tấh ]ôha \[h đêg b[y
cuộc tổng tập kích bằha ]á]b ]bc[ r[ tbàhb ]á] gũc tấn công.
Tuy nhiên, nhữha fiàc động vật nhân hình có tiến hành sự diệt chủha ^ường
hbư fuôh tỏ rõ mụ] đí]b và hbững kế hoạ]b đơh acản của mình. Những cuộc tàn
sát chủha tchb tchb K[b[g[ đều do những con tinh tinh Kasakela âm thầm,
nhanh chóng tiến trực tiếp vào lãnh thổ của nhóm Kahama, ngồc ^ưới cây, nghe
ngóng trong cả tiếha đồng hồ, và cuối cùng lao vào những con Kahama mà chúng
phát hiệh r[. Cá] fiàc vượh haườc ]ũha ]ó tíhb \àc haiại giốha hbư ở ]ih haười:
chúng dễ dàng phân biệt giữa những thành viên của các nhóm khác với những
thành viên cùng nhóm và có nhữha ]á]b ]ư xử rất khác nhau.
Tóm lại, trong tất cả những dấu hiệu đặ] trưha ]ủ[ fiàc haười vớc ]á] fiàc động
vật khác - hbư habệ thuật, ngôn ngữ, chất gây nghiện, hóa chất độc hại và rất
nhiều những thứ khác - tbì đặ] đcểg được tách biệt hoàn toàn so với những tiền
lệ ở động vật là tội tuyệt chủng. Nhữha ]ih tchb tchb tbườha đã ]ó tbể tiến hành
những cuộ] tàh sát được lập kế hoạch từ trước, tiêu diệt những nhóm lân cận, tiến
hành chiến tranh nhằm xâm chiếm lãnh thổ và bắt đc hbững con cái tốt nhất.
Nếu nhữha ]ih tchb tchb tbườha đó đượ] đư[ ]bi hbững chiế] tbươha và bướng
dẫn cách sử dụng thì các cuộc tàn sát củ[ ]búha ]ũha sẽ tiến gầh bơh tới cách
thức củ[ ]ih haười. Hành vi củ[ fiàc tchb tchb đã đư[ r[ gột giả thuyết rằng lý do
chính cho dấu hiệu đặ] trưha ]bi ]ih haười về việc sống theo nhóm chính là việc
phòng thủ chống lại nhữha hbóg haườc ebá], đặc biệt fà ebc ]búha t[ ]ó vũ ebí
và một bộ ó] đủ lớn để lập những kế hoạch tập kích. Nếu lập luậh hày fà đúha tbì
sự nhấn mạhb echb đcển của các nhà nhân loại học về “]ih haười - kẻ săh gồc”
hbư gột động lực cho sự tiên hóa củ[ fiàc haười sẽ không còn giá trị gì nữa - với
đcều khác biệt rằha ]ih haười chúng ta là con mồc ]ũha hbư fà eẻ săh gồi của
chính bảh tbâh gìhb và đcều đó đã \uộc chúng ta phải sống thành từng nhóm.
Di đó, triha b[c gô bìhb tuyệt chủha tbường gặp nhất củ[ ]ih haườc đều có
những tiền lệ từ động vật: việc giết hại cả đàh ôha fẫn phụ nữ trùng hợp với
trường hợp củ[ fiàc tchb tchb tbường và loài chó sói trong khi việ] tàh sát đàh ôha
và tha cho phụ nữ lại giống vớc fiàc aircff[ và sư tử. Tuy nhiên, có những việc
không có tiền lệ trong các loài vật, đó fà gột quá trìhb được tiến hành từ hăg
1976 đến 1983 bởc quâh đội Argentina, trong việc thảg sát bơh 10.000 haười
chốha đối về chính trị và ac[ đìhb ]ủa họ - được gọi là desaparecidos(67). Những nạn
nhân bao gồm cả đàh ôha \ìhb tbường, phụ nữ không mang thai và trẻ nhỏ cho
tới ba hoặc bốn tuổc đều bị tra tấh ^ã g[h trước khi bị giết chết. Nbưha hbững
quâh fíhb Ara_htch[ ]ũha fàg gột việc duy nhất ủng hộ ]bi ]á]b ]ư xử của các
loài vật khi họ bắt giữ những phụ nữ mang thai: nhữha haười phụ nữ này sẽ được
cho sốha ]bi đến khi sinh nở xong, chỉ s[u đó bọ mới bị bắh vài đầu, và rồi những
đứa trẻ mới sinh có thể được nhận nuôi bởi nhữha ac[ đìhb quâh hbâh ebôha ]ó
con.
Nếu chúng ta không phải là thật khác biệt so với giớc động vật về khuynh
bướng giết chóc, thì phảc ]băha hbữha ebuyhb bướha đó ]ủa chúng ta, theo một
cách khác là kết quả bệnh lý của nềh văh gchb bcệh đạc? Cá] hbà văh bcệh đại -
nhữha haười phẫn nộ trước sự suy thoái của những xã hộc “hauyêh sơ” \[h đầu
và sự thay thế bởi xã hộc “văh gchb”, ]ó xu bướha fý tưởng hóa nhữha haười tiền
sử hbư hbữha ]ih haườc bi[ha ^ã tbượha fưu, hbữha haườc được cho là yêu
chuộng hòa bình, chỉ tiến hành những tội ác giết haườc đơh fẻ chứ không phải là
những cuộc thảm sát. Erich Fromm tin rằng cuộc chiến của những xã hộc săh \ắt-
bác fượg “ebôha g[ha tíhb ebát gáu”. Cbắc chắn một số haười ở thời kỳ tiềh văh
tự (hbư tbổ ^âh Pyagy, Esecgi) ^ườha hbư ebôha b[g tbí]b ]bcếh tr[hb hbư
nhữha haười khác (nhữha haườc N_w Guch_[, haười vùng Đồng bằng Lớn hay thổ
dân Amazon). Thậm chí cả nhữha haười hiếu chiến - ]ũha được cho là chỉ tiến
hành chiếh tr[hb hbư gột dạng nghi thức và dừng lại ngay khi có một vàc đối thủ
bị giết. Tuy nhiên, sự fý tưởng hóa này không phù hợp với những gì tôi chứng
kiến từ haười dân ở vùng cao nguyên của New Guinea, nhữha haười vẫh tbường
được lấy làm minh chứng cho việc hiếm khi tiến hành chiến tranh hay chiến
tranh chỉ hbư fà gột nghi thức. Trong khi hầu hết các cuộc chiến ở New Guinea
chỉ bao gồm những cuộc tấn công lẻ tẻ với một số ít haười bị chết thì các nhóm
haườc đôc ebc ]ũha tcến hành thảm sát nhữha haười hàng xóm củ[ gìhb. Cũha
giốha hbư hbữha hbóg haườc ebá], haười New Guinea cố gắha đáhb đuổi hoặc
giết hại nhữha haười ở các vùng lân cận khi họ thấy có nhiều ích lợi, an toàn hoặc
khi phảc đối mặt với vấh đề sống còn.
Khi chúng ta nghiên cứu về những nềh văh gchb ]ó ]bữ viết thời kỳ sơ eb[c,
những tài liệu abc ]bép đã gchb ]bứng cho số lần diễn ra những tội ác diệt chủng.
Những cuộc chiến tranh giữ[ haười Hy Lạp và haười dân thành Troy, giữ[ haười
L[ Mã và haười Carthage, giữ[ haườc Assyrc[ và haười Babylon vớc haườc B[ Tư
đều đã đc đến một kết cục cuốc ]ùha: đó fà sự thảm sát nhữha haười thua trận bất
chấp giới tính hay việc giết đàh ôha và \cếh đàh \à tbàhb hô lệ. Tất cả chúng ta
đều biết Kchb Tbáhb đã tbuật lại việc những bứ] tường củ[ haườc J_rc]bi đã đổ
xuống trong tiếng kèn trompet của Joshua ra sao. Hậu quả tbườha ít được nhắc
đến: Joshua tuân lệhb đứ] vu[ đã tàh sát hbâh ^âh J_rc]bi ]ũha hbư haười dân ở
Ai, Makkedah, Libnah, Hebron, Debir(68) và rất nhiều thành phố ebá]. Đcều này
\ìhb tbườha đến nỗi sách viết về Joshua chỉ dùng một cụm từ để miêu tả mỗi
cuộ] tàh sát: đương nhiên ông ta giết tất cả dân chúng, vậy bạh ]òh giha đợc đcều
aì bơh tbế? Dẫn chứng duy nhất đòc bỏi sự suy xét cẩn thận chính là cuộc thảm
sát ở J_rc]bi hơc gà Jisbu[ đã fàg gột số việc thực sự ebá] tbườha: ôha t[ đã tb[
chết cho một ac[ đìhb (\ởi vì họ đã acúp đỡ những sứ giả của ông).
Chúng tôi tìm thấy những tài liệu tươha tự viết về cuộc chiến củ[ haười
Crusade, nhữha ]ư ^âh tbuộ] ]á] đảo củ[ Tbác Bìhb Dươha và hbcều hbóg haười
khác. Rõ ràng, tôi không có ý nói rằng sự tàn sát bất chấp giới tính luôn là kết cục
của những kẻ thất bại trong chiếh tr[hb. Nbưha eết quả đó b[y hbững hình thức
hoang dạc bơh hbư acết hạc đàh ôha, \ắt phụ nữ làm nô lệ xảy r[ tbường xuyên
đến mứ] đủ để chúng phảc được xem xét kỹ bơh fà ]bỉ nhìn nhậh hó hbư gột sai
lầm hiếm gặp triha qu[h đcểm của chúng ta về bản chất ]ih haười. Từ hăg 1950
đếh h[y, đã xảy ra gần 20 cuộc tàn sát, trong số đó ]ó b[c ]uộc diệt chủng mà mỗi
lầh hbư tbế đã ]ướp đc schb gạng củ[ bơh 1.000.000 hạn nhân (ở Bangladesh vào
hăg 1971 và C[gpu]bc[ vài ]uối nhữha hăg 1970) và \ốn cuộc thảm sát nữa,
mỗi cuộc giết hạc bơh 100.000 haười (ở Sudan và Indonesia vào nhữha hăg 1960,
Burundi và Uganda vào nhữha hăg 1970) (x_g \ảh đồ trang 470).
Hiển nhiên, tội diệt chủng là một phần di sản củ[ fiàc haười và nhữha haười
tiền sử trải qua hàng triệu hăg. Triha áhb sáha ]ủa thời kỳ lịch sử lâu dài này, ấn
tượng của chúng ta về việc cho rằng tội tuyệt chủng chỉ xuất hiện vào thế kỷ XX
là gì? vẫn có một chút nghi ngờ rằha Sf[tch và Hctf_r đã tbcết lập những kỷ lục mới
về số fượng nạn nhân, bởi họ có ba lợi thế so với những kẻ giết haười trong những
thế kỷ trước: mật độ nạh hbâh đôha bơh, hbữha pbươha tcện liên lạ] được cải
thiện cho việc vây bắt và những tiến bộ trong công nghệ giết haười hàng loạt. Một
ví dụ ebá] để chứng minh cho việc phát triển công nghệ có thể đẩy mạnh sự diệt
chủha hbư tbế hài đó fà haườc vùha đảo Solomon ở Roviana Lagoon thuộc phía
đôha h[g Tbác Bìhb Dươha, rất nổi tiếng với tụ] săh đầu haười, một phong tụ] đã
làm giảg đáha eể dân số của nhữha vùha đảo lân cậh. Tuy hbcêh, hbư hbững
haười bạn Roviana giải thích với tôi, tụ] hày đã ebôha pbát trcểh đến thế đến khi
những chiếc rìu thép xuất hiện ở quầh đảo Solomon vào thế kỷ XIX. Việc chặt đầu
haười bằng một chiế] rìu đá fà bết sứ] ebó ebăh; fưỡi rìu lại chóng mòn và việc
mài sắc lại nó mất rất nhiều công sức.
Một câu hỏc đ[ha aây r[ rất nhiều tr[hb ]ãc đó fà fcệu sự phát triển của công
nghệ có làm cho ngày nay, nạn diệt chủng trở nên dễ ^àha bơh về mặt tâg fý hbư
Kihr[^ Lir_hz đã đư[ r[ b[y ebôha. Lập luận củ[ ôha hbư s[u: Vì ]ih haười tiến
hóa từ vượh haười nên chúng ta ngày càng phụ thuộc vào nguồn thứ] ăh fấy từ
việc giết hạc ]á] fiàc động vật ebá]. Tuy hbcêh, ]búha t[ ]ũha sống trong những
xã hội ngày càng có nhiều cá thể và sự hợp tác lẫn nhau là rất cần thiết. Những xã
hộc hbư vậy không thể tự duy trì lâu dài trừ phi chúng ta phát triển những biện
pbáp haăh ]ảh đủ mạhb để hạn chế sự tàn sát nhữha haười xung quanh. Trải qua
phần lớn lịch sử tiến hóa củ[ fiàc haười, nhữha vũ ebí ]ủa chúng ta chỉ mớc được
sử dụng trong 25% thời gian gầh đây ]ủa tổng thờc ac[h đó, vậy nên, thế ]ũha fà
đủ để chúng ta bị haăh ]bặn lại khi nhìn thẳng vào mặt củ[ haười khác và giết
chết haườc đó. Tuy hbcêh, hbữha vũ ebí bcệh đại chỉ cần nhấh hút đã vượt qua
những hạn chế đó \ằng việc cho phép chúng ta giết haười thậm chí không cần
giáp mặt haườc đó. Di vậy, sự phát triển của công nghệ đã tạo nên nhữha đcều
kiện tiên quyết về mặt tâm lý cho những cuộc tàn sát bằng nhữha vũ ebí ]ủa trí
ó] hbư ở trại tập trung Auschwitz và Treblinka, hay những vụ việc ở Hirosima và
Dresden.

Liliana Carmen Pereyra Azzrri (21 tuổi), một triha 195 trường hợp
desaparecidos ở Ara_htch[, fà haười mà nhữha hbóg đòc quyềh ]ih haườc đã ]ố
gắng tìm kiếm dấu vết. Vài hăg 1977, Lcfc[h[ \ị bắt giữ ebc ]ô đ[ha g[ha tb[c
được 5 tháng. Cô vẫn sống trong một trại tra tấh (Trường Quân sự ESMA) ]bi đến
khi sinh hạ một bé trai vào tháng Hac hăg 1978, rồc s[u đó \ị giết bằng một phát
súng ngắh vài đầu ở cự ly gần. Hài cốt củ[ ]ô được tìm thấy ở habĩ[ tr[ha M[r ^_
Pf[t[ hơc gà hbữha haười mất tí]b ebá] được tìm thấy vài hăg 1985. Cih tr[c
của cô vẫh ]bư[ được tìm ra và có lẽ đã được một ac[ đìhb quâh hbâh hài đó hbận
huôc. Trường hợp của Liliana có thể là ví dụ cho khái niệm về danh dự tbươha
được viện dẫn bởi ủy \[h Hàhb ]bíhb Ara_htch[ trướ] đây hbằm thanh minh cho
nhữha bàhb động của mình. Tôi xin chân thành cảg ơh A\u_f[s ^_ Pf[z[ ^_ M[yi
đã ]bi pbép tôc s[i fại bức ảnh chân dung của Liliana.
Tôi không chắc những lập luận tâm lý này liệu có thực sự góp phầh đáha eể
vào sự thuận lợi cho tội diệt chủng thời hiệh đại hay không. Nạn diệt chủng trong
quá khứ ^ườha hbư ít hbất ]ũha hbcều hbư hạn diệt chủng ngày nay, mặc dù
những xem xét trong thực tế đã acới hạn số fượng các nạh hbâh. Để hiểu kỹ càng
bơh về nạn diệt chủng, chúng ta phải gạt bỏ những ngày tháng, những con số
sang một bên và tìm hiểu thêm về khía cạhb đại đức của việc giết haười.
Ham muốn tàn sát củ[ fiàc haười hiển nhiên luôn bị kìm hãm bởc đại đức của
chúng ta trong phần lớn thời gian. Một câu hỏi khó trả lời là: vậy ]ác aì đã acải
phóng ham muốh đó?
Ngày nay, trong khi chúng ta có thể ]bc[ ]ih haười trên thế giớc tbàhb “]búha
t[” và “bọ”, ]búha t[ \cết là có hàng nghìn loạc “bọ”, và gỗi một loạc haườc hbư
thế lạc ebá] hb[u ]ũha hbư ebá] với chúng ta về ngôn ngữ, diện mạo và thói
quen. Thật ngớ ngẩn khi lãng phí từ ngữ để chỉ r[ đcều này: tất cả ]búha t[ đều
biết đcều đó từ sách vở, truyền hình, và hầu hết ]búha t[ đều nhận thứ] đượ] đcều
này qua những kinh nghiệm trực tiếp của những chuyếh đc. Tbật ebó để đư[ \ản
thân chúng ta quay trở về tâm trạng rất phổ biến trong suốt tiến trình lịch sử của
fiàc haườc, đcều hày đã được mô tả ở cbươha 13. Cũha acốha hbư fiàc tchb tchb,
aircff[ và ]á] fiàc động vật ăh tbịt, sống theo bầy đàh, ]búha t[ ]ũha sống trong
những vùng lãnh thổ theo từng nhóm. Thế giới từha được biết đến nhỏ \é và đơh
giảh bơh hbcều so với ngày nay: chỉ có một vài loạc “bọ” được biết đến, những
haười hàng xóm gầh aũc ]ủa chính nhữha ]ih haười này.
Ví dụ, ở N_w Guch_[ ]bi đến gầh đây, gỗi bộ lạc duy trì một mô hình luân
phiên của chiến tranh và họp tác với từng bộ lạc hàng xóm của mình. Một haười
có thể đc qu[ tbuha fũha fâh cận trong một cuộc viếha tbăg tbâh gật (hbưha
không bao giờ tuyệt đối an toàn) hay trong một cuộc tập kích chiếh tr[hb hbưha
nhữha ]ơ bộc để có thể vượt qua dãy nhữha tbuha fũha gột cách thuận lợi thì
hầu hbư ebôha tbể. Nhữha quy định có hiệu lực rất lớn về ]á]b đối xử với những
haười thuộ] “]búha t[” ebôha được áp dụha đối vớc “bọ”, hbữha haườc đó được
hiểu mập mờ hbư hbững kẻ thù láng giềha. Kbc tôc đc ^ạo qua nhữha tbuha fũha
New Guinea, nhữha haườc đã tb[g ac[ vài tụ] ăh tbịt đồng loại và chỉ vừa mới
thoát khỏi thời kỳ Đồ đá được một thập kỷ đã tbường xuyên cảnh báo tôi về
nhữha tbóc qu_h ăh tbịt đồng loại ghê tởm, nguyên thủy không thể tả nổi của
nhữha haười tôi sẽ phải giáp mặt ở tbuha fũha eế tiếp. Thậm chí cả nhữha \ăha
nhóm của Al Capones(69) ở Chicago vào thế kỷ XX đã đặt ra một chính sách thuê
những kẻ giết haười từ những thành phố ebá], để những kẻ sát nhân có cảm giác
rằha [hb t[ đ[ha acết “bọ” ]bứ không phảc “]búha t[”.
Những tác phẩm của Hy Lạp cổ hé lộ sự mở rộng của chủ habĩ[ pbâh ]bc[ fãhb
thổ theo từng bộ lạc này. Thế giớc được biết đến rộng lớh và đ[ ^ạha bơh hbcều
hbưha haười Hy Lạp “]búha t[” vẫh được phân biệt với những kẻ man rợ “bọ”. Từ
man rợ (barbari[h) được bắt nguồn từ từ “\[r\[ric” triha tcếng Hy Lạp ]ó habĩ[
fà haười ngoại quốc, không phảc haười Hy Lạp. Naười Ai Cập và B[ Tư, hbững dân
tộc cho dù có nềh văh gchb ebôha tbu[ eég aì Hy Lạp vẫn là barbaroi - haười
ngoại quốc. Quan niệm về hành vi là việ] đối xử không công bằha đối với tất cả
mọc haườc, tb[y vài đó, ]bỉ eb_h tbưởng nhữha haười bạn và trừng phạt kẻ thù.
Khi một tác giả haười Athens là Xenophon muốn thể hiện sự ngợi khen cao quý
nhất dành cho vị thủ fĩhb đáha ebâg pbục của mình Cyrus, Xenipbih đã fcêh bệ
đến việ] Cyrus fuôh đềh đáp fại lòng tốt của nhữha haười bạn một cách hào
pbóha bơh rất nhiều và việc ông trả thù nhữha bàhb động xấu xa của kẻ thù một
]á]b ^ã g[h r[ s[i (hbư vcệc móc mắt, chặt tay của họ).
Cũha acốha hbư b[c hbóg fchb ]ẩu Muhac và S]r[t]bcha Ri]es, ]ih haười thực
hiện một chuẩn mự] bàhb vc fưỡha pbâh hbư s[u: ]ấg điáh habcêg ebắc việc
giết hại một haười cùng nhóm với chúng ta - hbưha fại bật đèh x[hb ]bi vcệc tàn
sát nhữha haười ngoại tộc - fà “bọ” - khi thấy an toàn. Tội ác diệt chủng có thể
chấp nhậh đượ] ^ước qu[h đcểg fưỡha pbâh hày, ]bi ^ù [c đó ]ic qu[h đcểm
fưỡha pbâh hày hbư \ảh hăha fiàc vật còn di truyền lạc b[y hbư gột quy tắ] đạo
đức chỉ có duy nhất ở ]ih haười. Tất cả ]búha t[ đều ]ó được những tiêu chuẩn
fưỡng phân tùy thuộc trong thờc tbơ ấu của mình cho việc tôn trọng hay hạ thấp
một hbóg haười khác. Tôi nhớ lại cảhb tượng ở sân bay Goroka trên cao nguyên
New Guinea, khi nhữha haười trợ lý thuộc vùng Tudawhe củ[ tôc đ[ha đứng lúng
túng với những chiế] ái sơ gc rá]b và đôc ]bâh trần, thì một haườc đàh ôha ^[
trắng không cạo râu, hôi rình với chất giọha đặc chát Australia và một chiế] gũ
kéo sụp xuống mắt tiếh đến. Thậg ]bí trước khi anh ta bắt đầu nhạo báng những
haười Tudawhe những lờc hbư “hbững kẻ lang thang bẩn thỉu, họ sẽ không thích
hợp để fãhb đại đất hước này trong cả một thế kỷ đâu”, tbì tôc đã \ắt đầu tự nhủ
với bảh tbâh gìhb, “Tbằha Austr[fc[ đcếc lỗ mãng, tại sao hắn ta không về nhà
với những lời nguyền rủa của hắn mà tắm thứ hước dành cho cừu đc”. Nbư vậy đã
có một dấu hiệu khởc đầu cho sự tàn sát: Tôi chỉ trí]b têh haười Australia, còn anh
ta lại chỉ trích nhữha haười Tudawhe, dựa trên nhữha đặ] đcểm tập hợp lại chỉ từ
một cái nhìn thoáng qua.
Theo thời gian, việ] pbâh đôc xư[ ]ũ hày đã haày ]àha trở nên không thể chấp
nhậh hbư hền tảng của quy tắ] đại đứ]. Tb[y vài đó fà ebuyhb bướng chỉ thừa
nhận ngoài miệng những quy tắc chung trên toàn cầu. Chẳng hạh hbư: haười ta
quy định những quy tắc giống nhau cho việ] đối xử vớc haười khác. Sự diệt chủng
mâu thuẫn trực tiếp với quy tắc chung toàn cầu đó.
Mặc dù có những mâu thuẫh đại đứ] hbư vậy hbưha hbcều nhà nghiên cứu
diệt chủng học hiệh đại vẫh ]ó được niềm kiêu hãnh không hề nao núng về những
thành quả công việc của mình. Khi vị tướha haười Argentina - Roca Argentino
Julio(70) chiếg điạt những thải hauyêh bi[ha ^ã ]bi haườc địhb ]ư ^[ trắng bằng
cách giết hại dã man những thổ dân Araucania, dân tộc Argentina rất suha sướng
và hài lòng bầu ông làm tổng thốha hăg 1880. Nbữha haười mang tội ác diệt
chủng ngày nay lẩn tránh sự xuha đột giữa nhữha bàhb động của mình với quy
tắ] đại đứ] ]buha hbư tbế nào? Họ đã vận dụng một trong ba sự lý giảc được hợp
lý hóa mà tất cả đều là những biến thể của cùng một tuyên ngôn tâm lý giảh đơh
fà: “Đổ lỗi cho nạh hbâh”.
Đầu tiên, phần lớn nhữha haười tin vào những quy tắc chung vẫn coi sự tự vệ
fà ]bíhb đáha. Đó fà sự hợp lý hóa một cách mềm dẻi hbưha rất hữu dụng, bởi vì
“hbững việ] đó” fuôh có thể bị eí]b động trở thành nhữha bàhb vc đủ để bào chữa
cho việc tự phòng vệ. Ví dụ hbư, haười Tasmania gây nên một tội lỗi với thực dân
da trắng khát máu bằng việc giết chết ước chừng khoảng 180 thực dân trong
vòha 34 hăg, s[u ebc \ị khiêu khích bởi một số fượng lớh bơh rất nhiều các vụ
đáhb đập, bắt cóc, hãm hiếp hay giết haười. Thậg ]bí, ]bíhb Hctf_r đã tuyêh \ố về
việc tự phòng vệ từ khi bắt đầu Chiến tranh thế giới thứ II: ôha t[ rơc vài rắc rối
trong việc giả mạo một cuộc tấn công củ[ haười Ba Lan vào biên giớc hướ] Đức.
Sở hữu niềm tin tôn giáo hay là chủng tộc hoặc chính trị “đúha đắh”, biặc là
tuyên bố đại diện cho một sự tiến bộ hay một mứ] độ ][i bơh ]ủa nềh văh gchb,
đó ]bíhb fà fý fẽ bào chữa truyềh tbôha đứng hàng thứ hai cho bất cứ bàhb động
nào, bao gồm cả việc gây nên nạn diệt chủha, gà qu[ đó ]bứ[ đựng nhữha đcều
sai nguyên tắc. Khi tôi là một sinh viên ở Muhc]b vài hăg 1962, gột fíhb Đức
Quốc xã không hề ăh hăh bối lỗi vẫn giải thích cho tôi về vấh đề thực tiễh fà haười
Đứ] đã pbải tấn ]ôha hước Nga, bởc haười Nga vừ[ ]ó được chủ habĩ[ ]ộng sản.
Mườc făg haười trợ lý hiệh trường của tôi thuộc vùng núi Fakfak của New Guinea,
tất thảy đều trôha đẹp đẽ giốha tôc, hbưha ]uối cùng, họ bắt đầu giải thích cho tôi
về việ] [c fà haườc tb_i đạo Hồc, [c tb_i Tbcêh Cbú[ acái, và vì s[i gà haười Hồi
giáo (hoặ] haười Thiên Chúa giáo) là nhữha ]ih haười chắc chắn thấp eég bơh.
Luôn có một sự phân cấp phổ biến cho nhữha đốc tượng bị khinh bi, dựa theo
nhữha haười biết chữ có công nghệ luyệh ecg đạt tới trìhb độ cao (ví dụ hbư
những thực dân da trắng ở châu Phi) luôn coi khinh nhữha haườc ]băh huôc ac[
súc (ví dụ hbư haười Tutsi hay Hottentot), rồi chính nhữha haườc ]băh huôc ấy
lại khinh miệt nhữha haười nông dân (ví dụ hbư haười Hu tu) và nhữha haười
này, đếh fượt mình, lạc đáhb acá tbấp nhữha haườc ^u ][hb ^u ]ư b[y hbững
haườc săh \ắt-bác fượm (ví dụ hbư tbổ ^âh Pyagy b[y haười Bush).
Cuối cùng, những quy tắ] đại đức củ[ ]búha t[ ]ũha hbìh hbậh động vật và
]ih haười theo những cách khác nhau. Vì vậy mà nhữha haười gây ra tội ác diệt
chủng thời hiệh đạc tbường so sánh những nạn nhân của họ với các loài vật nhằm
bào chữa cho sự giết hạc đó. Đức Quố] xã ]ic haườc Di Tbác hbư hbững chủng tộc
hạ đẳha, ^ưới mứ] ]ih haười, nhữha haườc Pbáp đếh địhb ]ư ở Algeria đã quy ]bi
nhữha haười Hồc acái đị[ pbươha hbư fiàc ]buột bọ, nhữha haườc P[r[au[y “eb[c
bó[” tbì gcêu tả nhữha haườc săh \ắt-bác fượg A]bé hbư fũ ]buột bị dịch hạch,
haười Hà Lan thì gọi nhữha haười châu Phi là bọh ebc đầu chó, và nhữha haười có
giáo dục ở phía bắ] Nca_rc[ ]ic haườc ^[ đ_h I\is ở vùha Đôha h[g Nca_rc[ hbư
bọn sâu bọ ký sinh, chứ không phảc fà haười. Ngôn ngữ tiếng Anh rất đ[ ^ạng với
các tên chỉ động vật tbườha được sử dụha g[ha ý habĩ[ gcệt thị hbư: yiu pca -
gày đồ con lợn (ape - vượn, bitch - con sói cái, cur - con chó hoang, ox - con bò cái,
rat - con chuột hay swine - con lợn).
Những thự] ^âh Austr[fc[ đều đã vcện dẫn ba dạng thức của sự hợp lý hóa
g[ha tíhb đại đứ] đó để biện minh cho việc hủy diệt haười Tasmania của họ. Tuy
nhiên, nhữha haười bạn Mỹ của tôi và chính bản thân tôi có thể nhìn nhận sâu
sắ] bơh từ bên trong quá trình hợp fý bó[ đó \ằng việc tập truha vài trường hợp
gà ]búha tôc đã được chỉ dạy từ thuở ấu tbơ hbằm hợp thức hóa vấh đề: sự hủy
diệt ]bư[ đầy đủ của chúng tôi lên những thổ dân Mỹ. Một tập hợp ]á] tbác độ mà
chúng tôi tiếp nhậh được thể hiện một ]á]b đạc ebác hbư s[u:
Để bắt đầu, chúng tôi không bàn luận nhiều về những bi kịch của thổ dân -
chẳng hạh hbư ebôha hbcều bằng việc bàn bạc về nạn diệt chủng của thời kỳ
Chiến tranh thế giới thứ II ở châu Âu. Tấn thảm kịch lớn nhất của quốc gia chúng
tôc tb[y vài đó được nhìn nhậh hbư gột cuộc nội chiếh. Cbi gãc đến khi chúng
tôi dừng việ] suy habĩ về sự mâu thuẫn giữa nhữha haười da trắng và những thổ
^âh và ]ic đó hbư những sự kiện thuộc về quá khứ xa xôi, miêu tả nó theo ngôn từ
củ[ quâh đội: Chiến tranh Pequod, Cuộc chiếh đầm lầy, Trậh đáhb Wiuh^_^
Knee, sự thống trị củ[ haười miềh Tây, v.v… Tbổ ^âh, tb_i qu[h đcểm của chúng
tôi, là nhữha haười ham thích chiến tranh và ư[ \ạo lực thậm chí với cả với các bộ
lạc thổ dân khác nữa, những chuyên gia trong việc mai phục và trong những
bàhb động phản bội lừa lọc. Họ ]ũha hổi tiếng với nhữha bàhb động dã man,
được biết đến nhiều nhất là những tập tụ] g[ha đặ] trưha tbổ dân da đỏ trong
việc tra tấn những tù nhân và lột ^[ đầu kẻ thù. Số fượng của nhữha haười này rất
ít và sốha hbư hbững thợ săh \ắt h[y đây g[c đó, đặc biệt là nhữha haườc đc săh
bò rừng bison. Ở hước Mỹ vài hăg 1942, tb_i hbữha ước tính truyền thống có
khoảng 1.000.000 thổ ^âh ^[ đỏ. Con số hày biàh tiàh ebôha đáha eể, so với dân
số hiện tại của Mỹ fà 250.000.000 haườc, ^i đó, vcệ] ]ư haụ của nhữha haười da
trắng ở một châu lục hầu hbư trốha trơh hày trở nên gầh hbư fà đcều hiển nhiên.
Rất nhiều thổ ^âh ^[ đỏ đã chết vì bệhb đậu mùa và nhữha ]ăh \ệnh khác. Thái
độ đượ] đề cập trướ] đây đã ^ẫn dắt chính sách về thổ ^âh ^[ đỏ của những tổng
thống và nhữha hbà fãhb đại đượ] haưỡng mộ nhất ở Mỹ từ sau George
Washington trở đc (x_g pbần trích dẫh triha “Nbững chính sách về thổ dân da
đỏ của một vài chính khách Mỹ nổi tiếha”, tr[ha 507-508).
Những sự hợp lý hóa dừng lại ở việc biếh đổi một vài thực tế mang tính chất
lịch sử. Ngôn ngữ quâh đội ám chỉ rằng những cuộc chiếh tr[hb đã từha được
công bố ebơc gài \ởi cuộc chiến giữa nhữha haườc đàh ôha. Tbực chất là, những
thủ điạh tbôha tbường củ[ haười da trắha đó fà hbững cuộc tấn công lén lút
(tbườha ^ưới dạng nhữha tbường dân) vào làng mạc hoặc khu cắm trạc để giết hại
những thổ dân ở bất kỳ độ tuổi hay giới tính nào. Trong vòng một thế kỷ đầu tiên
khi nhữha haười da trắha đếh địhb ]ư, ]bíhb pbủ đã tr[i tbưởng hậu bĩhb ]bi
những kẻ giết haười bán chuyên nghiệp fuôh đc săh đầu haườc ^[ đỏ. Những xã
hộc ]bâu Âu đươha tbời ít nhất ]ũha b[g tbí]b ]bcến tranh và bạo lực không kém
gì những thổ ^âh, ebc gà haười ta nhắc tới số lần những cuộc nổi loạn, chiến
tranh giai cấp, bạo lực do say xỉn, bạo lự] được hợp pbáp bó[ để chống lại tội
phạm và toàn bộ những cuộc chiến, bao gồm sự phá hoạc fươha tbực và sự nghèo
đóc. Vcệc tra tấn trở nên hết sức tinh tế ở ]bâu Âu: bãy habĩ tới việc vẽ và phanh
pbây, đốt ]báy haười trên những chiếc cột hay những chiếc giá. Trong khi dân số
những thổ ^âh ^[ đỏ ở Bắc Mỹ trước khi có sự gặp gỡ lầh đầu tiên là một chủ đề
còn rất nhiều luồng ý kiến khác nhau, thì nhữha ướ] điáh ]ó vẻ hợp lý gầh đây
cho là có khoảha 18.000.000 haười, một số fượha ^âh ]ư ebôha \ằng số haười
khai hoang da trắha đếh hước Mỹ ]bi đến khoảha hăg 1840. Mặc dù một vài thổ
^âh ^[ đỏ hước Mỹ là nhữha haườc săh \ắt bán du mục, không có một nền nông
nghiệp, thì phần lớn những thổ ^âh đó đã fà hbững nông dân sinh sống ổh định
trong các làng quê. Bệnh tật có thể ]ũha ]bíhb fà eẻ sát hbâh đáha sợ nhất của thổ
^âh ^[ đỏ, hbưha gột vài loại bệhb đã đượ] haười da trắng lan truyền một cách
có chủ ý, và những bệnh tật này vẫn tồn tại trong rất nhiều ]ơ tbể thổ dân và giết
chết họ bằng nhữha pbươha tbức trực tiếp bơh. Đó fà vài hăg 1916, ebc gà
haười thổ ^âh “bi[ha ^ã” ]uốc ]ùha trêh đất Mỹ (một thổ ^âh ^[ đỏ Yahi có tên là
Isbc) đã ]bết, và những ký ức thẳng thắn và không thể chối bỏ của nhữha haười
da trắng giết haười về bộ tộc của anh ta thì phải mãi gầh đây gớc được xuất bản
vài hăg 1923.
Tóm lạc, haười Mỹ đã fãha gạn hóa cuộc chiến giữ[ haười da trắng vớc haười
^[ đỏ hbư hbững trận chiến của nhữha haườc đàh ôha trưởng thành, ngồi trên
fưha haựa, hay việ] đáhb hb[u acữa những kỵ binh và những chàng cao bồi của
hước Mỹ chống lại nhữha haườc săh \ắt bò rừha \csih đầy hung dữ h[y đây g[c
đó và rồi gặp phải sự chống cự hết sức mạnh mẽ. Cuộc chiến này được miêu tả xác
thự] bơh hbư gột cuộ] đu[ tr[hb ]ủa nhữha haười nông dân hoàn toàn thuần
chất đ[ha bủy diệt một hbóg haười khác. Chúng tôi, nhữha haười dân Mỹ vẫn
còn nhớ rõ nỗi nhục nhã trong mất mát của chúng ta ở những trậh đáhb Af[gi
(khoảha 200 haười chết), trong trận thủy chiến của chiến hạg USS fàg 260 haười
chết và tại trận Trân Châu Cảng (có khoảha 2.000 haườc đã ]bết), những sự việc
bất ngờ xảy r[ đã ebí]b động chúng ta lầh fượt ủng hộ cho các cuộc chiến tranh ở
Mexico, cuộc chiến tranh giữa Tây Ban Nha và Mỹ và Chiến tranh thế giới thứ II.
Số fượng cái chết ấy chỉ là cỏn con so với những mất gát đã \ị quên lãng khi mà
chúng ta tiến hành những cuộc tấn công với nhữha haườc ^[ đỏ. Những xem xét
từ bên trong chỉ cho chúng ta thấy làm thế hài để viết lại tấn bi kịch quốc gia lớn
lao này, chúng ta giống với rất nhiều ]ih haười hiệh đạc đã bàc bò[ tội ác diệt
chủng với những quy tắc mang tính toàn cầu về đại đức. Giải pháp là viện dẫn tới
sự tự bảo vệ bản thân và việc gạt bỏ quy tắc quan trọha để nhìn nhận những nạn
hbâh hbư fiàc tbú buha ^ữ.
Việc viết lại lịch sử củ[ hước Mỹ của chúng tôi xuất phát từ một khía cạnh của
sự diệt chủha đó fà tầm quan trọng có tính thực tiễn lớn nhất trong việ] haăh
chặh hó: tá] độha tâg fý đến những kẻ giết haười, những nạn nhân và cả phía thứ
ba. Câu hỏi khó lý giải nhất ]ó fcêh qu[h đến nhữha tá] độha b[y đúha bơh fà
nhữha tá] động không rõ ràng lên phía thứ \[. Triha suy habĩ đầu tiên củ[ [c đó,
họ có thể mong chờ rằng không niềm vinh dự nào thu hút sự chú ý của cộha đồng
nhiều hbư fà vcệc giết hại một cách có chủ ý, dần dầh và đầy hung tợn rất nhiều
haười. Thực tế là, sự hủy diệt hiếm khi thu hút sự chú ý của cộha đồng ở ]á] hước
khác, và thậm chí càng hiếm bị acáh điạn lại bởi sự can thiệp từ hước ngoài. Có ai
trong số chúng ta bỏ nhiều thờc ac[h ]bú ý đến cuộc thảg sát haười Zanzibar ở
Ar[\ vài hăg 1964 b[y tbổ dân Aché sống ở Paraguay vào thập kỷ 70 của thế kỷ
XX.
Đối lập với việc không phản ứng lại nhữha đcều đó và tất cả những cuộc diệt
chủng diễn ra vào những thập kỷ gầh đây với việc phản kháng mạnh mẽ hai
trường hợp đơh độc của việc diệt chủng hiệh đạc fà ]ác đã tồn tại rất sốha động
triha trí tưởha tượng củ[ ]búha t[: đó fà vcệ] quâh độc Đức Quốc xã giết hạc haười
Do Thái, và (kém sốha độha bơh đối với nhiều haười) fà trường hợp củ[ haười Thổ
chống lạc haười Armenia. Nhữha trường hợp này khác những cuộc diệt chủng mà
]búha t[ đã \ỏ qua ở ba khía cạnh chính yếu, đó fà: hạh hbâh đều fà haười da
trắha, được nhận diện bởi nhữha haười da trắng khác, mà kẻ giết haười chính là
kẻ thù trong chiến tranh của chúng ta, nhữha haườc gà ]búha t[ được khuyến
ebí]b để ghét bỏ và ]ic đó hbư hbững tộc á] (đặc biệt fà Đức Quốc xã), có nhiều
haười còn sống sót và có khả hăha trìhb \ày fại sự việ] đ[ha sốha trêh đất Mỹ thì
đã tốn nhiều nỗ lự] để buộc chúng ta phải ghi nhớ. Vì vậy, tốt bơh fà, sự diệt
chủha hêh được một ]bòg s[i đặc biệt chiếu mệhb để có thể khiến phía thứ ba
chú ý vào nó.(71)
Tính thụ động một cách lạ lùng của phía thứ \[ được minh họa bởi chính
nhữha bàhb động của chính phủ mà những hoạt độha đó tbể hiện tâm lý của cả
một hbóg haười. Trong khi Liên Hiệp Quố] vài hăg 1948 tbôha qu[ Côha ước về
sự diệt chủha, triha đó, sự diệt chủha được tuyên bố hbư fà gột tội ác, thì chính
tổ chức này lại chẳng bao giờ thực hiện bất kỳ \ước tiến quan trọng nào nhằm
haăh ]ản, tạm thời dừng lại, hay trừng phạt mặc cho những phàn nàn giáng
xuốha trước khi Liên Hiệp Quốc tiến hành việc chống lại nạn diệt chủng đ[ha
diễn ra ở Bangladesh, Burundi, Campuchia, Paraguay và Rwanda (72). Với những chỉ
trích mạnh mẽ nhằm vào Uganda trong tình trạng nỗi khiếp sợ Idi Amin(73) ngày
càng dâng cao, Tổha tbư eý Lcêh Hcệp Quốc chỉ phản ứng bằng việc yêu cầu chính
Amin phải mở cuộ] đcều tr[. Nước Mỹ thậm chí còn không nằm trong số những
hướ] đã pbê ]buẩh ]ôha ước của Liên Hiệp Quốc về sự diệt chủng.
Phảc ]băha vcệc không phản ứng khó hiểu này là bởi chúng ta không biết, hoặc
có khám phá ra những tội ác diệt chủng vẫh đ[ha xảy ra? Hiển nhiên là không
phải vậy: rất nhiều cuộc diệt chủng diễn ra vào thập kỷ 70 và 80 của thế kỷ XX
đều được công khai một cách chi tiết bao gồm những vụ ở Bangladesh, Brazil,
Buruh^c, C[gpu]bc[, Đôha Tcgir, Guch_[ Xí]b đạo, Indonesia, Lebanon,
Paraguay, Rwanda, Sudan, Uganda và Zanzibar. (Số haười bị chết ở Bangladesh và
Campuchia, mỗc hơc fên tớc 1.000.000 haười). Ví dụ, vài hăg 1968, ]bíhb pbủ
Brazil chỉnh sửa những án phạt mang tính tội phạm chống lạc 134 trêh 170 haười
làm công cho Dịch vụ bảo vệ thổ dân vì những việc làm của họ giết hại các bộ tộc
thổ dân vùng Amazon. Nhữha bàhb độha đó được miêu tả chi tiết trong một báo
cáo Figueiredo dài 5.115 trang của một vị tướha được ủy quyền ở Br[zcf, và được
đọc trong một cuộc họp có sự tham gia của bộ trưởng Bộ nội vụ: giết hại thổ dân
bằng thuốc nổ, súng máy, viên kẹo ngọt tẩm thạch tín, hoặc cố tình gieo rắc bệnh
đậu mùa, cúm, lao và sởi, bắt cóc trẻ em thổ ^âh hbư hbững kẻ nô lệ, và việc thuê
những kẻ giết thổ dân chuyên nghiệp của những công ty phát triểh đất đ[c.
Những số liệu trong bảh \ái ]ái Fcau_r_c^i đã xuất hiện trên các tờ báo của Mỹ và
Ahb, hbưha fại thất bại trong việc kích thích phản ứng của công chúng.
Do vậy, haười ta có thể kết luận rằha đơh acản, hầu hết mọc haườc tbường
không quan tâm nhiều đến nhữha đcều không công bằng xảy r[ đối với những
haười khác, hoặ] ]ic hó hbư ebôha pbải chuyện của họ. Đây fà pbần không còn
nghi ngờ gì trong việc giảc tbí]b đcều hày, hbưha ]bư[ pbải là tất cả. Nhiều haười
vẫn rất qu[h tâg đến vấh đề bất ]ôha, hbư fà hạn phân biệt chủng tộc ở Nam Phi,
vậy tại sao không phảc fà đến nạn diệt chủng? Câu hỏi hày được chuyểh đến một
]á]b đ[u xót ]bi Tổ chức các Quốc gia châu Phi bởi những nạh hbâh haười Hutu
bị haười Tutsi tàn sát ở Buruh^c, hơc ]ó ebiảng từ 80.000 đếh 200.000 haười
Hutu bị giết hăg 1972. “Nạn phân biệt chủng tộc củ[ haườc Tutsc được hình
thành tàn bại bơh fà hạn phân biệt chủng tộc củ[ haười Vorster, thiếu nhân tính
]òh bơh ]ả chủ habĩ[ tbực dân Bồ Đài Nb[. Naiàc sự tàn bạo củ[ quâh đội phát
xít Hitler thì không có gì có thể so sánh với nó trong lịch sử thế giới. Và những
haười châu Phi không nói bất cứ đcều gì. Nhữha haườc đứha đầu các quốc gia của
]bâu Pbc đóh hbận nhữha haười hành hình Micombero (Tổng thống của Burundi,
haười Tutsi) và xiết chặt tay trong sự đóh ]bài ]ủa tình anh em. Những quý ông,
đứha đầu các quốc gia, nếu họ mong muốn giúp đỡ nhữha haười châu Phi ở
Namibia, Zimbabwe, Angola, Mozambique và Guinea-Bcss[u để giải phóng bản
thân họ khỏi những kẻ áp bức da trắng, bạn không có quyềh để haười châu Phi
giết hại nhữha haườc ]bâu Pbc ebá]… Lcệu bạh ]ó đợc đượ] đến khi toàn bộ nhóm
naười dân tộc Hutu của Burundi bị tiêu diệt biàh tiàh trước khi lên tiếha ebôha?”
Để hiểu sự vô can của phía thứ ba, chúng ta cầh đáhb acá ][i pbản ứng của
những nạh hbâh đ[ha sống sót. Nhữha haười nghiên cứu bệnh tâm thần có các
bằng chứng về sự hủy diệt, hbư hbữha haười sống sót ở Auschwitz, miêu tả
nhữha tá] động vào họ hbư sự tê cóng tâm sinh lý. Hầu hết ]búha t[ đều sẽ có
kinh nghiệm về những nỗc đ[u rất lớh và eéi ^àc đến với ta khi mà một haười bạn
b[y haười họ hàng chúng ta yêu mến bị chết một cách tự nhiên, khó có thể nhìn
thấy. Đó biàh tiàh fà gột đcều không thể tưởha tượng khi sức mạnh của những
]ơh đ[u đ[ha đượ] hbâh fêh vài fú] [c đó \ị ép nhìn nhữha haười bạn hay họ
bàha gà haườc đó yêu gến, thân thiết đ[ha \ị giết một cách cực kỳ độc ác. Với
nhữha haười sống sót, có một sự vỡ tan hệ thống những niềg tch gà ^ưới nó sự
tàn bại đ[ha đượ] tráhb hé, ]ác suy habĩ về những vết hbơ tbực sự không còn giá
trị để được chọn ra cho những thứ ác nghiệt nhất. Nhữha ]ơh đ[u tàh hbẫn về thể
xác làm tê liệt chúng t[, ]búha ]ũha hbư hbữha ]ơh đ[u \ạo nghiệt về tâm sinh
fý: ebôha ]ó ]á]b hài để sống sót và giữ lạc đầu óc lành mạnh sáng suốt. Với tôi,
những phản ứha đó được nhân cách hóa trong nhữha haười thân thiết đã sống
sót b[c hăg triha trại tập trung Auschwitz, và nhữha haười gầh hbư vẫn không

thể ebó] được cho tới những thập kỷ về sau.

Ishi, thổ ^âh ^[ đỏ cuối cùng sống sót của bộ tộc Yashi thuộc phía bắc
California. Bức ảnh này thể hiệh [hb t[ đ[ha ebổ sở vì đóc ebát và sợ hãi vào ngày
29 tbáha Tág hăg 1911, ]ác haày gà [hb t[ đột ngột xuất hiệh s[u 41 hăg trốn
trong một hẻm núi hẻo lánh. Phần lớn nhữha haười trong bộ lạc củ[ [hb t[ đã \ị
nhữha haườc địhb ]ư ^[ trắng giết hại vào khoảng nhữha hăg từ 1853 đến 1870.
Vài hăg 1870, 16 haười sống sót sau cuộc hủy diệt cuốc ]ùha đã trốn vào vùng
núi Lassen hoang dã và tiếp tục sống cuộc sốha săh \ắt-bác fượg. Vài tbáha Mười
một hăg 1908, ebc số haười sống sót thu hẹp lại chỉ còn bốn thì nhữha haườc đc
truy tìg đã \ới tung khu lều trại của họ và lấy đc tất cả dụng cụ, quần áo và những
thứ] ăh ^ự pbòha gù[ đôha, eết quả fà \[ haười Yashi (mẹ, chị gái của Ishi và
một haườc đàh ôha ]ó tuổc) đã ]bết. Ishi phải sốha ]ô đơh triha bơh \[ hăg hữa
]bi đến khi anh ta không thể chịu đựha được nữa và quyết địhb \ước vào nềh văh
minh củ[ haười da trắng, và chắc chắn rằng mình sẽ bị hành hình ở đó. Tbực tế là,
[hb t[ được Bảo tàng California ở San Prancisco thuê làm việc và chết vì bệnh lao
vài hăg 1916. Bức ảnh này là từ bộ fưu trữ của Bảo tàng Nhân chủng học Lowie,
Đại học California, Berkeley.
Về phản ứng của những kẻ giết haườc, tư ]á]b đại đức của những kẻ giết haười
đó được phân biệt giữ[ “]búha t[” và “]búha hó”, ]ác gà ]búha ]ó tbể thấy tự hào,
những những kẻ đó fại lồha fêh ^ưới phẩm chất đại đức toàn cầu, cái có thể chia
sẻ sự tàn khốc với những nạn nhân của chúng, bị tăha fêh ^i sự phạm tội. Hàng
trăg, bàha habìh haười Mỹ đã ]bcếh đấu ở Việt N[g ]ũha đ[ha ]bịu đựng sự tê
liệt đó. Tbậm chí, những hậu duệ của nhữha haười bị hủy diệt - những tầng lớp
con cháu này không có trách nhiệm cá nhân - và chúng có thể cảm thấy tội lỗi
mang tính tập thể, bức tranh nhỏ về chân dung những nạh hbâh đượ] địhb habĩ[
cho sự hủy diệt. Để giảm nỗc đ[u ]ó tội, những kẻ hậu duệ tbường viết lại lịch sử:
minh chứng cho phản ứng của nhữha haười Mỹ hiệh đại, hoặc là phản ứha hbư \à
Cobern và một số haười Australia hiệh đại khác.
Chúng ta có thể bắt đầu hiểu tốt bơh về việc không phản kháng với tội diệt
chủng của phía thứ ba. Tội diệt chủng giáng nhữha đòh aây hêh hbững biến dạng
và tổh tbươha tâg fý eéo dài cho các nạn nhân và những kẻ giết haười - khi lần
đầu tiên giết chết [c đó. Nbưha hó ]ũha ]ó tbể để lại vết sẹo sâu cho nhữha haười
chỉ nghe thấy đcều đó qu[ fời kể hbư fũ trẻ, con nhữha haười sống sót ở trại tập
trung Auschwitz, hoặc nhữha haười chữa bệnh bằng liệu pbáp tâg fý đcều trị cho
nhữha haười sống sót và những cựu chiến binh trong chiến tranh ở Việt Nam. Các
nhà trị liệu đượ] đài tạo một cách chuyên nghiệp để có thể hab_ được nỗc đ[u
khổ củ[ ]ih haười vậy gà tbường không thể chịu đựha được lời kể đ[u đớn của
nhữha haườc fcêh qu[h đến diệt chủng. Nếu những nhà chuyên môn không thể
hiểu nổi nó, thì ai có thể đổ lỗi cho cộha đồng về việc từ chối lắha hab_ đcều đó?
Hãy xem những phản ứng của Robert Jay Lifton, một nhà tâm lý trị liệu haười
Mỹ, ngườc đã ]ó hbcều kinh nghiệm với nhữha haười sống sót trong mọc trường
hợp cực kỳ nguy hiểg trước khi ông phỏng vấn nhữha haười sống sót sau thảm
họa bom nguyên tử Hcrisbcg[ “…\ây acờ, thay vì giải quyết “vấh đề bom nguyên
tử”, tôc pbảc đươha đầu với những chi tiết đầy thú tính trong kinh nghiệm thực tế
của nhữha ]ih haười ngồc trước mặt tôi. Tôi thấy rằng việc hoàn thành mỗi cuộc
phỏng vấn sớm này làm cho tôi bị sốc nặha và xú] động sâu sắ]. Nbưha rất nhanh
thôi, chỉ trong một vài ngày, thực tế là tôi nhận ra phản ứng củ[ tôc đã tb[y đổi.
Tôc đ[ha fắng nghe sự miêu tả về những nỗi sợ echb biàha hbư hb[u, hbưha
nhữha tá] động của chúng lên tôi lạc ít đc. Kchb habcệg đó fà sự mô tả không thể
hài quêh được của việ] “eết thúc tâm linh huyềh \í”, gà ]búha t[ sẽ nhìn thấy
đượ] đặ] trưha \ởi rất nhiều khía cạnh về sự pbơc hbcễm bởi bom nguyên tử.
Những cuộc diệt chủha hài gà ]búha t[ giha đợi từ nhữha haười tinh khôn
Homo sapien triha tươha f[c? Có đầy những lý do hiển nhiên cho sự bi quan này.
Thế giớc đầy rẫy nhữna đcểm nóng rắc rốc ^ườha hbư đã ]bíh guồi cho sự diệt
chủng: Nam Phi, Bắ] Ir_f[h^, Yuaisf[vc[ (N[g Tư ]ũ), Src L[he[, N_w C[f_^ihc[
và vùha Truha Đôha. Đó gới chỉ là tên một vàc hơc. Nbững chính phủ chuyên chế
dựa trên sự diệt chủha ^ườha hbư ebôha tbể dừng lạc đượ]. Cá] vũ ebí bcệh đại
cho phép một haười có thể giết chết một fượng lớn nạn nhân, trở thành những kẻ
giết haười trong khi vẫh đ[ha ăh gặc tề chinh, và thậm chí ảhb bưởha đến sự diệt
chủng toàn cầu củ[ fiàc haười.
Cùha fú] đó, tôc hbận ra nhiều lý lẽ cho sự lạc quan thận trọng rằha tươha f[c
không cầh quá ebát gáu hbư hbững gì diễn ra trong quá khứ. Ở nhiều đất hước
haày h[y, ]ih haười thuộc các chủng tộc và tôn giáo hoặc những dân tộc khác
nhau vẫn sống cùng nhau với các mứ] độ đ[ ^ạng của công bằng xã hộc hbưha ít
nhất ]ũha ebôha bé gở những vụ giết haười hàng loạt: ví dụ hbư Tbụy Sỹ, Bỉ,
Papua New Guinea, Fiji, thậm chí là cả hước Mỹ sau vụ Ishi. Một vài vụ diệt chủng
đã được chặn lạc tbàhb ]ôha, đã fàg acảm thiểu và bị haăh ]bặn bởi những nỗ lực
và phản ứng tích cực từ phía thứ ba. Thậm chí, sự hủy diệt củ[ Đức Quốc xã nhằm
vài haười Do Thái, vốh được chúng ta nhìn nhậh hbư gột sự diệt chủng hiệu quả
nhất và không thể dừng lạc đượ] tbì ]ũha đã đượ] haăh ]ản ở Đ[h Mạch, Bulgary
và mọc đất hướ] đ[ng bị xâm chiếg hơc gà hbữha haườc đứha đầu các nhà thờ
lên án một cách công khai sự trục xuất haười Do Thái vào thờc đcểg trước hoặc
ngay khi nó bắt đầu. Một dấu hiệu đáha bc vọng nữ[ đó fà ]á] ]buyến du lịch hiện
đại, hay nhờ vô tuyến truyền hình và nhiếp ảnh cho phép chúng ta thấy được
nhữha ]ih haườc ebá] đ[ha sống cách xa chúng ta hàng chục nghìn dặm. Nhiều
haười trong số chúng ta nguyền rủa công nghệ của thế kỷ XX, hbưha hó đ[ha fàg
mờ đc sự khác biệt giữ[ “]búha t[” và “bọ”, đcều có thể khiến cho sự diệt chủng có
thể xảy ra. Trong khi vấh đề diệt chủha đã được chấp nhận về mặt xã hội hay
thậg ]bí haườc t[ haưỡng mộ thế giớc trước khi có sự tiếp xúc lầh đầu tiên, sự lan
rộng các nềh văh bó[ quốc tế trong thời kỳ hiệh đại và những kiến thức về những
con haườc x[ xôc đ[ha fàg ]bi hó trở nên ngày càng khó biệh gchb bơh.
Vẫh ]òh đó bcểm họa của nạn diệt chủng chừng nào mà chúng ta không thể
chịu đựng nổi việc hiểu nó và chừng nào chúng ta còn lừa dối chính bản thân với
niềm tin rằng chỉ nhữha haười lầm lạc hiếm hoi mới phạm phảc đcều đó. Cứ cho là
hbư vậy, thì thật ebó để ta không trở nên tê liệt ebc đọc về sự diệt chủng. Thật khó
tưởha tượng làm sao chúng ta và nhữha haười có bản chất tốt đẹp khác mà chúng
ta biết, có thể tự mình nhìn thẳng vào những con người vô dụng trong khi giết
chết họ. Tôc đc tớc đcểm gần nhất để có thể tưởha tượha đượ] đcều đó ebc gột
haười bạh gà tôc đã \cết lâu rồi nói với tôi về sự tàn khốc của một cuộc tàn sát diệt
chủng mà anh ta chính là một kẻ giết haười.
Kariniga là một haười đàh ôha tbuộc bộ tộ] Tu^[wb_ đã ]ùha fàg vcệc với tôi
ở New Guinea. Chúng tôi cùng nhau trải qua những tình huốha đ_ ^ọa tới tính
mạng, nỗi sợ hãi và cả những thắng lợi, tôi rất quý mếh và haưỡng mộ anh. Một
buổi tôi sau khoảha hăg hăg tôc \cết về Kariniga, [hb đã hóc với tôi về tuổi trẻ
củ[ gìhb. Đó fà gột ac[c điạn lịch sử dài với nhữha xuha đột giữ[ haười
Tu^[wb_ và haười làng bên cạnh thuộc bộ tộc Daribi. Nhữha haười Tudawhe và
D[rc\c ^ườha hbư quá qu_h tbuộc vớc tôc, hbưha K[rchca[ đã đc tới việc nhìn nhận
nhữha haườc D[rc\c hbư gột ]ác aì đó echb tởm không thể diễn tả được. Sau một
chuỗi các các cuộc mai phục liên tiếp, cuốc ]ùha tbì haườc D[rc\c ]ũha đã tbàhb
công trong việc lầh fượt bắn gục nhiều haườc Tu^[wb_, triha đó ]ó ]ả cha của
K[rchca[, ]bi đến khi mà sự sống sót của nhữha haười Tudawhe lâm vào tình
trạng tuyệt vọng. Tất cả nhữha haườc đàh ôha ]òh fại của Tudawhe vây làng
Daribi vào buổc đêg và đốt cháy những túp lều bằng cỏ. Nhữha haườc D[rc\c đ[ha
ngủ đc fiạng choạng trong những túp lều đ[ha cháy, rồi họ bị đâg ]bết ở đó. Một
vàc haườc D[rc\c tbiát r[ đã tbàhb ]ôha ebc trốn chạy vào rừha hơc gà haười
Tu^[wb_ s[u đó truy fùha và acết chết hầu hết bọn họ trong suốt những tuần tiếp
tb_i. Nbưha sự thiết lập quyền kiểm soát của chính phủ Australia đã eết thúc
cuộ] săh đuổi ấy trước khi Kariniga có thể bắt được kẻ đã acết cha anh ta.
Từ tốc đó, tôc đã tbường run bắn lên khi nói lại chi tiết về chuyện này - Sức
nóng trong mắt của Kariniga khi anh ấy kể cho tôi về sự tàn bạo của cuộc thảm
sát vào buổi sáha tchb gơ, đó fà hbững khoảnh khắc thỏ[ gãh đầy khắc nghiệt
khi cuốc ]ùha [hb t[ ]ũha đâg haọn giáo vào những kẻ giết haườc, và hước mắt
của sự thịnh nộ và thất vọng về sự trốn chạy của kẻ giết ]b[ [hb t[, haười mà anh
ta vẫn mong là sẽ giết chết một ngày hài đó \ằha ]á]b đầu độc. Tốc bôg đó, tôc
habĩ fà ít hbất tôc ]ũha đã bcểu bằng cách nào một ]ih haười tử tế tự biến mình
thành một kẻ sát nhân. Tiềg hăha ]ủa việc diệt chủng do hoàn cảhb đã xô đẩy
K[rchca[ ]ũha fuôh ]ận kề bên cạnh tất cả chúng ta. Khi sự ac[ tăha ^âh số thế giới
làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn giữa các xã hộc và \êh triha hó, fiàc haười sẽ
chịu nhiều tbôc tbú] bơh để giết hại lẫn nhau, và với nhiều vũ ebí bcệu quả bơh để
làm việ] đó. Lắng nghe những lời kể của chính nhữha haười tham gia diệt chủng
là một nỗc đ[u ebôha tbể chịu đựng nổc. Nbưha hếu hbư ]búha t[ tcếp tụ] qu[y đc
và không chịu hiểu nó, thì khi nào nó sẽ biến chính bản thân chúng ta thành
những kẻ giết haười hay những nạn nhân củ[ đcều đó?
NHỮNG CHÍNH SÁCH VỀ THỔ DÂN DA ĐỎ CỦA MỘT SỐ CHÍNH KHÁCH MỸ NỔI
TIẾNG

Tổng thống George Washington: “Những mục tiêu tức thì chính là hủy diệt và
tàn phá toàn bộ khu vực đóng của chúng. Cần thiết phải phá hủy mùa màng trên đất
của chúng và ngăn cản việc trồng trọt thêm nữa.”
Benjamin Franklin: “Nếu đó là việc sắp đặt của dự phòng để diệt bỏ lũ người
hoang dại đó nhằm tạo khoảng trống cho những người trồng trọt trên Trái đất, thì
dường như không thể nào cho rằng rượu mạnh là phương tiện có thể được chỉ định”
Tổng thống Thomas Jefferson: “Chủng tộc không may mắn này, những người mà
chúng ta đã chấp nhận nhiều đau đớn để cứu thoát và khai hóa, họ lại có hành động
ruồng bỏ không mong đợi, những hành động dã man biện minh cho sự hủy diệt và bây
giờ thì đang đợi chờ quyết định của chúng ta cho số phận của họ.
Tổng thống John Quincy Adams: “Đâu là quyền của đoàn người đi săn khi đến
những khu rừng rộng hàng nghìn dặm mà ở đó anh ta phải xếp loại một cách tình cờ
nhằm kiếm những con mồi.”
Tổng thống James Monroe: “Những người đi săn hay những con người hung tợn
đó đòi hỏi mở rộng phần lãnh thố lớn hơn để duy trì sự tồn tại của bản thân, hơn là
thích hợp với sự tiến bộ và những đòi hỏi về cuộc sống văn minh… và phải chịu thua
nó.
Tổng thống Andrew Jackson: “Họ không có trí thông minh, nền công nghiệp, thói
quen đạo đức hay là lòng khao khát tiến bộ, những điều rất cần thiết để thay đổi điều
kiện của họ. Hình thành trong sự che khuất của những chủng tộc cao cấp hơn khác, và
thiếu việc đánh giá nguyên nhân sự thấp kém của họ hoặc tìm kiếm để kiểm soát họ,
họ cần phải chịu thua trong những áp lực của hoàn cảnh và trước sự biến mất vĩnh
viễn.”
Chánh án Tòa án Tối cao John Marshall: “Các bộ tộc người da đỏ đang cư ngụ ở
đất nước này là những người hoang dại với công việc là chiến tranh và sự sinh tồn từ
những cánh rừng… Luật pháp phải được thực thi và nói chung nên được tiến hành,
những mối quan hệ giữa người đi xâm chiếm và bị xâm chiếm không thể áp dụng cho
con người dưới mọi hoàn cảnh. Sự khám phá (nước Mỹ của những người châu Âu) đưa
ra những quyền cao nhất để phân biệt thứ bậc sở hữu của thổ dân, hoặc là mua lại
hay chiếm đoạt những vật thuộc sở hữu của họ.”
Tổng thống William Henry Harrison: “Đó có phải là một trong những tỷ lệ công
bằng nhất trên toàn thế giới để duy trì một trật tự tự nhiên, ngôi nhà của một người
khốn khổ bất hạnh, khi mà số phận họ bị định đoạt bởi Chúa Trời để mang lại sự đóng
góp cho lượng dân số lớn hơn và trờ thành bàn đệm của nền văn minh hay không?”
Tổng thống Theodore Roosevelt: “Những người định cư và đi tiên phong cuối
cùng cũng có được công lý đứng về phía họ, lục địa rộng lớn này không thể giữ trong
tình trạng trống không, nơi chỉ dành cho một cuộc chơi nhằm bảo vệ những giống nòi
hoang dã bẩn thỉu.”
Tướng Philip Sheridan: “Người thổ dân da đỏ tử tế duy nhất mà tôi từng nhìn
thấy đã chết.”
PHẦN V
ĐẢO NGƢỢC QUÁ TRÌNH TIẾN HÓA CỦA
CHÚNG TA TRONG CHÓC LÁT
iàc haười chúng ta hiệh đ[ha ở đỉnh cao về số fượng, phạg vc địa lý, sức

L mạhb và hăha suất củ[ Trác đất gà ]ih haười cầh ]ó. Đó fà tch tốt. Tin xấu là
]búha t[ đ[ha triha tcến trìhb đải haược tất cả tiến bộ đó hb[hb bơh hbcều
lần so với lúc sáng tạo. Sức mạnh củ[ ]búha t[ đ_ ^ọa sự tồn tại của chính
chúng ta. Chúng ta không biết liệu rằha ]ih haườc ]ó đột nhiên tự hủy diệt mình
trước khi, theo một cách khác, chết dần mòn bởi hiệh tượng nóng lên củ[ Trác đất,
sự ô nhiễm, phá hủy gôc trường sống, có quá nhiều haười trong khi chỉ có ít thức
ăh để cung cấp và sự hủy diệt các loài khác vốn tạo nên nguồh tàc hauyêh ]ơ \ản
cho chúng ta. Liệu rằng những mốc đ_ ^ọa này có thực sự là những hiểm họa mới,
được tạo ra cùng với cuộc Cách mạng Công nghiệp hbư hbcều haười vẫh habĩ?
Naườc t[ tbường cho rằng các loài trong tự nhiên sống trong sự cân bằng với
nhau và vớc gôc trường củ[ ]búha. Động vật ăh tbịt không hủy diệt con mồi và
động vật ăh ]ỏ ]ũha ebôha bủy hoại quá mức các loại thực vật ]búha ăh. Tb_i
qu[h đcểg hày tbì ]ih haười là loài duy nhất không phù hợp. Nêu đcều này là sự
thật thì Tự nhiên sẽ chẳng cho chúng ta một bài học nào.
Có một vàc đcểm cầh ]bú ý đối vớc qu[h đcểm trên, bởc đ[ số các loài sinh vật
không bị tuyệt chủha ^ước đcều kiện tự hbcêh hb[hb hbư bcệh h[y fiàc haười
đ[ha bủy diệt chúng, trừ trường hợp do những thảm họa cực kỳ hiếm hoi. Một sự
kiện hiếg bic đã fàg ]bết phần lớn các sinh vật trêh Trác đất xảy r[ ]á]b đây
65.000.000 hăg, ]ó tbể ^i tá] động của một tiểu bàhb tchb, đã bủy diệt loài
khủng long. Do quá trình phát triển loài trong tiến hóa diễn ra rất chậm nên sự
hủy diệt của tự nhiên hiểh hbcêh ]ũha ]bậm, nếu ebôha ]ih haười chắc hẳn sẽ bị
bỏ lạc đơh độc, chẳng còn loài sinh vật nào khác từ lâu. Hay nói một cách khác,
những sinh vật dễ bị xâm hại sẽ bị loại bỏ nhanh chóng, và những loài mà chúng
ta thấy trong tự nhiên chỉ còn là những sinh vật hùng mạnh.
Tuy nhiên, kết luận tổha quát đó ]bi ]búha t[ hbcều ví dụ hữu ích về sự hủy
diệt các loài khác của một số loài. Hầu hết ]á] trường hợp đã \cết đều chứng tỏ có
sự kết hợp của hai yếu tố. Đầu tiên là nhữha trường hợp liên quan tới những loài
di chuyểh đến một gôc trườha hơc ]búha ]bư[ từng xuất hiệh trướ] đây, và ở đó
bắt gặp những quần thể con mồi bảh địa vốn ngờ nghệch vớc đág ^ã tbú xâg
chiếm lãnh thổ này. Vào thờc đcểm mà sự hỗn loạn về schb tbác được lập lại trật tự
và đạt tới một trạng thái cân bằng sinh thái mới thì một vài loại con mồi mới có
thể đã \ị tiêu diệt hoàn toàn. Thứ hai, thủ phạm của sự hủy diệt hày được cho là
nhữha fiàc tbú ăh tạp chuyểh bướng(74), bọn này không chỉ ]buyêh ăh gột loại
con mồi mà có thể ăh hbcều loại khác nhau. Mặc dù loài dã thú này tiêu diệt một
vài loại con mồi thì nó vẫn tồn tạc được nhờ chuyểh s[ha ăh hbững con mồi khác.
Sự tuyệt chủha hày tbường xảy r[ ebc ]ih haười vô tình hay hữu ý di chuyển
một loài sinh vật từ hơc hày đếh hơc ebá] trêh Trác đất. Chuột, mèo, dê, lợn, kiến
và ngay cả rắh đã trở thành những kẻ sát hbâh được di chuyển. Ví dụ hbư, triha
suốt Chiến tranh thế giới thứ II, một loài rắn cây bản xứ củ[ ]bâu Ú] được vận
chuyển vô tình bằng tàu và máy bay tới một bòh đảo ở Tbác Bìhb Dươha tbuộc
quầh đảo Guam, vốh trướ] đây ebôha bề có rắh. Liàc tbú ăh tbịt hày đã bủy diệt
hay khiến cho hầu hết những loài chim rừng bản xứ củ[ đải Gu[g đến bờ vực của
sự tuyệt chủng, những loài chim này không hề ]ó ]ơ bội tiến hóa những tập tính
tự vệ chống lại rắn. Tuy nhiên, bản thân rắn lại không gặp nguy hiểm nào mặc dù
]búha đã tcêu ^cệt những con mồc hày, vì s[u đó ]búha fại chuyểh qu[ ăh tbịt
chuột nhắt, chuột chù hay thằn lằn. Một ví dụ ebá], gèi và ]ái được mang tới
]bâu Ú] đã ăh ]á] fiàc tbú ]ó túc hbỏ và chuột nhắt bảh đị[ trêh đường di chuyển
mà không gây nguy hiểm cho bản thân, bởi vì còn có rất nhiều thỏ và các loài thú
ebá] để ăh tbịt.
Liàc haườc ]búha t[ ]ũha fà gột ví dụ đcển hình của một fiàc động vật ăh tạp
chuyểh bướha. Cbúha t[ ăh tất cả mọi thứ từ ốc sên và rong biểh đến cá voi, nấm
và dâu tây. Chúng ta có thể tiêu thụ quá mức một vài loài sinh vật khiến chúng bị
tuyệt chủng rồi lại chuyểh s[ha ăh fiạc ebá]. Nbư vậy, một làn sóng tuyệt chủng
đã được tạo nên vào mỗi thờc đcểg gà ]ih haườc đc tới phần khác của thế giớc hơc
trướ] đây ]ih haườc ]bư[ từng chinh phụ]. Cbcg ]ưu (^i^i), ]ác têh đã trở nên
đồha habĩ[ với sự tuyệt chủng, vốn sốha trêh đải M[urctcus, hbưha gột nửa số
fượng của loài chim sống trên cạn ở ]á] vùha hước ngọt hày, đã \ị hủy diệt ngay
s[u ebc bòh đải được phát hiệh vài hăg 1507. Nbữha ]ih ]bcg ]ưu ^i đặ] trưha
fà eí]b tbước lớn, thịt có thể ăh được, không biết chiếh đấu nên dễ dàng bị bắt bởi
những thủy thủ đóc ăh. Nbững loài chim củ[ H[w[cc ]ũha \ị chết đồng loạt một
]á]b tươha tự, ngay sau khi nhữha haười từ quầh đảo Polynesia phát hiện ra
H[w[cc 1.500 hăg trướ] đây, ]ũha acốha hbư hbữha aì đã ^cễn ra với các loài thú
lớn của châu Mỹ sau khi tổ tiên củ[ haườc ^[ đỏ đếh đây vài 11.000 hăg về trước.
Những làn sóng tuyệt chủha đã đến cùng với những cải tiến quan trọng về kỹ
thuật săh \ắn trên nhữha vùha đất ^i ]ih haười thống trị. Ví dụ hbư, ]á] quần
thể fchb ^ươha bi[ha ^ã ]bâu Pbc, gột fiàc fchb ^ươha xchb đẹp sống ở vùng
Truha Đôha đã tồn tại hàng triệu hăg trước sự săh \ắn của cih haườc, hbưha đã
hoàn toàn bị tiêu diệt trướ] hòha súha trường công suất lớh vài hăg 1972.
Có vô vàn những tiền lệ từ giớc động vật giốha hbư ebuyhb bướng của loài
haười hủy diệt các con mồi ít ỏc hbưha vẫn sống tốt nhờ vào việc chuyển sang
tiêu thụ những loài khác. Vậy có tiền lệ nào cho sự hủy diệt những nguồn tài
hauyêh ]ơ \ản của một quần thể loài và dẫn dắt chính kẻ hủy diệt tới chỗ tuyệt
chủng hay không? Hậu quả hày tbì ebôha tbường gặp, bởi số fượng cá thể của mỗi
fiàc động vật fuôh đượ] đcều chính do nhiều yếu tố. Những yếu tố này góp phần
tự động làm giảm tỷ lệ schb b[y tăha tỷ lệ chết khi số fượng cá thể trở nên quá
nhiều so với nguồn cung cấp thứ] ăh, và gột quá trìhb haược lại diễn ra khi số
fượng cá thể giảm sút. Ví dụ hbư, số fượng cá thể tử vong do những nguyên nhân
\êh haiàc hbư tbú ^ữ ăh tbịt, bệnh tật, các loài kí sinh trùng và chết vì đóc ]ó
ebuyhb bướha tăha fêh ebc gật độ cá thể trở hêh ^ày đặc. Mật độ đôha đú] triha
quần thể ]ũha aây r[ hbững phản ứng trong bản thân loài thú ấy, hbư fà việc giết
con non mới sinh, ngừha schb đẻ và tăha ]ường sự xâm chiếm. Những phản ứng
này và những yếu tố \êh haiàc tbường làm giảm số fượng cá thể trong quần thể
động vật và làm nhẹ đc áp fực lên những nguồh tàc hauyêh trước khi chúng có thể
bị cạn kiệt.
Tuy nhiên, một vàc hbóg động vật thực sự tự đã ebcến bảh tbâh ]búha đc đến
chỗ tuyệt chủng. Một ví dụ là về con cháu của 29 con tuần lộ] đã đượ] đư[ tớc đảo
St. Matthew thuộc vùng biểh B_rcha vài hăg 1944. Năg 1963, ]búha đã hbâh
lên tới số fượng 6.000 con. Những loài tuần lộc này chỉ phụ thuộc vào loại thứ] ăh
fà đị[ y, schb trưởng chậg, và trêh đải St. M[tb_w ]búha ebôha ]ó ]ơ bộc để phục
hồi sau khi bị tuần lộ] ăh bết, còn những con tuần lộ] ]ũha ebôha ]ó hơc hài để di
]ư. Kbc gù[ đôha ebắc nghiệt đổ bộ fêh đải vài hăg 1963 - 1964, tất cả những
con tuần lộ] đã \ị chết vì đóc trừ 41 con cái và một ]ih đực vô sinh, bỏ lại một
quần thể \c đát trêh bòh đảo với hàng nghìn bộ xươha ebô. Một ví dụ tươha tự là
những con thỏ đượ] đư[ tớc đảo Lisianki, phía tây quầh đảo Hawaii trong thập
hcêh đầu tiên của thế kỷ XX. Chỉ trong vòng một thập kỷ, những con thỏ mòn mỏi
trong sự fãha quêh đã \uộc phảc ăh tất cả các loài thực vật trêh đảo ngoại trừ hai
loài là cây bìm bìm hoa tím và cây thuốc lá.
Những ví dụ này và một số ví dụ tươha tự khác về việc tự hủy diệt sinh thái
đều phát sinh từ những quần thể đột nhiên thoát khỏi những nhân tố thông
tbườha đcều chỉnh số fượng chúng. Những con thỏ và tuần lộ] tbường là con mồi
của nhữha fiàc ăh tbịt, còn loài tuần lộc sốha trêh đất liềh tbường tiến hành quá
trìhb ^c ]ư hbư gột biệh pbáp [h tiàh để rời khỏi một vùha đất và giúp cho
những loài thực vật ở đó gọc trở lạc. Nbưha hbữha bòh đảo Lisianki và St.
Mathew thiếu đc hbữha fiàc tbú ăh tbịt, cùng vớc đó, vcệ] ^c ]ư fà đcều không thể,
đến nỗi nhữha ]ih tbú đã ebôha được kiểm soát về tố] độ sinh sảh ]ũha hbư sự
tiêu thụ thứ] ăh.
Nhìn nhận lạc, rõ ràha ]ih haười là sinh vật đầu tcêh đã ebá tbàhb ]ôha triha
việc thoát khỏi những kiểg siát trướ] đó về số fượng. Từ rất fâu, ]búha t[ đã tiêu
diệt những thú dữ ăh tbịt mình; nềh y ^ược học thế kỷ XX đã fàg acảm rất nhiều
số fượha haười chết vì nhữha ]ăh \ệnh nhiễm trùng; và một vài kỹ thuật đc đầu
trong việc kiểm soát dân số hbư: hạo phá thai, những cuộc chiến dai dẳng và việc
kiêng quan hệ tình dục trở nên không thể chấp nhậh được trong xã hội. Dân số
của chúng ta hiện nay cứ s[u 35 hăg fạc hbâh đôc gột lần. May mắn là, tố] độ này
]bư[ hb[hb \ằng tố] độ sinh sôi của những con tuần lộc ở đảo St. Mathew. Trái
đất lớh bơh đảo St. Mathew, và một vài nguồn tài nguyên của chúng ta thì mềm
dẻi bơh si vớc fiàc địa y (mặc dầu những nguồh tàc hauyêh ebá], hbư ^ầu mỏ,
]òh eég bơh tbế). Nbưha eết luậh địhb tíhb tbì ]ũha hbư vậy: không một quần
thể nào có thể tăha trưởng mãi mãi.
Di đó, tìhb buống sinh thái hiện tại củ[ ]ih haười có những tiền lệ tươha tự từ
động vật. Nbư hbcều loạc động vật ăh tạp chuyểh bướng khác, chúng ta hủy hoại
một vài loại con mồi khi chúng ta xâm chiếm một vùha đất mớc b[y ]ó được một
sức mạnh hủy diệt mớc. Nbư gột số quần thể động vật đột nhiên thoát khỏi giới
hạh tăha trưởha trướ] đây ]ủ[ ]búha, ]ih haười mạo hiểm vớc hauy ]ơ pbá bủy
bản thân bằng cách phá hủy nguồn tài nguyên của chính chúng ta. Vậy còn quan
niệm cho rằha ]búha t[ đã từng ở trong trạng thái cân bằha tươha đối về sinh
thái mãi cho tới khi xuất hiện cuộc Cách mạng Công nghiệp, và chỉ đếh fú] đó,
chúng ta mới bắt đầu hủy hoại nghiêm trọng những loài sinh vật khác và khai
thác quá mứ] gôc trường thì sao? Giả thuyết mà học thuyết Rousseau(75) đề ra sẽ
đượ] x_g xét triha \[ ]bươha ]òh fại của cuốn sách này.
Trước tiên, chúng ta sẽ kiểm chứng niềm tin phổ biếh trướ] đây triha Kỷ
hauyêh Vàha, ebc ]búha t[ được cho là sốha hbư hbữha haười nguyên thủy cao
quý thực thi luật lệ đại đức và hài hòa với tự nhiên. Trên thực tế, những cuộc
tuyệt chủng hàng loạt trùng khớp với mỗi lần có sự mở rộng lớn về lãnh thổ của
fiàc haười trong suốt 10.000 hăg qu[ và ]ó fẽ ]òh fâu bơh hữa. Trách nhiệm
chính củ[ ]búha t[ đối với sự tuyệt chủng là rõ rệt nhất cho nhữha trường hợp
mở rộng gầh đây gà hbững bằng chứng còn rất mới: sự xâm chiếm củ[ haười
châu Âu trên khắp toàn cầu từ hăg 1492, và tbuộ] địa hóa nhữha bòh đảo ngoài
đạc ^ươha ]ó pbần sớg bơh ]ủa những naườc Pifyh_sc[ và haười Malay. Những sự
mở rộng sớg bơh trướ] đó hbư fà vcệc xâm chiếg đầu tiên củ[ ]ih haười tới châu
Mỹ và ]bâu Ú] đã ^ẫn tới sự tuyệt chủng rộng khắp, mặc dù dấu vết của bằng
chứha đã \ị thời gian làm nhạt hbò[ đc và ^i đó, hbững kết luận về nhân quả tất
]ũha suy yếu.
Không chỉ có Kỷ hauyêh Vàha đã \ị phủ bóng tối bởi sự hủy diệt rộng lớn.
Trong khi không có cộha đồha ]ư ^âh đôha đú] hài tự đư[ gìhb tới chỗ hủy diệt
thì một số bộ lạc sinh sốha trêh ]á] bòh đảo nhỏ đã fàg hbư vậy, và nhiều cộng
đồha ^âh ]ư fớh đã pbá biại nguồn tài nguyên của họ đếh đcểm sụp đổ kinh tế.
Những ví dụ rõ rệt nhất là của những nềh văh bó[ \ị cô lập hbư hbững nềh văh
gchb Ah[s[zc và đảo Phụ] Schb. Nbưha hbững nhân tố gôc trườha ]ũha đ_g đến
nhữha tb[y đổi chủ yếu trong nềh văh gchb pbươha Tây, \[i aồm việc sụp đổ
dây chuyền sự thống trị củ[ haườc Truha Đôha, s[u đó fà haười Hy Lạp, rồc đến
haườc L[ Mã. Di đó, vcệc lạm dụng sự tự hủy diệt củ[ gôc trường của chúng ta, mà
nó không phải là một phát minh của thời hiện đạc, đã trở thành một \ước chuyển
quan trọng trong lịch sử fiàc haười.
Tiếp theo chúng ta sẽ xem xét kỹ bơh hbững cuộc tuyệt chủng lớn nhất, kịch
tính nhất và gây nhiều tranh cãi nhất triha ]á] “]uộc tuyệt chủng rộng khắp thời
kỳ Kỷ hauyêh Vàha”. Kbiảng 11.000 hăg trướ] đây, bầu hết những loài thú lớn
của hai lụ] địa Bắc Mỹ và Nam Mỹ đã \ị tuyệt chủng. Cùng khoảng thờc ac[h đó
xuất hiện bằng chứha đầu tiên không rõ ràng về sự xâm chiếm châu Mỹ của con
haườc, được tạo bởi những tổ tiên củ[ haười Mỹ gố] ^[ đỏ haày h[y. Đây fà sự mở
rộng lãnh thổ lớn nhất củ[ fiàc haười kể từ khi Homo erectus lan rộng ra từ châu
Pbc để xâm chiếg ]bâu Âu và ]bâu Á 1.000.000 hăg trướ] đây. Sự trùng hợp về
thời gian giữa những loài thú lớh đầu tiên và cuối cùng của châu Mỹ, việc không
có những cuộc tuyệt chủng lớn ở nhữha hơc ebá] trêh tbế giới cùng thờc đcểg đó,
và những bằng chứng rằng một vài loài quái thú giờ đã tuyệt chủha đã \ị săh \ắt
gợc ý ]bi đcều được gọi là giả thuyết về cuộc tấn công Tân Thế giới. Theo sự giải
thích này, ebc fàh sóha đầu tiên của nhữha haườc săh \ắt được nhân lên và mở
rộng từ Canada tới Patagonia, thì họ đã ]bạm trán với những con thú to lớh, ]bư[
từng nhìn thấy ]ih haườc trướ] đây, và bọ đã bủy diệt ]búha ebc ]búha đc ha[ha
qua. Trong khi những nhà phê bình học thuyết này ít nhất ]ũha hbcều hbư
nhữha haười ủng hộ nó, thì chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu nội dung của cuộc tranh
cãi này.
Cuối cùng, chúng ta sẽ tìm kiếg để đư[ r[ ]ih số chính xác cho số fượng
nhữha fiàc gà ]búha t[ đã fàg ]bi ]búha \ị tuyệt chủng. Chúng ta sẽ bắt đầu với
những con số chắc chắn nhất: những loài mà sự tuyệt chủng xảy ra trong thời
đcểm hiệh đạc và đã được ghi chép cẩn thậh, và qu[ đó tìg ecếm những sinh vật
còn sống sót trong suốt khoảng thờc ac[h gà haười ta chắc chắn rằng không còn
sinh vật nào sống. Tiếp theo là nhữha ướ] điáh về ba con số ít chắc chắh bơh:
những loài hiệh đạc gà haười ta không còn thấy sống sót ở một vài thờc đcểm và
đã trở nên tuyệt chủha trướ] ebc ]ih haười kịp nhận ra; những loài hiệh đại thậm
]bí ]bư[ từna được phát hiệh và đặt tên; và nhữha fiàc gà ]ih haườc đã tcêu ^cệt
trước khi xuất hiện khoa học hiệh đạc. Cơ sở đó sẽ khiếh ]bi ]búha t[ đáhb acá
nhữha ]ơ ]bế chủ yếu gà ]ih haười sử dụha để hủy diệt, và số fượng những loài
mà chúng ta có thể hủy diệt chỉ trong khoảng thời gian bằng tuổc đời của những
đứa con trai của tôi - nếu chúng ta vẫn tiến hành tố] độ hủy diệt hbư bcện tại.
Chƣơng 17
CHƢA TỪNG CÓ MỘT KỶ NGUYÊN VÀNG

Mỗi phần của Trái đất thật thiêng liêng đối với nhân dân tôi. Mỗi lá thông ngập
nắng, mỗi bãi biển đầy cát, mỗi hạt sương trong rừng tối, mỗi con côn trùng vo ve và
phát sáng đều thật linh thiêng trong ký ức và trải nghiệm của nhân dân… Người da
trắng… là một người lạ đến trong màn đêm và lấy đi từ đất đai tất cả những gì anh ta
muốn. Trái đất không phải là người anh em của anh ta mà chính là kẻ thù… Nếu cứ
tiếp tục bôi bẩn lên chiếc giường của anh, rồi đến một đêm anh sẽ bị chết ngạt trong
đống rác do chính mình tạo nên.
- Trích từ fá tbư đã đượ] haườc tù trưởng của bộ lạc Duwa thuộc bộ tộc
những thổ ^âh ^[ đỏ châu Mỹ, viết gửi Tổng thốha Fr[hefch Pc_r]_ vài hăg
1855.

hững nhà hoạt độha gôc trường chán ngán với nhữha bư bại mà xã hội

N công nghiệp đ[ha aây r[ ]bi tbế giớc, tbường nhìn lại quá khứ hbư fà gột
Kỷ hauyêh Vàha. Kbc haười châu Âu bắt đầu đặt chân lên châu Mỹ, không
khí và những dòng sông thật tinh khiết, nhữha đồng cỏ xanh ngắt một
gàu, vùha Đồng bằng Lớn tràn ngập nhữha đàh \ò rừng bison. Ngày nay, chúng
ta hít thở trong khói thuốc, lo lắng về những hóa chất độc hại trong hước uống,
nhữha ]ih đường rải nhựa phủ lên trên nhữha vùha đất, và hiếm khi còn nhìn
thấy bất kỳ động vật hoang dã lớn nào. Nhữha đcều tồi tệ chắc chắn sẽ đếh. Trước
thờc đcểm nhữha đứ[ ]ih tr[c ]òh đ[ha ẵm ngửa của tôi tới tuổi nghỉ bưu, gột
nửa sinh vật trên thế giới này có lẽ sẽ bị tuyệt chủng, không khí nhiễm chất
phóng xạ, và những bãi biển thì bị ô nhiễm bởi dầu.
Không còn nghi ngờ gì nữ[, ]ó b[c fý ^i đơh acản giải thích tình trạng tồi tệ của
chúng ta: kỹ thuật hiệh đại với sức mạhb vượt bậc gây ra sự tàh pbá bơh \ất kỳ
những chiế] rìu đá hài triha quá ebứ, và hiệh đ[ha ]ó quá hbcều haười sinh sống
bơh \ất kỳ thời kỳ hài trướ] đây. Tuy hbcêh, gột yếu tố thứ \[ ]ũha ]ó tbể góp
phần vào vấh đề này: sự tb[y đổc triha tbác độ. Không giốha hbư hbữha ]ư ^ân
củ[ ]á] đô tbị hiệh đại, ít nhất thì một vàc haười thuộc thời kỳ tiền công nghiệp -
hbư hbững thổ dân Duwa, mà lờc haười thủ fĩhb ]ủa họ đã được tôi trích dẫn ở
trên, phụ thuộ] và tôh eíhb gôc trường tự nhiên của họ. Có nhan nhản những câu
chuyện về cách mà nhữha haười này trong thực tế là những nhà bảo tồn thiên
nhiên bằha bàhb độha. Nbư fời một haười trong bộ lạc ở N_w Guch_[ đã từng giải
thích vớc tôc: “Đó fà gột tập tục của chúng tôi, nếu một haười thợ săh triha gột
ngày giết một con chim bồ câu theo một bướha đc từ làng, anh ta phảc đợi một
tuầh trướ] ebc săh \ắn bồ câu một lần nữ[, và s[u đó đc tb_i bướha haược lạc”.
Chúng ta mới chỉ \ướ] đầu nhận ra những chính sách bảo vệ gôc trường của
nhữha haườc được gọc fà haười nguyên thủy đó tbực sự tinh tế tớc hbường nào. Ví
dụ hbư, hbữha ]buyêh ac[ haườc hước ngoài có thiệh ]bí đã tạo ra những sa mạc
bên ngoài những vùng rộng lớn của châu Phi. Trong khi những vùng giốha hbư
vậy, haườc ^âh đị[ pbươha sống thành bầy đàh đã pbát trcển qua nhiều thiên niên
kỷ do những cuộ] ^c ]ư bằha hăg gà fàg ]bi đất đ[c hày ebôha \[i acờ bị ]băh
thả quá mức.
Qu[h đcểm luyến tiế] ]bi đến gầh đây đã được chia sẻ bởi phần lớn những
đồng nghiệp làm công tác bảo vệ gôc trường của tôi và chính tôi là một phần
ebuyhb bướha hbâh văh ]oi quá khứ hbư gột Kỷ nguyên Vàng ở nhiều khía cạnh
ebá]. Naười trình bày nổi tiếha qu[h đcểm này là triết ac[ haười Pháp thế kỷ
XVIII, Jean-Jacques Rousseau mà tác phẩm Luận về nguồn gốc của sự bất công của
ôha đã fần theo sự suy thoái của chúng ta từ Kỷ hauyêh Vàha đến nỗi khốn khổ
củ[ ]ih haườc gà Riuss_[u đã hbìh tbấy quanh ông. Khi những nhà thám hiểm
của châu Âu thế kỷ XVIII đối mặt với nhữha haười tiền công nghiệp hbư haười
Polynesia và nhữha haườc ^[ đỏ châu Mỹ, thì nhữha haườc hày đã đượ] fý tưởng
bó[ triha ]á] pbòha trưha \ày ở ]bâu Âu hbư fà “hbữha haười nguyên thủy cao
quý” sống trong một Kỷ hauyêh Vàha đ[ha tcếp diễn, không thể bị những nguyền
rủa của nềh văh gchb hbư sự không dung thứ về tôn giáo, chính sách chuyên chế
và sự bất công bằng trong xã hội chạm tới.
Thậm chí ngày nay, thờc đại Hy Lạp và La Mã cổ vẫh được nhiều haười cho là
Kỷ nguyên Vàng của nềh văh gchb pbươha Tây. Trớ trêu thay, cả haười Hy Lạp
và L[ Mã đều xem bản thân họ hbư fà sự suy thoái từ một Kỷ hauyêh Vàha trước
kia. Tôi có thể trích dẫn lại một phần nhữha ^òha tbơ ]ủ[ hbà tbơ L[ Mã Ovc^ gà
tôi nhớ được từ môn tiếng Latin hồi lớp Mườc, “Aur_[ prcg[ s[t[ _st [_t[s, qu[_
vch^c]_ huffi…”: “Kỷ nguyên Vàng tới lầh đầu tcêh ebc ]ih haười trung thực, ngay
thẳng trong ý chí tự do của bảh tbâh”. Ovc^ đã đối lập nhữha đức hạhb đó với thói
phụ bạ] đầy rẫy và những cuộc chiến tranh thời kỳ của ông. Tôi không nghi ngờ
rằng bất cứ haười nào vẫn còn sống trong khói bụi phóng xạ của thế kỷ XXII sẽ
viết một ]á]b fưu fuyến và công bằng về kỷ nguyên củ[ ]búha t[, gà ^ườha hbư
không gặp phảc ebó ebăh hài triha sự so sánh.
Có được niềm tin phổ biến này về một Kỷ nguyên Vàng nên một vài phát hiện
gầh đây ]ủa các nhà khảo cổ và nhà cổ sinh vật họ] đã tạo nên một cú sốc. Rõ ràng
là, những xã hội tiền công nghiệp đã ^ần dần tiêu diệt các loài sinh vật, phá hủy
gôc trường sống, và hủy hoại sự tồn tại của chính họ triha bàha haàh hăg. Một
vài những ví dụ có dẫn chứha xá] đáha hbất liên quan tớc haười Polynesia và
haườc ^[ đỏ châu Mỹ, nhữha haười từha được cho là khuôn mẫu của chủ habĩ[
bảo vệ gôc trường. Không cần thiết phải nói rằha, qu[h đcểm củ[ haười theo chủ
habĩ[ xét fạc đ[ha được tranh cãi một cách sôi nổi, không chỉ trong những hội
nghị hàn lâm mà còn giữa nhữha haười không có chuyên môn ở Hawaii, New
Zealand và những vùng khác, cả những vùng có nhiều haười Polynesia hoặc
những dân tộ] ^[ đỏ thiểu số. Phảc ]băha hbữha “pbát bcệh” gớc đó ]bỉ là một
phần khác của thứ khoa học giả hiệu mang tính phân biệt chủng tộc mà những
haườc địhb ]ư ^[ trắng tìm kiếg để bào chữa cho việc trục xuất nhữha haười dân
bản xứ? Làm thế nào mà những khám phá này có thể phù hợp với tất cả bằng
chứng cho nhữha bàhb động bảo vệ gôc trường tự nhiên bởi nhữha haười tiền
công nghiệp hiệh đại? Nếu những phát hiệh hày fà đúha, tbì liệu chúng ta có thể
sử dụha ]búha hbư \ằng chứng lịch sử để giúp ta dự điáh số phận mà những
]bíhb sá]b gôc trường có thể đ_g fại cho chúng ta? Liệu những phát hiện gần
đây ]ó tbể giải thích những sự sụp đổ đầy bí ẩn khác của những nềh văh gchb ]ổ
đại, hbư hbững nềh văh gchb ]ủ[ đảo Phục Sinh hoặc của thổ dân Maya?
Trước khi chúng ta có thể trả lời những câu hỏi gây tranh cãi này, chúng ta cần
hiểu bằng chứng mới làm nhầm lẫn về thời kỳ Kỷ nguyên Vàng trong quá khứ của
thuyết gôc trường.
Đầu tiên, chúng ta hãy cùng xem xét bằng chứng về những làn sóng hủy diệt
rồc đến bằng chứng về sự tàh pbá gôc trường sống trong quá khứ.
Khi thực dân Anh bắt đầu đặt chân lên New Zealand vào thế kỷ XVIII, họ
không tìm thấy bất kỳ một loài thú nào sốha trêh đất liền bảh địa, ngoại trừ
nhữha fiàc ^ơc. Đcều đó ebôha ]ó aì đáha haạc nhiên: New Zealand là một bòh đảo
biệt lập nằm quá xa so với những lụ] địa làm cho những con thú không biết bay
không thể đếh được. Tuy nhiên, sự đài xới của nhữha haườc đc xâg ]bcếg đã
phát hiện r[ xươha và vỏ trứng của những loài chim lớh đã biàh tiàh tuyệt
chủha, hbưha hbữha haười Maori (nhữha haườc Pifyh_sc[ địhb ]ư trướ] đó ở
New Zealand) vẫn còn nhớ têh ]búha fà “gi[”. Từ những bộ xươha hauyêh vẹn
mà một vài trong số chúng rõ ràng là mới gần đây và vẫn còn lại da và lông,
chúng ta có một ý tưởng hay về nhữha ]ih “gi[” trôha hbư tbế nào khi chúng
còn sống: những con chim trông giốha hbư đà đcểu gồm 12 loài, và xếp loại từ
những con nhỏ “]bỉ” ][i ebiảng một mét và nặha 20 ea, đến những con khổng lồ
nặng tầm 300 kg và cao bốn mét.
Thứ] ăh ]ủa chúng có thể được suy luận dựa vào những chiếc mề ]bcg đã
được bảo quảh, triha đó ]ó ]bứa những nhánh cây và lá của hàng chục các loại
cây khác nhau, từ đó ]bỉ ra rằha ]búha fà fiàc động vật ăh ]ỏ. Cbúha đã từha được
coi là nhữha tbú ăh ]ỏ lớn củ[ N_w Z_[f[h^ hbư fiàc bươu và sơh ^ươha.
Trong khi nhữha ]ih “gi[” fà hbững con chim bị tuyệt chủng nổi tiếng nhất ở
New Zealand thì nhiều con vật ebá] đã được miêu tả qua những bộ xươha bó[
thạch, tổng cộng có ít nhất 28 fiàc đã \cến mất trướ] ebc haườc ]bâu Âu đến. Bên
cạnh nhữha ]ih “gi[” tbì ]ũha ]ó gột số ít những loài thú lớn và không bay
được, bao gồm loài vịt lớn, chim sâm cầm khổng lồ và ngỗng lớn. Những loài chim
ebôha \[y được này là con cháu của những loài ]bcg \ìhb tbườha đã \[y tới New
Z_[f[h^ và s[u đó đã tcếh bó[ để mất đc hbữha ]ơ ]áhb quý acá triha vùha đất
không có bọn thú dữ ăh tbịt. Nhữha fiàc ]bcg đã \ị biến mất ebá] hbư fiàc \ổ
nông, thiên nga, quạ lớh và đại bàng khổng lồ hoàn toàn có khả hăha \[y được.
Với cân nặng lên tớc 15 ea, đạc \àha fà fiàc ]bcg ăh tbịt lớn nhất và mạnh nhất
trong thế giới mà nó sốha. Nó đã \ị nhỏ lại thậm chí chỉ còn bằha fiàc ]bcg ưha
lớn nhất hiệh đ[ha tồn tạc, fiàc ]bcg đại bàng hung dữ của vùng nhiệt đới châu
Mỹ. Đại bàng New Zealand có thể fà fiàc tbú ăh tbịt duy nhất có khả hăha tấn
công nhữha ]ih gi[ trưởng thành. Mặc dù một vài loài moa nặng gần gấp 20 lần
fiàc ]bcg đạc \àha hbưha ]bcg đại bàng vẫn có thể giết chết chúng bằng việc tận
dụha ^áha đứng thẳng trên hai chân của loài moa, làm què chúng bằng cách mổ
vào nhữha ]ác ]bâh ^àc, s[u đó acết chúng bằng cách tấh ]ôha vài đầu và chiếc cổ
dài của loài moa, và cuối cùng phải mất nhiều haày để ăh bết cái xác, giốha hbư
fiàc sư tử ]ũha gất thờc ac[h để ăh bết một ]ih bươu ][i ]ổ. Những tập tính của
]bcg đại bàng có thể giải thích việ] haười ta tìm thấy rất nhiều bộ xươha ]ủa loài
gi[ ebôha ]ó đầu.
Dự[ vài đcểg hày, tôc đã tbảo luận về những loài thú lớn tuyệt chủng của New
Z_[f[h^. Nbưha hbữha haườc đc tìg ecếm hóa thạch ]ũha đã pbát bcệh r[ xươha
của những loài thú nhỏ có kích cỡ bằng loài chuột nhắt. Việc chạy fướt b[y trườn
bò trên mặt đất ít nhất có ở \[ fiàc ]bcg ebôha \[y được hoặc bay kém, một vài
loài ếch, những con ốc sên khổng lồ, nhiều loài côn trùng giống dế khổng lồ có
trọha fượng gấp đôc gột con chuột, và nhữha fiàc ^ơc acống chuột lạ tbường -
]búha tbường cuộh tròh đôc ]áhb fại mà chạy. Một vài loài trong số những loài
động vật nhỏ \é hày đã biàh tiàh \ị tuyệt chủha trướ] ebc haườc ]bâu Âu đến.
Những loài khác vẫn tồn tại trên nhữha bòh đảo nhỏ haiàc ebơc aần New
Z_[f[h^, hbưha hbữha xươha bó[ tbạch của chúng chỉ ra rằha trướ] đây ]búha
rất đôha đú] trêh đất liền ở New Zealand. Tất cả những loài hiệh h[y đã tuyệt
chủha hày đã ]ùha tcến hóa biệt lập sẽ làm cho New Zealand có sự tươha đươha về
sinh thái với những loài thú không biết bay ở đất liềh gà ]bư[ \[i acờ đếh đây:
fiàc gi[ tb[y ]bi fiàc bươu, fiàc haỗng và loài sâm cầg ebôha \[y được thay cho
thỏ; những loài dế lớn, những loài chim nhỏ và fiàc ^ơc tb[y ]ho chuột và những
]ih đại bàng khổng lồ thay cho loài báo.
Những bằng chứng sinh hóa và hóa thạch chỉ ra rằng tổ tiên củ[ fiàc gi[ đã
tới New Zealand hàng triệu hăg trướ] đây. Kbc hài và tại sao, sau khi sống sót lâu
đến thế, cuối cùng nhữha ]ih gi[ đã \ị tuyệt chủng? Thảm họa nào có thể hủy
diệt quá nhiều fiàc ebá] hb[u hbư fà ^ế, đại bàng, vịt và loài moa? Cụ thể bơh, fcệu
những sinh vật lạ lùng này có còn sống khi tổ tiên củ[ haườc M[irc đếh đây
khoảha hăg 1000?
Tại thờc đcểg gà tôc đến New Zealand lầh đầu tcêh vài hăg 1966, hbững hiểu
biết thờc đó ]bi rằng loài moa chết do sự tb[y đổi khí hậu và rằng bất cứ loài moa
nào sốha sót để ]bài đóh hbữha haườc M[irc đầu tcêh đều \ướ] đc trêh hbữha đôc
chân bóng bẩy cuối cùng của chúng. Nhữha haười New Zealand coi việc những
haườc M[irc hbư hbững nhà bảo tồn tự nhiên và không giết hại loài moa là một
niềm tin tôn giáo. Không còn nghi ngờ gì nữ[, haười Maori, giốha hbư hbững
haười Polynesia khác sử dụng các công cụ bằha đá, sống chủ yếu bằng nghề nông
và bắt cá, thiếu sức mạnh hủy diệt của những xã hội công nghiệp hiệh đại. Nhiều
nhất tbì haườc t[ ]ũha ]bỉ cho rằha haườc M[irc đã đư[ r[ pbát súha eết liễu với
những quần thể đ[ha trêh \ờ tuyệt chủng. Tuy nhiên, có ba nhóm phát hiệh đã
đáhb đổ nhận thức này.
Đầu tiên, trong suốt thời kỳ Băha bà ]uối cùng, rất nhiều vùng của New
Z_[f[h^ đã \ị bao phủ bởi nhữha ^òha sôha \ăha bàh b[y hbững vùng lãnh
nguyên lạhb acá gà đcều hày đã eết thúc khoảha 10.000 hăg trướ] đây. Từ đó
đến nay, khí hậu ở N_w Z_[f[h^ đã trở nên dễ chịu bơh hbcều, với nhiệt độ ấm áp
bơh và sự trải rộng của những cánh rừng tuyệt đẹp. Những con moa cuốc ]ùha đã
chết với những cái mề đầy ắp thứ] ăh, và tbí]b tbú với thời tiết tốt nhất mà chúng
được nhìn thấy trong suốt hàng chụ] haàh hăg.
Thứ hai, những mảhb xươha ]bcg đượ] xá] địhb hcêh đại bằng carbon phóng
xạ từ những di chỉ khảo cổ thuộc thờc đại củ[ haườc M[irc đã ]bứng minh rằng tất
cả nhữha fiàc gi[ được biết tới vẫn còn rất pbiha pbú ebc haười Maori lầh đầu
tcêh đặt chân tớc fêh bòh đảo này. Với những con ngỗng, vịt, tbcêh ha[, đại bàng
và nhữha fiàc ]bcg ebá] được biết đến ngày nay chỉ qua những bộ xươha bó[
thạ]b ]ũha hbư vậy. Trong vòng một vài thế kỷ, loài moa và phần lớn những loài
]bcg ebá] đã \ị tuyệt chủha. Đó quả là một sự trùng hợp đáha echh ngạc nếu
hàng tá những sinh vật riêng lẻ đã từng thống trị New Zealand trong hàng triệu
hăg đã fựa chọn thờc đcểg địa chất chính xác là khi có sự xuất hiện củ[ fiàc haười
hbư fà ^ịp để đồng loạt chết đc.
Cuốc ]ùha, bơh gột trăg ^c ]bỉ khảo cổ họ] được biết tới - một vài trong số
chúng rộng tới hàng chục mẫu đất - hơc hbữha haườc M[irc đã fàg acảm số fượng
khổng lồ những con moa bằng cách nấu chúng trong những chiế] fò huha đất và
vứt bỏ những thứ ^ư tbừa. Họ đã ăh tbịt những con moa, sử dụng da làm quần áo,
dùng những chiế] xươha fàg fưỡc ]âu b[y đổ trang sứ] và đập vỡ vỏ trứha để làm
thùng chứ[ hước. Trong suốt thế kỷ XIX, từ nhữha đị[ đcểg đó, hbững mảnh
xươha ]ủ[ fiàc gi[ đã được chờ đc trêh hbững chiếc xe ngựa. Số fượng bộ xươha
của loài moa có ở trong những di chỉ khảo cổ được biết đếh hbư hbữha hơc gà
haườc M[irc săh \ắt gi[, đượ] ước tính là lên tới khoảha 100.000 đến 500.000
đị[ đcểm, gấp khoảng 10 lần số gi[ được cho là sống ở New Zealand ở bất kỳ địa
đcểg hài ebá]. Naười Maori chắc hẳh đã tàh sát những loài moa trong rất nhiều
thế hệ.
Nbư vậy, rõ ràha fà haườc M[irc đã bủy diệt những loài moa, ít nhất một phần
bằng việc giết hại chúng, phầh ebá] fà ^i ]ướp đc hbững quả trứng từ ổ của
chúng, và có lẽ một phầh hài đó fà ^i ]bặt phá một số khu rừha hơc fiàc gi[ ]ư
trú. Bất kỳ haườc hài đã từng leo lên những dãy núi ghồ ghề \[h đầu sẽ hoài nghi
về qu[h đcểm này. Chỉ bằng việ] bìhb ^uha, t[ ]ũha ]ó tbể tưởha tượng ra những
bức tranh phong cảnh của vùng Fiorland của New Zealand với nhữha trườn dốc
cheo lei ]ó độ sâu tớc 3.000 g, fượha gư[ ebiảng 1.000 cm một hăg và hbững
gù[ đôha fạnh giá. Thậm chí ngày nay, nhữha haườc đc săh ]buyêh habcệp được
trang bị súng có gắn kính viễn vọha và được trợ giúp từ những chiếc máy bay
phản lự] ]ũha ebôha tbể kiểg siát được số fượha sơh ^ươha sống trong những
dãy núi này. Làm thế nào mà chỉ vàc habìh haười Maori sống ở N[g Đải và đảo
Stewart thuộc New Zealand chỉ sử dụha rìu đá và aậy dài, và di chuyển bằha đôc
]bâh đã bạ sát tới những con moa cuối cùng?
Tuy nhiên, có một sự khác nhau quan trọng giữ[ sơh ^ươha và fiàc gi[. Sơh
^ươha đã được chọn lọc tự nhiên trong suốt hàng chụ] haàh hăg, qu[ rất nhiều
thế hệ để trốn chạy khỏi nhữha haười thợ săh, triha ebc hbữha ]ih gi[ ]bư[ \[i
giờ trông thấy haười cho tớc ebc haười Maori đếh. Nbư hbững con thú ngờ nghệch
trêh đảo Galápagos ngày nay(76), những con moa có thể bị thuần phục dễ ^àha đến
nỗi nhữha haười thợ săh ]ó tbể tiến lại gần và dùng gậy đáhb ]búha. Kbôha hbư
sơh ^ươha, hbững con moa có lẽ có tỷ lệ sinh nở thấp đến mức mà khi một vài
haười thợ săh tới một tbuha fũha ]bỉ một lần trong một vàc hăg ]ũha acết hại
moa nhiều bơh số con chúng có thể sinh sảh tbêg. Đó ]bíhb xá] fà đcều đ[ha xảy
ra haày h[y đối với loài thú bảh địa lớn nhất còn tồn tại ở New Guinea, một loại
kangaroo sống trên cây ở vùng núi Bewani hẻo lánh. Ở nhữha vùha ]ó ]ih haười
đến sinh sống, loài kangaroo sốha trêh ]ây ăh đêg, b[y xấu hổ, và ^i đó, ebó săh
bơh si với những loài moa. Bất chấp đcều đó, và \ất chấp cả số ]ư ^âh rất ít ỏi của
fiàc haười ở vùng núi Bewani, những ảhb bưởha tí]b fũy ]ủa những ngày hộc đc
săh đôc ebc ^cễn ra - tbường cứ vàc hăg fại tớc vùha tbuha fũha gột lần - ]ũha đủ
khiếh fiàc e[ha[rii hày đc tới bờ tuyệt chủng. Chứng kiến những gì xảy ra với
kangaroo sống trên cây, giờ đây tôc ebôha quá ebó ebăh để hiểu đượ] đcều aì đã
xảy ra với những loài moa.
Không chỉ có loài moa mà tất cả nhữha fiàc ]bcg đã \ị tuyệt chủng khác ở New
Z_[f[h^ đều còn sống khi haườc M[irc đặt ]bâh fêh đất liền. Hầu hết chúng biến
mất s[u đó vàc tbế kỷ. Những con lớh bơh - hbư tbcêh ha[ và \ồ nông, những con
ngỗng và sâm cầm không biết bay chắc chắh đã \ị săh \ắt để lấy thịt. Tuy nhiên,
fiàc đại bàng khổng lồ, thì lại bị haười Maori giết nhằm mụ] đí]b tự vệ. Bạn có
habĩ tớc đcều aì đã xảy r[ ebc ]ih đạc \àha đó, ]buyêh đc tấn công và giết hại
những con mồi di chuyển bằng hai chân cao từ một đến bốn mét trông thấy
nhữha haườc M[irc đầu tiên, chỉ cao 1,80 m? Thậm chí ngày nay, những ]ih đại
\àha M[h]burc[h được huấn luyệh để săh gồc ]ũha tbỉnh thoảng giết chính
nhữha haười huấn luyệh ]búha, hbưha hbữha ]ih ]bcg đạc \àha M[h]burc[h đó
chỉ là loài nhỏ bé so với những loài chim khổng lồ của New Zealand, vốh đã được
thích nghi từ trướ] đó để trở thành kẻ giết haười.
Cho dù là vậy thì chắc chắn rằng, việc tự vệ b[y săh \ắh để lấy thứ] ăh ebôha
giảc tbí]b được sự biến mất nhanh chóng của những loài dế ebá] tbường, ốc sên,
chim hồha tướ] và fiàc ^ơc ]ủa New Zealand. Tại sao có quá nhiều những sinh vật
hbư tbế, hoặc là toàn bộ những phân nhóm của chúng hay ở mọc hơc ebá] haiại
trừ trên một vàc bòh đải x[ đất liềh đã \ị tuyệt chủng? Việc tàn phá rừng có lẽ là
một phần của câu trả lờc, hbưha fý ^i ]bủ yếu là do nhữha fiàc săh gồi khác mà
haười Mi[rc đã vô tìhb b[y ]ố ý mang theo cùng với họ ví dụ hbư fiàc ]buột! Cũha
hbư vcệc loài moa tiến hóa khi không có mặt củ[ ]ih haườc, đã biàh tiàh ebôha
có sự tự vệ hài đối vớc ]ih haười, những con thú nhỏ sốha trêh đảo kia trải qua
quá trình tiến hóa mà không có loài chuột nên không có gì bảo vệ để chống lại loài
chuột. Cbúha t[ đều biết rằng loài chuột được phát tán bởc haười châu Âu, những
haườc đã đóha v[c trò qu[h trọng trong sự tuyệt diệt gầh đây ]ủa rất nhiều loài
]bcg trêh đảo Hawaii và nhữha bòh đảo khác thuộ] đạc ^ươha vốh ]bư[ từng có
chuột. Chẳng hạh hbư, ebc fiàc ]buột cuốc ]ùha ]ũha đã tớc đượ] bòh đảo Big
South Cape thuộ] N_w Z_[f[h^ vài hăg 1962, ]bỉ triha vòha \[ hăg ]búha bủy
diệt hay tàn sát những quần thể của tám loài chim và một fiàc ^ơc. Đó fà fý ^i tại
sao có quá nhiều loài ở New Zealand hiệh h[y đã ]bỉ tập trung trên những hòn
đải ]bư[ \ị chuột xâm chiếm tớc, hơc ^uy hbất chúng còn có thể tồn tạc ebc fũ
chuột cùng vớc haười Maori tràn qua nhữha vùha đất chính của New Zealand.
Nbư vậy, kbc haườc M[irc đặt ]bâh fêh bòh đảo, họ đã tìg tbấy ở New Zealand
một khu vực sinh sống còn nguyên vẹn của những loài lạ fùha đến nỗi mà chúng
ta có lẽ sẽ nhầg tưởha ]búha hbư hbữha tưởha tượng khoa họ] bi[ha đường nếu
chúng ta không có trong tay những mẫu xươha bó[ tbạ]b để khẳha định sự tồn
tại củ[ ]búha trướ] đây. Hìhb ảnh này gần giống với những gì mà chúng ta có thể
sẽ trông thấy nếu ]búha t[ đặt chân tới một hành tinh màu mỡ ebá] hơc ]ó sự
sống tồn tại. Chỉ trong một thời gian ngắn, rất nhiều loài trong cộha đồha đó đã
sụp đổ trong sự tàn sát khủng khiếp về mặt sinh học, và những loài còn tồn tại
trong cộha đồng ấy ]ũha đã suy sụp trong cuộc tàn sát thứ hai sau sự xâm chiếm
củ[ haười châu Âu. Kết quả cuối cùng là New Zealand ngày nay chỉ còn lại khoảng
một nử[ fiàc ]bcg đã từha ]bài đóh sự xuất hiện củ[ haười Maori, và rất nhiều
loài còn sống sót ấy giờ đây ]ũha đ[ha đứng bên bờ vực của sự tuyệt chủng hoặc
thu hẹp trên một số đảo mà chỉ có một ít fiàc tbú đượ] đư[ tới. Việ] săh \ắn trong
một vài thế kỷ đã aây hêh sự kết thúc cho hàng triệu hăg tồn tại trong lịch sử của
loài moa.
Không chỉ ở New Zealand mà còn trên tất cả nhữha bòh đảo xa xôi khác thuộc
Tbác Bìhb Dươha hơc hbững nhà khảo cổ học nghiên cứu gầh đây, xươha ]ủa rất
nhiều loài chim hiệh đã tuyệt chủha được tìm thấy ở nhữha đị[ đcểm có con
haườc đầu tcêh đếh ]ư trú, ]ũha ]bứng minh cho mối liên quan ở một mứ] độ nào
đó acữa sự tuyệt chủng của các loài chim và những cuộc thuộ] địa hóa của con
haười. Từ tất cả nhữha bòh đảo chính thuộc quầh đảo Hawaii, hai nhà cổ sinh vật
học Storrs Olson và Helen James thuộc Viện nghiên cứu Sgctbsih đã hbận dạng
những mẫu hóa thạch của các loài chim vốh đã \cến mất trong suốt quá trình
địhb ]ư ]ủ[ haười Polynesia bắt đầu từ hăg 500. Nbững hóa thạch này bao gồm
không chỉ là những loài vật biết bò hút mật nhỏ bé có mối quan hệ với những loài
còn tồn tại ngày nay mà còn có cả loài ngỗha và ]ò quăg eỳ dị ebôha \[y được
hiện không có bất cứ họ hàng thân thuộc nào của chúng còn tồn tại. Trong khi
Hawaii quá nổi tiếng với sự tuyệt chủng của nhữha fiàc ]bcg trêh đảo diễn ra sau
ebc haười châu Âu xâm chiếg đảo, thì một làn sóng tuyệt chủng sớg bơh đã
ebôha được biết đến cho tới khi Olson và James bắt đầu công bố những phát hiện
của họ vài hăg 1982. Nbững cuộc tuyệt chủha được biết đến của các loài chim
trên quầh đải H[w[cc trước khi Thuyềh trưởng Cook tới giờ đây tổng cộng lại là
một con số ebó tưởha tượng nổi với ít nhất là 50 loài, gần một phầh gười số
fượng những loài chim sinh sảh được trên lụ] địa Bắc Mỹ.
Đcều đó ebôha hói lên rằng tất cả nhữha ]ih ]bcg H[w[cc hày đã \ị săh \ắt
cho tới mức tuyệt chủng. Mặc dù những con ngỗng có lẽ thực sự đã \ị tuyệt chủng
vì nạh săh \ắt quá mức, thì giống với loài moa, những loài chim nhỏ có lẽ đã \ị
tiêu diệt bởi những con chuột tới cùng vớc ]ư ^âh H[w[cc đầu tiên, hay theo cách
khác là do sự phá hủy những khu rừha gà haườc H[w[cc đã ]bặt hạ để fàg đất
nông nghiệp. Những phát hiệh tươha tự về các loài chim bị tuyệt chủng ở những
đị[ đcểm khai quật khảo cổ củ[ haườc Pifyh_sc[ đầu tcêh ]ũha đã được tìm thấy
trên nhữha bòh đải hbư T[bctc, Fcdc, Tiha[, N_w C[f_^ihc[ và ]á] quầh đải hbư
Marquesa, Chatham, Cook, Solomon và quầh đảo Bismarck.
Một cuộ] xuha đột đặc biệt hấp dẫn giữ[ fiàc ]bcg và haườc Pifyh_sc[ đã ^cễn
r[ trêh đảo Henderson, một dảc đất nhỏ cực kỳ xa xôi thuộc vùng biển nhiệt đới
Tbác Bìhb Dươha, ]á]b đảo Pitcaim khoảng 125 dặm về pbí[ đôha, vốh đã hổi
tiếng vì sự biệt lập của nó. (Hãy nhớ lại rằha, đảo Pitcairn xa xôi tới mức mà
nhữha haười nổi loạn chiếm lấy con tàu H.M.S Bounty của Thuyềh trưởng Bligh
đã sốha trêh đảo mà không hề bị phát hiện ra trong suốt 18 hăg trời cho tới khi
bòh đải được tái phát hiệh.) Đảo Henderson có những rặng san hô rậm rạp đầy bí
ẩn với những khe nứt và hoàn toàn không thích hợp cho việc trồng trọt. Một cách
tự hbcêh, bòh đảo bây giờ bị bỏ hoang và vẫh hauyêh sơ hbư fú] hbữha haười
châu Âu lầh đầu tiên phát hiệh r[ hó vài hăg 1606. H_h^_rsih tbườha được cho
là một trong nhữha gôc trường sống nguyên thủy nhất, hầu hbư ebôha ]bịu ảnh
bưởng bởc ]ih haười.
Vì vậy, thật ngạ] hbcêh ebc Ofsih và haười trợ thủ của ông, nhà cổ sinh vật học
David Steadman gầh đây đã hbận dạha đượ] xươha ]ủa hai loài bồ câu lớn, một
loài bồ câu khác nhỏ bơh và \[ fiàc ]bcg \cểh đã \cến mất trêh đảo Henderson
vào khoảng thời gian cá]b đây từ 500 tớc 800 hăg. Sáu fiàc acống hệt hbư vậy hay
những họ hàng gần củ[ ]búha ]ũha đã được tìm thấy ở ]á] đị[ đcểm khai quật
khảo cổ trên một vàc bòh đải ]ó haười Polynesia sinh sốha, hơc gà rõ ràha ]búha
đã \ị hủy diệt bởc ]ih haười. Mâu thuẫn hiển nhiên trong việc nhữha fiàc ]bcg đã
bị tuyệt chủng ở hơc ebôha bề ]ó ]ih haười sinh sốha b[y ^ườha hbư ebôha tbể
]ó haười sinh sốha hbư trêh đải H_h^_rsih đã được trả lời bằng sự phát hiện ra ở
đó đị[ đcểg ]ư haụ của nhữha haườc Pifyh_sc[ trướ] đây với bàha trăg đồ tạo
tác, chứng minh rằha bòh đảo này thực sự từha fà hơc ]ó haười Polynesia sinh
sống trong một vài thế kỷ. Ở ]ùha đị[ đcểm giốha hbư tbế, cùng với những mẫu
xươha ]ủ[ sáu fiàc ]bcg đã \ị hủy diệt hbư trêh đải H_h^_rsih, ]òh ]ó xươha ]ủa
những fiàc ]bcg ebá] đã sống sót và rất nhiều loài cá.
Nbư vậy, haườc Pifyh_sc[ đầu tcêh đc xâg ]bcếg đảo Henderson hiển nhiên là
đã tồn tại chủ yếu dựa vào những con chim bồ câu, chim biển và cá cho tới khi họ
tàn sát những quần thể loài chim tới mức hủy diệt hết nguồn thứ] ăh ]uha ]ấp, và
hoặc là chết vì đóc biặ] fà đã \ỏ chạy khỏc bòh đảo này. Biểh Tbác Bìhb Dươha
chứ[ đựng ít nhất fà 11 bòh đải “\í ẩh” hbư tbế haiàc đảo Henderson, những hòn
đải tưởha hbư ebôha \ị haười châu Âu sinh sống khi họ phát hiện ra các bằng
chứng khảo cổ học cho thấy đã ]ó sự thống trị trướ] đó ]ủ[ haười Polynesia. Một
vàc bòh đảo trong số nhữha bòh đải hày đã đượ] địhb ]ư từ bàha trăg hăg về
trước khi nhữha ]ư ^âh trêh đảo cuốc ]ùha đã ]bết hoặc bỏ đc. Tất cả ]búha đều
nhỏ và theo một khía cạnh khác là hoàn toàn không thích hợp cho việc trồng trọt,
khiến cho nhữha ]ư ^âh schb sống ở đó pbải phụ thuộc rất lớn vào chim hay
những con thú làm thứ] ăh ebá]. Vcệc nêu ra bằng chứng phổ biến về sự khai thác
quá mứ] ]á] fiàc động vật hoang dã này bởi nhữha haườc Pifyh_sc[ đầu tiên,
không chỉ trêh đảo Henderson mà cả nhữha bòh đảo bí ẩn khác nữa có thể fà đcển
hình cho nhữha habĩ[ địa củ[ ]á] hbóg ]ư ^âh đã bủy diệt nguồn tài nguyên của
chính họ.
ít nhất, tôc ]ũha ]ó ấh tượng rằha haười Polynesia theo một ]á]b hài đó hbư fà
nhữha haười hủy diệt thời kỳ tiền công nghiệp độc nhất, giờ thì chúng ta hãy
]ùha vượt qua gần một nửa quả địa cầu để tớc bòh đảo lớn thứ tư trêh tbế giớc, đảo
Madagasca, nằm ở Ấh Độ Dươha, haiàc \ờ biển châu Phi. Khi những người thám
hiểm Bổ Đài Nb[ đếh đây vài ebiảha hăg 1500, bọ nhận thấy M[^[a[s][ đã \ị
nhữha haười mà ngày nay gọc fà haười Malagasy thống trị trướ] đó. Dựa vào
khoảha ]á]b địa lý, bạn có thể habĩ rằng ngôn ngữ của nhữha haười này có quan
hệ với ngôn ngữ của naười châu Phi chỉ ở ]á]b đó ebiảng 320 km về phía Tây,
trên bờ biển của Mozambique. Ngạ] hbcêh tb[y, haười ta thự] r[ đã ]bứng minh
rằng nó thuộc về một nhóm ngôn ngữ được sử dụha trêh bòh đảo Borneo của
Indonesia, nằm về pbí[ đối diện của Ấh Độ Dươha, ]á]b đó bàha habìh ecfig_t về
pbí[ Đôha \ắc. Theo quy luật tự nhiên, diện mạo bên ngoài củ[ haười Malagasy
tb[y đổi từ haười Indonesia tớc haườc ^[ đ_h đcển hình ở Đôha Pbc. Nbững nghịch
fý hày fà ^i haườc M[f[a[sy đã tớc đây từ khoảha 1.000 đếh 2.000 hăg trước, kết
quả của những chiếc thuyềh \uôh haườc Ih^ih_sc[ đc ebắp các bờ biển thuộc Ấn
Độ Dươha đến Ấh Độ và cuốc ]ùha fà đếh Đôha Pbc. Ở đảo Madagasca, họ tiến
hành xây dựng một xã hội dựa vào việ] ]băh huôc ac[ sú], ^ê và fợn, trồng trọt và
đáhb ]á, eết nối với vùng bờ biểh Đôha Pbc hbờ nhữha tbươha ac[ haười Hồi giáo.
Cũha tbú vị hbư hbữha ]ih haười ở Madagasca là nhữha động vật hoang dã
sống ở đó và ]ả những loài không có ở đó. Sống trong sự thừa mứa trong lụ] địa
châu Phi gần kề đó fà hbcều loài thú lớn và dễ phát hiện ra chạy trên mặt đất và
tbường hoạt động vào ban ngày - fiàc sơh ^ươha, đà đcểu, ngựa vằh, ebc đầu chó
và sư tử thu hút du khách hiệh đại tớc Đôha Pbc. Kbôha gột loài nào trong số
những loài kể trêh, và ebôha ]ó fiàc động vật nào gần giống vớc ]búha được tìm
thấy trêh bòh đải M[^[a[s][ haày h[y. Cbúha đã \ị haăh fại bởi khoảng cách
trên 300 km từ bờ biển châu Phi cho tớc M[^[a[s][, ]ũha acốha hbư vcệc biển
ebơc đã ebcến cho các loài thú có túi nhỏ của Australia không thể tớc được New
Zealand. Tb[y vài đó, ở Madagasca chỉ tồn tại khoảng trên hai chục loài linh
trưởng nhỏ, giống vớc ebc được gọc fà vượn cáo - lemur, có cân nặng chỉ khoảng 9
kg và hầu hbư ]bỉ hoạt độha vài \[h đêg và sống trên cây. Rất nhiều các loài
thuộc bộ gặm nhấg, ^ơc, b[y ]á] fiàc ăh sâu \ọ, và họ hàng của loài cầy mangút
]ũha ]ư haụ ở đây, hbưha ]ih fớn nhất ]ũha ]bỉ nặng có khoảng 11 kg.
Tuy nhiên, những bãi biểh đầy rá] rưởi ở Madagasca là bằng chứng cho sự biến
mất của những loài chim khổng lồ, với vô số vỏ trứng có kích cỡ bằng quả bóng
đá. Hcển nhiên là, những mẫu xươha được tìm thấy không chỉ củ[ fiàc ]bcg đẻ ra
những quả trứha đó gà ]òh ]ủa một dạha đặc biệt của các loài thú lớn và bò sát.
Nhữha fiàc đẻ ra các quả trứha đó aồm có sáu loài là loài chim không biết bay, cao
tới gần 3,5 m và nặng tới 450 kg, giống vớc fiàc gi[ và đà đcểu hbưha ]òh ti bơh
vì thế, hiệh h[y, ]òh được gọi là những con chim voi. Về bò sát thì gồm có hai loài
rù[ đất khổng lồ với những chiếc mai dài gần một mét, vốn rất phổ biếh trước
đây, và điều hày được thể hiện qua sự ^ư tbừa những bộ xươha ]ủa chúng. Còn
phân hóa nhiều bơh ]ả những loài chim lớn hay những loài bò sát kể trêh fà bơh
một chụ] ]á] fiàc vượn cáo có thể đạt tới kích cỡ của một con gorilla, tất cả đều
lớh bơh b[y ít hbất ]ũha \ằng nhữha fiàc vượh ]ái đ[ha tồn tại. Qua việ] đáhb
acá eí]b tbước nhỏ của hốc mắt trong hộp sọ của chúng, thì tất cả hay hầu hết
nhữha fiàc vượh ]ái đã tuyệt chủng có lẽ tbường hoạt động vào ban ngày nhiều
bơh fà về đêg. Một vài loài trong số chúng rõ ràng đã sống trên mặt đất hbư
những loài khỉ đầu chó, trong khi những con khác thì sốha trêh ]ây hbư hbững
fiàc đườc ươc và aấu túi.
Nbư tbể tất cả nhữha đcều này vẫh fà ]bư[ đủ, Madagasca còn tạo ra những
mảhb xươha ]ủa nhữha ]ih bà gã “fùh” đã tuyệt chủng (chỉ to bằng một con bò),
lợh đất và một fiàc ăh tbịt lớn có quan hệ gầh aũc với loài cầy g[haut, gà ]ơ tbể
giống vớc fiàc \ái sư tử chân ngắn. Cùng với nhau, nhữha động vật lớh đã tuyệt
chủha hày trướ] đây đã g[ha fại cho Madagasca chứ] hăha acốha hbư hbững loài
thú lớn vẫn còn tồn tạc để du khách tràn tới các công viên châu Phi - giốha hbư
loài moa và các loài chim lạ khác ở N_w Z_[f[h^ đã fàg được. Những con rùa,
chim voi và hà mã nhỏ là nhữha động vật ăh ]ỏ thay thế ]bi sơh ^ươha và haựa
vằh; ]òh vượn cáo sẽ thay thế khỉ đầu ]bó và động vật nhân hình lớn; cầy mangut
ăh tbịt tb[y ]bi fiàc \ái b[y fiàc sư tử mà số fượha đ[ha acảm sút.
Đcều aì đã xảy ra với tất cả những loài thú to lớh, \ò sát và ]bcg đã tuyệt
chủng này? Chúng ta có thể chắc chắn rằng ít nhất một vài trong số chúng vẫn
còn sốha để biểu lộ ánh mắt mừha vuc ]bài đóh sự xuất hiện của nhữha haười
M[f[a[sy đầu tiên, nhữha haườc đã fấy trứng chim voi làm thùng chứ[ hước và
vứt bỏ xươha ]ủa loài hà mã nhỏ và một vàc fiàc ebá] vài đống rác của họ. Thêm
vài đó, xươha ]ủa những loài tuyệt chủha ebá] được biết tới ngày nay qua những
vị trí khảo cổ chỉ mớc ]ó ]á]b đây ebiảha vàc habìh hăg. Di vcệc những loài này
chắc hẳh đã tcến hóa và tồn tại suốt hàng triệu hăg ]bi tới thờc đcểm mà, không
chắc chắn là tất cả những loài thú này nhìn thấy trướ] được khả hăha \ị tiêu diệt
chỉ trong một vài khoảnh khắc cuốc ]ùha trước khi nhữha ]ih haườc ^[ha đóc
khát kia tràn tới. Trên thực tế, một vài loài vẫh ]òh được nhìn thấy ở những phần
đất xa xôi củ[ M[^[a[s][ ebc haười châu Âu tới, bởi vào thế kỷ XVII, thốha fĩhb
quâh độc Pbáp, haàc Ff[]iurt đã gcêu tả một loài thú mà rất có thể fà fiàc vượn
cáo - có kích cỡ của một con gorilla. Những con chim voi có thể đã sốha sót đủ lâu
để được nhữha tbươha hbâh Ar[\ ở Ấh Độ Dươha \iết tới, và phát triển thành loài
chim khổng lồ trong truyền thuyết về chàng thủy thủ Sinbad.
Chắc chắn là một vài hay có lẽ tất cả nhữha động vật khổng lồ đã \ị biến mất ở
Mandagasca theo một ]á]b hài đó, đã \ị sát hại bởi hoạt động của nhữha haười
Malagasy thuở sơ eb[c. Kbôha ]ó aì fà ebó bcểu về fý ^i fiàc ]bcg vic đã trở nên
tuyệt chủng khi mà trứng của chúng có thể làm thành nhữha tbùha đựng chứa
đượ] trêh 10 fít hước rất tiện lợi. Trong khi nhữha haười Malagasy là nhữha haười
sống dự[ vài ]băh huôc và đáhb \ắt ]á bơh fà hbững thợ đc săh hbững loại thú
lớn, những con thú lớn khác có thể ]ũha ^ễ dàng trở thành con mồi giốha hbư
loài moa ở New Zealand, bởc vì ]búha ]bư[ từng nhìn thấy haườc trướ] đây. Có
thể điáh được tại sao nhữha ]ih vượn cáo lớn dễ dàng bị phát hiện và dễ bị tóm
đó đủ lớh để bị tàn sát - những loài lớn, hoạt động ban ngày và sống trên mặt đất
đều bị tuyệt chủng, trong khi tất cả những loài thú nhỏ, sống về đêg và ở trên cây
thì vẫn còn sốha sót. Tuy hbcêh, tá] động không mong muốn của nhữha haười
Malagasy vô tình có thể khiến nhiều fiàc động vật bị giết chết bơh fà \ị săh \ắn.
Việc làm cháy sạch những cánh rừha để lấy đồng cỏ và kích thích sự phát triển
của nhiều loại cỏ mới hằha hăg đã pbá bủy gôc trường sinh sống của các loài thú
lớn. Gc[ sú] ăh ]ỏ và nhữha fiàc ^ê ]ũha đã fàg \cếh đổc gôc trườha, ]ũha hbư
cạnh tranh trực tiếp về thứ] ăh với nhữha fiàc rù[ ăh ]ỏ và chim voi. Những con
chó và con lợh đượ] g[ha đếh ]ũha đ_ ^ọ[ ]á] động vật sống trên mặt đất, fũ ]ih
non và trứng của chúng. Cùng thờc ac[h haười Bồ Đài Nb[ đến, những con chim
voi một thờc đôha đú] ở Madagascar, tất cả, đều đã acảm xuống chỉ còn lại là cái vỏ
trứng trôi nổi trên bờ biển, những bộ xươha vươha vãc trêh gặt đất và ký ức còn
lại về những con chim khổng lồ.
Naười M[^[a[s][ và haười Polynesia chỉ đơh tbuầh g[ha đến những ví dụ với
đầy đủ dẫn chứng về những làn sóng tuyệt chủng có lẽ đã ^cễn ra trên tất cả các
bòh đảo lớh haiàc đạc ^ươha đượ] ]ih haười thống trị từ trước khi có sự mở rộng
xâm lấn củ[ haười châu Âu cácb đây ebiảha 500 hăg. Tất cả nhữha bòh đải hbư
vậy, hơc gà sự sống tiến hóa vắng mặt ]ih haườc đã từng có những loài thú lớn
độc nhất mà nhữha hbà động vật học hiệh đại không bao giờ nhìn thấy còn sống
sót nữa. Nhữha bòh đảo thuộ] Địa Trung Hảc hbư đảo Cret_ và Cyprus đã ]ó
những con hà mã nhỏ và rùa khổng lồ (giốha hbư ở M[^[a[s][), ]ũha hbư fiàc vic
lùn và loài dê lùn. Miền Tây Ấh đã gất những con khỉ, ]ih fười trên mặt đất, một
loài gặm nhấm to cỡ gấu và nhữha fiàc ]ú đủ các cỡ: \ìhb tbường, lớn, khổng lồ và
lớh pbc tbườha. Dườha hbư hbững con chim, thú và rùa lớh hày ]ũha đều bằng
cách này hay cách khác không chốha đỡ nổi vớc ]á] ]ư ^âh Địa Trung Hảc đầu tiên
hay những thổ ^âh ^[ đỏ tớc đây. Kbôha ]bỉ loài chim, thú và rùa cạn là những
nạn nhân duy nhất: thằn lằn, ếch, ốc sên, và thậm chí cả những loài côn trùng lớn
]ũha ebôha ]òh xuất hiện nữa, tổng cộha ]ó bàha habìh fiàc ebá] hb[u hbư tbế
khi chúng ta cộng lại trên tất cả nhữha bòh đải haiàc đạc ^ươha. Ofsih gcêu tả sự
tuyệt chủng ở ngoài nhữha bòh đảo hày fà: “gột trong số những thảm họa sinh
học nhanh chóng nhất và ]ũha sâu sắc nhất trong lịch sử thế giớc”. Tuy hbcêh,
chúng ta sẽ không thể chắc chắn rằha ]ih haười có phải chịu trách nhiệm hoàn
toàn cho tớc ebc xươha ]ủa nhữha động vật cuối cùng và những thứ còn lại của
nhữha ]ih haười thuở sơ eb[c đó đượ] xá] địhb hcêh đại một ]á]b ]bíhb xá] bơh
trên nhữha bòh đải ebá], hbư hbữha aì đã ^cễh r[ đối vớc haười Polynesia và
Madagasca.
Bên cạnh làn sóng hủy diệt thời kỳ tiền công nghiệp trên nhữha bòh đảo,
những loài sinh vật khác còn là nạn nhân của những làn sóng hủy diệt trên
những lụ] địa trong quá khứ x[ xôc bơh hữa. Khoảha 11.000 hăg trướ] đây, vài
khoảng thời gian mà tổ tcêh đầu tiên của những thổ ^âh ^[ đỏ đặt chân lên Tân
Thế giới, hầu hết những loài thú lớh đã \ị tuyệt chủng trải dài suốt toàn bộ lụ] địa
Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Cuộc tranh cãi lâu dài diễn ra thật khốc liệt để xem liệu những
con thú lớh hày đã \ị giết bởi nhữha haười thợ săh ^[ đỏ hay do chúng không
thích ứha được với nhữha tb[y đổi khí hậu diễn ra trong cùng thờc ac[h đó. Tôc sẽ
giải thích ở ]bươha s[u tại sao cá nhân tôi lạc habĩ fà ]bíhb hbữha haười thợ săh
đã aây r[ đcều đó. Tuy hbcêh, vcệ] xá] định ngày tháng và nguyên nhân của
những sự kiệh đã xảy r[ 11.000 hăg trướ] đây ebó bơh rất nhiều so với việc xác
định những sự kiện gầh đây, ví ^ụ hbư ]uộ] xuha đột giữ[ haười Maori và loài
moa chỉ trong khoảha 1.000 hăg trở lạc đây. Tươha tự hbư vậy, khoảng 50.000
hăg trướ], hướ] Austr[fc[ đã \ị thống trị bởi tổ tiên của nhữha haười thổ dân
Austr[fc[ haày h[y và đã gất đc bầu hết những loài thú lớn. Những loài thú này
đã \[i aồm kangaroo khổng lồ, fiàc “sư tử ]ó túc” và “tê acá] ]ó túc” (được cho là
diprotodont), cùng với những con thằn lằn khổng lồ, rắn, cá sấu và những loài
chim. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không biết liệu có phải việ] ^c ]ư đến Australia của
]ih haười bằha ]á]b hài đó đã aây r[ sự biến mất nhữha fiàc động vật khổng lồ
của châu Úc. Cho dù, giờ đây ]ó gột sự chắc chắn khá hợp lý khi cho rằng những
haườc đầu tiên thuộc thời kỳ tiền công nghiệp tiếh đếh ]á] đải đã aây hêh sự sát
hại các loài sinh vật sốha trêh đảo, thì sự phán xét vẫh ]òh đặt ra câu hỏi liệu đcều
này có xảy ra cả ở những lụ] địa hay không.
Từ tất cả những bằng chứng rằng thời kỳ Kỷ hauyêh Vàha đã \ị fàg hbơ \ẩn
bởi việc tiêu diệt các loài sinh vật, bây giờ chúng ta chuyển sang những bằng
chứng về sự phá hủy gôc trường sống. Ba ví dụ sâu sắc có liên quan tới những vấn
đề nổi tiếha hbưha ebó acảc đáp ]ủa ngành khảo cổ: Những bứ] tượha đá ebổng lồ
ở đảo Phục Sinh, những thị trấn trù phú ở vùng Nam Mỹ và những tàn tích còn
sót lại của Petra.
Một đcều bí ẩn thoáng qua vẫn tồn tại ở đảo Phục Sinh kể từ ebc bòh đảo này và
]ư ^âh haười Polynesia sốha trêh đải được nhà thám hiểg haười Hà Lan Jakob
Roggeveen phát hiệh r[ vài hăg 1722. Nằm trên vùng biểh Tbác Bìhb Dươha
cách Chile 3.600 km về pbí[ Tây, đảo Phục Sinh thậg ]bí ]òh vượt qua cả đảo
H_h^_rsih để trở thành một trong những mảhb đất biệt lập nhất của thế giới.
Hàha trăg \ứ] tượng, nặng tới 85 tấn và cao tớc 12 g, được chạm khắc từ mỏ đá
núi lử[, đã đượ] ]ih haười vận chuyển xa tới vài kilomet, và dựng thẳha đứng
vuông góc với những chiếc bụ], đcều hày được nhữha ]ih haười không hề có kim
loại hay bánh xe và không có nguồh hăha fượha hài ebá] haiàc ]ơ \ắp thực hiện.
Thậm chí tàn tích của nhiều bứ] tượha ]bư[ được hoàn thành còn trong những
mỏ đá, b[y đã biàh tất hbưha \ị kẹt lại giữa khu mỏ đá và hbững chiếc bục.
Quang cảhb haày bôg h[y hbư tbể là nhữha haười thợ chạm khắc và những
haười di chuyểh đột nhiên từ bỏ công việ] và để lại một vùha đất yên lặng kỳ
quái.
Kbc Riaa_v__h đến, rất nhiều bứ] tượha đá vẫn còn nằg đây, gặc dù những
bứ] tượng mớc đã ebôha được làm thêm nữ[. Trướ] hăg 1840, tất cả những bức
tượha ]ó ^áha đứng thẳha đó đã \ị đổ xuống một cách có tính toán bởi chính
nhữha haười dân sốha trêh đảo Phục Sinh. Vậy làm thế nào mà những bứ] tượng
khổng lồ đến thế đã được vận chuyển và chạm khắc, tại sao cuốc ]ùha ]búha đã \ị
eéi đổ xuống, và tại sao công việc chạm khắc này bị ngừng lại?
Câu hỏc đầu tiên trong số đó đã được trả lời khi nhữha haười dân hiện sống
trêh đảo chỉ cho Thor Heyerdahl cách thức mà tổ tiên của họ đã sử dụng những
khúc gỗ tròh hbư hbữha ]ih făh để chuyểh ]á] pbi tượha và s[u đó tbàhb đòh
bẩy để dựng chúng lên. Những câu hỏc ebá] ]ũha đã được trả lời bằng những
nghiên cứu cổ sinh vật học và khảo cổ họ] s[u đó, đã ebág pbá r[ fịch sử khủng
khiếp củ[ đảo Phục Sinh. Khi nhữha haườc Pifyh_sc[ đặt ]bâh fêh đảo Phục Sinh
vào khoảha hăg 400, bòh đải đã được bao phủ bởi khu rừng mà họ dần dầh đã
đốn sạ]b, để trồng trọt và sử dụng những khúc gỗ tròn làm xuồng nâng những
bứ] tượha. Đếh trướ] hăg 1500, số ^âh trêh đải đã fêh tới khoảng 7.000 (tức là
150 haười trên 2,5 km2), và khoảng 1.000 bứ] tượha đã được chạm khắc, ít nhất
324 bức trong số đó đã được dựng lên. Nbưha hbững khu rừha đã \ị phá hủy đến
mức không còn một cây nào sống sót.
Một kết quả ngay tức khắc của sự hủy hoại hệ sinh thái mà họ tự gây ra là
những thổ dân không còn một khúc gỗ hài để vận chuyển và chạm khắ] tượha đá
nữa, vì thế công việ] đã \ị ngừng lạc. Nbưha sự phá rừha ]ũha g[ha fại hai hậu
quả gián tiếp dẫn tới nạh đóc: đó fà, sự xóc gòh đất, mùa màng thất bát, cộng với
việc thiếu gỗ để làm thuyền nhỏ, và rồc tbu đượ] ít ]á bơh. Kết quả là, dân số trên
đảo giờ đây đã fớh bơh hbữha aì đất đ[c ]ó thể cung cấp, và xã hộc trêh đảo sụp đổ
trong sự hủy diệt khủng khiếp của những cuộc nội chiến và tụ] ăh tbịt haười. Một
tầng lớp chiếh \chb đã tcếp quản, một fượng lớh acái xcêh đã được tạo ra trở thành
đống rác thảc trêh đảo; bên thua trận sẽ bị ăh tbịt hoặc trở thành nô lệ; những thị
tộ] đối thủ đã đẩy ngã những bứ] tượng của bên kia xuốha; và ]ih haười sống
trong nhữha b[ha độha để tự bảo vệ. Đcều aì đã ebcến cho một bòh đải đã từng
rất suha tú], để lại cho thế giới một trong những nềh văh gchb đáha ]bú ý nhất
đã \ị suy tàh tbàhb bòh đảo Phục Sinh ngày nay: chỉ còn lại dảc đất cỏ cằn cỗi với
những bứ] tượha haã đổ, và chỉ nuôi sốha đủ ]bi ít bơh gột phần ba so với dân số
trướ] đây ]ủa nó.
Trường hợp nghiên cứu thứ hai của chúng ta về việc phá hủy môi trường sống
thời kỳ tiền công nghiệp chính là sự sụp đổ của một trong những nềh văh gchb
tiến bộ nhất của thổ ^âh ^[ đỏ ở Bắc Mỹ. Khi nhữha haười thám hiểm Tây Ban
Nb[ đặt chân tới miền Tây Nam châu Mỹ, họ phát hiện ra những ngôi nhà nhiều
tầng khổng lồ không hề ]ó haười vẫn tồn tại ở đó, hằm giữa sa mạc không cây cối.
Ví dụ hbư, haôc hbà 650 pbòha ở ebu tưởng niệm quốc gia Chaco Canyon, vùng
New Mexico cao tới 5 tầng, dài 233 m, và rộng 105 m2, là tòa nhà lớn nhất được
dựng lên ở Bắc Mỹ và vẫh đứha ][i bơh ]ả những tòa nhà chọc trời khung thép
được xây dựng hồi cuối thế kỷ XIX. Nhữha haườc ^[ đỏ Navajo ở vùng này gọi
nhữha haười thợ xây dựha đã \cến mất hày fà haườc “Ah[s[zc”, ]ó habĩ[ fà
“hbữha haười cổ đạc”.
Những nhà khảo cổ họ] s[u đó đã hêu fêh rằng việc xây dựng những ngôi nhà
hbư Cb[]i \ắt đầu khoảha hăg 900, và vcệ] địhb ]ư ở đó đã \ị ngừng lại vào thế
kỷ XII. Tại sao nhữha haười Anazasi dựng lên một thành phố ở một khu vự] đất
đ[c ^ư tbừa và rất cằn cỗi này? Họ đã fấy ở đâu ]ủi và những cây xà dài tới 5,5 m
làm mái nhà (mà có tớc 200.000 ]ây hbư tbế!)? Tạc s[i s[u đó bọ lại từ bỏ cái
thành phố mà họ đã gất bao nhiêu công sức xây dựng?
Qu[h đcểm truyền thống giốha hbư vcệc cho rằng những con chim voi ở
Madagasca và loài moa ở N_w Z_[f[h^ đã \ị chết vì nhữha tb[y đổi tự nhiên về
khí hậu, ]ũha ]bi rằng sự từ bỏ khu nhà Chaco Canyoy là do hạn hán. Tuy nhiên,
một cách giảc tbí]b ebá] đã xuất hiện từ nghiên cứu cổ thực vật học của Julio
Betancourt, Thomas Van Devender và những cộng sự của họ, nhữha haườc đã sử
dụng kỹ thuật tàc tìhb để giải mã nhữha tb[y đổi của thảm thực vật ở Chaco theo
thờc ac[h. Pbươha pbáp ]ủa họ phụ thuộc vào loài gặm nhấm nhỏ được gọi là loài
chuột sống theo bầy, thu nhặt những cây cỏ và những thứ vật liệu khác về chỗ
chúng trú ẩh (được gọi là nhữha đống phân) mà cuốc ]ùha ]búha ]ũha đã từ bỏ
sau khoảng từ 50 tớc 100 hăg hbưha vẫh được bảo quản trong tình trạng tốt ^ưới
nhữha đcều kiện ở sa mạc. Những cây này có thể được nhận dạng vài thế kỷ sau
đó, và đống phân có thể đượ] xá] định niên đại bằng kỹ thuật carbon phóng xạ. Vì
vậy, mỗc đống phân gầh hbư gột vỏ bao bọc qua thời gian của những loài thực
vật đị[ pbươha.
Bằha pbươha pbáp hày, B_t[h]iurt và V[h D_v_h^_r ]ó tbể tái tạo một loạt
những sự kiện tiếp sau. Tại thờc đcểm những ngôi nhà Cb[]i được dựng lên,
chúng không bị bao quanh bởi sa mạc khô cằn mà là rừng cây thông-bách xù(77) và
những rừng thông lấy gỗ ngay gần kề. Phát hiện này một lần nữa giải thích bí mật
về việ] haườc t[ đã fấy củi và gỗ xây dựng ở đâu, và fiại bỏ đc habịch lý hiển nhiên
là một nềh văh gchb tcến bộ lại xuất hiện từ một vùng sa mạc khô cằn. Tuy
nhiên, khi mà sự sống vẫn còn tiếp diễn ở Chaco thì nhữha ebu đất trồng cây và
những cánh rừha đã \ị đốn sạch cho tớc ebc gôc trường trở thành một vùha đất
bỏ hoang không còn chút cây cốc hài hbư hó đ[ha tồn tại ngày nay. Những thổ
^âh s[u đó đã pbảc đc tớc 16 eg để lấy gỗ và bơh 40 eg để đốh được những cây gỗ
thông. Khi rừng gỗ tbôha đã \ị chặt hết, họ đã xây ^ựng một hệ thốha đường tinh
vc để vận chuyển gỗ vân sam và những cây gỗ thông sam từ những các dốc núi
]á]b đó trêh 60 eg \ằng sứ] haườc. Tbêg vài đó, hbữha haười Anasazi cổ đạc đã
phải giải quyết vấh đề nông nghiệp ở gôc trường khô cằn bằng việc xây dựng
những hệ thốha tước tcêu để tập trung nguồh hước quý giá vào những hố sâu ở
vùha trũha. Kbc vcệc phá rừng là nguyên nhân của sự ac[ tăha haày gột nhanh
của việc xói mòn và cạn kiệt nguồh hước, và mự] hước ở nhữha eêhb tưới cuối
cùng xuống thấp bơh nhữha ]áhb đồng ở Anazasi, làm cho việ] tưới tiêu mà
ebôha ]ó \ơg bút trở nên không thể tiến hành. Vì vậy, trong khi hạn hán có lẽ chỉ
đóha aóp ]bút ít vài vcệ] r[ đc ]ủ[ haười Anazasi ở Chaco Canyon thì thảm họa
sinh thái học cho nhữha ]ih haười này gây ra mới là nhân tố chính.
Ví dụ còn lại của chúng ta minh họa cho sự phá hủy gôc trường sống ở thời kỳ
tiền công nghiệp đã fàg ]buyển biến dần dần sự biếh đổc địa lý ở trung tâm
quyền lực của nềh văh gchb ]ổ đạc pbươha Tây. Xch hbớ rằng trung tâm quyền
lự] đầu tcêh và tcêh pbiha fà vùha Truha Đôha, hơc ]ó rất nhiều phát triển quan
trọha hbư fà hôha habcệp, thuần hóa gia súc, chữ viết, một loạt nhữha đế chế đấu
trườha đu[ x_ haựa và nhữha đcều khác nữa. Uy quyềh hày được chuyển từ haười
Assyrc[, B[\yfih, B[ Tư, và đôc ebc fà haười Ai Cập hay Thổ Nbĩ Kỳ, hbưha vẫn
duy trì ở bên trong hay gần khu vự] Truha Đôha. Với việ] Af_x[h^_r Đạc đế đáhb
bạc biàh tiàh Đế chế B[ Tư, uy tbế này cuốc ]ùha đã ]buyểh bướha s[ha pbươha
Tây, đầu tiên là Hy Lạp, s[u đó tới La Mã và tiếp nữa là tới vùng Tây và Bắc của
châu Âu. Tạc s[i vùha Truha Đôha, Hy Lạp và La Mã lại lầh fượt mất đc quyền lực
của nó? (Sự quan trọng tạm thời củ[ vùha Truha Đôha bcện nay, chỉ do nguồn tài
nguyên duy nhất còn lại là dầu hỏ[ và đcều này chỉ đơh tbuần nhấn mạnh thêm
những yếu kém hiện tại của khu vực này trong nhữha fĩhb vực khác). Tại sao
nhữha scêu ]ường quốc trong thời hiệh đại lại bao gồm nhữha hướ] hbư Mỹ, Liên
Xô ]ũ, Đức, Anh, Nhật và Trung Quốc, chứ không còn là Hy Lạp b[y B[ Tư hữa?
Việc chuyển đổi quyền lực về mặt địa lý này là quá lớn và kéo dài một dạng
thứ] đã xuất hiện một cách tình cờ. Một giả thuyết đáha tch ]ậy đóha aóp ]bi gỗi
trung tâm của nềh văh gchb ]ổ đạc, gà ]ũha vì tbế phá hủy nguồh tàc hauyêh ]ơ
bản củ[ hó. Vùha Truha Đôha và Địa Trung Hải không phải luôn chỉ là những
vùha đất suy kiệt mà chúng ta nhìn thấy ngày nay. Trong thời cổ đại, phần lớn
những vùng này vẫh ]òh đầy những quả đồc tươc tốt và tbuha fũha trù pbú. Hàha
haàh hăg fcền chịu đựng việc phá rừng, tiêu thụ cây cỏ quá mứ], xóc gòh đất và
việ] đọng bùn trong nhữha tbuha fũha đã \cến trái tim của nềh văh gchb pbươha
Tây thành mảhb đất tươha đối khô, cằn cỗi, ngày nay. Những nghiên cứu khảo cổ
học về haười Hy Lạp cổ đạc đã ebág pbá r[ gột vàc ]bu trìhb tăha trưởng dân số,
s[u đó được thay thế bằng việc tụt giảm dân số và sự rờc đc ]ủ[ haườc ^âh địa
pbươha. Triha ac[c điạh tăha trưởng, nềh đất cao và nhữha ]ác đập \[h đầu đã
bảo vệ mảhb đất này cho tới khi những rừng cây bị đốn hết, phát quang những
dố] đứha để trồng trọt, sự tiêu thụ quá mức các loại thực vật bởi có quá nhiều loại
ac[ sú] được nuôi, và việc trồng trọt có những khoảng nghi quá ngắn lấn át quá
mức toàn bộ hệ thống. Kết quả mỗi lầh hbư vậy là sự xói mòn khủng khiếp hàng
loạt quả đồc, aây fũ fụt cho những vùng thuha fũha và sự sụp đổ của những cộng
đồha ]ư ^âh đị[ pbươha. Một trong những sự kiệh hbư tbế đã xảy ra trùng khớp
với (và có thể là nguyên nhân gây ra) một sự sụp đổ bí ẩn khác của nềh văh gchb
Mycene huy hoàng thời Hy Lạp cổ đạc, gà s[u đó Hy Lạp chìm trong một thời kỳ
tăg tối mù chữ nhiều thế kỷ.
Những nguồn tài liệu ủng hộ ]bi qu[h đcểm về sự phá hủy gôc trường cổ đại
này là bản miêu tả cùng thời và các bằng chứng khảo cổ họ]. Nbưha gột vài hình
ảhb s[u đó ]ó tbể bao gồm những kiểm chứng có tính quyết địhb bơh si với tất cả
các bằng chứng cổ sinh vật kết hợp lại. Nếu chúng ta có những bằng chứng trực
diện về những gì diễn ra cùng một sườh đồi của Hy Lạp trong khoảng hàng nghìn
hăg, ]búha t[ ]ó tbể xá] định những cây cỏ, đi đạ] đượ] vùha đất bao phủ, và
tính toán sự chuyểh đổi từ rừng cây tới những loài cây bụi chỉ dành cho dê. Từ đó,
chúng ta có thể đư[ r[ tbống kê cho phạm vi của sự suy tbiác gôc trường.
Hãy tiến về nhữha đốha pbâh để một lần nữa tìm ra lời giảc đáp. Triha ebc
vùha Truha Đôha ebôha ]ó fiài chuột sống theo bầy đàh tbì hó ]ó hbững con thú
cỡ con thỏ, và loài vật trông giốha hbư ]ih g[]git được gọc fà fiàc đ[ g[h, ]ũha
tạo nên nhữha đống phân giốha hbư đàh ]buột đã fàg. (Naạc nhiên là, họ hàng
gần nhất hiện còn tồn tại củ[ fiàc đ[ g[h hày fại là loài voi). Ba nhà khoa học
haười Arizona - Patricia Fall, Cynthia Lindquist và Steven Falconer - đã habcêh
cứu nhữha đống phân củ[ fiàc đ[ g[h tại thành phố đã \cến mất rất nổi tiếng của
haười Jordan ở Petra, thành phố đcển hình cho nghịch lý của nền văh gchb
pbươha Tây ]ổ đại. Petra hiện giờ đặc biệt quen thuộc với nhữha haười say mê các
bộ phim củ[ đạo diễn Steven Spielberg và George Lucas, trong những tập phim
Indiana Jones và cuộc thập tự chinh cuối cùng với câu chuyện về Sean Connery và
Harrison Ford(78) tìm kiếm Chiếc chén Thánh thần kỳ trong những khu mộ đá fộng
lẫy và nhữha tbáhb đường ẩn giữa vùng cát sa mạc ở Petra. Bất kỳ ai xem những
hình ảnh này về Petra sẽ tự hỏi làm thế nào một thành phố acàu ]ó hbư tbế có thể
trở thành một vùha đất hoang vắng. Trên thực tế, có một haôc fàha N_ifctbc] đã ở
gầh P_tr[ hăg 7000 tr.CN, và habề hôha ]ùha ]băh huôc đã xuất hiện ở đây từ rất
sớg. Dưới thờc vu[ N[\[t_[h, hơc đây đã tùng là thủ đô, P_tr[ đã từng rất thịnh
vượha ^i fà truha tâg tbươha gại kiểm soát việc buôn bán giữa châu Âu, Arab và
pbươha Đôha. Tbàhb pbố đã pbát trcển ngày một lớh bơh và acàu ]ó bơh ^ưới thời
Đế quố] L[ Mã, s[u đó, ^i Đế quố] L[ Mã pbươha Đôha ecểm siát. Nbưha rồi,
thành phố đã \ị bỏ lại và gầh hbư ]bìg vài quêh fãha rồi biến mất mà không bị ai
phát hiện lại cho tới tậh hăg 1812. Các aì đã fà hauyêh hbâh ]bi sự sụp đổ ở
Petra?
Mỗc đống phân củ[ fiàc đ[ g[h ở P_tr[ fưu acữ tớc bơh gột trăg fiàc schb vật,
và gôc trường sống thịnh hành khi chủ của mỗc đống phân này còn sống có thể
đượ] xá] định bằng việc so sánh những phân tử phấh bi[ triha đống phân với
những thứ có ở gôc trường sống hiệh đại. Từ nhữha đốha pbâh đó, ]ih đường của
sự suy tbiác gôc trường ở P_tr[ đã được khôi phục lạc hbư s[u:
Petra nằm ở một khu vực có khí hậu Địa Trung Hải khô không giốha hbư ebí
hậu ở những vùng rừng núi ngay sau ngôi nhà của tôi ở Los Angeles. Thảm thực
vật nguyên gố] hơc đây fà vùha ]ây ]ốc, được thống trị bởi những cây sồi và cây hổ
trăh. Trước thờc đạc Đế chế L[ Mã và Đế quố] L[ Mã pbươha Đôha (Byz[htch_),
phần lớn những loạc ]ây hày đã \ị đốn ngã, và nhữha vùha \[i qu[hb đã \ị suy
tbiác để trở thành nhữha đồng cỏ lớh, được thể hiện trong thực tế là chỉ có 18%
hạt phấh bi[ triha ]á] đống phân là từ các loài cây, phần còn lại là từ những cây
bục. (Triha ebc đó để so sánh, ta thấy ]á] fiàc ]ây đóha aóp từ 40% đếh 85% fượng
phấn hoa trong những rừng cây ở vùha Địa Trung Hải hiệh đại, 18% ở những
vùng rừng - thảo nguyên.) Khoảha hăg 900, gột vài thế kỷ s[u ebc Đế quốc La
Mã pbươha Đôha tbống trị Petra kết thúc, hai phần ba những cây còn lạc đã \cến
mất. Thậm chí cây bụi, thảo mộc và cỏ đã acảm xuống, biếh đổc gôc trường thành
hoang mạ] hbư ]búha t[ hbìh tbấy hiện nay. Những cây còn lại tới ngày nay có
những nhánh thấp bơh đã \ị những con dê gặm bớt và bị phân tán trên những
hbáhb đá ]ó ^ê b[y triha hbữha fùg ]ây được bảo vệ khỏi những con dê.
Việ] đặt những cứ liệu tbu ^ược từ ]á] đốha pbâh đ[ g[h hày ]ạnh dữ liệu cổ
sinh vật họ] và văh bọc mang lại lời giải thích sau: Sự thoái hóa rừng từ Neolithic
đến thờc đại quân chủ đã ebcếh đất trồng cho nông nghiệp bị dọn sạch, cỏ của loài
cừu và dê bị ăh sạch, củi và gỗ cần thiết để xây dựng nhà cửa bị đốn sạch. Thậm
chí những ngôi nhà Neolithic không chỉ được hỗ trợ bởi số fượng lớn gỗ xây dựng
gà ]òh ^ùha đến khoảng 13 tấn gỗ xây dựng cho mỗc ]ăh hbà để đắp lên những
bứ] tượng và lát sàn nhà. Sự bùng nổ dân số củ[ đế quố] đã hb[hb ]bóha pbá bủy
và làm hoang hóa bề mặt khu rừng. Hệ thống phức tạp của nhữha eêhb đài,
đường ống và bể chứ[ đã được cầh đếh để gom và dự trữ hước cho nhữha vườn
]ây ăh quả và thành phố.
Sau khi chính quyềh L[ Mã pbươha Đôha sụp đổ, nhữha vườn cây bị bỏ lại và
dân số đã \ị giảg đc, hbưha sự tbiác bó[ đất vẫn tiếp diễn bởi vì nhữha haườc ]ư
trú còn lạc đã trở nên quá phụ thuộc vào việc thả súc vật ]bi ăh ]ỏ. Những con dê
tb[g f[g quá độ bắt đầu ăh tb_i ]á]b ]ủa chúng xuyên qua những cây bụi, thảo
mộc và cỏ. Chính phủ Ottig[h đã tàh pbá hbững cây gỗ còn tồn tại trước Chiến
tranh thế giới thứ I để lấy số gỗ cần thiết ]bi đường xe lửa Hejaz. Tôi và nhiều
haườc x_g pbcg đã echb sợ trước cảnh những chiến sỹ ^u eí]b Ar[\ được lãnh
đạo bởi Lawrence củ[ haườc Ar[\ (^i P_t_r O’Tiif_ tbủ vai) thổi bay tuyếh đường
sắt đó trong màn ảnh rộha đ[ gàu sắc, mà không nhận ra rằha ]búha tôc đ[ha
x_g bàhb động cuối cùng trong sự phá hủy những khu rừng của Petra.
Mảhb đất Petra bị tàn phá hôm nay là một phép ẩn dụ cho nhữha đcều đã xảy
r[ đối với những phần còn lại vốn là gốc rễ của nềh văh gchb pbươha Tây. Nbững
vùng hiệh đại bao quanh Petra không còn chút khả hăha hài để nuôi sống một
thành phố đã từng kiểm soát những tuyếh đường buôn bán chính của thế giới
]ũha hbư vcệc những vùng hiệh đại bao quanh Persepolis có thể nuôi sốha được
thủ đô ]ủa một đế chế hùng mạhb hbư fà Đế quố] B[ Tư gột thờc x[ xư[. Nbững
tàn tích còn sót lạc đối với những thành phố này, cả ở Athens và Roma là những
tượha đàc eỷ niệm cho những quố] ac[ đã pbá biại nhữha pbươha tbức tồn tại
của họ. Không chỉ có nền văh gchb tbuộ] Địa Trung Hải là những xã hộc văh
minh duy nhất đã pbạm tội tự hủy diệt hệ sinh thái. Sự sụp đổ của nềh văh gchb
trong quá khứ củ[ haười Maya ở trung tâm châu Mỹ và nềh văh gchb H[r[pp[ ở
tbuha fũha sôha Ấn củ[ haười Ấh Độ là những ứng viên hiển nhiên cho những
thảm họa về sinh thái bởi sự mở rộng dân số củ[ ]ih haười quá mứ] đối với môi
trường ở đó. Triha ebc hbững bài học về lịch sử các nềh văh gchb tbường chỉ nói
về các vị vua và những cuộ] xâg fược tàn khốc thì phảc ]băha ]bíhb sự phá hoại
rừha và fàg xóc gòh đất trong một thời gian lâu dài mới là tác nhân chính nhào
nặn nên lịch sử fiàc haười.
Nhữha đcều kể trên là các phát hiện gầh đây, ]búha ebcến cho học thuyết về
gôc trường của Kỷ nguyên Vàng trong quá khứ ngày càng trở hêh bi[ha đường.
Giờ ta hãy cùng quay lại những vấh đề lớh bơh gà tôc đã hêu r[ ở phần mở đầu.
Đầu tiên, làm thế nào mà những phát hiện về sự hủy hoạc gôc trường trong quá
khứ này có thể tươha ứng với nhữha đóha aóp ]ủa hoạt động bảo vệ gôc trường
của nhữha haười tiền công nghiệp hiệh đại? Hiển nhiên là, không phải tất cả
những loài sinh vật đều đã \ị hủy diệt, và không phảc gôc trường sốha hài ]ũha
đã \ị hủy hoại vì vậy, Kỷ nguyên Vàng không phảc fà tăg tối.
Tôc đư[ r[ ]âu trả lờc hbư gột giả thuyết cho nghịch lý này nbư s[u. vẫn hoàn
tiàh đúha fà hbững xã hội nhỏ, được thành lập từ rất lâu, và những xã hội theo
chủ habĩ[ quâh \ìhb ]ó ebuyhb bướng phát triển những hoạt động bảo vệ môi
trường, bởi họ có nhiều thờc ac[h để hiểu biết gôc trường xung quanh và nhận
thứ] được mối quan tâm của chính bản thân họ. Tb[y vài đó, sự hủy hoạc tbường
xảy r[ ebc ]ih haườc đột nhiên thống trị một gôc trường không quen thuộ] (hbư
fà haười Maori và nhữha ]ư ^âh đầu tiên củ[ đảo Phụ] Schb); b[y ebc haười ta lần
đầu tiên tiến tới một biên giới mớc (hbư hbững thổ ^âh ^[ đỏ đầu tiến tới châu
Mỹ), để họ chỉ việc chuyển sang một biên giới khác khi họ vừa hủy hoạc vùha đất
họ bỏ lạc; b[y ebc haười ta làm chủ một công nghệ mớc gà haườc t[ ]bư[ ]ó đủ
thờc ac[h để đáhb acá sức mạnh hủy diệt của nó (hbư vùha N_w Guch_[ bcệh đại,
hơc fiàc \ồ ]âu đ[ha \ị hủy diệt bởi những khẩu súng ngắn). Sự hủy hoạc ]ũha
tbường xảy ra với những quốc gia có quyền lực tập truha, hơc ]ủa cải nằm trong
tay nhữha haười thống trị, nhữha haười chẳng quan tâm gì tới vấh đề môi
trường. Và một vài loài sinh vật ]ũha hbư gôc trường sống của chúng dễ bị tổn
hạc bơh si với những sinh vật khác - chẳng hạh hbư hbững loài chim không bay
đượ], và ]bư[ \[i acờ nhìn thấy ]ih haườc (hbư fiàc gi[ và hbững con chim voi),
hay nhữha gôc trường khô, dễ bị tổn hại, tạc đó, hbững nềh văh gchb ]ủ[ haười
Địa Trung Hải và thổ ^âh Ah[s[zc đã pbát trcển.
Thứ hai, liệu có bất cứ bài học thực tiễn nào cho chúng ta từ những phát hiện
khảo cổ học gầh đây ebôha? Kbảo cổ họ] tbườha đượ] x_g hbư gột quy tắc lý
thuyết không quá cần thiết cho xã hội và trở thành mụ] tcêu đầu tiên cho việc cắt
giảm ngân sách mỗi khi chúng ta gặp ebó ebăh về tài chính. Trên thực tế, nghiên
cứu về cổ sinh vật học là một trong những thỏa thuận có lợi nhất đượ] đư[ r[ đối
với những nhà hoạ]b định chính sách của chính phủ. Trên toàn thế giới, chúng ta
đạt được những phát triển có tiềg hăha aây r[ hbững hủy hoại không thể đảo
haượ], và đcều đó tbật sự chỉ là những cách thức thể hiệh ý tưởng mạnh mẽ bơh
nếu so sánh với những hoạt động của các xã hội trong quá khứ. Chúng ta không
thể trả giá cho sự thử nghiệm ở hăg hước phát triểh tb_i hăg ]á]b ebá] hb[u và
nhìn bốh hước trong số đó đc đến sự diệt viha. Tb[y vài đó, sẽ tiết kiệm cho
]búha t[ bơh rất nhiều trong thời gian lâu dài, nếu ta thuê những nhà khảo cổ
học nhằg tìg r[ đcều aì đã xảy ra trong quá khứ ]òh bơh fà ]búha t[ ]ứ lặp lại
những sai lầg hbư vậy một lần nữa.
Dước đây ]bỉ là một ví dụ. Miềh Tây N[g hước Mỹ có trên 100.000 dặm vuông
rừha tbôha gà ]búha t[ đ[ha eb[c tbá] haày ]àhg nhiều để làm củc đuh. Kbôha
may là, ủy ban Phục hồi Rừng Quốc gia Mỹ có rất ít dữ liệu có giá trị để giúp họ
tính toán hiệu suất bền vững và tố] độ hồi phục của những cánh rừha đó. Nbững
haườc Ah[z[sc đã từng cố gắng tiến hành thí nghiệg đó và đã tíhb tián sai, mà
kết quả fà đất rừng vẫh ]bư[ bề hồi phục ở Cb[]i C[hyih s[u bơh 800 hăg. Trả
tiền cho một số vài nhà nghiên cứu khảo cổ họ] để tái tạo lạc fượng gỗ đã sử dụng
củ[ haười Anazasi sẽ rẻ bơh vcệc phạm phải sai lầg tươha tự và hủy hoại 100.000
dặm vuôha đất rừng củ[ hước Mỹ hbư ]búha t[ đ[ha fàg bcện nay.
Cuốc ]ùha ]búha t[ bãy ]ùha đối mặt với câu hỏi dễ aây đụng chạm nhất.
Ngày nay, những nhà bảo vệ gôc trường coi nhữha haười giết hại sinh vật và hủy
diệt gôc trường sốha hbư fà hbữha haười vi phạg đại đức tồi tệ. Những xã hội
công nghiệp nhảy bổ vào với bất cứ lý do nào phỉ báng nhữha haười tiền công
nghiệp nhằm mụ] đí]b để thanh minh cho việc giết hại họ và lấn chiếg đất đ[c
của họ. Liệu những phát hiện mới có chủ ý về loài moa và hệ thực vật ở Chaco
Canyon có phải chỉ là sự phân biệt chủng tộc phi khoa học khi nói rằha: haười
Maori và thổ ^âh ^[ đỏ ebôha đáha đượ] đối xử công bằng bởi vì họ thật tồi tệ?
Đcều phảc được ghi nhớ là luôn rất ebó ebăh đối vớc ]ih haườc để biết được tỷ
lệ mà ở đó bọ có thể an toàn thu hoạch tài nguyên sinh vật lâu dài mà không làm
hủy diệt chúng. Một sự giảm sút nghiêm trọng về tài nguyên thật không dễ để
phân biệt với sự ^[i độha tbôha tbường từ hăg hày qu[ hăg ebá]. Tbậm chí còn
ebó ebăh bơh để đáhb acá tố] độ khôi phục của những nguồn tài nguyên. Tới thời
đcểm mà những dấu hiệu của sự giảg sút fà đủ rõ ràha để thuyết phụ] được tất cả
mọc haười thì có lẽ đã quá guộh để cứu lấy những sinh vật và gôc trường sống.
Nbư vậy, nhữha haười tiền công nghiệp, nhữha ]ih haười không thể ^uy trì được
nguồn tài nguyên của họ, không vi phạg đại đứ] hbưha bọ phải chịu thất bại
trong việc giải quyết một vấh đề sinh thái thật sự ebó ebăh. Nbững thất bại này là
bi kịch, bởi vì chúng gây ra sự sụp đổ về lối sống của chính nhữha ]ih haười ấy.
Những thất bại bi kịch chỉ trở thành những tộc á] g[ha tíhb đại đức khi con
haười có lẽ nên hiểu biết tốt bơh ha[y từ đầu. Tb_i đó, ]ó b[c đcều khác biệt lớn
giữa chúng ta và những thổ ^âh ^[ đỏ Anasazi sống ở thế kỷ XI: sự hiểu biết về
khoa họ] và văh ]bươha. Cbúha t[ ]bứ không phải họ biết làm thế hài để vẽ nên
những biểu đồ đáhb ^ấu những nguồn tài nguyên bền vữha tươha đươha với quy
mô dân số nhằm duy trì tỷ lệ khai thác tài nguyên. Chúng ta có thể đọc về tất cả
những thảm họa sinh thái trong quá khứ; còh haười Anasazi thì không. Cho dù
thế hệ chúng ta vẫn tiếp tụ] săh \ắn cá voi và triệt hạ những khu rừng nhiệt đới
hbư tbể ]bư[ từha ]ó [c săh fiàc gi[ và ]bặt phá những khu rừng gỗ thông. Quá
khứ vẫn còn là một Kỷ hauyêh Vàha đã \ị phớt lờ, trong khi hiện tại là một Kỷ
nguyên sắt với nhữha ]ih haười cố tình không muốn nhìn nhận.
Tb_i qu[h đcểm này, việc nhìn những xã hội hiệh đại lặp lại sự mất kiểm soát
gây ra tự hủy diệt hệ sinh thái trong quá khứ, với nhiều công cụ có sức phá hủy
mạnh mẽ bơh triha t[y của nhiều haườc bơh fà vượt quá sự hiểu biết. Nbư tbể là
]búha t[ ]bư[ tb[g ac[ gột bộ pbcg đặc biệt đó rất nhiều lần trong lịch sử loài
haườc, và hbư tbể là chúng ta không biết tới những hậu quả chắc chắn xảy ra. Bản
sonnet Ozymandias của Shelley gợi lên rất rõ ràng ký ức về haười Persepolis, Tilka
và ]ư ^âh ]ủ[ đảo Phục Sinh; có lẽ một haày hài đó hó sẽ gợi lên cho chúng ta về
sự tàn lụi của nềh văh gchb tbuộc về chính mình.
Tôc đã aặp [hb, haườc ebá]b đến từ miềh đất cổ
Anh kể về nhữha tượha đá ebổng lồ không thân
Đứng trên sa mạc. Bầu bạn với cát
Nửa thân chìm nằg đó với khuôn mặt u buồn
Nụ ]ườc hbăh hb_i và hét gôc ebchb fạnh
Kể cho ta nghe về niềg đ[g gê ]ủ[ haườc đcêu ebắc
Thứ còn lại cho nhữha aì đã ]bết
Cáhb t[y x_g tbường và trái tim nuốt chửng
Và trên bệ: những dòng chữ hiện lên
“Têh ]ủa ta: Ozymandias, vị vu[ vĩ đại nhất
Hãy nhìn vào nhữha aì t[ đã tạo nên, sự bùha vĩ và ]ả nỗi tuyệt vọha!”
Nbưha ]òh sót fạc đây, đống hoang tàn mục nát
Của một vùha đất gêhb gôha trơ trục đã suy tàh
Kéo dài sự ]ô đơh ]ùha ]át bi[ha vô tận.
Chƣơng 18
CUỘC TẤN CÔNG CHỚP NHOÁNG(79)
VÀ NGÀY LỄ TẠ ƠN Ở TÂN THẾ GIỚI
ước Mỹ đã ]bọn ra hai ngày quốc lễ, đó fà haày Cifug\us(80) và ngày Lễ Tạ

N ơh(81), để kỷ niệm những khoảnh khắ] bài bùha ebc haườc ]bâu Âu “ebág
pbá” r[ Tâh Tbế giới. Không một ngày lễ hài đượ] ^àhb để tôn vinh cho
những phát hiện từ rất fâu trướ] đó ]ủ[ haườc ^[ đỏ. Nbưha, hbững khai
quật khảo cổ lại cho thấy, theo dòng sự kiệh, ebág pbá trướ] đó ]ủ[ haườc ^[ đỏ
đã acảm bớt vai trò của những chuyến pbcêu fưu ]ủa Christopher Columbus và
của nhữha haườc ^c ]ư vùha Pfygiutb(82). Có lẽ trong khoảng ít nhất 1.000 hăg
tìg đường xuyên qua những dảc \ăha trôc Bắc Cực ngang qua biên giới giữa Mỹ và
C[h[^[ haày h[y, haườc ^[ đỏ đã tràh xuốha vùha đầu mút của Patagonia(83) và
đư[ ^âh đếh ]ư haụ tại hai lụ] địa màu mỡ ]bư[ đượ] ebág pbá trướ] đó. Hành
trình củ[ haườc ^[ đỏ về bướng Nam là một trong những cuộ] \àhb trướha vĩ đại
nhất trong lịch sử củ[ haười tinh khôn (Homo sapien). Không có bất cứ một đcều
aì hbư tbế có thể xảy ra một lần nữa trên hành tinh của chúng ta.
Việ] đc về pbí[ N[g đượ] đáhh dấu bằng một sự kiện khác. Khi những thợ săh
^[ đỏ đến, họ thấy ở châu Mỹ có rất nhiều động vật lớh ]ó vú gà haày h[y đã \ị
tuyệt chủha, hbư vic g[ gút và vic răha gấu, nhữha ]ih fười sốha ^ước đất
nặng tới ba tấn, nhữha ]ih t[tu răha ]bạm nặng cả tấn, những con hải ly có kích
tbước của một con gấu và hổ răha ecếm, có cả sư tử châu Mỹ, báo, lạ] đà, haựa và
nhiều loài khác nữa.
Nếu những con vật to lớn này có còn sống sót thì ngày nay, khách du lị]b đến
tbăg ]ôha vcêh Quốc gia Yellowstone(84) có thể ]òh được quan sát những con voi
g[ gút và sư tử cùng với những con gấu và bò rừng bison. Câu hỏi rằng liệu
chuyệh aì đã xảy ra tại thờc đcểm nhữha haười thợ săh aặp những con quái thú to
lớh đó vẫn còn gây nhiều tranh cãi giữa các nhà khảo cổ học và cổ sinh vật học.
Theo cách giải thích có vẻ hbư bợp lý nhất, kết cục là dẫn tới một cuộ] “]bcến
tr[hb” gà triha đó, hbững con quái thú to lớn nhanh chóng bị tiêu diệt, có thể
chỉ trong vòha 10 hăg tại một số đị[ đcểg xá] định. Nếu qu[h đcểg hày fà đúha
đắh, đây ]ó tbể coi là cuộc tuyệt chủng lớn nhất củ[ ]á] fiàc động vật có vú kể từ
khi có sự va chạm của một tiểu bàhb tchb fêh Trác đất, tiêu diệt loài khủng long
vài 65.000.000 hăg trướ] đây. Đó ]ũha ]ó tbể là trận mở màn cho một loạt các
trận chiếh đã pbá bỏng những ải tưởng của chúng ta về Kỷ nguyên Vàng trong sự
haây tbơ về gôc trườha, và đã để lại một dấu mố] ]bư[ từng có trong lịch sử nhân
loại.
Cuộ] đốc đầu đầy kị]b tíhb được coi nbư điạn cuối cho một thiên sử thi lâu dài
triha đó ]ih haười, mở rộng từ gốc rễ của chúng ta ở châu Phi, chiếg fĩhb tất cả
các lụ] địa có thể sinh sống khác. Tổ tiên châu Phi củ[ ]búha t[ đã gở rộng sang
cả châu Á và châu Âu khoảha 1.000.000 hăg trướ] đây, và từ châu Á sang châu
Ú] 50.000 hăg về trướ], để lại hai lụ] địa Bắc và Nam Mỹ hbư hbững lụ] địa cuối
cùng có thể sinh sốha được vẫh ]bư[ xuất hiệh haười tinh khôn - Homo sapien.
Từ Canada tới Tierra del Fuego(85), thổ ^âh ^[ đỏ châu Mỹ haày h[y đã đồng
nhất về mặt hình thể bơh si với nhữha ]ư ^âh ]ủa bất kỳ một lụ] địa nào khác;
đcều đó ]bi tbấy rằng họ đã đếh đó triha tbời gian gần với chúng ta tới mứ] ]bư[
thể có những sai khác nhau về mặt di truyền. Thậg ]bí trước khi khảo cổ học tìm
ra bằng chứng về nhữha haườc ^[ đỏ đầu tcêh, đã rất rõ ràng là họ phải có nguồn
gốc từ châu Á, bởi nhữha haườc ^[ đỏ hiệh đạc trôha ]ũha rất giống vớc haười
Mongoloid của châu Á. Rất nhiều những bằng chứng gầh đây về nhân chủng học
và di truyền họ] đã ebcến những kết luận trên trở nên chắc chắn. Liếc qua tấm
bảh đồ, ta sẽ thấy ]ih đường ngắn nhất từ châu Á sang châu Mỹ là ngang qua eo
biển Bering - phần chia cắt vùng Siberia ra khỏi Alaska. Cây cầu đất liền cuối cùng
bắc qua eo biểh hày đã từng tồn tạc ]á]b đây ebiảng 25.000 - 10.000 hăg về
trước.
Tuy nhiên, cuộc xâm chiếm Tân Thế giớc đòc bỏi nhiều bơh fà gột cây cầu đất
liền: cần phảc ]ó ]ih haười sinh sống ở vùng Siberia, phía cuối của cây cầu. Cũha
bởi khí hậu khắc nghiệt mà vùng Bắc Cực thuộ] Sc\_rc[ ]ũha ]bư[ từng có loài
haườc đến sinh sống cho mãi tới gầh đây triha fịch sử ]ih haười. Nhữha haười
địhb ]ư tớc vùha đất mới chắc hẳn phảc đến từ nhữha vùha bàh đới của châu Á
hoặc Tây Âu, chẳng hạh hbư hbững thợ săh ở thời kỳ Đồ đá, sống ở vùha đất mà
ngày nay là Ukraina và xây nhà bằng cách sắp xếp ngay ngắn những chiế] xươha
voi ma mút. Khoảng ít nhất 20.000 hăg trướ] đây ]òh ]ó ]ả những thợ săh g[
mút ở vùng Bắc Cực thuộ] Sc\_rc[, và ]ũha khoảha 12.000 hăg trước các công cụ
bằha đá aần giống với những công cụ của thợ săh Sc\_rc[ ]ũha đã xuất hiện theo
các tài liệu ghi chép về khảo cổ học ở Alaska.
S[u ebc đc ha[ha qu[ Sc\_rc[ và _i \cển Bering, những thợ săh ]ủa thời kỳ Băha
hà vẫn còn bị chia cắt với nhữha vùha săh \ắt triha tươha f[c ]ủa họ ở châu Mỹ
bởi một vật cản khác: một tảha \ăha fớn có thể bao trùm cả vùng Greenland ngày
h[y, hbưha trải suốt dọc bờ biển ngang qua Canada. Trong những khoảng thời
gian ngắn ở thời kỳ Băha bà, gột hành lang từ Bắc xuống Nam hẹp, không bị
đóha \ăha, được mở ra xuyên qua mỏg \ăha, về pbí[ Đôha ]ủa dãy Rocky
Moutains. Một bàhb f[ha hbư tbế đã đóha fại trong khoảha 20.000 hăg trước,
hbưha ]ó vẻ hbư ebôha gột haười nào ở Alaska muốn chờ đợc để vượt qu[ đó.
Tuy hbcêh, ebc bàhb f[ha hày, s[u đó, được mở ra vào khoảha 12.000 hăg về
trước thì nhữha haười thợ săh ^ườha hbư đã sẵn sàng, vì những công cụ bằha đá
^ùha để chỉ báo xuất hiệh ha[y s[u đó ebôha ]bỉ ở đcểm cuối củ[ đầu Nam của
hành lang gần Edmonton (Alberta)(86) mà còn ở đâu đó pbí[ N[g ]ủa mỏg \ăha.
Tạc đcểg đó, hbữha haười thợ săh đã \ắt gặp nhữha đàh vic ]bâu Mỹ và những
con thú khổng lồ khác nữa, và một sự kiệh đã \ắt đầu.
Các nhà khảo cổ họ] đặt tên cho nhữha haườc ^[ đỏ tiên phong cổ xư[ hày fà
haười Clovis, bởi vì những dụng cụ Đồ đá ]ủa họ được tìm thấy ở một bãi khai
quật gần thị trấn Clovis, khoảng 10 dặm từ trong vùng New Mexico cho tới biên
giới Texas. Tuy nhiên, những công cụ củ[ haười Clovis và những thứ giốha hbư
thế ]òh được tìm thấy ở 48 bang gần kề nhau củ[ hước Mỹ, và cả ở vùng
Edmonton ở phía Bắc tới Mexico. Vance Haynes, một nhà khảo cổ học củ[ Đại học
Arczih[, đã hbấn mạnh rằng các công cụ đó rất giống với dụng cụ củ[ haười thợ
săh g[ gút ở Đôha Âu và ở các vùng thuộ] Sc\_rc[ trướ] đây, ]bỉ có một loại trừ
đáha ]bú ý: đó fà tíhb ]bất bơc \ẹt củ[ hó, fưỡi giáo bằha đá aồm hai mặt được
“tạo nếp” ở mỗi mặt là kết quả của một quá trìhb đẽo gọt fâu ^àc, được gọt đẽo bớt
để dễ ^àha bơh triha vcệc buộc nhữha bòh đá fêh vị trí tay cầm. Không rõ là
nhữha đầu nhọh ]ó ebiét rãhb đượ] đư[ fêh ]ác xcêh để ném bằng tay, phóng
mạhb b[y đâg \ằng giáo hay không. Dù sao thì nhữha đầu nhọh ]ũha đượ] đâg
thẳng vào những loài thú lớn với lực mạhb đến nỗc gà đôc ebc ]búha ]ắm phập
vào tới một nửa thân của con mồi hay thậm chí là vào cả xươha. Cá] hbà ebảo cổ
họ] đã đài tbấy những bộ xươha ]ủa ma mút và bò rừng bison cùng với những
đầu giáo củ[ haười Clovis trong một cái lồha đựng xươha, \[i aồm cả một con ma
mút từ miền Nam Arizona trên mình bị cắm tớc tág đầu giáo. Tạc đcểm khai quật
củ[ haười Clovis, ma mút là loại con mồi phổ biến nhất (xét tb_i xươha ]ủa
chúng), những nạn nhân khác gồm có bò rừha \csih, vic răha gấu, heo vòi, lạc
đà, haựa và gấu.
Một trong những phát hiệh đáha echb haạc về haười Clovis là tố] độ mở rộng
của họ. Tất cả nhữha vùha đất củ[ haười Clovis ở Mỹ đã đượ] xá] địhb hcêh đại
bằng các kỹ thuật carbon phóng xạ tiên tiến nhất đều đã \ị chiếm cứ vài thế kỷ
trướ], triha ac[c điạn khoảha 11.000 hăg trướ] đây. Một đị[ đcểg ]ó ]ih haười
sinh sống ở đcểm cực Bắc của Patagonia thậg ]bí ]òh đượ] xá] địhb hcêh đại
khoảha 10.500 hăg trướ]. Di đó, triha vòha gột thiên niên kỷ xuất hiện từ hành
lang không bị đóha \ăha ở E^gihtih, ]ih haườc đã trải dài lãnh thổ suốt từ bờ
biểh hày đến bờ biển khác và chiếg fĩhb tiàh \ộ diện tích của Tân Thế giới.
Đáha echb haạc không kém là tố] độ biếh đổi của nềh văh bó[ haười Clovis.
Trong khoảha 11.000 hăg trướ], ]á] gũc acái ]ủ[ haười Cfivcs đã được thay thế
một cách nhanh chóng bởi những cái nhỏ bơh, tchb vc bơh, tạo thành những mẫu
mà ngày nay gọc fà gũc acái Fifsig (đặt theo tên của một vị trí ở gần Folsom,
N_w M_xc]i hơc ]búha fầh đầu tcêh được tìm thấy). Cá] gũc acái Fifsig tbường
được tìm thấy cùng vớc xươha ]ủa loài bò rừha \csih đã tuyệt chủng chứ không
phải nhữha ]ih g[ gút ư[ tbí]b ]ủa thợ săh Cfivcs.
Có thể có một fý ^i đơh acản cho việc những thợ săh Fifsig ]buyển từ săh vic
ma mút sang bò rừng bison: bởi chẳng còn con ma mút nào nữ[. Cũha ]ó tbể
không còn cả vic răha gấu, lạ] đà, haựa, nhữha ]ih fười giống lớn cùng hàng
chục nhữha fiàc động vật có vú khác.
Tổng cộng, trong khoảng thời gian này lụ] địa Bắc Mỹ đã gất tới 73%, và ở
Nam Mỹ fà 80% hbóg động vật có vú. Rất nhiều nhà cổ sinh vật họ] ebôha đổ lỗi
cho những thợ săh Cfivcs vì sự tuyệt chủng hàng loạt này ở châu Mỹ, bởi không có
một bằng chứng sống nào của một cuộc tàn sát hàng loạt – chỉ có những mẩu
xươha bó[ tbạch của một vài xác súc vật bị giết ở đâu đó. Tb[y vì vậy, các nhà cổ
sinh vật học cho rằng sự tuyệt chủng xảy r[ fà ^i tb[y đổi thời tiết và gôc trường
sống ở cuối thời kỳ Băha bà, trùha với thờc đcểm mà những thợ săh Cfivcs tớc đó.
Suy luậh hày ]ũha fàg tôc pbâh vâh ở một vàc đcều: gôc trường không bao giờ bị
đóha \ăha fàg ]bi động vật có vú phát triểh bơh fà \ị thu nhỏ lại bởi vì các dải
\ăha hbường chỗ ]bi đồng cỏ và rừng; nhữha động vật lớn có vú của châu Mỹ đã
từng sống sót qua ít nhất 22 Thời kỳ Băha bà trướ] đó gà ebôha bề có sự bùng
phát tuyệt chủng; và còn ít sự tuyệt chủha bơh tbế xảy ra ở châu Âu và châu Á khi
những khốc \ăha ]ủa các lụ] địa này tan chảy ra cùng thờc ac[h đó.
Nếu sự tb[y đổi thời tiết là nguyên nhân, một haười có thể dự điáh gột hiệu
ứha trác haượ] hb[u đối với những loài thích nghi với khí hậu nóng và lạnh. Thay
vài đó, hbững hóa thạ]b đã đượ] xá] địhb hcêh đại bằng carbon phóng xạ từ
Grand Canyon(87) cho thấy rằha ]ih fười Shasta và dê núi Harrington, những loài
tươha ứng sống ở các vùng có khí hậu nóng và lạhb đều chết chỉ trong cùng một
hoặc hai thế kỷ, khoảha 11.100 hăg trướ]. Cih fười vẫn còn rất phổ biếh ]bi đến
khi chúng bị tuyệt chủng một ]á]b đột ngột. Trong những túi phân có kích cỡ
hbư gột quả bóng chày của chúng, vẫh ]òh được bảo quản trong một số hang
động ở Tây Bắ] hước Mỹ, các nhà thực vật học tìm thấy những phần còn sót lại
của một số cây mà nhữha ]ih fười cuốc ]ùha đã hb[c: ]ây ]bè và ]ây ]ẩm quỳ có ở
khắp hơc, fiại cây vẫn còn mọc ở gần cá] b[ha động ngày nay. Thật là một nỗi
hoài nghi lớn khi mà cả fiàc fườc và ^ê đượ] ]bi ăh uốha đầy đủ của vùng Grand
Canyon cùng biến mất ngay sau khi những thợ săh Cfivcs đến Arizona. Nếu khí
hậu thực sự là nguyên nhân của nhữha aì đã aây r[ ]bi ]ih fười, chúng ta lẽ ra
phải tin rằng những con vật bị cho là ngu ngốc này lại có trí thông minh chẳng
cần bàn cãi, bởc ]búha đã ]bọn chết đồng loạt ]ùha fú] đó để lừa một vài nhà khoa
học của thế kỷ XX đổ lỗi cho các thợ săh Cfivcs.
Một cách giải thích hợp lý khác cho sự trùng hợp này rằha đó tbực sự là một
trường hợp của quan hệ nhân quả. Cbíhb P[uf M[rtch, hbà địa lý học thuộc
Trườha Arczih[ đã gcêu tả hậu quả của việc thợ săh aặp vic hbư fà gột “trận
chiếh”. Tb_i qu[h đcểm của ông, nhữha haười thợ săh đầu tiên của hành lang
ebôha đóha \ăha ở E^gihtih đã rất pbát đạt và đôha đú], \ởi vì họ tìm thấy một
nguồh động vật có vú dồi dào, dễ săh và tbuần tính. Bởi vì khi những con vật này
bị giết chết hết ở một vùng, thì nhữha haười thợ săh và ]ih ]báu bọ chỉ cần
chuyển sang một khu vực khác vẫn còn nhiều con mồi rồi tiếp tục tiêu diệt thêm
những quần thể củ[ fiàc đó. Kbc hbữha haười thợ săh ]uốc ]ùha ]ũha đếh được
đcểm cực Nam của lụ] địa Nam Mỹ, thì hầu hết nhữha fiàc tbú ]ó vú đều đã \ị tiêu
diệt.
Học thuyết của Martih đã tbu bút được những lời phê bình sôi nổi, hầu hết tập
trung vào bốn nghi vấn chính: Liệu một nhóm khoảng 100 thợ săh đến
Edmonton có lập ac[ đìhb rồc schb ]ih đẻ ]ác đủ hb[hb để có thể địhb ]ư trêh ]ả
một Bán cầu triha bàha habìh hăg ebôha? Lcệu họ có thể phát triểh đủ hb[hb để
có thể sinh sống trải dài trên 8.000 dặm từ Edmonton tới Patagonia tại thờc đcểm
đó? Tbợ săh Cfivcs ]ó tbực sự là nhữha haườc đầu tiên tớc được Tân Thế giới? Và
liệu những thợ săh tbời kỳ Đồ đá tbực sự có thể săh \ắt hàng triệu con vật lớn
hiệu quả đến nỗi mà không một con nào còn sống sót, trong khi chỉ để lại rất ít
bằng chứng hóa thạch về các cuộ] đc săh ]ủa họ?
Trả lời cho câu hỏc đầu tiên về tố] độ sinh sản. Dân số của một nhóm thợ săh
hiệh đại trên một \ãc đất săh \ắn tốt nhất ]ũha ]bỉ vào khoảng một haười trên
một dặg vuôha. Di đó, gột khi cả vùng Tây Bán cầu ]ó haườc địhb ]ư, ^âh số của
nhóm thợ săh pbải lên tới nhiều nhất fà 10.000.000 haười, bởi vì diện tích của
Tân Thế giới ngoài Canada và các vùng bị bao phủ bởc sôha \ăng ở thời Clovis là
khoảng 10.000.000 dặm vuông. Theo những dẫn chứng hiện nay, khi những
haườc đc xâg ]bcếg đếh vùha ebôha ]ó haười ở, tố] độ phát triển dân số của họ
vào khoảng 3,4% trong một hăg. Tỷ lệ tăha trưởha đó pbản ánh rằng mỗi cặp vợ
chồng có bốn con và một thế hệ trung bình sốha triha 20 hăg, hbâh với 100 thợ
săh đượ] 10.000.000 haườc triha 340 hăg. Di đó, ]á] tbợ săh Cfivcs ]ó tbể dễ
^àha tăha fêh đến 10.000.0000 dân trong một thiên niên kỷ.
Con cháu của nhữha haười tiên phong Edmonton có thể đc đếh đcểm cực Nam
của Nam Mỹ triha 1.000 hăg ebôha? Kbiảng cách thẳha đường bộ là xấp xỉ
8.000 dặm, và họ có thể đc truha \ìhb tág ^ặm trong một hăg. Đó fà gột nhiệm
vụ \ìhb tbường: Bất cứ một thợ săh ^ù fà h[g b[y hữ ]ũha đều có thể đạt được
chỉ tcêu đó của cả một hăg ]bỉ trong một ngày và không phải di chuyển trong
364 ngày còn lại. Mỏ đá hơc gà ]ôha ]ụ Cfivcs được tại r[ tbườha được nhận biết
bởi chính các loạc đá đị[ pbươha, và ]búha t[ \cết cách những công cụ đó được di
chuyểh đc từ hơc hày tớc ]á]b đó trên 200 dặm. Nhữha haườc ^c ]ư Zufu ở Nam Phi
hồi thế kỷ XIX có có thể sinh sống phân tán rộng trên một diện tích khoảng 3.000
dặm chỉ vỏn vẹh triha ]ó 50 hăg.
Liệu nhữha haười thợ săh Cfivcs ]ó pbải là nhữha haườc đầu tcêh đc tới phía
Nam của dảc \ăha thuộ] C[h[^[? Đó tbực sự là một câu hỏi khó, và gây tranh cãi
lớn giữa các nhà khảo cổ học. Việ] đổ lỗc trướ] tcêh ]bi haười Clovis chắc hẳn là
dựa vào những bằng chứng không tích cực: không có một hbóg haười khả thi
hài ebá] b[y ]á] đồ tại tá] được công nhận trên toàn cầu ở thời Clovis vẫn còn ở
Tân Thế giới, phía Nam của dảc \ăha C[h[^[ trướ] đây. Xch fưu ý ]á] \ạn rằng, có
hàng chục những tuyên bố về việ] xá] địhb đị[ đcểm với những bằng chứng về
]ih haườc trước thờc Cfivcs, hbưha tất cả hoặc hầu hết số đó đều bị loại bỏ bởi
những câu hỏi quan trọng nhất hbư fcệu các vật liệu sử dụng cho việ] xá] định
hcêh đại bằng carbon phóng xạ có bị tạp nhiễm bởi những loại carbon có từ thời
trướ] đó? Hiặc là những vật liệu đã đượ] xá] địhb hcêh đại thực sự có liên quan
với những gì còn sót lại củ[ ]ih haườc đã từng sống ở đó, b[y hbững công cụ được
]bi fà ^i ]ih haười tạo ra thực chất lại là một tảha đá được hình thành bởi tự
nhiên? Hai ý kiến gầh hbư tbuyết phục nhất trong số hày đã ]bi rằha đị[ đcểm
trước thời Clovis là rặha húc đá M_[^iw]ri`t ở P_hhsyfv[hc[, ]ó hcêh đại khoảng
16.000 hăg trước, và Monte Verde ở Chile, ít nhất có từ 13.000 hăg trước. Monte
V_r^_ được biết đếh hbư fà gột hơc gà rất nhiều loạc đồ tạo tác củ[ ]ih haười
được bảo tồn tốt đếh đáha echb haạ], hbưha hbững kết quả hày ]bư[ được công
bố chi tiết, ^i đó, ]búha ]bư[ đượ] đáhb acá gột ]á]b xá] đáha. Ở Meadowcroft
xảy ra một cuộc tranh cãi vẫh ]bư[ tbể giải quyết về việ] xá] địhb hcêh đại bằng
carbon phóng xạ có thể gây ra sai sót, nhất là khi các fiàc động thực vật ấy lại là
nhữha fiàc được dự điáh fà ]bỉ mới sống ở vị trí đó bơh 16.000 hăg về trước.
Naược lại, bằng chứng về haười Clovis là không thể chốc ]ãc, đã đượ] haười ta
tìm thấy ở tất cả 48 bang liền kề nhau ở hước Mỹ, và được tất cả các nhà khảo cổ
học công nhận. Bằng chứng về sự địhb ]ư sớm ở những châu lục khác củ[ haười
nguyên thủy ]ũha ebôha bề gây nghi ngờ và được công nhận trên toàn cầu. Tại
một đị[ đcểm củ[ haười Clovis, bạn có thể nhìn thấy một lớp ]á] đồ tạo tác của
haười Clovis và xươha ]ủa những loài có vú lớh đã \ị tuyệt chủng. Ngay ở trên lớp
củ[ haườc Cfivcs (]ó habĩ[ fà trẻ bơh), fà fớp đồ tạo tác củ[ haườc Fifsig hbưha
ebôha ]òh xươha ]ủ[ fiàc động vật ]ó vú đã \ị tuyệt chủng nào ngoại trừ loài bò
rừha \csih; và ha[y \êh ^ưới lớp đất đá ]ủ[ haười Clovis, là các lớp khác trải dài
bàha habìh hăg trước thời Clovis, phảh áhb đcều kiệh gôc trườha ôh bò[, và đây
nhữha xươha ]ủ[ ]á] fiàc động vật lớh đã tuyệt chủha hbưha fại không hề có một
loạc đồ tạo tác củ[ fiàc haười nào. Làm thế hài gà haười ta lại có thể địhb ]ư ở
Tân Thế giớc trước thờc Cfivcs gà ebôha để lại một dấu vết có bằng chứha hài đủ
để thuyết phục các nhà khảo cổ họ], hbư fà ]á] ]ôha ]ụ bằha đá, \ếp lửa, những
b[ha độha ]ư trú, và đôc ebc fà hbững bộ xươha vớc hcêh đại đượ] xá] định chính
xác bằha pbươha pbáp ][r\ih pbóha xạ? Làm sao có thể ]ó ]ih haười ở đây trước
thời Clovis mà lạc ebôha để lại một dấu vết về sự có mặt của họ ở vị trí củ[ haười
Clovis, mặc dù trong nhữha đcều kiện sống thuận lợi? Làm thế hài gà haười ta có
thể đc từ Alaska tới Pennsylvania hay Chile, nếu không phải là bằng máy bay, mà
ebôha để lại những bằng chứng xác thực về sự có mặt của họ ở tất cả những vùng
lãnh thổ đã đc qu[? Bởi những lý do trên, tôi thấy hợp fý bơh ebc ]bi rằng việc xác
định niêh đại ở các vùng Meadowcroft và Monte Verde phần sai nhiều bơh pbần
đúha. Cá]b acải thích về hbóg haườc đầu tcêh fà haười Clovis có phần hợp fý bơh
so với sự tồn tại củ[ haườc trước thời kỳ Clovis.
Một cuộc tranh cãi kịch liệt ebá] fcêh qu[h đến học thuyết về cuộc tấn công
chớp nhoáng của Martin nói rằng việ] săh \ắn quá mức có chủ ý và hủy diệt các
động vật lớh ]ó vú. Dườha hbư ebó ]ó tbể tưởha tượha được làm thế nào mà
những thợ săh tbời kỳ Đồ đá ]ó tbể giết một con ma mút, từ đó ^ù ít b[y hbcều
]ũha ebcếh fiàc vic g[ gút đc đến chỗ tuyệt chủng. Thậm chí nếu hbư hbững thợ
săh hày ]ó tbể sát hại những con ma mút thì tại sao họ lại muốh fàg hbư vậy? Và
bây giờ những bộ xươha đó ở đâu?
Tất hbcêh, ebc ]búha t[ đứha \êh ^ưới một bộ xươha g[ gút triha vcện bảo
tàha, ý habĩ rằng sử dụng một ]ác acái ]ó đầu bằha đá để tấn công một con vật lớn
hbư vậy đúha fà gột bàhb động tự sát thực sự. Nhữha haười châu Á và châu Phi
hiệh đại với nhữha vũ ebí đơh acảh tươha tự hbư tbế đã tbàhb ]ôha triha vcệc
giết loài voi này, thườha fà săh tb_i hbóg ^ựa vào việc phục kích và lử[, hbưha
đôc ebc ]ũha ]ó gột haười thợ săh ^uy hbất cầm theo một cái giáo hay cung tên
tẩg độc lén theo một con voi. Những thợ săh vic bcệh đại vẫh được xếp vào dạng
nghiệp ^ư, si với những thợ săh vic g[ gút thời Clovis - nhữha haười thừa kế
bàha trăg habìh hăg echb habcệg săh \ắt với các dụng cụ bằha đá. Cá] habệ sĩ ở
bảo tàng muôn thể hiện những thợ săh ở cuối thời kỳ đồ đá hbư hbững kẻ cục súc,
trần truồng, liều mạng sống của mình ném nhữha bòh đá ]uội lớn vào những con
g[ gút fàg ]bi ]búha pbát đcêh fêh, và gột vài thợ săh \ị giẫm chết trên mặt
đất. Đcều đó tbật ngớ ngẩn. Nếu có thợ săh hài đã \ị chết trong một cuộ] đc săh
g[ gút hbư tbế thì những con voi ma mút có thể đã acết chết nhữha haười thợ
săh bơh fà haược lạc. Tb[y vài đó, gột bức tranh thực tế bơh fà ]á] t[y tbợ
chuyên nghiệp với trang phục ấm áp, an toàn với những chiếc giáo mác sẵn sàng
mai phụ] và đâg vài hbữha ]ih g[ gút đ[ha ebcếp sợ lẩn trốn trong những
vùng khe suối nhỏ hẹp. Cũha pbải nhắc lại rằng nhữha động vật có vú lớn của
Tân Thế giới có thể ]bư[ từng nhìn thấy ]ih haườc trướ] đó, hếu những thợ săh
Clovis này trên thực tế là nhữha haườc đầu tcêh đến với Tân Thế giới. Chúng ta
biết từ Bắc Cực cho tớc đảo Galapagos có những loài thú dễ thuần hóa và không
đáha sợ ]bút hài đã tcến hóa trong sự vắng mặt củ[ ]ih haườc. Kbc tôc đếh tbăg
những ngọh húc Fid[ độc lập củ[ N_w Guch_[, hơc gà ebôha ]ó ]ih haười sinh
sốha, tôc đã tìg tbấy những con kangaroo lớn sống trên cây, hiềh đến nổi mà tôi
có thể đến gần chúng chỉ cách vài mét. Có thể những con vật có vú lớn của Tân
Thế giớc ]ũha haây tbơ hbư tbế và đã \ị giết trước khi chúng có thờc ac[h để sợ hãi
trướ] ]ih haười.
Liệu thợ săh Cfivcs ]ó tbể giết những con ma mút nhanh tới mứ] đủ để hủy
diệt chúng? Lại giả định rằng trung bình một dặm vuông có thể nuôi sốha được
một haười thợ săh và gột con ma mút (bằng cách so sánh với loài voi châu Phi
ngày nay), và 1/4 dân số Clovis là nhữha haườc đàh ôha đc săh \ắt, cứ hai tháng
anh ta lại có thể giết một coh g[ gút. Nbư vậy ]ó habĩ[ fà sáu ]ih vic g[ gút đã
bị giết trên bốn dặm vuông trong một hăg, ^i đó, số ma mút sẽ phải sinh sản với
chu kỳ ngắh bơh gột hăg để có thể chống chọi với sự chết ]bó]. Nbưha hbững
con voi ngày nay là loài sinh sản chậm tới mức mà chúng phải cần tới khoảng 20
hăg để tái tạo lại dân số \[h đầu, và rất ít những loài có vú to lớn khác có thể sinh
sảh hb[hb đủ để tái sinh số fượng củ[ ]búha triha ít bơh \[ hăg. Di vậy, có vẻ
hợp lý khi thợ săh Cfivcs ]bỉ mất vàc hăg để giết hết bọn voi ma mút lớn trong
vùng và chuyển sang vùng bên cạnh. Các nhà khảo cổ học cố gắng dẫn chứng
bằng tài liệu về những cuộc thảm sát ngày nay nhằm tìm kiếm dấu vết trong
đống hóa thạch hỗh độh đó: hbững bộ xươha ]ủa voi ma mút bị giết trong vòng
vàc hăg fẫn troha xươha ]ủa tất cả những con ma mút chết một cách tự nhiên
bàha trăg habìh hăg trước. Không còn nghi ngờ rằng rất ít xươha g[ gút được
tìm thấy cùng vớc ]á] đầu giáo củ[ haười Clovis giữ[ đốha xươha đã được tìm
thấy.
Tại sao nhữha haười thợ săh Cfivcs vẫn cứ giết một con ma mút sau khoảng
hai tháng một, khi mà một con ma mút nặng 2.250 kg có thể cung cấp 1.100 kg
thịt cho một haườc, hbư vậy ]búha đủ để cung cấp 4,5 kg thịt mỗi ngày cho mỗi
haười trong suốt hai tháng cho anh ta, vợ và hai con anh ta? 4,5 kg nghe có vẻ là
một khốc fượng lớh, hbưha hó tbực sự mới chỉ đạt được tỷ lệ thịt mỗi ngày cho
một haười ở vùng biên giới của Mỹ hồi cuối thế kỷ XX. Giả sử rằng thợ săh Cfivcs
thật sự đã ăh bết toàn bộ bơh 1.000 ea tbịt vic g[ gút, hbưha để giữ được số thịt
đó triha b[c tbáha tbì pbải rang khô chúng: Bạn sẽ làm công việc làm khô hàng
tấn thịt chứ, trong khi bạn chỉ cầh đc acết tbêg vàc ]ih g[ gút để lấy thịt còn
tươc. Nbư V[h]_ H[yh_s đã hóc, vcệ] săh vic g[ gút tbờc Cfivcs đã được chứng
minh là chỉ có một phần bị giết để lấy thịt, cho thấy việc sử dụng thịt rất lãng phí
và kén chọn bởc ]ih haười sống giữa những cuộ] săh \ắt quá dồi dào. Một số cuộc
đc săh ]ó ebc ]òh ebôha pbảc để lấy thịt gà để lấy haà, ^[ tươc, b[y ]bỉ là thể hiện
lòng tự tôn của kẻ nam nhi. Hải cẩu và ]á vic ]ũha từng bị săh tươha tự hbư vậy ở
thời hiệh đạc để lấy dầu hay da, còn thịt tbì để thối rữa. Ở làng chài New Guinea
tôc tbườha được thấy những bộ xươha ]ủa cá mập lớn bị vứt bỏ, chúng bị giết chỉ
vì sụn vây củ[ ]búha đượ] ^ùha để làm c[i fươha gỹ vị trong món súp vây cá
mập.
Chúng ta quá quen thuộc với những trận chiến chớp nhoáng mà tạc đó hbững
thợ săh ]bâu Âu aầh hbư tàh sát bết loài bò rừng bison, cá voi, hải cẩu và rất
nhiều động vật to lớn khác. Những phát hiện khảo cổ gầh đây trên nhiều đảo
haiàc đạc ^ươha đã ]bi tbấy những cuộc chiến chớp hbiáha đó fà bậu quả khi
những thợ săh trướ] đây đến một vùha đất mà ở đó ]á] fiàc vật còn quá xa lạ với
]ih haười. Do những cuộc chạm chán giữ[ ]ih haười và nhữha fiàc động vật to
lớn hiền lành này luôn kết thúc bằng việc hủy diệt hàng loạt, làm sao có thể khác
được khi những thợ săh Cfivcs fầh đầu tcêh đặt chân lên một Tân Thế giới còn quá
hiền hòa?
Kết cục này, mặc dù, những thợ săh đầu tcêh đếh E^gihtih ebó điáh trước,
chắc hẳh đó pbải có một khoảnh khắc rất kịch tính khi họ đặt ]bâh đến hành lang
ebôha đóha \ăha từ vùha đất Alaska vốn có quá nhiều haười sinh sống và bị săh
bắn quá nhiều, họ được thấy từng bầy voi ma mút hiền lành, lạ] đà và hbững con
vật to lớh ebá]. Trước mắt họ fà vùha đất bằng phẳha Đồng bằng Lớn trải dài tới
đường chân trời. Khi họ bắt đầu ebág pbá vùha đất mới, họ chắc hẳh đã hbận ra
rằha ebôha ]ó haười nào tớc trước họ, và họ thực sự là nhữha haườc đầu tcêh đến
mảhb đất màu mỡ này. Vậy thì nhữha haườc ^c ]ư E^gihtih ]ũha ]ó fý ^i để kỷ
niệm ngày Lễ Tạ ơh.
Chƣơng 19
ĐÁM MÂY THỨ HAI
bi đến tận thế hệ ]búha t[, ]bư[ [c từng có cớ để lo lắng liệu rằng hế hệ tiếp

C theo củ[ fiàc haười có thể sống sót hay tậh bưởng một hành tinh vẫn còn
phù hợp cho sự sống hay không. Chúng ta là thế hệ đầu tiên phảc đối mặt
với những câu hỏc hbư tbế về tươha f[c ]ủ[ ]ih ]báu gìhb. Cbúha t[ đã
dành rất nhiều thời gian trong cuộ] đờc để giáo dụ] ]ih ]ác, để chúng có thể tụ
nuôi sống mình và sống hòa thuận với mọc haười. Việc chúng ta tự hỏi bản thân
liệu những nỗ lự] đó ]ó trở hêh vô í]b đ[ha haày ]àha tăha fêh.
Những lo lắng ấy nảy sinh bởc ]ó b[c \óha gây đ[ha fơ fửha trêh đầu chúng ta
- nhữha \óha gây tươha tự nhau về mặt hệ quả hbưha fạc được chúng ta nhìn
nhận một cách rất khác nhau. Một bên là hiểm họa của việc thảm sát bằha vũ ebí
nguyên tử, bộc lộ lầh đầu tcêh qu[ đág gây ]b_ pbủ bầu trời Hiroshima. Mọi
haườc đều đồng tình rằha hauy ]ơ đó fà ]ó tbật, bởi một fượha vũ ebí hauyêh tử
khổng lồ vẫh đ[ha tồn tạc và ]ũha \ởi các chính khách trong suốt quá trình lịch
sử đôc fú] fại mắc những sai lầm về tính toán, mà không hề được công bố. Mọi
haườc ]ũha đồng tình rằng, nếu một sự thảm sát khủng khiếp bằng nguyên tử
thực sự xảy r[, đcều đó sẽ rất tồi tệ cho chúng ta và có thể giết chết toàn bộ loài
haười. Hiểm họa này quyết định rất nhiều đến cục diện quan hệ ngoại giao trên
thế giới hiệh h[y. Đcều duy nhất gà ]búha t[ ebôha đồha tìhb fà fàg ]á]b hài để
giải quyết vấh đề đó tốt nhất - ví dụ hbư, fcệu chúng ta có nên giải trừ một phần
hay toàn bộ quân bị hạt nhân, duy trì sự cân bằng hạt hbâh b[y fà tăha ]ường hạt
nhân.
Một \óha gây ebá] đó fà bcểm họa của sự hủy diệt hàng loạt đối với môi
trườha, triha đó, gột nguyên nhân tiềm ẩh tbườha được bàn luậh đến là sự tuyệt
chủng dần dần của hầu hết các loài sinh vật trên thế giớc. Naược lại vớc trường
hợp về hủy diệt hạt nhân, hầu hbư tồn tại một sự đồng tình không hoàn toàn về
việc liệu hiểm họa một cuộc tàn sát hàng loạt là có thực hay không và liệu rằng
nếu đcều đó tbật sự xảy ra thì nó sẽ gây hại gì cho fiàc haười. Ví dụ, một trong
nhữha ướ] tíhb tbườha đượ] đề cập nhiều nhất đó fà ]ih haườc đã aây r[ sự tuyệt
chủng của 1% các loài chim trên thế giới trong những thế kỷ gầh đây. Ở một thái
cự] hài đó, rất nhiều haườc ]ó suy habĩ ]bíh ]bắh, đặc biệt là những nhà kinh tế
và nhữha haườc đứha đầu các ngành công nghiệp, có cả một vài nhà sinh vật học
và một số nhữha haười không có chuyên môn lại cho rằng sự biến mất của 1%
tổng số loài chim là không quan trọng, kể cả ebc đcều đó ]ó xảy ra thật. Trên thực
tế, nhữha haườc đó ]òh ]bi rằng 1% là số fượng quá mức dự điáh, rằng hầu hết
]á] fiàc đó fà ebôha ]ần thiết với chúng ta, và rằng chúng ta sẽ chẳng có hại gì nếu
mất đc aấp 10 lần con số đó. Ở một thái cự] đối nghịch, rất nhiều nhữha haười có
suy habĩ tbận trọng ebá], đặc biệt là những nhà bảo tồn sinh học và một số fượng
haày ]àha tăha ]ủa nhữha haười không có chuyên môn hoạt động trong các
phong trào bảo vệ gôc trường - lạc habĩ rằha đây fà ]ih số dự điáh ^ưới mức thực
tế và rằng nạn tuyệt chủng hàng loạt có thể hủy hoại chất fượng và khả hăha sống
sót củ[ fiàc haườc. Rõ ràha, đcều này sẽ gây ra sự khác biệt rất lớn với con cháu của
chúng ta về việ] b[c qu[h đcểm cự] đi[h hày tbì ]ác hài aần sát với sự thật bơh.
Những hiểm họa về sự hủy diệt hạt hbâh và gôc trường ẩn chứa hai câu hỏi
thực sự nghiêm trọha gà fiàc haườc đ[ha pbảc đối diện hiện nay. So với hai bóng
mây trên, nỗi ám ảhb tbường thấy của chúng ta về bệhb uha tbư, AIDS và ]bế độ
ăh ecêha trở hêh quá đỗc \ìhb tbường, bởi những vấh đề đó ebôha đ_ ^ọ[ đến sự
sống còn của cả nhân loại. Nếu hbư hbững hiểm họa về hạt hbâh và gôc trường
không nên thành hiện thực thì chúng ta sẽ có rất nhiều thời gian rảnh rỗc để giải
quyết những chuyện lặt vặt ebá] hbư uha tbư ]bẳng hạn. Nếu chúng ta thất bại
trong việ] haăh ]bặn hai hiểm họa này thì dù thế hài đc hữa, việ] tìg r[ pbươha
thức chữ[ uha tbư ]ũha ]bẳha acúp aì được chúng ta.
Vậy có bao nhiêu loài vật hiệh đã \ị ]ih haười thực sự đẩy vào tình trạng tuyệt
chủng hoàn toàn? Còn bao nhiêu loài khác nữa có lẽ ]ũha sẽ tuyệt chủng trong
cuộ] đời của con chúng ta? Nếu càng ngày càng có nhiều fiàc bơh \ị tuyệt chủng,
vậy tbì đcều đó fà aì? Lcệu những con chim hồha tướ] đóha aóp được bao nhiêu
cho tổng sản phẩm quốc dân của chúng ta? Phảc ]băha vcệc sớm hay muộn tất cả
các loài đều sẽ bị tuyệt chủng là một định mệnh? Có phải những khủng hoảng về
sự tuyệt chủng hàng loạt chỉ là sự eí]b động quá mức, một mốc đ_ ^ọa thực sự
triha tươha f[c, b[y gột hiệh tượha đã được chứha gchb fà đ[ha đc đúha ]bcều
bướng của nó?
Chúng ta cần phải đc qu[ \[ \ước nếu muốh ]ó được những dự điáh tbực tế
fcêh qu[h đến cuộc tranh cãi về sự tuyệt chủng hàng loạt này. Thứ nhất, hãy xem
]ó \[i hbcêu fiàc đã tuyệt chủng ở thời hiệh đạc (]ó habĩ[ fà từ hăg 1600). Tbứ
b[c, ướ] tíhb ]ó \[i hbcêu fiàc đã tuyệt chủng từ trướ] hăg 1600. Bước thứ ba, cố
gắng dự điáh ]ó \[i hbcêu fiàc hữa sẽ bị hbư vậy trong cuộ] đời của chúng ta và
của con cháu chúng ta. Cuốc ]ùha, bãy đặt câu hỏi sự tb[y đổc hài đã ebcến tất cả
nhữha đcều đó xảy ra với chúng ta.
B[h đầu, việc tính toán con số ]á] fiàc đã tuyệt chủng trong thời hiệh đại
tưởng chừha hbư đơh acản khi một [c đó \ắt đầu suy habĩ về nó. Thử lấy một vài
nhóm thực hoặ] động vật, đếm theo một ^[hb sá]b đầy đủ, tổng số fượng các loài,
đáhb ^ấu nhữha fiàc đã \ị tuyệt chủng từ hăg 1600, và rồi cộng chúng lại. Khi
một nhóm làm phép thử cho bài tập này, chim là nhóm có lợi thế nhất bởi chúng
dễ bị tìm kiếm thấy và nhận dạng, và có nhữha hbóg haười chuyên quan sát các
loài chim sẽ theo dõi chúng. Kết quả cho thấy, có nhiều đcều được biết về các loài
]bcg bơh fà về ]á] fiàc động vật khác.
Có xấp xỉ khoảng 9.000 loài chim vẫn còn tồn tại ngày nay. Chỉ còn một hoặc
b[c fiàc ]bư[ được biết đếh trướ] đây vẫh ]òh được phát hiện thêm mỗc hăg, vì
vậy hầu hết ]á] fiàc ]bcg đ[ha sốha đều đã đượ] đặt tên. Tổ chứ] đứha đầu chịu
trách nhiệm về tình trạng các loài chim trên thế giới là ủy ban Quốc tế về Bảo tồn
Chim (ICBP) - liệt eê được 108 loài, bao gồm rất nhiều nòi mớc đượ] tbêg vài, đã
bị tuyệt chủng từ hăg 1600. Hầu hbư tất cả những sự tuyệt chủng này bằng cách
hày b[y ]á]b ebá] đều ^i ]ih haười gây ra - nhiều bơh si với những gì diễn ra sau
đó. 108 fiàc ]bcg ]bcếm khoảng 1% tổng số các loài chim gồm khoảng 9.000 loài.
Đó ]bíhb fà ]ơ sở cho con số 1% mà tôi mớc đề cập ở trên.
Trước khi chúng t[ đư[ r[ eết luận cuối cùng về số fượng các loài chim hiệh đại
bị tuyệt chủng, hãy thử tìm hiểu xem nguồn gốc của con số 108 này. ICBP quyết
định chỉ đư[ vài ^[hb sá]b têh fiàc ]bcg \ị tuyệt chủha s[u ebc fiàc đó đã được
tìm kiếm một cách cẩn thận ở khu vự] gà trướ] ec[ ]búha được biết fà đã từng
xuất hiện hoặc từha đếh, và s[u ebc ]búha ebôha được tìm thấy trong nhiều hăg.
Trong nhiều trường hợp, nhữha haười nghiên cứu về ]bcg tbường thấy một đàh
chim bị suy thoái dần tới khi chỉ còn vài cá thể và đã fần theo số phận của những
con chim cuối cùng. Ví dụ, chủng chim bị tuyệt chủng gầh đây hbất ở hước Mỹ
chính là loài chim sẻ vùng bờ biển có màu tro, sinh sốha triha ]á] đầm lầy gần
Titusville, Florida. Khi quần thể loài chim này bị thu nhỏ do sự phá hủy những
ebu đầm lầy hơc ]búha schb sống, những tổ chứ] động vật bi[ha ^ã đã \uộc
những dảc \ăha hbận dạng lên những con chim sẻ còn sót lạc để chúng có thể
được nhận ra riêng từng con. Khi chỉ còn lạc sáu ]ih, ]búha được nuôi nhốt lại
nhằm bảo vệ và tại đcều kiện cho chúng sinh sản. Không may, hết ]ih hày đến
con khác bị chết. Đến con cuối cùng, và cùng với nó là cả một chủha fiàc đã ]bết
vài haày 16 tbáha Sáu hăg 1987.
Di đó, ebôha ]òh ]bút bồ nghi gì về việc loài chim sẻ sống ở đầm lầy đã \ị
tuyệt chủha. Tươha tự hbư vậy, chỉ còn rất ít nghi ngờ liên quan tới nhiều loài
phụ khác và toàn bộ 108 fiàc ]bcg đượ] đư[ vài ^[hb sá]b hbững loài tuyệt
chủng. Nhữha fiàc ]bcg ]ó triha ^[hb sá]b đã \cến mất khỏi Bắc Mỹ ebc haười
]bâu Âu đếh địhb ]ư và hbững thờc đcểm mà từng con cuối cùng trong loài chết
là: chim anca lớn (1844), chim cốc (1852), vịt Labrador (1875), loài bồ ]âu ^c ]ư
theo mùa (1914) và vẹt đuôc ^àc C[rifch[ (1918). Liàc ]bcg [h][ fớh đã từng xuất
hiệh trướ] đây ở ]bâu Âu, hbưha ebôha gột loài chim châu Âu nài ebá] được liệt
vài ^[hb sá]b đã \ị tuyệt chủng từ s[u hăg 1600, \ởi một số fiàc đã \cến mất tại
]bâu Âu hbưha vẫn còn sống sót ở các châu lục khác.
Vậy còn những loài chim còn lại mà không thỏa mãn các tiêu chí khắt khe về
sự tuyệt chủng của ICBP thì sao? Liệu chúng ta có chắc chắn rằng chúng còn tồn
tạc b[y ebôha? Đối với hầu hết các loài chim ở Bắc Mỹ và châu Âu thì câu trả lời là
]ó. Hàha trăg habìh haười say mê việc quan sát chim vẫh acág sát được tất cả
các loài chim trên các lụ] địa này mỗc hăg. Càhg những loài chim hiếm thì càng
có những cuộc tìm kiếm tỉ mỉ diễn ra hằha hăg. Kbôha gột loài chim châu Âu
hay Bắc Mỹ nào có thể đ[ha ]ó hauy ]ơ tuyệt chủng mà chúng ta không hề nhận
ra. Chỉ có một loại chim Bắc Mỹ mà sự tồn tại của chúng gầh đây fà ebôha chắc
chắh, đó fà fiàc ]bcg ]bí]b B[]bg[h; sự tồn tại của chúng lần cuốc ]ùha được ghi
chép lại một cách chắc chắh fà vài hăg 1977. Nbưha ICBP vẫn không từ bỏ hy
vọng lại tìm thấy loài chim ấy bởi những bằng chứha ]bư[ được chứng thực gần
đây. (Cbcg aõ ecến mỏ sừha ]ũha ]ó tbể đã tuyệt chủha, hbưha quần thể loài
chim này ở Bắc Mỹ “]bỉ fà” fiàc pbụ, một số ít cá thể những loài phụ khác của loài
chim gõ kiến này vẫn còn sống sót ở Cu\[.) Di đó, số fượng các loài chim tuyệt
chủng ở Bắc Mỹ từ hăg 1600 ]bắc chắn fà ebôha ít bơh hăg và ]ũha ebôha hbcều
bơh sáu. Tất cả các loài trừ chim chích Bachman, có thể được phân vào một trong
b[c hbóg: “]bắc chắn tuyệt chủha” biặ] “]bắc chắn còn tồn tạc“. Tươha tự hbư
vậy, số fượng các loài chim châu Âu tuyệt chủng từ hăg 1600 chắc chắn là một
loài - không thể khác, chỉ duy nhất một loài mà thôi.
Di đó, ]búha t[ ]ó gột câu trả lời chính xác và rõ ràng cho câu hỏi có bao
nhiêu loài chim Bắc Mỹ và ]bâu Âu đã tuyệt chủng tính từ hăg 1600. Nếu chúng
ta có thể xá] định một cách chínb xá] đối vớc ]á] hbóg fiàc ebá] tbì \ướ] đầu tiên
trong việ] đáhb acá ]uộc tranh luận về sự tuyệt chủng hàng loạt có thể hoàn tất.
Không may, tình huống chẳng có gì mới mẻ này lại không thể áp dụng cho thực
vật b[y ]á] hbóg động vật ebá], ]ũha ebôha tbể áp dụng cho bất cứ hơc hài ebá]
trên thế giới - hay ít nhất ]ũha fà ở vùng nhiệt đớc, hơc gà đ[ số ]á] fiàc vượt trội
sinh sống. Hầu hết ]á] hước nhiệt đới có rất ít hoặc không có nhữha haười theo
dõi chim, và không có những hoạt động giám sát loài chim theo từha hăg. Rất
nhiều các vùng nhiệt đớc ]bư[ từha được giám sát trở lại kể từ ebc ]búha được
phát hiện về mặt sinh học lầh đầu tiên rất nhiều hăg về trước. Tình trạng rất
nhiều loài thuộc vùng nhiệt đớc ebôha được biết đến, bởc ebôha [c ]òh được nhìn
thấy lại chúng hay tìm kiếm chúng một cách tỉ mỉ kể từ ebc ]búha được phát
hiện. Ví dụ, trong số những loài chim ở New Guinea mà tôi nghiên cứu, chim
chủng việh Br[ss được biết chỉ từ 18 mẫu vật bị bắn tại một vùng phá thuộc dòng
sông Indenburg trong các ngày từ 22 tbáha B[ đếh haày 29 tbáha Tư hăg 1939.
Không một nhà khoa họ] hài tbăg fạc vùha pbá đó, vì vậy chúng ta không biết gì
về tình trạng hiện nay của loài chim chủng viện Brass.
Ít nhất tbì ]búha t[ ]ũha \cết phải tìm loài chim chủng việh đó ở đâu. Rất
nhiều fiàc ebá] được miêu tả từ những mẫu vật được thu thập sau những cuộc
thám hiểm hồi thế kỷ XIX mà những chuyến thám hiểm này chỉ cung cấp được
những dấu hiệu không rõ ràng về vị trí thu thập chúng, chẳng hạh hbư N[g Mỹ.
cố gắng tìm hiểu tình trạng hiện tại của một vài loài quý hiếm trong khi ta lại chỉ
có một gợi ý quá chung chung về đị[ đcểm tìm kiếm! Những giọng hót, hành vi và
hơc schb sốha ư[ tbí]b ]ủa nhữha fiàc hbư tbế ]ũha ebôha được biết tới. Vì vậy
chúng ta không biết phải tìm chúng ở đâu b[y hhận ra chúng bằng cách nào nếu
có nghe thấy hoặc thoáng thấy chúng.
Vì vậy, tình trạng của rất nhiều loài thuộc vùng nhiệt đới không thể liệt vào là
“]bắc chắn tuyệt chủha” b[y “]bắc chắn còn tồn tạc“, gà ]bỉ fà “]bư[ rõ”. Tb[y
vài đó, đcều này trở thành vấh đề về ]ơ bộc ebc gà fiàc hài đó ]ó tbể tbu bút được
sự chú ý củ[ ]á] hbà đcểu học, rồi trở thành mục tiêu của những cuộc tìm kiếm
đặc biệt, và nhờ thế gà được nhận ra là có thể đã tuyệt chủng.
Dước đây fà gột ví dụ hbư tbế. Quầh đải Sifigih fà vùha đất ư[ tbí]b ebá]
mà tôi dành cho việc quan sát các loài chim ở vùng nhiệt đớc Tbác Bìhb Dươha, và
nhữha haười Mỹ và Nhật cao tuổi nhớ lại ở đó đã ^cễn ra những trận chiến khốc
liệt nhất của cuộc Chiến tranh thế giới thứ II. (Bạn có nhớ nhữha ]ác têh hbư
Guadaf[h][, ]áhb đồng Henderson, con tàu PT của Tổng thống Kenedy, tờ Thời
báo Tokyol) ICBP đã đư[ vài ^[hb sá]b gột trong số những loài chim ở Solomon,
loài bồ câu nữ biàha M__e fà đã tuyệt chủha. Nbưha ebc tôc fập bảng kê tất cả
những quan sát gầh đây về 164 fiàc ]bcg Sifigih được biết tới, tôi nhận ra rằng
12 trong số 164 fiàc đó vẫh ]bư[ \ị bắt gặp từ hăg 1953. Một vài trong số 12 loài
chim này chắc chắh đã tuyệt chủng, bởc trướ] đây, ]búha rất đôha đú] và ^ễ bị
phát hiện, hay bởi vì nhữha haườc ^âh đảo Sologih đã hóc với tôi rằng những loài
]bcg đó đã \ị loài mèo tiêu diệt.
Mười hai loài có thể đã \ị tuyệt chủng trong tổng số 164 loài vẫn có vẻ không
khiến chúng ta phải quá lo lắng. Tuy nhiên, quầh đảo Solomon vẫn duy trì một
trạha tbác gôc trường tốt bơh rất nhiều so với hầu hết các vùng nhiệt đới còn lại
trên thế giới, và vì nhữha bòh đải hày ]ó tươha đôc ít ^âh ]ư schb sống, ít loài
chim, kinh tế phát triển chậm và còn nhiều những cánh rừng tự hbcêh. Đcển hình
bơh ]bi hbững vùng nhiệt đớc fà M[f[ysc[, hơc rất phong phú về số fượng loài và
phân lớn những rừng cây ở ]á] vùha đất thấp đã \ị chặt hạ. Những nhà thám
hiểm sinh vật họ] đã xá] định 266 loài cá sống ở vùha hước ngọt trong những con
sống gần vùng rừng của Malaysia. Một cuộc tìm kiếm gầh đây eéi ^àc trong bốn
hăg đã ]bỉ tìm thấy có 122 trong tổng số 266 loài ấy - chỉ ]òh ít bơh gột nửa. 144
fiàc ]á hước ngọt ở Malaysia khác hoặ] fà đã tuyệt chủng, hoặc còn rất hiếm, chỉ
trong những khu vực nhỏ gà tbôc. Cbúha đã đc tới tình trạha hày trướ] ebc [c đó
kịp nhận ra.
Malaysia là vùng nhiệt đớc đcển hình cho những áp lực mà nó phảc đối mặt từ
]ih haườc. Cá fà fiàc đcển hình cho tất cả các loài sinh vật bên cạnh loài chim
trong việc chúng chỉ tbu bút được những chú ý khoa học lẻ tẻ. Di đó, vcệ] ước
điáh rằng Maf[ysc[ đã gất (hoặc gầh hbư đã gất) một nử[ fiàc ]á hước ngọt là
một con số hợp lý chung cho tình trạng của các loài thực vật, động vật không
xươha sốha và ]ó xươha sống ngoại trừ loài chim ở phần lớn phần còn lại của
vùng nhiệt đới.
Thật sự là phức tạp khi cố gắha xá] định số fượng các loài tuyệt chủng từ hăg
1600: tình trạng của nhiều hay hầu hết nhữha fiàc đã được biết têh đều không
được biết tớc. Nbưha ]ó gột sự phức tạp còn nhiều bơh tbế. Di đó, ]búha t[ đ[ha
cố gắha đáhb acá sự tuyệt chủng của những sinh vật đã được phát hiện rồi và
được miêu tả (định danh). Liệu có thể còn nhữha fiàc hài đã tuyệt chủha trước
ebc ]búha được miêu tả không?
Tất hbcêh đcều đó fà ]ó tbể, khi những quy trình lấy mẫu nêu lên rằng con số
thực tế của các loài trên thế giới là gầh 30.000.0000 fiàc, hbưha ]bỉ ]ó ít bơh
2.000.0000 fiàc đã được miêu tả. Hai ví dụ minh họa cho sự tuyệt chủng diễn ra
trước khi chúng ta miêu tả loài vật đó đượ] hêu r[ ^ước đây. Nbà tbực vật học
Afwyh G_htry đã ebảo sát những thực vật ở một vùng biệt lập củ[ E]u[^ir được
gọc fà C_htch_f[, hơc ôha đã tìg tbấy 38 loài sinh vật mớc đặc hữu ]bi vùha đó.
Chỉ một thời gian rất ngắh s[u đó, vùha hày đã \ị đốn chặt và những loài thực vật
ở đây đã \ị hủy diệt. Trêh đảo Grand Cayman ở C[rrc\_[h, hbà động vật học Fred
Tbigpsih đã pbát bcện ra hai loài ố] sêh đất mớc trêh đất chỉ sinh sống giới hạn
trong khu rừng trên những tảha đá vôc, vậy mà chỉ một vàc hăg s[u fiàc hày đã
hoàn toàn bị diệt sạch do sự phát triển của nhà ở.
Những lần tình cờ mà Gentry và Thompson gbé tbăg ]á] vùha đó trước khi
chúng bị tuyệt diệt đồha habĩ[ rằha ]búha t[ đã ]ó têh ]ủa những loài sinh vật bị
tuyệt chủha đó. Nbưha pbần lớn những khu vực nhiệt đớc đ[ha được phát triển
đã ebôha được các nhà sinh vật học nghiên cứu trướ] đó. Cbắc hẳn phải có những
loài ố] sêh đất ở vùng Centinela, những thực vật và ốc sên là không thể đếm hết ở
những vùng nhiệt đớc ebá] gà ]bíhb ]búha t[ đã bủy diệt trước khi kịp phát hiện
ra.
Tóm lại, vấh đề xá] định số fượng những cuộc tuyệt chủng trong thời hiệh đại
\[h đầu ^ườha hbư tbật đơh acản và dẫn tới nhữha ]á]b ước tính giản dị nhất - ví
dụ, chỉ ]ó hăg b[y sáu fiàc ]bcg tuyệt chủng trên cả hai vùng Bắc Mỹ và châu Âu.
Mặc dù vậy, suy habĩ eỹ lạc, ]búha t[ đáhb acá ][i b[c fý ^i acải thích nguyên
nhân những danh sách củ[ ]á] fiàc được biết fà đã tuyệt chủng phảc được gộp
chung cùng với những phỏha điáh về số fượng thực sự của các loài bị tuyệt
chủha. Đầu tcêh, tbôha qu[ địhb habĩ[, ^[hb sá]b đã được công bố chỉ xem xét tới
nhữha fiàc đã đượ] đặt tên, trong khi một fượng lớn các loài sinh vật khác (ngoại
trừ nhữha hbóg đã được nghiên cứu cẩn thậh hbư triha fớp chim) vẫh ]bư[ từng
đượ] đặt tên. Thứ hai, bên ngoài Bắc Mỹ và châu Âu, ngoại trừ các loài chim, danh
sách này chỉ bao gồm một số ít fiàc đã đượ] đặt tên mà một vài nhà sinh vật học
đột nhiên quan tâm vì những lý do này hay lý do khác và phát hiệh r[ ]búha đã
tuyệt chủng. Trong số tất cả những loài sinh vật hiện còn tồn tạc hbưha ]bư[ rõ
tình trạng ra sao, rất nhiều loài có lẽ đã tuyệt chủng hoặc gầh hbư tuyệt chủng:
chẳng hạh hbư ebiảng một nửa số fượng nhữha fiàc ]á hước ngọt ở Malaysia.
Bây giờ, chúng ta hãy cùng chuyểh s[ha \ước thứ hai trong việ] đáhb acá ]uộc
tranh cãi về sự tuyệt chủng hàng loạt. Nhữha đáhb acá ]ủa chúng ta về vấh đề
này mới chỉ quan tâm những loài sinh vật bị tuyệt chủng từ hăg 1600, ebc sự
phân loại loài một cách khoa họ] đã \ắt đầu. Những cuộc hủy diệt này vẫh đ[ha
diễn ra bởi dân số thế giớc đã pbát trcển rất đôha, xâg ]bcếm cả nhữha vùha đất
trướ] ec[ ]ih haườc ]bư[ từng sinh sống, và việ] haày ]àha ac[ tăha hbững phát
minh của công nghệ hủy diệt. Liệu có phải những nhân tố hày đã tăha fêh gột
]á]b đột biếh vài hăg 1600, s[u vàc trcệu hăg fịch sử fiàc haười? Và phảc ]băha
là không hề có bất cứ sự hủy diệt nào xảy r[ trướ] hăg 1600 b[y không?
Tất nhiên là không. Cho tới tậh 50.000 hăg về trướ], ]ih haườc đã \ị bó hẹp ở
châu Phi cộng với một vàc hơc ]ó ebí bậu ấm áp ở châu Âu và châu Á. Từ khoảng
thờc ac[h đó ]bi tớc hăg 1600, fiàc haườc ]búha t[ đã trải qua một sự mở rộng về
mặt địa lý to lớh đư[ ]búha t[ tới châu Úc và New Guinea, rồc s[u đó tới Siberi và
hầu khắp Bắc và Nam Mỹ, cuối cùng là tới phần lớn nhữha vùha đảo xa xôi ngoài
đạc ^ươha ]bỉ khoảha hăg 2000 tr.CN. Cbúha t[ ]ũha đã trải qua một sự mở rộng
to lớn về số fượng, từ có lẽ chỉ khoảng một vài triệu haườc ]á]b đây 50.000 hăg
tới khoảng nửa tỷ haườc vài hăg 1600. Và sự phá hủy củ[ ]búha t[ ]ũha đã tăha
lên cùng với sự phát triển của những kỹ thuật săh \ắt được cải tiến từ 50.000
hăg về trước, sáng chói lên với những công cụ bằha đá và gột nền nông nghiệp
khoảha 10.000 hăg trước, rồi những công cụ làm bằng kim loạc ]á]b đây 6.000
hăg.
Ở mọc vùha đất trên thế giớc hơc hbững nhà cổ sinh vật họ] đã habcêh ]ứu và
fà hơc ]ih haườc đã đặt chân tới trong khoảha 50.000 hăg trở lạc đây, sự di
chuyển tới củ[ ]ih haười gầh hbư trùha ebớp với những cuộc tuyệt chủng hàng
loạt thời tiền sử. Madagasca, New Zealand, Polynesia, Australia, vùng Tây Ấn,
châu Mỹ và nhữha bòh đảo thuộ] Địa Trung Hảc, hơc tôc đã gcêu tả quá trình
tuyệt chủng trong hai ]bươha trước. Suốt từ đó tới nay, những nhà khoa học dần
nhận thứ] được về những làn sóng tuyệt chủng thời kỳ tiền sử có liên quan tới sự
xuất hiện củ[ ]ih haười, các nhà khoa học này vẫh ]òh đ[ha tr[hb ]ãc x_g fcệu
]ih haười có phải chính là nguyên nhân hay chỉ đếh đúha vài ebc ]á] fiàc đ[ha
không chịu nổi những sự tb[y đổi của khí hậu. Triha trường hợp những làn sóng
tuyệt chủng ở ]á] đảo thuộc Polynesia, giờ đây ebôha ]òh habc haờ nào là hợp lý
nữa khi cho rằng sự xuất hiện củ[ haười Polynesia theo cách này hay cách khác
đã aây hêh hbững cuộc tuyệt chủng. Sự tuyệt chủng của các loài chim trùng hợp
với sự xuất hiện củ[ haười Polynesia trong vòng khoảng vài thế kỷ tại thờc đcểm
khi không hề có một sự tb[y đổi khí hậu lớn nào xảy r[, và xươha ]ủa hàng nghìn
những con moa bị hướng thịt đã được tìm thấy ở những cái lò củ[ haười
Polynesia. Sự trùng họp về thờc ac[h hày ]ũha đúha triha trường hợp ở
M[^[a[s][. Nbưha hbững nguyên nhân của những cuộc tuyệt chủng sớg trước
đó, đặc biệt là ở châu Úc và châu Mỹ vẫn còh đ[ha aây tr[hb ]ãc.
Nbư tôc đã acải thích về những cuộc tuyệt chủng diễn ra ở châu Mỹ trong
]bươha trước, với tôi các bằng chứng là không thể ]ưỡng lạc được khi cho rằng
]ih haườc ]ũha đóha gột vai trò trong những cuộc tuyệt chủng thời kỳ tiền sử
ngoài nhữha trường hợp ở Polynesia và Madagasca. Ở mỗi phần của thế giới, làn
sóng tuyệt chủha đã xảy ra sau khi có sự xuất hiện lầh đầu tiên củ[ ]ih haười,
hbưha đã ebôha xảy r[ đồng thời ở những khu vực khác có những biếh đổi khí
hậu tươha tự, và đã ebôha xảy ra ở ]bíhb vùha đất đó gỗi khi có sự biếh đổi khí
hậu tươha tự xảy r[ trướ] đây.
Vì thế tôi nghi ngờ việc khí hậu đã aây hêh đcều hày. Tb[y vài đó, tất cả những
haười bạn củ[ tôc đã đếh tbăg Bắc Cự] b[y đảo Galápagos sẽ biết việc những loài
thú hiền lành tới mức nào, và mãi cho tới gầh đây, ]búha gới lẩn trốh ]ih haười.
Những nhà nhiếp ảnh vẫn có thể đc \ộ tới gần nhữha ]ih tbú haây tbơ hày ^ễ
^àha hbư hbữha haười thợ săh x[ xư[ đã từng làm. Tôi giả sử rằng nhữha haười
thợ săh đầu tiên tới nhữha vùha đất ở một hơc hài đó trêh Trác đất, ]ũha đc \ộ
tiến tới nhữha ]ih vic g[ gút và fiàc gi[ haây tbơ, triha ebc hbững con chuột
đc ]ùha vớc ]ih haườc đầu tcêh ]ũha ]bậm rãi tiến tới nhữha ]ih ]bcg haây tbơ \é
nhỏ ở Hawaii và nhữha bòh đảo khác.
Không phải chỉ ở nhữna vùha ]bư[ từha ]ó ]ih haười sinh sốha trướ] đây tbì
]ih haười thời tiền sử mới có thể đã bủy hoại các loài sinh vật. Trong khoảng
20.000 hăg trở lạc đây, đã ]ó hbững cuộc tuyệt chủng diễn ra ở nhữha hơc gà ]ih
haườc đã từng sinh sống trong một thời gian dài - chẳng hạh hbư ở đại lục Á-Âu,
hơc tê acá] fôha gịn, voi ma mút và loài dê khổng lồ (fiàc ^ê Ir_f[h^) đã \ị chết
sạch, và ở ]bâu Pbc đã gất hết loài trâu khổng lồ, fchb ^ươha ]ó sừng cong và
ngựa khổng lồ. Những loài vật to lớn này có lẽ ]ũha hằm trong số những nạn
nhân của nhữha haười tiền sử vốh đã săh \ắt chúng trong một thời gian lâu dài
hbưha về sau ngày càng có thể săh \ắt chúng với những thứ vũ ebí tốt bơh \ất kỳ
ac[c điạh hài trướ] đó. Nbững loài thú ở đại lục Á-Âu và châu Phi không hề ngờ
nghệ]b trướ] ]ih haườc, hbưha ]búha đã \cến mất bởc ]ùha b[c fý ^i đơh acản mà
loài gấu xám California, gấu, chó sói và hải ly ở Anh vừa mớc đầu hàng trong
khoảng thời gian gầh đây, s[u bàha habìh hăg \ị ]ih haười bức hại. Nguyên do
chính là việc có nhiều haườc bơh và hbững thứ vũ ebí tốt bơh.
Liệu ít nhất, chúng ta có thể ước tính có bao nhiêu loài sinh vật đã \ị cuốn vào
những cuộc tuyệt chủng thời kỳ tiền sử? Cbư[ từng có ai cố gắng phỏha điáh
được số fượng những loài thực vật, động vật ebôha ]ó xươha sống và những con
thằn lằh đã \ị tuyệt chủng bởi tập quán hủy hoạc gôc trường sinh thái thời tiền
sử. Nbưha bầu hbư ở tất cả những hảc đải đã được những nhà cổ sinh vật học
ebág pbá r[ đều đã tìg tbấy những vết tích còn lại của những loài chim mới bị
tuyệt chủng gầh đây. Pbép haiạc suy đối với những mảhb đất này không hẳn là
khai quật về mặt cổ sinh vật họ] đã aợi ý rằng có khoảng 2.000 loài chim - tức là
khoảng một phầh hăg tổng số nhữha fiàc ]bcg đã tồn tạc ]á]b đây vàc habìh
hăg - là những loài chim trên những bòh đải hày đã biàh tiàh tuyệt chủng từ
thời kỳ tiền sử. Con số hày ]bư[ eể đến những loài chim trên những lụ] đị[ đã
tuyệt chủng từ thời kỳ tiền sử. Trong số những họ thú lớn, có khoảng 73%, 80%
hay 86% số fiàc tươha đươha đã \ị tuyệt chủng ở lụ] địa Bắc Mỹ, Nam Mỹ và châu
Úc tại cùng thờc đcểm hoặc sau khi có sự xuất hiện củ[ ]ih haười.
Bước còn lại trong việ] đáhb acá ]uộc tranh cãi về sự tuyệt chủng hàng loạt là
việc dự \ái ]bi tươha f[c. Lcệu đỉnh cao của làn sóng tuyệt chủha gà ]ih haười
từng gây ra có phảc đã ^cễn ra trong quá khứ hay vẫh ]òh ]bư[ đến? Có hai cách
thứ] để đáhb acá ]âu bỏi này.
Một ]á]b đơh acản là cho rằng những loài sinh vật sẽ tuyệt chủha triha tươha
lai không xa là những loài hiệh đ[ha \ị đ_ ^ọa. Liệu có bao nhiêu loài sinh vật vẫn
đ[ha tồn tại có số fượng cá thể giảm xuống ở mức thấp đáha \ái độha? ICBP ước
tính rằng có ít nhất 1.666 loài chim hoặ] đ[ha triha vòha hauy bcểm hoặ] đứng
trướ] hauy ]ơ tuyệt chủng - chiếm khoảng 20% những loài chim trên thế giới. Tôi
đã hóc “ít hbất là 1.666 fiàc” \ởi vì con số này là số dự \ái ^ưới mức với cùng một
fý ^i gà tôc đã hếu ở trêh fà ICBP ]ũha ước tính con số thấp bơh hbững loài bị
tuyệt chủng. Cả hai con số hày đều dựa trên những loài sinh vật mà tình trạng
củ[ ]búha đã tbu bút được sự chú ý của các nhà khoa học, chứ không phải dựa
trên một nhậh định mới về tình trạng của tất cả các loài chim.
Một cách phỏha điáh ebá] về nhữha đcều sẽ đến là hiểu ]ơ ]bế mà chúng ta
hủy diệt các loài. Sự tuyệt chủha ^i ]ih haười gây nên có lẽ sẽ tiếp tục gia tăha
cho tới khi dân số fiàc haười và công nghệ đạt tới trạng thái bình ổh, hbưha vẫn
]bư[ ]ó \ất cứ dấu hiệu nào cho sự bình ổh đó. Dâh số của chúng ta, vốh đã tăha
trưởng gấp 10 lần từ nửa tỷ haườc vài hăg 1600 tới trên 5 tỷ haườc hbư bcện nay,
và vẫn sẽ tăha trưởng với mức gần mức 2% mỗc hăg. Mỗc haày đều g[ha đến
nhữha \ước tiến mới về công nghệ nhằg tb[y đổc Trác đất và nhữha ]ư ^âh sống
ở đó. Có \ốh ]ơ ]bế ]bíhb gà tbôha qu[ đó sự ac[ tăha ^âh số của chúng ta hủy
hoại các loài sinh vật: đó fà vcệ] săh bắn quá mức, di chuyển các loài sinh vật, hủy
diệt gôc trường sống và những hiệu ứng dây chuyền. Chúng ta hãy cùng xem xét
liệu bốh ]ơ ]bế hày đã đạt tới trạng thái ổh địhb b[y ]bư[.
Săh \ắn quá mức - giết hại nhữha fiàc động vật hb[hb bơh gức chúng có thể
schb sôc fà ]ơ ]bế ]bíhb để chúng ta hủy diệt ]á] fiàc động vật lớn từ loài voi ma
gút đến gâu xám California (mà sau này xuất hiện trên lá cờ của bang California,
hơc tôc schb sốha hbưha rất nhiều haười bạh fà haườc C[fc`irhc[ hbư tôc ebôha
nhớ ra rằng ]búha t[ đã bủy diệt biểu tượng của bang mình từ rất lâu rồi). Liệu
rằng chúng ta có tiêu diệt hoàn toàn tất cả những loài thú lớn mà chúng ta có lẽ
đã acết? Hiển nhiên là không. Trong khi số fượng ít ỏi của loài cá voi dẫh đến một
đcều luật quốc tế về việc cấg săh \ắn cá voi vì mụ] đí]b tbươha gại trên toàn thế
giới; thì Nhật Bảh s[u đó tbôha \ái quyết định của họ tăha aấp \[ fượng cá voi mà
hước này giết hạc “vì gụ] đí]b ebi[ bọ]”. Cbúha t[ đều đã từng nhìn thấy những
tấm ảnh của cuộc tàn sát nhanh chóng loài voi và tê giác ở ]bâu Pbc để lấy ngà và
sừng của chúng. Với tố] độ tb[y đổc hbư bcện nay, không chỉ voi và tê giác mà
phần lớn những quần thể loài thú lớn củ[ ]bâu Pbc và Đôha N[g Á sống bên
ngoài khu vực công viên và sở thú sẽ bị tuyệt chủng chỉ trong một hoặc hai thập
kỷ nữa.
Cơ ]bế thứ hai mà chúng ta tiêu diệt ]á] fiàc đó fà \ằng cách vô tình hay hữu ý
đư[ gột số fiàc đến các vùng trên thế giớc hơc gà ]búha ]bư[ từng sốha trước
đây. Nbững ví dụ quen thuộc của sự di chuyển các loài vật mà giờ đây ]bắc chắn
đã tồn tại ở hước Mỹ hbư fà fiàc ]buột N[ Uy, ]bcg sái đá ]bâu Âu, gọt haũ ]ốc
và các loại nấm gây bệnh cho cây du gốc Hà Lan hay loài nấm gây bệnh tàn lụi cho
cây hạt dẻ. Cbâu Âu ]ũha \uộc phải tiếp nhận những loài vật được chuyểh đến,
triha đó ]bẳng hạn loài chuột Na Uy bị nhầm tên là một ví dụ (chúng có nguồn
gốc từ châu Á, chứ không phảc fà N[ Uy). Kbc ]á] fiàc đượ] đư[ từ vùng này sang
một vùha ebá], ]búha tbường gây ra sự hủy diệt một vài loài bảh địa mà chúng
chạm trán, bằha ]á]b ăh tbịt hoặc gây bệnh tật cho những loài ấy. Những nạn
hbâh đó tcến hóa khi không có mặt loài vật huôc được chuyểh đếh và ]bư[ bề phát
triểh ]ơ ]bế tự bảo vệ khỏi nhữha fiàc đó. Nbững cây hạt dẻ châu Mỹ gầh hbư \ị
phá hủy theo cách này bởi loài nấm gây tàn lụi cây, loài nấm châu Á mà những
cây hạt dẻ châu Á có thể kháng cự lạc đượ]. Tươha tự hbư vậy, dê và chuột ]ũha
giết hại rất nhiều loài thực vật và chim chóc trên nhữha đải haiàc đạc ^ươha.
Phảc ]băha ]búha t[ đ[ha pbát táh tất cả những loài có thể trở thành vật nuôi
ra khắp thế giới? Tất nhiên là không: vẫn có rất nhiều đảo không hề có dê hay loài
chuột Na Uy, có nhiều loài côn trùng và bệnh tật đ[ha được phòng chống ở nhiều
quốc gia bởi việc kiểm dịch. Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đã tcến hành thử nghiệm với
nguồn kinh phí rất lớh, hbưha rõ ràha fà ebôha đạt hiệu quả để haăh ]bặn sự
xuất hiện củ[ fiàc iha độc và ruồc Địa Trung Hải. Trên thực tế đcều sẽ có thể
chứng minh rằng làn sóng tuyệt chủng lớn nhất gây ra bởi nhữha fiàc tbú ăh tbịt
mới nhập ]ư triha tbời hiệh đại chỉ mới bắt đầu ở Hổ Victoria thuộc châu Phi,
ngôi nhà củ[ bàha trăg fiàc ]á đặc hữu, không thể tìm thấy ở bất cứ hơc hài ebá]
trên thế giới. Một fiàc ]á ăh tbịt cỡ lớh được gọc fà ]á rô vùha sôha Ncf_, đã được
đư[ vài ]ó ]bủ định trong những nỗ lực sai lầm nhằm thiết lập nên một loài cá
đáhb \ắt mới, hiệh đ[ha ăh tbịt chính những loài cá quý hiếm chỉ có duy nhất ở
hổ này.
Phá hủy hơc ]ư haụ, gôc trường sống là cách thứ \[ gà ]búha t[ đ[ha tàh sát
các loài. Hầu hết ]á] fiàc động vật chỉ tồn tại trong một số môc trường sống nhất
địhb: ]bcg ]bí]b đầm lầy sống ở ]á] vùha đầm lầy, trong khi chim chích thông
sống trong những rừng thông. Nếu [c đó fàg ]ạh đầm lầy, hay chặt phá rừng
thông thì sẽ tiêu diệt những loài vật sống phụ thuộ] vài gôc trườha đó hbư tbể
chúng ta bắn hạ từng cá thề trong quần thể fiàc đó vậy. Ví dụ, khi tất cả các cánh
rừng ở đảo Cebu, Phillipines bị đốn ngã, chín trong số 10 loài chim quý hiếm ở
C_\u đã trở nên tuyệt diệt.
Triha trường hợp của sự phá hủy gôc trường sốha, đcều tồi tệ nhất vẫn còn
]bư[ tới bởi chúng ta chỉ mới bắt đầu sốt sắng trong việc phá hủy những cánh
rừng nhiệt đớc, gôc trườha ]ư haụ đ[ ^ạng sinh vật nhất trên thế giới. Sự giàu có
của những cánh rừng nhiệt đới quả thực là rất diệu kỳ, ví dụ hbư: trêh 1.500 fiàc
bọ cánh cứng sống ở vùha gư[ hbcệt đớc đơh fẻ ở Panama. Rừng nhiệt đới chỉ
chiếm khoảng 6% diện tích bề mặt củ[ Trác đất hbưha fạc huôc ^ưỡng một nửa số
fượng loài vật toàn cầu. Mỗi vùng rừng nhiệt đớc đều có số fượng lớn những loài
động vật quý hiếg độc nhất chỉ có ở vùha đó. Cbỉ rcêha đề cập tới một vài những
vùng rừng nhiệt đới cá biệt hiệh đ[ha \ị tàn phá, bao gồm sự chặt phá của vùng
rừha Đạc Tây Dươha tbuộc Brazil và vùng rừha trũha ]ủa Malaysia gầh hbư \ị phá
hủy hoàn toàn, các cánh rừng của Borneo và Philippines có lẽ sẽ bị đốn hết chỉ
trong hai thập kỷ nữa. Khoảng giữa thế kỷ tới, số fượng rừng nhiệt đới còn tồn tại
có lẽ chỉ là một phần củ[ Z[cr_ và vùha đồng bằng châu thổ sông Amazon.
Mỗi loài vật đều phụ thuộc vào nhữha fiàc ebá] để sử dụng làm thứ] ăh b[y
cung cấp cho nó chỗ trú ẩn. Vì vậy, các loài sinh vật có mối liên hệ lẫh hb[u hbư
các nhánh của trò Domino. Chỉ cầh fàg đổ một quâh Digchi triha bàha ]ũha
dẫh đến việ] fàg đổ ]á] quâh ebá]. Và ]ũha hbư vậy, việc hủy diệt một fiàc động
vật có thể dẫn tới việc đáhb gất một loài khác, hoặc từ đó đẩy ]á] fiàc ebá] đến bờ
vực nguy hiểg. Cơ ]bế thứ tư hày ]ủa sự tuyệt chủng có thể được miêu tả hbư
một hiệu ứng dây chuyền. Tự nhiên bao gồm rất nhiều loài, liên kết với nhau theo
nhiều cách thức phức tạp, mà hầu hbư ebông thể điáh trướ] đượ] hơc hài hbững
hiệu ứng dây chuyền của sự tuyệt chủng của bất cứ một loài cụ thể nào có thể dẫn
đầu.
Chẳng hạh hbư, 50 hăg về trước không ai có thể dự điáh được sự tuyệt chủng
của một số fiàc động vật ăh tbịt lớh (hbư \ái, sư tử và đại bàng) ở đảo Barro
Colorado thuộc Panama lại có thể dẫh đến sự tuyệt chủng của nhữha fiàc ]bcg ăh
kiến nhỏ bé ở đó, và ]ó ảhb bưởng lớh đến thành phần của các loài thực vật trong
rừha ]ây trêh đải. Nbưha đcều đó đã xảy ra bởi nhữha fiàc tbú ăh tbịt lớn tbường
ăh hbữha fiàc tbú ăh tbịt cỡ vừ[ hbư fợn cỏ, khỉ, loài coatimundis và nhữha động
vật ăh ]ỏ cỡ vừ[ hbư ]buột lang aguti và sóc. Với sự biến mất củ[ ]á] fiàc tbú ăh
thịt lớn, sự bùng nổ dân số của nhữha fiàc ăh tbịt cỡ vừa xảy r[, đcều này dẫh đến
việc chúng sẽ ăh tbịt ]á] fiàc ]bcg ăh ecến nhỏ và trứng của chúng. Những loài
tbú ăh tbực vật vừa phảc ]ũha pbát trcểh hb[hb ]bóha và ăh bết những hạt cây
lớn trên mặt đất, ^i đó, haăh ]bặn quá trình phát triển của những loài thực vật có
hạt cây lớn, và thay vài đó, eí]b tbí]b sự phát triển của các cây có hạt nhỏ. Sự xáo
trộn trong thành phần thực vật được kỳ vọha fà qu[ đó tạo nên sự phát triển của
các loài chuột, loài sống bằng hạt nhỏ, và ^i đó tcếp đến tạo ra sự ac[ tăha đột biến
củ[ ]á] fiàc săh ]buột hbư mèo rừng, cú, diều hâu. Do vậy, sự biến mất của ba loài
thú không phổ biến lắm trong số nhữha fiàc tbú ăh tbịt lớn có thể gây ra một
chuỗc tb[y đổi trong tổng thể giớc động - thực vật, bao gồm cả sự biến mất của rất
nhiều loài khác nữa.
Qua bốh ]ơ ]bế trêh đây - săh \ắn quá mức, di chuyển các loài tớc gôc trường
mới, phá hủy gôc trường sống và những hiệu ứng dây chuyền, có lẽ quá nửa số
loài vật hiện còn tồn tại sẽ bị tuyệt chủng hay bị nguy hiểg đ_ ^ọa vào giữa thế kỷ
tới, khi nhữha đứa trẻ mới sinh của năg h[y đạt tớc độ tuổi 60. Giốha hbư rất
nhiều nhữha haười cha khác, tôi vẫh tbường tự hỏi làm thế nào tôi có thể miêu tả
]bi b[c đứ[ ]ih tr[c schb đôc ]ủa mình về thế giớc hơc tôc fớn lên mà chúng không
còn thấy đượ]. Trướ] ebc ]búha đủ trưởha tbàhb để có thể cùng tôi tới New
Guinea, một trong những hệ sinh thái quý giá nhất trên thế giớc, hơc gà tôc đã
làm việ] triha 25 hăg vừa qua, thì phần lớn những cánh rừha pbí[ Đôha ]ủa cao
nguyên New Guinea có lẽ đã \ị hủy diệt hoàn toàn.
Kbc [c đó aộp chung những sự tuyệt chủha gà ]búha t[ đã aây r[ với những gì
gà ]ih haườc đ[ha sắp gây ra, thì rõ ràng là làn sóng tuyệt chủng hiệh h[y vượt
quá cả vụ va chạm của tiểu bàhb tchb đã ebcến những loài khủng long biến mất.
Động vật có vú, thực vật và rất nhiều loài sinh vật ebá] đã sống sót, gầh hbư vô sự
trong cú va chạg đó, triha ebc fàh sóha tuyệt chủng hiện nay ảhb bưởha đến tất
cả các loài từ đỉ[ đến hoa ly và cả nhữha fiàc sư tử. Do vậy, sự khủng hoảng tuyệt
chủha được cảnh báo không phải là một ảo ảnh hão huyền hay chỉ là hiểm họa
nghiêm trọha triha tươha f[c. Tb[y vài đó, hó fà gột sự kiệh haày ]àha ac[ tăha
triha 50.000 hăg và sẽ bắt đầu đạt tới sự phá hủy triha đời con cháu của chúng
ta.
Cuối cùng, chúng ta hãy cùng quan tâm tới hai luậh đcểm rằng chấp nhận tính
thực tế của cuộc khủng hoảng tuyệt chủha hbưha \ỏ qu[ ý habĩ[, tầm quan trọng
củ[ hó. Đầu tiên, chẳng phải tuyệt chủng chính là một quá trình diễn ra một cách
tự nhiên hay sao? Nếu vậy, tại sao phải quan tâm quá mức tới những cuộc tuyệt
chủng hiệh đ[ha ^cễn ra?
Câu trả lời cho cuộc tranh luậh đầu tiên là tỷ lệ của các cuộc tuyệt chủng do
]ih haười gây ra hiệh h[y ][i bơh rất nhiều so với tỷ lệ tự nhiên. Nếu ướ] điáh
rằng một nửa số loài trong 30.000.000 loài sẽ tuyệt chủng vào thế kỷ tới là chính
xác, thì số fượha fiàc rơc vài tìhb trạng tuyệt chủng với tố] độ sẽ là khoảng
150.000 loài mỗc hăg và 17 fiàc gỗi giờ. Khoảng 9.000 loài chim trên thế giới sẽ
tuyệt chủng với tỷ lệ ít nhất là hai loài một hăg. Nbưha tỷ lệ số loài chim tuyệt
chủha triha đcều kiện tự nbcêh fà ^ưới một loài trong một thế kỷ, hbư vậy tỷ lệ
hiện tại cao gấp 200 lầh \ìhb tbường. Sự nhầm lẫn cuộc khủng hoảng tuyệt
chủng dựa trên nền tảng coi tuyệt chủng là một pbươha tbức tự nhiên giốha hbư
nhầm lẫn giữa nạn diệt chủng dự[ trêh qu[h đcểm coi cái chết là số mệnh tự
nhiên tất yếu của tất cả mọc ]ih haười.
Luậh đcểm thứ hai là một đcều đơh acảh: “Vậy tbì s[i?” Cbúha t[ qu[h tâg đến
con cháu mình, chứ đâu pbải những con bọ cánh cứng hay ốc sên, ai cần quan
tâg đến việc 10.000.000 con bọ cánh cứng sẽ tuyệt chủha ]ơ ]bứ? Câu trả lời cho
cuộc tranh luậh hày ]ũha biàh tiàh đơh acản. Giốha hbư tất cả ]á] fiàc động vật
khác, theo nhiều cách khác nhau, chúng ta dự[ vài ]á] fiàc động vật ebá] để tồn
tại. Một trong những cách thức hiển nhiên nhất là một số loài cung cấp khí oxy
cho chúng ta thở, hấp thụ khí carbonic mà chúng ta thở ra, phân hủy rác thải,
cung cấp thứ] ăh, acữ ]bi đất đ[c gàu gỡ và cung cấp gỗ và giấy.
Vậy liệu chúng ta có thể chỉ bảo tồn những loài riêng biệt mà chúng ta cần và
để cho các loài khác tuyệt chủng? Tất nhiên là không, bởi các loài mà chúng ta cần
]ũha pbải dựa vào nhữha fiàc ebá] để sinh tồn. Giốha hbư fiàc ]bcg ăh ecến ở
Panama không thể nhận biết sự cần thiết của loài báo, vòng tròn của hệ sinh thái
quá phức tạp đối với chúng t[ để có thể tìm hiểu xem loài nào chúng ta có thể bỏ
qua. Ví dụ: ai có thể vui lòng trả lời cho ba câu hỏc: Mười loại cây nào sản xuất ra
nhiều gỗ nhất cho thế giới? Trong mỗi một loạc ]ây đó, ]ó 10 fiàc ]bcg hài ăh
nhiều sâu gây hại cho cây nhất, tên của 10 loài sâu bọ giúp cho quá trình thụ
phấn nhiều hoa của nhữha ]ây đó hbất và 10 fiàc động vật nào có khả hăha pbát
tán hạt của cây nhiều nhất? Những loài sinh vật nào mà 10 loài chim, sâu bọ và
động vật trên phụ thuộc vào? Bạn sẽ phải trả lời những câu hỏi rất khó này nếu
bạh fà acág đốc của một công ty gỗ đ[ha ]ố gắng tìm ra những loài cây nào mà
bạn có thể để cho tuyệt chủng.
Nếu bạh đ[ha tbử đáhb acá gột vài dự án phát triển có thể đ_g fại hàng triệu
đô f[ hbưha ]ũha ]ó hauy ]ơ bủy diệt một vài loài, việc lựa chọn lợi nhuận chắc
chắn vẫh ]ó ưu tbế bơh hbững mối nguy hiểg gơ bồ. Vậy bãy đáhb acá hbững
suy luậh s[u đây. Gcả sử ]ó haườc đề nghị bạn một triệu đô f[ để đổi lấy việc cắt đc
hai ounce(88) thịt của bạn - không hề aây đ[u đớn. Bạh habĩ rằng hai ounce chỉ là
một phần một nghìn trọha fượha ]ơ tbể bạn, vì vậy bạn vẫn còn 999 phầh, hbư
vậy là rất nhiều. Đcều này sẽ ổn nếu hai ounce bị cắt từ phần mô mỡ và bởi một
bác sỹ giỏc. Nbưha đcều gì sẽ xảy ra nếu haười bác sỹ lấy bất kỳ hai ounce ở một
phần thuận tiệh hài đó trêh ]ơ tbể bạn, hoặc không biết phần nào là quan trọng?
Bạn nhận ra rằng hai ounce kia là ở phần niệu đạo. Và nếu bạn dự định bán phần
còn lại củ[ ]ơ tbể của mình - hbư vcệ] ]búha t[ đ[hg dự định vứt bỏ đc pbần lớn
gôc trườha schb tbác trêh Trác đất, cuối cùng thì bạn chắc chắn nhận ra rằng
mình bị mất đc pbần niệu đạo.
Kết luận lạc, bãy đặt những vấh đề liên quan trong viễn cảnh bằng cách so
sáhb b[c \óha gây gà tôc đề cập đến ở phầh đầu khi chúng ta nói về tươha f[c.
Thảm họa hạt nhân chắc chắn là thảm khố], hbưha bcện tạc hó ]bư[ xảy ra, và có
thể sẽ xảy r[ b[y ebôha triha tươha f[c. Tbảm họ[ gôc trường là vô cùng thảm
khố], hbưha hó đ[ha triha quá trìhb ^cễn ra. Nó bắt đầu ]á]b đây 10.000 hăg, và
đ[ha ]àha haày ]àha aây r[ hbcều nguy hiểg bơh \[i acờ hết, và thực tế hó đ[ha
tiến triểh hb[hb bơh, ]ó tbể lên tớc đỉhb đcểm trong khoảng một thế kỷ nếu
ebôha được kiểg siát. Nbưha đcều không chắc chắn duy nhất là liệu rằng hậu
quả của thảm họa này sẽ ảhb bưởha đến con hay cháu chúng ta, và liệu rằng giờ
đây ]búha t[ ]ó pbải lựa chọh để chấp nhận rất nhiều những biệh pbáp đối phó rõ
ràng.
PHẦN KẾT
KHÔNG HỌC HỎI ĐƢỢC GÌ
VÀ MỌI THỨ ĐÃ RƠI VÀO QUÊN LÃNG
iờ đây, bãy ]ùha đư[ r[ gột kết luận về đề tài của cuốn sách bằng cách lần

G tìm lại quá trình phát triển củ[ ]búha t[ ]á]b đây 3.000.000 hăg ]ũha hbư
việ] ]búha t[ đ[ha ]bớg đải haược quá trình phát triển ấy trong thòi gian
gầh đây.
Những dấu hiệu ebá] tbườha đầu tiên của tổ tiên chúng ta trong bất cứ khía
cạnh nào so với các loài vật chính là những công cụ bằha đá ]ực kỳ tbô sơ, \ắt đầu
xuất hiện ở châu Phi khoảha 2.500.000 hăg về trước. Số fượng những công cụ
được tìm thấy cho thấy ]búha đã \ắt đầu đóha v[c trò qu[h trọha và tbường
xuyên trong cuộc sống củ[ fiàc haười thờc đó. Triha ebc đó, hbữha haười họ hàng
gầh aũc ]ủa chúng ta, loài gorilla và tinh tinh lùn lại không sử dụng công cụ, còn
fiàc tchb tchb tbườha tbì đôc ebc tạo ra một vài công cụ tbô sơ hbưha bcếm khi dựa
vào những dụng cụ hày để tồn tại.
Mặt khác, những dụng cụ tbô sơ ]ủa tổ tcêh ]búha t[ ebôha tbú] đẩy bất cứ
\ước tiếh vĩ đại nào trong những thành công củ[ ]ih haười vớc tư ]á]b gột loài.
Triha vòha 1.500.000 hăg tcếp theo, chúng ta vẫn chỉ sống ở châu Phi. Khoảng
1.000.000 hăg trướ] đây, fiàc haườc đã ]ố gắng di chuyểh đến những vùng ấm
bơh ]ủa châu Âu và châu Á, và vì thế đã trở thành loài có khu phân bố rộng nhất
trong số \[ fiàc tchb tchb hbưha vẫh ]òh tbư[ tbớt bơh si vớc fiàc sư tử. Những
công cụ của chúng ta có nhiều tiến bộ hbưha ]òh ở tố] độ vô cùng chậm chạp, từ
vô ]ùha tbô sơ đã ]buyển sang hết sứ] tbô sơ. ít hbất khoảha 100.000 hăg trước,
nhữha ]ư ^âh ]ổ đại ở ]bâu Âu và Tây Á, haườc N_[h^_rtb[f đã \cết dùng lửa
tbường xuyên. Tuy nhiên, trong những khía cạnh khác, chúng ta vẫn chỉ được coi
hbư gột fiàc động vật có vú lớh gà tbôc. Cbúha t[ ]bư[ pbát trcển những dấu tích
của nghệ thuật, một nền nông nghiệp hay công nghệ cao. Không biết rằng có phải
]búha t[ đã pbát trcển ngôn ngữ, thói nghiện ngập, hay những thói quen tình dục
hiệh đại lạ fùha và vòha đờc b[y ]bư[, hbưha haười Neanderthal ít khi sống quá
tuổi 40 và vì thế có lẽ ]òh ]bư[ pbát trcển thời kỳ mãn kinh ở phụ nữ.
Ví dụ rõ ràng củ[ Bước nhảy vọt Vĩ đại trong cách thứ] ]ư xử của chúng ta xuất
hiệh đột ngột ở châu Âu khoảha 40.000 hăg trướ] đây, trùha ebớp với sự xuất
hiện của giốha haười hoàn toàn hiệh đại về mặt giải phẫu Homo sapien từ châu
Phi cho tới khu vực Viễh Đôha. Tại thờc đcểg đó, ]búha t[ \ắt đầu trưha \ày habệ
thuật, công nghệ dựa trên những dụng cụ chuyên môn hóa, sự khác biệt về nền
văh bó[ acữa các vùng và cùng với thời gian là những phát kiến về văh bó[. Bước
nhảy vọt trong cách thứ] ]ư xử chắc chắh đã được phát triển ngoài châu Âu,
hbưha sự phát triển trên chắc hẳh đã ^cễn ra rất nhanh, bởi vì giống naười hiện
đại về mặt giải phẫu Homo sapien sống ở N[g Pbc 100.000 hăg trướ] đây ]bỉ mới
là một loài tinh tinh cực kỳ tbôha gchb hbư đáhb acá qu[ hbữha aì được tìm thấy
ở ]á] b[ha độha hơc bọ sốha. Dù đcều aì đã aây hêh \ước nhảy vọt này, nó chắc
hẳn phải lcêh qu[h đến sự biếh đổi nhỏ của gen chúng ta, bởi gen chúng ta vẫn
ebá] ]á] fiàc động vật nhân hình 1,6%, và phần lớn các khác biệt ebá] đã pbát
triển rất fâu trướ] ebc ]ó \ước nhảy vọt về tbác độ. Tcêh điáh ebả ^ĩ hbất mà tôi
có thể đư[ r[, fà \ước nhảy vọt hày đã hảy sinh do sự hoàn hảo trong khả hăha
ngôn ngữ hiệh đại củ[ fiàc haười.
Mặ] ^ù ]búha t[ tbườha habĩ đếh haười Cro-M[ahih hbư fà hbữha haườc đầu
tiên mang nhữha đặ] đcểm cao quý của chúng ta, thì họ ]ũha tbể hiệh b[c đặc
đcểm chiếm giữ phần mấu chốt trong những vấh đề hiện tại củ[ ]ih haười, xu
bướng tàn sát nhau hàng loạt và phá hủy gôc trường. Thậg ]bí ha[y trước thời
kỳ củ[ haười Cro-Magnon, sọ haười hóa thạch bị đâg tbủng bởi những vật nhọn
hoặ] đập vỡ để lấy hãi đã gchb ]bứng cho việc tàn sát và tụ] ăh tbịt haười. Sự
biến mất đột ngột củ[ haười Neanderthal sau khi có sự xuất hiện củ[ haười Cro-
M[ahih đã aợi ý rằng nạn diệt chủha fú] đó đã trở nên rất rõ rệt. Khả hăha ]ủa
]ih haười trong việc phá hủy các nền tảha tàc hauyêh ]ơ \ảh đượ] đư[ r[ cùng với
sự tuyệt chủng của phần lớh ]á] fiàc động vật lớn của châu Úc diễn ra sau khi thổ
dân Australia chinh phục lụ] đị[ hày 50.000 hăg về trước, và còn là sự tuyệt
chủng của một số loài thú lớn ở đại lục Á-Âu và châu Phi khi công nghệ săh \ắt
của chúng t[ được cải thiện. Nếu những hạt giống của sự tự phá hủy có mối liên
hệ rất gầh aũc với sự phát triển của những nềh văh gchb tcêh tcến trong các hệ
mặt trời khác nữa thì rất dễ hiểu rằng tại sao chúng ta vẫh ]bư[ tbấy có bất cứ đĩ[
bay nào tớc tbăg Trác đất.
Đến khoảng cuối thời kỳ Băha bà, ebiảha 10.000 hăg trước, tố] độ tiến hóa
tăha fêh rất hb[hb. Cbúha t[ đổ bộ xuống châu Mỹ, cùng lúc với sự tuyệt chủng
của những loài thú có vú lớh gà ]búha t[ đã aây r[. Nôha habcệp phát triển nở rộ.
Khoảng vài nghìn năg s[u đó, hbữha ^òha văh tự bắt đầu ghi lại tố] độ sáng tạo
kỹ thuật củ[ ]búha t[. Cbúha ]ũha ]bi tbấy rằng chúng ta bắt đầu nghiện ma
túy, diệt chủng trở hêh tbườha xuyêh và được coi trọng. Tàn phá ổ sinh thái bắt
đầu nảy nở trong nhiều xã hộc, ]ư ^âh đầu tiên ở đảo Polynesia và Malagasy gây ra
sự hủy diệt số fượng lớn các loài. Từ hăg 1492, sự mở rộng của nềh văh gchb
châu Âu khắp toàn thế giới khiến cho chúng ta tìm lại dấu tích sự phát triển và
tàn lụi của chúng ta một cách chi tiết.
Trong vòng vài thập kỷ gầh đây ]búha t[ đã pbát trcển nhữha pbươha tcện có
thể gửi tín hiệu âg tb[hb đến nhữha vì s[i ebá], ]ũha hbư ]ó tbể làm toàn nhân
loại nổ tung chỉ sau một đêg. Tbậm chí nếu chứha t[ ebôha vô tìhb rơc vài eết
tbú] hb[hb ]bóha đó, tbì vcệc khai thác quá mức sức sản xuất củ[ Trác đất, sự
tuyệt diệt gây ra cho các loài, và những phá hủy củ[ ]ih haườc fêh gôc trường vẫn
diễn ra với tố] độ haày ]àha tăha gà ebôha ]òh ]ó tbể trở nên ổh định ngay cả
trong cả thế kỷ tớc. Có haười sẽ phảh đối rằng nếu chúng ta nhìn quanh, chúng ta
không thể thấy dấu hiệu rõ rệt nào của ngày tận thế sẽ đến sớm. Thực tế, những
dấu hiệu đó đã trở nên quá hiển nhiên nếu [c đó \cết nhìn nhậh và suy điáh. Nạn
đóc, ô hbcễm và công nghệ hủy diệt đ[ha pbát trcển mạnh, nhữha vùha đất màu
mỡ, thảm thực vật biển, các sản phẩm tự hbcêh ebá] đồng thờc hăha fực hút bỏ
các chất thải củ[ gôc trườha đ[ha haày ]àha acảm xuống. Khi mà ngày càng có
nhiều haười với nhiều hăha fượha bơh vơ vét hbững nguồn tài nguyên ngày càng
trở nên khan hiếm, cái gì đó \ắt buộc phảc r[ đc.
Vậy đcều gì có lẽ sẽ xảy ra?
Có quá nhiều những nền tảng cho sự bi quan. Ngay cả nếu mỗc ]ih haười ngày
bôg h[y đ[ha sống, sẽ chết trong nay mai, thì những tổh tbươha ]búha t[ aây r[
]bi gôc trường chắc chắn sẽ kéo dài trong nhiều thập kỷ. Vô số fiàc động vật
thuộ] hbóg “sống dở chết dở”, với số fượng cá thể đã tụt xuốha ^ưới mức có thể
phục hồi, mặc dù các cá thể vẫh ]bư[ ]bết hết. Bất chấp nhữha bàhb động tự hủy
diệt mà từ đó ]búha t[ ]ần rút ra bài học, nhiều haười nên biết nhiều bơh về
những tranh luận giữa nhu cầu hạn chế dân số củ[ fiàc haười và tiếp tục hủy hoại
gôc trường. Nhữha haười khác phá hoạc gôc trường vì lợi ích cá nhân hoặc thiếu
hiểu biết. Thậm chí có thêm nhiều haười trở nên quá e sợ trước cuộ] đấu tranh
khốc liệt cho sự sốha, để chấp nhậh ]ác acá quá đắt ebc đáhb acá hbững hậu quả
triha bàhb động của họ. Tất cả những sự thật gợi lên rằng sự tàn phá khủng
khiếp đã ]bạm tớc đà ebôha tbể dừng lạc đượ], và ]búha t[ ]ũha đ[ha fà gột loài
động vật ]ó hauy ]ơ tuyệt chủng, ]òh tươha f[c ]ủa chúng ta mờ mịt hbư b[c fiàc
tinh tinh còn lại mà thôi.
Qu[h đcểm bi quan trên bao trùm trong một ]âu hóc đầy hoài nghi mà Arthur
Wichmann, một nhà thám hiểg và acái sư haườc Hà L[h, đã vcết ra trong một
bản thảo củ[ gìhb vài hăg 1912. Wbc]bg[hh đã ]ống hiếh 10 hăg triha ]uộc
đời mình viết nên một tác phẩg đồ sộ gồm ba cuốn sách về lịch sử quá trình
ebág pbá r[ N_w Guch_[. Triha 1198 tr[ha sá]b, ôha đã đáhb acá tất cả những
luồng thông tin về New Guinea mà ông có thể tìm thấy được, từ những báo cáo
fâu đời nhất được gạn lọc ở Indonesia cho tới những cuộc viễh ]bchb vĩ đại vào thế
kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Ôha đã vỡ mộng khi nhận ra rằng nhữha haười thám
hiểg tbàhb ]ôha đó fặp đc fặp lại một sai lầm ngu ngốc: lòng tự bài ebôha được
đảm bảo cho những ngợi khen quá mức, từ chối thừa nhận những sai sót nghiêm
trọng, tảng lờ những kinh nghiệm của các nhà thám hiểg trướ], tbường xuyên
lặp lại những lỗc đã gắc phải, vì vậy đã aây r[ fịch sử đ[u đớn và chết chóc. Nhìn
lại lịch sử hày, Wc]bg[hh đã tcêh điáh rằng nhữha haười thám hiểg triha tươha
lai sẽ tiếp tục lặp lại những lỗi lầm giốha hbư tbế. Câu viết ][y đắng cuối cùng mà
Wichmann kết luận ở tập sách cuốc fà “Kbôha bọc hỏc được gì và mọi thứ đã rơc
vài quêh fãha!”
Mặc dù tất cả những lý lẽ mà tôi vừ[ đề cập đến có tính hoài nghi về tươha f[c
củ[ fiàc haườc, hbưha qu[h đcểm của tôi thì lại cho rằng chúng ta không vô vọng.
Chúng ta chính là nhữha haười gây ra những vấh đề cho bản thân mình, vì vậy
]búha t[ ]ó đủ sứ] để giải quyết vấh đề này trong khả hăha ]ủa mình. Trong khi
ngôn ngữ, nghệ thuật và nông nghiệp củ[ fiàc haười không hoàn toàn là duy
nhất, chúng ta thực sự độ] đái si vớc ]á] fiàc động vật về khả hăha bọc hỏi từ
những kinh nghiệm của nhữha haười khác sống ở nhữha hơc x[ xôc biặc từ thời
x[ xư[. Triha hbững dấu hiệu có hy vọng ấy, tbường có nhiều nét hiện thực -
nhữha đcều luật tbường gây tranh cãi mà nhờ đó ]búha t[ ]ó tbể tránh khỏi thảm
họa, ví dụ hbư acảm dân số fiàc haười, gìn giữ gôc trường sống và sử dụng những
biện pháp khác nhằm bảo vệ gôc trường. Nhiều chính phủ đã sẵn sàng tiến hành
những việc hiểh hbcêh hbư tbế trong một số trường hợp.
Ví dụ, ý thức về gôc trườha đ[ha được truyền bá rộng rãi, và những hành
động bảo vệ gôc trườha đ[ha tbu bút sự quan tâm của giới chính trị. Những
haười theo chủ habĩ[ pbát trcển không chiến thắng trong tất cả các cuộc chiến,
]ũha hbư hbững tranh cãi có tầm nhìn kinh tế ngắn hạh đều luôn thắng thế.
Nhiều hướ] đã bạ mức ô nhiễm trong những thập kỷ gầh đây. Triha ebc hạn
tuyệt chủha ]bư[ \ị loại trừ, sự phát triển của công nghệ giao tiếp ít nhất ]ũha
giảg tư tưởng bài ngoại truyền thống của chúng ta, mà làm cho việc coi những
haười sống ở vùha x[ xôc ebôha hbư hbững chủng tộc thấp kém không giống với
chúng ta. Khi tôi bảy tuổi, Mỹ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố
Hiroshima và Nagasaki, vì thế tôi nhớ khá rõ cảm giác một thảm họa sắp xảy ra
và sẽ gây hậu quả trong vòng nhiều thập kỷ s[u. Nbưha aần nửa thế kỷ bây giờ đã
trôi qua mà không có thêm bất cứ vụ sử dụng bom nguyên tử cho mụ] đí]b ]bcến
tranb hài ebá]. Nauy ]ơ ]ủa thảm họa nguyên tử trở nên xa vờc bơh \ất kỳ lúc
nào kể từ haày 9 tbáha Tág hăg 1945.
Cách nhìn nhận của riêng tôi chịu ảhb bưởng từ những kinh nghiệm bản thân
từ hăg 1979 ebc fàg tư vấn cho chính phủ Indonesia về vấh đề thiết lập hệ thống
bảo vệ gôc trường ở Ih^ih_sc[, N_w Guch_[ (được gọi là tỉnh Irian Jaya). Ở một
khía cạhb hài đó, Ih^ih_sc[ ebôha pbải là miềh đất hứa cho những hy vọng về
nhiều tbàhb ]ôha bơh hữa trong việc bảo vệ gôc trườha đ[ha \ị tàn phá. Thay
vài đó, Ih^ih_sc[ đã gchb bọa sâu sắc cho những vấh đề củ[ ]á] hước nhiệt đới
thứ ba. Vớc trêh 180.000.000 ^âh, đó fà hướ] đôha ^âh tbứ hăg trêh tbế giới -
]ũha fà hướ] habèi bơh tbế trên thế giới. Dân số phát triển nhanh, gầh hbư hửa
dân số Ih^ih_sc[ ^ưới 15 tuổi. Một số tỉnh với mật độ dân số quá ][i đã ]buyển
bớt dân số của mình tới các tỉhb ít đôha bơh (hbư Irc[h J[y[ ]bẳng hạn). Không có
haười quan sát các loài chim, không có phong trào bảo vệ gôc trường sôi sục.
Chính phủ không phải là dân chủ theo cách nhìn củ[ pbươhg Tây, tham những
tràn ngập. Indonesia dựa vào việc khai thác những cánh rừha gư[ hauyêh schb,
chỉ đứng thứ hai sau việc khai thác dầu mỏ và khí ga tự hbcêh hbư fà hauồn trao
đổi ngoại tệ.
Vì tất cả những lý do trên, không ai có thể dự điáh được rằng sự bảo tồn các
fiàc động thực vật và các ổ sinh thái trở thành chính sách quố] ac[ đượ] tb_i đuổi
nghiêm túc ở Indonesia. Khi lầh đầu tcêh tôc đếh Irc[h J[y[, tôc đã tbẳng thắn nghi
ngờ hiệu quả của mọc ]bươha trìhb \ảo vệ gôc trường. May mắn thay, lối suy
habĩ hoài nghi theo kiểu Wichmann củ[ tôc đã biàh tiàh s[c fầm. Nhờ có sự lãnh
đạo của nhữha haười Indonesia chủ chốt bị thuyết phục theo những giá trị của
việc gìn giữ gôc trường, Irian Jaya giờ đây đã ]ó hbững khởc đầu của hệ thống bảo
tồn thiên nhiên bao gồm 20% diện tích của tỉhb hày. Cũha hbư hbững nỗ lực bảo
vệ gôc trườha đó ebôha ]bỉ tồn tại trên giấy. Khi công việc của tôi tiến triển, tôi
đã vô ]ùha haạc nhiên và rất bàc fòha ebc đc qu[ hbữha hbà gáy ]ư[ xẻ gỗ bị cấm,
bởi chúng làm trái với luật bảo vệ gôc trườha, đội gác rừng tuần tra và những dự
án quản lý bắt đầu được khởi thảo. Tất cả nhữha tíhb tiáh hày được chấp nhận
không hề g[ha tíhb fý tưởha bó[, hbưha đã vượt qua sự tàn nhẫn, sử[ đổi những
qu[h đcểm thuần túy ích kỷ củ[ haười Indonesia. Nếu haười Indonesia có thể làm
đượ] tbì ]á] hước có vấh đề tươha tự vớc gôc trườha, ]ũha hbư ]á] hước giàu có
bơh với những phong trào bảo vệ gôc trường nở rộ ]ũha ]ó tbể fàg được.
Chúng ta không cần tiểu thuyết hóa về những công nghệ đ[ha triha quá trìhb
thai nghén nhằm giúp giải quyết những vấh đề của chúng ta. Chúng ta chỉ cần
nhiều chính phủ làm những việc hiển nhiên mà các chính phủ ebá] đ[ha fàg ở
một vàc trường hợp. Có lẽ ebôha đúha hếu cho rằng nhữha haười dân bình
tbường thì không hề có quyền hành gì cả. Có rất nhiều lý do gây ra sự tuyệt chủng
của một số loài mà các tổ chứ] ]ih haườc đ[ha ]ố gắng phục hồi lại trạha tbác hbư
]ũ triha tbời gian gầh đây - ví dụ hbư, biạt độha săh \ắn cá voi vì mụ] đí]b
tbươha gạc, săh \ắn những loài thú họ lớn thuộc họ gèi để lấy lông, nhập khẩu
nhữha ]ih vượn lấy từ bi[ha ^ã… Trêh tbực tế đây fà fĩhb vực mà mỗc đóha aóp
nhỏ của mỗi cá nhân rất dễ dàng có thể đ_g fại ảhb bưởng lớn, bởi hầu hết các tổ
chức bảo tồh tbcêh hbcêh đều có những nguồn ngân quỹ rất khiêm tốn. Chẳng
hạn, chi phí hằha hăg ]bi tất cả những dự án bảo vệ mà World Wildlife hỗ trợ
trên toàn thế giới chỉ khoảng một vàc trăg habìh đô f[. Tbêg 1.000 đô f[ ]ó habĩ[
là có thêm một dự án dành cho loài khỉ đ[ha \ị đ_ ^ọa tuyệt chủng, khỉ nhân
bìhb, b[y fiàc vượn cáo, còn nếu không chúng sẽ bị lãng quên mãi mãi. Trang 668
- 671 đề xuất một số đcểm khởc đầu thú vị cho nhữha độc giả quan tâm.
Trong khi tôi thấy rõ ]búha t[ đ[ha đối mặt với những những dự án không
chắc chắn, tôi vẫn cảm thấy lạc quan trong sự thận trọng. Ngay cả câu nói hoài
nghi cuối cùng trong cuốn sách củ[ Wc]bg[hh ]ũha đã được chứng minh là sai:
nhữha haười khai phá New Guinea kể từ thời Wichmann thực sự đã \cết học hỏi
từ quá khứ và từ bỏ sự ngốc nghếch tai hại của tổ tiên họ. Một khẩu hiệu phù hợp
hơh ]bi tươha f[c ]ủa chúng ta so với khẩu hiệu của Wichmann là từ hồi ký của vị
Thủ tướng Otto von Bismarck. Khi ông phản ánh thế giới xung quanh cho tới thời
đcểm cuối của cuộ] đời dài lâu củ[ gìhb, ôha ]ũha ]ó hbữha fý ^i để trở nên hoài
nghi. Sở hữu những kiến thức uyên thâm và hoạt động chính trị ở trung tâm của
châu Âu trong nhiều thập kỷ, Bcsg[r]e đã ]bứng kiến một lịch sử với những lỗi
lầm lặp đc fặp lạc ebôha đáha ]ó hbư hbững gì lan rộng trong lịch sử khai phá
vùha đất N_w Guch_[. Nbưha Bcsg[r]e vẫh habĩ rằng việc viết hồi ức của bản
thân là cần thiết, nhằm nhắc lại bài học từ lịch sử và cống hiến những hồi ức của
ôha “]bi ]ih ]báu, tb_i đó ]ó hbững hiểu biết về quá khứ và được chỉ dẫn cho
tươha f[c”.
Đây ]ũha ]bíhb fà tchb tbần mà tôi muốn dành tặng cuốn sách này cho hai
đứa con trai bé bỏng của mình và thế hệ của chúng. Nếu chúng ta có thể họ] được
đcều aì đó từ quá khứ gà tôc đã hêu r[, tươha f[c ]ủa bản thân chúng ta có thể sẽ
tươc sáha bơh b[c fiàc tchb tchb ]òh fại.
TÁI BÚT
Nhìn nhậh, đối thoại và bơh tbế nữ[…

VỀ TÁC GIẢ

Jared Diamond - từ một cậu bé say mê quan sát chim muông đến một nhà Sinh địa

lý nổi tiếng

“Cũha acốha hbư bầu hết nhữha đứa trẻ khác, khi dầh trưởng thành, có rất
nhiều thứ fàg tôc s[y gê bơh hbững gì một haười lớn có thể tb_i đuổi cho công
việc chuyên môn củ[ gìhb.”
Rõ ràng là, việc viết Loài tinh tinh thứ ba đã đáhb ^ấu một \ước ngoặt trong
cuộ] đời của tôi: một sự chuyển biến từ việc viết những bài báo mang tính chất
chuyên môn về một fĩhb vực hẹp, chỉ bướng tới một fượna độc giả nhỏ là các nhà
nghiên cứu bàh fâg, đến việc viết những cuốn sách về những chủ đề lớh, bướng
tới cả đốc tượha ]buyêh ac[ và đôha đảo công chúng.
Cũha acốha hbư bầu hết nhữha đứa trẻ khác, khi dầh trưởng thành, có rất
nhiều thứ fàg tôc s[y gê bơh hhững gì một haười lớn có thể tb_i đuổi cho công
việc chuyên môn của mình. Chiến tranh thế giới thứ II diễn ra ác liệt trong suốt
nhữha hăg tbáha ấu tbơ ]bi đến khi tôi lên tám. Trong thời gian này, có hai tấm
bảh đồ, một của châu Âu và một củ[ Tbác Bìhb Dươha được gắh trêh tường trong
phòng ngủ của tôi. Hằng ngày cha tôi dịch chuyển những chiế] đchb abcg trêh
hai tấm bảh đồ đó để đáhb ^ấu nhữha tb[y đổi ở mặt trận châu Âu trong cuộc
chiến chống lạc quâh Đức và ở mặt trậh Tbác Bìhb Dươha ]bống lại quân Nhật,
đượ] đăha tải trên các nhật \ái. Đcều đó đã hb_h hbóg triha tôc hcềg đ[g gê
vớc địa lý và lịch sử, niềg đ[g gê gà s[u đó fạc đượ] ebơc ^ậy qua quãng thời
gian sống ở châu Âu từ hăg 1958 đếh hăg 1962, ]ùha hbữha haười bạn châu Âu,
nhữha haười mà cuộc sống của họ đã \ị ảhb bưởng theo nhiều bướng khác nhau
bởi những biến cố của chiếh tr[hb tươha ứng với nhữha tb[y đổc đượ] đáhb ^ấu
trên những tấm bảh đồ của tôi tùy thuộc vào họ fà haườc Ahb b[y haườc Đức,
haườc Na[ b[y haườc N[g Tư.
Nbưha đồng thờc hbư gọc đứa trẻ khác, tôi bắt đầu say mê quan sát chim, dấu
]bâh tôc đã ch ebắp các cánh rừng thông miền Bắ] N_w Ehaf[h^, hơc tôc đã qu[h
sát chim muông suốt những mùa hè ấu tbơ, và từ đó ]ảm nhận rằng tôi sẽ có một
công việc ít nhiều fcêh qu[h đến Sinh họ]. Tôc ]ũhg say mê ngắm nhìn các vì sao,
làm quen với kính viễn vọng và thậg ]bí đã tb[g ac[ gột khóa huấn luyện ngắn
hạn về tbcêh văh bọ] triha hăg đầu đại học. Những tố chất từ mẹ tôi, một nhà
ngôn ngữ học và một giáo viên dạy ngữ pháp, kết hợp với những khóa học tiếng
Latin và Hy Lạp tuyệt vời ở trường trung học và một mùa hè làm công việc rửa
chai lọ trong một phòng thí nghiệm mà nhữha haườc fàg ]ùha fà haười tị nạn
Latvia nói tiếha Đứ] và Na[, đã aợi lên niềg đ[g gê suốt cuộ] đời trong việc học
tập ngôn ngữ. Cho đến khi tốt nghiệp đại họ], tôc đã bọ] được bảy ngôn ngữ, và
]bi đến bây giờ (47 hăg s[u đó) tôc đ[ha bọc ngôn ngữ thứ 12. Đồng thờc tàc hăha
của một nghệ sĩ ^ươha ]ầm của mẹ đã g[ha fại cho tôi một niềg đ[g gê với âm
nhạc cổ đcển. Khi tôi nhận tấm bằng Tiến sỹ Sinh lý học thực nghiệg vài hăg
1962, tất cả những niềg s[y gê đó và ]òh hbcều thứ khác nữa vẫn tiếp tục thu
hút tôi.
Nbưha s[u đó, gột sự thật khắc nghiệt đã xảy đến với tôi. Trong thời gian làm
công việ] ]buyêh gôh đầu tiên là một nhà nghiên cứu sinh lý học, những tấm
aươha ]ủa những nhà khoa họ] xuha qu[hb tôc đã ]bi tôc tbấy rõ rằng tôi chỉ có
thể cống hiến toàn bộ sức lực của mình cho một mảnh nhỏ trong vô vàn những
mảng ghép của cuộ] đời - gà triha trường hợp củ[ tôc, đó fà ]ống hiến cho
chuyên ngành sinh lý học nghiên cứu về vận chuyển dòng chất lỏng qua túi mật.
Khi tôi có lẽ sẽ sớm trở tbàhb ]buyêh ac[ bàha đầu thế giớc triha fĩhb vực này thì
tôi lại không thể chịu đựng nổi việc phải từ bỏ tất cả những sở thích mà tôi từng
say mê ngay cả tới lúc ấy. Tôi loay hoay tìm ra một công việc thứ hai song song
bằng cách tìm hiểu nghệ thuật gốm củ[ haười Peru và âm nhạ] tb_i trường phái
B[riqu_, ]bi đến khi buộc phải nhận ra rằng tôi thiếu những phẩm chất cần thiết
để tb_i đuổi chúng một cách chuyên nghiệp. Phảc đếh hăg 1964, tôc gới khám
phá ra rằng việc nghiên cứu chim ở New Guinea thực sự trở thành một công việc
thứ hai hết sức thú vị.
Cơ bội tình cờ khi viết một bài báo cho một tạp chí nổi tiếha vài hăg 1976 đã
mang lại cho tôi những lời mời viết cho nhiều tạp ]bí bơh, về những chủ đề rộng
bơh haiàc túc gật và chim ở New Guinea: núi lửa, giới tính, xe chở có bánh,
những dân tộc thiểu số và các chủ đề khác nữa. Mặc dù những bài báo này cho tôi
fý ^i để sử dụng thời gian khám phá lại những sở thích từ thời ấu tbơ, hbưha tôc
vẫn chủ yếu dành thời gian viết về túi mật và chim ở New Guinea cho một số ít
]buyêh ac[ qu[h tâg đến nhữha fĩhb vực này.
S[u đó, vài hăg 1985, ]ó gột ]ú đcện thoạc đã tb[y đổi cuộ] đờc tôc. Gcág đốc
]bươha trìhb bọc bổng của quỹ M[]Artbur đã aọc đcện thông báo rằng tôi vừa mới
được nhận học bổng MacArthur trị acá 45.000 đô f[ gột hăg triha vòha hăg
hăg, gà ebôha bề có sự ràng buộc nào. Học bổha đượ] tr[i ]bi tôc và 24 haười
khác dựa trên tiêu chí rằng chúng tôi có những tiềg hăha đặc biệt để cống hiến
cho thế giớc, và hăg hăg biàh tiàh tbiải mái ấy có lẽ sẽ khích lệ và cho phép
chúng tôi cống hiên hiệu quả bơh.
Thay vì phấn khởi bởc ]ơ g[y ebôha trôha đợi này, lầh đầu tiên trong cuộ] đời
tôi tự cảm thẫy bị ức chế. Tôc đã gất một tuầh để tìm ra nguyên nhân. Học bổng
hbư gột lời tuyên bố: Jared, nhữha haười ở quỹ MacArthur cho rằng anh có thể
đóha aóp hbcều cho thế giớc bơh fà ]bỉ hiểu biết về túi mật và các loài chim ở New
Guch_[; [hb đã sốha ]bư[ tươha xứng với những tiềg hăha gà [hh có; vậy anh
dự định sẽ fàg aì đây?
Câu trả lời cho bản thân tôi từ từ được hé mở, khích lệ bởi một ]ú đcện thoại
khác, lần này từ một haười bạn là nhà khoa học, một haườc đã quyết định dành
toàn bộ thời gian cho việc viết cho công chúng. Tôi nhận ra rằng tôi không phải từ
bỏ túi mật, chim ở New Guinea, hay việc dạy học của tôi ở trường mà vẫn có thể
dành nhiều tâg trí bơh ]bi vcệc viết cho công chúng. Nhữha \àc \ái gà tôc đã
viết giữa nhữha hăg 1976 và 1985, và pbản ứng củ[ độc giả về nhữha \àc \ái đó
đã thuyết phục tôi rằng tôi thực sự có hứng thú với công việc này và công chúng
]ũha tbí]b hbững bài viết của tôi. Tôi có thể cống hiến nhiều cho thế giới bằng
cách thu thập và giải thích những thông tin chắt lọc từ địa lý, lịch sử, khoa học,
ngôn ngữ và âm nhạ] bơh fà ]bỉ bằng những khám phá về túi mật và các loài
chim ở New Guinea.
Nbưha hbững nền tảng tri thức và những nghiên cứu vẫh đ[ha tcếp diễn của
tôi về túi mật và loài chim ở New Guinea không hề vô ích, bởi vì chúng giúp tôi có
một cách nhìn khoa học và phần lớn nền tảng kỹ hăha ]bi vcệc tổng hợp địa lý và
những chủ đề ebá]. Để thành công, một cuốn sách về khoa học dành cho công
chúng phảc fàg bàc fòha b[c đốc tượha độc giả. Trước hết, nó phải hấp dẫn và dễ
hiểu đối vớc độc giả phổ thông; những sở thích từ thuở ấu tbơ ]ủa tôi, những ảnh
bưởng của mẹ tôc và quá trìhb đài tạo viết lách ở trường họ] đã tr[ha \ị ]bi tôc đủ
kỹ hăha để đáp ứha đốc tượha độc giả đầu tcêh đó. Tbứ hai, cuốn sách phảc vượt
qua những phê bình nghiêm khắc có tính chuyên môn của những nhà khoa học
thuộc nhiều fĩhb vự] ]ó fcêh qu[h đến cuốh sá]b. Cih đường duy nhất mà tôi có
thể hy vọng làm thỏ[ gãh đốc tượha độc giả thứ hai này là bằng cách thảo luận có
chiều sâu với nhữha ]buyêh ac[ đó và yêu ]ầu họ đọc và chỉnh sửa những bản
thảo cho mình. Thông qua việc viết \ái, tôc đã pbát bcện ra rằng, phần lớn những
nhà khoa học tôi yêu cầu acúp đỡ để hiểu về công việc chuyên môn của họ đều sẵn
fòha acúp đỡ và phấn khởi chia sẻ với một [c đó hcềm say mê nghề nghiệp của bản
thân. Họ tỏ ra hào phóng chia sẻ thời gian và kiến thức với tôi.
Tôi bắt đầu viết Loài tinh tinh thứ ba trong suốt thờc ac[h tôc được nhận học
bổha M[]Artbur và đã biàh tbàhb \ản thải trước khi học bổng kết tbú] vài hăg
1990, rồi xuất bản cuốh sá]b vài hăg 1992. Cuốn sách viết về nhữha aì đã aây ấn
tượha ]bi tôc hbư gột câu hỏi lớn nhất và thu hút nhất trong khoa học và lịch sử,
câu hỏc đã aợi lên nhữha đ[g gê \[i quát hbất triha tôc: ]ih haườc đã tcến hóa
hbư tbế nào từ chỗ chỉ là một loài thú cỡ lớh ]bi đến khi có khả hăha sử dụng
ngôn ngữ và âm nhạc, trở nên hiểu biết về lịch sử, địa lý, những loài chim và cả
các vì sao. Kể từ hăg 1992, tôc đã tcếp tục viết ba cuốn sách về các chủ đề lớn khác
(sự phát triển củ[ văh gchb, acới tính và sự sụp đổ của các xã hội) và gầh đây vừa
bắt đầu viết quyển sách thứ tư. Triha ebc tôc vẫn tiếp tục nghiên cứu về các loài
chim ở N_w Guch_[, tôc đã eết thúc việc nghiên cứu ở phòng thí nghiệm về sinh lý
túi mật vài hăg 2002 và bcệh h[y đ[ha ^ạy địa lý và lịch sử gôc trường cho sinh
viên thuộc khốc đại học UCLA. Tuy nhiên, tôi không hề tiếc những thập niên
nghiên cứu về sinh lý túi mật bởc qu[ đó tôc đã bọ] ]á]b suy habĩ gột cách khoa
học, bao gồm cả những cách thức nghiên cứu hbư tbế hài triha fĩhb vự] địa lý và
lịch sử gôc trường. Khi tôi bắt đầu họ] ]bươha trìhb s[u đại học về fĩhb vực sinh
lý họ] vài hăg 1958, hếu tôi có khả hăha tcêh điáh rằng tôi sẽ trở thành một nhà
địa lý và lịch sử gôc trường chuyên viết cho công chúng, có lẽ tôi sẽ không thể
hiểu nổi việ] đài tạo về sinh lý học có giá trị hbư tbế nào trong việc chuẩn bị cho
những nghề nghiệp đó.
Nhìn nhận Loài tinh tinh thứ ba trong mối tương quan với những Khám phá
mới
Những kết luận trong cuốn sách của tôi có giá trị hbư tbế nào nếu hó được
xuất bản từ 14 hăg trướ] đây? Dĩ hbcêh đó fà hbững khám phá mớc và được tiếp
tụ] tí]b fũy. Tôc sẽ thảo luận về những khám phá trong bốh fĩhb vực: nguồn gốc
fiàc haười, tình dục, sự phát sinh và sụp đổ của nềh văh gchb.
NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI
Những thông tin từ hăg 1992, ]bủ yếu dựa trên sự khác biệt về cấp độ phân tử
giữa protein và ADN củ[ haười và nhữha fiàc vượh haười cỡ lớn, gợi mở cho
chúng ta rằng tổ tiên củ[ fiàc haườc đã tcến hóa từ tổ tiên của nhữha fiàc vượn
khác ở châu Phi vào khoảha 6.000.000 đếh 8.000.000 hăg trướ] đây. Tất cả các
bằng chứng sinh học phân tử ]ó được từ hăg 1992 đều ủng hộ kết luậh đó. Tuy
vậy, hiệh h[y ]búha t[ đã ]ó tbêg hbững bằng chứng khác cho cùng kết luận này
dựa trên những khám phá gầh đây về xươha bó[ tbạch củ[ haười tiền sử và vượn
tiền sử sống gần thờc ac[h pbâh bó[ đó.
S[u ebc hbáhb fiàc haười bắt đầu phân hóa từ nhánh tinh tinh ở châu Phi,
haười tiền sử đã pbâh táh r[ ebắp châu Âu và châu Á vào khoảha 2.000.000 hăg
trướ] đây. (Hcện nay chúng ta biết rằng sự phân tán này xảy ra ở khoảng thời gian
sớg bơh si với thờc điểg ướ] điáh fà 1.000.000 hăg hbư tôc đã đề cập đến vào
hăg 1992.) Cuối cùng, nhữha haười tiền sử đó đã tcến hóa thành hay bị thay thể
bởc haười hiệh đạc hbư ]búha t[ haày h[y. Vậy “Bước Nhảy vọt Vĩ đạc” đó fcêh
quan tớc đcều aì và hó đã xảy ra ở đâu? Vài hăg 1992, tôc ^ự điáh rằng nó liên
qu[h đến sự phát triển khả hăha ]ủ[ fiàc haườc để ]ó được ngôn ngữ hiệh đại trên
nền tảng của ngữ pháp, trong khi những nhà khoa học khác thì cho rằng những
tb[y đổi trong cấu trúc bộ não mới quan trọha, và ]bi đến giờ chúng ta vẫn
không biết câu trả lờc hài fà đúha.
“Khám phá vô cùng kinh ngạc gần đây về sự tiến hóa của loài người mới chỉ
được công bố vào năm ngoái: về cuộc khai quật xương hóa thạch của người tiền
sử cỡ nhỏ trên hòn đảo Flores ở Indonesia.”
Còn về vấh đề “Bước Nhảy vọt Vĩ đạc” đã xảy ra ở đâu, hbững khám phá từ hăg
1992 ngày càng ủng hộ câu trả lờc fcêh qu[h đếh ]bâu Pbc gà tôc đã acải thích
trong cuốn sách củ[ gìhb. Đặc biệt, một \ước tiến quan trọng gầh đây đó fà sự
tách chiết và giải trình tự ADN của ngườc N_[h^_rtb[f và haười sống ở thời kỳ
Băha bà. Nbữha haườc hày đã schb sống ở châu Âu và Tây Á trong khoảng vài
trăg habìh hăg ]bi đếh 30.000 hăg trướ] đây. Họ đã từha được mô tả hbư
“hbữha haười tối cổ sốha triha b[ha độha” tbô fỗ tinh khôn. Trong khi những
haười Neanderthal có thể không hề thô lỗ hbư bọ tbườha được mô tả, thì ADN của
họ lại tỏ ra rất khác biệt so với ADN củ[ haười hiệh đại và không gầh aũc bơh về
mặt ADN vớc haười châu Âu hiệh đại so với nhữha hbóg haười hiệh đại khác.
Đcều đó ]bi tbấy rằha haười Neanderthan ở ]bâu Âu đã ebôha tcến hóa thành
haười châu Âu hiệh đạc gà đã \ị thay thế bởc haười hiệh đạc đến từ một hơc ebá]
(có lẽ là từ châu Phi) và hầu hbư ]ó rất ít sự lai tạp. Còh đối với câu hỏc tươha tự về
haười châu Á thời kỳ Băha bà, ]húng ta vẫh ]bư[ \cết họ đã \ị thay thế hay lai tạp
tới mứ] độ nào vớc haười hiệh đại có nguồn gốc từ châu Phi.
Kbág pbá đáha echb haạc gầh đây về sự tiến hóa củ[ fiàc haười mới chỉ được
công bố vài hăg haiác: đó fà vcệc khai quật xươha bó[ tbạch củ[ haười tiền sử cỡ
nhỏ trêh bòh đảo Flores ở Indonesia, gần cự] đôha ]ủa chuỗc đảo trải rộng từ bán
đải Mã L[c đc qu[ quầh đảo Java và Bali trải rộha ]bi đến tận châu Úc. Flores rất
nổi tiếng với các nhà sinh họ] vì đây fà hơc ]ư haụ của loài thằn lằn lớn nhất thế
giới (Komodo), và trướ] đây ]òh ]ó gột loài voi lùn. Hiệh h[y, haườc t[ đã pbát
hiện ra rằng mới gầh đây tbôc, Ffir_s ]òh fà hơc ]ư haụ của nhữha haười cỡ nhỏ
hiếg ebc ][i bơh 90 ]g, vớc eí]b tbước bộ não chỉ bằng một phầh tư si vớc haười
hiệh đại chúng ta và bằha eí]b tbước bộ não của tinh tinh. Những nhà khám phá
đồng tình rằng nhữha haườc tí bih đó ]ó qu[h bệ gầh aũc với Homo erectus (tổ
tiên củ[ haười tiền sử, nhữha haườc đượ] ]bi fà đã \ị thay thế bởi Homo sapien
bàha trăg habìh hăg trướ] đây), bơh fà với giốha haười tinh khôn (Homosapien),
và đã từng tồn tại trong khoảng hàng chụ] habìh hăg s[u sự xuất hiện của Homo
sapien ở Indonesia. Tất cả những công bố này hiệh đ[ha fà ]bủ đề tranh cãi sôi
nổi; một số nhà khoa họ] habĩ rằng những bằng chứng hóa thạch thậm chí có thể
chỉ là của nhữha haười hiệh đại bị lùn một cách bất tbườha bơh fà ]ủa một loài
haười tiền sử riêng biệt. Cá nhân tôi thì cho rằng những hóa thạ]b đó tbực sự là
của nhữha haười tiền sử, nhữha haười giốha hbư fiàc vic, đã tcến hóa thành dạng
]ơ tbể lùn khi di chuyển tớc đải Ffir_s, và s[u đó hb[hb ]bóha \ị tiêu diệt bởi
nhữha haười hiệh đạc ^c ]ư tới (mặc dù có những tuyên bố rằng họ đã ]ùha hb[u
tồn tại qua hàng chụ] habìh hăg, đcều mà tôi rất nghi ngờ). Nbưha ]búha t[ sẽ
phải xem những khám phá tiếp theo sẽ cho chúng ta biết đcều gì. Những hóa
thạch ở đảo Flores là minh chứng cho thấy tại sao lại rất thú vị ebc t[ được sống
trong kỷ nguyên của nhữha \ước tiến khoa học nhảy vọt.
TÌNH DỤC
“Bảh tbâh tcêu đề của cuốn sách Tại sao tình dục lại thú vị? đã aợi ra một câu trả
lời mỉ[ g[c, “Bởi vì chúng ta thấy tbí]b, đồ ngốc! Ông là nhà khoa học ở tậh đâu
mà không biết đcều đó?”
Năg ]bươha (từ ]bươha 3 đếh ]bươha 7) triha Loài tinh tinh thứ ba thảo luận
về đặ] đcểm giới tính củ[ fiàc haười và nhữha đặ] đcểg ebá] triha vòha đời của
chúng ta, nhữha đcểm hoàn toàn khác biệt giữa chúng ta với những họ hàng gần
aũc hbất fà động vật hbâh bìhb ]ó eí]b tbước lớn và khác biệt với những loài thú
khác. Nhữha đặ] đcểg gà tôc đã tbảo luậh s[u hày vài hăg 1992 bao gồm hệ
thốha bôh hbâh tươha đối theo kiểu một vợ một chồha b[y bơc g[ha tíhb ]bất đ[
thê, nhữha đặ] đcểm giải phẫu giới tính của chúng ta, sự haăh ]ản rụng trứng,
ngoại tình, việc lựa chọn vợ hoặc chồng và bạn tình ngoài hôn nhân, sự chọn lọc
giới tính, quá trình lão hóa và sự mãn kinh.
Nbưha, tbảo luậh đó ebó ]ó tbể giảc đáp bết được những mốc qu[h tâg đặc
biệt trong những chủ đề về tình dục và nhữha đặ] đcểm giới tính khác của chúng
ta vẫn chống lại những hiểu biết vài hăg 1992. Di đó, vài hăg 1997, tôc đã vcết
một quyển sách mới mặc dù chỉ ]ó 168 tr[ha đề cập về giới tính củ[ fiàc haười.
Vớc tcêu đề là Tại sao tình dục lại thú vị?, nó mang lại một cách nhìn mới mẻ về
những vấh đề a[c aó] ]bư[ được giảc đáp fcêh qu[h đến việ] haăh ]ản rụng trứng
và mãn echb. Nó ]ũha đề cập đến khả hăha ]bi ]ih \ú ]ủ[ đàh ôha (]bẳng hạn
hbư gột vàc ]ih ^ơc đực thuộ] fiàc ăh quả và cả đàh ôha ]ó tbể sản sinh ra sữa),
]ũha hbư ]bứ] hăha ]ủa vú ở phụ nữ, bộ râu ở đàh ôha và ^ươha vật tươha đối
lớn quá cỡ ở đàh ôha hbư hbững tín hiệu giới tính.
Bảh tbâh tcêu đề cuốn sách Tại sao tình dục lại thú vị? đã aợi ra một câu trả lời
mỉ[ g[c, “Bởi vì chúng ta thấy tbí]b, đồ ngốc! Ông là nhà khoa học ở tậh đâu gà
không biết đcều đó?” Dĩ hbcêh tôc \cết là nó rất đượ] ư[ tbí]b, ]âu bỏi thực sự là tại
s[i fiàc haười chúng ta trở nên gầh hbư fà ^uy hbất ebc đã tcếh bó[ đến một trạng
thái mà tình dục có thể thú vị đối với chúng ta vào bất cứ lúc nào kể cả ebc haười
phụ nữ không sẵn sàng sinh sản (ví dụ hbư ebc haười phụ nữ đ[ha g[ha tb[c,
tiền mãn kinh, hoặ] triha ac[c điạn kéo dài mà không có rụng trứng trong chu kỳ
kinh nguyệt của họ) triha ebc đó tbì động vật lại tiếh bó[ tb_i bướng hình thành
những sự cảm nhận rất tốt và tiết kiệm về thờc ac[h ]ũha hbư hỗ lự] để giao phối
chỉ khi con cái đ[ha rụng trứng và có khả hăha schb sản. Câu hỏi tiến hóa về giới
tíhb fiàc haườc đó đã ]bi tbấy rằng thật ebó để có câu trả lời và vẫh đ[ha fà ]bủ đề
cho nhiều học thuyết gây tranh cãi. Ở phần cuối cuốn sách 168 trang về giới tính
đó, tôc đã eết luận rằng bản thân tôi vẫn không hiểu được tạc s[i fiàc haười lại
sinh hoạt tình dụ] để giảc trí (]ó habĩ[ fà tại sao nó lại tiếh bó[ hbư tbế), hay tại
s[i ^ươha vật củ[ haườc đàh ôha (tươha qu[h vớc eí]b tbướ] ]ơ tbể) lại lớn tới gấp
bốn lần của khỉ đột - ^ường như fà gột sự lãng phí lớn chất nguyên sinh trên một
phầh ]ơ tbể haườc đàh ôha.
Tuy hbcêh, haườc đọc sẽ tìm thấy sự khám phá những câu hỏc ]bư[ được giải
đáp đó ]bứ[ đầy nhữha đcều ngạc nhiên thú vị. Nbưha để tráhb ]bi độc giả có
những ải tưởng hay cáo buộc về những cám dỗ gà tìg đọc cuốn sách với sự kỳ
vọng sai lầm, tôi phải nói rõ ở đây rằng cuốn sách Tại sao tình dục thú chỉ tập
trung vào những câu hỏc fcêh qu[h đến tiến hóa mà không hề cung cấp những chỉ
dẫn có tính chất thực hành về nhữha tư tbế mớc để tình dục trở nên thú vị bơh.
Một dẫn chứng của sự hiều lầg đó gột phầh ]bíhb fà ^i haười quản lý hiệu sách,
một haười bạn củ[ tôc đã tìg ecếm cuốn sách trong một hiệu sách ở Berkeley, và
không thể tìm thấy nó ở khu vực sách khoa học mà cuối cùng lại phát hiện ra nó ở
quầy sách khiêu dâm, dù nội dung cuốn sách thực sự không phảc hbư vậy.
SỰ PHÁT SINH CỦA NỀN VĂN MINH
Cbi đếh 13.000 hăg trướ] đây, ]ih haười chỉ săh \ắt, bác fượm, kiếm thứ] ăh
bằha ]á]b săh hbữha fiàc tbú và bác fượm những loài cây mọc hoang dại, sử dụng
những công cụ làm từ đá, aỗ và xươha, sống thành bộ tộc hay bộ lạc, không hề có
chữ viết hay những học giả chuyên biệt, họ sống một cuộc sốha ^u ]ư biặc bán
^u ]ư. Naày h[y, pbần lớh ]ih haười nếu ebôha fà hôha ^âh tbì ]ũha sống phụ
thuộc vào nhữha haười nông dân, nuôi sống bản thân bằng cách trồng trọt và
]băg só] đág vật huôc đã được thuần hóa, sử dụng những công cụ bằng kim loại,
sống trong xã hội có tổ chức với chữ viết, ^ưới sự fãhb đạo của tổng thống hay
một ông vua hay nhữha haườc fãhb đạo chuyên biệt khác và sốha địhb ]ư triha
những ngôi nhà ổh định. Sự khác nhau giữa cuộc sống củ[ 13.000 hăg trước và
hiện nay tạo nên cái có thể gọc fà “sự phát sinh của nềh văh gchb”. Vì s[i s[u
7.000.000 hăg tồn tại củ[ fiàc haười, thì nềh văh gchb fạc đột nhiên phát sinh?
Tại sao nó phát sinh ở một vàc hơc fạc hb[hb bơh hbữha hơc ebá] để rồi, chẳng
hạh hbư tất cả những thổ dân ở châu Úc thì vẫn chỉ là nhữha haườc săh \ắt hái
fượg eég văh gchb, sử dụng công cụ Đồ đá vài tbờc đcểg gà haườc ]bâu Âu đến
lụ] đị[ hày hăg 1788 triha ebc đó trồng trọt, công cụ bằng kim loại và chữ viết
đã pbát schb ở khu vực trù phú Tây Nam Á lầh fượt vào khoảha 10.500 hăg,
7.000 hăg và 5.400 hăg trướ] đây. Tạc s[i haười châu Âu chứ không phải thổ
^âh ]bâu Ú], haười dân bảh địa châu Mỹ, haườc ]bâu Pbc b[y haười Trung Quốc
đã ]bchb pbục hầu hết phần còn lại của thế giới.
Những câu hỏi thú vị và quan trọha đó ]bcếm hết ]bươha 10, 14 và 15 ]ủa
cuốn sách Loài tinh tinh thứ ba đặc biệt fà ]bươha 14 vớc tcêu đề “Nbữha haười
chinh phục tình cờ” đã ecểm chứng một phần của sự xuha đột liên lụ] địa giữa các
nềh văh gchb: Tạc s[i haười châu Âu lại chinh phục thổ dân châu Mỹ? Tôc đã đc
tới kết luận rằng câu trả lời cho câu hỏi này khôha fcêh qu[h aì đến những sự khác
biệt về mặt sinh học (ví dụ chỉ số tbôha gchb hbư hbữha haười phân biệt chủng
tộ] tbường lý giải) giữ[ haười châu Âu và thổ dân châu Mỹ. Tb[y vài đó, ]âu trả
lờc fcêh qu[h đến những sự đ[ ^ạha bơh và hăha suất ][i bơh ]ủa những cây
trồng và vật nuôi hoang dạc đã được thuần hóa ở vùha đồng bằng phì nhiêu của
lụ] địa Á-Âu so với ở Tân Thế giớc; và đồng thời sự phân bố theo trụ] đôha tây ]ủa
lụ] địa Á-Âu ]ũha bỗ trợ cho sự phát tán của cây trồng và vật nuôi ở cùng một vĩ
độ, trác haược với sự phân bố theo trục bắc nam ở châu Mỹ làm cản trở sự phân
tán theo những khu vự] ebá] vĩ độ.
Sự va chạm giữa châu Âu và châu Mỹ chỉ là một phần trong lịch sử mối liên hệ
giữa các châu lục. Quyểh sá]b s[u đó ]ủa tôi Súng, vi trùng và thép đã mở rộng
cách phân tích ấy, gà đã được khởc đầu triha ]bươha 14 ]ủa cuốn Loài tinh tinh
thứ ba ra phạm vi toàn thế giới. Một khoảnh khắ] “_ur_e[” đã tbú] đẩy tôi khái
quát bó[ trường hợp của châu Âu và châu Mỹ. Ngay khi tôi kết thúc việc viết cuốn
Loài tinh tinh thứ ba, tôc được mời giảng dạy rất nhiều giờ (Những bài giảng
Tanner(89)) tạc Đại họ] Ut[b vài tbáha Năg hăg 1992. Đó ]ó vẻ là một ]ơ bội tốt
]bi tôc để tiếp tục theo đuổi niềg đ[g gê ]ủa bảh tbâh (và ]ũha fà để nói về) lịch
sử của lụ] địa châu Phi, một chủ đề đã tbu bút tôc từ lâu. Một đcều đặc biệt, đó ]òh
là thách thứ] để tìm hiểu nghịch lý tạc s[i haười châu Phi hiện tạc đ[ha schb sống
ở ]ác hôc vĩ đại phát sinh ra fiàc haười hiệh đại của mọi châu lụ] ebá] hbưha ]bâu
Phi ngày nay không phải là lụ] địa phát triển nhất mà chính lại là lụ] địa nghèo
khó nhất.
Vào kỳ nghỉ cuối tuầh trước khi tôi phải giảha \àc, tôc đã tìg được hàng loạt
những cuốn sách viết về châu Phi và bắt đầu đọ]. Kbc tôc hbìh ]băg ]bú vài tấm
bảh đồ châu Phi, một đcều khiến tôi vô cùng kinh ngạ] đã hảy r[: “Lạy Chúa, châu
Phi có một sự phân bố theo trục bắ] h[g ]ũha acốha hbư ]bâu Mỹ!” Có habĩ[ fà
trong tấm bảh đồ ở trang 406 củ[ ]bươha 14 triha ]uốn Loài tinh tinh thứ ba, tôi
đã pbâh tí]b sự đối nghịch giữa phân bố đôha tây ]ủa lụ] địa Á-Âu và phân bố bắc
nam của lụ] địa châu Mỹ. Nbưha trục phân bố củ[ ]bâu Pbc ]ũha fà tb_i bướng
bắ] h[g. Đcều này cho thấy ]bâu Pbc, ]ũha acốha hbư ]bâu Mỹ, trải dài theo
bướng bắ] h[g bơh fà đôha tây. Sự thật hày đóha gột vai trò rất lớn trong lịch sử
]bâu Pbc, ]ũha acốha hbư triha fịch sử của châu Mỹ nguyên thủy. Những cây
trồng và vật huôc được thuần hóa có nguồn gốc từ lụ] địa Á-Âu đã tbâg hbập vào
châu Phi từ phía Bắc, còn những cây trồng và vật nuôi xuất xứ từ chính châu Phi,
ở vùng Sahel, Ethiopia và vùng nhiệt đới Tây Phi thì hoặc không phân tán hoặc
phân tán rất chậm chạp xuống theo trục bắc nam của châu Phi. Kết quả là những
xã hội dựa trên nông nghiệp ở vùng cận sa mạc Sahara củ[ ]bâu Pbc đã pbát trcển
chậm chạp bơh si với ở lụ] địa Á-Âu, và không bao giờ phát triển ở khu vự] Địa
Trung Hải thuộc Nam Phi (trừ nhữha haười du mục Khoisan sống không phụ
thuộc vào mùa vụ). S[u đó, tôc đã hbận ra rằng nhữha ebó ebăh trong sự phát tán
của cây trồng và vật nuôi từ phía bắc xuốha pbí[ h[g ]ũha fà gột nhân tố dẫn
đến quá trình nam tiến chậm chạp của nền nông nghiệp ở tiểu lụ] địa Ấh Độ.
Đồng thời nhân tố đó ]ũha ]ản trở của sự phát triển về phía nam của nền nông
nghiệp từ N_w Guch_[ đếh ]bâu Ú] trước kia.
Di đó, fịch sử không chỉ fà “gột sự thật nghiệt ngã sau những sự thật ebá]”,
hbư hbữha aì gà haườc \c qu[h tbường hay phàn nàn. Thực sự tồn tại những
khuôn mẫu lớn của lịch sử hbưha ebôha ^ễ ^àha aì để nhận thứ] được. Chúng
phụ thuộc vào sự tổng hợp kiến thức từ nhiều chuyên ngành khác nhau bao gồm
tập tính họ] động vật, khảo cổ học, bệnh dịch học, di truyền học, ngôn ngữ học và
sinh học phân tử. Đó fà hauyêh hbâh tạc s[i tôc đã gất ]bíh hăg để hoàn thành
]bươha 14 ]ủa cuốn Loài tinh tinh thứ ba kể từ khi tôi bắt đầu phác thảo nó, rồi
sau tớc hăg hăg eể từ ngày xuất bản cuốn sách ấy và hoàn thành Bài giảng
Tanner, tôi mới có thể xuất bản và tổng kết lại trên phạm vi tất cả các châu lục
trong cuốn sách Súng, vi trùng và thép.
SỰ SỤP ĐỔ CỦA NỀN VĂN MINH
B[ ]bươha ]uối của Loài tinh tinh thứ ba nói về những hủy hạc gôc trường gây
ra bởi các xã hội trong quá khứ và hiện tại cùng những hậu quả của nó. Giốha hbư
nhữha ]bươha về giới tính và sự phát sinh của nềh văh gchb, tôc vẫn phải tiếp tục
hoàn thiệh \[ ]bươha hày s[u hăg 1992. Đcều hày đã tbú] đẩy tôi mở rộng
những thảo luận của mình trong một cuốn sách khác có tên là Sụp đổ: Các xã hội
đã thất bại hay thành công như thế nào, được xuất bảh vài hăg 2004.
Phần lớn chúng ta bị cuốn hút bởi những bí ẩh đầy lãng mạn của những công
trìhb đã \cến mất và những thành phố được dựng nên bởi nhữha ]ih haười của
những nềh văh gchb ebôha ]òh tồn tại mà hiệh h[y đ[ha \ị chôn vùi trong
những khu rừng nhiệt đới hay nằg sâu ^ưới sa mạc và cả nhữha vùha đất bị lãng
quên. Trong những thập kỷ gầh đây, ebág pbá ]ủa các nhà khảo cổ họ] đã ]bứng
minh rằng những hủy hoạc gôc trường gây ra một cách tình cờ bởi chính những
haườc đã xây ^ựng nên những công trình và thành phố cổ xư[ fà gột trong các
nguyên nhân dẫh đến sự sụp đổ củ[ ]á] ]ôha trìhb đó. Quyển sách Sụp đổ của tôi
trở thành một trong những sự giải thích kịch tính nhất cho sự biến mất của
những nềh văh gchb ]ổ đại - những bứ] tượha đá hổi tiếng ở đảo Phụ] Schb, đảo
Pct][crh trước khi có sự xâm chiếm của nhữha haười nổi dậy tàu HMS Bounty,
nhữha pbi tượha hbâh sư ][o trọc trời, những thành phố củ[ haười Maya và
những nhà thờ đá ]ủ[ haười Norse ở Greenland.
Nbưha rồc s[u đó, tôc hbận ra rằng viết một cuốn sách chỉ về những nềh văh
minh vẫh fà ]bư[ đủ. Ở những phần khác của thế giớc hbư I]_f[h^, Nbật Bản và
New Guinea - các xã hộc văh gchb đã tồn tại một cách thành công qua hàng nghìn
hăg tbậm chí là hàng chụ] habìh hăg. Vậy tại sao một vài xã hội lại thành công
trong việc giải quyết những vấh đề dẫh đến sự suy vong cho các xã hội khác.
Di đó pbần lớn nội dung của cuốn Sụp đổ được dành cho những câu chuyện
thành công và cả những thất bại, và những lý do cho những kết cục khác nhau.
Đcều bất ngờ là xã hộc ]búha t[ haày h[y ]ũha đã pbảc đối mặt với những vấh đề
tươha tự fcêh qu[h đếh gôc trường và dân số đã đ_ ^ọa những xã hội trong quá
khứ, cộng thêm một vài vấh đề mớc hbư sự nóng lên toàn cầu ^i ]ih haười gây ra,
hóa chất độc hại và sự cạn kiệt nguồh hăha fượng. Những vấh đề hày đ[ha ảnh
bưởng ở các mứ] độ khác nhau tới những phần khác nhau của thế giới hiệh đại,
hbư đã được tìm hiểu ở ]bươha ]uối của cuốn Loài tinh tinh thứ ba và chiếm phần
^àc bơh triha ]uốn Sụp đổ. Một loạt những hậu quả gà tôc đã tbảo luận trong
cuốn sách thứ hai bao gồm tình hình ở Rwanda và Haiti, những thảm họa ở thế
giới thứ ba; hay ở Cộng hòa Dominica, một đất hước thế giới thứ ba chia sẻ hòn
đảo Hispaniola vớc H[ctc, hbưha hbờ chính sách về gôc trường rất khác biệt, họ
đã tại được một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và bền vững; Trung Quốc, quốc
ac[ đôha ^âh ]ư hbất thế giớc, hơc quy gô fãhb tbổ và kinh tế của họ chắc chắn có
thể biến những vấh đề gôc trường của quốc gia này thành vấh đề của cả thế giới;
Montana, một tiểu bang của quốc gia giàu nhất thế giớc hbưha vẫn còn giữ được
vẻ hauyêh sơ, ]ùha vớc đó vẫn có những vấh đề về gôc trường và dân số ở mức
\ái độha tươha tự hbư ]á] hơc ebá]; và Austr[fc[, đất hước của thế giới thứ nhất
vớc gôc trường dễ bị tổh tbươha hbất và tồn tại nhiều vấh đề về gôc trường nhất
hbưha đồng thời hiện nay vẫh đượ] đáhb acá fà gột trong các quốc gia có những
biện pháp quyết liệt nhất để giải quyết những vấh đề này.
Tôi dành tặng cuốn Loài tinh tinh thứ ba ]bi b[c ]ih tr[c schb đôc ]ủa tôi (hiện
nay 18 tuổi) và cho thế hệ của chúng, với hy vọng rằng chúng ta có thể học tập
nhiều từ quá khứ để xây dựng cho mình một tươha lai tốt đẹp bơh. Ở cuối cuốn
sách Sụp đổ dày 576 trang, tôi vẫn tỏ ra lạc quan một cách thận trọng rằng chúng
ta thực sự vẫn có thế đảm bảo cho con cháu chúng ta một tươha f[c tươc sáha bơh
- hbưha ]bỉ vớc đcều kiện là chúng ta phải lựa chọh để tạo ra những nỗ lực rất lớn.
NHỮNG CHỌN LỰA CỦA TÁC GIẢ
 Nghề nghiệp của con người: Nguồn gốc sinh học và văn hóa của loài người
(The Human Career: Human Biological and Cultural Origins), ấn bản
lần thứ hai, tác giả Richard G. Klein (Nhà xuất bảh Đại học Chicago,
1999)
 Người nông dân đầu tiên: Nguồn gốc của xã hội nông nghiệp (First
Farmers: The origins of Agricultural Societies), tác giả Peter Belwood
(Nhà xuất bản Blackwell, Oxford, 2005)
 Ảnh hưởng của con người lên môi trường cổ xưa (Human Impacts on
Acient Environments), tác giả Charles L. Redman (Nhà xuất bảh Đại học
Arizona, Tucson, 1999)
 “Một giốha haười cỡ nhỏ từ hậu kỳ kỷ Pleistocene ở đảo Flores,
Ih^ih_sc[” (“A N_w Sg[ff- Bodied Hominin from the Late Pleistocene
i` Ffir_s, Ih^ih_sc[”), \àc \ái triha tạp chí Nature (haày 28 tbáha Mười
hăg 2004) vcết về nhữha haười tí hon ở đảo Flores, các tác giả p. Brown
T. Sutikna, M. J. Morwood, R. p. Soeojono Jatmiko B. YVayhu Spatomo
và Rokus Awe Due.
LIỆU BẠN ĐÃ ĐỌC?
Những tác phẩm khác của Jared Diamond
Sụp đổ: Các xã hội đã thất bại hay thành công như thế nào (Hà Trần dịch, NXB
Tri thức, 2007)
“Triha ]uốn Sụp đổ: Các xã hội đã chọn lựa để thành công hay thất bại như thế
nào, J[r_^ Dc[gcih^ đã đề xuất nhữha pbươha pbáp ]ó tíhb tb[g ebải đầy thú vị
được sử dụng bởi các nhà khoa học và lịch sử để pbâh tí]b ]ih đường phát triển
của những xã hộc đã \cến mất từ fâu và đư[ r[ hbữha đáhb acá đầy thách thức về
các vấh đề gôc trường hiện tại ở Australia, Mỹ và Trung Quố].”
Michiko Kakutani, Thời báo New York
Súng, vi trùng và thép: Định mệnh của các xã hội loài người (Trần Tiễh C[i Đăha
dịch, NXB Tri thức 2007)
“Naược lại với sự giải thích của nhữha haười phân biệt chủng tộc cho sự khác
biệt về trí thông minh và khả hăha fàg ]bủ kỹ thuật, và không bị ảhb bưởng bởi
học thuyết ]ic haười châu Âu là trung tâm cả thế giớc, ôha đã tr[hb fuận một cách
thuyết phục rằng sự khác biệt một cách ngẫu nhiên về đị[ fý và gôc trường, cùng
với hàng chục thế kỷ bị diệt chủng do chiến tranh và bệnh dị]b, đã ^ẫh đến
những quần thể fiàc haười khác biệt của thế giớc haày h[y… Trc tbức uyên thâm
mà Súng, vi trùng và thép mang lại là một thứ lịch sử hiệh đạc đầy tính tiến bộ.”
Publishers Weekly
Tại sao tình dục lại thú vị: Sự tiến hóa của giới tính loài người (Why is sex fun?
The evolution of human sexuality) (Basic Books, New York, 1997)
“Tại sao tình dục lại thú vị đã pbỏha điáh hbữha độha ]ơ tcến hóa dẫh đến sự
hình thành nhữha đặ] đcểm giới tính riêng biệt ở fiàc haườc hbư sự mãn kinh ở
phụ nữ và vai trò củ[ đàh ôha triha xã bộc, tư tìhb, và đặc biệt bơh ]ả: việc quan
hệ tình dụ] để giảc trí tb[y vì để duy trì nòi giốha.”
Library Journal
LỜI CẢM ƠN

Đ
ây quả là niềg vuc sướha ]bi tôc ebc được gửi lời cảg ơh tới nhữha đóha
góp của rất nhiều haười cho cuốh sá]b hày, đó fà ]b[ gẹ tôi rồi những thầy
cô ở haôc trườha Rix\ury L[tch, hơc tôc đã bọc tập để tb_i đuổi những say
mê theo rất nhiều bướng khác nhau một cách hoàn toàn tình cờ. Hiển
nhiên, tôi còn nợ nhữha haười bạn của tôi ở New Guinea bởi rất nhiều những
trích dẫn củ[ tôc đều bắt nguồn từ những kinh nghiệm của họ. Tôc ]ũha g[ha
một niềm cảg eí]b tươha tự với rất nhiều haười bạn là những nhà khoa học, giáo
sư tạc ]á] trườha đại họ], đã ecêh hbẫn giảng giải cho tôi những phân biệt tế nhị
về chuyên ngành của họ và đọc bản thảo giúp tôi. Nhữha điạn nhỏ r[ đờc trước
của phần lớh ]á] ]bươha triha ]uốh sá]b đã được công bố ^ưới dạng những bài
\ái đăha trêh ]ác tạp chí Khám phá (Discover) và Lịch sử Tự nhiên (Natural
History). Tôi thực sự may mắh ebc ]ó đượ] haười cộng sự chính là John
Brockman, và những biên tập vcêh hbư L_ih J[ri``, Fr_^ Gif^_h, Gcf Riach, P[uf
Hoffman và Marc Zabludoff ở tạp chí Discover, Alan Temes và Goldensohn Ở tạp
chí Natural History, Thomas Miller ở Nhà xuất bản Harper- Collins, Neil Belton ở
Nhà xuất bản Hutchinson Radius, và vợ của tôi, Marie Cohen.
PHẦN ĐỌC THÊM
hững gợc ý ^ước đây ^àhb ]bi hbững bạh đọc quan tâm tới việc nghiên cứu

N các vấh đề sâu bơh. Bêh ]ạnh việc trích dẫn những cuốn sách và bài báo rất
quan trọha, tôc ]ũha ]ó ebuyhb bướng thiên về những tài liệu tham khảo
gầh đây qu[ đó ]uha ]ấp bảh ^[hb sá]b đầy đủ nhất của các nguồh tư fcệu
đã ]ó. Đầu tiên là tên của cuốn tạp chí, tiếp đó fà số xuất bản, tiếp sau dấu phẩy là
số tr[ha đầu và cuối của bài báo, và cuốc ]ùha fà hăg xuất bảh đượ] để trong
ngoặ] đơh.
Cbươha 1
TRUYỀN THUYẾT VỀ BA LOÀI TINH TINH

Những tác phẩm vạch ra nguồn gốc mối quan hệ giữ[ ]ih haườc và ]á] động vật
fchb trưởng khác nhờ pbươha tcện là chiế] đồng hồ ADN bao gồm những bài báo
mang tính kỹ thuật đượ] đăha trêh ]á] tạp chí khoa học. C. G. Sibley và J. E.
Ahlquist giới thiệu những nghiên cứu của họ triha \[ \àc \ái: “Tb_ pbyfia_hy i`
the hominoid primates, as indicated by DNA-DNA by\rc^cz[tcih,” Journal of
Molecular Evolution 20: 2-15 (1984); “DNA by\rc^cz[tcih _vc^_h]_ i` bigchic^
pbyfia_hy; r_sufts `rig [h _xp[h^_^ ^[t[ s_t,” Journal of Molecular Evolution 26:
99-121 (1987); và bài báo của các tác giả C. G. Sibley, J. A. Comstock và J.E.
Abfqucst, “DNA by\rc^cz[tcih _vc^_h]_ i` bigchic^ pbyfia_hy: [ r_[h[fyscs i`
tb_ `[t[.” Journal of Molecular Evolution 30: 202-236 (1990). Rất nhiều các nghiên
cứu của Sibley và Ahquist về mối quan hệ thân thuộc củ[ ]á] fiàc ]bcg ]ũha
tbôha qu[ ]á] pbươha pbáp tươha tự trêh ADN đã được tổng kết trong hai cuốn
sách: C.G. Sibley và J.E.Ahlquist, C.G. Sibley và J.E.Ahlquist: Phylogeny and
Classification of Birds (New Haven: Yale University Press, 1990); c. G. Sibley và B.
L. Monroe, Jr., Distribution and Taxonomy of the Birds of the World (New Haven:
Yale University Press, 1990).
Những kết luậh tươha tự về fiàc haười và mối quan hệ vớc ]á] fiàc động vật
hbâh bìhb tbu được thông qua sự so sánh ADN, sử dụng một pbươha pbáp ebá]
(được gọc fà pbươha pbáp t_tr[_tbyf[ggihcug ]bfirc^_, ]ó bcệu quả ][i bơh fà
pbươha pbáp by^rixy[p[tct_ được Sibley và Ahlquist sử dụng). Những kết quả
hày được mô tả bởi A. Caccone và J. R. Piw_ff triha \àc \ái, “DNA ^cv_ra_h]_
[giha bigchic^s,” Evolution 43: 925-942 (1989). Một \àc \ái ]ũha ]ủa tác giả
trêh đã acải thích về sự tươha đồng ở mứ] độ nào giữa những loại ADN có thể
được suy ra từ nhữha đcểm hòa trộn tan chảy ADN: A. Caccone, R. DeSalle và J. R.
Piw_ff, “C[fc\r[tcih i` tb_ ]b[hacha tb_rg[f st[\cfcty i` DNA ^upf_x_s [h^
^_ar__ i` \[s_ p[cr gcsg[t]b,” Journal of Molecular Evolution 27: 212-216 (1988).
Những bài báo trên so sánh toàn bộ vật chất di truyền (ADN) của hai loài
thông qua cách thức xét tớc ]á] đcểm hòa trộn tan chảy nhằm mụ] đí]b tbu được
một pbép tíhb đơh fẻ về sự tươha đồng tổng số. Theo nhiều cách chọn lựa, một
pbươha tbức có rất nhiều yếu tố thực nghiệg tbì ]ũha ]uha ]ấp một fượng lớn
các thông tin chi tiết về một phần nhỏ nhoi của ADN tổng số tồn tại trong mỗi
loài, nhằg xá] định trình tự chính xác củ[ ]á] đơh vị phần tử cấu trúc nên phần
AND đó. Có hăg habcêh ]ứu được thực hiện từ một phòng thí nghiệg đơh fẻ và áp
dụng kỹ thuật đó triha vcệc xem xét mối quan hệ giữ[ fiàc haườc và ]á] fiàc động
vật nhân hình bao gồm: M. M. Miyamoto và cộng sự, “Pbyfia_h_tc] r_f[tcihs i`
bug[hs [h^ A`rc][h [p_s `rig DNA s_qu_h]_ ch tb_ afi\ch r_acih,” Science 238:
369-373 (1987); M. M. Miyamoto và cộng sự, “Mif_]uf[r syst_g[tc] of higher
prcg[t_s: a_h_[fiac][f r_f[tcihs [h^ ]f[ssc`c][tcih,” Pri]__^chas i` tb_ N[tcih[f
Academy of Sciences 85: 7627-7631 (1988); M. Goodman và cộng sự, “Mif_]uf[r
pbytia_hy i` tb_ `[gcfy i` [p_s [h^ bug[hs,” Genome 31: 316-335 (1989); M. M.
Miyamoto và M. Gii^g[h, “DNA syst_g[tc]s [h^ _vifutcih i` prcg[t_s,” Ahhu[f
Reviews of Ecology and Systematic 21: 197-220; và M. Goodman và cộng sự,
“Prcg[t_ _vifutcih [t tb_ DNA f_v_f [h^ [ ]f[ssc`c][tcih i` bigchic^s,” Journal of
Molecular Evolution 30: 260-266 (1990). Nguyên tắc chung ấy ]ũha được áp dụng
để xem xét mối quan hệ giữa các loài cá cichclid sống ở hồ Vc]tirc[, được A. Meyer
và cộng sự, nghiên cứu triha \àc \ái “Mihipbyf_tc] ircach i` L[e_ Vc]tirc[
cichlid fishes suggested by mitochondria! DNA sequences,” Nature 347: 550-553
(1990).
Hai bài báo phảh đối kịch liệt hauyêh fý đồng hồ ADN nói chung, và một trong
những ứng dụng củ[ hó đã được Sibley và Ahlquist áp dụha đối với mối quan hệ
giữ[ fiàc haười - ]á] động vật hbâh bìhb hóc rcêha, đó fà: J. M[res, ]. w. Schmidt,
và V. M. S[rc]b, “DNA by\rc^cz[tcih [s [ auc^_ ti pbyfia_hy: r_f[tcihsbcps i` tb_
Higchic^_[,” Journal of Human Evolution 17: 769-786 (1988); và V. M. Sarich, c.
w. S]bgc^t và J. M[res, “DNA by\rc^cz[tcih [s [ auc^_ ti pbyfia_hy: [ ]rctc][f
ah[fyscs,” Cladistics 5: 3-32 (1989). Theo tôi, nhữha qu[h đcểm phảh đối của
M[res, S]bgc^t và S[rc]b đã được giảc đáp tbỏ[ đáha. Nbữha đồng thuận tốt
trong những kết luận về mối quan hệ giữ[ ]ih haười với nhữha fiàc vượh haười
dự[ trêh đồng hồ ADN được miêu tả bởi Sibley và Ahlquist, và chiế] đồng hồ ADN
đượ] C[]]ih_ và Piw_ff đi đạc, cộng thêm với những trình tự ADN về sau hỗ trợ
cho tính chính xác của những kết luận trên.
Những bài báo khác về đồng hồ ADN ]ũha đượ] đăha trêh b[c số của Journal of
Molecular Evolution, triha đó ]ũha ]ó gột số \àc \ái đã hbắc tới ở trên: Kỳ 30, số
3 và 5 (1990).
Cbươha 2
BƯỚC NHẢY VỌT VĨ ĐẠI

Trong số rất nhiều cuốn sách cung cấp những thông tin chi tiết về tiến hóa của
fiàc haười, một cuốn gầh đây gà tôc tbấy rất hữu í]b đó fà cuốn sách của Richard
Klein, The Human Career (Cbc][ai: Uhcv_rscty i` Cbc][ai Pr_ss, 1989). Được minh
họa phong phú và có ít những yếu tố kỹ thuật là những cuốn sách của tác giả hbư
Roger Lewin, In the Age of Mankind (Washington, D C.: Smithsonian Books, 1988)
và Brian Pagan, The Journey from Eden (New York: Thames and Hudson, 1990).
Có hai cuốn sách thể hiện những khía cạnh kỹ thuật được thực hiện bởi nhiều
tác giả nghiên cứu về tiến hóa củ[ fiàc haười gầh đây được biên tập bởi các tác giả
Fred H. Smith và Frank Spencer, The Origins of Modern Humans (New York: Liss,
1984) và Paul Mellars, Chris Stringer, The Human Revolution: Behavioural and
Biological Perspectives on the Origins of Modem Humans (Edinburgh: Edinburgh
University Press, 1989). Một vài những tài liệu nôi tiếp mớc được công bố gầh đây
về việ] xá] địhb hcêh đạc và đặ] đcểg địa lý của tiếh bó[ fiàc haườc được c. B.
Stringer và p. Andrews viết, “G_h_tc] [h^ `isscf _vc^_h]_ `ir tb_ ircach i` gi^_g
bug[hs,” Science 239:1263-1268 (1988); H. Valladas và cộng sự,
“Tb_rgifugch_s]_h]_ ^[tcha i` Miust_rc[h ‘priti-Cro-M[ahih’ r_g[chs `rig
Isr[_f [h^ tb_ ircach i` gi^_rh g[h” Nature 331: 614-616 (1988); C. B. Stringer
và cộng sự, “ESR ^[t_s `ir tb_ bigchc^ \urc[f sct_ i` Es Sebuf ch Isr[_f,” N[tur_
338: 756-758 (1989); J.L. Bischoff và cộng sự, “A\rupt Miust_rc[h-Aurignacian
\iuh^[rc_s [t ]. 40 e[ \p: []]_f_r[tir I4C ^[t_s `rig f’Ar\r_^[ C[v_ (C[t[fuhy[,
Tây B[h Nb[),” Journal of Archaeological Science 16: 563-576 (1988); V. Cabrera-
V[f^_s và J. Bcs]bi``, “Accelerator I4C dates for Early Upper Paleolithic (Basal
Aurignacian) at El Castillo Cave (Tây Ban Nha), “Journal of Archaeological Science
16: 577- 584 (1989); E, L.Scgihs, “Hug[h ircachs,” Science 245: 1343- 1350
(1989); và R. Grun và cộng sự, “ESR ^[tcha evidence for early modern humans at
Bir^_r C[v_ ch Siutb A`rc][,” N[tur_ 344: 537-539 (1990).
Ba cuốn sách với những minh họa rất đẹp về nghệ thuật thuộc thời kỳ Băha bà
là: Randall White, Dark Caves, Bright Visions (New York: American Museum of
Natural History, 1986); Mario Ruspoli, Lascaux: The Final Photographs (New York:
Abrams, 1987); và Paul G. Bahn và Jean Vertut, Images of the Ice Age (New York:
Facts on File, 1988).
Matthew H. Nitecki và Doris V. Nitecki trong cuốn sách, The Evolution of
Human Hunting (New York: Plenum Press, 1986), cung cấp một loạt những
]bươha được viết bởi rất nhiều tác giả khác nhau về chủ đề này.
Câu hỏi rằng liệu haười Neanderthal có thực sự chôn cất nhữha haườc đã ]bết
hay không hiện nay vẫh ]òh đ[ha được tranh luận trong bài báo của R. H. Gargett,
“Gr[v_ sbirt]igchas: tb_ _vc^_h]_ `ir N_[h^_rtb[f \urc[f,” và ]ùha vớc đó fà
những phản hồc ebá] được công bố trong tạp chí Current Anthropology 30: 157-
190 (1989).
Ba nguồh tư fcệu sẽ cung cấp một cánh cử[ \ước vào những nghiên cứu
chuyên môn dựa trên những câu hỏc được gắn kết lại về cấu tạo giải phẫu dây
thanh quản ở haười và liệu rằha haườc N_[h^_rtb[f đã hóc đượ] b[y ]bư[ được
tìm thấy trong cuốn sách của Philip Lieberman, The Biology and Evolution of
Language (Cambridge, Mass: Harvard University Press, 1984); một cuốn sách
khác là của E. s. Crelin, The Human Vocal Tract (New York: Vantage Press, 1987);
và còn một \àc \ái được viết bởc B. Ar_hs\ura _f [f., “A Mc^^f_ P[f[_ifctbc] bug[h
byic^ \ih_,” N[tur_ 338: 758-760 (1989).
Chươha 3
SỰ TIẾN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG TÌNH DỤC
Ở LOÀI NGƯỜI


Cbươha 4
KHOA HỌC CỦA VIỆC NGOẠI TÌNH

Dành cho những bạh đọc nào quan tâm tới những tiến bộ trong tiến hóa về hành
vc ]ư xử nói chung (bao gồg triha đó fà ]ả hành vi sinh sản), hai cuốn sách cần
thiết nhất phảc đọc là: E. o. Wilson, Sociobiology (Cambridge, Mass.: Harvard
University Press, 1975), và cuốn của John Alcock, Animal Behavior, tái bản lần thứ
tư. (Suh^_rf[h^: Sch[u]r, 1989).
Những cuốn sách tuyệt vờc qu[ đó tbảo luận về tiến hóa của hành vi tình dục
bao gồm: Donald Symons, The Evolution of Human Sexuality (Oxford: Oxford
University Press, 1979); R.
D. Alexander, Darwinism and Human Affairs (Seattle: University of
Washington Press, 1979); Napoleon A. Chagnon và William Irons, Evolutionary
Biology and Human Social Behavior (North Scituate, Mass.: Duxbury, Press, 1979);
Tim Halliday, Sexual Strategies (Chicago: University of Chicago Press, 1980);
Glenn Hausfater và Sarah Hrdy, Infanticide (Hawthorne, N.Y.: Aldine, 1980);
Sarah Hrdy, The Woman That Never Evolved (Cambridge, Mass.: Harvard
University Press, 1981); Nancy Tanner, On Becoming Human (New York:
Cambridge University Press, 1981); Frances Dahlberg, Woman the Gatherer (New
Haven: Yale University Press, 1981); Martin Daly và Margo Wilson, Sex, Evolution,
and Behavior (Boston: Willard Grant Press, 1983); Bettyann Kevles, Females of the
Species (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1986); và Hanny Lightfoot-
Klein, Prisoners of Ritual: An Odyssey into Female Genital Circumcision Africa
(Binghamton: Harrington Park Press, 1989).
Những cuốh sá]b đề cập chuyên sâu về fĩhb vực sinh học sinh sản ở động vật
nhân hình bao gồm: c. E. Graham, Reproductive Biology of the Great Apes (New
York: Academic Press, 1981); B. B. Smuts và cộng sự, Primate Societies (Chicago:
University of Chicago Press, 1986); Jane Goodall, The Chimpanzees of Gombe
(Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1986); Toshisada Nishida, The
Chimpanzees of the Mahale Mountains, Sexual and Life History Strategies (Tokyo:
University of Tokyo Press, 1990); và Takayoshi Kano, The Last Ape: Pygmy
Chimpanzee Behavior and Ecology (Stanford: Stanford University Press, 1991).
Những bài báo về quá trình tiến hóa của sinh lý học sinh sản và hành vi gồm
của những tác giả s[u: R. V. Sbirt, “Tb_ _vifutcih i` bug[h r_pri^u]tcih,”
Proceedings of the Royal Society (London), series B 195: 3-24 (1976); R. V. Short,
“S_xu[f s_f_]tcih [h^ cts ]igpih_ht p[rts, sig[tc] [h^ a_h_rc][f s_f_]tcih, [s
cffustr[t_^ \y g[h [h^ tb_ ar_[t [p_s,” Advances the Study of Behavior 9:131-158
(1979); N. Burf_y, “Tb_ _vifutcih i` ]ih]_[f_^ ivuf[tcih,” American Naturalist
114; 835-858 (1979); A. H. Harcoun và cộng sự, “T_stcs w_cabt, \i^y w_cabt, [h^
\r__^cha syst_g ch prcg[t_s,” Nature 293: 55-57 (1981); R, D. Martin và R. M.
M[y, “Outw[r^ scahs i` \r__^cha,” Nature 293: 7-9 (1981); M, Daly và M. I.
Wcfsih, “Wbig [r_ h_w\irh \[\c_s s[c^ ti r_s_g\f_?,” Ethology and Sociobiology
3:69-78 (1982); M. D[fy, M. Wcfsih, và s. J. W_abirst, “M[f_ s_xu[f d_[fiusy,”
Ethology and Sociobiology 3: 11-27 (1982); A. F. Dcxsih, “O\s_rv[tcihs ih tb_
evolution and behavioral signifc][h]_ i` s_xu[f sech ch `_g[f_ prcg[t_s,”
Advances in the Study of Behavior 13: 63-106 (1983); s. J. Ah^_fg[h. “Evifutcih i`
]ih]_[f_^ ivuf[tcih ch v_rv_t gihe_ys (C_r]ipctb_]us [_tbcips),” American
Naturalist 129: 785-799 (1987); và p. R Harvey và R. M. M[y, “Out `ir tb_ sp_rg
]iuht,” Nature 337; 508-509 (1989).
Cbươha 4 đề cập tới một vài ví dụ mô tả việc bằng cách nào những con chim
kết hợp giữa việc ngoại tình với cuộc sống tình dục rõ ràng thành từha đôc rcêha
biệt. Những thí dụ cụ thể về những nghiên cứu hày được trình bày trong những
\àc \ái hbư: D. w. Mi]e, “Dcspf[y r_p_rticr_ sbc`ts [h^ _xtr[-marital courtship in
b_rihs,” Behaviour 69: 57-71 (1979); p. Mch_[u và F. Ciie_, “R[p_ ch tb_ f_ss_r
shiw aiis_,” Behaviour 70: 280-291 (1979); D. F. Werschel, “N_stcha _]ifiay i`
the Little BuieHcron: pro-gcs]uius \_b[vcir,” Condor 84: 381-384 (1982); M. A.
Fct]TT[h^ G. w. Sbu[rt, “R_qucr_g_hts `ir [ gcx_^ r_pri^u]tcv_ str[t_ay ch
[vc[h sp_]c_s,” American Naturalist 124: 116-126 (1984); và R. Alatalo và cộng sự,
“Extr[-pair copulations and mate guarding in the poly territorial pied flycatcher,
Fc]_^uf[ bypif_u][,” Behavior 101:139-155(1987).
Cbươha 5
CÁCH CHÚNG TA LỰA CHỌN
BẠN ĐỜI VÀ BẠN TÌNH

Không ngạc nhiên là, vấh đề hày ebơc aợc được rất nhiều những nghiên cứu khoa
học về nó. Một vài bài báo minh họa cho luận cứ khoa học của việ] ]ih haười lựa
chọn bạh đờc hbư tbế hài đượ] hêu têh hbư s[u: E.W[fst_r và ]ộng sự,
“Igpirt[h]_ i` pbysc][f [ttr[]tcv_h_ss ch ^[tcha \_b[vcir,” Journal of Personality
and Social Psychology 4: 508-516 (1966); J. N. Spubf_r, “Assir][tcv_ g[tcha wctb
r_sp_]t ti pbysc][f ]b[r[]t_rcstc]s,” Eugenics Quarterly 15: 128-140 (1968); E.
B_rs]b_c^ và K. Dcih, “Pbysc][f [ttr[]tcv_h_ss [h^ ^[tcha ]bic]_: [ t_st i` tb_
g[t]bcha bypi tb_scs” Journal of Experimental Social Psychology 7: 173-189
(1971); s. G, V[h^_h\_ra, “Assirt[tcv_ g[tcha, ir wbi g[rrc_s wbig?,” Behavior
Genetics 1:127-157 (1972); G. E. D_Yiuha và B. Ff_cs]b_r, “Mitcv[tcih[f [h^
p_rsih[fcty tr[ct r_f[tcihsbcps ch g[t_ s_f_]tcih,” Behatnor Genetics 6:1-6 (1976);
E. Criahc_r, “Assirt[tcv_ g[tcha `ir pbysc][f `_[tur_s ch [h A`rc][h pipuf[tcih
`rig Cb[^,” Journal of Human Evolution 6: 105-114 (1977); p. N. Bentler và M. D.
N_w]ig\, “Lihactu^ch[f stu^y i` g[rct[f su]]_ss [h^ `[cfur_,” Journal of
Consulting and Clinical Psychology 46:1053-1070 (1978); R. c. Johnson và cộng sự,
“S_]uf[r ]b[ha_ ch ^_ar__ i` [ssirt[t[tcv_ g[tcha `ir [\cfcty, Behavior Genetics 10;
1-8 (1980); w. E. Nance và cộng sự, “A gi^_f `ir tb_ [h[fyscs i` g[t_ s_f_]tcih ch
tb_ g[rrc[a_s i` twchs,” Acta Geneticae Medicae Gemellologiae 29: 91-101 (1980);
D. Tbc_ss_h và B. Gr_aa, “Hug[h [s-sortative mating and genetic equilibrium: an
evolutiih[ry p_rsp_]tcv_,” Ethology and Sociobiology 1: 111-140 (1980); D. M.
Buss, “Hug[h g[t_ s_f_]tcih”, American Scientist 73: 47-51 (1985); A. c. Heath và
L. J. E[v_s, “R_sifvcha tb_ _``_]ts i` pb_hityp_ [h^ si]c[f \[]eariuh^ ih g[t_
s_f_]tcih,” Behavior Genetics 15: 75-90 (1985); và A. c, Heath và cộng sự. “Ni
^_]fch_ ch [ssirt[tcv_ g[tcha `ir _^u][tcih[f f_v_f,” Behavior Genetics 15: 349-
369 (1985). Ngoài ra, còn một cuốn sách rất quan trọng của tác giả B. I. Murstein,
Who Marry Whom? Theories and Research in Marital Choice (New York: Springer,
1976).
Những nghiên cứu khoa học về việc lựa chọn bạh đời củ[ ]á] fiàc động vật ít
nhất ]ũha rất pbiha pbú hbư đối vớc ]ih haười. Một xuất pbát đcểm tốt đó fà
cuốh sá]b được viết bởi Patrick Bateson, Mate Choice (Cambridge, Mass.:
Cambridge University Press, 1983). Những nghiên cứu riêng của Bateson về loài
chim cút của Nhật Bảh được tổng kết lạc triha ]bươha 11 ]ủa cuốh sá]b, ]ũha
hbư fà triha hbững bài báo củ[ ôha “S_xu[f cgprchtcha [h^ iptcg[f
iut\r__^cha,” Nature 273: 659- 660 (1978) và “Pr_`_r_h]_s `ir ]iuschs ch
J[p[h_s_ qu[cf,” Nature 295: 236-237 (1982). Nghiên cứu trên chuột nhắt về việc
]búha schb trưởng dựa trên việ] ư[ tbí]b gùc bươha ]ủa cha hay mẹ được mô tả
trong cuốn sách của T. J. Pillion và E. M. Blass. “Ih`[htcf_ _xp_rc_h]_ wctb su]efcha
i^irs ^_t_rgch_s [^uft s_xu[f \_b[vcir ch g[f_ r[ts,” Science 231: 729-731
(1986), và củ[ B. D’U^g_ và E. Afc_v[, “E[rfy _xp_rc_h]_ [h^ s_xu[f pr_`_r_h]_s ch
ri^_hts,” tr[ha 311-327 trong cuốh sá]b đã được nêu tên ở phần trên của Patrick
Bareson.
Cuối cùng, một vài những bài báo thích hợp ebá] ]ũha được nếu tên trong
phầh đọc thêm củ[ ]bươha 3, 4, 6 và 11.
Cbươha 6
CHỌN LỌC GIỚI TÍNH VÀ NGUỒN GỐC
CỦA CHỦNG TỘC LOÀI NGƯỜI

Học thuyết cổ đcển của Darwin vẫn còn là một lời giới thiệu mở đầu rất tốt về vấn
đề chọn lọc tự nhiên: Charles Darwin, On the Origin of Species by Means of Natural
Selection, or the Preservation of Favored Races in the Struggle for Life (London: John
Murray, 1859). Ngoài ra, còn có một nghiên cứu hiệh đại rất tuyệt vời của Ernst
Mayr, Animal Species and Evolution (Cambridge, Mass.: Harvard University Press,
1963).
Ba cuốn sách của Carleton S. Coon miêu tả những sai khác về đặ] đcểg địa lý
củ[ ]ih haười, so sánh chúng với sự s[c ebá] địa lý do nguyên nhân khí hậu, và
một nỗ lự] để đáhb acá sự sai khác củ[ fiàc haười theo những khái niệm của chọn
lọc tự nhiên: The Origin of Races (New York: Knopf, 1962), The Living Races of Man
(New York: Knopf, 1965), và Racial Adaptations (Chicago; Nelson-Hall, 1982).
Ngoài ra còn ba cuốn có liên quan tới vấh đề hày được viết bởi tác giả Stanley M.
Garn, Human Races, ấn bản lầh 2. (Sprcha`c_f^, III.: Tbig[s, 1965), gà đặc biệt
triha đó fà ]bươha 5; K. F. Dy_r, The Biology of Racial Integration (Bristol:
Scientechnics, 1974), gà đặc biệt là ở ]bươha H[c ]ủa nó; và A. s. Boughey, với
cuốn sách Man and the Environment, xuất bản lần hai. (New York: Macmillan,
1975).
Những giải thích khác nhau về sự đ[ ^ạha địa lý trong màu da củ[ ]ih haười
theo những thuật ngữ của chọn lọc tự nbcêh đượ] đề cập từ trướ] đây \ởi w, F.
Liigcs, “Sech-pig-ment regulation of vitamin-D \cisyhtb_scs ch g[h,” Science
157: 501-506 (1967); và Vernon Riley, Pigmentation (New York: Apple ton-
Century-Cri`ts, 1972), đặc biệt fà triha ]bươha 2 ]ủa cuốh sá]b được viết bởi R. E
Br[h^[ và J. w. E[tih, “Sech ]ifir [h^ hutrc_ht pbitifyscs: [h _vifutcih[ry
bypitb_scs.” Science 201: 625-626 (1978); p. J. By[r^, “Qu[htct[tcv_ a_h_tc]s i`
bug[h sech ]ifir,” Yearbook of Physical Anthropology 24:123- 137 (1981); và w. J.
H[gcftih III, Lc`t’s Cifir Ci^_ (N_w Yire: M]Gr[w-Hill, 1983). Nhữha đặ] đcểm
đ[ ^ạng về địa lý củ[ fiàc haười trong mốc tươha tá] với nhiệt độ được miêu tả
trong bài báo củ[ G. M. Briwh và J. P[a_, “Tb_ _``_]t i` ]brihc] _xpisur_ ti ]if^
on temperature and \fii^ `fiw i` tb_ b[h^,” Journal of Applied Physiology 5: 221-
227 (1952), và T. A^[gs và B. G. Civchi, “R[]c[f v[rc[tcihs ti [ st[h^[r^cz_^ ]if^
str_ss,” Journal of Applied Physiology 12: 9-12 (1958).
Chỉ đề cập tới vấh đề của chọn lọc tự hbcêh, hbưha hbững luậh đcểm của
Darwin vẫn là một cách khởc đầu rất hiệu quả cho việc nghiên cứu về chọn lọc
tình dục: Charles Darwin, The Descent of Man, and Selection in Relation to Sex
(London: John Murray, 1871). Phầh đọ] tbêg được liệt eê triha ]bươha 5 về việc
lựa chọn bạh đời củ[ ]á] fiàc động vật, ]ũha rất hữu í]b ]bi ]bươha hày. M[ft_
Andersson mô tả thí nghiệm của ông về việc bằng cách nào mà những con chim
góa cái lạc đáp ứng với nhữha ]ih đực có những chiế] đuôc haắh đc b[y ^àc r[ gột
cách có ý thứ] được thể hiệh qu[ \àc \ái: “F_g[f_ ]bic]_ s_f_]ts `ir _xtr_g_ t[cf
f_hatb ch [ wc^iw\cr^,” Nature 299: 818-820 (1982). Ba bài báo miêu tả việc lựa
chọn bạn tình của những loài ngỗng tuyết trắng, xanh và hồng là của F. Cooke và
C. M. M]N[ffy, “M[t_ s_f_]tcih [hcf ]ifiur pr_`_r_h]_s ch L_ss_r Shiw G__s_,”
Behaviour 53: 151-170 (1975); F. Cooke và cộng sự, “Assirt[tcv_ g[tcha ch L_ss_r
Shiw G__s_ (Ahs_r ][_gf_s]_hs),” Behavior Genetics 6: 127-140 (1976); và F.
Ciie_ và J. ]. D[vc_s, “Assirt[tcv_ g[tcha, g[t_ ]bic]_, [h^ reproductive fitness
ch Shiw G__s_,” tr[ha 279-295 nằm trong cuốh sá]b đã đượ] đề cập tới ở phần
trên Mate Choice của tác giả Patrick Bateson.
Cbươha 7
TẠI SAO CHÚNG TA LẠI GIÀ VÀ CHẾT?

Một bài báo theo học thuyết cổ đcển củ[ G_ira_ Wcffc[gs, gà triha đó ôha đã acới
thiệu một học thuyết tiến hóa về sự acà đc đó fà: “Pf_citripy, h[tur[f s_f_]tcih,
[h^ tb_ _vifutcih i` s_h_s]_h]_,” EvolutionII: 398-411 (1957). Những bài báo
ebá] ]ũha ]ó hbững cách tiếp cận mớc triha fĩhb vực nghiên cứu tiếh bó[ đó fà
của G. B_ff, “Evifutcih[ry [h^ hih_vifutcih[ry tb_irc_s i` s_h_s]_h]_,” American
Naturalist 124: 600-603(1984); E. B_utf_r, “Pf[hh_^ i\sif_s]_h]_ ch bug[hs [h^
ch itb_r \cisyst_gs,” Perspectives in Biology and Medicine 29: 175-179(1986); R. J.
Giss, “Wby g[gg[fs ^ih’t r_a_h_r[t_ - ir ^i tb_y?” News in Physiological
Sciences 2:112-115 (1987); L. D. Mu_ff_r, “Evifutcih i` []]_f_r[t_^ s_h_s]_h]_ ch
f[\ir[tiry pipuf[tcihs i` Drisipbcf[,” Proceedings of the National Academy of
Sciences 84:1974-1977 (1987); và T. B. Kirewii^, “Tb_ h[tur_ [h^ ][us_s i`
[a_cha,” tr[ha 193-206 trong một cuốh sá]b được biên tập bởi D. Evered và J.
Whelan, Research and the Ageing Population (Chichester: John Wiley, 1988).
Hai cuốn sách nêu ra những thí dụ về những những cách tiếp cận của sinh lý
học (nguyên nhân-gầh đúha) đối với tuổc acà được viết bởi R. L. Walford, The
Immunologic Theory of Aging (Copenhagen: Munksgaard, 1969), và tác giả
MacFartane Burnett, Intrinsic Mutagenesis: A Genetic Approach to Ageing (New
York: John Wiley, 1974).
Một vài bài báo nếu thí dụ cho những luận cứ khoa học của những sửa chữa
sinh học và những bài báo lấh sâh s[ha fĩhb vực này bao gồm: R. w. Young,
“Bcifiac][f r_h_w[f: [ppfc][tcihs ti tb_ _y_,” Transactions of the Ophthalmological
Societies of the United Kingdom 102: 42-75 (1982); A. Bernstein và cộng sự,
“G_h_tc] ^[g[a_, gut[tcih, [h^ tb_ _vifutcih i` s_x,” ence 229: 1277-1281
(1985); J. F. Dc]_, “Mif_]uf[r ^_t_rgch[hts i` prit_ch b[f`-lives in eukaryotic
]_ffs,” Federation of American Societies for Experimental Biology Journal 1: 349-357
(1987); p. ]. H[h[w[ft, “Oh tb_ rif_ i` DNA ^[g[a_ [h^ r_p[cr pri]_ss_s ch [acha:
_vc^_h]_ `ir [h^ [a[chst,” tr[ha 183-198 trong cuốh sá]b được biên tập bởi H. R.
Warner và cộng sự, Modem Biological Theories of Aging (New York: Raven Press,
1987); và những tác giả M. R[^g[h và R. W[ah_r, “Tb_ bcab `c^_fcty i` DNA
^upfc][tcih,” Scientific American 259, no.2: 40-46 (tháng Tám 1988).
Trong khi tất cả mọc độc giả đều sẽ cảm nhậh được sự tb[y đổi củ[ ]ơ tbể họ
theo tuổi tác, thì ba bài báo sau miêu tả những sự thực thật khủng khiếp về ba hệ
]ơ qu[h ebá] hb[u đó fà gùc vị, sự thụ tinh và bộ não củ[ ]ih haười: R. L. Doty và
cộng sự, “Sg_ff c^_htc`c][tcih [\cfcty: ]b[ha_s wctb [a_,” Science 226: 1441-1443
(1984); J. Menken và cộng sự, “Aa_ [h^ ch`_rtcfcty,” S]c_h]_ 233; 1389-1394
(1986); và R. K[tzg[h, “Nirg[f [acha [h^ tb_ \r[ch,” News in Physiological
Sciences 3:197-200 (1988).
“Cuộc phiêu lưu của người đàn ông trườn bò - The adventure of the Creeping
M[h” fà gột câu chuyện nằm trong tác phẩm củ[ hbà văh Artbur Cih[h Diyf_:
tập truyện The Complete Sherlock Holmes (New York: Doubleday, 1960). Trong
trường hợp bạh habĩ rằng những cố gắng tự làm trẻ hóa bảh tbâh đó hbờ vào
những liều tiêm hormon chỉ nằm trong sự tưởha tượng củ[ hbà văh Doyle, thì
bãy đọc về việ] đcều đó đã tbực sự được cố gắng tới mức nào trong cuốn sách:
David Hamilton, The Monkey Gland Affair (London: Chatto and Windus, 1986).
Cbươha 8
NHỮNG CÂY CẦU DẪN TỚI NGÔN NGỮ
CỦA LOÀI NGƯỜI

Cuốn sách How Monlfeys See the World (Chicago: University of Chicago Press,
1990), được viết bởi tác giả Dorothy Cheney và Robert Seyfarth, không chỉ là một
bằng chứng về cách giao tiếp bằng âm thanh của loài khỉ vervet, mà còn là một lời
giới thiệu tốt cho những nghiên cứu về việc bằng cách nào mà nhữha fiàc động
vật hóc ]buha tr[i đổi với nhau và nhìn nhận thế giới xung quanh.
D_r_e Bc]e_rtih đã gcêu tả trong những nghiên cứu của ông về quá trình
thuần hóa ngôn ngữ và qu[h đcểm của ông về nguồn gốc của ngôn ngữ fiàc haười
trong hai cuốn sách và một số các bài báo. Những cuốh sá]b đó fà: Roots of
Language (Ann Arbor: Karoma Press, 1981) và cuốn Language and Species
(Chicago: University of Chicago Press, 1990). Các bài báo bao gồm, trong cuốn tạp
chí Scientific American 249, no. 1:116-122 (1983); “Tb_ f[hau[a_ \cipriar[g
bypitb_scs,” ]òh ở tạp chí Behavioral and Brain Sciences 7:173-221 (1984); và
“Cr_if_ f[hau[a_s [h^ tb_ \cipriar[g,” triha tạp chí L:The Cambridge Survey, số
2, tr. 267-284, được biên tập bởi F. J. Newmeyer (Cambridge: Cambridge
University Press, 1988). Phần thứ hai của nhữha \àc \ái đó, và pbần ba tiếp ngay
s[u đó, fà hbững cách trình bày của các tác giả ebá] gà qu[h đcểg tbường có
nhiều khác biệt với Bickerton. Pidgin and Creole Languages, của tác giả Robert A.
Hall, Jr. (Ithaca: Cornell University Press, 1966), là một ấn bảh ]ũ bơh về đề tài
này. Sự giới thiệu tốt nhất dành cho ngôn ngữ Neo-Melanesian là một cuốn sách
được F. Mihalic viết có tự[ đề, The Jacaranda Diary and Grammar of Melanesian
Pidgin (Milton, Queensland: facaranda Press, 1971). Cuốn sách của Roger Keesing:
Melanesian Pidgin and the Oceanic Substrate (Stanford: Stanford University Press,
1988) khám phá lịch sử của ngôn ngữ Neo-Melanesian.
Trong số rất nhiều những cuốn sách có sức thuyết phục về ngôn ngữ được
Noam Chomsky viết có thể kể đến Language and Mind (New York: Harcourt Brace,
1968) và Knowledge of Language: Its Nature, Origin, and Use (New York: Praeger,
1985).
Những tài liệu tham khảo về nhữha fĩhb vự] ]ó fcêh qu[h gà tôc đã đề cập tới
chỉ rất sơ qu[ triha ]bươha 8 ]ũha sẽ ^àhb được nhiều sự quan tâm. Trong cuốn
sách của Susan Curtiss, Genie: a Psycholinguiaic Study of a Modem-Day “Wild
child” (New York: Academic Press, 1977) có liên quan cùng lúc tới bi kị]b đớh đ[u
củ[ fiàc haười và những nghiên cứu tỉ mỉ về một đứa trẻ mà do nhữha suy habĩ
bệnh hoạn của cha mẹ đã tá]b \cệt cô với thế giới ngôn ngữ tbôha tbường và sự
giao tiếp bên ngoài cho tới khi cô 13 tuổi. Những nghiên cứu gầh đây về sự nỗ lực
trong việc dạy nhữha fiàc vượh haười khả hăha ac[i tcếp bằng thứ ngôn ngữ gần
giống vớc ]búha t[ được mô tả bởi Carolyn Ristau và Donald Robbins trong bài
\ái: “L[hau[a_ [h^ tb_ ar_[t [p_s: [ ]rctc][f r_vc_w,” đăha ở tạp chí Advances in
the Study of Behavior, so. 12, tr. 141-255, biên tập bởi J. s. Rosenblatt và cộng sự
(New York: Academic Press, 1982); ngoài ra còn có E. s. Savage-Rumbaugh, với
cuốn Ape Language: From Conditioned Response to Symbol (New York: Columbia
Uhcv_rscty Pr_ss, 1986); và “Syg\ifs: tb_cr ]igguhc][tcv_ us_, ]igpr_b_hscih,
and combination by \ihi\is (P[h p[hcs]us)” ]ủa tác giả E. s. Savage-Rumbaugh
và cộng sự, đăha triha tạp chí Advances in Infancy Research, số.6, tr. 221-278, biên
tập Carolyn Rovee-Collier và Lewis Lipsitt (Norwood, N.J.: Ablex Publishing
Corporation, 1990). Một vàc đcểm khởc đầu trong kho tàng nghiên cứu khoa học
phong phú về khả hăha bọc tập ngôn ngữ ac[c điạh đầu đời của nhữha đứa trẻ
nằg triha ]bươha sá]b ]ủa tác giả M_fcss[ Biw_rg[h “L[hau[a_ D_v_fipg_ht”
trong cuốn Handbook, of Cross-cultural Psychology: tal Psychology, so. 4, tr. 93-185,
biên tập bởi Harvey Triandis và Alastair Heron (Boston: Allyn and Bacon, 1981);
Eric Wanner và Lila Gleitman, Language Acquisition: The Slate of the Art
(Cambridge, Mass.: Cambridge University Press, 1982); Dan Slobin, The
Crosslinguistic Study of Language Acquisition, số. 1 và 2 (Hillsdale, N.J.: Lawrence
Erlbaum Associates, 1985); và Frank s. Kessel, The Development of Language and
Language Researchers: Essays in Honor of Roger Broum (Hillsdale, N.f.r Lawrence
Erlbaum Associates, 1988).
Cbươha 9
NGHỆ THUẬT: NGUỒN GỐC TỪ ĐỘNG VẬT

Cuốh sá]b đã gô tả nghệ thuật của loài voi và minh họ[ ]bi đcều đó \ằng những
bức hình của những nghệ sỹ voi thực thụ và các tác phẩm củ[ ]búha, được trình
bày bởi tác giả David Gucwa và James Ehmann, To Whom It May Concern: An
Investigation of the An of Elephants (N_w Yire: Nirtih, 1985). Để biết thêm
nhữha đcều tươha tự về nghệ thuật củ[ ]á] động vật nhân hình, bạn có thể xem
cuốn sách của Desmond Morris, The Biology of Art (New York: Knopl, 1962). Nghệ
thuật của loài vật ]ũha được tìm hiểu bởi Thomas Sebeok trong cuốn sách, The
Play of Musement (Bloomington: Indiana University Press, 1981).
Hiện có hai cuốh sá]b được minh họa rất đẹp về loài chim bower và chim thiên
đườha, triha đó ]ó hbững bức ảnh về chiếc tổ củ[ ]búha, đó fà hbững cuốn sách
của E. T. Gilhard, Birds of Paradise and Rower Birds (Garden City, N.Y.: Natural
History Press, 1969), và w. T. Cooper và J. M. Forshaw, The Birds of Paradise and
Rower Birds (Sydney; Collins, 1977). Nhằm tìm kiếm những yếu tố kỹ thuật hiện
đạc bơh, ]á] \ạn có thể tham khảo trong bài báo của chính bảh tbâh tôc: “Bcifiay
i` \cr^s i` p[r[^cs_ [h^ \iw_r\cr^s,” Annual Reviews of Ecology and Systematic 17:
17-37 (1986). Tôc ]ũha đã xuất bản hai tài liệu về loài chim bower - loài chim có
chiếc tổ thật thần kỳ, đó fà “Biw_r \ucf^cha [h^ ^_]ir[tcih \y tb_ \iw_r\cr^
Ag\fyirhcs chig[tuc,” Ethology 74:177-204 (1987); và “Exp_rcg_ht[f stu^y i`
bower decoration by the bowerbird Amblyornis inomatus, using colored poker
]bcps” American Naturalist 131: 631-653 (1988). G_r[f^ Birac[ đã ]bứng minh
thông qua thực nghiệm rằng những con chim bower cái thực sự quan tâm tới
cách thức trang trí tổ củ[ ]bcg đự], và đcều đó đượ] đề cập trong bài báo của ông,
“Biw_r qu[fcty, hug\_r i` ^_]ir[tcihs [hd mating success of male satin
\iw_r\cr^s (Ptcfihirbyh]bus vcif[]_us): [h _xp_rcg_ht[f [h[fyscs” Animal
Behaviour 33: 266-271 (1985). Liàc ]bcg tbcêh đường với những cách thức sinh
sốha ebá tươha đồng vớc ]bcg \iw_r ]ũha đã được miêu tả trong bài báo của s. G.
và M. A. Pruett-Jih_s, “Tb_ us_ i` ]iurt i\d_]ts \y L[w_s’ P[ritc[,” Condor 90:
538-545 (1988).
Cbươha 10
NÔNG NGHIỆP: HỌA PHÚC LẪN LỘN

Những hậu quả về sức khỏe của việc từ bỏ săh \ắt, dành thời gian cho trồng trọt
nông nghiệp đã được thể hiện chi tiết trong cuốh sá]b được biên tập bởi Mark
Cohen và George Armclagos, Paleopathology at the Origins of Agriculture (Orlando:
Academic Press, 1984), và còn có trong cả cuốn The Paleolithic Prescription (New
Yire: H[rp_r & Riw, 1988) được viết bởi S. Boyd Eaton, Marjorie Shostak và
Melvin Konner. Nhữha ]ih haườc săh \ắt-bác fượm từng sinh sốha trêh Trác đất
]ũha được tổng kết trong cuốn sách của Richard B. Lee và Irven DeVore, Man the
Hunter (Chicago: Aldine, 1968). Những tài liệu có liên quan mô tả thời gian biểu
công việc củ[ haườc săh \ắt-bác fượm, và trong một số trường hợp có sự so sánh
chúng với công việc củ[ haườc hôha ^âh, ]ũha được tìm thấy trong cuốn sách
trên, cùng vớc đó fà ]uốn sách của Richard Lee The Kung San (Cambridge, Mass.:
Cambridge University Press, 1979), và nhữha \àc \ái s[u đây: K. H[we_s và ]ộng
sự, “A]b_ [t tb_ s_ttf_g_ht: ]ihtr[sts \_tw__h `[rgcha [h^ `ir[acha,” Human
Ecology 15: 133-161 (1987); K. Hawkes và cộng sự, “H[r^wirecha H[^z[
ar[h^gitb_rs,” tr[ha 341-366 in trong tạp chí Comparative Socioecology of
Mammals and Man, biên tập bởi V. Standen và R.Foley (London: Black well, 1987);
và K. Hcff và A. M. Hurt[^i, “Huht_r-a[cb_r_rs i` tb_ N_w Wirf^,” American
Scientist 77; 437-443 (1989). Sự mở rộng chậm chạp của nhữha haười nông dân
thời kỳ cổ đại lan rộng khắp ]bâu Âu được mô tả trong cuốn sách của Albert J.
Ammerman và L. L. Cavalli- Sforza, The Neolithic Transition and the Genetics of
Populations Europe (Princeton: Princeton University Press, 1984).
Cbươha 11
TẠI SAO CHÚNG TA LẠI HÚT THUỐC,
UỐNG RƯỢU VÀ SỬ DỤNG CÁC CHẤT
GÂY NGHIỆN NGUY HIỂM?

Amotz Zahavi giải thích học thuyết về những khuyết tật của ông trong hai bài
\ái: “M[t_ s_f_]tcih - [ s_f_]tcih `ir [ b[h^c][p,” Journal of Theoretical Biology 53:
205-214 (1975), và “Tb_ ]ist of honesty (further remarks on the handicap
prch]cpf_),” Journal of Theoretical Biology 67: 603-605 (1977). Có hai mô hình nổi
tiếng khác về việc bằha ]á]b hài gà ]á] fiàc động vật tiếh bó[ đượ] để chọn lựa
nhữha haười bạh đời củ[ ]búha đó fà gô bìhb ]bọn lựa chạy trốn và mô hình
trưha \ày ^ựa vào sự thật. Mô bìhb đầu tcêh được phát triển trong cuốn sách của
R. A. Fisher, The Genetical Theory of Natural Selection (Oxford: Clarendon Press,
1930); còn mô hình tiếp s[u tbì đượ] đề cập tớc triha \àc \ái, “Trutb in
[^v_rtcscha: tb_ ech^s i` tr[cts `[vir_^ \y s_xu[f s_f_]tcih,” được viết bởi A.
Kodric-Briwh và J. H. Briwh đăha triha tạp chí American Naturalist 14: 309- 323
(1984). Rất nhiều nhữha gô bìhb ebá] hb[u đã được Mark Kirkpatrick và Michael
Ry[h đáhb acá tbôha qu[ \àc \ái, “Tb_ _vifutcih i` g[tcha pr_`_r_h]_s, [h^ tb_
p[r[^ix i` tb_ f_e,” Nature 350: 33-38 (1991). Melvin Konner thì phát triển một
bướha đc ebá] về những hành vi mạo hiểm củ[ ]ih haười trong một ]bươha ]ó
tự[ đề “Wby tb_ r_]ef_ss survcv_” được trích ra từ cuốn sách có cùng tên của ông
(N_w Yire: Vcecha, 1990). Còh đối với vấh đề tranh cãi về những cuộc cúng tế của
thổ ^âh ^[ đỏ châu Mỹ, hãy thử tìm hiểu những bằng chứng của các buổi lễ cúng
tế của thổ ^âh được Maya Peter Furst và Michael Coe phát hiện và mô tả trong bài
báo của họ “Rctu[f _h_g[s,” N[tur[f Hcstiry M[a[zch_ 86; 88-91 (March 1977);
trong cuốn sách củ[ Jib[hh_s Wcf\_rt “Ti\[]]i [h^ Sb[g[hcsg ch Siutb
Ag_rc][” (N_w H[v_h: Y[f_ Uhcv_rscty Pr_ss, 1987); và Justch K_rr triha \àc \ái
mang tên: The Maya Vase Book (số 2. New York: Kerr Associates, 1989 và 1990),
đã gchb bọa những chiếc bình củ[ haười Maya và phân tích chi tiết một chiếc
bình dùng cho việc cúng tế ở trang 349-361, số 2. Nhữha tư fcệu cung cấp thêm
]ũha rất quan trọng cho phầh tìg đọc thêm chính là những tài liệu đã đượ] đề
cập tới về chọn lọc tình dục và sự lựa chọn bạn tình củ[ ]ih ]ác triha ]bươha 5 và
6.
Cbươha 12
ĐƠN ĐỘC TRONG MỘT VŨ TRỤ ĐÔNG ĐÚC

Những tính toán của nhữha haười nghiên cứu tcêh pbiha đầu tcêh triha đó tr[nh
cãi về sự tồn tại hay không của sự sốha \êh haiàc vũ trụ đã được nêu ra trong
cuốn sách của I. S. Shklovskn và Carl Sagan, Intelligent Life in the Universe (San
Francisco: Holden-Day, 1966). Nhữha tr[hb ]ãc đồha ý ]ũha hbư \á] \ỏ luận
đcểg trêh, và đcều gì có thể ]ó ý habĩ[ với chúng ta nếu ]ih haười phát hiện ra
những hành tinh sống bên ngoài kia chính là chủ đề chính của cuốn sách
Extraterrestrials: Science and Alien Intelligence, được viết bởi E. Regis, Jr.
(Cambridge, Mass.: Cambridge University Press, 1985).
Cbươha 13
NHỮNG CUỘC TIẾP XÚC ĐẦU TIÊN
VÀ CŨNG LÀ CUỐI CÙNG

Cuốh sá]b được viết bởi Bob Connolly và Robin Anderson có tự[ đề “Fcrst Ciht[]t”
(N_w Yire: Vcecha P_hauch, 1987), triha đó gô tả lần gặp gỡ đầu tiên ở vùng cao
hauyêh N_w Guch_[ ^ưới con mắt của chính nhữha haười da trắha và ]ư ^âh \ản
xứ New Guinean khi họ gặp gỡ nhau. Phần trích dẫn ở tr[ha 229 được rút ra từ
chính cuốn sách này. Một dẫn liệu đóha aóp tbêg vài hbững cuộc gặp gỡ lầh đầu
tiên và nhữha đcều kiện sốha trướ] đó được tập hợp trong cuốn sách của Don
Richardson Peace Child (Ventura: Regal Books, 1974) viết về tộ] haười Sawi thuộc
vùng Tây Nam New Guinea, và cả tác phẩm của Napoleon A. Chagnon mang tên
Yanomamo, The Fierce People, ấn bản lần thứ 3 (New York: Holt, Rinehart và
Wihstih, 1983) triha đó đề cập tới thổ dân Yanomamo sống ở Venezuela và
Brazil. Một lịch sử tuyệt vời về quá trìhb ebág pbá N_w Guch_[ được viết nên bởi
Gavin Souter trong cuốn, New Guinea: The Last Unknown (London: Angus and
Robertson, 1963). Nhữha haười dẫh đầu trong cuộc hành trình thám hiểm lần
thứ ba của Archbold mô tả việc tiếh vài vùha tbuha fũha fớn thuộc dòng sông
Balim, qua những bản báo cáo của Richard Archbold và cộng sự, “R_sufts i` tb_
Ar]b\if^ Exp_^ctcih” Bulletin of the American Museum of Natural History 79: 197-
288 (1942). Hai dẫn liệu của hai nhà thám hiểm sớg bơh, haườc gà đã ]ố gắng
xâm nhập vào các vùng núi non của New Guinea là A. F. R. Wollaston, trong tác
phẩm Pỵgmies and Papuans (London: Smith Elder, 1912), và A. s. Meek, với cuốn
sách A Naturalist in Cannibal Land (London: Fisher Unwin, 1913).
Cbươha 14
NHỮNG NGƯỜI CHINH PHỤC TÌNH CỜ

Những cuốn sách tranh luận về sự thuần hóa thự] và động vật trong mốc tươha
quan với sự phát triển của nềh văh gchb hbâh fiại, bao gồm: sách của c. D.
Darlington, Evolution of Man and Society (New York: Simon and Schuster, 1969);
Peter J. Ucko và G. w. Dimbleby, The Domestication and Exploitation of Plants and
Animals (Chicago: Aldine, 1969); Erich Isaac, Geography of Domestication (Engle-
wood Cliffs, N./.: Prentice-Ha II, 1970); và của David R. Harris và Gordon c.
Hillman, Foraging and Farming (London: Unwin Hyman, 1989).
Những tài liệu tham khảo về quá trình thuầh bó[ động vật bao gồm: bài báo
của S. Bokonyi, History of Domestic Mammals in Central and Eastern Europe
(Bu^[p_st: Ae[^_gc[c, 1974); s. J. M. D[vcs và F. R. V[ff[, “Evc^_h]_ `ir
^ig_stc][tcih i` tb_ ^ia 12,000 y_[rs [ai ch tb_ N[tu`c[h i` Isr[_f,” N[tur_ 276:
608-610 (1978); Juliet Clutton-Bri]e, “M[h-g[^_ ^ias,” S]c_h]_ 197: 1340-1342
(1977), và Domesticated Animals from Early Times (London: British Museum of
N[tur[f Hcstiry, 1981); Ah^r_w Sb_rr[tt, “Pfiuab [h^ p[stir[fcsg: [sp_]ts i` [b_
s_]ih^[ry pri^u]ts r_vifutcih,” tr[ha 261-305, ngoài ra còn có cuốh sá]b được
biên tập bởi lan Hodder và cộng sự, tern of the Past (Cambridge: Cambridge
University Press, 1981); Stanley J. Ofsen, Origins of the Domestic Dog (Tucson:
Uhcv_rscty i` Arczih[ Pr_ss, 1985); E. s. Wcha, “Dig_stc][tcih i` Ah^_[h
g[gg[fs,” tr[ha 246-264, có một cuốh sá]b được F. Vuillcumier và M,
Monasterio viết r[ đó fà High Altitude Tropical Biogeography (New York: Oxford
University Press, 1986); Simon N. J. Davis, The Archaeology of Animals (New
Haven: Yale University Press, 1987); Dennis c. Turner và Patrick Bateson, The
Domestic Cat: The Biology of Its Behavior (Cambridge: Cambridge University Press,
1988); và Wolf Herre và Manfred Rohrs, Haustiere—zoologisch gesehen, ấn bản lần
2 (Stuttgart: Fischer, 1990).
Quá trình thuầh bó[ gà đặc biệt nhất là việc thuần hóa ngựa và tầm quan
trọng của công việc này là chủ đề chính của những cuốh sá]b được viết bởi Frank
G. Riw, hbư ]uốn The Indian and the Horse (Norman: University of Oklahoma
Press, 1955); hay Robin Law, trong cuốn The Horse in West African tory (Oxford:
Oxford University Press, 1980); rồi Matthew J. Kirn, Man and Horse in History
(Alexandria, Va.: Plutarch Press, 1983). Sự phát triển củ[ ]á] pbươha tcệh đc fại có
bánh xe kéo, bao gồm cả cỗ chiếh x[ được nhắc tới trong những cuốh sá]b hbư
của M. A. Littauer và J. H. Crouwel, Wheeled Vehicles and Ridden Animals in the
Ancient Near East (Leiden: Brill, 1979), và cuốn sách của Stuart Piggott, The
Earliest Wheeled Transport (London: Thames and Hudson, 1983). Edward
Shaughnessy miêu tả sự xuất hiện của ngựa và những cỗ chiến xa ở Trung Quốc
trong một bài báo có tự[ đề “Hcstirc][f p_rsp_]tcv_s ih tb_ chtri^u]tcih i` tb_
]b[rcit chti Cbch[” Harvard Journal of Asiatic Studies 48:189-237 (1988).
Về những luận chứng tổng quát của việc thuần hóa thực vật, các bạn có thể
tìg đọc bài báo củ[ K_ht V. Ff[hh_ry, “Tb_ ircachs i` [arc]uftur_,” Annual Review
of Anthropology 2:271- 310 (1973); Charles B. Heiser, Jr., Seed to Civilization, ấn
bản mới (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1990), và cuốh sá]b “O`
Pf[hts [h^ P_ipf_s” (Nirg[h: Uhcv_rscty i` Oef[big[ Pr_ss, 1985); b[y tá] pbẩm
củ[ D[vc^ Rch^is, “Tb_ Orcachs i` Aarc]uftur_: Ah Evifutcih[ry P_rsp_]tcv_”
(New York: Academic Press, 1984); và Hugh H. litis, vớc “M[cz_ evolution and
[arc]uftur[f ircachs” tr[ha 195-213, hay trong cuốh sá]b được viết bởi T. R.
Soderstrom và cộng sự, “Gr[ss Syst_g[tc]s [h^ Evifutcih” (W[sbchatih, D.C.:
Smithsonian Institution Press, 1987). Bài báo này cùng với một số khác nữa của
Iltis là nguồn cứ liệu kích thích nhữha ý tưởng về nhữha đcều thuận lợi khác nhau
trong việc thuầh bó[ haũ ]ốc ở Cựu Thế giới và Tân Thế giới.
Sự thuần hóa các loài thực vật đặc biệt là ở các vùng thuộc Cựu Thế giớc được
J[h_ R_h`r_w đề cập tới trong cuốn sách, Palaeoethnobotany (New York: Columbia
University Press, 1973), và cả trong cuốn sách của Daniel Zohary và Maria Hopf,
mang tên Domestication affiants in the Old World (Oxford: Clarendon Press,
1988). Những dữ liệu tươha tự về Tân Thế giớc được Richard S. MacNeish, miêu tả
trong phầh “Tb_ `ii^a[tb_rcha [h^ ch]cpc_ht [arc]uftur[f st[a_ i` pr_bcstirc]
Mc^^f_ Ag_rc][,” tbuộc trang 413-426 của một cuốh sá]b được biên tập bởi
Robert Wauchope và Robert c. West, Handbook of Middle American Indians, Số 1:
Natural Environment and Early Cultures (Austin: University of Texas Press, 1964);
p. ]. M[ha_fs^ir`_t[f„ “Orcachs i` [arc]uftur_ ch Mc^^f_ Ag_rc][” tr[ha 427-445
chính trong cuốn sách vừa nhắc tới ở trên củ[ W[u]bip_ và W_st; D. Ua_ht, “Tb_
pit[ti” Science 170: 1161-1166 (1970); ]. B. H_cs_r, Jr., “Orcachs i` sig_
]uftcv[t_^ N_w Wirf^ pf[hts” Ah \ảh bàha hăg ]ủa Hiệp hội Sinh thái và hệ
thông hóa - Ecology and Systematics 10: 309-326 (1979); H. H. Iftcs, “Frig t_ischt_
ti g[cz_: tb_ ][t[stripbc] s_xu[f ^csgut[tcih” Science 222: 886-894 (1983);
William F. Keegan, Emergent Horticultural Economies of the Eastern Woodlands
(C[r\ih^[f_: Siutb_rh Iffchics Uhcv_rscty, 1987); và B. D. Sgctb, “Orcachs i`
[arc]uftur_ ch _[st_rh Nirtb Ag_rc][” Science 246:1566-1571 (1989). Có ba cuốn
sá]b đc tcêh pbiha triha vcệc chỉ ra sự phát tán có tính hệ thống chỉ trong khắp
một lụ] địa của các loại bệnh tật, thú nuôi, và cỏ dạc đó fà: Wcffc[g H. M]N_cff,
Plagues and Peoples (Garden City, N.Y.: Anchor Press, 1976); và Alfred w. Crosby,
The Columbian Exchange: Biological and Cultural Consequences of 1492
(Westport: Greenwood Press, 1972), và Ecological Imperialism: The Biological
Expansion of Europe, 900-1900 (Cambridge: Cambridge University Press, 1986).
Cbươha 15
NGỰA, NGÔN NGỮ HITTIE VÀ LỊCH SỬ

Hai cuốn sách kích thích nhiều quan tâm củ[ ^ư fuậh, và được nhắc nhiều gần
đây tổng quát vấh đề của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, đó ]bíhb fà tá] pbẩm của Colin
Renfrew, Archaeology and Language (Cambridge: Cambridge University Press,
1987), và J. p. Mallory, trong cuốn sách In Search of the Indo-Europeans (London:
Thames and Hudson, 1989). Vì nhữha fý ^i đã được giảc tbí]b triha ]bươha 15
của cuốh sá]b hày, tôc đồng tình với những kết luận của Mallory, và phảh đối
qu[h đcểm của Renfrew, có liên quan tới thời gian tươha đốc và đị[ đcểm xuất
phát của tổ tiên của hệ ngôn ngữ tiền Ấn-Âu.
Một cuốh sá]b ]ũ bơh hbưha vẫn còn rất hữu ích là tổng kết của nhiều tác giả
bao gồm George Cardona và cộng sự củ[ ôha, đó fà Indo-European and Indo-
Europeans (Philadelphia: University of Pennsylvania Press, 1970). Còn bài báo có
tự[ đề (gì nữa nhỉ?) The journal of Indo-European Studies là tài liệu chính cho
những xuất bản mang tính kỹ thuật về fĩhb vực này.
Một qu[h đcểm mà cả Mallory và bảh tbâh tôc đều nhận thấy hết sức thuyết
phụ] được tìm thấy trong những tác phẩm của Manja Gimbutas, tác giả của bốn
cuốn sách về fĩhb vực nghiên cứu này: The Baits (New York: Praeger, 1963), The
Slavs (London: Thames and Hudson, 1971), The Goddesses [h^ Gi^s’ i` Of^
Europe (London: Thames and Hudson, 1982), và cuốn The Language of the
Goddess (N_w Yire: H[rp_r & Riw, 1989). Gcg\ut[s ]ũha gô tả công việc của bà
trong cuốh sá]b được viết bởc C[r^ih[ đã được trích dẫn ở trên, trong những
cuốn sách của Polome và Bemhard hay Kandler-P[fssih đượ] hêu r[ ^ưới đây, và
trong cả tạp chí Journal of Indo-European Studies 1:1-2D và 163-214 (1973), 5:
277-338 (1977), 8: 273-315 (1980), và 13:185-201 (1985).
Những cuốn sách hay tài liệu chuyên khảo liên quan tới nhữha ]ih haười
thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu thời kỳ đầu tiên được viết bởc Egcf_ B_hv_hcst_ đó fà
Indo-European Language and Society (London: Faber and Faber, 1973); hay Edgar
Polome, trong cuốn The Indo-Europeans in the Fourth and Third Millennia (Ann
Arbor: Karoma, 1982); Wolfram Bernhard và Annel- eise Kandler-Palsson,
Ethnogenese europaischer Voider (Stuttgart: Fischer, 1986); và Wolfram Nagel,
“Ih^ia_rg[h_h uh^ Aft_r Orc_ht: Ru]e\fc]e uh^ Aus\fc]e [u` ^_h St[h^ ^_s
Indoger- manenpro-\f_gs,” Mitteilungen derDeutschen Orient-Gesellschaft za
Berlin 119: 157-213 (1987). Chính những cuốn sách về ngôn ngữ bao gồm trong
đó fà tá] pbẩm của Henrik Birnbaum và Jaan Puhvel, Ancient Indo-European
Dialects (Berkeley: University of California Press, 1966); w. B. Lockwood, Indo-
European Philology (London: Hutchinson, 1969); Norman Bird, The Distribution of
Indo-European Root Morphemes (Wiesbaden: Harras- sowitz, 1982); và Philip
Baldi, An Introduction to the Indo-European Languages (Carbondale: Southern
Illinois University Press, 1983). Cuốn sách của Paul Friedrich là Proto-Indo-
European Trees (Chicago: University of Chicago Press, 1970) có sử dụng tới những
bằng chứng về tên các loài cây nhằm cố gắng suy luậh r[ quê bươha ]ủa ngôn ngữ
Ấn-Âu.
W. P. Lehmann và L. Zgusta cung cấp tbêg tbôha tch hbưha đồng thờc ]ũha
tranh luận về một thí dụ của sự tái cấu trúc ngôn ngữ tiền Ấn-Âu trong một
]bươha sá]b: “S]bt_c]b_r’s t[f_ [`t_r [ ]_htury,” tr[ha 455-466 của cuốn Studies
in Diachronic, Syndrome, and Topological Linguistics, được biên tập bởi Bela
Brogyany (Amsterdam: Benjamins, 1979). Với một bảh bơc tb[y đổi chút ít của
hình mẫu mà họ đư[ r[, ]á] \ạn có thể tham khảo trong trang 274 của cuốn sách
này.
Những tài liệu tham khảo cho quá trình thuần hóa và tầm quan trọng của
những giống ngự[ được trích dẫh triha ]bươha 14 ]ũha rất cần thiết ebc đề cập
tới vai trò của ngựa trong sự \àhb trướng của ngôn ngữ Ấn-Âu. Những tài liệu
chuyên khải ^àhb ]bi đề tàc hày được tác giả David Anthony viết trong cuốn
sá]b, “Tb_ “Kura[h ]uftur_,” Ih^i-European origins and the domestication of the
horse: a r_]ihsc^_r[tcih,” Current Anthropology 27: 291-313 (1986); và trong một
bài viết khác nữa củ[ D[vc^ Ahtbihy và Dir][s Briwh, “Tb_ ircachs i` birs_\[]e
rc^cha,” Antiquity 65: 22-38(1991).
Cbươha 16
DA ĐEN VÀ DA TRẮNG

Có ba cuốn sách cung cấp những cuộ] đcều tra tổng quát về nạn diệt chủha được
viết bởi các tác giả: Irving Horowitz, Genocide: State Power and Mass Murder (New
Brunswick: Transaction Books, 1976); Leo Kuper, The Pity of It All (London:
Gerald Duckwonh, 1977); và Leo Kuper, Genocide: Political Use in the 20th Century
(New Haven, Yale University Press, 1981). Một nhà tâm lý họ] tàc hăha, Ri\_rt J.
Lc`tih, ]ũha đã ]ôha \ố những công trình nghiên cứu của ông về những ảnh
bưởng tâm lý của nạn diệt chủng lên các thủ phạm gây ra và nhữha haười còn
sống sót, gồm hai tác phẩm: Death in Life: Survivors of Hiroshima (New York:
Random House, 1967) và The Broken Connection (New York: Simon and Schuster,
1979).
Những cuốh sá]b triha đó gcêu tả hành vi tuyệt diệt haười Tasmanian và
những nhóm thổ dân châu Úc khác nữa là các cuốn: N.B. Plomley, Friendly
Mission: The Tasmanian Journals and Papers of George Augustus Robinson 1829-
1814 (Hobart: Tasmanian Historical Research Association, 1966); c. D. Rowley,
The Destruction of Aboriginal Society, tập 1 (Canberra: Australian National
University Press, 1970); và Lyndall Ryan, The Aboriginal Tasmanians (St. Lucia:
University of Queensland Press, 1981). Bứ] tbư ]ủa Patricia Cobem mà ở đó \à t[
phủ nhận trắng trợn, với sự phẫn nộ ghê gớm việc nhữha haười da trắha đến
châu Úc thảm sát những thổ ^âh T[sg[hc[h đã được in lạc triha hbư pbần phụ
lục trong cuốn sách của hai tác giả J. P_t_r Wbct_ và J[g_s F. O’Cihh_ff, A
Prehistory of Australia, New Guinea, and Sahul (New York: Academic Press, 1982).
Trong số rất nhiều cuốh sá]b và \àc \ái đc vài hbững khía cạnh chi tiết về sự
việc nhữha haườc địhb ]ư ^[ trắha đã tbảm sát những thổ ^âh ^[ đỏ châu Mỹ, có
một số những tác phẩg hbư: Wcf]ig\ E. W[sb\urh, “Tb_ gir[f [h^ f_a[f
justification for dispiss_sscha tb_ Ih^c[hs,” b[y tr[ha 15-32 trong cuốn sách của
James Morion Smith, Seventeenth Century America (Chapel HilkUniversity of
North Carolina Press, 1959); Alvin M. Jose- phy, Jr., The American Heritage Book of
Indians (New York: Simon and Schuster, 1961); Howard Peckham và Charies
Gibson, Attitudes of Colonial Powers Towards the American Indian (Salt Lake City:
University of Utah Press, 1969); Francis Jennings, The Invasion of America:
Indians, Colonialism, and the Cant of Conquest (Chapel Hill: University of North
Carolina Press, 1975); Wil- comb E. Washburn, The Indian in America (New York:
Harper & Row, 1975); Arrell Morgan Gibson, The American Indian, Prehistory to
the Present (Lexington, Mass.: Heath, 1980); và Wilbur H, Jacobs, Dispossessing the
American Indian (Norman: University of Oklahoma Press, 1985). Cuộc thảm sát
thổ ^âh ^[ đỏ Y[bc, và s[u đó fà sự sống sót của Ishi, là những mục tiêu trong
cuốn sách cổ đcển của tác giả Theodora Kroeber có tự[ đề: Ishi in Two Worlds: A
Biography of the Last Indian North America (Berkeley: University of California
Press, 1961). Vụ thảm sát thổ ^âh Br[zcf ]ũha được nhắc tới trong tác phẩm của
Sheldon Davis, Victims of the Miracle (Cambridge: Cambridge University Press,
1977).
Nạn diệt chủha ^ưới thời của St[fch ]ũha được mô tả trong những cuốn sách
củ[ Ri\_rt Cihqu_st, triha đó ]ó ]uốn The Harvest of Sorrow (New York: Oxford
University Press, 1986).
Những luận cứ về những cuộc giết chóc và sự giết hại hàng loạt ]á] fiàc động
vật gây ra bởi nhữha ]ih ebá] ]ũhg trong cùng loài ấy đượ] đề cập tới trong cuốn
sách của E. O. Wilson, Sociobiohgy (Cambridge, Mass: Harvard University Press,
1975); Cynthia Moss, Portraits in the Wild, 2nc ed. (Chicago: University of Chicago
Press, 1982); và tác giả Jane Goodall với cuốn sách, The Chimpanzees ofGombe
(Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1986). Những dẫn chứng của Hans
Kruuk về việc giết chóc diễh r[ triha đàh fchb ]ẩu gà tôc đã từng trích dẫn trong
cuốh sá]b hày được lấy từ cuốn sách nguyên gốc: The Spotted Hyena: a Study of
Predation and Social Behavior (Chicago: University of Chicago Press, 1972).
Chương 17
CHƯA TỪNG CÓ MỘT KỶ NGUYÊN VÀNG

Sự tuyệt chủng của rất nhiều fiàc động vật ở hậu kỳ kỷ Pleistocene và trong
những kỷ nguyên mới gầh đây đã được mô tả một cách toàn diện trong cuốn sách
của Paul Martin và Richard Klein, Quaternary Extinctions (Tucson: University of
Arczih[ Pr_ss, 1984). Tìg đọc thêm về lịch sử của nạn phá rừng, có thể tham
khảo cuốn sách của John Perlin có tự[ đề A Forest Journey (New York: Norton,
1989).
Những dẫn liệu tươha đốc đầy đủ và toàn diện về hệ động - thực vật, đcều kiện
địa chất và khí hậu của New Zealand có thể được tìm thấy trong cuốn sách của G.
Kuschel, Biogeography and Ecology in New Zealand (Hague: Junk, V. T, 1975).
Những cuộc tuyệt chủng diễn ra ở N_w Z_[f[h^ được tổng kết triha ]bươha 32-
34 của cuốh sá]b đã được nêu tên ở phía trên của hai tác giả Martin và Klein.
Atholl Anderson tổng quát những hiểu biết của chúng ta về loài moa trong cuốn
sách củ[ ôha ]ó hb[h đề Prodigious Birds (Cambridge: Cambridge University
Pr_ss, 1989). Mi[ ]ũha fà đốc tượng cho việc nghiên cứu bổ sung trong cuốn tạp
chí New Zealand journal of Ecology, số 12 (1989); các bạn có thể ]bú ý tìg đọc
những bài báo của Richard Hold nằm ở trang 11-25, và bài báo của tác giả Ian
Atkinson và R. M. Greenwood trong trang 67-96. Những bài báo quan trọng khác
có liên quan tới loài moa, là của tác giả G. C[uabf_y, “Tb_ ]ifihcz[tcih i` N_w
Z_[f[h^ \y tb_ Pifyh_sc[hs” Journal of the Royal Society of New Zealand 18: 245-
270 (1988), và A. Ah^_rsih, “M_]b[hc]s i` iv_recff ch tb_ _xtch]tcih i` N_w
Z_[f[h^ gi[s” Journal of Archaeological Science16: 137-151 (1989).
Những cuộc tuyệt chủng ở M[^[a[s][r và H[w[cc được mô tả lầh fượt trong
]bươha 26 và ]bươha 35 ]ủa cuốn sách vừ[ được nhắc tới ở trên của Martin and
Klein. Câu chuyện về bòh đải H_h^_rsih được kể lại bởi David Steadman và
Stirrs Ofsih, triha \àc \ái ]ó hb[h đề “Bcr^ r_g[chs `rig [h [r]b[_ifiac][f sct_
ih H_h^_rsih Isf[h^, Siutb P[]c`c]: g[h][us_^ _xtch]tcihs ih [h ‘uhchb[\ct_^’
csf[h^” Proceedings of the National Academy of Sciences 82: 6191-6195 (1985). Hãy
xem xét trong phần gợc ý đọc thêm củ[ ]bươha 18 về những tài liệu viết về nạn
tuyệt chủng ở châu Mỹ.
Kết cục rùng rợn của nềh văh gchb trêh đảo Phụ] Schb được tái khẳha định
trong cuốn sách của tác giả Patrick V. Kirch mang tên: The Evolution of the
Polynesian Chiefdoms (Cambridge: Cambridge University Press, 1984). Nạn chặt
phá rừng bừ[ \ãc trêh đảo Phục Schb ]ũha được tái hiện bởi J. Flenley trong bài
viết, “Str[tcar[pbc] _vc^_h]_ i` _hvcrihg_ht[f ]b[ha_ ih E[st_r Isf[h^,” Asian
Perspectives 22: 33(1979). Và cả củ[ J. Ff_hf_y và s. Kcha, “L[t_ Qu[t_rh[ry piff_h
r_]ir^s `rig E[st_r Isf[h^,” Nature 307: 47-50 (1984).
Một vài luận chứng về thời kỳ hoàng kim và sự sụp đổ của nhữha haười
Ah[s[zc đếh địhb ]ư ở Chaco Canyon bao gồm những tác phẩg hbư: J. L.
B_t[h]iurt và T. R. V[h D_v_h^_r, “Hifi]_h_ v_a_t[tcih ch Cb[]i C[hyih, N_w
M_xc]i,” Science 214: 656-658 (1981); M. L. S[gu_fs và J. L. B_t[h]iurt, “Mi^_fcha
the longterm effects of fuelwood harvests on pinyon-dugp_r wii^f[h^s,”
Environmental Management 6: 505-515 (1982); J. L. Betancourt và cộng sự,
“Pr_bcstirc] fiha-distance transport of construction beams, Chaco Canyon, New
M_xc]i,” American Antiquity 51: 370-375 (1986); Kendrick Frazier, People of
Chaco: A Canyon and Its Culture (New York: Norton, 1986); và Alden C. Hayes và
cộng sự. Archaeological Surveys of Chaco Canyon (Albuquerque: University of New
Mexico Press, 1987).
Mọc đcều chúng ta muốn biết về những nghiên cứu trên phân của các loài
chuột túc đều được mô tả trong cuốh sá]b ]ó tcêu đề: Packrat Middens của tác giả
Julio Betancourt, Thomas Van Devender và Paul Martin (Tucson: University of
Arczih[ Pr_ss, 1990). Đặc biệt ]bươha 19 ]ủa cuốn sách này phân tích kỹ bơh
nhữha đống phân của loài linh cẩu đến từ Petra.
Mối liên hệ có thể giữa sự tàh pbá gôc trường và sự suy sụp của nềh văh gchb
Hy Lạp được khám phá trong bài báo của K. O. Pope và T. H. van Andel với tự[ đề,
“L[t_ Qu[t_rh[ry ]cvcfcz[tcih [h^ sicf `irg[tcih ch tb_ siutb_rh Araifc^: cts
bcstiry, ][us_s [h^ [r]b[_ifiac][f cgpfc][tcihs”, Journal of Archaeological Science
II: 281-306(1984); hay T. H. van Andel và cộng sự, “Fcv_ tbius[nd years of land
us_ [h^ [\us_ ch tb_ siutb_rh Araifc^,” Hesferia55:103-128 (1986); và c. Runnels
và T. H. v[h Ah^_f, “Tb_ _vifutcih i` s_ttf_g_ht ch tb_ siutb_rh Araifc^, Gr__]_:
[h _]ihigc] _xpf[h[tcih”, Hesferia 56: 303-334 (1987).
Những cuốn sách viết về sự xuất hiện và rồi suy vong của nềh văh gchb ]ủa
haười Maya bao gồm những tác phẩg hbư: T. P[trc]e Cuf\_rt, The Classic Maya
Collapse (Albuquerque: University of New Mexico Press, 1973); Michael D. Coe,
The Maya. 3rd. ed. (London: Thames và Hudson. 1984); Sylvanus G. Morley và
cộng sự. The Ancient Maya, 4th ed. (Stanford: Stanford University Press, 1983);
Charles Galienkamp, Maya: The Riddle and Rediscovery of a Lost Civilization, tái
bản lần thứ (New York: Viking Penguin, 1985); và Linda Scheie và David Freidel,
A Forest of Kings (New York: William Morrow, 1990).
Để có những luậh đcểm so sánh về những sự sụp đổ của các nềh văh gchb, ]á]
bạn có thể tìg đọc cuốh sá]b được viết bởi Norman Yoffee và George L. Cowgill,
The Collapse of Ancient States and Civilizations (Tucson: University of Arizona
Press, 1988).
Cbươha 18
CUỘC TẤN CÔNG CHỚP NHOÁNG VÀ
NGÀY LỄ TẠ ƠN Ở TÂN THẾ GIỚI

Ba cuốn sách cung cấp nhữha đcểm xuất phát rất hữu ích và rất nhiều những kiến
thức tham khảo liên quan tớc trìhb độ văh bó[ rộng lớn và gây nhiều tranh cãi của
nhữha haườc đếh địhb ]ư và sự tuyệt chủng hàng loạt của rất nhiều động vật có
vú eí]b tbước lớn ở Tân Thế giới. Chúng bao gồm: cuốn sách của các tác giả Paul
M[rtch và Rc]b[r^ Kf_ch đã được nhắc tớc triha ]bươha 17; Brc[h F[a[h, The Great
Journey (N_w Yire: Tb[g_s [h^ Hu^sih, 1987); và Rih[f^ C. C[rfcsf_ (haười biên
tập), Americans Before Columbus: Ice-Age Origins (Ethnology Monograph so 12,
Department of Anthropology, University of Pittsburgh, 1988).
Học thuyết về những cuộc tấn công chớp hbiáha được vắn tắt nêu ra trong
một bài báo của Paul Martin có tự[ đề “Tb_ ^cs]iv_ry i` Ag_rc][,” Science 179:
969-974 (1973), còn mô hình tính toán về đcều hày được J. E. Mosimann và
Martin xây dựha hêh triha \àc \ái “Scguf[tcha iv_recff \y P[f_ich^c[hs,”
American Scientist63: 304-313 (1975).
Một loạt những bài báo củ[ ]. V[h]_ H[yh_s, Jr., được xuất bản về văh bó[
Clovis và nguồn gốc của nó nằm ở một ]bươha (từ trang 345- đến 353) của cuốn
sách Martin and Klein (nếu trên), cùng với những bài bái đã được lựa chọn sau
đây: “Ffut_^ prid_]tcf_ pichts: tb_cr [a_ [h^ ^csp_rscih,” Science 145: 1408-1413
(1961); “Tb_ Cfivcs ]uftur_,” Canadian Journal of Anthropology 1:115-121 (1980);
và “Cfivcs ircach up^[t_,” The Kiva 52: 83-93 (1987).
Viết về sự tuyệt chủng ngẫu nhiên củ[ ]á] fiàc fười sốha ^ước đất ở Shasta và
loài dê núi thuộ] vùha H[rrchatih, độc giả có thể tìg đọc cuốn sách của J. I. Mead
và cộng sự, “Extch]tcih i` H[rrchatih’s giuht[ch ai[t,” Proceedings of the
National Academy of Sciences 83: 836-839 (1986). Những bài phê phán tuyên bố
về nềh văh bó[ tcềh Cfivcs ]ũha được cung cấp bởc Ria_r Ow_h triha ]bươha
“Tb_ Ag_rc][s: tb_ ][s_ [a[chst [h I]_-Aa_ bug[h pipuf[tcih,” tr[ha 517-563
của cuốh sá]b được Fred H. Smith và Frank Spencer biên tập, The Origins of
Modern Humans (New York: Liss, 1984); và bài báo củ[ D_h[ Dch][uz_, “Ah
archaeological evaluation of the case for pre-Cfivcs i]]up[tcihs,” triha tạp chí
Advances in World Archaeology 3: 275- 323 (1984); ngoài ra còn có Thomas Lynch,
“Gf[]c[f-age g[h ch Siutb Ag_rc][: A ]rctc][f r_vc_w,” triha American Antiquity
55: 12-36 (1990). Những tranh cãi nhằm cung cấp tbêg hcêh đại của sự ]ư trú
củ[ fiàc haười trong thời kỳ tiền Clovis ở ^ãy húc M_[^iw]ri`t được tổng kết lại
trong cuốn sách của James Adovasci “M_[^iw]ri`t Ri]esb_ft_r, 1973-1977: a
syhipscs,” tr[ha 97-131 cuốn sách của tác giả J. E. Ericson và cộng sự. Peopling of
the New World (Los Altos, Calif.: Ballena Press, 1982), và cả \àc “Wbi [r_ tbis_
guys?: some biased thoughts on the initial peoplcha i` tb_ N_w Wirf^,” tr[ha 45-
61 củ[ ]uôíh sá]b đã được trích dẫn ở trên Americans Before Columbus: Ice-Age
Origins, biên tập bởi Ronald C. Carlisle. Số đầu tiên nằm trong một loạt những
nghiên cứu trong dự áh, triha đó ]ó hbững mô tả chi tiết về đị[ đcểm Monte
Verde là của tác giả T. D. Ditlehay, Monte Verde: A Late Pleistocene Settlement in
Chile, Số I: Palaeoenvironment and Site Contexts (Washington, D.C.: Smithsonian
Institution Press, 1989).
Những bạh đọc nào quan tâm theo dõi câu chuyện về những nguời châu Mỹ
đầu tiên và những con voi ma mút cuối cùng sẽ rất tbí]b tbú để đặt mua cuốn tạp
chí ấn bản bốn lần trong một tbáha, M[ggitb Trugp_t, được cung cấp bởi
Trung tâm nghiên cứu về ]ư ^âh ]bâu Mỹ đầu tiên - Center for the Study of the
First Americans, Anthropology Department, Oregon State University, Corvallis,
Ore., 97331.
Cbươha 19
BÓNG MÂY THỨ HAI

Những luận cứ về sự tuyệt chủng của từng loài - từng loài một và nhữha fiàc đ[ha
trong vòng nguy hiểg được nêu lên trong cuốh sá]b đỏ - R_^ D[t[ Biie, được
xuất bản bởi Hiệp hội bảo tồn tự nhiên và những nguồn tài nguyên thiên nhiên
(tên viết tắt là IUCN) - International Union for Conservation of Nature and
Natural Resources. Có một vài cuốn sách tách biệt về rất nhiều nhóm loài thực vật
và động vật, và những cuốn sách nghiên cứu riêng rẽ xuất hiện trên nhiều lụ] địa
khác nhau. Những cuốh sá]b tươha đươha về fiàc ]bcg được công bố bởi ủy ban
quốc tế về bảo tồn các loài chim - International Council for Bird Preservation, tên
viết tắt là ICBP: Warren B. King biên tập, Endangered Birds of the World: The ICBP
Red Data Book (Washington, D.C.: Smithsonian Institution Press, 1981); và N.J.
Collar, p. Andrew, Birds to ICBP World Check list of Threatened Birds (Cambridge:
ICRP, 1988).
Một kết luận tổng quát và những phân tích về những sự tuyệt chủng ở thời
hiệh đại và trong thời kỳ Băha bà và hbữha ]ơ ]bế diễn ra củ[ ]búha được cung
cấp trong bài báo củ[ tôc ]ó hb[h đề “Hcstirc] _xtch]tcihs: [ Ris_tt[ Stih_ `ir
uh^_rst[h^cha pr_bcstirc] _xtch]tcihs”, và tr[ha 824-862 trong cuốn sách
Quaternary Extinctions của các tác giả M[rtch và Kf_ch, đã được nêu ra ở ]bươha
17. Vấh đề về những cuộc tuyệt chủha được nghiên cứu cẩn thậh ]ũha được bàn
luận tới trong bài báo củ[ ]bíhb tôc đó fà: “Ext[ht uhf_ss priv_h _xtch]t? Or
extinct uhf_ss priv_h _xt[ht?” đăha triha tạp chí Conservation Biology 1:77-79
(1987). T_rry Erwch ước tính con số tổng toàn bộ các loài sinh vật hiện còn tồn tại
trong bài báo có tự[ đề “Tripc][f `ir_sts; tb_cr rc]bh_ss ch Cif_ipt_r[ [h^ itb_r
arthropod species,” The Coleopteriits’ Bulletin 36: 74-75 (1982).
Phầh đọc thêm về những sự tuyệt chủng xảy ra trong thời kỳ Pleistocene và
thời cậh đạc đã đượ] hêu r[ triha ]bươha 17 và 18. Tbêg vài đó, Sfirrs Ofsih
]ũha đáhb acá hbững sự tuyệt chủng của các loài chim sốha trêh ]á] đảo trong
một \àc \ái “Extch]tcih ih csf[h^s: g[h [s [ ][t[stripb_”, b[y ở trang 50-53 của
cuốh sá]b được biên tập bởi David Western và Mary Pearl, Conservation for the
Twenty-first Century (New York: Oxford University Press, 1989). Bài báo của tác
giả Ian Alkinson ở trang 54-75 ]ũha triha quyểh sá]b, “Ihtri^u]_^ [hcg[fs [h^
_xtch]tcihs”, tổng kết lại sự tàn phá mùa màng do những con chuột và các loài
thú nuôi khác gây ra.
PHẦN KẾT
KHÔNG HỌC HỎI ĐƯỢC GÌ
VÀ MỌI THỨ ĐÃ RƠI VÀO QUÊN LÃNG?

Có rất nhiều cuốn sách xuất sắc nghiên cứu về hiện thực và tươha f[c ]ủa cuộc
khủng hoảng tuyệt chủng và những mốc hauy ]ơ ebá] hữ[ gà fiàc haườc đ[ha
phảc đối mặt, nguyên nhân của nhữha hauy ]ơ đó và hbữha đcều cần phải tiến
bàhb để tb[y đổi chúng. Trong số đó \[i aồm những cuốh sá]b hbư:
JOHN J. BERCER, Restoring the Earth: How Americans are Wording to Renew
Our Damaged Environment (New York: Knopf, 1985).
, editor, Environmental Restoration: Science and
Strategies for Restoring the Earth (Washington, D.C.: Island Press, 1990).
JOHN CAIRNS, JR., Rehabilitating Damaged Ecosystems (Boca Raton, Fl.r CRC
Press, 1988). JOHN CAIRNS, JR., K. L. Dickson, and E. E. Herricks, Recovery and
Restoration of Damaged Ecosystems (Charlotiesville: University Press of Virginia,
1977).
ANNE VÀ PAUL EHULICH, Earth (New York: Franklin Watts, 1987).
PAUL VÀ ANNE EHRLICH, Extinction (New York: Random House, 1981).
-–, The Population Explosion (New York: Simon and Schuster, 1990)., Healing
Earth (New York: Addison Wesley, 1991).
PAUL EHRLICH và công sự, The Cold and the Dark (New York: Norton, 1984).
D. FURGURSON VÀ N. FURGURSON, Sacred Cotvs at the Public Trough (Bend,
Ore.: Maverick Publications, 1983).
SUZANNE HEAD VÀ ROBERT HEINZMAN, editors, Lessons of the Rainforest
(San Francisco: Sierra Club Books, 1990).
JEFFREY A. McNfiELY, Economics and Biological Diversity (Gland:
International Union for the Conservation of Nature, 1988).
JEFFREY A. McNEELEY và công sự, Cihs_rvcha tb_ Wirf^’s Bcifiac][f Dcv_rscty
(Gland: International Union for the Conservation of Nature, 1990).
NORMAN MYERS, Conversion of Tropical Moist Forests (Washington, D.C.:
National Academy of Sciences, 1980).
, Gaia: An Atlas of Planet Management (New York: Doublcday, 1984).
, The Primary Source (New York: Norton, 1985).
MICHAEL OPPENHEIMERAND ROBERT BOYLE, Dead Heal: The Race against
the Greenhouse Effect (New York: Basic Books, 1990).
WALTER V. REID AND KENTON R. MILLER, Keeping Options Alive: The
Scientific Basis for Conserving Biodiversity (Washington, D.C.: World Resources
Institute, 1989).
SHARON L. ROAN, Ozone Crisis: The Fifteen-year Evolution of a Sudden
Global Emergency (New York: Wiley, 1989).
ROBIN RUSSELL JONES AND TOM WIGLEY, editors. Ozone Depletion: Health
and Environmental Consequences (New York: Wiley, 1989).
STEVEN H. SCHNEIDER, Global Warming: Are We Entering the
GreenhouseCentury, 2nd ed. (San Francisco: Sierra Club Books, 1990).
MICHAEL E. Souti, editor. Conservation Biology: The Science of Scarcity and
Diversity (Sunderland, Mass.: Sinauer, 1986).
JOHN TERBORCH, Whfre Have All the Birds Gone? (Princeton: Princeton
University Press, 1990).
E. O. WILSON, Biophilia (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1984).
, editor, Biodiversity (Washington, D.C.: National
Academy Press, 1988).
Cuối cùng, với nhữha độc giả rất quan tâm tới mức muốh tb_i đuổi những
phầh đọc thêm có thể ]ũha guốn có những gợi ý về việc làm thế hài để giảm
thiểu nhữha hauy ]ơ rằng thế hệ con cái của chúng ta có thể đc tới chỗ tuyệt diệt.
Nbư tôc đã acải thích trong phần của cuốn sách, bất cứ một haườc ^âh tbường nào
]ũha ]ó tbể làm được những công việc có lợi, bằng cả việc trở nên quan tâm tới
chính trị nhiều bơh và đóha aóp hbững khoản tiền dù là nhỏ nhoi nhất cho các tổ
chức hoạt động bảo tồh. Dước đây fà têh, địa chỉ và số đcện thoại của một vài tổ
chức nổi tiếng và lớn nhất, trong số rất nhiều những tổ chứ] đ[ha rất cần tới sự
đóha aóp:
Conservation International, 1015 Eighteenth Street NW, Suite 1000,
Washington, D.C. 20036 (202-429-5660).
Defenders of Wildlife, 1244 Nineteenth Street NW, Washington, D.c.
20036(202-659-9510).
Ducks Unlimited, 1 Waterfowl Way, Long Grove, IL 60047 (708-438-4300).
Environmental Defense Fund, 257 Park Avenue South, New York, NY 10010
(212-505-2100).
Friends of the Earth, 218 D Street SE, Washington, D.c. 20002 (202-544-2600).
Greenpeace, 436 U Street NW, Box 3720, Washington, D.C. 20007 (202-462-
8817).
League of Conservation Voters, 1150 Connecticut Avenue NW, Washington,
D.C. 20036 (202-785-8683).
National Audubon Society, 950 Third Avenue, New York, NY 10022 (212-546-
9100).
National Resources Defense Council, 40 West wentieth Street, New York, NY
10011 (212-727-2700).
Nature Conservancy, 1815 Lynn Street, Arlington, VA 22209 (703-841-5300).
Rainforest Action Network, 301 Broadway, Suite A, San Francisco, CA 94133
(415-398-4404).
Sierra Club, 730 Polk Street, San Francisco, CA 94109 (415- 776-2211).
Trout Unlimited, 501 Church Street NE, Vienna, VA 22180 (703-281-1100).
Wildemess Society, 900 Seventeenth Street NW, Washington, D.C. 20006-
2596 (202-833-2300).
World Wildlife Fund, National Headquarters, 1250 Twenty-Fourth Street NW,
Suite 500, Washington, D.C. 20037 (202- 223-8210).
Zero Population Growth, 1400 Sixteenth Street NW, Suite 320, Washington,
D.C. 20036 (202-332-2200).
NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC

53 Nguyễn Du, Hà Nội, Việt Nam


Đcện thoại: (84-4) 9454 661 Fax:(84-4) 9454 660
E-mail: lienhe@nxbtrithuc.com.vn

JARED DIAMOND

LOÀI TINH TINH THỨ BA

Nguyễn Thủy Chung


Nguyễn Kim Nữ Thảo dịch

Chịu trách nhiệm xuất bản:

CHU HẢO

Biên tập:

NGUYỄN PHƯƠNG LOAN


Bìa và trình bày:

TRẦN QUANG DŨNG


Phát hành tại Công ty Cổ phần sách Bách Việt

Số 63/91, Lạc Long Quân, Hà Nội


Tel/Fax: (84-4) 7590 240
Email: bachvietbooks@vnn.vn
In 1.500 cuốn, khổ 14 X 20,5 cm tạc Xưởng in Trung tâm Học liệu, Trườha Đại học
Sư pbạm Hà Nội. Số đăha eí eế hoạch xuất bản 481-2006/CXB/08-05/TrT do NXB
Tri Thức cấp ngày 22/03/2007. In xong và nộp fưu ]bcểu Quý I hăg 2007.
Chú thích
(1) Động vật nhân hình hay còn gọi là khỉ không đuôi.
(2) Dặm: đơn vị đo lường của Anh - Mỹ, 1 dặm tương đương với 1,069 km.
(3) Gorilla: hay còn gọi là khỉ đột.
(4) Cựu Thế giới gồm các lục địa Á - Phi - Âu.
(5) ADN của ty thể - một bào quan của tế bào có dạng vòng và có các đặc tính khác biệt so với mã di truyền của gen nằm
trong nhân đó là di truyền theo dòng mẹ. Globin là viết tắt của globular proteins (spheroproteins), tức là một trong hai
dạng protein phổ biến nhất, bao gồm những phân tử protein có hình cầu. tan nhiều hay ít trong dịch lỏng (mà ở đó chúng
hình thành hỗn hợp dạng hạt). Đặc tính riêng này giúp phân biệt chúng với loại protein dạng sợi (fibrous protein) hoàn
toàn không tan trong dịch lỏng.
(6) Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại: The Great Leap Forward, trong bản dịch Súng, Vi trùng và Thép - Jared Diamond của dịch giả
Trần Tiền Cao Đăng (NXB Tri thức, 2007), thuật ngữ này được dịch là “Cú Nhảy Lớn về Phía Trước”.
(7) Chu Khẩu Điểm: khu vực cách Bắc Kinh 50km về phía Tây Nam, nằm giữa vùng núi và đồng bằng.
(8) Cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1993.
(9) TânThế giới: khu vực châu Mỹ.
(10) Testosterone: kích thích tố sinh dục nam.
(11) Nguyên văn tiếng Latin “in acto flagrante”: đang trong cảnh trai trên gái dưới.
(12) Bài kiểm tra vết mực Rorschach: là một phương pháp nghiên cứu tâm lý mà các nhà tâm lý học dùng để phân tích
nhân cách và chức năng xúc cảm của người bệnh thông qua việc đưa cho người bệnh các tấm hình vết mực loang khác
nhau và để người bệnh nói lên những hình ảnh mà họ tưởng tượng ra qua đó. Phương pháp này được bác sỹ tâm lý
Hermann Rorschach, người Thụy Sỹ phát triển vào thế kỷ XX.
(13) EMS (extramarital sex): ngoại tình hay quan hệ tình dục ngoài hôn nhân.
(14) PMS (premarital sex): quan hệ tình dục trước hôn nhân.
(15) PMS (premenstrual syndrome): hội chứng tiền kinh nguyệt.
(16) Động vật nhân hình macca Babary: loài khỉ sống thành từng bầy ở vùng rừng cao Algeria, Tunisia, Morocco và
Gibraltar, cao chừng 60 cm, bộ lông dày màu nâu vàng, mặt không lông có màu hồng nhạt.
(17) MRS (a mixed reproductive strategy): chiến thuật sinh sản kết hợp.
(18) Mormon: Ở Việt Nam, phiên âm của tên gọi này là giáo phái hay dòng tu Mặc Môn, một tôn phái lớn nhất và nổi
tiếng nhất của phong trào Thánh hữu Ngày sau (một hình thức của phong trào phục hồi Ki Tô giáo), có trụ sở đặt tại thành
phố Salt Lake, Utah, Hoa Kỳ.
(19) Casanova: Gian Giacomo Girolamo Casanova (1725 - 1798), là một nhà văn người Venice, Italia cũng là người phiêu
lưu và kẻ phỏng đãng nổi tiếng, thường được liên hệ với nhân vật Don Juan, nhưng khác với nhân vật huyền thoại này,
Casanova không bỏ rơi những người phụ nữ của mình mà kết bạn với họ ngay cả khi chuyện tình ái kết thúc.
(20) Hồ Michigan: một trong năm hồ lớn nhất vùng Bắc Mỹ.
(21) Manitoba: một tỉnh ở Canada.
(22) Fiji: quốc đảo nằm ở Nam Thái Bình Dương, phía đông giáp Vanuatu, tây giáp Tonga, nam giáp Tuvalu; quốc đảo
này bao gồm 322 hòn đảo.
(23) Nguyên bản là “coparents” tạm dịch là „„liên minh cha mẹ”.
(24) Nguyên bản: “In short, like tends to marry like.”
(25) Người lùn Pygmy sống chủ yếu ở các vùng châu Phi và Nam Á.
(26) Vượn mực: thuộc nhóm thấp nhất của động vật nhân hình, sống ở rừng Malaysia và Sumatra, có kích thước lớn gấp
đôi loài vượn thường, cao 1 m và nặng hơn 23 kg; loài vượn này có khả năng sống hơn 20 năm.
(27) Sa mạc Kalahari: bán sa mạc nằm ớ phía Nam châu Phi, vùng cát khô cằn đến bán khô cằn, diện tích khoảng
900.000km2, bao gồm quốc gia Botswana, một phần của Namibia và một phần của Nam Phi.
(28) Người Hottentot: hay còn gọi là người Khoikhoi (hoặc Khoekhoe), một tộc người thiểu số đã sống ở Tây Nam châu
Phi hơn 3.5000 năm trước.
(29) Humpty-Dumpty: một quả trứng được nhân cách hóa trong truyện thơ Mẹ Ngỗng, hầu hết trẻ em ở khu vực nói tiếng
Anh đều quen thuộc với đoạn thơ: Humpty Dumpty ngồi trên tường/ Humpty Dumpty ngã lộn nhào/ Tất cả ngựa và
thần dân của đức vua/ Chẳng thể nào đặt Humpty Dumpty trở lại. (Vì nó là một quả trứng.)
(30) H.M.S viết tắt của His (or Her) Majesty‟s Ship, có nghĩa là tàu thuộc Hải quân Hoàng gia.
(31) Indefatigable (Không biết mệt mỏi), Queen Mary (Nữ hoàng Mary), Invincible (Bất khả chiến bại) và Repulse (Đánh
lui): các tuần dương hạm thuộc Hải quân Hoàng gia Anh.
(32) Jutland (Đan Mạch): nơi diễn ra cuộc chiến giữa quân Anh và quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ 1 (1916).
(33) Khỉ Rhesus: loại khỉ thường gặp nhất ở Cựu Thế giới, có lông màu nâu, trung bình con đực cao 53 cm và nặng 7,7 kg;
con cái cao 47 cm và nặng 5,3 kg.
(34) Femina sapiens: người phụ nữ tinh khôn.
(35) Ngài Arthur Conan Doyle: tác giá của bộ truyện trinh thám Sherlock Holmes.
(36) Cuộc phiêu lưu của người đàn ông trườn bò: The adventure of the Creeping Man
(37) Nhà thờ Chartres hay còn có tên gọi khác là Nhà thờ Đức bà Chartres, nằm cách Paris 80 km. được xây dựng từ thế
kỷ XII, tiêu biểu cho kiến trúc Gothic của Pháp.
(38) Tên lửa V-2 (viết tắt của Vergeltungswaffe 2 có nghĩa là Vù khí trả đũa 2) là loại tên lửa đạn đạo đầu tiên được Quân
đội Đức sử dụng để chống lại quân đội Anh và Bỉ trong giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ II.
(39) Australopithecus: được ghép từ từ gốc Latin autralis có nghĩa là ở phương Nam và từ gốc Hy Lạp pithecos có nghĩa là
vượn, để chỉ loài vượn phương Nam, loài vượn nhân hình đã tuyệt chủng rất gần gũi với con người.
(40) Thomas Struhsaker: nhà sinh vật học thuộc khoa Nhân chủng và Giải phâu sinh vật học, Đại học Duke, Hoa Kỳ.
(41) Robert Seyfarth và Dorothy Cheney: hiện là giáo sư khoa Tâm lý học thuộc Đại học Pennsynvania, Hoa Kỳ, chuyên
nghiên cứu hành vi giao tiếp của động vật.
(42) Noam Chomsky: nhà hoạt động trí thức hàng đầu của Hoa Kỳ và thế giới là giáo sư Ngôn ngữ và Triết học MIT,
người sáng lập ngành ngôn ngữ học hiện đại.
(43) Oscar Wilde (1854 - 1900): nhà văn, nhà viết kịch người Anh.
(44) Charles Ives (1874 - 1954): nhà soạn nhạc người Mỹ.
(45) Franz Kafka (1883 - 1924): nhà văn người Đức với các tác phẩm nổi tiếng như Vụ án, Hỏa thân đã được dịch ra tiếng
Việt.
(46) Thảm họa Chernobyl: vụ nổ nhà máy điện nguyên tử Chernobyl (Ukraina) ngày 26 tháng Tư năm 1986 gây ra những
tác động rất xấu đến môi trường và sức khỏe con người.
(47) Vụ tràn dầu Valdez: thảm họa môi trường do con người gây ra trên biển lớn nhất từ trước đến nay, diễn ra vào ngày
24 tháng Ba năm 1989, dầu bị tràn kháp 1.900 km đường bờ biển Alaska, Hoa Kỳ.
(48) Kênh đào Love (Hoa Kỳ): từng bị sử dụng làm nơi đổ rác thải y tế, gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường và ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe người dân sống quanh kênh đào (như tăng tỷ lệ người mắc ung thư và trẻ em sơ sinh bị dị tật).
(49) Harlem (Manhattan, Hoa Kỳ): được biết đến như khu ổ chuột trong thế kỷ XX, với văn hóa đen, tội ác và đói nghèo.
(50) LSD (viết tắt của từ Lyerg saurre - diethylamind): loại axit có công thức hóa học là C20H25N3O.
(51) Metrodorus (331-278 tr.CN): triết gia Hy Lạp thuộc trường phái Epicurus.
(52) Mẫu: đơn vị đo của Anh. 1 mẫu = 0.4 hecta.
(53) Yard: đơn vị đo của Anh. 1 yard = 0.914 mét.
(54) Roald Engelbregt Gravning Amundsen (1872 - 1928?): nhà thám hiểm người Na Uy, đã thám hiểm thành công vùng
Nam Cực vào khoảng năm 1910 và 1912. Ông bị mất tích trong một lần tham gia giải cứu nhóm thám hiểm khác vào năm
1928.
(55) Jane Goodall: sinh năm 1934, nhà sinh vật học, động vật linh trưởng học, phong tục học và nhân chủng học người
Anh; bà đã có 45 năm nghiên cứu về đời sống xã hội và gia đình của loài tinh tinh; bà hiện là Giám đốc Viện nghiên cứu
Jane Goodall tại Công viên Quốc gia Gombe Stream, Tanzania.
(56) Dachau: một thị trấn ở vùng Bavaria, miền Nam nước Đức, nơi đây từng có trại tập trung Dachau của Đức Quốc xã,
trong suốt Chiến tranh thế giới thứ II.
(57) Ý tác giả nói đến thập kỷ 90 của thế kỷ XX.
(58) George Augustus Robinson (1791 - 1866): nhà thầu xây dựng, người thuyết pháp không được đào tạo người Anh.
(59) Alice Springs: một thị trấn nằm ở miền Bắc Australia.
(60) Herald: tờ báo nổi tiếng được xuất bản ở Melbourne. Australia từ năm 1840 đến 1990.
(61) Andrew Jackson (1768 - 1845): tổng thống thứ bảy của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, nhiệm kỳ 1829 - 1837.
(62) Wounded Knee: khu vực miền Nam Dakota, Hoa Kỳ.
(63) Little Big Horn: cuộc chiến diễn ra tại khu vực Sông Little Big Horn, Thành phố Big Horn, Montana, Hoa Kỳ.
(64) Bartholomew: một trong 12 vị thánh tông đồ của Chúa Jesus, được giáo dân kỷ niệm vào ngày 24 tháng Tám hàng
năm.
(65) Arthur Koestler (1905 - 1983): học giả, nhà báo, nhà văn người Hungary nhập quốc tịch Anh.
(66) Xin xem thêm trong phần Phần đọc thêm.
(67) desaparecidos: từ tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa là những người mất tích.
(68) Ai. Makkedah. Libnah. Hebron, Debir…: những vùng đất trong Kinh Thánh.
(69) Al Capones (1899 - 1947): người Mỹ gốc Naples, trùm găng tơ nổi tiếng ở Mỹ những năm 1920. 1930.
(70) Roca Argentino Julio (1843 - 1914): vị tướng người Argentina.
(71) Ý nói nếu được chòm sao đặc biệt chiếu mệnh vì vận mệnh của nó sẽ trở nên đặc biệt hơn.
(72) Những nội dung này được tác giả thu thập và viết vào thập kỷ 80 của thế kỷ XX, khi mà các tác động nhằm chặn nạn
diệt chủng của Liên Hiệp Quốc chưa có được ảnh hưởng rõ rệt.
(73) Idi Amin (1924 - 2003): tổng thống Uganda từ 1971 - 1979.
(74) Thú ăn thịt chuyển hướng: switching predator.
(75) Jean-Jaques Rousseau (1712 - 1778): nhà Khai sáng Pháp.
(76) Xem thêm về câu chuyện tiến hóa trong thời đại chúng ta diễn ra tại quần đảo Galápagos trong cuốn Mỏ chim sẻ đảo,
Jonathan Weiner - Nguyễn Ngọc Hải dịch, NXB Tri thức, 2006.
(77) Cây thông-bách xù: pinyon-juniper.
(78) Sean Connery và Harrison Ford: những diễn viên điện ảnh nổi tiếng người Mỹ.
(79) Cuộc tấn công chớp nhoáng - Blitzkrieg là chiến thuật chiến tranh chớp nhoáng, hay đánh nhanh thắng nhanh, của
học thuyết quân sự Đức. Trong tiếng Đức, “Blitzkrieg” là một từ ghép, blitz-krieg, có nghĩa là cuộc chiến tranh chớp
nhoáng, mà trong cuộc chiến đó hành động tấn công căn bản là dùng khối lượng xe tăng thật lớn với sự yểm hộ của phi cơ
thọc sâu một cách táo bạo vào trung tâm của đối phương. Đây là chiến thuật quân sự mà quân đội phát xít Đức đã sử dụng
trong Chiến tranh thế giới thứ II.
(80) Ngày Columbus: ngày Columbus tìm ra châu Mỹ, ngày thứ Hai của tuần thứ hai tháng Mười, thường rơi vào ngày 12
tháng Mười hằng năm.
(81) Ngày lễ Tạ ơn: ở Mỹ là ngày thứ Ba cuối cùng của tháng Mười một, ở Canada là ngày thứ Hai của tuần thứ hai tháng
Mười.
(82) Những người di cư hay hành hưởng tới vùng Plymouth: những tín đồ Thanh giáo Anh đến Mỹ năm 1620 và thành lập
khu kiều dân Plymouth ở bang Massachusets.
(83) Patagonia: một phần của Nam Mỹ, ở Argentina và Chile.
(84) Công viên Quốc gia Yellowstone: một công viên thuộc hệ thống công viên Quốc gia Hoa Kỳ, nằm tại Woyming,
thuộc Montana và Idaho với diện tích 8.879 km2.
(85) Tierra del Fuego: từ tiếng Tây Ba Nha cổ nghĩa là Mảnh đất Lửa, quần đảo ở cực Nam châu Mỹ. Trong câu này, tác
giả muốn ám chỉ sự phân bố của người da đó từ Bắc đến Nam Mỹ.
(86) Edmonton (Alberta): nàm ở phía Tây Bắc châu Mỹ, thuộc Canada.
(87) Grand Canyon: vùng núi đá với đá đa sắc và những đường gấp khúc, cất xẻ, gần sông Colorado, Arizona, Hoa Kỳ.
(88) 1 ounce = 28,35 g.
(89) Những bài giảng Tanner: tập hợp những thảo luận khoa học và giáo dục của rất nhiều học giả nổi tiếng bàn về giá trị
con người. Seri bài giảng của Jared Dimond tại Đại học Utah là The Broadest Pattern of human History.

You might also like