Professional Documents
Culture Documents
LỜ I TỰ A
DẪ N NHẬ P
Phầ n đầ u tiên: ĐẶ C ĐIỂ M QUỐ C GIA
CHƯƠNG I: Chủ ng tộ c
CHƯƠNG II: Mô i trườ ng
CHƯƠNG III: Tâ m hồ n ngườ i An Nam
Phầ n thứ hai: TIẾ N HÓ A CỦ A DÂ N TỘ C AN NAM
CHƯƠNG I: Tiến hó a lịch sử
CHƯƠNG II: Tiến hó a trí tuệ
CHƯƠNG III: Tiến hó a xã hộ i và tiến hó a chính trị
KẾ T LUẬ N
LỜI TỰA
Khô ng ai phủ nhậ n rằ ng nướ c Phá p phả i nhậ n thứ c đầ y đủ về cá c vấ n đề nghiêm trọ ng
và tế nhị khở i từ việc mở rộ ng thuộ c địa gầ n đâ y. Sau khi chú ng ta trả giá đắ t bằ ng hà ng
ngà n con ngườ i và hà ng tră m triệu franc, những đầu tư quá an toàn này - như mộ t trong
nhữ ng chính khá ch củ a chú ng ta đã nó i - liệu có tạ o ra đượ c mộ t sự vậ n hà nh hiệu quả cho
mụ c tiêu thự c tiễn trướ c mắ t: sự phá t triển thịnh vượ ng và hoạ t độ ng quố c gia, hay ở mụ c
đích cao xa hơn: truyền bá vă n minh, cả i biên chính tinh thầ n củ a chú ng ta cho phù hợ p vớ i
nã o trạ ng củ a cá c dâ n tộ c kém phá t triển mà chú ng ta coi só c?
Câ u trả lờ i chỉ có thể đượ c khẳ ng định dự a theo điều kiện đầ u tiên và thiết yếu: vấ n đề
thờ i gian thu hoạ ch. Tương lai tù y thuộ c Thiên Chú a - hay định phậ n rủ i may - phả i giớ i hạ n
mọ i dự đoá n, thậ m chí tá o bạ o nhấ t, trong mộ t khoả ng thờ i gian tương đố i hạ n chế nhưng
phả i là mứ c tố i thiểu thự c sự cầ n thiết cho nhữ ng cuộ c chinh phụ c tố n kém để sau nà y khỏ i
phả i mang tiếng lừ a dố i con chá u chú ng ta. Hã y lấ y ba tră m nă m là m mố c: đó khô ng là gì đố i
vớ i lịch sử nhâ n loạ i và rấ t ngắ n ngủ i đố i vớ i lịch sử quố c gia; vớ i chú ng ta, chỉ là khoả ng
thờ i gian trô i qua giữ a triều đạ i Đạ i đế Vert Galant[9] và Tổ ng thố ng É mile Loubet. Vậ y thử
hỏ i, tình trạ ng cá c thuộ c địa củ a chú ng ta sẽ như thế nà o và o lú c bình minh củ a thế kỷ XXIII?
Ở Bắ c Phi, và o cuố i triều đạ i Napoléon III, Prévost-Paradol[10] đã trình ra mộ t tá c phẩ m
hứ a hẹn mang đến sự thỏ a lò ng cho tiếng thét cả nh tỉnh, vang vọ ng â u lo và gầ n như tuyệt
vọ ng.
Tạ i Algérie[11], nhâ n danh nướ c Phá p, sự má u lử a củ a tấ t cả cá c dâ n tộ c La-tinh đượ c hò a
quyện và o nhau. Luậ t Nhậ p tịch nă m 1889, luậ t có hiệu lự c tương lai, luậ t khô ng thể xá c
thự c nếu khô ng bao giờ đượ c thự c hiện[12], sẽ kích hoạ t việc Phá p hó a chính thứ c tấ t cả cá c
yếu tố vố n khô ng khá c biệt lắ m về nền tả ng, vả lạ i cá c bậ c sơ họ c, dẫ u cò n chưa đượ c mở
rộ ng mấ y, đang dầ n thấ m nhuầ n tinh thầ n Phá p. Nếu sự xâ m chiếm thắ ng lợ i củ a nô ng dâ n
Sicile buộ c chú ng ta phả i bắ t đầ u lạ i cuộ c chinh phụ c Tunisie [13], nếu có thể nó i như vậ y, thì
thậ t dễ hiểu khi nhậ n ra rằ ng vớ i sứ c mạ nh to lớ n đang tă ng lên, từ tứ phía mọ i luồ ng tấ n
cô ng nhắ m và o đầ u ó c đặ c quyền, đặ c lợ i đá ng tiếc củ a nhữ ng đạ i điền chủ , tự cho mình là
thự c dâ n vì đã chiếm đoạ t hầ u hết vù ng đấ t có sẵ n, và củ a nhữ ng phá i bộ thả m hạ i bấ y lâ u
nay luô n nhắ m đến việc gâ y mấ t uy tín trướ c chính quyền vương quố c[14] cá i cô ng cuộ c
thuộ c địa hó a chính thứ c và sự thiết lậ p nhữ ng địa chủ nhỏ mà Algérie kể từ đâ y đã có thể
cung cấ p tương tự như Phá p quố c.
Đến lượ t mình, vấ n đề Maroc đang dầ n chín muồ i[15], đè nặ ng lên mọ i đầ u ó c, đang đi đến
cá ch giả i quyết tự nhiên củ a nó , vớ i sự chấ p nhậ n hoặ c từ bỏ củ a châ u  u; và trừ khi có
nhữ ng sai phạ m hiển nhiên, nhữ ng thả m họ a khô ng lườ ng trướ c đượ c, viên ngọ c nà y, trong
số nhữ ng viên ngọ c quý củ a nướ c Phá p, trong thờ i gian ngắ n, sẽ nhâ n đô i, nhâ n ba giá trị tà i
sả n tuyệt vờ i củ a chú ng ta ở lụ c địa Atlantis[16].
Khi đó , từ Vịnh Gabès[17] đến khắ p đạ i dương rộ ng lớ n, hà ng triệu ngườ i châ u  u mà
chú ng ta tin sẽ sớ m tă ng nhanh nhờ nă ng lự c sinh sả n cũ ng như dò ng chả y khô ng ngừ ng
củ a ngườ i La-tinh, trong chưa đến ba thế kỷ, sẽ trở thà nh mộ t quố c gia mạ nh mẽ gồ m ba
mươi triệu ngườ i châ u  u nó i tiếng Phá p, pha lẫ n vớ i ít nhấ t cũ ng là mộ t con số tương
đương số ngườ i bả n xứ cũ ng sẽ sử dụ ng tiếng nó i củ a chú ng ta, điều vố n khô ng là m hà i lò ng
mộ t số ít ngườ i thiếu ý thứ c, nhữ ng kẻ mơ mộ ng chấ n hưng, là m số ng lạ i hoặ c hợ p nhấ t mọ i
phương ngữ củ a xứ sở . Sá u mươi triệu ngườ i Phá p Atlantis nà y sẽ trà n qua biên giớ i tự
nhiên, bă ng qua sa mạ c Sahara vươn tớ i Tâ y Phi củ a chú ng ta, để có thể khai thá c nó hiệu
quả ; bở i khô ng ai biết nhữ ng tà i nguyên củ a cả i nà o dà nh cho chú ng ta, trong sa mạ c mênh
mô ng, kiến thứ c về lò ng đấ t, sự tiến bộ củ a khoa họ c hay việc sử dụ ng nhiệt nă ng, chẳ ng
hạ n như nhiệt nă ng mặ t trờ i.
Giữ a nướ c Phá p-Phi trẻ nà y và Mẫ u quố c Phá p già nua ở châ u  u, sự phâ n ly chính trị là
khô ng thể trá nh khỏ i, có lẽ nó đượ c nhậ n định quá cứ ng nhắ c và sẽ chỉ là mộ t sự kiện quan
trọ ng thứ yếu, đượ c khở i xướ ng từ phương Bắ c[18], là do tự thấ y mình bị ả nh hưở ng quá
nhiều trong đờ i số ng nộ i tạ i từ cá i thuộ c địa gầ n gũ i và gợ i cả m hứ ng nà y. Điều đá ng mong
muố n, điều phả i là trên hết, đó là hà ng tră m triệu con ngườ i sẽ sử dụ ng tiếng Phá p trên cả
hai bờ Địa Trung Hả i và đều thấ y giố ng như đang ở nhà mình, tấ t cả đượ c đà o tạ o trong mộ t
khố i đạ i đồ ng về ý niệm và tình cả m, hà m chứ a sự đồ ng nhấ t ngô n từ hiển nhiên, do đó
mang lạ i cho nhau sự hỗ tương, giú p đỡ và trợ lự c. Vì, dù đẹp đến đâ u, liệu có phả i chính từ
cá c thuộ c địa hiện tạ i củ a mình mà nướ c Anh đã lấ y đượ c chỗ dự a tư tưở ng lớ n nhấ t?
Khô ng phả i thế sao, khi mà bấ t chấ p sự phâ n ly dữ dộ i và lan tỏ a giô ng bã o Đạ i Tâ y Dương,
tá m mươi triệu ngườ i Bắ c Mỹ, vớ i chủ ng tộ c pha trộ n, nhưng tấ t cả đều nó i ngô n ngữ củ a
họ , mua sá ch bá o, tham gia và o đờ i số ng trí tuệ củ a họ ?
Vậ y, vớ i mọ i viễn cả nh trên, cô ng trình củ a nướ c Phá p sẽ mạ nh mẽ và đạ t thà nh tự u ở
châ u Phi.
Thà nh cô ng ở Madagascar cò n đầ y hoà i nghi. Chú ng ta mang lạ i sự yên bình và thịnh
vượ ng tương đố i cho dâ n cư rấ t sinh sô i nả y nở củ a hò n đả o lớ n nà y. Chỉ tă ng gấ p đô i số
lượ ng dâ n cư củ a hà ng tră m nă m qua và , và o đầ u thế kỷ XXIII, sẽ vượ t qua con số hai mươi
triệu sinh linh, trong đó có và i tră m nghìn ngườ i  u và ngườ i lai. Đặ c điểm củ a dâ n tộ c nà y
sẽ là gì và giá trị củ a nó đố i vớ i sự bà nh trướ ng củ a nướ c Phá p trên thế giớ i sẽ ra sao?
Chú ng ta có thể mạ nh dạ n trả lờ i rằ ng giá trị nà y sẽ đến trự c tiếp từ kiến thứ c và việc sử
dụ ng ngô n ngữ chú ng ta. Vậ y điều trở ngạ i là cầ n trá nh là m lụ i tắ t nhữ ng nhiệt huyết tố t
đẹp ban đầ u củ a cuộ c chinh phụ c, trong khi phả i đồ ng thờ i chố ng lạ i tiếng Anh; là quên rằ ng
nếu tấ t cả cá c cô ng chứ c Phá p phả i biết ngô n ngữ củ a xứ nà y, thì bên cạ nh đó tấ t cả ngườ i
bả n xứ phả i họ c và có thể nó i khá hơn ngô n ngữ củ a chú ng ta; là khuyến khích nhữ ng chủ
nhâ n củ a hò n đả o đã thấ p thoá ng ló dạ ng, lớ p họ c giả nử a mù a tai hạ i[19], nhanh chó ng bị mê
hoặ c bở i sự ngưỡ ng mộ về chủ đề nghiên cứ u đặ c biệt củ a họ , vì niềm hữ u ý và vụ lợ i nhiều
hơn là sự châ n thà nh và cô ng chính, dễ dà ng sẵ n lò ng coi thườ ng nhiệm vụ yêu nướ c củ a
mình để bả o lưu, thanh lọ c, củ ng cố , tạ o ra, có thể nó i, mộ t bả n ngữ , và tiếp theo là mộ t đặ c
tính quố c gia bả n địa. Vậ y là m sao khô ng nghi ngờ cho đượ c nhữ ng nỗ lự c củ a cá c quỹ củ a
Viện Ngô n ngữ Malgache[20] mà chính nhữ ng kẻ thố ng trị tà i trợ , nếu họ có ý định á p đặ t
chương trình “cả i cá ch xá c đá ng” củ a mình lên cá c quy tắ c ngô n ngữ củ a xứ nà y!
Sự hồ nghi nà y sẽ chuyển thà nh nỗ i lo lắ ng nếu chú ng ta chuyển sang Đô ng Dương, nơi
tấ t yếu cầ n xem xét trướ c tiên là sự hấ p thụ , dù hò a bình hay đố i khá ng, củ a đấ t nướ c nà y
đố i vớ i khố i khổ ng lồ bố n tră m triệu ngườ i Trung Hoa, mà dù có thế nà o đi nữ a cũ ng sẽ
phá t triển dướ i á p lự c củ a thờ i cuộ c. Tạ i sao đấ t nướ c Trung Hoa, có nền vă n minh đỉnh cao,
rố t cù ng thoá t khỏ i quy luậ t nà y lạ i biểu hiện quá tự mã n kể từ nă m 1870 [21]? Hầ u như tấ t cả
cá c dâ n tộ c, thậ m chí cò n sơ khai, có nhữ ng bướ c tiến vượ t bậ c về ý thứ c phò ng vệ và sử
dụ ng vũ trang khi bị đá nh thứ c khỏ i sự ngủ mê hay bị quấ y rố i sự yên tĩnh bở i việc xâ m
nhậ p bạ o lự c củ a ngườ i châ u  u. Nhậ t Bả n và Abyssinia[22] chỉ là mộ t số ví dụ , đú ng là nổ i bậ t
nhấ t, cho nhữ ng tiến bộ phổ quá t nà y, chứ ng tỏ cái phúc cho những kẻ sở hữu[23] và là m cho
mọ i cuộ c chinh phụ c trong tương lai ngà y cà ng khó khă n hơn.
Để qua mộ t bên viễn cả nh củ a hiểm họ a Trung Hoa, mà nhữ ng thuậ n lợ i rấ t đá ng gờ m
về giao lưu khô ng ngừ ng gia tă ng[24] có thể xả y ra theo sau cuộ c chiến vớ i mộ t cườ ng quố c to
lớ n nà o đó và sẽ gâ y tổ n thấ t từ xứ Đô ng Dương nằ m cá ch nướ c Phá p đến 3.000 hả i lý, vậ y
thì ở cuố i con đườ ng mà chú ng ta khô ng phả i là chủ tể, vị thế củ a nhữ ng thầ n dâ n châ u Á
củ a chú ng ta trong ba tră m nă m nữ a là gì?
Ở đâ y, ít ra khô ng bao giờ phả i dù ng chính sá ch mũ ni che tai hay cườ ng điệu hó a bằ ng
nhữ ng ngô n từ sá o rỗ ng để là m hà i lò ng tinh thầ n có ở hầ u khắ p đồ ng bà o chú ng ta.
Biến đổ i xứ sở bằ ng cá ch cung cấ p cho nó cá c cô ng cụ kinh tế tinh vi, tá i tạ o nò i giố ng,
ngă n chặ n tình trạ ng tử vong ở trẻ em, là m cườ ng trá ng thâ n thể, chấ n hưng tâ m hồ n, phụ c
dự ng tinh thầ n, v.v. Đó là nhữ ng cô ng thứ c phổ biến và biến hó a vô cù ng. Trong thự c tế
nhữ ng việc nà y có ý nghĩa gì? Tó m tắ t chỉ có ba điều, khô ng nhiều hơn: cả i thiện cơ sở vậ t
chấ t củ a xứ sở , gia tă ng dâ n số ở mứ c nhấ t định, và sự tiến hó a tấ t nhiên củ a tâ m hồ n; ba
điều đó sẽ cấ u thà nh nhiệm vụ khô ng thể trá nh củ a kẻ chinh phụ c, vớ i lợ i ích gầ n như độ c
quyền cho cá c thầ n dâ n.
Kể từ nă m 1886, tô i hà i lò ng khi nhắ c lạ i điều đó vớ i cá c quan lạ i An Nam, họ quá muộ n
phiền vì sự hỗ n loạ n kinh khủ ng củ a thờ i đạ i và sự đà n á p tà n bạ o khô ng thể trá nh: “Tô i đã
nó i vớ i họ , chủ ng tộ c củ a bạ n trong quá khứ từ ng chịu nhữ ng khủ ng hoả ng lớ n hơn nhiều
mà cò n khô ng là m sao ngă n đượ c nó phá t triển. Về cơ bả n, tấ t cả chú ng tô i là ngườ i Phá p,
chú ng tô i chỉ là m vì bạ n. Chú ng tô i sẽ khô ng lấ y đấ t nướ c củ a bạ n, chú ng tô i sẽ biến đổ i nó .
Chú ng tô i khô ng là m giố ng nò i bạ n biến mấ t, mà chắ c chắ n sẽ tiến bộ và già u có lên dướ i sự
hướ ng dẫ n củ a chú ng tô i. An Nam củ a bạ n là mộ t trong số ít cá c vương quố c khép mình
tuyên bố bế quan, mộ t việc bấ t khả thi ở thờ i điểm nà y; chú ng tô i mở nó ra, vì lợ i ích củ a nó ,
cho hoạ t độ ng phổ quá t.”
Tô i vẫ n tin rằ ng ngà y nay nhữ ng quan điểm nà y là chính xá c. Nhưng trong mứ c độ nà o
thì cô ng trình có thể mang lạ i lợ i nhuậ n cho nướ c Phá p?
Bả y hoặ c tá m phầ n mườ i thầ n dâ n Đô ng Dương cù ng mộ t chủ ng tộ c mà phầ n mở rộ ng
tấ t nhiên sẽ hấ p thụ hoặ c loạ i bỏ mọ i yếu tố dị biệt trong tương lai như nó đã hấ p thụ hoặ c
loạ i bỏ chú ng trong quá khứ . Sự thố ng trị củ a chú ng ta dườ ng như khô ng gâ y trở ngạ i cho
kết quả chung cuộ c. Có dò ng má u rấ t pha trộ n, ngườ i An Nam khô ng lậ p nên đượ c mộ t quố c
gia có tổ chứ c và thố ng nhấ t chặ t chẽ bằ ng ngô n ngữ , tín ngưỡ ng dâ n tộ c, sự tự hà o về
chủ ng tộ c, tình cả m về mộ t quá khứ vớ i đầ y rẫ y nét vẻ củ a mộ t chủ nghĩa yêu nướ c có thể
so sá nh vớ i tình yêu nướ c củ a ngườ i Phá p ở mộ t thờ i xưa cũ . Sự trung quâ n bị nhầ m lẫ n vớ i
tình yêu đấ t tổ và khô ng gì hủ y diệt đượ c nó . Ô ng lã o bả y mươi tuổ i, như Phan Thanh Giả n
và o nă m 1867[25], ngườ i ở độ tuổ i hai mươi, như Tô n Thấ t Đạ m và o nă m 1888[26], đã kiên
cườ ng tự tử sau khi ra lệnh cho thuộ c cấ p quy hà ng để chờ đợ i thờ i cơ tố t hơn. Tinh thầ n
đoà n kết củ a quố c gia và đạ i diện tố i cao củ a nó vẫ n đượ c hiện rõ trong nhữ ng lờ i tuyên bố
long trọ ng, nhữ ng lờ i nhậ n lỗ i cô ng khai, trong đó vua chú a hạ mình xuố ng, than vã n và tự
buộ c tộ i bả n thâ n cho nhữ ng tai họ a lớ n xả y ra trong triều đạ i củ a mình.
Theo mộ t quy luậ t quen thuộ c, cá c nhó m dâ n tộ c thiểu số [27] ở An Nam sẽ nổ i lên chố ng
đố i. Sự nổ i dậ y mạ nh mẽ sẽ khai phó ng ý niệm về Tổ quố c, sẽ khiến nó xuấ t hiện vớ i tấ t cả
sứ c mạ nh và sự trong sá ng củ a nó , như cá c quố c gia nhiệt thà nh nhấ t củ a châ u  u hiện nay,
đó là nhâ n tố ngoạ i lai, là sự hiện diện củ a chú ng ta và hà nh độ ng khô ng chủ ý nhưng đương
nhiên củ a họ , nhữ ng cá i đang thấ m nhuầ n và o cá c ý tưở ng và nền vă n minh củ a chú ng ta
mộ t cả m giá c phiền nhiễu ngà y cà ng rõ rà ng gâ y ra bở i nhữ ng kẻ cai trị hoặ c thậ m chí là sự
thù hậ n mà họ kích độ ng. “Kẻ thù củ a chú ng ta là chủ nhâ n củ a chú ng ta”, tinh thầ n nà y sẽ
đượ c lặ p lạ i, đó là ngườ i Hoa, ngườ i An Nam, ngườ i Phá p dù xấ u hay tố t. Thậ m chí phả i
thừ a nhậ n rằ ng bằ ng cá ch nà o đó thầ n dâ n sẽ nợ chú ng ta ít nhiều sự cô ng nhậ n củ a họ vì
họ thấ y biết ơn chú ng ta, điều mà ngà y nay chú ng ta vẫ n có cơ sở tin tưở ng. Bên nà o nặ ng
hơn, trên bà n câ n đong đếm, mộ t mặ t là tình cả m lợ i ích củ a chú ng ta, ngay cả khi chú ng
khô ng bị tranh cã i, và mặ t khá c, ký ứ c về nhữ ng khó khă n củ a việc chinh phụ c, và hơn thế
nữ a, sự xấ u hổ về sự hiện diện củ a chú ng ta?
Sẽ khô ng quá đỗ i huyễn hoặ c để tin rằ ng họ sẽ đợ i ba thế kỷ trô i qua trướ c khi ngẩ ng
đầ u tuyên bố độ c lậ p, rằ ng nă m mươi triệu ngườ i dâ n An Nam, nơi sẽ hò a lẫ n và i tră m ngà n
ngườ i lai, điều nà y sẽ thậ t sự rấ t nguy hiểm cho sự thố ng trị củ a chú ng ta, nếu chú ng ta
phạ m phả i sai lầ m khô ng thể tha thứ là duy trì họ ở tình trạ ng đẳ ng cấ p trung gian?
Khô ng thể nà o so sá nh cô ng cuộ c ở Ấ n Độ , đó là bứ c tranh ghép củ a cá c dâ n tộ c xa lạ vớ i
nhau, cò n chia ra thà nh nhữ ng đẳ ng cấ p khô ng thể khắ c phụ c, và ở xứ An Nam nà y, nơi cuộ c
chinh phụ c đã gặ p mộ t chủ ng tộ c hò a hợ p tuyệt vờ i, đặ t lên trên nhữ ng nền tả ng vữ ng chắ c
củ a tổ chứ c gia đình và là ng xã , sự phâ n cấ p thô ng tuệ củ a nhữ ng Nho gia quan lạ i, tô n vinh
thiết chế xưa cũ củ a vương quyền, đạ i giá o chủ và đạ i diện tố i cao củ a dâ n tộ c!
Bâ y giờ , khi thờ i điểm bá o hiệu cho sự phâ n ly khô ng thể trá nh khỏ i, hò a hoã n hoặ c bạ o
lự c, mà phả i có dự tính lạ nh lù ng, điều nà y tố t hơn việc thoá i lui, ở đâ y chú ng ta sẽ cò n là m
việc cho Phá p chỉ trong phạ m vi mà chú ng ta gâ y dự ng vữ ng chắ c ngô n ngữ củ a chú ng ta.
Tồ n tạ i mộ t ngô n ngữ An Nam, trừ u tượ ng vớ i sá u thanh sắ c củ a cá c â m đơn, là mộ t
phương ngữ rõ rà ng, phong phú về cá c từ ngữ thô ng thườ ng, chuẩ n và chính xá c. Nhưng từ
hơn 2000 nă m nay, tiếng nó i phổ thô ng nà y đượ c duy trì ở trạ ng thá i phương ngữ nộ i bộ
khô ng phá t triển hoặ c có tiến hó a khả dĩ nà o, bằ ng ngô n ngữ Trung Hoa đượ c dẫ n dắ t vớ i
vă n minh củ a Đạ i đế quố c và hằ ng định là mộ t ngô n ngữ trí tuệ, vă n họ c và chính thứ c. Tấ t
cả ngườ i An Nam đượ c đà o tạ o - và giá o dụ c rấ t phổ biến - sử dụ ng hai ngô n ngữ trong giao
tiếp, ngô n ngữ củ a họ , có cú phá p đơn giả n như ngô n ngữ củ a ngườ i Phá p, và trong ngô n
ngữ viết, là tiếng Trung Hoa, mà cấ u trú c củ a nó luô n đả o ngượ c (so vớ i tiếng Phá p).
Trong số cá c vấ n đề cầ n phả i ngay lậ p tứ c xem xét, có việc liệu chă ng nên dù ng tiếng
Phá p, ngô n ngữ có cấ u trú c câ u củ a tiếng An Nam, thay cho tiếng Hoa, ngô n ngữ cú phá p
hoà n toà n khá c nhưng cậ n kề tiếng An Nam hơn bở i tính đơn â m, nhiều ngữ điệu và nhiều
thuậ t ngữ sử dụ ng thô ng thườ ng củ a nó đã bổ sung và o phương ngữ bình dâ n, ít nhấ t là
trong lĩnh vự c tiếng nó i cao cấ p (trong xã hộ i). Sau đó , hã y để tương lai quyết định có bao
nhiêu từ tiếng Phá p sẽ là m phong phú hoặ c sử a đổ i thổ ngữ nà y trong phạ m vi rấ t hạ n chế
đó là tiếng An Nam hiện thờ i.
Giả i phá p khiêm tố n và khả thi nà y sẽ có nhữ ng ưu và nhượ c củ a nó . Chữ Hoa tượ ng
hình tạ o thà nh mộ t ngô n ngữ chung, phổ biến trong số nă m tră m triệu ngườ i da và ng; trong
khi việc sử dụ ng tiếng Phá p sẽ xoay An Nam về phía thế giớ i châ u  u, cả khoa họ c và nền
vă n minh củ a nó . Trong hai hướ ng nà y, điều gì sẽ thuậ n lợ i nhấ t cho cá c thầ n dâ n củ a chú ng
ta? Vấ n đề có thể vẫ n cò n bỏ ngỏ . Nhưng lợ i ích củ a nhữ ng kẻ chinh phụ c thoá t khỏ i tấ t cả
tranh cã i và đó là điều cầ n phả i câ n nhắ c.
Điều nà y cho thấ y bao nhiêu khó khă n và lo lắ ng - câ u nà y khô ng phả i là quá nặ ng - cho
cô ng trình đượ c nướ c Phá p thự c hiện ở vù ng Viễn Đô ng[28]. Mộ t trong nhữ ng điều kiện thiết
yếu củ a hà nh vi tố t rõ rà ng củ a nó là kiến thứ c thấ u đá o về cá c thầ n dâ n chú ng ta, liên quan
đến cá c nghiên cứ u sâ u sắ c và nghiêm tú c về tâ m lý củ a họ . Chú ng tô i khô ng thể vì thế quá
hoan nghênh phá t kiến thô ng minh củ a Paul Giran, mộ t cô ng trình chắ c chắ n, phong phú , có
nộ i dung, tà i liệu, chắ c chắ n khô ng có tham vọ ng giả i quyết nhữ ng vấ n để lớ n là m thay đổ i
sự thố ng trị củ a chú ng ta, nhưng chí ít tuyên dương cô ng trạ ng ở mộ t và i khía cạ nh.
Việc kết lạ i mộ t và i nhậ n xét nhằ m giớ i thiệu về cuố n sá ch nà y đã yêu cầ u tô i giớ i thiệu
thêm cho độ c giả , và tự tô i là m điều nà y, rằ ng cũ ng muố n giớ i thiệu về con ngườ i tá c giả .
Ô ng thuộ c loạ i ngườ i hiếm có , ngườ i đượ c tin tưở ng từ cá i nhìn đầ u tiên, nhữ ng ngườ i miền
Nam bình tĩnh và chín chắ n. Sau khi họ c tú tà i, ngườ i con củ a thà nh Nimes họ c ba nă m
chính quy tạ i Trườ ng Thuộ c địa, tiếp là ba nă m nghĩa vụ quâ n sự , ô ng vui vẻ theo đuổ i cô ng
việc, vớ i tấ t cả tinh thầ n trá ch nhiệm yêu nướ c. Ra khỏ i quâ n độ i, ô ng hâ n hoan tá c hợ p vớ i
bạ n đờ i đồ ng hà nh củ a mình, mong muố n cao quý tạ o mộ t má i ấ m, ổ n định cầ n thiết, củ a
phẩ m hạ nh cá nhâ n vớ i cá c thuộ c địa. Và ngay sau đó , đi đến Đô ng Dương, nơi sự tin tưở ng
và quý mến củ a cá c lã nh đạ o đã kêu gọ i ô ng, trong thờ i gian ba nă m lưu trú đầ u tiên, đả m
nhậ n cá c nhiệm vụ tế nhị, cho phép ô ng thu thậ p và tích lũ y cá c quan sá t để hô m nay cô ng
bố cho cô ng chú ng.
Tô i hy vọ ng, đố i vớ i ô ng và cho đấ t nướ c chú ng ta, rằ ng tương lai sẽ chắ p nố i tấ t cả
nguyện ướ c về nhữ ng khở i đầ u đá ng kính nà y trong sự nghiệp thuộ c địa.
Kimberly Case[29]
Tháng 12 năm 2020
DẪN NHẬP
Lâ u nay ngườ i Phá p chú ng ta gặ p nhiều khó khă n khi xét đoá n nhữ ng dâ n tộ c hả i ngoạ i
vớ i cá i nhìn khá c biệt. Chú ng ta vẫ n quen vớ i việc nhìn họ qua nhữ ng cả m quan riêng biệt
và phá n xét họ theo ý kiến củ a mình. Từ lâ u chú ng ta tin rằ ng nhâ n loạ i cơ bả n giố ng nhau;
và rõ rà ng mộ t điều là nếu có sự khá c biệt thì đó khô ng phả i là điều quan yếu; và mọ i con
ngườ i dườ ng như đều có khả nă ng tự hoà n thiện.
Khá i niệm thuầ n tú y triết họ c nà y khô ng phả i khô ng nguy hiểm khi đượ c đưa và o ứ ng
dụ ng. Vì nó đồ ng nhấ t chú ng ta vớ i nhữ ng dâ n tộ c có nền vă n minh, phong tụ c, tô n giá o, tư
duy khá c biệt sâ u xa, khiến chú ng ta đá nh giá sai tính cá ch thự c sự củ a họ , á p dụ ng luậ t
phá p, thiết chế, tô n giá o hoặ c đạ o đứ c củ a chú ng ta cho họ , và khiến trong nhiều trườ ng
hợ p lạ i gâ y nguy hạ i đến thanh danh (nướ c Phá p) trong cá c sự vụ thuộ c địa.
Ngà y nay, mộ t tinh thầ n mớ i đã xuấ t hiện. Hiện thờ i, việc chấ p nhậ n duy trì cá c xã hộ i
bả n xứ dướ i sự thố ng trị củ a chú ng ta có thể dự a trên mộ t cơ cấ u có nhữ ng nguyên tắ c khá c
vớ i nhữ ng nguyên tắ c đã từ ng là cơ sở cho cá c xã hộ i châ u  u.
Phả i thừ a nhậ n rằ ng chú ng ta mấ t hơn mộ t thế kỷ để khá m phá ra mộ t sự thậ t là họ c
thuyết bình đẳ ng đã ngă n trở nỗ i hoà i nghi về việc mỗ i dâ n tộ c, cũ ng như mỗ i con ngườ i,
đều có mộ t tâ m hồ n riêng, mang bả n sắ c quố c gia cũ ng như đặ c thù cá nhâ n.
Ngà y nay, rõ rà ng để cai trị tố t mộ t dâ n tộ c, trướ c tiên phả i họ c hỏ i tìm hiểu, phả i biết
rõ , phả i thấ u đá o tâ m hồ n, thầ n minh củ a họ .
Trong cuố n sá ch nà y, chú ng tô i đề xuấ t mộ t nghiên cứ u về dâ n tộ c An Nam; để khá m
phá nhữ ng sứ c mạ nh sâ u kín củ a đờ i số ng cộ ng đồ ng hoặ c riêng tư; rú t ra cá c nguyên tắ c
tố i thượ ng chi phố i việc thà nh lậ p cá c thiết chế xã hộ i hoặ c chính trị; phâ n tích mọ i ả nh
hưở ng mạ nh mẽ đã định hình nên lịch sử và sự tiến hó a củ a nó .
Vớ i mụ c đích nà y, chú ng ta sẽ lầ n lượ t khả o sá t hai nguyên nhâ n chính đã gó p phầ n và o
sự hình thà nh bả n sắ c quố c gia An Nam: chủng tộc và môi trường.
Phần 1
ĐẶC ĐIỂM QUỐC GIA
Chương I:
CHỦNG TỘC
I. Mô tả chủng tộc
Ngườ i An Nam là mộ t đạ i diện củ a chủ ng tộ c da và ng, thuộ c Đạ i chủ ng Á (Mongoloides)
[30]
, có cá c nhá nh chính là : họ Mô ng Cổ nó i riêng, chiếm cá c vù ng trung tâ m châ u Á ; chủ ng
Độ t Quyết (Turc); nhá nh lớ n nhấ t, chủ ng Há n Hoa; và cuố i cù ng là cá c quầ n thể số ng chủ
yếu trên cá c sườ n dố c dã y Himalaya đượ c ô ng de Quatrefages[31] gọ i là “Indo- Mongoles” (Cổ
Mã Lai-Mô ng Cổ )[32]. Ở đâ u đó giữ a nhữ ng nhá nh sau cù ng, cá c nhà nhâ n chủ ng họ c xếp và o
nhó m dâ n tộ c An Nam.
Mộ t cá ch tổ ng quá t, diện mạ o ngườ i An Nam hiện tạ i, phầ n lớ n có cá c nét chung củ a dâ n
Mô ng Cổ : đầ u rộ ng ngắ n (brachycéphale); trá n thấ p và dô ra, gò má cao, mắ t nhỏ xếch, mí
trên bụ p và nặ ng, lô ng mà y thưa, vểnh lên về phía đuô i; mắ t đen, mũ i bẹt phầ n phía dướ i,
phình ra, rộ ng ở gố c; đô i tai cá ch xa, mô i dà y, tó c đen, cứ ng và suô ng, râ u và ria mép thưa,
chỉ mọ c rậ m khi và o tuổ i trung niên.
Nét đặ c trưng nhấ t củ a dung mạ o nà y là “xương gò má rộ ng và cao, khiến cho khuô n
mặ t trô ng giố ng hình thoi hơn hình bầ u dụ c”[33].
Da ngườ i An Nam thườ ng có mà u “xanh nhợ t hoặ c hơi và ng, đô i khi trắ ng đụ c”, tuy
nhiên, sậ m hơn ở nhữ ng ngườ i số ng ở miền Nam Đô ng Dương.
Nhiều ngườ i muố n quy sự khá c biệt về mà u da nà y đơn nhấ t về cho tá c độ ng củ a mặ t
trờ i, mà ở vù ng nhiệt đớ i rõ là nó ng như nung như đố t phầ n da phơi ra dướ i nắ ng, là m da
nâ u thêm và do vậ y trô ng cà ng nổ i bậ t hơn; cò n ý kiến củ a chú ng tô i là , chú ng ta hã y cò n
phả i nhìn nhậ n thêm ả nh hưở ng củ a việc lai vớ i ngườ i Mã Lai.
Cá i nô i củ a chủ ng tộ c An Nam là Bắ c kỳ và cá c vù ng lâ n cậ n, ở đó tìm thấ y nhữ ng cá thể
“thuầ n chủ ng” nhấ t có da nhạ t mà u nhấ t; ngượ c lạ i, ngườ i An Nam ở vù ng Hạ Đà ng Trong
(la Basse- Cochinchine) quan hệ trự c tiếp hơn vớ i ngườ i Mã Lai hay ngườ i Chă m, nên chắ c
chắ n đã biến đổ i khi tiếp xú c vớ i họ .
Tó m lạ i, có thể nó i vớ i hai ô ng Bouinais và Paulus[34] rằ ng là n da củ a ngườ i An Nam minh
chứ ng mộ t sự chuyển tiếp giữ a ngườ i Mã Lai và ngườ i Há n Hoa; da sá ng hơn ngườ i Mã Lai,
đậ m mà u hơn ngườ i Há n Hoa.
Ngườ i An Nam thườ ng khô ng cao, chiều cao trung bình là lm60 ở nam và lm50 ở nữ . Hai
châ n, dù mả nh mai, nhưng khỏ e; ở mộ t số ngườ i, ngó n châ n cá i choã i ra phía ngoà i, cá ch
khỏ i cá c ngó n châ n cò n lạ i. Lưng dà i tương ứ ng vớ i châ n; vai và ngự c hẹp, cổ tay cổ châ n
linh hoạ t, bà n tay mả nh và thuô n. Toà n bộ cấ u trú c giả i phẫ u tạ o ấ n tượ ng mả nh mai và yếu
đuố i. Thậ t hiếm khi thấ y ngườ i An Nam béo phì; xương lộ ngay dướ i da. Trọ ng lượ ng cơ thể
trung bình là khoả ng 55kg ở đà n ô ng và 45kg ở phụ nữ , như vậ y nhẹ câ n hơn so vớ i cá c
chủ ng tộ c  u.
Cơ lự c củ a họ khô ng đá ng kể; mộ t vậ t nặ ng phả i mấ t hai ngườ i An Nam, đô i khi nhiều
hơn, nâ ng lên mộ t cá ch khó khă n, trong khi chỉ cầ n mộ t ngườ i  u là đã có thể dễ dà ng mang
đi. Điều là m chủ ng tộ c An Nam khá c vớ i chủ ng tộ c Há n Hoa là sự lự c lưỡ ng. Sự kém về mặ t
thể chấ t ở ngườ i An Nam, khô ng nghi ngờ gì, là kết quả do tá c độ ng kéo dà i củ a kiểu khí hậ u
Đô ng Dương. Cà ng xuố ng vù ng nắ ng nó ng, tá c độ ng nà y cà ng rõ rệt hơn. Ngườ i Bắ c kỳ
khô ng lự c lưỡ ng bằ ng ngườ i miền Nam Trung Hoa, nhưng luô n cao lớ n và mạ nh mẽ hơn
ngườ i dâ n ở Hạ Đà ng Trong. Họ thườ ng chỉ cao đến lm60 và đô i khi, nhưng hiếm, cao đến
lm65. Ở Bắ c kỳ, phụ nữ là m việc như đà n ô ng, thườ ng là m nghề culi[35] mà phụ nữ Nam kỳ
khô ng có khả nă ng là m. Tương tự như vậ y, thườ ng thấ y rằ ng culi-xe[36] Bắ c kỳ chạ y tố t hơn,
chạ y nhữ ng chuyến dà i hơn ngườ i Nam kỳ.
Bên cạ nh đó , tuy có dá ng vẻ yếu đuố i nhưng ngườ i An Nam lạ i có mộ t sứ c đề khá ng
đá ng kể. Dướ i khí hậ u nó ng bứ c, anh ta miệt mà i lao nhọ c và là m bằ ng chứ ng cho phẩ m
chấ t bền bỉ tuyệt vờ i. Có thể ở cả ngà y ngoà i ruộ ng, cú i mặ t cấ y lú a, lộ i bù n lên đến đầ u gố i,
tiếp xú c vớ i nền đấ t ẩ m nó ng hừ ng hự c bố c lên và phả khủ ng khiếp và o ngườ i; hay cũ ng
tương tự vậ y ở trên thuyền tam bả n, đầ y nắ ng, gậ p ngườ i chèo thuyền hà ng giờ liền. Có bao
nhiêu ngườ i  u có thể là m cô ng việc khó nhọ c củ a nhữ ng ngườ i culi-xe, chạ y hà ng giờ vớ i
tố c độ mườ i hai câ y số mộ t giờ khô ng mệt mỏ i, chỉ có và i phú t nghỉ ngơi để uố ng mộ t tá ch
trà hoặ c ă n mộ t bá t cơm.
Để xá c định nguồ n gố c củ a nhữ ng ưu điểm thể chấ t nà y, cầ n phả i tính mộ t chú t đến sự
phá t triển củ a hệ thầ n kinh ở ngườ i An Nam, về việc họ thiếu vắ ng cả m giá c, và do đó , dử ng
dưng vớ i đau đớ n và lao lự c. Tô i khô ng nghĩ cầ n phả i xem xét, như đô i khi ta vẫ n nghe nó i,
đến ả nh hưở ng di truyền đượ c bả o tồ n và truyền lạ i qua nhiều thế hệ, mộ t di sả n sứ c mạ nh
đượ c thừ a kế bở i tổ tiên Mô ng Cổ .
Chủ ng tộ c An Nam sinh sả n nhiều. Nhờ và o khả nă ng bà nh trướ ng mà họ có thể, trong
mộ t thờ i gian tương đố i ngắ n, chiếm đấ t mộ t cá ch hoà n hả o trên mộ t phầ n lớ n bá n đả o
Đô ng Dương. Trong khi ở châ u  u, tầ n suấ t sinh củ a 100 phụ nữ đã lậ p gia đình dướ i 50, ở
Phổ là 29, ở Anh 26, ở Phá p 16, ngườ i ta tính rằ ng số lầ n sinh trên 100 phụ nữ An Nam,
trong cù ng điều kiện, lên tớ i khoả ng 170. Như chú ng ta sẽ thấ y sau đâ y, việc thiếu vắ ng cả m
giá c về thịnh mã n, đấ t đai phì nhiêu, sự phâ n chia tà i sả n cự c đoan, tổ chứ c gia đình và tín
ngưỡ ng tô n giá o đó ng vai trò quan trọ ng trong việc tă ng đá ng kể tỷ lệ sinh. Vậ y, đâ y khô ng
phả i chỉ là mộ t nét đặ c trưng củ a chủ ng tộ c mà cò n là ả nh hưở ng chủ đạ o củ a mô i trườ ng
vậ t chấ t và xã hộ i đố i vớ i đố i tượ ng nà y.
Dướ i bầ u khí hậ u như thiêu đố t là m kích thích cá c dâ y thầ n kinh đến cù ng kiệt, kích
hoạ t lưu thô ng má u và đố t chá y độ ng vậ t, ngườ i An Nam trưở ng thà nh sớ m và già nhanh
hơn nhữ ng cư dâ n vù ng ô n đớ i. Họ trô ng già sớ m và hiếm khi số ng thọ . Trong số 65.489
trườ ng hợ p tử vong trong nă m 1900 ở ngườ i An Nam hoặ c nhữ ng ngườ i Á khá c số ng ở
Nam kỳ, chỉ có 7.075 ngườ i chết trên 60 tuổ i; tỷ lệ nà y tương đương ở nă m 1901: 51.908
ngườ i chết, trong đó có 6.231 ngườ i chết trên 60 tuổ i[37]. Như vậ y, chỉ hơn mộ t phầ n mườ i
dâ n số An Nam số ng đến tuổ i 60; tỷ lệ nà y là tương đố i thấ p.
Người An Nam. Kiểu người Nam kỳ. © Ảnh từ bản gốc tiếng Pháp.
Ngoà i ra, tuổ i dậ y thì đến rấ t sớ m ở cư dâ n Đô ng Dương; lầ n kinh nguyệt đầ u tiên, theo
quan sá t củ a bá c sĩ Mondière, xả y ra ở nữ và o tuổ i 12, và độ tuổ i kết hô n là 16 tuổ i 4 thá ng.
Do đó khô ng phả i là hiếm, nhấ t là trong cá c gia đình khá giả , cá c cuộ c hô n nhâ n trong đó vợ
chồ ng ă n ở vớ i nhau kéo dà i khô ng tớ i ba mươi nă m.
Việc thể chấ t phá t triển sớ m kết hợ p vớ i ả nh hưở ng xấ u củ a khí hậ u là m tiêu hao nhanh
chó ng mộ t con ngườ i; họ thà nh niên ở tuổ i 13, là m cha ở tuổ i 16, và thà nh mộ t ô ng già ở
tuổ i 50, trừ mộ t số ngoạ i lệ hiếm hoi.
Để kết thú c việc mô tả lướ t qua về chủ ng tộ c nà y, chú ng ta phả i cố gắ ng phá c thả o tó m
lạ i mộ t tâ m lý chung củ a cá c dâ n tộ c thuộ c chủ ng da và ng.
Ngay như quan điểm sinh lý họ c, cá c đặ c điểm củ a nhữ ng cư dâ n nà y hò a hợ p trong mộ t
kiểu duy nhấ t, bấ t chấ p sự khá c biệt có vẻ như tá ch chú ng ra, do đó theo quan điểm tâ m lý
họ c cũ ng tương tự vậ y, chú ng ta thấ y ở mọ i ngườ i nhữ ng nét tính cá ch đồ ng nhấ t, cá ch suy
nghĩ và hà nh độ ng tương tự , khuynh hướ ng vă n minh hó a đồ ng điệu.
Đâ y là mộ t trong nhữ ng tá c độ ng bình thườ ng củ a di truyền. Thậ t vậ y, phầ n lớ n cá c nhà
nhâ n chủ ng họ c[38] đều đồ ng ý về sự tổ n tạ i mộ t kết nố i bấ t biến giữ a sự di truyền cá i giố ng
nhau về thể chấ t và về tinh thầ n.
Nếu ngườ i ta thừ a nhậ n rằ ng mứ c độ phá t triển củ a cá c thù y nã o: trá n, đỉnh và chẩ m,
đượ c phả n á nh ra bên ngoà i dướ i cá c dạ ng sọ tương ứ ng [39], chú ng tô i đi đến kết luậ n rằ ng
hai hộ p sọ có tương tự nhau, ở hai cá nhâ n khá c nhau, cá c dấ u hiệu cho thấ y cả hai có thể
trạ ng trí tuệ gầ n như giố ng hệt.
Như đã nó i, cá c chủ ng tộ c da và ng nó i chung có đầ u ngắ n (brachycéphale)[40].
Đương thờ i, cá c nhà sinh lý họ c cho rằ ng có thể khẳ ng định trí thô ng minh (con ngườ i)
định khu ở thù y trá n, nên việc kéo dà i hoặ c mở rộ ng bộ nã o, và tương ứ ng là kéo dà i hộ p sọ ,
cho thấ y ở nhữ ng cá thể hoặ c ở cá c chủ ng tộ c có ít hay nhiều nă ng lự c trí tuệ lớ n, nghị lự c ý
chí ít hay nhiều phầ n mạ nh mẽ.
Loạ i đầ u ngắ n và đặ c biệt là đầ u ngắ n da sạ m, về mặ t tinh thầ n, ứ ng vớ i ngườ i “hò a
bình, cầ n cù , tiết kiệm, thô ng minh, cẩ n thậ n, khô ng bỏ qua cơ hộ i, giỏ i bắ t chướ c, bả o thủ ,
nhưng khô ng có sá ng kiến. Gắ n bó vớ i quê cha đấ t tổ , tầ m nhìn ngắ n, nhu cầ u đơn điệu, đầ u
ó c thườ ng ngà y dễ nổ i loạ n. Dễ bị dẫ n dắ t, dễ yêu thương cả ngườ i cai trị mình [41], thiếu ý chí
nghị lự c, đượ c phú cho đầ u ó c dễ chă n dắ t, tinh thầ n “bầ y đà n”.
Trên thự c tế, gầ n như đó là cá c nét tâ m lý nổ i trộ i củ a ngườ i da và ng. Tuy nhiên, vẫ n nên
chỉ ra thêm sự thiếu vắ ng khả nă ng mẫ n cả m củ a họ khiến họ vô cả m, khô ng cả m thô ng vớ i
nỗ i đau, cứ ng rắ n đến khắ c nghiệt nhưng đô i khi cũ ng nhẫ n tâ m đến độ c á c. Điềm tĩnh, ít bị
kích độ ng, họ có thể lạ nh lù ng là m nhữ ng điều tà n bạ o tồ i tệ nhấ t. Nhưng chú ng ta phả i
nhấ n mạ nh chính yếu và o sự tầ m thườ ng củ a lố i tư duy đặ c biệt thự c tế nơi họ ; nó i trắ ng ra,
nhạ y bén chỉ vớ i mộ t sự phá t triển gò bó . Ở họ , trí tưở ng tượ ng hã y cò n nghèo nà n, hẳ n
nhiên là hệ quả củ a tính dử ng dưng, cả về thể xá c và đạ o đứ c. “Trí tưở ng mộ đạ o, lò ng số t
sắ ng, nhiệt thà nh chá y rự c ở nhữ ng ngườ i Ả Rậ p, Iran, Slave, khô ng bao giờ đá nh thứ c sự vô
cả m mà sưở i ấ m cá i lạ nh nhạ t củ a ngườ i Độ t Quyết (Turc), Mô ng Cổ và Mã n Châ u. Tô n giá o
thích hợ p nhấ t vớ i sự tĩnh mịch củ a họ chắ c chắ n là Phậ t giá o. Họ là Phậ t tử theo lẽ tự nhiên
bở i chính nếp suy nghĩ củ a họ , khô ng cầ n phả i cố gắ ng gì.”[42] Và thậ m chí Phậ t giá o cò n
khô ng đượ c họ tiếp thu nếu (tô n giá o nà y) khô ng chấ p nhậ n trả i qua, trong vô thứ c, nhữ ng
điều chỉnh ngầ m sao cho phù hợ p vớ i thó i quen tư duy, nhữ ng tín ngưỡ ng ban sơ củ a họ .
Tó m lạ i, tính dử ng dưng, bình thả n, vô cả m, tà n á c lạ nh lù ng và vô thứ c, thiếu trí tưở ng
tượ ng, trí tuệ trung bình là tổ ng hò a là m nên tâ m hồ n củ a chủ ng ngườ i da và ng. Sự thự c,
nhữ ng đặ c điểm tiêu biểu nà y khô ng rõ nét, giố ng hệt nhau trong tấ t cả nhữ ng nhó m ngườ i
Đạ i chủ ng Á (Mongoloides), có khi giả m khi tă ng, bở i nhữ ng ả nh hưở ng khá c nhau mà cá c
dâ n tộ c chủ ng da và ng đã phả i chịu: khí hậ u, hò a huyết, v.v. Nhưng như sẽ thấ y sau nà y,
chú ng tô i luô n khá m phá ra sự tồ n tạ i nà o đó củ a nhữ ng bẩ m tính nguyên thủ y nà y mà từ
đó có thể là m nả y sinh nhữ ng khuynh hướ ng mớ i.
Nếu có thể nó i rằ ng trong quầ n thể cá c dâ n tộ c Mô ng Cổ cù ng biểu thị mộ t vẻ giố ng nhau
nà o đó , thì chú ng ta vẫ n phả i nhìn nhậ n rằ ng có sự khá c nhau giữ a cá c nhó m qua cá c tính
cá ch khá c biệt rõ rệt. Thuậ t ngữ “chủ ng Mô ng Cổ ” thườ ng đượ c sử dụ ng để chỉ mộ t số đô ng
cá c dâ n tộ c và quố c gia rấ t khá c nhau (ngườ i Tâ y Tạ ng, Miến Điện, Xiêm, Trung Quố c, Nhậ t
Bả n, Tartar, Kyrgyz, Buryat, Tungus, Samoièdes, Phầ n Lan, V.V.), trên thự c tế khô ng gợ i lên
ý niệm về mộ t kiểu ngườ i cụ thể, đã đượ c tuyệt đố i xá c định và thự c sự tồ n tạ i, mà là mộ t
hình dung về mộ t kiểu ngườ i tưở ng tượ ng, tổ ng hợ p, có tính hợ p chung tấ t cả điểm tương
đồ ng có trong cá c quố c gia hay dâ n tộ c nà y. Sự thậ t, nó khô ng bao hà m ý niệm về mộ t sự
hợ p nhấ t chủ ng tộ c, nhưng đú ng hơn, như anh em nhà Reclus nó i [43], đó là cá ch nó i chỉ sự
thâ m nhậ p lẫ n nhau thờ i cổ đạ i[44].
Dâ n tộ c An Nam đượ c ô ng de Quatrefages phâ n loạ i và xếp và o trong số “Ngườ i Indo-
Mongol” cù ng vớ i ngườ i Miến Điện và ngườ i Xiêm. Nhữ ng cư dâ n nà y hiển hiện, theo quan
điểm về sọ họ c, cá c đặ c điểm giố ng hệt nhau; thự c sự cả ba thuộ c nhó m Đầ u ngắ n
(brachycéphale). Đặ c điểm nà y phâ n biệt rõ vớ i ngườ i Trung Hoa phía Bắ c, nhó m Đầ u dà i
(dolichocéphale) vớ i số đo bề ngang hộ p sọ trung bình khoả ng 76,60 (theo Quatrefages).
Chỉ số nà y ở nhữ ng ngườ i An Nam dao độ ng giữ a 83 (Broca) và 85 (Pruner-Bey).
Nhưng cho dẫ u đã có cá c quan sá t nà y, theo quan điểm nhâ n chủ ng họ c, ta cũ ng khô ng
nên kết luậ n rằ ng ngườ i An Nam gầ n gũ i vớ i ngườ i Xiêm và Miến Điện hơn ngườ i Há n Hoa.
Ngượ c lạ i, vớ i ngườ i Há n Hoa họ có nhữ ng mố i quan hệ khô ng thể bà n cã i và riêng nhấ t mà
đến nay chưa bao giờ nhậ n đượ c giả i thích chính xá c nà o. Chú ng tô i khô ng có ý định giả i
quyết vấ n để nà y, nhưng điều quan trọ ng là vì lợ i ích củ a nghiên cứ u nên chú ng tô i tạ m
dừ ng mộ t lú c để xem xét nó xét trên mộ t trong nhữ ng khía cạ nh đặ c thù : đó là quan điểm về
nguồ n gố c củ a chính ngườ i An Nam.
II. Nguồn gốc dân tộc
Ngườ i An Nam, theo lịch sử củ a họ , có nguồ n gố c từ miền Nam Trung Hoa. Cha Legrand
de la Liraye nhậ n định “và o thờ i kỳ đó , khi mà hà ng tră m gia đình ngườ i Hoa chiếm đó ng
tỉnh Thiểm Tâ y, tứ c là , trong thờ i gian trướ c Abraham[45] hai hay ba thế kỷ (2400 đến 2225
trướ c Cô ng nguyên [TCN]), bố n bộ lạ c man rợ chiếm vù ng biên giớ i củ a Đế quố c [46]. Ở phía
nam[47] là tộ c ngườ i Giao Chỉ[48].” Đó là tộ c đượ c dâ n An Nam khẳ ng định là tổ tiên củ a họ .
Nhưng liệu bộ tộ c nà y có nguồ n gố c từ xứ sở họ đã chiếm đó ng và o thờ i điểm lịch sử đó ?
Điều nà y ít có khả nă ng. Có lẽ cầ n tìm kiếm sâ u hơn nữ a dấ u tích củ a nhữ ng cư dâ n đầ u tiên
ở khu vự c nà y trong cá c nhó m ngườ i số ng ở rừ ng nú i: Thá i, Má n, Mèo, Lô lô , v.v. mà tính đến
bâ y giờ cò n chiếm giữ hầ u hết dã y nú i Trườ ng Sơn, và trong cá c bộ tộ c miền nú i Vâ n Nam,
Quả ng Tâ y và Quả ng Đô ng: Lô lô , Dao và Miêu tộ c (Miao-Tzès).
Vậ y Giao Chỉ là từ đâ u ra? Có lẽ từ cù ng mộ t vù ng vớ i cá c cư dâ n Mô ng Cổ khá c.
Cá c giả định địa lý mạ nh mẽ chứ ng thự c ý kiến nà y. Nhó m da và ng, hậ u duệ, theo hầ u
hết cá c nhà nhâ n chủ ng họ c, củ a nhữ ng tộ c ngườ i từ khố i nú i trung tâ m châ u Á , đã bị đẩ y di
cư về phía biển, nghĩa là về phía khí hậ u ô n hò a hơn, bở i nhữ ng biến đổ i liên tiếp xả y ra
trên bề mặ t địa cầ u.
“Khi cá c hồ ở Trung Á khô cạ n và sa mạ c lấ n chiếm cá c vù ng đấ t canh tá c, cư dâ n bị đẩ y
về cá c xứ sở phía tâ y, ở đó họ đã liên tụ c thiết lậ p quan hệ vớ i nhữ ng ngườ i Chaldéen, ngườ i
Hindu, ngườ i Ba Tư, đi xuố ng vù ng Hoà ng Thổ (Hang-Tou, nghĩa là đất vàng)[49], mang theo
cù ng nhữ ng kiến thứ c kỹ nghệ củ a mình. Mỗ i lưu vự c sô ng đã trở thà nh mộ t con đườ ng cho
nhữ ng cư dâ n nô ng nghiệp.[50]"
Như vậ y, dò ng di cư tự u trung đượ c chia thà nh nhiều nhá nh; mỗ i nhó m cư dâ n nà y đi
theo lưu vự c củ a mộ t trong nhữ ng con sô ng lớ n châ u Á : Hoà ng Hà , Dương Tử Giang, Tâ y
Giang, v.v. Mỗ i bộ phậ n lậ p nghiệp ở xứ sở mà con đườ ng sô ng xuô i theo đã mở ra cho nó ;
mỗ i nhó m thích nghi vớ i mô i trườ ng mớ i và do đó trả i qua nhữ ng biến đổ i sâ u sắ c tạ o
thà nh sự khá c biệt hiện nay giữ a cá c chủ ng Mô ng Cổ khá c nhau (Tartar, Mã n, Há n như đã
nó i, V.V.). Trong khi cá c nhá nh củ a sô ng Và ng (Hoà ng Hà ) và sô ng Xanh (Dương Tử ) phá t
triển nhanh chó ng, trong mộ t xứ sở già u có biệt lệ, dướ i mộ t vù ng trờ i ô n đớ i, chỉ bị chiếm
cứ bở i mộ t và i bộ tộ c thổ dâ n dễ bị đẩ y lù i, thì nhữ ng nhá nh phía nam, đi theo con đườ ng
củ a Tâ y Giang, đến mộ t xứ sở khắ c nghiệt, trậ p trù ng đồ i nú i, vớ i khí hậ u nhiệt đớ i đã ả nh
hưở ng lên sự phá t triển củ a họ trong mộ t thờ i gian khá dà i. Mặ t khá c, sự hiện diện củ a cá c
bộ tộ c bả n địa ngoan cườ ng, khô ng thể thay đổ i tậ p tính[51], là m mấ t mộ t thờ i gian dà i đấ u
tranh, đã ngă n cả n việc vươn dậ y củ a nền vă n minh mà chủ ng tộ c mang trong đó .
Vậ y, rấ t dễ hiểu rằ ng nhữ ng dâ n cư miền Nam thô kệch từ lâ u bị ngườ i Trung Hoa vă n
minh coi như man rợ và đố i xử như kẻ thù , dù là trong thự c tế họ phâ n nhá nh từ cù ng mộ t
nguồ n gố c và sở hữ u mộ t vố n tín ngưỡ ng chung vớ i ngườ i An Nam mà thờ i gian đã khô ng
thể xó a[52].
Người Hoa. Kiểu người Quảng Đông. © Ảnh từ bản gốc tiếng Pháp.
Vả lạ i, ngườ i ta giả i thích rằ ng nhữ ng quầ n thể nà y, quá yêu thích nền tự chủ và tha thiết
độ c lậ p, qua biết bao thă ng trầ m đã có thể bả o tồ n tính cá ch, đặ c điểm, phong tụ c và ngô n
ngữ vố n từ trướ c nhiều khả nă ng đã thẩ m thấ u đượ c nền vă n minh mà nhữ ng ngườ i chinh
phụ c mang đến. Nền vă n minh nà y, dườ ng như á p đặ t lên họ chỉ bằ ng vũ lự c, song lạ i đượ c
tiếp nhậ n mộ t cá ch tự nguyện, qua sự cả m tình mà theo đó nó đá p lạ i cá c khá t vọ ng ẩ n giấ u
và nhữ ng niềm tin sâ u kín nhấ t củ a tâ m hồ n An Nam, và trù ng hợ p vớ i nhữ ng niềm tin khở i
từ nguồ n cộ i chung, mộ t quê hương chung.
Mố i liên hệ huyết thố ng cò n trự c hệ hơn nữ a giữ a ngườ i An Nam và cư dâ n ở miền Nam
Trung Hoa. Ngườ i Quả ng Đô ng khá c rấ t nhiều, nhấ t là về phương diện khí chấ t, vớ i ngườ i
Hoa ở vù ng trung tâ m và miền Bắ c củ a Đế quố c[53]; nhưng họ lạ i gầ n gũ i vớ i kiểu ngườ i An
Nam, do đó biểu hiện mộ t loạ i chuyển tiếp giữ a ngườ i An Nam và ngườ i Trung Hoa. Cá c dâ n
cư miền Nam Trung Hoa, Quả ng Đô ng và Phú c Kiến nó i riêng, có hình dá ng mả nh mai hơn,
tay châ n gầ y hơn, da sẫ m mà u hơn, khí chấ t sô i nổ i hơn ngườ i Hoa miền Bắ c. Nhữ ng khá c
biệt nà y, đượ c giả i thích mộ t cá ch tự nhiên là do ả nh hưở ng khí hậ u, tạ o nên đích xá c nhữ ng
đặ c điểm thườ ng thấ y củ a ngườ i An Nam nó i chung, và đặ c biệt là vớ i cư dâ n đương thờ i ở
Bắ c kỳ. Sự giố ng nhau sẽ gâ y nhiều á n tượ ng hơn nếu ngườ i Trung Hoa giữ lạ i kiểu tó c và
trang phụ c thờ i trướ c củ a họ , vố n khá giố ng vớ i nhữ ng ngườ i mà chú ng ta đang bả o hộ . Ta
biết rằ ng ở Trung Hoa lệ cạ o đầ u và tết bím tó c mớ i du nhậ p gầ n đâ y[54].
Sự tương đồ ng giữ a ngườ i miền Nam Thiên triều và ngườ i An Nam khô ng gó i gọ n duy
chỉ ở khía cạ nh bên ngoà i: nó vẫ n đượ c tiếp nố i ở mộ t số khía cạ nh về ngô n ngữ [55], tính cá ch
và thó i quen.
Giố ng như ngườ i Bắ c kỳ, ngườ i Quả ng Đô ng vui vẻ, ồ n à o, đô i khi dí dỏ m; như thể họ có
nhữ ng thó i quen sô ng nướ c hiếm khi thấ y đượ c ở cá c dâ n tộ c khá c; toà n bộ ngô i là ng hình
thà nh trên cá c dò ng sô ng, và ngườ i dâ n đặ c biệt sinh hoạ t, số ng, là m việc và chết ở đó .
Nhữ ng sự trù ng hợ p đá ng chú ý như vậ y khô ng thể khô ng đậ p và o mắ t cá c nhà quan sá t
có chủ ý; mộ t và i ngườ i ghi nhậ n chú ng[56] và đưa lý giả i nhằ m củ ng cố cho giả định cho rằ ng
cá c cư dâ n nà y có cù ng nguồ n gố c dâ n tộ c.
Cấ u hình địa lý củ a xứ sở , trướ c hết, cung cấ p mộ t lậ p luậ n mạ nh mẽ ủ ng hộ giả thuyết
nà y: cá c thung lũ ng song song củ a sô ng Hồ ng và sô ng Tâ y, cù ng bắ t nguồ n từ Vâ n Nam,
thô ng vớ i nhau qua nhữ ng hẻm nú i tự nhiên và thự c sự , vì lý do nà y, mà có thể tiếp nhậ n ở
mỗ i bên mộ t nhá nh ngườ i di cư xuấ t xứ từ cù ng mộ t nguồ n.
Tuy nhiên, khô ng thể phủ nhậ n, đặ c biệt là từ quan điểm sinh lý họ c, sự tồ n tạ i khá c biệt
lớ n giữ a kiểu ngườ i An Nam và kiểu ngườ i miền Nam Trung Hoa.
Mộ t cá ch tổ ng quá t, kiểu ngườ i miền Nam Trung Hoa thừ a hưở ng mộ t thể tạ ng cứ ng cá p
hơn, khí chấ t mạ nh mẽ hơn, sứ c lự c cơ bắ p mạ nh hơn ngườ i An Nam; đồ ng thờ i họ có vó c
dá ng cao hơn.
Từ quan điểm đạ o đứ c cũ ng thể hiện, và phả i thừ a nhậ n rằ ng, nhiều điểm khô ng giố ng
nhau.
Liệu phả n biện nà y có là nghiêm trọ ng và phá hủ y giả thuyết củ a chú ng ta? Chú ng tô i
khô ng cho là vậ y.
Sự khá c biệt đá ng kể bộ c lộ qua việc so sá nh hai kiểu ngườ i cho ta lờ i giả i thích tự nhiên
ở hai khía cạ nh: mộ t là quy luậ t tự nhiên, ả nh hưở ng củ a mô i trườ ng; hai là quy luậ t xã hộ i,
ả nh hưở ng củ a sự giao phố i.
Trong khi hệ quả củ a sự thích nghi bên dướ i bầ u trờ i Đô ng Dương đã tạ o ra ở ngườ i An
Nam mộ t sự suy biến, ngườ i Quả ng Đô ng vẫ n tự duy trì trong mộ t vù ng khí hậ u ô n đớ i hoặ c
bá n nhiệt đớ i, khí hậ u cho phép họ bả o tồ n sứ c số ng nguyên thủ y.
Mặ t khá c, như đã nó i, họ đã tiếp xú c liên tụ c và trự c tiếp hơn vớ i chủ ng tộ c Há n Hoa nên
mang đậ m nét chủ ng tộ c củ a nhữ ng ngườ i chiến thắ ng, vớ i cấ u tạ o thể chấ t, chắ c chắ n
mạ nh mẽ hơn, đã ả nh hưở ng mộ t cá ch may mắ n lên sự lai tạ o. Trá i lạ i, đấ t nướ c An Nam, bị
cô lậ p, cá ch xa trung tâ m Trung Hoa, đượ c bả o vệ theo mộ t cá ch nà o đó bở i vù ng đệm củ a
xứ Quả ng Đô ng (l’É tat Cantonais), trá nh khỏ i sự đồ ng hó a gầ n như hoà n toà n. Ngoà i ra, chịu
số phậ n địa lý - vớ i vù ng phía nam là cá c dả i đồ ng bằ ng hẹp mà họ buộ c phả i xâ m chiếm vì
nhu cầ u dâ n số ngà y mộ t tă ng - nên đấ t nướ c An Nam khô ng chỉ chịu ả nh hưở ng lớ n từ phía
Trung Hoa: thự c tế, họ đã thấ y trướ c mặ t sự hiện diện củ a chủ ng tộ c Mã Lai, mà việc tiếp
xú c đã cho ra kết quả là là m nổ i bậ t sự khá c biệt giữ a nhữ ng đặ c điểm An Nam và Há n Hoa.
III. Người Giao Chỉ
Trướ c khi nghiên cứ u nhữ ng ả nh hưở ng khá c nhau đã gó p phầ n hình thà nh kiểu ngườ i
An Nam, phả i thừ a nhậ n là chú ng ta nên dừ ng lạ i mộ t chú t để hướ ng cá i nhìn và o nhữ ng
ngườ i Giao Chỉ cổ đạ i đã thiết lậ p nên nền tả ng hò a trộ n chủ ng tộ c mà “sả n phẩ m” là cá i ta
đang muố n phâ n tích.
Xứ sở mà ngườ i Giao Chỉ cư ngụ , đó là khu vự c miền nú i tương ứ ng vớ i Bắ c kỳ, Vâ n
Nam, Quả ng Tâ y và Quả ng Đô ng ngà y nay[57], mộ t ngà n nă m trướ c đương nhiên khô ng y hệt
như xứ sở chú ng ta biết đương thờ i. Khi xưa, châ u thổ sô ng Cá i (sô ng Hồ ng) vừ a mớ i hình
thà nh và , khô ng cò n nghi ngờ gì nữ a, có biển bao quanh dướ i châ n nhữ ng triền đồ i, vớ i cá c
đĩa địa chấ t nố i tiếp nhau nâ ng cao dầ n lên đến tậ n cao nguyên Tâ y Tạ ng.[58]
Vù ng cao nà y ngà y nay vẫ n cự c kỳ nguy hiểm; cư dâ n vù ng đồ ng bằ ng vẫ n từ chố i và o
đó , nó i rằ ng đó là “vù ng nướ c độ c”. Hình thà nh nên từ nhữ ng thung lũ ng hẹp và sâ u, nhữ ng
lò ng chả o rộ ng và bằ ng phẳ ng, từ mộ t khố i nú i hỗ n độ n nơi nguồ n nướ c tố t thườ ng rấ t khó
kiếm, bao phủ bở i nhữ ng khu rừ ng rậ m mà bù n tro câ y lá bị chô n vù i dướ i lò ng đấ t trong
nhiều thế kỷ sinh ra dướ i tá c độ ng củ a ẩ m thấ p và sứ c nó ng bố c lên củ a nhữ ng phá t xạ độ c
hạ i, con ngườ i số ng bên cạ nh nhữ ng con thú hoang dã , đâ y là mộ t mô i trườ ng số ng đặ c biệt
khô ng là nh mạ nh, bấ t lợ i cho sự phá t triển củ a mộ t chủ ng tộ c.
Vậ y, chú ng ta có thể đồ ng tình vớ i Luro[59] rằ ng nhữ ng ngườ i Giao Chỉ khô ng cườ ng
trá ng, dù điều nà y khô ng xá c quyết lắ m. Ở mộ t xứ sở “bao phủ bở i rừ ng rậ m dà y đặ c”, nơi
“cá i nó ng mù a hè sinh bệnh dịch nguy hạ i”, sự tồ n tạ i củ a họ thậ t khố n khổ . Họ là nhữ ng kẻ
man rợ thự c sự đã cạ o tó c, xă m mình và số ng gầ n như hoà n toà n bằ ng să n bắ n và câ u cá .
Cha Viện phụ Launay cho biết[60], vũ khí củ a họ gồ m cung tên và giá o má c, đầ u mũ i tên đô i
khi bằ ng sắ t hoặ c gỗ đượ c trui qua lử a.
Cá c thó i quen và phong tụ c củ a mộ t nhó m dâ n cư như vậ y nhấ t thiết phả i đơn giả n và sơ
khai.
Luro cho hay: “Truyền thuyết củ a ngườ i An Nam về thờ i cổ đạ i có nó i rõ rằ ng ngườ i
Giao (Chỉ) mê tín, họ có đền thờ , họ cú ng sú c vậ t để hiến tế cho nhữ ng thầ n linh bấ t tử đạ i
diện cho sứ c mạ nh thiên nhiên...”[61]
Việc tự do quan hệ ở họ đượ c xem là mộ t vinh dự , và đã có lú c cá c nhà cai trị Trung Hoa
phả i cấ m đoá n nó .
Chế độ đa thê chắ c chắ n tồ n tạ i, và thiết chế gia đình dự a trên nguyên tắ c quyền lự c gia
trưở ng tuyệt đố i.
Nhữ ng đặ c điểm dâ n tộ c khá c nhau cho chú ng ta thấ y rằ ng ngườ i Giao Chỉ, trướ c cuộ c
chinh phạ t củ a Trung Hoa, chỉ mớ i ở giai đoạ n đầ u củ a quá trình tiến hó a. Việc xem xét
phẩ m chấ t tinh thầ n củ a họ đều đưa đến mộ t kết luậ n giố ng hệt nhau.
Cá c nhà sử họ c về đấ t nướ c An Nam, Legrand de la Liraye, Luro và Launay đều đồ ng ý
cô ng nhậ n ở tổ tiên ngườ i Giao (Chỉ) có tính hiếu khá ch và mộ t tình yêu độ c lậ p nhấ t định.
Điều nà y chắ c chắ n là do ả nh hưở ng ít nhiều củ a cộ ng đồ ng thị tộ c, là sự kết tụ xã hộ i đầ u
tiên theo cá c nhà xã hộ i họ c.
Thà nh viên củ a thị tộ c nà y, trong sự cô lậ p, chỉ có thể khá ng cự yếu ớ t vớ i cá c cuộ c tấ n
cô ng củ a thú hoang dã hoặ c cá c thị tộ c lâ n cậ n, buộ c phả i đoà n kết cù ng nỗ lự c hò ng giú p đỡ
hỗ trợ lẫ n nhau. Nhưng lò ng tố t nà y đặ c biệt ở chỗ nó chỉ hướ ng đến nhữ ng thà nh viên
cù ng thị tộ c. Tình cả m vị tha và chiếm hữ u đó cù ng mộ t lú c là m nả y sinh hai khuynh hướ ng
trá i ngượ c nhau: “thâ n hữ u vớ i đồ ng độ i, tà n bạ o vớ i ngườ i ngoà i.”[62]
Ngườ i Giao Chỉ cò n đượ c miêu tả là “phù phiếm và kiêu că ng”. Đâ y là hậ u quả tự nhiên
củ a tinh thầ n xã hộ i. Khô ng thích số ng riêng rẽ, quen ở giữ a nhữ ng thâ n hữ u, con ngườ i dễ
trở nên phù phiếm, chỉ muố n tham gia lú c thuậ n lợ i, rấ t để tâ m đến ý kiến thuậ n mình. Cả m
giá c nà y đặ c biệt đượ c phá t triển ở nhữ ng ngườ i nguyên thủ y, ở cá c “dâ n tộ c non trẻ” - vố n
hay thích đồ trang sứ c, nhữ ng vậ t rự c rỡ có bề ngoà i nổ i bậ t - và đã nhiều lầ n đượ c ghi
nhậ n. Ngườ i An Nam hiện đạ i vẫ n tồ n lưu khuyết điểm nà y. Mọ i ngườ i đều biết tình yêu củ a
họ dà nh cho trang sứ c kim loạ i và lô ng chim, nhữ ng chiếc vá y xa-tanh bó ng và nhữ ng chiếc
dù lớ n.
Từ quan điểm chủ quan, Luro cho rằ ng ngườ i Giao (Chỉ) “nhẹ dạ , hay thay đổ i và dễ nổ i
loạ n”.
Lịch sử đầ y só ng gió củ a họ , trên thự c tế, cho thấ y khao khá t độ c lậ p, nhưng lạ i đi kèm
vớ i tính khô ng bền chí, chỉ hà nh độ ng vì bộ c phá t bạ o lự c và rồ i bị đứ t đoạ n.
Từ quan điểm chính trị, chú ng tô i biết rấ t ít thứ liên quan đến cá ch tổ chứ c củ a nhữ ng
thị tộ c Giao (Chỉ). Chú ng tô i biết rõ nhấ t là họ đượ c chia thà nh cá c bộ lạ c vớ i nhiều phâ n
tranh đượ c cá c bộ biên niên sử ghi chép lạ i. Chính vì khô ng thể đoà n kết chố ng kẻ thù
chung mà Giao Chỉ phả i chịu á ch thố ng trị củ a Trung Hoa.
Theo Cha Launay, “nguyên thủ y ngườ i Giao Chỉ đượ c chia thà nh cá c bộ lạ c hoặ c vương
quố c nhỏ , đứ ng đầ u là mộ t tù trưở ng vớ i quyền lự c có lẽ là do thừ a kế. Nhà nướ c nà y đạ t
đến tình trạ ng trung gian nố i tiếp giữ a quâ n chủ chuyên chế và chế độ gia trưở ng. Có lẽ
giố ng như chế độ phong kiến củ a chú ng ta (châ u  u)...
Khả nă ng lớ n nhấ t là và o thờ i kỳ đó , quyền lự c nhà vua phầ n nhiều hơn là trên danh
nghĩa so vớ i thự c tế. Tuy nhiên, quyền lự c tố i cao tậ p trung chỉ trong mộ t bà n tay nà y đã
thiết lậ p mộ t loạ i liên kết giữ a tấ t cả bộ lạ c và đem đến mộ t sự gắ n kết chính trị nhấ t định,
nhưng rồ i khô ng đạ t đượ c nó , thậ m chí cho đến nay, cho sự hợ p nhấ t và tậ p trung hà nh
chính mà sau nà y dướ i sự thố ng trị Trung Hoa thì lạ i tạ o ra đượ c.”
Nhìn rộ ng ra, họ đích thự c mang tính cá ch, tậ p tụ c và sự tổ chứ c củ a cá c cư dâ n An Nam
đầ u tiên. Thự c sự , họ khô ng biểu hiện bấ t cứ điều gì quá đặ c biệt. Đâ y là nhữ ng điều mà
chú ng ta ghi nhậ n ở tấ t cả cá c dâ n tộ c nguyên thủ y, và o buổ i bình minh củ a cá c nền vă n
minh. Bá i vậ t và mê tín, tự do quan hệ hoặ c đa thê, quyền lự c gia trưở ng độ c đoá n, tinh thầ n
xã hộ i và nền độ c lậ p, đam mê bạ o lự c, đó là nhữ ng biểu hiện xã hộ i đá nh dấ u khở i đầ u toà n
bộ quá trình tiến hó a củ a cá c dâ n tộ c.
Tuy nhiên, cầ n lưu ý rằ ng sự tiến hó a nà y đặ c biệt chậ m ở ngườ i Giao Chỉ.
Đến từ mộ t đấ t nướ c gầ n như ô n hò a, cà ng đến sá t đườ ng xích đạ o hơn thì họ cà ng ít có
cơ hộ i thích nghi; hơn nữ a, khu vự c nơi họ định cư khá độ c địa, về mặ t kinh tế thì chỉ cung
cấ p rấ t ít tà i nguyên.
Do đó , giai đoạ n thích nghi phả i gian lao và là m chậ m lạ i sự phá t triển tuầ n tiến củ a
chủ ng tộ c trong mứ c độ nhấ t định.
Tuy nhiên, điều khô ng thể chố i cã i là , ngườ i An Nam hiện đã hoà n toà n thích nghi;
khô ng nghi ngờ gì, kết quả nà y phả i đượ c quy cho sự lai tạ o vớ i nhiều dâ n tộ c bả n địa khá c
nhau[63] khi họ bắ t đầ u đến sinh số ng.
Nếu nhữ ng cuộ c hô n phố i nà y có tá c độ ng may mắ n đố i vớ i ngườ i Giao Chỉ về gó c độ
sinh lý họ c, thì về gó c độ xã hộ i lạ i khá c. Mộ t sự lai tạ o vớ i cá c bộ tộ c nguyên thủ y gó p phầ n
là m nhữ ng kẻ xâ m lấ n bị giữ lạ i ở điều kiện thấ p hơn.
Mặ t khá c, phả i lưu ý rằ ng ngườ i nhậ p cư khô ng phả i lú c nà o cũ ng có thể thu nhậ n cá c bộ
lạ c thổ dâ n, và phả i đẩ y hầ u hết nhữ ng ngườ i nà y trở lạ i vù ng nú i để chiếm giữ cá c vù ng đấ t
thấ p, nhiều cá và mà u mỡ củ a đồ ng bằ ng đang hình thà nh. Cuộ c đấ u tranh kéo dà i và gay
go; thự c tế, thổ dâ n là nhữ ng kẻ cườ ng trá ng đá ng kinh ngạ c, theo sự đá nh giá qua cá c mẫ u
vậ t cò n lạ i đượ c tìm thấ y ở phía bắ c Bắ c kỳ, Vâ n Nam, Quả ng Tâ y và Quả ng Đô ng; ngoà i ra
cho phép giả định rằ ng cá c bộ lạ c củ a họ ở đó rấ t đô ng, nếu ngườ i ta xem xét sự đa dạ ng
quá mứ c nhữ ng phương ngữ mà cư dâ n rừ ng nú i số ng trong cù ng cá c vù ng nà y sử dụ ng[64].
Người Minh Hương: Người lai Hoa và An Nam. © Ảnh từ bản gốc tiếng Pháp.
Tấ t cả nhữ ng khó khă n thích nghi và tồ n tạ i có thể đã dẫ n đến sự hủ y diệt củ a nhữ ng
ngườ i Giao Chỉ nếu mộ t ả nh hưở ng bên ngoà i mạ nh mẽ khô ng đến sớ m để mang lạ i cho họ
sự trợ giú p hữ u ích. Chính cuộ c chinh phạ t củ a ngườ i Trung Hoa đã là m nên dâ n tộ c An
Nam ngà y nay.
IV. Người Hoa và người Mã Lai
Hầ u như khô ng vượ t qua cá c giai đoạ n tiến hó a xã hộ i đầ u tiên, cá c kỹ nă ng củ a họ vẫ n
chưa định hình, bả n sắ c ban cho gầ n như trơn lá ng và dễ bị sai sử , hệt như “tờ giấ y trắ ng”,
khô ng có tinh lự c thự c sự và đồ ng nhấ t, khô ng có khả nă ng chố ng lạ i cá c lự c lượ ng có tổ
chứ c, nhưng lạ i đượ c phú cho, giố ng như tấ t cả ngườ i Mô ng Cổ , cá c kỹ nă ng đồ ng hó a đá ng
kể, nhữ ng ngườ i Giao Chỉ biết rằ ng họ ở và o thế thuậ n lợ i nhấ t để tiếp nhậ n dấ u ấ n vă n
minh củ a mộ t dâ n tộ c vượ t trộ i.
Đó là và o nă m 232 TCN, hoà ng đế Trung Hoa Tầ n Thủ y Hoà ng đã đưa xuố ng An Nam hai
độ i quâ n, tổ ng cộ ng 800.000 lính, hợ p thà nh từ tấ t cả nhữ ng kẻ lang thang mà ô ng có thể
tậ p hợ p đượ c. Dướ i sự chỉ huy củ a tướ ng Triệu Đà , họ chiếm lấ y vương quố c. Nă m 40 xả y
ra mộ t cuộ c nổ i dậ y (Trưng Trắ c) nhằ m rũ bỏ á ch ngoạ i bang, kết quả duy nhấ t là đưa thêm
và o xứ sở mộ t độ i quâ n Trung Hoa mớ i, và lầ n nà y kẻ chiến thắ ng quyết tâ m thiết lậ p sự
chiếm đó ng vữ ng chắ c hơn.
Cô ng cuộ c thự c dâ n quâ n sự nà y trở nên cầ n thiết bở i có nhiều mưu toan già nh lạ i độ c
lậ p củ a ngườ i An Nam, xen kẽ vớ i đó là nhữ ng cuộ c tá i lậ p nền đô hộ củ a Trung Hoa, và nó
chỉ kết thú c và o nă m 968. Liên tiếp tình thế giằ ng co nà y kéo dà i hơn mườ i thế kỷ.
Trong suố t mộ t ngà n nă m nà y, sự pha trộ n củ a cá c dâ n tộ c là khô ng thể trá nh khỏ i và đã
mang lạ i nhữ ng thay đổ i đá ng kể trong cấ u tạ o thể chấ t củ a dâ n tộ c bị trị. Chủ ng tộ c Há n
Hoa, như chú ng ta biết, vô cù ng mạ nh mẽ và vượ t trộ i trong việc lai tạ o vớ i cá c giố ng ngườ i
khá c là mộ t thự c tế đượ c thừ a nhậ n chung khắ p. Sự nổ i trộ i củ a kiểu ngườ i Há n Hoa chiếm
ưu thế gầ n như khô ng có ngoạ i lệ, và kiểu ngườ i nà y đô i khi có thể di truyền đến thế hệ thứ
nă m.[65]
Có mộ t nguyên nhâ n khá c khuyến khích việc lai tạ o vớ i ngườ i Há n Hoa ở An Nam. Nếu
sự di cư củ a đà n ô ng đến An Nam đượ c chính quyền đế quố c khuyến khích, thì việc di cư
củ a phụ nữ bị cấ m theo phong tụ c, và cho đến nay (đầ u thế kỷ XX) vẫ n là như vậ y. Do đó , chỉ
có ngườ i đà n ô ng Thiên triều giao phố i vớ i phụ nữ An Nam để sinh ra nhiều thế hệ lai; sau
đó đến lượ t mình, cá c thế hệ lai nà y lầ n lượ t có nhữ ng phố i hợ p mớ i trong xứ sở , đả m bả o
kiểu ngườ i An Nam duy trì mộ t số đặ c tính chủ ng tộ c Há n Hoa.
Kết quả củ a sự giao kết cá c chủ ng tộ c nà y khô ng phả i là điều đượ c kẻ xâ m lượ c mong
đợ i.
Ngườ i An Nam, đượ c ban cho cá c kỹ nă ng đồ ng hó a mạ nh mẽ, nhưng mặ t khá c, như
chú ng ta đã nó i, lạ i sớ m đắ m chìm trong nền vă n minh Trung Hoa, và điều nà y tình cờ đã
trả lờ i chú ng ta về khuynh hướ ng bí ẩ n củ a tâ m hồ n họ . Do đó , rồ i cũ ng đến mộ t ngà y khô ng
cò n phâ n biệt đượ c gì giữ a kẻ bị đồ ng hó a vớ i nhữ ng ngườ i đồ ng hó a. Hai yếu tố hợ p nhấ t
thà nh mộ t sự hò a trộ n mậ t thiết, đượ c nhó m theo cù ng mộ t dâ n tộ c, đượ c hợ p nhấ t bở i mộ t
cộ ng đồ ng lợ i ích gầ n gũ i, tạ o thà nh mộ t dâ n tộ c mớ i, mạ nh mẽ hơn, tổ chứ c tố t, vă n minh
hơn so vớ i nhó m khở i nguồ n củ a nó , và cũ ng là nhó m mang khao khá t thoá t á ch củ a chủ
nhâ n mà nó thụ nhậ n nền vă n minh.
Vậ y, dù đã ra đờ i thì quố c gia An Nam hã y cò n chưa biến chuyển đến tậ n cù ng.
Sự mở rộ ng tiếp tụ c về phía nam đặ t ngườ i An Nam và o tình trạ ng tiếp xú c vớ i cá c dâ n
tộ c bả n địa mớ i, trong đó có Mọ i và Kha, khô ng nghi ngờ gì, là nhữ ng đạ i diện cuố i cù ng,
cù ng vớ i mộ t dâ n tộ c thuộ c chủ ng Mã Lai và nền vă n minh Ấ n Độ : ngườ i Chă m.
Có sự nghi ngờ sâ u sắ c về việc là m sao xá c định đượ c nhữ ng ngườ i Mã Lai đã đến định
cư ở Đô ng Dương và o thờ i nà o.
Người Mã Lai. ©Ảnh từ bản gốc tiếng Pháp
Họ đến sinh số ng trướ c hay sau cuộ c xâ m lấ n củ a chủ ng da và ng (Mongol)? Có phả i họ
đến từ Java như giả định củ a đa số tá c giả , hay ngượ c lạ i, từ lụ c địa như quan điểm củ a Bá c
sĩ Harmand, tá c giả C. Buck, Bá c sĩ Bordier và mộ t số ngườ i viễn du khá c? Giả i quyết mộ t
vấ n đề như vậ y nằ m ngoà i phạ m vi củ a nghiên cứ u nà y. Trong tình trạ ng kiến thứ c hiện tạ i
củ a chú ng tô i, đưa ra câ u trả lờ i cho nhữ ng vấ n đề khá c nhau nà y là rấ t mạ o hiểm.
Tuy nhiên, chắ c chắ n là trong nhữ ng thế kỷ đầ u tiên củ a kỷ nguyên chú ng ta, (mộ t phầ n)
lã nh thổ hiện đượ c gọ i tên An Nam là trung tâ m củ a vương quố c Mã Lai Champa [66], hình
thà nh và o thế kỷ IX, từ ng là bá chủ trên bá n đả o. Trong gầ n 1.200 nă m, ngườ i An Nam và
ngườ i Chă m đấ u tranh và xung độ t, luâ n phiên thu về chiến thắ ng và bạ i trậ n, kết cuộ c là
dâ n tộ c Chă m bị đá nh bạ i hoà n toà n. Cá c đạ i diện cuố i cù ng củ a nó nằ m rả i rá c ở và i thung
lũ ng nhỏ củ a An Nam và Campuchia, tính đến thờ i điểm đầ u thế kỷ XX nà y thì có khoả ng
bố n mươi hoặ c nă m mươi ngà n ngườ i.
Dườ ng như trong suố t cuộ c tiếp xú c dà i lâ u nà y, hai chủ ng tộ c đã cù ng hò a nhậ p sâ u
đậ m; thậ t vậ y, sự hợ p nhấ t dườ ng như là lờ i giả i thích hợ p lý duy nhấ t có thể đượ c đưa ra
cho sự biến mấ t gầ n như hoà n toà n củ a dâ n tộ c Chă m[67].
Chú ng tô i ghi nhậ n mộ t cá ch chắ c chắ n nơi ngườ i An Nam nhữ ng nét rõ rà ng củ a việc lai
vớ i nhó m dâ n cư Mã Lai, nhưng sự lai tạ o nà y khô ng có mộ t ả nh hưở ng quyết định chiếu
theo quan điểm nhâ n họ c, như chú ng tô i sẽ chỉ ra.
Ngườ i Mã Lai có là n da nâ u, đô i khi sậ m mà u, đô i khi ngả sang mà u đỏ hồ ng hà o; tó c
đen, tương đố i mỏ ng; trá n thấ p, mắ t to, lô ng mà y cong và đậ m; mô i mỏ ng, mũ i hơi tẹt,
nhưng khô ng lớ n và bẹt ở phầ n hướ ng về chó p mũ i như ngườ i An Nam. Dễ kích độ ng, có cơ
bắ p, dẻo dai, thườ ng là gầ y, họ có dá ng vẻ lự c lưỡ ng hơn ngườ i An Nam vố n có châ n tay
mả nh khả nh. Nó i chung họ cao lớ n hơn ngườ i An Nam; chiều cao đô i khi đạ t tớ i lm70. Tay
châ n và cổ tay cổ châ n củ a họ rấ t khỏ e; ngó n châ n cá i tá ch ra khỏ i cá c ngó n châ n khá c, dấ u
hiệu rấ t đặ c trưng củ a chủ ng tộ c Mã Lai, đượ c nhậ n thấ y ở nhiều cá nhâ n thuộ c chủ ng tộ c
An Nam.
Như đã nó i, chú ng ta có thể giả định rằ ng ngườ i Chă m, hay ngườ i Mã Lai xưa ở phía
đô ng Đô ng Dương, khô ng có nhiều sự pha trộ n vớ i ngườ i dâ n An Nam. Trên thự c tế, tình
cả m hậ n thù truyền kiếp đã chia cắ t hai quố c gia khô ng cho phép mộ t sự hợ p nhấ t hoà n
toà n[68]. Chỉ trong nhữ ng thờ i kỳ hò a bình tương đố i ngắ n, sự hò a nhậ p lẫ n nhau có thể xả y
ra. Ngườ i An Nam cũ ng chỉ vay mượ n từ chủ ng tộ c Mã Lai mộ t ít tính cá ch đặ c biệt. Chủ yếu
họ có mà u da tố i hơn mộ t chú t, khá c biệt vớ i ngườ i miền Nam Trung Hoa. Ngườ i ta cũ ng
thườ ng gặ p, nhưng khô ng phả i phổ biến, như thườ ng muố n nó i, ngó n châ n cá i choã i ra, hơi
cá ch vớ i cá c ngó n cò n lạ i. Tuy nhiên, nếu đặ c điểm sinh lý nà y khô ng đượ c duy trì rõ rà ng
đến hô m nay trong tấ t cả hậ u duệ ngườ i Mã Lai ở An Nam, thì ít nhấ t cấ u trú c bà n châ n nà y
nhìn chung, tạ i mộ t thờ i điểm nhấ t định, kể cả ở ngườ i An Nam, khô ng có ngoạ i lệ, biểu hiện
ở thó i quen nắ m mộ t số vậ t bằ ng châ n, và hệ quả tấ t yếu là đặ c điểm giả i phẫ u như đã chỉ ra
ở trên.
Trên hết, cá i mà chủ ng tộ c An Nam có đượ c từ dò ng má u Mã Lai, dẫ u yếu, đó là khả nă ng
thích nghi cao hơn ở vù ng nhiệt đớ i. Thự c tế, cầ n lưu ý rằ ng mô i trườ ng số ng bình thườ ng
củ a chủ ng tộ c da và ng là trung tâ m châ u Á , nghĩa là vù ng ô n đớ i, thườ ng rấ t lạ nh, có khí hậ u
trá i ngượ c vớ i An Nam và Hạ Đà ng Trong. Đú ng là , ngườ i da và ng là minh chứ ng cho nhữ ng
phẩ m chấ t thích nghi tuyệt vờ i ở mọ i loạ i điều kiện khí hậ u; nhưng ngườ i An Nam, lầ n nà y,
đặ c biệt lâ m và o hoà n cả nh rấ t tệ. Họ có thể đã khô ng khá ng cự nổ i nếu khô ng gặ p ngườ i
Mã Lai trên cuộ c hà nh trình.
Chương II
MÔI TRƯỜNG
Tính cá ch mộ t dâ n tộ c là kết quả đồ ng thờ i củ a hai nguyên nhâ n: thể chấ t sinh lý củ a
dâ n tộ c đó và sự thích ứ ng củ a họ vớ i cá c mô i trườ ng khá c nhau.
Chú ng ta đã nghiên cứ u cá i đầ u tiên trong hai yếu tố đó : chủ ng tộ c; bâ y giờ , đố i vớ i quá
trình hình thà nh tính cá ch ngườ i An Nam, cò n phả i xá c định cá i nà o là phầ n chịu ả nh hưở ng
từ nhiều mặ t củ a cá c yếu tố như khí hậ u, hình thế và địa chấ t, giá o dụ c, v.v.
I. Môi trường vật lý
Tá c độ ng khí hậ u lên bả n sắ c quố c gia thườ ng bị phó ng đạ i; nhữ ng phẩ m chấ t hoặ c
khuyết điểm yếu kém nhấ t củ a mộ t dâ n tộ c đô i khi đượ c lý giả i quy cho duy nhấ t ả nh
hưở ng nà y.
Đừ ng cho nó quan trọ ng đến như vậ y, mà phả i biết nhậ n định nó thậ t rõ .
Trong mộ t quố c gia vă n minh, tá c độ ng củ a mô i trườ ng vậ t chấ t, bị đố i trọ ng mạ nh mẽ
bở i nhữ ng ả nh hưở ng rấ t nhiều cũ ng như đa dạ ng củ a mô i trườ ng xã hộ i hay trí tuệ, cò n lạ i
gầ n như bằ ng khô ng; tuy nhiên, ở mộ t dâ n tộ c khở i đầ u tiến hó a, nó gó p phầ n lớ n trong việc
định hình khí chấ t chung, sau đó di truyền và tạ o thà nh vớ i thể chấ t sinh lý củ a chủ ng tộ c
mộ t nền tả ng gầ n như khô ng thay đổ i củ a bả n sắ c quố c gia.
Đô ng Dương, mộ t vù ng lã nh thổ rộ ng lớ n trả i dà i hơn mườ i lă m kinh độ , có khí hậ u tạ i
cá c vù ng khô ng giố ng nhau. Trong khi Nam kỳ nằ m trong khu vự c nó ng như thiêu đố t, thì
Bắ c kỳ lạ i có khí hậ u bá n nhiệt đớ i.
Tuy vậ y, sự phâ n bố cá c mù a có vẻ giố ng nhau ở cả hai xứ : mù a khô kéo dà i từ thá ng
Mườ i hoặ c thá ng Mườ i mộ t đến thá ng Ba hay thá ng Tư, và mù a mưa từ thá ng Tư hoặ c
thá ng Nă m đến thá ng Chín hoặ c thá ng Mườ i.
Nhiệt độ trung bình ở Nam kỳ khoả ng 27°C; đô i khi tă ng lên đến 35°C hoặ c 36°C trong
mù a khô và khô ng bao giờ giả m xuố ng dướ i 18°C. Do đó , nó ng nự c gầ n như hằ ng định.
Độ ẩ m khá cao; độ ẩ m trung bình là 84°C; vũ lượ ng kế cho thấ y lượ ng mưa trung bình
nhiều nhấ t là lm60, nhiều hơn gầ n gấ p ba lầ n so vớ i ở Phá p, nơi đạ t đượ c khoả ng 0m65.
Nhữ ng điều kiện khí hậ u nà y khiến Nam kỳ trở thà nh nơi khô ng tố t cho sứ c khỏ e. Đấ t
lú c nà o cũ ng rấ t ẩ m ướ t, thườ ng bị ngậ p lụ t, phủ kín là nhữ ng đá m câ y cố i um tù m, sinh sô i
dướ i tá c độ ng củ a cá i nó ng, nhữ ng lam chướ ng độ c hạ i thú c đẩ y sự sinh sô i củ a tấ t cả cá c
loạ i bệnh tậ t: kiết lỵ , tiêu chả y, số t rét, tả , đậ u mù a, v.v.
Khí hậ u Bắ c kỳ nó i chung khá hơn: nó ng nự c quá mứ c trong mù a mưa (nhiệt kế có khi
đo đượ c đến 39-40°C), mù a khô tương đố i má t mẻ, khi đó nhiệt độ xuố ng đến 8°C thậ m chí
có khi là 7°C. Nhưng sự ẩ m thấ p lên đến cự c độ ; lượ ng mưa trung bình hằ ng nă m là lm80,
cao hơn 20cm so vớ i Nam kỳ. Trong suố t mù a nó ng khi mà lượ ng nướ c vô cù ng dồ i dà o,
vù ng châ u thổ nà y biến thà nh mộ t đầ m lầ y thự c sự ; và nếu, và o mù a khô , ở nhữ ng thá ng
Mườ i hai, thá ng Giêng và thá ng Hai, dù khô ng có nhữ ng cơn bã o lớ n thì bầ u trờ i vẫ n phủ
khắ p nhữ ng đá m mâ y xá m để rồ i trú t xuố ng mộ t mà n nướ c mỏ ng: mưa phù n.
Tó m lạ i, chú ng ta có thể nhậ n định đượ c khí hậ u củ a Đô ng Dương: nó ng nự c và ẩ m thấ p
quá mứ c.
Vậ y thì, nếu trướ c đâ y hai yếu tố nà y từ ng có thể ả nh hưở ng lớ n lên tổ tiên củ a nhữ ng
ngườ i An Nam, khi đó mớ i di cư từ vù ng lạ nh hơn xuố ng và khô ng thích nghi đượ c, thì ngà y
nay, trá i lạ i, chú ng khô ng thể là m chuyển hó a nhữ ng chủ ng ngườ i nà y nữ a, vố n đã thích
nghi vớ i mô i trườ ng và đề khá ng tố t hơn vớ i tá c độ ng bên ngoà i.
Vì chính mô i trườ ng nà y đã bắ t đầ u thay đổ i kể từ đó ; cá c điều kiện số ng trở nên tố t
hơn, nơi nhữ ng đầ m lầ y từ ng ứ đọ ng ngà y nay là nhữ ng ruộ ng lú a xanh rờ n; bệnh số t rét
lú c nà y khô ng cò n nghiêm trọ ng nữ a ở nhữ ng nơi nó từ ng gâ y nhữ ng thả m họ a nặ ng nề [69].
Đó là nhữ ng gì tô i vừ a trình bà y ở trên đâ y khi nó i rằ ng trong mộ t quố c gia vă n minh,
ả nh hưở ng vậ t lý củ a mô i trườ ng đượ c đố i trọ ng bở i nhữ ng ả nh hưở ng xã hộ i. Sau khi tá c
độ ng lên con ngườ i, thiên nhiên, đến lượ t nó , chịu ả nh hưở ng củ a xã hộ i, mà theo câ u nó i
củ a Auguste Comte[70], là đượ c “xã hộ i hó a” theo cá ch nà o đó .
Do đó , nếu chú ng ta nghiên cứ u ở đâ y cá c điều kiện khí hậ u củ a Đô ng Dương, tấ t nhiên
cá c tá c độ ng tứ c thì củ a chú ng khô ng là gì đố i vớ i cư dâ n hiện nay. Trong nhữ ng trình bà y
trên đâ y, tấ t nhiên cá c quan sá t tâ m lý chỉ ứ ng vớ i nhữ ng ngườ i An Nam hiện đạ i, chú ng ta
chỉ tậ p trung và o biểu hiện kết quả củ a nhữ ng tá c độ ng ban đầ u, xả y ra qua quá trình rấ t lâ u
dà i, và dầ n dầ n theo thờ i gian, trên cơ thể củ a nhữ ng ngườ i Giao Chỉ cổ đạ i và cá c kết quả
nà y, theo con đườ ng di truyền, ngà y nay đã trở thà nh nhữ ng đặ c tính hằ ng định củ a chủ ng
tộ c.
Fouillé nó i, “Nhữ ng ngườ i Á châ u, mà Hippocrate trướ c cả Montesquieu, đã ghi nhậ n đờ i
số ng bạ c nhượ c, thườ ng có tính khí cá u kỉnh, mệt mỏ i do nó ng nự c; thiêu đố t bên trong quá
mứ c nên khô ng để lạ i chú t sứ c lự c dư thừ a nà o để dù ng cho bên ngoà i. Khí hậ u quá nó ng
là m cho huyết dịch tuầ n hoà n quá nhanh, là m bà i tiết nhiều chấ t thả i hơn khiến cho cơ thể
khô ng đượ c sạ ch sẽ trong khi gắ ng sứ c và lao độ ng. Bằ ng sự kích thích tuầ n hoà n má u và
là m tấ t cả lỗ châ n lô ng mở ra, cá c dâ y thầ n kinh và da quá mẫ n cả m. Bở i vậ y, con ngườ i ta
trở nên nhạ y cả m hơn, và cù ng vớ i đó , cả m giá c, trí tưở ng tượ ng củ a họ cũ ng dễ bị kích
độ ng hơn. Cuố i cù ng, cá i nó ng vượ t ngưỡ ng kết thú c bằ ng mệt mỏ i cù ng sự kiệt lự c.” Điện
á p khô ng khí[71], độ ẩ m, độ trong là nh củ a nó cũ ng ả nh hưở ng đến cơ thể. “Đặ c biệt, tình
trạ ng ẩ m thấ p tiếp tụ c cò n gâ y bít lỗ châ n lô ng trên da, là m chậ m tuầ n hoà n cho khí sắ c
kém, giả m hoạ t lự c củ a hệ thố ng vậ n mạ ch, loạ i bỏ toà n bộ nă ng lượ ng cơ thể, là m suy giả m
cả m giá c và hoạ t độ ng tinh thầ n, nó i mộ t cá ch ngắ n gọ n, mở đườ ng cho đặ c điểm chậ m chạ p
và ù lì thườ ng thấ y nơi tính khí lã nh đạ m.”[72]
Nhữ ng nhậ n xét cô ng bằ ng, chính xá c nà y hoà n toà n ứ ng hợ p vớ i tính tình ngườ i An
Nam.
Tính ngang bướ ng củ a dâ n du mụ c Mô ng Cổ , tính thích gâ y gổ và bạ o lự c củ a ngườ i Mã
Lai đá ng lẽ đượ c biểu hiện ở ngườ i An Nam do đượ c di truyền từ hai nhó m đó , nhưng dướ i
tá c độ ng đá ng kinh ngạ c củ a khí hậ u, lạ i hò a tan thà nh mộ t bả n chấ t dử ng dưng, bình thả n,
đơn giả n là thờ ơ.
Đượ c xem là bằ ng chứ ng đầ u tiên cho sự dử ng dưng nà y, chú ng ta có thể dẫ n ra việc
ngườ i An Nam, tuy là dâ n tộ c có mộ t nền vă n minh tương đố i cao, nhưng lạ i khô ng có bấ t kỳ
sự tiến bộ , sự tinh tế nà o trong cá ch ă n uố ng. Quả thậ t cầ n phả i quay trở lạ i lú c khở i
nguyên, và o thờ i điểm khi con ngườ i, chỉ có rấ t ít nhu cầ u, tậ p trung và o việc thỏ a mã n tấ t
cả nhữ ng gì cấ p thiết nhấ t: cơn đó i, để tìm ra đượ c khẩ u vị tương tự củ a ngườ i châ u Á .
Chú ng ta biết nhữ ng mó n ă n nổ i tiếng trong ẩ m thự c ngườ i An Nam hay ngườ i Trung Hoa
như: nhữ ng con đun dừ a, trứ ng thố i, v.v. Hầ u như tấ t cả mọ i thứ đều có thể ă n đượ c: ếch,
chuộ t, dơi, rắ n, thịt, rau củ hoặ c thự c phẩ m bị hư hỏ ng. Trong chợ , ngườ i bá n có hai loạ i giá :
mộ t cho hà ng tươi, cá i cò n lạ i, giá thấ p hơn, cho nhữ ng thứ đã đượ c bà y ra nhữ ng ngà y
trướ c đó . Mộ t miếng thịt lợ n như vậ y hô m nay thì giá mườ i hai xu [73], ngà y mai sẽ khô ng có
giá cao hơn tá m hay mườ i xu và chắ c chắ n vẫ n có ngườ i mua.
Vớ i nhữ ng mó n ă n nà y, ngườ i An Nam sử dụ ng kèm nhữ ng loạ i nướ c số t vô cù ng cay và
có thà nh phầ n rấ t đặ c biệt; phổ biến nhấ t là mộ t loạ i gọ i là “nước mắm” là m từ cá chấ t lớ p
lên nhau, để lên men rấ t lâ u trong nướ c biển. Hương vị và mù i củ a hỗ n hợ p nà y rấ t kinh
khủ ng đố i vớ i ngườ i  u.
Hơn nữ a, thiếu tinh tế về khẩ u vị sinh ra mộ t phẩ m chấ t hiếm thấ y ở (ngườ i  u) chú ng
ta: sự tiết độ. Ngườ i An Nam, ít bị đò i hỏ i bở i nhữ ng thèm muố n tự nhiên, rấ t tiết độ . Họ hầ u
như chỉ ă n cơm, cá khô và rau củ ; chỉ uố ng nướ c hoặ c trà ; hiếm khi uố ng rượ u[74].
Sự dử ng dưng củ a ngườ i An Nam cò n thể hiện ở sự thiếu tiện nghi về nhà ở và trang
phụ c.
Nhà thườ ng dự ng bằ ng tre và lợ p tranh; tườ ng là nhữ ng “cái phên”[75]; vá ch ngă n bên
trong là nhữ ng tấ m chiếu sơ sà i, cử a ra và o chỉ khép hờ , khô ng hề có cử a sổ , cũ ng khô ng có
thô ng hơi, khó i tự thoá t qua cá c kẽ hở giữ a cá c tá n lá tranh trên má i. Thấ p và bí, quá hẹp
cho mộ t gia đình thườ ng đô ng đú c, nhà dự ng trên nền đấ t nện, luô n ẩ m thấ p, đô i khi ngậ p
nướ c nếu ở gầ n rạ ch hoặ c sô ng.
Chú ng ta hã y xem thử liệu nơi nà o có thể thiết kế mộ t ngô i nhà như vậ y để chố ng lạ i cá i
nó ng, mưa, và đặ c biệt chố ng lạ i đượ c cá i lạ nh ở Bắ c kỳ.
“Cái nhà” có khi đượ c dự ng trên mộ t chiếc bè, ở rìa con sô ng để rồ i bị cuố n đi mỗ i lầ n
nướ c lên.
Về phương diện nhà cử a nó i chung, rấ t dễ nhậ n ra sự đơn sơ thể hiện ở nộ i thấ t bên
trong; chỉ có mộ t hoặ c hai chiếc phả n lớ n, bằ ng gỗ , trả i mộ t tấ m chiếu mỏ ng trên đó cho cả
gia đình dù ng, vừ a là bà n ă n, là ghế lạ i vừ a là giườ ng; mộ t và i cá i đô n, mộ t cá i rương... và
mộ t chiếc quan tà i, ở vị trí trang trọ ng, do nhữ ng đứ a con hiếu thả o tặ ng cho ngườ i cha.
Thêm mộ t sự bẩ n thỉu gớ m ghiếc nữ a đó là nhữ ng con lợ n hoặ c gia cầ m đượ c thả rô ng,
hoà n toà n tự do; mộ t cá i ao gầ n đó và cũ ng là hồ bơi, là nơi trồ ng cả i xoong lẫ n hố ủ phâ n...
và bạ n sẽ có mộ t bứ c tranh gầ n chính xá c về sự tiện nghi củ a ngườ i An Nam.
Ngay cả ở nhữ ng ngườ i già u có , kể ra cũ ng chỉ là thiểu số ở An Nam, họ cũ ng khô ng
quan tâ m đến sự thoả i má i. Nếu nhà đượ c xâ y gạ ch và lợ p ngó i, đồ đạ c trong nhà , mặ c dù
sang trọ ng quý giá , nhưng vẫ n rấ t bấ t tiện, cà ng khô ng thoả i má i cà ng tố t. Chõ ng tre đượ c
thay thế bằ ng nhữ ng tấ m phả n dà y bằ ng gỗ quý, nhữ ng cá i đô n thay bằ ng nhữ ng chiếc ghế
dự a cứ ng và lớ n vớ i lưng ghế đượ c chạ m khắ c tinh xả o, nhưng chỗ dự a ít êm á i sẽ gâ y khó
chịu cho ngườ i  u chú ng ta. Ngay đến cá i gố i, gố i dự a hình vuô ng hoặ c hình trụ , là m bằ ng
gỗ hoặ c sứ , mà dườ ng như đượ c dù ng để là m đau đầ u thay vì để nghỉ ngơi.
Nhà lợp bằng tranh ở Bắc kỳ. ©Raphaël Moreau
Vớ i chuyện quầ n á o, ngườ i An Nam thể hiện cù ng mộ t thá i độ coi thườ ng đố i vớ i chính
bả n thâ n họ . Mặ t trờ i như thiêu như đố t, nó ng hừ ng hự c, mưa xố i xả , rồ i cá i lạ nh ẩ m củ a
Bắ c kỳ hiếm khi khiến họ phả i cở i bỏ hoặ c mặ c thêm mộ t bộ quầ n á o. Nhữ ng gì họ thườ ng
mặ c là : mộ t chiếc quầ n thụ ng và mộ t chiếc vá y hoặ c mộ t chiếc á o khoá c cộ t bên sườ n; tấ t cả
đều bằ ng vả i mỏ ng.
Và o mù a đô ng ở Bắ c kỳ, trong khi ngườ i  u mặ c quầ n á o bằ ng nỉ cù ng á o khoá c dà i, ta
lạ i thấ y nhữ ng “phu thợ” lộ i châ n trầ n trong bù n, lạ nh thấ u tủ y xương, run lẩ y bẩ y, nhưng
vẫ n luô n chỉ mặ c độ c mộ t “cái áo” vả i.
Sự thờ ơ như vậ y dà nh cho chính con ngườ i họ tấ t nhiên dẫ n đến mô i trườ ng số ng bẩ n
thỉu. Chú ng ta đã có đượ c cả nh tượ ng khá kinh tở m về nhà ở , hình ả nh bề ngoà i cá nhâ n cò n
khó chấ p nhậ n hơn. Họ khô ng thay hoặ c gầ n như khô ng bao giờ cở i quầ n á o ra, ngay cả và o
ban đêm; quầ n á o đượ c mặ c đến khi hoà n toà n sờ n rá ch. Ngườ i dâ n ở đâ y thườ ng mặ c vả i
nâ u, nâ u đỏ đậ m, nhuộ m bằ ng củ nâu, rấ t bền và khô ng sợ ố bẩ n hoặ c bá m bụ i đấ t. Đố i vớ i
ngườ i dâ n An Nam thì nên giặ t quầ n á o cà ng ít cà ng tố t, nếp nà y tạ o thà nh mộ t sự tiện lợ i
đá ng giá . Như vậ y, khi nhữ ng bộ đồ bỏ đi thì chỉ cò n là miếng giẻ rá ch hô i thố i! Và o nhữ ng
ngà y lễ, ngườ i dâ n hà i lò ng diện nhữ ng bộ đồ lễ hộ i, rự c rỡ và đượ c cấ t giữ cẩ n thậ n; cò n
nhữ ng đồ kể trên, bẩ n thỉu và rá ch rướ i, họ mặ c hằ ng ngà y.
Nhữ ng đứ a trẻ nhỏ phả i số ng trong tình trạ ng bẩ n thỉu đến đau lò ng. Lú c nà o cũ ng lă n
ló c giữ a bụ i bặ m, bù n hoặ c phâ n, khô ng bao giờ đượ c mẹ tắ m rử a cho, chú ng luô n phủ đầ y
lớ p vả y ghê tở m hay “phủ mộ t lớ p cá u bẩ n dà y cộ m”[76].
Bả n thâ n phụ nữ , dù khô ng quá xấ u, nhưng khô ng bao giờ gâ y đượ c thu hú t nơi mắ t
nhìn. Dướ i đâ y là phá c họ a thà nh cô ng, tá i hiện rấ t châ n thự c ấ n tượ ng cả m nhậ n củ a hầ u
hết ngườ i  u khi hai bên gặ p nhau: “Cá c cô ấ y thườ ng có khuô n mặ t trò n mà cá c nhà thơ
Trung Hoa so sá nh đầ y cả m hứ ng vớ i tră ng trò n. Má i tó c đen và ó ng mượ t đượ c ép sá t và o
trá n bằ ng dả i khă n; đô i mắ t đen đầ y dịu dà ng và mang nét ngâ y thơ hoang dạ i củ a đô i mắ t
nai; mũ i trò n, hơi hếch, giữ cho khuô n mặ t mộ t dung mạ o trẻ con; khô ng bao giờ kiều diễm,
họ gâ y rung cả m bở i sự ngâ y thơ và dễ mến, chỉ cầ n khô ng mở miệng là đượ c. Ngay khi họ
phô hà m ră ng hư do nhai trầ u và đều nhau nhuộ m đen hạ t huyền, mọ i luồ ng quyến rũ biến
mấ t: than thay cho nhữ ng hạ t ngọ c trai, ngườ i ta chỉ thấ y tuyền mà u đen tố i như thể mộ t lỗ
lớ n há ra, thay vì á nh ngọ c trai lấ p lá nh giữ a đô i mô i hồ ng, nó là m mấ t hết thiện cả m và đà o
sâ u giữ a hai dâ n tộ c mộ t khoả ng cá ch mà tô i nghĩ khó lò ng vượ t qua đượ c trong tình
yêu.”[77].
Bứ c tranh chú ng ta vừ a phá c thả o về gia đình và nộ i thấ t củ a ngườ i An Nam khô ng hề
nó i quá ; thậ t khô ng may, mọ i sự đú ng là như vậ y. Tuy nhiên, phả i thừ a nhậ n rằ ng dướ i tá c
độ ng củ a chú ng ta, tình trạ ng vệ sinh đượ c cả i thiện rõ rệt. Nhưng vẫ n cò n nhiều việc phả i
là m, và sẽ cò n rấ t dà i trong nhữ ng nộ i dung tớ i đâ y là bả n mô tả củ a chú ng tô i, mộ t sự tá i
dự ng trung thà nh vớ i thự c tạ i.
Hơn nữ a, bứ c tranh khô ng phả i chỉ chứ a nhữ ng điều u tố i: nhìn dướ i gó c độ nà o đó , nó
vẫ n cho thấ y nhữ ng viễn cả nh tươi sá ng.
Nếu cả m xú c củ a ngườ i An Nam, bị cù n nhụ t kéo dà i bở i khí hậ u khắ c nghiệt, là m họ quá
tiết độ nên khó lò ng tìm kiếm sự sung tú c và khiến họ trở nên lườ i biếng, bỏ bẵ ng đi nhữ ng
phẩ m cá ch ẩ n giấ u củ a họ , thì trá i lạ i, nó tạ o ra ở họ mộ t nă ng lự c ấ n tượ ng: sức chịu đựng.
Tô i vừ a kể ở phầ n trướ c ví dụ về nhữ ng “phu kéo xe” có thể chạ y mộ t hơi nhữ ng cuố c xe
từ hai mươi lă m đến ba mươi câ y số , vớ i tố c độ nhanh và bền bỉ; tô i cũ ng đã mô tả họ như
thế nà o dướ i bầ u trờ i mù a đô ng Bắ c kỳ, đô i châ n trầ n và quầ n á o mỏ ng manh, ră ng đá nh
lậ p cậ p, nhưng chai lì vớ i cá i lạ nh, và chờ là m ấ m lạ i sau mỗ i đợ t chạ y; tô i cũ ng đã kể về
cô ng việc lao nhọ c mà ngườ i nô ng dâ n phả i nai lưng ra là m để đả m bả o ruộ ng lú a tươi tố t;
sự chịu đự ng ở ngườ i chèo thuyền, khom lưng hà ng giờ liền trên thuyền. Và tô i vẫ n có thể
kể thêm ở đâ y nhiều câ u chuyện, nhiều giai thoạ i chứ ng thự c cho nhữ ng quan sá t trướ c đó :
cá c cuộ c phẫ u thuậ t, họ chịu đự ng khô ng rên rỉ, khô ng khó c than; nhữ ng lầ n sinh nở diễn ra
khô ng hề có giú p đỡ , chă m só c, và đá ng kinh ngạ c là bà mẹ hầ u như khô ng cầ n phả i ngưng
hoà n toà n nhữ ng cô ng việc thườ ng ngà y bở i biến cố nà y.
Khả nă ng chịu đự ng nà y, theo gó c nhìn thể chấ t, có tá c độ ng tố t về mặ t tinh thầ n: ngườ i
An Nam rấ t can đả m, nhưng khô ng như kiểu chú ng ta [ngườ i Phá p hay ngườ i châ u  u]
thườ ng nghe nó i, bở i đố i vớ i chú ng ta biểu hiện đó đô i khi đồ ng nghĩa vớ i sự tá o bạ o, mạ o
hiểm hoặ c liều lĩnh. Nhữ ng ngườ i lính An Nam thườ ng chạ y trố n trướ c chú ng ta; tuy vậ y,
nếu họ đượ c tậ p luyện, lã nh đạ o, hỗ trợ tố t, họ sẽ thể hiện nhữ ng kỹ nă ng chố ng lử a đạ n
đá ng ngưỡ ng mộ , cũ ng như nhữ ng gì họ đã thể hiện trong chiến dịch sau cù ng vớ i Trung
Hoa. Thoạ t đầ u, dườ ng như rấ t khó để dung hò a biểu hiện hèn nhá t rà nh rà nh và lò ng can
đả m bẩ m sinh nà y. Ở ngườ i An Nam, can đả m có tính thụ độ ng: họ biết chịu đự ng nỗ i đau,
chịu đự ng cá i chết mà khô ng hề run sợ , nhưng chỉ khi điều đó dườ ng như là khô ng thể
trá nh khỏ i đố i vớ i họ và sau khi họ đã cố hết sứ c để thoá t khỏ i nó .
Thự c ra, ngườ i An Nam số ng rấ t an phậ n, và vớ i sứ c cam chịu phi thườ ng họ chịu đự ng
nhữ ng trậ n đò n tà n khố c nhấ t củ a số phậ n. Khô ng gì có thể là m xá o trộ n sự bình tĩnh khô ng
hề lay chuyển củ a họ : kể cả có trú t lên họ nhữ ng nhụ c hình, như mộ t và i tá c giả bá o cá o, cả
nhữ ng sự cố bấ t ngờ hoặ c khô ng may. Mộ t ngà y nọ , tô i thấ y mộ t quan huyện đượ c chủ tỉnh
gọ i lên vì mộ t vụ việc hà nh chính, trả lờ i cá c câ u hỏ i ô ng ta đặ t ra suố t gầ n mộ t giờ , mộ t
cá ch bình tĩnh, chính xá c, khô ng hề tỏ ra thiếu kiên nhẫ n, rồ i lặ ng lẽ chờ đợ i, ở cá ch xa đó ,
cấ p trên củ a anh ta, đang tấ t bậ t vớ i nhữ ng bả n hỏ i cung khá c và độ t nhiên chú ý đến sự
hiện diện kéo dà i củ a anh, mờ i anh nó i, cuố i cù ng anh khai bằ ng mộ t giọ ng đều đều, gầ n
như vô cả m, đô i mắ t hạ xuố ng, vẻ mặ t thả n nhiên, hai tay đan chéo vớ i thá i độ tô n trọ ng và
trang nghiêm, rằ ng đêm trướ c anh bị ă n trộ m mấ t bố n tră m đồ ng (đá ng giá mộ t gia tà i ở An
Nam) và tấ t cả nhữ ng gì anh từ ng sở hữ u ngoà i nó : củ a cả i hoặ c trang sứ c. Anh gử i đơn
khiếu nạ i thủ phạ m, nhưng anh đã là m như vậ y mà khô ng hề nổ i nó ng, anh nó i chậ m rã i
bằ ng nhữ ng từ ngữ cẩ n trọ ng, mô tả tỉ mỉ cá c tình tiết phạ m tộ i củ a tên tộ i phạ m, khô ng bỏ
só t mộ t chi tiết nà o... chỉ trừ mộ t chuyện mà anh nêu ra ngay trướ c khi ngừ ng nó i, anh là m
giố ng như thể anh chợ t nhớ ra nó , rằ ng nó là mộ t việc anh đã quên và khô ng hề quan trọ ng:
“Tô i chưa nó i vớ i ô ng, thưa ngà i Cô ng sứ , rằ ng nhữ ng tên trộ m ngoà i đó ra cò n đầ u độ c tấ t
cả gà vịt, chó và hai con ngự a củ a tô i.”
Hã y thử đặ t và o vị trí nạ n nhâ n củ a ngườ i An Nam nà y mộ t kiểu dâ n Phá p cù ng chịu mộ t
biến cố như vậ y, và bạ n sẽ nhậ n ra sự khá c biệt.
Nhậ n định tương tự , sự điềm tĩnh là mộ t phẩ m chấ t khô ng cầ n phả i bà n cã i; đó là bình
tĩnh, nhanh trí khi đố i mặ t vớ i nguy hiểm, là m chủ đượ c bả n thâ n, nhữ ng cơn giậ n và nhữ ng
ham muố n; nó i tó m lạ i, đó là biểu hiện cao nhấ t củ a phẩ m giá con ngườ i.
Nhưng đó lạ i là mặ t trá i củ a sự việc. Cũ ng con ngườ i đó , thả n nhiên trướ c sự bấ t hạ nh
củ a chính mình, sẽ thờ ơ trướ c bấ t hạ nh củ a ngườ i khá c. Ngườ i An Nam khô ng xó t thương
thấ u hiểu; hơn thế nữ a, anh ta tà n nhẫ n.
Để nhậ n ra sự man rợ bẩ m tính nà y, ta phả i đọ c trong Bộ luậ t (Gia Long) bả n mô tả cá c
hình phạ t mà ngườ i bị kết á n phả i chịu, và để xem vớ i nhậ n thứ c nà o, chú ng đượ c á p dụ ng
tinh vi ra sao.
Và đầ u tiên, phạ t roi. Hình phạ t nà y rấ t đau đớ n: “Nhụ c hình nà y khá c nhau về cườ ng độ
tù y theo khả nă ng củ a ngườ i thi hà nh. Câ y roi dù ng để đá nh chỉ ở mộ t phầ n ba chiều dà i củ a
nó , lự c đậ p mạ nh, roi phả i đá nh đú ng mộ t chỗ , roi thứ ba thườ ng gâ y chả y má u. Bố n mươi
roi liên tiếp có thể giết chết tù nhâ n. Vậ y nên, họ thườ ng đá nh hai mươi roi; họ đổ thêm
nướ c muố i và o vết thương để kẻ bị kết á n và o lạ i nhà giam suố t hai mươi bố n hoặ c bố n
mươi tá m giờ , cuố i cù ng hắ n ta nhậ n tiếp hai mươi roi mớ i, và cứ tiếp tụ c như thế...”[78]
Tử hình có nhiều hình thứ c, mứ c độ kinh khủ ng tă ng dầ n từ ng bậ c: thắ t cổ , chém đầ u,
voi già y, cá i chết từ từ [79]. Thắ t cổ đượ c thự c hiện bằ ng sợ i dâ y thừ ng mả nh, rấ t dà i, quấ n
mộ t hoặ c hai lầ n quanh cổ tù nhâ n, ngườ i nà y đứ ng thẳ ng, đượ c gắ n chặ t và o mộ t cá i cộ t.
Hai ngườ i phụ nắ m lấ y hai đầ u củ a sợ i dâ y và kéo từ từ , cà ng ngà y cà ng mạ nh, mỗ i ngườ i
mộ t bên; vò ng dâ y siết lạ i, tù nhâ n nghẹt thở : sợ i dâ y đượ c nớ i lỏ ng ra mộ t chú t, kẻ khố n
khổ lấ y lạ i hơi và ngườ i hà nh quyết chuẩ n bị bắ t đầ u hà nh hình lạ i, ngưng lạ i mộ t lầ n nữ a
nếu cá i chết dườ ng như đến quá nhanh. Đô i khi, giữ a nhữ ng lầ n hà nh hình, ngườ i bị kết á n
đượ c cho uố ng mộ t ít thuố c bổ để khiến anh ta khỏ e hơn, và do đó kéo dà i cả nh tượ ng ghê
rợ n nà y. Có khi, vớ i cù ng mộ t mụ c đích nhưng ít gặ p hơn, ngườ i hà nh hình nhó m mộ t bếp
lò dướ i châ n kẻ chịu tộ i.
Voi già y, dà nh riêng cho ngườ i phụ nữ ngoạ i tình, tứ c là đầ u bị nghiền ná t dướ i châ n con
thú to lớ n; chém đầ u, bằ ng cá ch sử dụ ng mộ t thanh kiếm thườ ng bị sứ t mẻ, cũ ng khô ng
kém phầ n tà n bạ o.
“Cá c giá o sĩ kể lạ i vớ i chú ng tô i rằ ng, trong cuộ c hà nh quyết (1839), mộ t tâ n tò ng trẻ
tuổ i tên Michel Mi, khi sắ p đi đến cá i chết mà khô ng hề sợ hã i, đao phủ nó i vớ i cậ u ta: ‘Đưa
tao nă m quan và tao sẽ chặ t đầ u mà y chỉ bằ ng mộ t nhá t kiếm, khô ng khiến mà y phả i chịu
đau khổ .’”[80]
Nhưng trong tấ t cả nhữ ng kiểu chết đó , cá i đượ c gọ i là “cá i chết từ từ ” là đá ng sợ nhấ t.
“Bao gồ m việc xẻo thịt cơ thể thà nh từ ng miếng nhỏ , đến khi hoà n toà n trơ xương; ngay sau
đó , vớ i đà n ô ng, bộ phậ n sinh dụ c bị cắ t đi; đố i vớ i phụ nữ , nhữ ng bộ phậ n nà y đượ c phủ
bằ ng mộ t miếng vả i; họ mổ bụ ng và lấ y ruộ t ra cho đến khi đố i tượ ng chết hẳ n. Sau đó , họ
cắ t bỏ cá c chi, cắ t cá c khớ p và đậ p ná t xương.”[81]
Có ngườ i từ ng cho rằ ng, mộ t cá ch chắ c chắ n, nếu bị thấ m nhuầ n lý luậ n phi nhâ n đạ o
mà dự a và o đó cơ quan lậ p phá p tiến hà nh thiết lậ p cá c bậ c hình phạ t kế tiếp khá c nhau, thì
họ cũ ng sẽ nghĩ rằ ng đó tự nhiên khô ng phả i là sự tà n á c, kể cả sự hiếu kỳ về má u và nhữ ng
cự c hình, và do vậ y đã đưa và o luậ t phá p An Nam nhiều kiểu tử hình, tra vấ n và vô và n kiểu
tra tấ n.[82]
Họ nó i vớ i chú ng tô i, luậ t phá p cố gắ ng là m cho giá trị củ a hình phạ t phù hợ p vớ i mứ c
độ củ a lỗ i lầ m; nhưng liệu “lý luậ n phi nhâ n đạ o” nà y có đủ sứ c biện minh cho nhữ ng tưở ng
tượ ng tà n á c là m nhà lậ p phá p thích thú ; liệu nó có biện giả i cho nhữ ng hà nh vi xấ u xa và
dữ tợ n thườ ng đượ c thự c hiện bở i nhữ ng kẻ hà nh quyết?[83]
Phả i thừ a nhậ n rằ ng sâ u thẳ m trong tâ m hồ n ngườ i An Nam luô n tồ n tạ i mộ t ký ứ c xưa
cũ , xa xă m và mờ mịt, nhưng đô i khi nó hiện lên nhữ ng tiếng vọ ng dữ dộ i và bấ t chợ t, về cá c
tậ p quá n tổ tiên. Cá c chiến binh Mô ng Cổ hung hã n và nhữ ng tên cướ p biển Mã Lai liều lĩnh
đã để lạ i trong tâ m tính con chá u củ a họ mộ t mầ m mố ng hung á c, đượ c mộ t mặ t trờ i nhiệt
đớ i đá nh thứ c dướ i là n hơi ẩ m ướ t và nó ng bỏ ng.
Ả nh hưở ng củ a khí hậ u khắ c nghiệt khô ng chỉ lưu dấ u vết nơi cả m xú c; nó có tá c độ ng
trở lạ i, hoặ c trự c tiếp hoặ c giá n tiếp, đến ý chí và trí tuệ. Sự suy nhượ c đá ng kể củ a cơ thể
bở i tá c độ ng củ a sứ c nó ng và độ ẩ m hoặ c do thiếu thứ c ă n, biểu lộ qua tình trạ ng đờ đẫ n
khô ng cưỡ ng đượ c, qua sự ngạ i ngầ n thự c hiện bấ t kỳ nỗ lự c nhọ c nhằ n nà o, bấ t kể là về thể
chấ t hay trí tuệ.
Do đó , chú ng ta sẽ thấ y rằ ng ngườ i An Nam nổ i bậ t khô ng phả i bở i phẩ m chấ t nă ng
lượ ng tiên phong, cũ ng khô ng phả i bở i sứ c mạ nh tưở ng tượ ng hay thă ng tiến tinh thầ n.
Tuy nhiên, bấ t chấ p nhữ ng bấ t lự c khô ng thể chố i cã i nà y, họ vui hưở ng mộ t đặ c â n vô
giá . Đó là mộ t trong số ít nhữ ng dâ n tộ c sở hữ u tính khí hà i hò a, nơi tấ t cả mọ i khả nă ng đều
câ n bằ ng. Thậ t vậ y, ngườ i ta khô ng thể nó i rằ ng họ là mộ t ngườ i “nhạ y cả m”, mộ t ngườ i “trí
tuệ” hay mộ t ngườ i “có ý chí”, bở i vì ở họ , cả thầ n kinh lẫ n nã o bộ đều khô ng chiếm ưu trộ i.
Hệ thố ng thầ n kinh, hệ thố ng cơ bắ p và hệ thố ng huyết dịch đều hợ p nhấ t, nhưng ở mộ t
mứ c đặ c biệt thấ p: má u lưu thô ng chậ m, thầ n kinh kiệt quệ và cơ bắ p khô ng cò n chú t sứ c
bậ t nà o.
Vậ y nên, nếu có thể nó i rằ ng ngườ i An Nam vô cả m và lã nh đạ m, khô ng có nhiều nhu
cầ u to lớ n và khô ng có mong ướ c thự c sự nà o, và vì nhữ ng lý do đó là mộ t dâ n tộ c hạ nh
phú c, ít nhấ t sẽ phả i nó i thêm rằ ng điểm chính yếu trong sự hạ nh phú c củ a họ là tiêu cự c và
rấ t ít ham muố n.
II. Môi trường con người
Cho đến nay, trong số cá c yếu tố đã gó p phầ n hình thà nh tính cá ch dâ n tộ c An Nam,
chú ng ta chỉ xem xét cá c nguyên nhâ n thể chấ t. Vẫ n cò n mộ t yếu tố khô ng kém phầ n quan
trọ ng mà chú ng ta chưa xem xét, nhưng ả nh hưở ng củ a nó chủ yếu là lên luâ n lý đạ o đứ c; ý
tô i là : con người.
Những người thợ đang giã gạo bằng chày trong một nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn.
Điều nà y, dườ ng như, giả i thích sự vắ ng mặ t gầ n như hoà n toà n củ a kỹ nghệ và thương
mạ i củ a ngườ i An Nam bả n địa[125]. Là m sao để chế tá c tố t bà n ghế hoặ c dụ ng cụ , may mặ c
quầ n á o khéo léo, ngườ i ta có thể bỏ qua điều đó ; cho nên, ngườ i An Nam khô ng sở hữ u
nhiều thứ .
Nếu ngườ i Trung Hoa, nhữ ng ngườ i cũ ng ít tự hà i lò ng, sở hữ u mộ t ngà nh kỹ nghệ và
thương mạ i rấ t phá t triển, thì điều nà y đặ c biệt là do dâ n số vô cù ng đô ng đả o. Thự c tế, hầ u
như chỉ có cá c khu vự c đô thị lớ n - như Quả ng Châ u, Thượ ng Hả i, Bắ c Kinh - hộ i tụ cá c nhà
kỹ nghệ và thương mạ i, sả n phẩ m tự nhiên củ a sự cạ nh tranh lớ n, cuộ c đấ u tranh khắ c
nghiệt để tồ n tạ i. Ở đấ t nướ c mênh mô ng mà họ sinh số ng, trá i lạ i, ngườ i An Nam giữ sự
thoả i má i; mỗ i gia đình sở hữ u mộ t cá nh đồ ng và kiếm đủ để số ng. Ngoà i ra có rấ t ít hoặ c
khô ng có thà nh phố nà o ở An Nam, vì chú ng ta khô ng thể gọ i đó là cá c thà nh phố - Sà i Gò n,
Hà Nộ i, Hả i Phò ng hoặ c Chợ Lớ n - vố n chỉ có tầ m quan trọ ng đố i vớ i sự hiện diện củ a ngườ i
châ u  u hoặ c Trung Hoa.
Giớ i kỹ nghệ An Nam khiêm tố n bằ ng lò ng vớ i việc trao đổ i phụ c vụ nhu cầ u địa phương
cá c sả n phẩ m tự nhiên đấ t đai; họ khô ng bao giờ mượ n nguyên liệu thô ở nướ c ngoà i. Là m
thế nà o có thể khá c đi? Ngoạ i thương khô ng tồ n tạ i[126].
Tạ i mọ i thờ i điểm, An Nam chịu ả nh hưở ng từ Trung Hoa; điều nà y đượ c bả o lưu như
mộ t lợ i nhuậ n củ a quyền bá chủ , quyền thương mạ i độ c quyền vớ i An Nam; nhưng Trung
Hoa sử dụ ng quyền nà y chủ yếu để chố ng lạ i cá c mố i quan hệ củ a ngườ i đượ c bả o hộ vớ i
cá c quố c gia khá c.
“Theo Luậ t, mỗ i lầ n mộ t con tà u ‘mang theo cố ng phẩ m’ củ a mộ t quố c gia nướ c ngoà i
cậ p cả ng, nhữ ng ngườ i đến gặ p để mua hà ng hó a nướ c ngoà i trướ c khi chính quyền cả nh
bá o và khô ng chờ đợ i nó đượ c kiểm soá t, cũ ng như nhữ ng ngườ i sẽ chịu trá ch nhiệm bá n
hoặ c mua hà ng cấ m cho ngườ i nướ c ngoà i, tấ t cả sẽ đượ c gử i đến phụ c vụ ở vù ng biên viễn”
(Điều 205).
Cũ ng trong cù ng điều luậ t nà y có cá c mụ c cấ m xuấ t khẩ u ngự a, độ ng vậ t có sừ ng, sắ t,
lụ a, v.v.
Do đó , trướ c cuộ c chinh phụ c củ a ngườ i Phá p, ả nh hưở ng củ a Trung Hoa đã đó ng cử a
tấ t cả cá c cả ng biển An Nam trướ c hoạ t độ ng xuấ t, nhậ p khẩ u.
Hơn nữ a, phả i thừ a nhậ n rằ ng ngườ i An Nam, bấ t kể là ai đi nữ a, ít có nă ng khiếu buô n
bá n, và về mặ t nà y, họ khá c biệt vớ i dâ n tộ c anh em củ a mình, ngườ i Thiên triều. Vả lạ i, sự
khá c biệt nà y khô ng là gì hơn mộ t sự thậ t hiển nhiên.
Trung Hoa, mộ t đấ t nướ c vô cù ng rộ ng lớ n, có khí hậ u khá c nhau (ở từ ng vù ng) đả m
bả o sự đa dạ ng củ a sả n phẩ m, có nhiều đườ ng thủ y và dễ lưu thô ng, đượ c tạ o thà nh bở i cấ u
hình duy nhấ t, mộ t nơi rấ t thuậ n lợ i cho giao dịch thương mạ i. Do đó , ả nh hưở ng củ a mô i
trườ ng vậ t chấ t là m phá t triển mộ t bả n nă ng con buô n nhấ t định nơi ngườ i Trung Hoa.
Ở An Nam, bố cụ c về mặ t địa lý ít thuậ n lợ i hơn. Nhữ ng châ u thổ già u có củ a Nam kỳ và
Bắ c kỳ giao lưu rấ t khó khă n vớ i nhau - mấ t gầ n mườ i ngà y giong thuyền trên biển, khiến
cho sự tá ch biệt và biển thườ ng là cá i gì đó ghê gớ m ở nhữ ng vù ng nà y. Ngoà i ra, khí hậ u
gầ n giố ng nhau ở hai khu vự c nà y nên đã là m hạ n chế tính đa dạ ng vă n hó a.
Trên đâ y là cá c lý do là m giả m cơ hộ i giao thương và hậ u quả là khô ng dù ng đượ c
nhữ ng kỹ nă ng mà ở trong nhữ ng hoà n cả nh khá c thì biết đâ u đã đượ c sử dụ ng.
Trong mọ i trườ ng hợ p, chú ng ta phả i ghi nhậ n thêm mộ t lầ n nữ a, ngườ i An Nam về cơ
bả n thiếu tính nă ng độ ng. Thú thậ t, từ cá i nhìn hướ ng và o nhữ ng gì mà chú ng tô i quan tâ m,
tình trạ ng nà y cò n chưa gâ y ra nhữ ng bấ t tiện thậ t nghiêm trọ ng. Nếu An Nam khô ng
hưở ng đượ c thịnh vượ ng kinh tế đá ng kể - dĩ nhiên, như chú ng ta thườ ng nghe thấ y, là hã y
bỏ qua sự can thiệp củ a Phá p - nếu khô ng có cá c ngà nh kỹ nghệ lớ n, ngoạ i thương phá t
triển, thì ít nhấ t là hầ u hết cư dâ n có cuộ c số ng tương đố i dễ chịu. Trong xã hộ i nà y, nơi
hiếm trườ ng hợ p có tà i sả n lớ n, chế độ khố ng chế sự sở hữ u ở quy mô nhỏ cung cấ p cho
mỗ i ngườ i nhữ ng gì cầ n thiết cho bả n thâ n; nhu cầ u già u có khô ng đượ c cả m nhậ n sâ u sắ c.
Ngườ i An Nam số ng, giố ng như ngườ i đượ c gọ i là hiền nhâ n, trong mộ t sự tầ m thườ ng vui
vẻ.
II. Ngôn ngữ, chữ viết, văn chương, kịch nghệ
“Bình thườ ng” là từ chú ng ta thườ ng sẽ phả i dù ng đến trong nghiên cứ u tâ m lý nà y.
Bình thườ ng là tinh thầ n phá t minh củ a ngườ i An Nam: bình thườ ng nơi ngà nh kỹ nghệ
xoà ng xĩnh cũ ng như ngô n ngữ củ a nó .
Ngô n ngữ An Nam, bở i đặ c điểm chung, rấ t gầ n vớ i ngô n ngữ Trung Hoa. Giố ng như
tiếng Hoa, đơn â m tiết, đa â m điệu; giố ng như tiếng Hoa, sử dụ ng nhữ ng từ bấ t biến, khô ng
chủ từ biến tố , khô ng biến cá ch hoặ c chia thì; nghĩa củ a từ thì luô n luô n cụ thể, đặ c biệt, gầ n
như khô ng bao giờ trừ u tượ ng, tổ ng quá t.
Sự tương hợ p nà y trong tinh thầ n củ a hai ngô n ngữ tạ o thà nh mộ t luậ n chứ ng bổ sung
ủ ng hộ cho sự đồ ng nhấ t về mặ t nguồ n gố c củ a hai nhó m chủ ng tộ c da và ng nà y.
Thự c vậ y, khô ng nên cho rằ ng sự hình thà nh phương ngữ An Nam hiện tạ i đượ c thự c
hiện dướ i ả nh hưở ng chuyên nhấ t và trự c tiếp củ a tiếng Hoa. Chắ c chắ n có mộ t phầ n quan
trọ ng cá c từ tiếng Hoa trong ngô n ngữ An Nam, nhưng lạ i là phầ n tồ n tạ i đã lâ u trướ c khi
ngườ i Giao Chỉ bị phụ thuộ c. Theo biên niên sử , ngườ i Giao Chỉ vố n đã có mộ t ngô n ngữ
riêng cầ n phả i đượ c dịch ra trướ c Triều đình Đế quố c[127].
Vẫ n cò n, trong ngô n ngữ An Nam hiện tạ i, có nhiều từ : tên củ a số , họ hà ng, câ y cố i, cô ng
cụ , riêng biệt cho chủ ng tộ c và khô ng thể chuyển sang ngô n ngữ Trung Hoa. Vậ y, phả i thừ a
nhậ n rằ ng chính sự tương hợ p củ a cấ u trú c tinh thầ n đã tạ o ra mộ t loạ i só ng đô i trong
nhữ ng cá ch diễn đạ t ngô n ngữ ở hai dâ n tộ c.
Ngô n ngữ An Nam, giố ng như ngô n ngữ Trung Hoa, thể hiện hầ u hết cá c khiếm khuyết
phổ biến ở cá c ngô n ngữ nguyên thủ y. Nghiêm trọ ng nhấ t trong số đó chắ c chắ n là sự thiếu
khuyết nằ m ở cá c từ đơn â m; ngườ i ta sẽ khô ng đếm, trong tiếng Hoa, đến hơn bố n tră m
nă m mươi hoặ c nă m tră m. Sự nghèo nà n về ngô n từ đã đượ c khắ c phụ c bằ ng sự đa dạ ng
củ a ngữ điệu. Cá c â m tiết giố ng nhau phá t â m trên cá c dấ u giọ ng khá c nhau có nghĩa khá c
nhau. Ở đặ c tính nà y, tiếng An Nam và tiếng Hoa gầ n giố ng cá c thổ ngữ củ a ngườ i da đen
châ u Phi. Ở Dahomey[128], tiếng “ba” đượ c nhấ n mạ nh khá c nhau có thể có nghĩa là “gậ y”, có
khi là “ngự a”, khi khá c là “sấ m sét”[129].
Bắc kỳ - Một cậu bé học viết chữ Nôm
Ở đâ y mộ t lầ n nữ a chú ng ta tìm thấ y nhượ c điểm khô ng thể chữ a đượ c mà trí tuệ Á
châ u mắ c phả i. Sự nghèo nà n củ a ngô n ngữ biểu thị sự bầ n cù ng củ a tư tưở ng; ít ý, ít lờ i; và
mộ t lầ n nữ a nhữ ng từ hiếm nà y chỉ tạ o thà nh nhữ ng mô tả rấ t khô ng hoà n hả o về cá c đố i
tượ ng mà chú ng á p cho; nghĩa củ a chú ng vẫ n cò n mơ hồ và thiếu chính xá c.
Khi đứ a trẻ, trong nghiên cứ u củ a Taine[130], mở rộ ng từ “cola” (đố i vớ i chocolat) thà nh
kẹo vớ i hương vị tương tự và từ “em bé” vớ i bú p bê hoặ c tượ ng nhỏ , và cứ tiếp tụ c tương tự
như thế, tiếng Hoa và An Nam đã nhó m và o trong cù ng mộ t â m tấ t cả ý niệm có sự giố ng
nhau nà o đó giữ a chú ng, thậ m chí xa vờ i. Và vì tâ m trí luô n tiến lên mộ t cá ch tự nhiên từ
đơn giả n đến phứ c tạ p, từ cụ thể đến trừ u tượ ng, họ đã sử dụ ng cá c thuậ t ngữ cụ thể để
diễn tả sự trừ u tượ ng: hoà ng đế = thứ nhấ t = trên = cấ p trên (Empereur = premier = au
dessus = supérieur); cặ p = mặ t đố i mặ t = đố i diện = trả lờ i (paire = vis-à-vis = mettre en face
= répondre). Tương tự , trong tiếng An Nam, đạ i từ nhâ n xưng chỉ là biểu đạ t phẩ m cấ p củ a
ngườ i đượ c gọ i; từ nà y khô ng như trong cá c ngô n ngữ châ u  u chú ng ta, mộ t hình dung từ
trừ u tượ ng; ngượ c lạ i, nó vẫ n là mộ t tên gọ i cụ thể dà nh cho mộ t cá nhâ n nà o đó . “Tô i” - je,
moi - nghĩa là ngườ i hầ u, và chỉ đượ c dù ng bở i nhữ ng ngườ i có cấ p bậ c thấ p. “Tao” - je, moi -
đố i vớ i cấ p trên, có nghĩa là “chủ nhâ n”. “Ô ng”, “anh” - vous - đó nghĩa là “ngà i”, “ô ng nộ i”,
“anh cả ”. “Em” - lui - “em trai”. Cá c từ dầ n mấ t đi nghĩa sơ khai và cù ng vớ i đó là tính chính
xá c nguyên thủ y củ a chú ng, chú ng sẽ sớ m chỉ là nhữ ng thuậ t ngữ mơ hồ vớ i nộ i hà m ngà y
cà ng rộ ng và khô ng có giớ i hạ n cố định nà o.
Thêm nữ a, sự mượ n dạ ng lưng chừ ng củ a từ ngữ vố n đã đơn â m có thể trở nên khó
nhậ n dạ ng bở i cá c phép biến đổ i mớ i. Để bù đắ p cho sự thiếu hụ t ngô n ngữ , phả i nắ m tấ t cả
cá ch sử dụ ng, sắ p xếp xen kẽ danh từ , tính từ , đạ i từ hoặ c độ ng từ , tù y theo vị trí củ a từ
trong câ u, chứ khô ng cò n có diện mạ o riêng lẫ n tính cá ch xá c định. Chữ đã trở thà nh biểu
tượ ng; từ bấ y giờ nó là ẩ n ngữ [131].
Xu hướ ng biểu tượ ng cườ ng điệu nà y là tự nhiên đố i vớ i tinh thầ n Á châ u cũ ng như lý
luậ n và phâ n tích là tự nhiên đố i vớ i tinh thẩ n  u châ u.
Chính phép ẩ n dụ và so sá nh đó ng vai trò tiên quyết trong việc hình thà nh cá c từ tiếng
Hoa và tiếng An Nam; đượ c tạ o thà nh khô ng phả i trên lý lẽ mà trên ví dụ , chú ng trở thà nh
mộ t ngô n ngữ tuyệt đố i quy nạ p, trong đó khô ng thể đặ t ra vấ n đề phâ n định danh từ , tính
từ , đạ i từ hoặ c độ ng từ . Ngữ phá p khô ng tổ n tạ i. Cú phá p phả i đả m nhậ n luô n vai trò củ a
ngữ phá p[132].
Cá c từ đều tồ n tạ i ở dạ ng “cụ m từ ” (mots-phrases), trong đó ý tưở ng chính đượ c nêu ra,
cá c ý tưở ng phụ chỉ là ngụ ý. Tấ t cả cá c mố i tương quan, tấ t cả cá c từ đệm thêm và o là m rõ
rà ng sự diễn tả , là m mềm mạ i và mạ nh mẽ, đều bị chố i bỏ như thể là vô dụ ng. Ngô n ngữ sau
đó có thể đạ t đến mộ t sự sú c tích riêng biệt, nhưng cũ ng khó hiểu [133]. Humboldt viết, “khô ng
để ý nhiều đến bả n chấ t ngô n ngữ cho phép, nhữ ng nét chữ và sắ c thá i diễn tả thêm và o suy
nghĩ, đưa ra nhữ ng ý tưở ng và nghệ thuậ t bao gồ m việc sắ p xếp ngay lú c đó chữ nà y bên
cạ nh chữ khá c để sự tương hợ p và đố i lậ p củ a nó khô ng chỉ đượ c cả m thấ y và nhậ n biết,
nhưng họ đá nh và o tâ m trí bằ ng mộ t lự c mớ i, đẩ y nó theo đuổ i và thuậ n theo hiện tạ i cho
nhữ ng mố i quan hệ tương hỗ . Từ đó sinh ra mộ t thú vui rõ rà ng độ c lậ p vớ i chính nền tả ng
lý luậ n và có thể đượ c gọ i là trí tuệ vì nó chỉ phụ thuộ c và o hình thứ c và trậ t tự củ a ý
tưở ng[134].”
Ngô n ngữ biểu tượ ng nà y khô ng khá c gì mộ t trò trí tuệ đơn giả n mà chữ viết biểu ý sẽ
là m cho tinh tế và thậ m chí vô ích hơn.
Tiếng Hoa và An Nam khô ng có bả ng chữ cá i: mộ t phá t minh như vậ y tấ t nhiên phả i cầ n
đến tư duy phâ n tích. Thự c tế, nó đò i hỏ i mộ t lượ ng đá ng kể nă ng lự c nhậ n xét để phâ n biệt,
trong việc phá t ra giọ ng nó i, cá c nguyên â m và phụ â m, nghĩa là â m thanh và tiếng ồ n.
Ngườ i da và ng khô ng có khả nă ng là m như vậ y.
Chữ viết củ a họ , giố ng như ngô n ngữ củ a họ , vẫ n cò n ở mứ c tổ ng hợ p; dấ u hiệu thể hiện
cù ng lú c cả â m tiết và ý tưở ng; chữ tượ ng hình trộ n lẫ n â m thanh và hình ả nh, như nó trộ n
lẫ n ý nghĩ vớ i biểu tượ ng cụ thể củ a nó .
Sự trừ u tượ ng, để đượ c tâ m trí mê muộ i củ a họ nắ m bắ t, phả i thể hiện ở dạ ng thứ c cả m,
thự c tế, có thể sờ thấ y, nó i bằ ng mắ t nhiều hơn là trí tuệ. Khi muố n dịch ý tưở ng về “ngà y”,
ngườ i ta đã ghép cá c chữ chỉ mặ t tră ng và mặ t trờ i; chính là thô ng qua cá c nét đặ c điểm củ a
“nhâ n” (con ngườ i) mà ý tưở ng “con ngườ i” đượ c thể hiện.
Sự tổ ng hợ p ấ u trĩ nà y, đượ c sinh ra bở i mộ t trí tuệ thô sơ, đã hình thà nh nên mộ t kiểu
chữ viết sơ khai và tạ o ra ở ngườ i châ u Á mộ t số thó i quen tư duy tai hạ i. Hệ thố ng biểu ý
tạ o cho họ kiểu cá ch bộ c lộ ý nghĩ dướ i dạ ng cả m giá c, cứ ng ngắ c, tâ m trí củ a họ tá i tạ o hình
ả nh chứ khô ng phả i là suy tưở ng hoặ c sá ng tạ o thậ t sự . “Hình ả nh tinh thầ n”, như đô i khi
ngườ i ta gọ i tính nă ng cồ ng kềnh nà y, hơn thế nữ a, là đặ c trưng củ a tâ m trí khô ng cao, giả n
tiện[135]. Sự phá t triển bấ t thườ ng củ a trí nhớ thị giá c và trí tưở ng tượ ng có đượ c từ việc họ c
chữ Há n đã ngă n cả n sự phá t triển hoà n chỉnh củ a cá c nă ng lự c trí tuệ khá c. Thay vì giả i
thoá t khỏ i dạ ng trự c quan để đạ t đến ý tưở ng thuầ n tú y, tư tưở ng thu lạ i trong phạ m vi ký
tự biểu ý, teo lạ i, hao mò n. Trí nhớ đã truấ t ngô i trí thô ng minh, chữ viết đó ng bă ng tư
tưở ng.
Vă n chương nà o đã xuấ t phá t từ tấ t cả điều nà y? Chú ng tô i đang cố hình dung. Ở đâ y tô i
khô ng nó i vă n chương An Nam khô ng tồ n tạ i để ta có thể đề cậ p. Mà nó i, ngườ i An Nam cả m
thấ y hà i lò ng vớ i kinh điển Trung Hoa, phầ n lớ n đủ cho nhu cầ u trí tuệ củ a họ .
Nhưng vă n chương Trung Hoa, cá i đã định hình tinh thầ n An Nam, đã bị tiêm nhiễm và
đó ng khung nó ở dạ ng bấ t biến, nó là gì? Chính xá c là gì?
Nó rộ ng lớ n, khô ng nghi ngờ gì; số lượ ng cá c tá c phẩ m củ a nó là phi thườ ng; nhưng giá
trị thì mỏ ng manh, giố ng như tâ m trí khô ng rộ ng lớ n. Khéo léo loạ i bỏ thiên tà i; kỹ nă ng, kỹ
xả o, sự xả o trá củ a cá c con chữ là m chết cả m hứ ng.
Tấ t cả mọ i thứ đều xoay quanh thư phá p, chơi chữ và điêu luyện. “Bấ t cứ khi nà o mộ t
anh thư lấ p đầ y khuô ng vớ i nhữ ng đuô i vầ n và cho mộ t nghĩa vớ i cá c từ ‘lien’, ‘pien’, ‘tien’,
nó kết thú c câ u thơ, hoà ng đế và triều đình choá ng ngườ i phấ n khích. Họ thét lên vì sung
sướ ng. Đả o chữ , thơ chữ đầ u, thơ nố i kết, thơ đố i và thơ ‘nghịch đả o’ đượ c đặ c biệt coi
trọ ng; cá c ngó n nghề kỹ xả o củ a nhữ ng kẻ điên rồ phù phiếm mà châ u  u đã tố ng khứ khỏ i
vă n chương như trò trẻ, ngâ y ngô và khô ng xứ ng vớ i nhữ ng ngườ i nghiêm tú c.”[136]
Trong khuô n khổ bó chặ t, trong nhà tù ngộ t ngạ t, tinh thầ n An Nam sầ u thả m lay lắ t,
thiếu sứ c số ng. Tấ t cả sự già u có vă n chương chứ a trong mộ t và i bà i thơ hiếm hoi, đô i khi
thể hiện mộ t sự u sầ u nhấ t định, nhưng luô n bị quy định bở i nhu cầ u bả n nă ng củ a thuyết vị
lợ i là m cho nhữ ng tá c phẩ m hay nhấ t trở thà nh mộ t bà i giả ng lạ nh lù ng về đạ o đứ c hoặ c
mộ t luậ n vă n triết họ c nhà m chá n.
Truyện thơ nổ i tiếng nhấ t trong số nà y là Lục Vân Tiên. Câ u chuyện kể về mộ t anh hù ng
nhâ n dâ n có nhâ n cá ch cao thượ ng. Nhờ có phẩ m chấ t đạ o đứ c cao cả , anh đã thà nh cô ng
vượ t qua mọ i khó khă n, chinh phụ c mọ i trở ngạ i và đạ t đến vương quyền.[137]
Bú t phá p kịch nghệ nó i chung rấ t tầ m thườ ng, thêm và o đó nó thể hiện việc bắ t chướ c
Trung Hoa rõ rệt. Ô ng A. Landes nó i[138], “đố i vớ i ngườ i An Nam cũ ng như đố i vớ i mẫ u hình
củ a họ , khô ng có bú t phá p đẹp nà o mà khô ng kèm vớ i mơ hồ . Do đó , nhữ ng ẩ n dụ chiếm
mộ t vị trí quan trọ ng, và ngườ i ta khô ng thể ả o tưở ng nắ m hết mọ i điều trong cá c chữ nghĩa
nà y, vì đô i khi chú ng hò a lẫ n mộ t cá ch tự nhiên trong đó .”[139]
Thể loạ i, bở i sự sú c tích, có vẻ phù hợ p nhấ t vớ i thiên khiếu ngô n ngữ củ a họ , hơn nữ a
đó cò n là loạ i đã cà o bằ ng thiên hướ ng tự nhiên ở ngườ i An Nam để “tố i đa hó a” hà nh vi và
tình yêu củ a họ bằ ng cá c khuô n khổ định sẵ n ban phá t cho suy nghĩ và mong muố n: đó là
tụ c ngữ . Nhữ ng câ u tụ c ngữ xuấ t hiện rấ t nhiều ở An Nam, chú ng ở nơi cử a miệng, đượ c
treo trên cử a và tườ ng nhà .[140]
Mộ t thể loạ i khá c cũ ng rấ t phổ biến là ca dao; tuy nhiên, giá trị củ a loạ i nà y rấ t kém,
dạ ng thứ c cá c bà i há t luô n khá thô .
Kịch nghệ ở An Nam xuấ t hiện khá là gầ n đầ y, hầ u như du nhậ p nhờ ngườ i Trung Hoa;
phả i nhắ c lạ i là rấ t khá c xa sâ n khấ u châ u  u củ a chú ng ta. Nó vẫ n cò n trong giai đoạ n sơ
khai khi mú a vũ bộ điệu, â m nhạ c và thơ ca vẫ n cò n lẫ n lộ n.
Vì vậ y, chú ng ta khô ng mong thấ y đượ c trong cá c vở kịch củ a sâ n khấ u An Nam hoặ c
Trung Hoa nhữ ng hà nh độ ng liên tụ c, khéo léo xâ u chuỗ i; cò n ít phâ n tích tính cá ch hoặ c
nghiên cứ u tậ p tụ c. Thô ng thườ ng, khô ng có tổ ng phổ kịch, thiếu nhữ ng cả nh mạ ch lạ c nố i
tiếp nhau bở i cá c trích đoạ n dà i về đạ o đứ c hoặ c triết họ c, giữ a cá c tiếng hét loạ n đả và cá c
bà i há t. Nhữ ng cả nh nà y đô i khi theo mộ t chủ nghĩa tự nhiên hoà n toà n; ngượ c lạ i lú c khá c,
họ đạ t đến sự phó ng tú ng điên rồ nhấ t: hiện hình thầ n diệu, hồ n ma, thă ng biến huyền bí,
đó là nhữ ng cá ch thô ng thườ ng đượ c cá c tá c giả kịch dù ng đến.
Bắc kỳ, Hà Nội - Các diễn viên kịch. © P. Dieulehls, ảnh xuất bản năm 1892
Ngườ i ta thấ y xuấ t hiện ở đó sở thích tự nhiên củ a ngườ i An Nam nở rộ hoà n toà n, phi
thự c tế và ướ c lệ. Chính kịch An Nam, giố ng như chính kịch Trung Hoa, tuồ ng thiên về thầ n
tiên hơn là chính kịch. Maurice Courant nó i, “ngườ i châ u  u chỉ có thể thấ y sự chuyển đổ i
cả m xú c củ a con ngườ i trong mộ t â m điệu mớ i lạ ... Mũ và á o giá p và ng, nhữ ng chiếc lô ng dà i
lắ c lư trên đầ u củ a cá c chiến binh, tua viển ngọ c trai trên trá n củ a phụ nữ , khuô n mặ t củ a
mộ t số diễn viên đượ c vẽ và hó a trang mộ t cá ch tuyệt vờ i, quầ n á o sá ng bó ng và lạ thườ ng,
lú c chậ m rã i, lú c vộ i vã , khô ng bao giờ tự nhiên, â m lượ ng vớ i tô ng rấ t cao hoặ c rấ t thấ p,
nhữ ng giai điệu đượ c há t vớ i giọ ng kim sắ c nét, â m nhạ c cuồ ng nộ khô ng ngừ ng, tấ t cả bộ
má y quy ướ c nà y có mộ t hình ả nh kỳ lạ và tuyệt vờ i.”[141]
III. Nghệ thuật và khoa học
Hầ u hết cá c nỗ lự c nghệ thuậ t củ a ngườ i An Nam vẫ n cò n thấ p kém, rấ t ít trườ ng hợ p
hoà n toà n thoá t khỏ i cá c hình thứ c sơ khai. Sự hoà n hả o củ a giá c quan, sự nhạ y cả m cự c độ
là nhữ ng phẩ m chấ t cẩ n thiết cho mọ i nghệ sĩ; đó chính xá c là nhữ ng điều thiếu ở ngườ i Á
nó i chung. Thiếu thă ng hoa cả m xú c và kém tưở ng tượ ng sá ng tạ o có thể thấ y trong tấ t cả
biểu hiện nghệ thuậ t An Nam hoặ c Trung Hoa.
Gầ n như tấ t cả ngườ i An Nam đều biết chơi mộ t nhạ c cụ nà o đó , nếu anh ta khô ng phả i
là mộ t anh lá i đò nghèo hay mộ t nô ng dâ n chấ t phá c, chỉ cầ n sở hữ u mộ t câ y vĩ cầ m hay sá o
là anh ta đã biết tạ o ra thanh â m là m mê say nhữ ng lú c giả i trí. Nhưng sở thích số ng độ ng
nà y chưa bao giờ đượ c hoà n thiện, vì vậ y khô ng thể nó i rằ ng họ tạ o ra, nó i cho đú ng, nhữ ng
kiệt tá c.
Tá c phẩ m củ a cá c nhà soạ n nhạ c An Nam chỉ là mộ t và i bà i há t bình dâ n, khô ng phả i
khô ng lô i cuố n, đó là sự thậ t, nhưng điệu thứ c củ a nó , khô ng ngừ ng lặ p đi lặ p lạ i, thườ ng
khô ng phong phú . Â m nhạ c vẫ n có vai trò trong cá c buổ i biểu diễn kịch, nhưng nó hay lẫ n
vớ i â m thanh và khô ng giố ng vớ i nghệ thuậ t mà chú ng ta biết ở châ u  u.
Khô ng như â m nhạ c, kiến trú c, điêu khắ c và hộ i họ a thự c sự có phá t triển.
Tá c phẩ m điêu khắ c chỉ tồ n tạ i và i họ a tiết trang trí, luô n giố ng nhau, sao chép thà nh
nhà m chá n, truyền từ thế hệ nà y sang thế hệ khá c, khô ng có nghĩa cò n nguyên bả n, đượ c
mượ n từ Trung Hoa hoặ c Nhậ t Bả n. Vẫ n cò n nhiều vị Phậ t hoặ c cá c thầ n linh, bằ ng gỗ , đá
hoặ c đồ ng, ít nhiều tá i tạ o hoà n hả o củ a hai hoặ c ba nguyên mẫ u bấ t biến, mộ t mình đạ i
diện cho hầ u hết bứ c tượ ng củ a ngườ i An Nam.
Bao nhiêu con rồ ng quá i dị, chủ đề trang trí xuấ t sắ c ở Viễn Đô ng, cho thấ y sự mềm dẻo
đá ng kinh ngạ c trong cá c nếp gấ p và đườ ng lượ n só ng ma mị, chừ ng ấ y cá c nhâ n vậ t theo
phong cá ch củ a nhà điêu khắ c, bà y ra, trong tư thế củ a chú ng, sự cứ ng nhắ c kém tự nhiên,
nặ ng nề thiếu thanh thoá t.
Ở đâ y chú ng ta lạ i thấ y sự bấ t lự c trong trí tưở ng tượ ng củ a ngườ i An Nam ở giớ i hạ n
thự c tế, ở việc nhậ n rõ nó giữ a ả o ả nh và ướ c lệ. Nặ ng thêm bở i khiếm khuyết trí tuệ nà y, sự
ấ u trĩ thiếu hoà n hả o trong kỹ thuậ t tạ o ra nhữ ng hình tượ ng dang dở , dị dạ ng.
Trong nghệ thuậ t An Nam, vă n chương hoặ c nghệ thuậ t tạ o hình, khô ng có trung gian
giữ a chủ nghĩa hiện thự c thô sơ và chủ nghĩa lý tưở ng điên cuồ ng nhấ t. Ngườ i nghệ sĩ muố n
sao chép thì tự nhiên bắ t chướ c mù quá ng, tá i tạ o mộ t cá ch vô tình vẻ đẹp và sự xấ u xí củ a
nó , tiếp cậ n sá t nhấ t vớ i châ n lý hoặ c cá i mà họ tin là châ n lý, vớ i sự giố ng nhau, chính xá c
đến từ ng chi tiết. Nhưng ngay khi họ từ bỏ khuô n mẫ u củ a mình, họ dấ n thâ n đắ m mình và o
xu hướ ng tượ ng trưng đồ ng bó ng nhấ t. Họ khô ng bao giờ biết cá ch tạ o ra sự thỏ a hiệp giữ a
thiên nhiên và lý tưở ng, cá i mớ i thự c sự là nghệ thuậ t.
Cá i nhu cầ u đố i vớ i sự chính xá c nà y, bao gồ m việc tưở ng tượ ng cá c vậ t thể đú ng như
chú ng hiện hữ u, đạ i diện cho chú ng hoà n toà n, trong tấ t cả dá ng vẻ cù ng mộ t lú c, trong mộ t
từ , sự bấ t lự c trong việc tự giả i thoá t khỏ i thự c tế vậ t chấ t, trong số nhữ ng hiệu ứ ng khá c,
dừ ng lạ i gầ n như hoà n toà n sự phá t triển củ a nghệ thuậ t họ a hình. Họ a sĩ An Nam khô ng
bao giờ có bấ t kỳ khá i niệm nà o về phố i cả nh. Tấ t cả cá c vậ t hiện lên y hệt nhau khi nhìn từ
cù ng mộ t gó c, cù ng mộ t á nh sá ng, vớ i cù ng bề nổ i, ở cù ng mộ t khoả ng cá ch, trên cù ng mộ t
mặ t phẳ ng. Kết quả là mộ t sự phi thự c hiếm có , tuy nhiên lạ i đỡ chỏ i vớ i kiểu đầ u ó c Á châ u
hơn là nhữ ng biến dạ ng theo sự thay đổ i gó c độ mà cá c vậ t thể phả i chịu dướ i hiệu ứ ng phố i
cả nh củ a chú ng ta (ngườ i châ u  u).
Làm tranh ở An Nam.
Họ a sĩ cũ ng khô ng biết là m thế nà o để phố i mà u theo cá c sắ c độ khá c nhau để tạ o khố i
lậ p thể, sự tương quan giữ a mà u sắ c, cá c thiết kế bố cụ c khá c nhau; họ bỏ qua nghệ thuậ t
phố i hợ p mà u sắ c hà i hò a tinh tế; họ thích nhữ ng tô ng mà u nhạ t và rự c rỡ , nhữ ng sự đố i lậ p
dữ dộ i.
Kiến trú c cũ ng ít tiến bộ . Điều nà y dễ hiểu ở mộ t đấ t nướ c mà hầ u hết cá c ngô i nhà vẫ n
đượ c xâ y dự ng bằ ng tre. Chỉ có nhữ ng ngô i đền và cung điện đượ c xâ y dự ng bằ ng gạ ch. Hơn
nữ a, họ tá i tạ o, trong đườ ng lố i chung, dạ ng ngô i nhà má i lá , khô ng có trầ n, cử a sổ và
thườ ng khô ng có tầ ng lầ u.
Đồ ng nhấ t là quy tắ c; ai nhìn thấ y mộ t ngô i chù a An Nam xem như đã thấ y tấ t cả ; hoà ng
cung tự nó khô ng khá c vớ i mô hình chung. Tuy nhiên sự đơn điệu nà y đô i khi đượ c sử a
chữ a bở i sự phong phú củ a cá c trang trí bên ngoà i; má i nhà và mặ t tiền đượ c trang trí bằ ng
thạ ch cao hoặ c bằ ng đá , và cá c cộ t chố ng bằ ng gỗ đô i khi đượ c chạ m khắ c khéo léo.
Mộ t ngà nh nghệ thuậ t hưng thịnh ở An Nam và i thế kỷ trướ c là đồ đồ ng, có lẽ đượ c du
nhậ p từ Trung Hoa. Ngườ i An Nam sớ m cho thấ y mình là nhữ ng ngườ i sá ng tạ o rấ t khéo
léo; lư hương, bình lễ, nhữ ng chiếc chuô ng đượ c chạ m khắ c tinh xả o, nhữ ng tượ ng Phậ t
khổ ng lồ vẫ n đượ c tìm thấ y ngà y nay ở chù a, cho thấ y sự hoà n hả o tương đố i mà nghệ thuậ t
nà y đạ t đượ c, song ngà y nay đã gầ n như biến mấ t. Đương thờ i hiếm thấ y đượ c cá c lư
hương hay cá c phá p khí bằ ng đồ ng khá c, dù khô ng hoà n hả o, để nhớ lạ i ngà nh kỹ nghệ
tuyệt chủ ng nà y.
Gố m sứ cũ ng mộ t thờ i rạ ng danh ở đấ t nướ c An Nam. “Men Lam” củ a Huế và “gố m men
rạ n” củ a nó vẫ n nổ i tiếng, cũ ng như nhữ ng tranh vẽ men sứ .
Nhưng trong tấ t cả cá c ngà nh kỹ nghệ nghệ thuậ t, ngà y nay chỉ cò n lạ i ký ứ c. Hầ u như
luô n đượ c sinh ra dướ i ả nh hưở ng nướ c ngoà i, nghệ thuậ t Đô ng Dương, ngay khi trở thà nh
củ a chính họ , liền tà n lụ i hoặ c biến mấ t hoà n toà n.
Lăng mộ Thoại Ngọc Hầu ở Châu Đốc.
Để đượ c hoà n thiện, hã y nó i thêm rằ ng ngườ i An Nam cò n biết đến nghệ thuậ t sơn mà i,
khả m xà cừ , bên cạ nh đó , họ cò n là nhữ ng thợ thêu tỉ mỉ, thợ kim hoà n kiên nhẫ n và khéo
léo; nhưng thêm nữ a, trong mọ i thứ họ luô n thể hiện cù ng mộ t thó i quen, cù ng mộ t sự lườ i
biếng, cù ng mộ t thiếu só t. Sự thờ ơ, khô ng có sá ng kiến, khô ng có tinh thầ n sá ng chế, họ
chưa bao giờ là ngườ i sá ng tạ o. Họ có thể là m đượ c dướ i mộ t sự chỉ dẫ n thô ng minh để biết
cá ch bắ t chướ c sao cho gầ n như hoà n hả o. Họ có tà i nă ng nhấ t định, nhưng khô ng bao giờ là
thiên tà i.
Cuố i cù ng chú ng ta sẽ nó i gì về sự phá t triển khoa họ c ở ngườ i An Nam? Liệu chú ng ta
có thể dù ng danh xưng khoa họ c cho nhữ ng trò lừ a đả o khô ng? Nhữ ng mà n chiêm tinh họ c,
thuậ t gọ i hồ n hay y thuậ t phù thủ y? Nhữ ng thứ có thể gọ i cá ch khá c là chuyện hoang đườ ng
hay điều ngụ y tạ o, khi nhữ ng tuyển tậ p truyền thuyết trở thà nh lịch sử hoặ c mộ t mớ điều
mê tín dị đoan nhưng lạ i trở thà nh lờ i giả i thích cho thế giớ i tự nhiên? Ngườ i An Nam thì
phả i chấ p nhậ n, họ yêu thích nghiên cứ u và nghiên cứ u lâ u dà i; đó là cô ng việc kiên nhẫ n và
tỉ mỉ nhưng khuyết đi ý thứ c phê phá n, thiếu đi trí tưở ng tượ ng sá ng tạ o và tinh thầ n khoa
họ c. Đố i vớ i họ , trí nhớ là tấ t cả trí thô ng minh; khoa họ c chỉ là uyên bá c, triết họ c chỉ là thể
thứ c.
Và o nă m 1875, tá c giả củ a mộ t Tổng quan về các tập tục và phong tục của vương quốc An
Nam đã viết rằ ng: “Có Nho sĩ và quan chứ c thậ m chí cò n khô ng biết Thiên triều ở đâ u. Họ
tính có mườ i tá m vương quố c trên khắ p mặ t đấ t, và phầ n cò n lạ i là sà o huyệt củ a cườ ng
đạ o và hả i tặ c. Bấ y giờ , mườ i tá m vương quố c nà y là mườ i tá m tỉnh củ a Đế quố c, mà họ có
biết ít nhiều lịch sử nhưng khô ng quan tâ m đến vị trí tương ứ ng... Đố i vớ i lịch sử củ a đấ t
nướ c họ , thuầ n là truyền thố ng; khô ng có chứ ng tích vă n bả n...” Cò n trong biên niên sử thì
có đoạ n: “Đố i vớ i phá p luậ t họ c, có mườ i hai tậ p luậ t củ a Trung Hoa, ngườ i ta khô ng biết
bình luậ n về nó ; ngườ i dâ n khô ng đượ c phép tiếp cậ n và cá c quan lạ i hiếm khi đọ c chú ng.”
Trở lạ i vớ i tá c giả ở trên: “Nho gia, trên thự c tế, khô ng biết về cá c định luậ t nhiều hơn là
trẻ em, cá c nghệ nhâ n và nhữ ng ngườ i lao độ ng củ a đấ t nướ c ô ng. Ô ng thấ y trong cá c kinh
sá ch nó i rằ ng có mộ t chấ t lỏ ng tố i cao; có hai yếu tố ‘Â m’ và ‘Dương’, mộ t là hoạ t độ ng và
sứ c mạ nh, cá i cò n lạ i là sự yên tĩnh, yếu đuố i và trơ ỳ, rằ ng hai yếu tố hợ p nhấ t vớ i nhau đã
tạ o ra vạ n vậ t, thô ng thườ ng nó biến thà nh nă m yếu tố : thủy, hỏa, mộc, kim, thổ (nướ c, lử a,
gỗ , kim loạ i và đấ t), và đó cũ ng chính là nă m hà nh tinh; rằ ng có ba loạ i quan hệ biểu thị trậ t
tự xã hộ i (tam cương) và ba thiên thể vĩ đạ i: mặ t trờ i, mặ t tră ng và trá i đấ t; có bố n phương
và bố n mù a; ngũ thườ ng: nă m hà nh vi (ứ ng vớ i nă m loạ i quan hệ vớ i nă m đố i tượ ng): củ a
nhà vua, thầ n dâ n, chồ ng và cha mẹ, anh lớ n và em nhỏ , bạ n bè; rằ ng có sá u mạ ch chính và
sá u khoả ng thờ i gian (lục giáp); bả y “hợp” hoặ c hò a hợ p: đô ng, tâ y, bắ c, nam, trên, dướ i,
giữ a; tá m đơn vị â m lịch; chín trậ t củ a phẩ m tướ c (cửu phẩm), mườ i tá m vương quố c và hai
mươi tá m chò m sao; bên cạ nh đó , ô ng tìm thấ y mộ t số châ m ngô n thô ng thá i và trậ t tự
đú ng cho mộ t xã hộ i; chỉ vậ y thô i.”
Chú ng ta đã nó i rằ ng từ đâ u mà phầ n nà o sinh ra sự thấ p kém củ a nghệ thuậ t và khoa
họ c An Nam: mộ t sự thấ p kém tương ứ ng vớ i tâ m trí, mộ t khiếm khuyết trí tuệ cơ bả n.
Nhưng nguyên nhâ n nà y khô ng mộ t mình nó tạ o nên tá c độ ng. Nó đượ c hỗ trợ bở i mộ t
ả nh hưở ng toà n nă ng, là tô n giá o. Chú ng ta có thể nó i mộ t cá ch hợ p tình hợ p lý rằ ng chính
tô n giá o đã tạ o ra nghệ thuậ t An Nam, đã truyền cả m hứ ng cho cá c họ a sĩ, nhà điêu khắ c,
kiến trú c sư... Nhưng chú ng ta cũ ng phả i cô ng nhậ n rằ ng nó đã gó p phầ n lớ n và o việc chấ m
dứ t sự phá t triển nghệ thuậ t và khoa họ c, cả ở Trung Hoa và An Nam.
Bắc kỳ, Hà Nội - Thợ mộc và thợ điêu khắc. © P. Dieuletfls, xuất bản năm 1892
Nghệ thuậ t, ở ngườ i da và ng, ban đầ u, và phầ n lớ n, chỉ là mộ t biểu hiện đặ c biệt củ a tình
cả m tô n giá o, mộ t sự tô n kính đượ c thể hiện thà nh thầ n thá nh. Đó là bở i vì điều nà y, ngay
từ đầ u, đã tuâ n theo cá c quy tắ c hạ n hẹp và nghi thứ c bấ t di bấ t dịch. Bả n tính rõ rà ng
thiêng liêng củ a nó độ c chiếm tấ t cả tự do, toà n bộ cả m hứ ng cá nhâ n. Ban đầ u, mộ t phong
cá ch ướ c lệ, mộ t chủ nghĩa biểu tượ ng cố chấ p, á p đặ t lên cá c nghệ sĩ, buộ c họ phả i liên tụ c
lặ p lạ i cù ng mộ t chủ đề, cù ng mộ t hình dạ ng độ ng vậ t linh thiêng, phượ ng hoà ng, rù a, rồ ng
hoặ c kỳ lâ n; vă n tự biểu ý củ a chữ viết cổ Trung Hoa; má i nhà đình uố n cong để xua đuổ i
nhữ ng thầ n linh xấ u.
Tinh thầ n tư biện cũ ng bị chặ n ngay khi nó bắ t đầ u khở i sắ c; đạ t đến mộ t mứ c độ
trưở ng thà nh nhấ t định, ở giai đoạ n khở i thủ y nơi khoa họ c và tô n giá o, lý luậ n khoa họ c và
niềm tin mê tín là mộ t, nó độ t nhiên ngừ ng tự hoà n thiện. Cá c nghi thứ c nhố t họ và o mộ t cá i
lướ i bó chặ t củ a cá c quy định nghiêm ngặ t. Khoa họ c và nghệ thuậ t có nguồ n gố c thầ n
thá nh, vậ y thì đến phiên nó vì đã trở thà nh thá nh thiêng nên có thể sử a đổ i chú ng, là m cho
chú ng tiến bộ .
Đó là sự khả i hoà n nguy hạ i củ a truyền thố ng đố i vớ i lý trí, củ a tô n giá o đố i vớ i khoa
họ c, củ a khuô n phép đố i vớ i tự do tư tưở ng.
IV. Giáo huấn và giáo dục
Chiến thắ ng nà y là tai họ a cho tinh thầ n châ u Á . Đượ c truyền bá bở i giá o dụ c, cả m giá c
tô n kính quá khứ đã thâ m nhậ p sâ u và o tâ m hồ n, cho họ mộ t định hướ ng chết ngườ i, nhấ n
chìm họ và o mộ t sự trơ ỳ khô ng thể đả o ngượ c, và o mộ t mê đắ m khô ng sao cưỡ ng đượ c.
Bở i mộ t sự phả n tự nhiên, sự bấ t hoạ t là m tê liệt tâ m trí, và cò n hạ n chế phá t triển nă ng
lự c tinh thầ n vố n đã bị giớ i hạ n bở i sự thiếu hụ t củ a ngô n ngữ và sự khô ng hoà n hả o củ a
chữ viết.
Ở An Nam, họ c vấ n tính trên việc mộ t ngườ i nắ m bắ t đượ c bao nhiêu chữ biểu ý có thể
và biết đượ c bao nhiêu châ m ngô n hay mẫ u câ u mượ n từ cá c tá c giả cổ đạ i, theo tương
quan tỷ lệ thuậ n. Nếu hình dung đượ c rằ ng để biết phép viết, mộ t ngườ i phả i biết ít nhấ t
chín hoặ c mườ i nghìn ký tự , vớ i tổ ng số cá c nét lên đến hơn bố n mươi nghìn[142] (mộ t thá ch
thứ c vớ i đa số ngườ i), đô i khi có nhữ ng ký tự có đến mườ i sá u hoặ c mườ i tá m nét, thì
chú ng ta mớ i có thể biết đượ c sự khó khă n mà ngườ i An Nam gặ p phả i trong việc định hình
suy nghĩ, giao tiếp và truyền đạ t cho ngườ i xung quanh.
Hơn nữ a, nếu nghĩ rằ ng phong cá ch đẹp đẽ nằ m trong việc sử dụ ng chuyên nhấ t và tấ t
yếu củ a cá c từ , ngữ điệu và cá ch diễn đạ t trích từ kinh điển xưa, chú ng ta mớ i có thể nhậ n
ra sự bấ t khả thi củ a việc ngườ i Nho sĩ thấ y mình đạ t đến nét độ c đá o hoặ c chỉ là chính xá c.
Hầ u như khô ng thể dịch cá c tá c phẩ m triết họ c hoặ c khoa họ c củ a chú ng ta sang tiếng
An Nam hoặ c tiếng Trung Hoa; mộ t ý tưở ng trừ u tượ ng như vậ y, mộ t từ mớ i và chưa biết,
sẽ buộ c phả i dù ng đến lố i nó i vò ng vo và cá c cụ m từ là m cho vă n phong trở nên nặ ng nề,
là m tổ n hạ i đến sự tườ ng minh và có thể đến cả nộ i hà m chung củ a vă n bả n.
Do đó , số lượ ng ngườ i đượ c giá o dụ c bị hạ n chế ở An Nam và bả n thâ n nền họ c vấ n xứ
nà y vẫ n cò n thô sơ. Đâ y chắ c chắ n là mộ t trong nhữ ng nguyên nhâ n thiết yếu là m cho vă n
minh An Nam và Trung Hoa chữ ng lạ i. Thự c tế, là m thế nà o cá c ý tưở ng cơ bả n có thể đượ c
thả o luậ n và do đó đượ c đổ i mớ i thườ ng xuyên, ở mộ t xứ sở mà ngườ i biết chữ chiếm mộ t
thiểu số nhỏ bé? Ở An Nam, cá c ý tưở ng thâ m nhậ p khó khă n và o đạ i chú ng. Nếu, nó i mộ t
cá ch tổ ng quá t, ngườ i An Nam biết đọ c và viết, ít nữ a, họ chỉ biết nhữ ng từ thiết yếu cho
nghề nghiệp hoặ c nhu cầ u củ a mình: phầ n cò n lạ i dử ng dưng hoặ c khô ng thể tiếp cậ n đượ c.
Cũ ng hầ u như khô ng có vă n họ c viết; ít sá ch vở , khô ng bá o chí; phá t triển trí tuệ gầ n bằ ng
khô ng, tiến bộ là bấ t khả thi, tấ t cả đứ ng yên bấ t di bấ t dịch.
Bỏ bê việc cố gắ ng khắ c phụ c tình trạ ng nà y, ngườ i Trung Hoa và An Nam là m nó trầ m
trọ ng hơn. Có thể tin rằ ng họ thích nhâ n lên nhữ ng trở ngạ i, gâ y ra nhữ ng bó buộ c mớ i cho
sự phá t triển tinh thầ n.
Cá c chế định quan trườ ng đặ c biệt tạ o ra nhữ ng ả nh hưở ng trầ m trọ ng nhấ t, và ngă n
chặ n trong thờ i gian dà i toà n bộ sự vươn lên củ a trí tuệ. Chú ng tô i đã ghi nhậ n ở ngườ i An
Nam cá i sở thích vớ i chứ c việc cô ng. Nghề nà y thỏ a mã n tình yêu quyền lự c, phỉnh nịnh
thiên hướ ng củ a họ , đưa đến sự trơ ỳ và phù hợ p vớ i sự thiếu sá ng tạ o củ a họ . Vì vậ y, hầ u
hết nhữ ng ngườ i An Nam thô ng minh hoặ c già u có đều khao khá t quan trườ ng. Sự khá c biệt
nà y chỉ có đượ c sau nhiều cuộ c thi và mứ c thô ng thá i tă ng dầ n, ở đó , như có thể đượ c mong
đợ i, đò i hỏ i trí nhớ củ a cá c thí sinh nhiều hơn trí thô ng minh. Từ xa xưa, bả n chấ t củ a
nhữ ng kỳ thi nà y bao gồ m cá c đề bà i luậ n vă n triết họ c, đạ o đứ c hay tô n giá o, trong đó
ngườ i ta yêu cầ u thí sinh thể hiện sự uyên bá c thay vì khoa họ c bà i bả n và thự c sự . “Xem xét
số lượ ng khô ng đá ng kể, sự mạ nh mẽ củ a tính cá ch, cao thượ ng về đạ o đứ c, lò ng can đả m,
sự cô ng chính... họ đã thự c hiện để đo lườ ng giá trị củ a mộ t con ngườ i theo mứ c độ rườ m rà
có thể chịu đự ng củ a phạ m vi ký ứ c” (Ch. Letourneau).
Nhữ ng gì có thể đượ c sinh ra sau nhiều thế kỷ, khi á p dụ ng khắ c nghiệt mộ t hệ thố ng
như vậ y? Mộ t sự suy đổ i đá ng kể về trình độ trí tuệ và đạ o đứ c, mọ i tiến bộ vắ ng bó ng, hó a
thạ ch hoà n toà n. Khô ng có nhà tư tưở ng và khô ng có giớ i phả n biện, khô ng có “nhó m ngườ i
cao quý nó i sự thậ t” nà y, An Nam, giố ng như Trung Hoa, bị giam cầ m trong đố ng đổ ná t củ a
mộ t nền vă n minh già cỗ i.
Chương III
3. Lễ thân nghinh (đá m cướ i). Và o ngà y cướ i, ngườ i chủ gia đình bên nhà trai, vớ i đô ng đủ họ hà ng, đến trướ c
bà n thờ tổ tiên. Ô ng mở hộ p chứ a nhữ ng bà i vị tổ tiên và thô ng cá o thẩ m vớ i nhữ ng bậ c bề trên nà y; sau đó ô ng thắ p
nến, hương, ró t rượ u và o chén và tự quỳ lạ y hai lạ y; sau nữ a, ô ng ró t rượ u trên bà n thờ , quỳ lạ y và đố t sớ bá o tin.
Ngườ i con trai sau đó rướ i mộ t và i giọ t rượ u trong chén xuố ng đấ t, uố ng phầ n cò n lạ i,
quỳ lạ y, đứ ng dậ y và cú i chà o cha mình, ô ng ban lệnh cho anh ta đi rướ c dâ u.
Ngườ i con trai đi, theo đoà n ngườ i, đến nhà vị hô n thê. Ở nhà cô gá i lạ i thự c hiện nghi lễ
giố ng như trên vừ a mô tả . Sau nhiều lờ i thă m hỏ i, chà ng trai đưa vị hô n thê về nhà ; cả hai
đứ ng trướ c bà n thờ tổ tiên sau khi thự c hiện nghi lễ quỳ lạ y. Sau đó , chủ lễ đọ c cho tổ tiên
mộ t tờ sớ : ‘Tô i (ở đâ y tên dự kiến) theo lệnh củ a cha tô i đã mang về nhà tô i... (tên củ a ngườ i
vợ ) để là m vợ tô i và tiếp tụ c thờ cú ng tổ tiên. Tô i cầ u xin ô ng bà tổ tiên ban phướ c cho cuộ c
hô n nhâ n củ a chú ng tô i - (anh ta quỳ gố i) - tô i cầ u xin sự bả o vệ cá c ngườ i hó a và ng cho
chú ng tô i.’ Tờ sớ đượ c đố t, vợ chồ ng đứ ng lên, buổ i lễ hoà n tấ t.”
Trong tình trạ ng phong tụ c hiện nay, ba nghi lễ quy định bở i Gia Lễ đượ c thự c hiện vớ i
ít nhiều sai lệch, tuy nhiên việc cầ u khấ n tổ tiên vẫ n là bắ t buộ c. Điều nà y cho thấ y hô n nhâ n
củ a ngườ i An Nam khô ng chỉ là sự kết hợ p nam nữ đơn thuầ n mà cò n là mố i liên kết thiêng
liêng và o cù ng mộ t sự thờ phượ ng.
Từ niềm tin có vong linh tồ n tạ i dẫ n đến nhữ ng hệ quả khá c liên quan đến gia tộ c, ngườ i
An Nam nghĩ rằ ng vong linh tổ tiên rấ t vui khi sự thờ phượ ng củ a họ đượ c thườ ng xuyên
đả m bả o, nghi lễ đượ c thự c hiện cho họ , cá c bữ a ă n theo quy định đượ c cú ng cho họ và o
nhữ ng thờ i điểm ấ n định; nhữ ng vong hồ n bị bỏ rơi, trá i lạ i, chìm trong đau khổ . Vì vậ y, mỗ i
ngườ i phả i cố gắ ng để đả m bả o việc có hậ u thế.
Sự chuẩ n bị cầ n thiết nà y cho tương lai, mố i lo lắ ng đố i vớ i việc kế tụ c thờ tự , đã là m nả y
sinh nhiều phong tụ c có vẻ xa lạ đố i vớ i mộ t ngườ i quan sá t khô ng hiểu biết gì.
Do đó , ngườ i ta đọ c trong Chu Lễ hoặ c Kinh Lễ: “Quan chứ c về hô n sự đượ c giao phụ
trá ch việc hô n nhâ n trong dâ n chú ng. Đố i vớ i mỗ i cá nhâ n, dù là nam hay nữ , ô ng đều ghi lạ i
tên và tuổ i. Ô ng ta hạ lệnh cho đà n ô ng ở tuổ i ba mươi kiếm vợ , gá i ở tuổ i hai mươi lấ y
chồ ng. Và o tuầ n tră ng củ a mù a xuâ n, ô ng ra lệnh tậ p hợ p nam nữ . Tạ i thờ i điểm nà y, nhữ ng
ngườ i nà y kết hợ p vớ i nhau, khô ng tuâ n thủ lễ giá o mà khô ng bị ngă n cấ m”, theo Biot.
Nhữ ng tậ p tụ c man di nà y, hô m nay, chú ng tô i phả i nó i, đã hoà n toà n biến mấ t; tuy nhiên,
tình trạ ng độ c thâ n luô n bị coi là mộ t sự bấ t kính nghiêm trọ ng và bấ t hạ nh.
Mụ c đích thự c sự củ a hô n nhâ n là sinh con đẻ chá u, và phả i là con chá u trai, vì nhờ chính
điều nà y mà có thể kế tụ c thờ cú ng. Đa phầ n do ả nh hưở ng củ a ý tưở ng nà y mà đã thiết lậ p
chế độ đa thê.
Ngườ i đà n ô ng khô ng có con vớ i ngườ i vợ đầ u có thể kiếm mộ t ngườ i vợ thứ để sinh
con trai. Nếu ngườ i phụ nữ nà y vẫ n chỉ sinh cho anh ta con gá i, anh ta có thể kết hô n vớ i
ngườ i vợ thứ thứ hai. Theo Luro, số vợ , về mặ t lý thuyết chỉ bị giớ i hạ n bở i sự ra đờ i củ a
mộ t trẻ trai.
Vẫ n cò n mố i bậ n tâ m như vậ y về sự nố i dõ i mà nhà lậ p phá p đã tuâ n theo bằ ng cá ch đặ t
sự vô sinh trong số bả y trườ ng hợ p đượ c cho phép ly hô n.
Ngườ i khô ng có nố i dõ i phả i là m tấ t cả trong khả nă ng để có ngườ i nố i dõ i. Đâ y là nguồ n
gố c củ a việc bấ t đắ c dĩ nuô i con nuô i. “Khô ng chỉ định ai đó kế tụ c nố i dõ i dò ng họ , thự c sự ,
đó là để mấ t gố c rễ, là là m giá n đoạ n việc thờ cú ng tưở ng nhớ tổ tiên và là m cho tổ tiên bị
xem như bấ t hạ nh và bị lă ng nhụ c. Hình phạ t đố i vớ i nghĩa vụ nà y, đó là bị Nhà nướ c tịch
thu tà i sả n củ a gia đình khi hết hậ u nhâ n.”[153]. Việc tịch thu tà i sả n nà y ngà y nay dườ ng như
đã hoà n toà n rơi và o tình trạ ng khô ng á p dụ ng đượ c; chỉ cầ n đề cậ p đến trong Bộ luậ t là đủ
để thấ y rằ ng nó từ ng có hiệu lự c và do đó đã đá p ứ ng nhu cầ u thự c sự củ a xã hộ i.
Có hai loạ i con nuô i: con nuôi thừa tự (con nuô i hợ p phá p hoặ c toà n tò ng) và con nuôi
thường (đơn thuầ n hoặ c từ thiện). Sự khá c biệt nà y là kết quả tự nhiên từ mộ t nguyên tắ c
đã nêu. Trong khi con nuô i đơn thuầ n là nhữ ng trẻ khô ng thể dù ng để nố i dõ i và hưở ng
quyền thừ a kế củ a cha nuô i, thì trá i lạ i việc nhậ n con nuô i thừ a tự nghĩa là trao cho con
nuô i nhữ ng quyền và nhữ ng nghĩa vụ tương tự như ngườ i con trai đích thự c.
Nếu việc nhậ n con nuô i thườ ng hoà n toà n tự do, thì việc nhậ n con nuô i thừ a tự có cá c
quy tắ c nghiêm ngặ t và có thể bị xử phạ t. Đó là bắ t buộ c đố i vớ i bấ t cứ ai khô ng có con trai
dù vẫ n có con gá i. Thêm nữ a, ngườ i ta bắ t buộ c phả i nhậ n là m ngườ i thừ a kế con trai củ a
anh hoặ c em trai ruộ t hoặ c, trong trườ ng hợ p khô ng có , con trai củ a anh em họ , nghĩa là
mộ t ngườ i họ hà ng khô ng đồ ng bậ c vớ i mình so vớ i gố c gá c chung, nhưng kém hơn mộ t bậ c
duy nhấ t. Trong nhữ ng điều kiện nà y, có thể xả y ra việc mộ t nhá nh thứ bị tướ c đi con đẻ
trự c tiếp để thế và o nhá nh trưở ng. Tuy nhiên hậ u quả củ a việc nà y có thể rấ t nghiêm trọ ng,
gâ y trở ngạ i việc nuô i con nuô i hợ p phá p; trong thự c tế, việc nà y là m cho gố c chính, tứ c
nhá nh trưở ng củ a gia tộ c, khô ng bị đứ t, bở i thờ cú ng tổ tiên phả i đượ c kế tụ c trong khi sự
tuyệt tự củ a nhá nh thứ khô ng là m ngưng việc thờ cú ng gia đình.
Cũ ng như quy định việc nhậ n con nuô i, tô n giá o gó p phầ n ấ n định thứ bậ c khá c nhau
củ a quan hệ họ hà ng.
Theo J. Sylvestre[154], “chừ ng nà o gia tộ c chỉ dự a trên cộ ng đồ ng củ a cá c vị thầ n bả n địa
là m nền tả ng, thì mố i quan hệ họ hà ng có nhữ ng quy tắ c rấ t đơn giả n, bấ t cứ ai ngoà i phả hệ
kế tiếp đều là ngườ i ngoà i trừ khi đượ c gắ n và o quan hệ nà y bở i cá c nghi lễ củ a hô n nhâ n
và nhậ n con nuô i. Do đó , mố i quan hệ họ hà ng chỉ tồ n tạ i giữ a tổ tiên củ a dò ng cha, cha, mẹ,
con cá i. Khô ng cò n quan hệ dò ng họ bên mẹ kể từ khi ngườ i phụ nữ kết hô n từ bỏ sự thờ
phượ ng ban đầ u và sau đó là gia đình cô ấ y.”
Nhưng ngà y nay mọ i thứ khô ng đơn giả n như vậ y; thự c tế, ngườ i An Nam thừ a nhậ n
quan hệ mẹ con hoặ c vợ chồ ng[155], đã thiết lậ p nhữ ng gì ngườ i La Mã gọ i là cognatio (họ
Ngoại). “Giố ng như ngườ i La Mã , ngườ i An Nam phâ n biệt họ nộ i vớ i họ ngoạ i. Đầ u tiên là
bà con củ a dò ng gố c, tứ c là huyết thố ng củ a ngườ i cha trong gia đình, mang cù ng họ và thờ
cú ng tổ tiên chung, cũ ng như vợ củ a nhữ ng ngườ i bà con nà y và con trai nuô i... bở i bà con
họ nộ i đượ c gọ i là dòng bên trong (Nội). Cá c họ ngoạ i hoặ c bà con củ a dòng ngoài (Ngoại)
đều là bà con củ a gia đình mẹ. Bà con củ a gia đình vợ khô ng phả i là họ hà ng bên ngoà i, mà
chỉ là thô ng gia.”[156]
Chính quy tắ c thờ cú ng đã quyết định quyền thừ a kế củ a con chá u, cơ nghiệp củ a ngườ i
cha trong gia đình. Sự thờ phượ ng đượ c truyền từ nam sang nam, theo cù ng mộ t cá ch, về
nguyên tắ c, tà i sả n phả i đượ c truyền thừ a theo. Ngườ i thừ a kế củ a cả i là ngườ i tiếp tụ c thờ
phượ ng. Theo quy tắ c nà y, con gá i hoặ c đứ a trẻ tư sinh khô ng đượ c thừ a kế. Trá i lạ i, con
nuô i đượ c thừ a kế.
Trong thự c tế, phong tụ c đã khô ng giữ nguyên đến thờ i đạ i củ a chú ng ta, luậ t nà y, có thể
hợ p lý từ mộ t quan điểm nhấ t định, nhưng vẫ n khô ng kém bấ t cô ng theo lẽ tự nhiên. Con
gá i An Nam ngà y nay khô ng cò n hiển nhiên bị loạ i khỏ i việc thừ a kế như trướ c; tuy nhiên, vị
trí củ a họ luô n thấ p hơn nam.
Cuố i cù ng, tô n giá o đã thiết lậ p phụ quyền trong gia đình. Ngườ i cha là tư tế, giá o chủ ,
chủ nhâ n toà n quyền, sau khi chết, sẽ trở thà nh mộ t tổ tiên đá ng kính. Chính ô ng là ngườ i
quy định việc thờ cú ng, đả m bả o sự trườ ng tồ n và do đó , gia đình là vĩnh cử u. Vì vậ y, ô ng ta
có thể rẫ y bỏ ngườ i vợ vô sinh và lấ y thê thiếp. Ô ng ta cũ ng có thể nhậ n con nuô i; ô ng giữ
nhữ ng đứ a con và nhữ ng đứ a chá u, theo luậ t[157] thì vẫ n phả i ở trong gia đình mà khô ng thể
cư trú bên ngoà i nhà nộ i. Mứ c độ tuâ n thủ quy tắ c nà y đã giả m nhẹ đi theo thờ i gian, nhưng
luô n đượ c duy trì ở ngườ i con trưở ng. Theo Luro, “ngườ i con trưở ng sẽ khô ng rờ i khỏ i nhà
nộ i nếu khô ng có sự đồ ng ý củ a cha và mẹ; con trưở ng, vợ và cá c con sẽ ở dướ i quyền củ a
ngườ i cha. Nếu con trai trưở ng bỏ đi khỏ i nhà , ngườ i cha sẽ truấ t quyền thừ a kế và quyền
trưở ng nam củ a ngườ i nà y bằ ng mộ t di chú c xá c thự c.”
Ngườ i cha, trong gia đình, là chủ sở hữ u duy nhấ t; miễn là ô ng cò n số ng, gia sả n vẫ n
chưa phâ n chia. Mộ t mình ô ng ta có thể chia tà i sả n củ a mình cho con chá u; chính ô ng là
ngườ i ấ n định phầ n dà nh cho việc duy trì sự thờ phượ ng. Ngườ i vợ phả i đò i hỏ i sự hỗ trợ
để có thể chuyển nhượ ng hoặ c thỏ a hiệp.
Giố ng như ô ng ta có quyền sở hữ u tấ t cả tà i sả n, ô ng ta - hoặ c ít ra là ở thờ i xưa - là chủ
nhâ n tuyệt đố i củ a nhữ ng ngườ i dướ i quyền. Ô ng ta có thể bá n vợ , con trai, thuê ngườ i hầ u.
Cá c Nho gia thừ a nhậ n rằ ng hơn cả thế, ngườ i cha cò n nắ m quyền số ng chết đố i vớ i con cá i.
Ngà y nay, trong mọ i trườ ng hợ p, ô ng cò n giữ lạ i quyền trừ ng phạ t vượ t ngoà i mọ i phá n xử
xã hộ i khá c. Gia đình là mộ t xã hộ i hoà n toà n khép kín, trong đó chính quyền dâ n sự khô ng
thể can thiệp. Ngườ i cha, hay ô ng nộ i, mộ t mình có quyền giả i quyết tranh chấ p, mộ t mình
phá n xử chuyện gia đình.
Chú ng ta vừ a thấ y rằ ng theo nguyên tắ c phụ quyền, gia đình khô ng thể bị chia ra do hô n
nhâ n củ a con trai; họ có thể tự thà nh lậ p và hình thà nh mộ t nhá nh thứ , nhưng họ vẫ n phụ
thuộ c và o ngườ i chủ gia đình.
Gia tộ c khô ng thể bị giả i thể bở i cá i chết củ a tổ tiên chung. Luro nhậ n định, “trong
trườ ng hợ p khô ng có tổ tiên chung (mà vố n dĩ sự tồ n tạ i nà y ngầ m duy trì tấ t cả cá c quyền
nố i dõ i) thì luậ t thế thứ (có từ thờ i xa xưa bắ t nguồ n từ nhữ ng kinh sá ch đầ u tiên củ a thờ i
cổ đạ i Trung Hoa) lậ p lạ i cá c mố i liên hệ tưở ng chừ ng như có thể bị phá vỡ . Khi ô ng tổ
chung chết, mỗ i ngườ i là chủ sở hữ u tà i sả n hoặ c phầ n tà i sả n thừ a kế củ a mình; nhưng
theo như cá c nghi lễ có liên quan, ý kiến củ a kinh sá ch là quyền lự c gia đình đượ c truyền
cho ngườ i già nhấ t củ a gia đình.” Vậ y nên con chá u đã “thà nh niên” về mặ t tuổ i tá c, nhưng
trên phương diện tâ m linh, nghĩa là về phía nghi lễ, quyền lự c tuâ n theo luậ t thế thứ ; ngườ i
dâ ng lễ thờ phượ ng nhâ n danh gia tộ c phả i thự c sự là ngườ i lã nh đạ o chính trị và tô n giá o.
Do đó , vớ i sự mở rộ ng củ a tộ c họ , chú ng ta thấ y quyền lự c phụ quyền biến đổ i và mở
rộ ng. Nó i đú ng ra “cha” khô ng cò n là chủ gia đình; ô ng chỉ là ngườ i đứ ng đầ u trự c tiếp củ a
con chá u mình; phía trên ô ng có ô ng nộ i, tổ tiên chung, hoặ c ngườ i thay thế ô ng do luậ t thế
thứ . Vậ y, ngườ i đứ ng đầ u dò ng họ - hoặ c Trưởng tộc - là ngườ i lớ n tuổ i nhấ t củ a mộ t tậ p
hợ p cá c gia đình khá c nhau cù ng họ , nhậ n cù ng mộ t tổ tiên[158]; quyền hạ n củ a ngườ i nà y,
đượ c mở rộ ng, là quyền hạ n củ a ngườ i cha gia đình ban sơ. Theo Luro, ô ng là thẩ m phá n,
ngườ i hò a giả i hợ p phá p củ a tấ t cả cá c tranh chấ p giữ a bà con củ a cá c nhá nh khá c nhau. Về
mặ t chứ c nă ng, ô ng thay thế cha hoặ c ô ng nộ i củ a mỗ i gia đình cụ thể, khi gia đình nà y thiếu
khuyết ngườ i đứ ng đầ u. Ô ng chă m lo cá c lễ nghi tô n vinh tổ tiên do trưở ng nam nhá nh
trưở ng cử hà nh[159]. Ô ng giá m sá t việc phâ n chia gia sả n; ô ng bả o vệ nhữ ng ai cò n vị thà nh
niên vì lợ i ích củ a họ và chỉ định ngườ i giá m hộ nếu cầ n.
Sau nhữ ng gì vừ a đượ c nêu về quyền lự c gia trưở ng và quyền lự c củ a trưở ng tộ c, có vẻ
như vai trò phụ nữ trong gia đình đơn giả n là bị lu mờ . Nguyên thủ y, quyền lự c củ a chồ ng
đố i vớ i vợ là tuyệt đố i. Bằ ng chứ ng ngà y nay (thờ i điểm đầ u thế kỷ XX) là trong luậ t vẫ n
cấ m bá n hoặ c cho mượ n phụ nữ . Ngườ i chồ ng là chủ tuyệt đố i đố i vớ i tà i sả n là vợ mình;
anh ta có thể tù y ý sử dụ ng ngay cả khi việc đó trá i vớ i ý muố n củ a ngườ i vợ vì theo luậ t, vợ
khô ng thể nộ p đơn khiếu nạ i chồ ng. Về cá i chết củ a chồ ng, nếu anh ta khô ng phả i là chủ gia
đình, nếu anh ta vẫ n số ng trong nhà ngườ i cha, thì gó a phụ sẽ ở dướ i quyền lự c củ a cha
hoặ c ô ng củ a ngườ i quá cố .
Nhưng tậ p tụ c ở đâ y có vai trò là m nhẹ đi sự nghiêm khắ c củ a luậ t lệ và khiến phụ nữ
trở nên độ c lậ p hơn, có vai trò cao quý hơn, gầ n vớ i vị trí phụ nữ theo Ki-tô giá o. Phụ nữ
khô ng cò n có thể bị bá n hoặ c cho mượ n, họ cò n có mộ t số quyền nhấ t định mang lạ i cho họ
mộ t thứ hạ ng cao trong gia đình hơn so vớ i trướ c đâ y. Quyền củ a ngườ i mẹ trong gia đình
thự c sự khô ng bao giờ bằ ng đượ c ngườ i cha. Trong mọ i trườ ng hợ p, ngườ i vợ khô ng thể
hoà n thà nh cá c nghi lễ tô n giá o và do đó , khô ng thể hưở ng cá c đặ c quyền gắ n liền vớ i thự c
hà nh nà y. Nhưng họ có mộ t thẩ m quyền đạ o đứ c khô ng thể chố i cã i; nhữ ng đứ a con phả i
phụ c tù ng, kính trọ ng họ như vớ i ngườ i cha. Ngà y nay họ có quyền tự do xử lý tà i sả n củ a
mình, vớ i điều kiện đượ c sự ủ ng hộ củ a ngườ i đứ ng đầ u gia đình hoặ c họ hà ng. Trở thà nh
gó a phụ , ngoạ i trừ trong mộ t số trườ ng hợ p nhấ t định, ngườ i ta coi rằ ng cá i chết củ a ngườ i
chồ ng đã giả i phó ng họ khỏ i mọ i quyền giá m hộ . Họ hưở ng lợ i tứ c tà i sả n do ngườ i quá cố
để lạ i, và nhữ ng đứ a con khô ng có quyền đò i lạ i phầ n thừ a kế củ a chú ng, trừ khi ngườ i cha
đã lậ p di chú c hoặ c phâ n chia cho chú ng khi ô ng cò n số ng.
Nhưng nhữ ng đặ c quyền nà y chỉ gắ n liền vớ i phẩ m hạ nh củ a gó a phụ [160]; nếu họ khô ng
thủ tiết, con cá i và tà i sả n củ a ngườ i chồ ng đầ u vẫ n để lạ i cho gia đình. Con phả i thuộ c về gia
đình củ a cha chú ng, khi că n cứ và o việc thờ phượ ng: chú ng khô ng thể tá ch khỏ i tổ tiên củ a
chú ng. Bấ y giờ , khi tá i hô n, ngườ i mẹ thay đổ i tô ng phá i; vậ y họ phả i chịu mấ t tấ t cả quyền
đố i vớ i con cá i và tà i sả n dà nh cho việc duy trì gia đình và thờ phượ ng mà họ từ bỏ .
Đâ y là cá c quy tắ c chung trong quả n lý tổ chứ c gia đình. Chú ng vẫ n tồ n tạ i lâ u dà i và bấ t
biến vì chú ng xuấ t phá t từ việc á p dụ ng hợ p lý mộ t nguyên tắ c duy nhấ t, cự c kỳ đơn giả n,
đượ c chấ p nhậ n rộ ng rã i, mộ t phầ n trong nhữ ng tín ngưỡ ng cơ bả n củ a ngườ i An Nam.
Nguyên tắ c giố ng nò i nà y khô ng chỉ gâ y khó khă n cho gia đình: nó cò n là ý tưở ng tô n giá o
đã chủ trì thiết chế củ a cá c nhó m lớ n hơn - làng xã và nhà nước; nó đã cho ra cá c quy tắ c
ứ ng xử và do đó tạ o ra đạ o đứ c gia đình, chuẩ n bị hình thà nh nên đạ o đứ c xã hộ i; cuố i cù ng
là cơ sở chế định quyền sở hữ u tà i sả n.
Sự phá t triển củ a quyền sở hữ u[161] song song vớ i sự phá t triển củ a nhó m gia đình. Chính
trong tậ p thể tô n giá o gia tộ c, ý tưở ng về quyền sở hữ u tư nhâ n đã ra đờ i.
Bằ ng chứ ng sá ng rõ liên quan đến quyền sở hữ u ở ngườ i Hy Lạ p và La-tinh[162] củ a Fustel
de Coulanges[163] có thể đượ c á p dụ ng từ ng điểm ở đâ y. Ở An Nam cũ ng như ở Hy Lạ p cổ đạ i,
mỗ i gia đình đều có tổ tiên; tổ tiên có lă ng miếu mà qua đó thể hiện họ có sở hữ u đấ t đai.
Khô ng ai có quyền tướ c đoạ t đấ t đai họ chiếm giữ ; mộ t ngô i mộ khô ng bao giờ có thể bị phá
hủ y hoặ c di chuyển; luậ t nghiêm khắ c cấ m điều đó [164]. Đâ y là mộ t phầ n đấ t, nhâ n danh tô n
giá o, thà nh đố i tượ ng tà i sả n vĩnh viễn củ a mỗ i gia đình. Mả nh đấ t nà y rấ t quan trọ ng vớ i
gia đình, đến nỗ i khô ng thể tá ch ra và khô ng đượ c phép nhườ ng lạ i. Phầ n đấ t nơi yên nghỉ
củ a ngườ i chết là khô ng thể thay đổ i và vô thờ i hiệu.
Vậ y, quyền sở hữ u tư nhâ n là chế định mà tô n giá o gia đình khô ng thể bỏ qua.
Nhưng tà i sả n khô ng phả i củ a mộ t cá nhâ n nà o; nó chỉ thuộ c về nhó m gia đình đượ c đạ i
diện bở i ngườ i lã nh đạ o và khô ng thuộ c về bấ t kỳ thà nh viên nà o.
Gia đình, mở rộ ng để trở thà nh mộ t bộ tộ c, phả i đưa đến thay đổ i tương ứ ng trong luậ t
tà i sả n. Trưở ng bộ tộ c là chủ sở hữ u duy nhấ t củ a cá c vù ng đấ t; tuy nhiên thự c sự khô ng thể
tuyệt đố i tuâ n theo điều đó đượ c, mỗ i nhá nh thứ vẫ n giữ lạ i việc sử dụ ng và tô n tạ o phầ n
đượ c phâ n bổ ban đầ u; sẽ là “vô đạ o đứ c” khi thay đổ i nhữ ng phâ n bổ nà y bằ ng việc tuầ n tự
tiến hà nh chia lạ i. Bở i vì ở đâ y khô ng phả i là vấ n đề, nó i về thuyết cô ng sả n: đó là cá nh đồ ng
mà gia đình canh tá c, tổ tiên đượ c chô n cấ t; gia đình khô ng thể, khô ng đượ c bỏ cá nh đồ ng
nà y.
Do đó , quyền sở hữ u thô đố i vớ i lã nh địa củ a bộ tộ c thuộ c về trưở ng bộ tộ c, tuy nhiên,
ô ng khô ng thể lấ y lạ i quyền chiếm hữ u củ a gia đình.
Sau đó , bộ tộ c trở thà nh vương quố c, rồ i đế chế, quan niệm về quyền sở hữ u thích nghi
vớ i tổ chứ c chính trị mớ i. Hoà ng đế trở thà nh chủ sở hữ u đấ t đai củ a quố c gia; cá c thầ n dâ n
chỉ là nhữ ng ngườ i lĩnh canh phả i trả mộ t loạ i phí thuê: thuế tà i sả n. Nhưng có thể nó i,
ngườ i dâ n đượ c thuê đấ t vĩnh viễn; ngườ i ta chỉ có thể lấ y lạ i quyền nà y trong nhữ ng
trườ ng hợ p đặ c biệt nghiêm trọ ng. Điều nà y giả i thích thự c tế rằ ng luậ t phá p An Nam đã
thiết chế di chú c và dườ ng như để qua đó cô ng nhậ n, cho cá c cá nhâ n, mộ t quyền sở hữ u
thự c sự đố i vớ i đấ t đai. Nó i tó m lạ i, quyền di chú c là quyền phâ n chia đơn giả n, phâ n chia
giữ a nhữ ng ngườ i thừ a kế củ a ngườ i quá cố : quyền sở hữ u thô củ a đấ t luô n thuộ c về Hoà ng
đế, quyền sở hữ u chỉ thuộ c về gia đình chiếm giữ hoặ c canh tá c đấ t nà y. Chính nhờ nguyên
tắ c nà y mà cá c vù ng đấ t bị bỏ hoang trong mộ t thờ i gian xá c định đượ c quy trở lạ i thà nh
lã nh địa củ a quố c gia[165].
Mộ t hệ quả hợ p lý khá c cù ng mộ t nguyên tắ c tấ t yếu là sự bấ t khả xâ m phạ m củ a di sả n.
Tuy nhiên, quy tắ c nà y khô ng phả i lú c nà o cũ ng có thể giữ đượ c sự cứ ng nhắ c nguyên thủ y
củ a nó ; như ô ng J. Sylvestre nhậ n định hoà n toà n đú ng, rồ i cũ ng đến lú c “nhữ ng nhu cầ u củ a
đờ i số ng xã hộ i” đặ t ra nhu cầ u chuyển nhượ ng. Nhưng nhiều dấ u tích củ a sự khô ng thể
chuyển nhượ ng nguyên thủ y vẫ n cò n tồ n tạ i trong tậ p tụ c hiện tạ i. Luậ t phá p luô n bả o tồ n
lă ng mộ , đặ c tính sử dụ ng bấ t di dịch đố i vớ i mộ t gia đình như vậ y khiến cho việc bá n đấ t
lă ng mộ bị cấ m và bị trừ ng phạ t.
Khổ ng Tử dạ y rằ ng trong ba nă m đầ u cư tang, con trai khô ng đượ c thay đổ i bấ t cứ điều
gì “theo đườ ng lố i củ a cha mình”, nghĩa là tà i sả n củ a gia đình trong suố t thờ i gian nà y phả i
giữ khô ng đượ c phâ n chia giữ a con chá u củ a ngườ i quá cố .
Về nhữ ng tồ n lưu khá c liên quan đến tính ổ n định củ a quyền sở hữ u đấ t đai là : định chế
củ a hương hỏa, củ a địa bộ và tậ p tụ c bá n nhữ ng bấ t độ ng sả n đã mua lại (a remere). Ngườ i
An Nam chỉ đà nh lò ng bá n nhữ ng đấ t đai khi khô ng hy vọ ng chuộ c đượ c. Địa bộ hoặ c sổ
thuế tà i sả n, khô ng phả i là sổ ghi tên củ a chủ sở hữ u - ở đâ y khô ng xét đến vấ n đề nà y, là
“bả n mô tả đấ t đai”, mộ t mình nó , trướ c nhà nướ c, có mộ t tư cá ch phá p nhâ n. Hương hỏa,
mộ t phầ n di sả n dà nh để cung cấ p cá c chi phí duy trì việc thờ cú ng và đượ c quả n lý bở i
ngườ i chủ gia đình khô ng thể thay đổ i. Việc bá n tà i sả n đượ c giao để thờ cú ng đượ c Bộ luậ t
tuyên bố là bấ t hợ p phá p và bị phạ t bằ ng việc gở i đi phụ c dịch ở vù ng biên giớ i xa xô i.
3. Đạo đức
Ngay trong gia đình, như chú ng ta đã nó i, đạ o đứ c An Nam đượ c phá c thả o nên; chính từ
mô i trườ ng nà y đã dầ n dầ n hình thà nh nên cá c quy tắ c cơ bả n mà đến nay vẫ n là cơ sở cho
tổ chứ c xã hộ i hiện tạ i.
Đạ o đứ c thay đổ i tù y theo từ ng xứ sở , “nhưng là thay đổ i xoay quanh mộ t luậ t cố định,
như mộ t hà m toá n họ c”, Taine nó i. “Mỗ i xã hộ i có cá c yếu tố , cấ u trú c, lịch sử , mô i trườ ng
xung quanh và như vậ y, kéo theo đó là cá c điều kiện số ng cò n đặ c thù củ a nó ... Trong mỗ i
thế kỷ và ở mỗ i quố c gia, cá c điều kiện số ng nà y đượ c thể hiện bằ ng cá c huấ n lệnh ít nhiều
truyền nố i, quy định hoặ c cấ m cá c loạ i hà nh độ ng như vậ y. Khi cá nhâ n nghĩ về mộ t trong
nhữ ng huấ n lệnh nà y, anh ta cả m thấ y bắ t buộ c; khi anh quên, anh hố i hậ n; xung độ t đạ o
đứ c là cuộ c đấ u tranh nộ i tâ m giữ a nhữ ng huấ n lệnh phổ quá t và mong muố n cá nhâ n.” Ở
An Nam, nhữ ng điều kiện số ng cò n nà y là sự tiếp nố i củ a thờ phượ ng và gia đình, việc tuâ n
thủ cá c nghi lễ, duy trì quyền lự c gia trưở ng. Huấ n lệnh chung là tô n trọ ng truyền thố ng, tô n
giá o và thẩ m quyền xuấ t phá t từ đó .
Do đó , ở An Nam, đó khô ng phả i là lương tâ m chỉ ra cho con ngườ i nhậ n biết nghĩa vụ
củ a mình và giao quyền hạ n cho họ ; đó khô ng phả i là trá i tim hướ ng dẫ n hà nh vi củ a họ , để
dự a và o đó mà họ hà nh độ ng; nhà đạ o đứ c An Nam khô ng bao giờ nghĩ ra ý tưở ng về sự tố t
là nh, cô ng bằ ng, sự thậ t tuyệt đố i. Cá i chủ đạ o có quyền lự c tuyệt đố i, chỉ mộ t mình đã có
thể chỉ huy vớ i tư cá ch tố i thượ ng mà tấ t cả phả i luô n luô n tuâ n theo, đó là truyền thố ng,
tô n giá o, thẩ m quyền, luậ t phá p, khuô n phép.
Đạ o đứ c An Nam khô ng khở i từ nộ i tâ m, khô ng xuấ t phá t từ ý thứ c; “Nghĩ hay hà nh
độ ng theo bả n ngã là mộ t tộ i á c”; luậ t đạ o đứ c, đó là nghi lễ, tậ p tụ c, tô n giá o; đứ c hạ nh, đó
là sự hoà n thà nh chu đá o cá c nghi lễ, tiêu chí tố t đẹp tuyệt đố i, đó là quá khứ .
Cá c nhiệt tình tự phá t, khuynh hướ ng tự nhiên, cá c cử chỉ hà o phó ng bị kìm nén, biến
dạ ng bở i khuô n mẫ u cứ ng nhắ c đó ng khuô n tâ m hồ n An Nam.
Hã y lấ y mộ t đứ a trẻ và nghiên cứ u quá trình hình thà nh cả m xú c củ a nó . Sự ích kỷ
nguyên sơ, đầ u tiên là m trẻ nhầ m lẫ n giữ a cả m giá c đó i vớ i ý tưở ng về vú nuô i và nhậ n thứ c
về vú củ a mẹ, sẽ sớ m đượ c thay thế bằ ng mộ t sự gắ n bó nhấ t định vớ i ngườ i mẹ, mộ t cả m
giá c quyến luyến sẽ trở thà nh tình hiếu thả o. Nhưng tình cả m nà y sẽ phá t triển trong nó
theo mộ t mứ c độ và theo đú ng nghĩa tương ứ ng vớ i sự trìu mến có trong mô i trườ ng xung
quanh mà trẻ nhậ n biết đượ c; nhữ ng cá i đó , kể từ nhữ ng giâ y phú t đầ u tiên, bị lệch lạ c ở
đứ a trẻ An Nam.
Trong mộ t mô i trườ ng đa thê, trong mộ t cộ ng đồ ng cự c kỳ rộ ng lớ n, trẻ có thể bị tá ch
khỏ i ngườ i mẹ tự nhiên củ a mình nếu mẹ là ngườ i vợ thứ , hoặ c là gó a phụ , là ngườ i mẹ tá i
hô n; hơn nữ a, đượ c quen thấ y ở cha mình là mộ t ngườ i chủ đô i khi đá ng sợ , có quyền á p
đặ t số ng chết lên nó , mộ t quan tò a khiếp đả m, mộ t tư tế đá ng kính, mộ t tổ tiên sẽ trở thà nh
thầ n, đố i vớ i cha mẹ mình đứ a trẻ chỉ có thể nhậ n thấ y mộ t cả m giá c hò a lẫ n giữ a sợ hã i, giữ
ý, tô n trọ ng. Thay vì nghe theo mệnh lệnh tự nhiên củ a con tim, cả m xú c nà y sẽ bị á p đặ t bở i
truyền thố ng, bở i lý lẽ; nó sẽ khô ng cò n là mộ t sự trìu mến tự nhiên lẽ ra phả i đượ c tự do
triển nở , mà là mộ t nghĩa vụ tô n giá o, bứ c thiết, tấ t yếu. Ở An Nam khô ng có tình hiếu thả o,
chỉ có đạ o hiếu.
Khi mố i quan hệ củ a đứ a trẻ mở rộ ng, tình cả m củ a nó mang đến cho nhữ ng ngườ i khá c
cũ ng chính là sự cẩ n trọ ng và lạ nh lù ng. Cả m xú c yêu mến sẽ khô ng nả y nở mã nh liệt như ở
cá c dâ n tộ c phương Tâ y. Ngay khi cò n thiếu niên, nó khô ng biết nụ hô n củ a mẹ [166], trưở ng
thà nh, nó sẽ bỏ qua nhữ ng tình cả m cao hơn xuấ t phá t từ tình hiếu thả o: tình yêu đồ ng bà o,
tình yêu tổ quố c, tình nhâ n loạ i. Sự cở i mở củ a nó bị tổ n hạ i, sự thă ng tiến củ a nó bị nhố t
trong nhữ ng giớ i hạ n xá c định là gia đình. Khô ng có gì tồ n tạ i, cũ ng khô ng thể tồ n tạ i ngoà i
vò ng hạ n chế nà y.
Cũ ng như nó khô ng biết là m thế nà o để nớ i rộ ng mộ t quả cầ u lớ n hơn so vớ i gia đình,
tình cả m củ a nó , hay cá i đượ c gọ i là như vậ y, ngườ i An Nam bấ t lự c trong việc tá ch rờ i khỏ i
tậ p thể gia đình cá i cá tính củ a họ , tính cá ch đạ o đứ c củ a họ ; họ khô ng biết cá ch tự tá ch khỏ i
gố c rễ, tự trổ nhá nh riêng để nhậ n thứ c bả n thâ n. Nền vă n minh An Nam sẽ cò n đó ng bă ng
vĩnh viễn khi khô ng lưu hà nh trong đó ý tưở ng chủ đạ o về tô n trọ ng con ngườ i. “Niềm tự
hà o đượ c tá n dương”, như Taine nó i, đó là tình cả m về quyền nhà ở , nhữ ng quyền cố hữ u
bả n chấ t. Đó là mộ t trong nhữ ng nền tả ng đạ o đứ c củ a châ u  u chú ng ta, nó khô ng đượ c
biết đến trong tâ m hồ n An Nam.
Bị tướ c bỏ nhữ ng bả n nguyên hiệu quả nà y, tứ c nhữ ng tình cả m tự nhiên, đạ o đứ c nơi
ngườ i An Nam sẽ khô khan, về cơ bả n là thự c tế; thự c dụ ng hơn là vị tha, chính trị hơn là
nhâ n đạ o.
Sinh ra trong gia đình, họ sẽ gầ n như chuyên chú trong phạ m vi ngô i nhà thay vì nhữ ng
gì mang tính cá nhâ n hay xã hộ i. Trong cộ ng đồ ng nguyên thủ y, cá nhâ n chưa khá c biệt; nó
vẫ n cò n lẫ n lộ n vớ i cá c nhâ n tố khá c củ a khố i dâ n cư; nó khô ng phả i là mộ t con ngườ i. Thể
nhâ n củ a họ là gia đình; đố i vớ i họ , con ngườ i có nhữ ng nghĩa vụ vớ i cá c thà nh viên khá c
trong gia đình nhiều hơn là vớ i nhâ n loạ i.
Mặ t khá c, cá c mố i quan hệ giữ a cá c thà nh viên trong gia đình An Nam khô ng bị điều
chỉnh bở i tình cả m tự nhiên, đạ o đứ c củ a ngườ i An Nam sẽ hoà n toà n giả tạ o, tấ t cả đều
tương đố i; sẽ khô ng có gì tuyệt đố i; khá c vớ i đạ o đứ c khoa họ c. Điều đó có nghĩa là đạ o đứ c
nà y sẽ luô n thiếu tầ m cao? Xua đi khỏ i chú ng tô i ý tưở ng nà y. Nhưng khô ng rú t ra sứ c mạ nh
từ chính nó , chỉ dự a và o quyền lự c củ a truyền thố ng, nó sẽ thiếu nhiệt tình, tính tự nguyện;
thay vì đượ c gợ i lên từ mộ t tình cả m bên trong, bậ t ra từ nguồ n mạ ch, nó sẽ bị á p đặ t bở i
mộ t ả nh hưở ng bên ngoà i; thay vì là thà nh quả củ a chiêm nghiệm, sẽ chỉ là mộ t mụ c tiêu để
họ c hỏ i, mộ t sự tiếp thu trí tuệ đơn thuầ n. Có triết gia từ ng nó i: “Ta đã dà nh cả ngà y khô ng
ă n và cả đêm khô ng ngủ , để miệt mà i chiêm nghiệm, và điều đó khô ng có ích lợ i thự c sự ;
việc họ c hỏ i tố t hơn nhiều.”[167] Đạ o đứ c có thể cao siêu; họ chắ c chắ n sẽ lạ nh lù ng; khô ng
bao giờ khoan dung, sẽ luô n khá c vớ i đạ o đứ c tình cả m là đạ o đứ c Ki-tô giá o vố n dĩ luô n
vượ t trộ i hơn. Khổ ng Tử khô ng bao giờ sá nh ngang vớ i Chú a Giê-su.
Ngườ i An Nam, giố ng như ngườ i Trung Hoa, đã lấ y đạ o đứ c và triết lý đặ t hà ng đầ u, đó
là nghĩa vụ vớ i gia đình, và trong đó , là đạ o hiếu. De Lanessan nó i[168], toà n bộ dâ n tộ c thấ m
nhuầ n quan niệm đạ o đứ c nà y đến mứ c tấ t cả tổ chứ c chính trị xã hộ i củ a Trung Hoa và An
Nam đượ c thà nh lậ p dự a trên đó . Tộ i á c chố ng lạ i cha mẹ hiếm đến nỗ i có thể xem như
khô ng hề tồ n tạ i ở hai quố c gia nà y. Lò ng tô n kính củ a con cá i đố i vớ i cha mẹ là như vậ y,
mộ t đứ a con trai, cho dù nó bao nhiêu tuổ i, sẽ khô ng bao giờ dá m ngồ i trướ c cha mình khi
khô ng đượ c cha trự c tiếp cho phép; trong mọ i nơi mọ i lú c, nó phả i cú i đầ u trướ c ô ng, khô ng
bao giờ để mặ t trờ i có thể chiếu bó ng mình lên mặ t cha, v.v.
Đạ o hiếu, đượ c viết trong Luận Ngữ, là nguyên tắ c cơ bả n củ a loà i ngườ i. [169] Bở i vì nếu
bạ n cư xử đú ng mự c vớ i mọ i ngườ i trong gia đình rồ i “bạ n mớ i có thể giá o huấ n bổ n phậ n
anh em trong mộ t nướ c”.[170]
Đạ o hiếu cũ ng là nguồ n gố c củ a sự kính trọ ng ngườ i cao niên, đố i vớ i nhữ ng ngườ i lớ n
tuổ i hơn mình, hoặ c có phẩ m giá cao hơn; đó là lý do vì sao sự lễ độ Trung Hoa nà y sẽ là
tuyệt vờ i nếu nó khô ng phả i mộ t lớ p sơn đạ o đứ c giả tạ o thay vì là biểu hiện châ n thà nh củ a
mộ t tình cả m sâ u sắ c và châ n thậ t.
Nó cò n là că n nguyên đầ u tiên củ a sự tô n trọ ng quá khứ , tổ tiên và nam giớ i. Kính trọ ng
nhữ ng gì tổ tiên kính trọ ng; trâ n trọ ng nhữ ng gì họ yêu thích; để phụ c vụ họ chết như thể
họ cò n số ng; để tô n vinh họ đượ c chô n cấ t trong mộ như thể họ vẫ n cò n hiện diện: đâ y
khô ng phả i là tộ t độ củ a đạ o hiếu sao?[171]
Tô n trọ ng đạ o hiếu thả o, tô n trọ ng tổ tiên, tô n trọ ng quá khứ , đâ y là nhữ ng bổ n phậ n
chính đượ c quy định trong nền đạ o đứ c An Nam; đâ y chắ c chắ n là mộ t quy tắ c cao quý;
nhưng quy tắ c Ki-tô giá o khô ng phả i khuyên ră n nhẹ nhà ng hơn sao, ngoà i ra cò n tình hiếu
thả o và tình đồ ng loạ i thì sao?
Đố i vớ i triết gia Trung Hoa, đứ c nhâ n là gì? Đó có phả i là mộ t tình cả m mà mọ i ngườ i
phả i đượ c đố i xử bình đẳ ng, hoặ c, như trong giá o lý Ki-tô giá o, nhấ t là đố i vớ i nhữ ng ngườ i
bấ t hạ nh, yếu đuố i, thiệt thò i về bả n chấ t hay cuộ c số ng? Đó có phả i là mộ t tình cả m nhâ n
từ , mộ t lò ng yêu thương anh em? Hơn cả sự tô n trọ ng. Sự tô n trọ ng nà y cò n có sự phâ n biệt
trong đố i xử vớ i mọ i ngườ i; chỉ nhữ ng ngườ i đứ c hạ nh hoặ c rấ t đứ c hạ nh mớ i xứ ng đá ng
vớ i điều đó . Mạ nh Tử bả o Vạ n Chương rằ ng: “Kẻ sĩ đứ c hạ nh trong mộ t là ng hã y nên kết
bạ n vớ i nhữ ng kẻ sĩ đứ c hạ nh củ a là ng đó ; kẻ sĩ đứ c hạ nh trong mộ t vương quố c hã y nên
kết bạ n vớ i nhữ ng kẻ sĩ đứ c hạ nh trong vương quố c đó ; kẻ sĩ đứ c hạ nh trong thiên hạ hã y
nên kết bạ n vớ i cá c kẻ sĩ đứ c hạ nh trong thiên hạ ”[172] và cứ thế, cho đến khi nó lan rộ ng ra,
nhữ ng tình cả m thâ n á i nà y trở thà nh tình cả m vớ i tấ t cả mọ i ngườ i đứ c hạ nh. “Khi số ng ở
quố c gia nà o, hã y giao du để theo họ c nhữ ng kẻ khô n ngoan trong cá c đạ i phu củ a quố c gia
nà y và kết bạ n vớ i nhữ ng hiền nhâ n và đứ c hạ nh trong số cá c họ c giả .” Theo Tử Cố ng, “thự c
hà nh đứ c nhâ n”[173], khô ng nghi ngờ gì nữ a, là mộ t giớ i luậ t tố t đẹp, mộ t câ u châ m ngô n đá ng
ngưỡ ng mộ ; nhưng lò ng lâ n tuấ t, yêu thương củ a Chú a Giê-su vớ i ngườ i chà i lướ i, phả i
chă ng đó là mộ t tình cả m cao đẹp hơn, cả m độ ng hơn, đá ng yêu hơn đứ c nhâ n đượ c hiểu ở
ngườ i Trung Hoa, chỉ bao gồ m trong sự kính trọ ng và ngưỡ ng mộ củ a con ngườ i đứ c hạ nh?
Sự kính trọ ng và ngưỡ ng mộ nà y có thể tạ o ra nhữ ng kết quả xứ ng đá ng. Cụ thể, chú ng
dẫ n đến việc bắ t chướ c cá c gương tố t và do đó gó p phầ n phá t triển tình yêu hoà n hả o ở An
Nam và Trung Hoa, vố n là nền tả ng cho đạ o đứ c cá nhâ n. Khô ng nghi ngờ gì nữ a, như ở
phương Tâ y, sự tô n trọ ng bả n thâ n đượ c dự ng lên như mộ t quy tắ c: “Cẩ n thậ n đừ ng là m gì
ở nơi bí mậ t nhấ t mà khiến bạ n phả i đỏ mặ t”[174]; nhưng họ đã khô ng đạ t đượ c như ở chú ng
ta “sự tá n dương” mà tô i vừ a nó i; họ đã khô ng đưa đến mộ t sự khẳ ng định cấ p bá ch về
quyền con ngườ i; họ vẫ n giữ mộ t tình cả m bình lặ ng và yên tĩnh, khô ng hă ng há i và hiệu
quả ; họ khô ng vươn đến chủ nghĩa duy tâ m, ngay cả vớ i quan niệm về quyền và cô ng lý
tuyệt đố i, họ vẫ n ở trong phạ m vi đờ i số ng thự c tiễn; họ giữ mộ t tính cá ch cơ bả n con
ngườ i; họ luô n thấ m đẫ m cá i mù i vị kỷ. Kinh Thi nó i: “Chú tâ m đến chính mình ngay khi ở
trong nhà - Đó là ngườ i quâ n tử đượ c kính trọ ng, ngay cả khi chưa là m gì cả .” [175] Bấ t chấ p tấ t
cả , lợ i ích cá nhâ n xuyên thấ u dướ i bề ngoà i trá ng lệ bao quanh nó . Ngườ i ta vẫ n cả m thấ y -
và luô n luô n - sự bấ t lự c cơ bả n nà y củ a tâ m trí để giả i thoá t bả n thâ n khỏ i thự c tạ i vậ t chấ t,
để đạ t đượ c ý tưở ng thuầ n khiết, ý tưở ng chủ đạ o, ý tưở ng quyền lự c, đứ c tin khô ng thể lay
chuyển đượ c thế giớ i và đặ t con ngườ i ở cấ p độ thầ n thá nh.
Cá c triết gia củ a xứ sở da và ng khô ng bứ t đượ c cá i nhìn củ a họ khỏ i mặ t đấ t; họ khô ng
bao giờ nó i như Chú a Giê-su: “Vương quố c củ a tô i khô ng thuộ c về thế gian nà y.” “Vương
quố c củ a họ , như de Lanessan viết, ở đâ y, bên dướ i; đó là trên trá i đấ t, con ngườ i đứ c hạ nh,
cầ n cù hoà n thà nh mọ i nghĩa vụ vớ i bả n thâ n, cha mẹ, bạ n bè và nhữ ng ngườ i khá c, sẽ gặ t
há i thà nh quả lao độ ng, họ c tậ p, kiên trì và đứ c độ . Chính trong niềm hạ nh phú c và tình cả m
củ a mình, sự tậ n tâ m củ a bạ n bè, sự tô n trọ ng củ a đồ ng bà o và sự hà i lò ng vớ i lương tâ m
chính mình, họ sẽ tìm thấ y phầ n thưở ng. Chính cũ ng ở trong thế giớ i nà y mà con ngườ i sẽ
phả i chịu sự trừ ng phạ t khi thiếu hiểu biết, thô lỗ , mắ c tậ t xấ u và gâ y lỗ i lầ m. Nếu họ giết
ngườ i, họ sẽ bị bá o thù ; nếu họ há m lợ i, họ sẽ bị khinh bỉ; nếu họ khô ng hoà n thà nh nghĩa
vụ vớ i gia đình, bạ n bè, đồ ng bà o, họ sẽ bị mọ i ngườ i ghê tở m và kết á n, khô ng bao giờ
vươn đến bậ c ‘quâ n tử ’ xứ ng đá ng để giá o huấ n và cai trị ngườ i khá c.”[176]
Đạ o đứ c lạ nh lù ng và nghiêm trang nà y, khô ng sô i nổ i, khô ng có tình yêu đạ i lượ ng,
khô ng có tưở ng tượ ng cao siêu, rấ t phù hợ p vớ i tính khí uể oả i củ a chủ ng tộ c; có lẽ sẽ tố t
hơn khi nó i rằ ng cá i đó chỉ đơn giả n là biểu hiện củ a chính họ .
Dù thế nà o đi chă ng nữ a, vớ i thờ i gian và nhờ hiệu quả củ a hệ thố ng giá o dụ c, nó đã
thâ m nhậ p cá c tâ m hồ n và qua đó là toà n bộ xã hộ i. Giá o dụ c và huấ n thị đã tá c độ ng, nhưng
hiệu quả hơn thế nữ a, trong cù ng mộ t nghĩa là đạ o đứ c. Bắ t đầ u như từ mộ t nguyên tắ c sai
lầ m, chú ng khô ng giá trị hơn đạ o đứ c.
Đạ o đứ c cư trú , khô ng phả i trong tình cả m, nhưng trong nhữ ng thự c hà nh đơn giả n, cá c
nghĩa vụ khô ng gì khá c hơn là nhữ ng lề thó i đơn thuầ n, việc dạ y đạ o đứ c chủ yếu mang tính
hình thứ c. Hiểu biết về khuô n phép, sở hữ u nhữ ng châ m ngô n đã trở thà nh toà n bộ đạ o
đứ c. Đạ o đứ c đượ c họ c như ngườ i ta họ c vậ t lý hoặ c địa lý, chuyên tâ m huy độ ng ghi nhớ
chứ khô ng phả i nhậ n thứ c. Ý nghĩa đạ o đứ c khô ng tồ n tạ i; đạ o đứ c là toà n bộ vỏ ngoà i; giá
trị đạ o đứ c nằ m ở hình thứ c, khô ng phả i trong bả n chấ t hà nh độ ng, vẻ ngoà i thể hiện cá i
bên trong; ngườ i phô bà y, trong cá c diễn vă n, nhữ ng châ m ngô n tuyệt diệu, giớ i luậ t khô n
ngoan, là mộ t ngườ i đứ c hạ nh.
Ta có thể đoá n định hệ quả mà mộ t sự sai lệch ý nghĩa đạ o đứ c như vậ y có thể gâ y ra
trong tổ chứ c xã hộ i. Khi tình cả m chính trự c biến mấ t, khi ý nghĩa về cô ng lý bị là m sai lệch
hoặ c mấ t đi, khi ý niệm tố t xấ u bị lẫ n lộ n vớ i vẻ ngoà i củ a nó , khi sự thậ t bị chô n vù i và quy
ướ c ngự trị, xã hộ i lao đến sự phâ n rã , tiêu vong.
Vậ y cô ng lý khô ng đượ c nhậ n thứ c ở An Nam? Khô ng hề, khô ng nghi ngờ gì nữ a, tấ t cả
ngườ i dâ n đều có cả m giá c mơ hồ ít nhiều về nó ; ở đâ y, cô ng lý đượ c hướ ng dẫ n bở i cá c
nguyên tắ c sai lầ m, giả tạ o; cô ng lý khô ng phả i là biểu hiện củ a luậ t vĩnh cử u “vớ i phầ n bả n
vă n khô ng nằ m ở đâ u khá c ngoà i nhữ ng lý lẽ thiêng liêng và trong ý thứ c loà i ngườ i”. Trong
đứ c hạ nh củ a mố i tương quan mậ t thiết giữ a luậ t củ a bổ n phậ n và luậ t củ a hình phạ t, điều
nà y sẽ dự a trên cá c nguyên tắ c chuẩ n tương tự như luậ t đầ u tiên.
Ngườ i ta sẽ nhậ n ra rằ ng chú ng tô i nó i: “luậ t hình phạ t” và khô ng phả i là “luậ t” phổ
quá t. Luậ t dâ n sự , tư phá p, quyền con ngườ i khô ng tồ n tạ i ở An Nam, hoặ c ít nhấ t nó chưa
bao giờ đượ c xâ y dự ng; nó chỉ đơn giả n nằ m trong tậ p tụ c; nó chưa bao giờ là nộ i dung vớ i
cá c điều khoả n rõ rà ng. Và đâ y khô ng chỉ là mộ t sơ suấ t; đó là hậ u quả tự nhiên củ a mộ t
nguyên tắ c đã đượ c thể hiện: về mặ t đạ o đứ c, cá nhâ n khô ng tồ n tạ i; về mặ t phá p lý, khô ng
có cô ng dâ n An Nam. Đơn vị đạ o đứ c là gia đình; đơn vị hà nh chính cũ ng sẽ là gia đình hoặ c
nhữ ng gì chú ng ta có thể xem là phầ n mở rộ ng củ a nó : là ng xã . Nhà nướ c khô ng biết đến cá
nhâ n, nên nó khô ng phả i quan tâ m cá c quy tắ c chi phố i cá c quan hệ cá nhâ n, Bộ luậ t im lặ ng
trong việc liên quan đến tình trạ ng củ a con ngườ i và tà i sả n, hợ p đồ ng, nghĩa vụ , v.v. Nhưng
mặ t khá c, nó triển khai mộ t cá ch xa xỉ cá c quy chế, toà n bộ kho hình phạ t nhằ m đả m bả o sự
tô n kính củ a tô n giá o và việc duy trì uy quyền và truyền thố ng.
Bắc kỳ, Hà Nội - cổng Văn Miếu.
Bộ luậ t có cá c luậ t nghi lễ liên quan đến việc thờ cú ng tổ tiên và cá c lễ nghi, tang ma và
mộ phầ n, thiết lậ p cá c quy tắ c tang chế theo mứ c độ quan hệ họ hà ng và cá c quy tắ c chế
định và quả n lý tà i sả n thờ cú ng; thêm nữ a, cá c luậ t nghi lễ nà y cung cấ p cá c quy tắ c nghi
thứ c đặ c biệt đố i vớ i vua chú a và nó i chung á p dụ ng chú ng cho tấ t cả cá c quan chứ c cô ng.
Thêm và o đó , cá c nhà lậ p phá p thể hiện đầ y sự quan tâ m vớ i gia đình mà họ rấ t quan tâ m
hò ng bả o đả m sự nố i dõ i; kết hô n, ly dị, nhậ n con nuô i là phầ n nộ i dung củ a cá c quy định tỉ
mỉ; họ vĩnh viễn hó a quyền lự c gia trưở ng bằ ng việc ban hà nh cá c hình phạ t nghiêm khắ c.
Nhưng trong tấ t cả nhữ ng điều nà y, khô ng bao giờ có quan điểm hướ ng và o cá nhâ n; khô ng
bao giờ coi luậ t phá p là tà i sả n bấ t khả xâ m phạ m củ a cá nhâ n con ngườ i; con ngườ i chỉ tồ n
tạ i như mộ t thà nh viên củ a gia đình hoặ c củ a xã hộ i: mộ t gia đình lớ n. Cô ng lý An Nam
giố ng như đạ o đứ c: thự c dụ ng; mụ c đích là để đả m bả o trậ t tự cô ng và lợ i ích chung, thậ m
chí gâ y bấ t lợ i cho lợ i ích cá nhâ n.
II. Khổng giáo và ảnh hưởng của nó lên thiết chế chính trị
1. Quan niệm của Trung Hoa về nhà nước
Chú ng ta phả i dừ ng lạ i mộ t chú t để xem xét mộ t yếu tố mớ i, trong lĩnh vự c tiến hó a nà y
củ a xã hộ i An Nam, mà chủ ng tộ c đã khô ng rú t ra từ nền tả ng củ a chính nó . Có thể thừ a
nhậ n rằ ng cho đến nay tấ t cả nhữ ng gì chú ng ta đã thấ y về nền vă n minh An Nam đều là
nguyên bả n. Ngô n ngữ , tín ngưỡ ng, cá ch cư xử , phong tụ c, đạ o đứ c trong nướ c, tổ chứ c củ a
gia đình và là ng xã , tấ t cả điều nà y là củ a An Nam; nhưng chỉ điều đó , bở i vì tổ chứ c hiện tạ i
củ a dâ n tộ c An Nam đò i hỏ i mộ t ả nh hưở ng nướ c ngoà i, mộ t sự thú c đẩ y mà nếu khô ng có
thì nó sẽ khô ng đạ t đến mứ c độ ưu việt đượ c cô ng nhậ n ngà y nay. Nếu cá c nền mó ng đầ u
tiên củ a xã hộ i là thuầ n An Nam, thì tổ chứ c chính trị lạ i hoà n toà n Trung Hoa; nguyên tắ c
chủ trì quan niệm củ a nó là Trung Hoa; nguyên tắ c nà y là triết họ c.
Họ c thuyết triết họ c tạ i An Nam, tấ t cả nhậ p từ Trung Hoa, việc nà y dẫ n đến hệ quả lớ n
nhấ t: chính nó đã khở i xướ ng cho toà n bộ nền vă n minh Trung Hoa-An Nam; đó là điều mà
chú ng ta phả i nhìn nhậ n trong tấ t cả thiết chế đượ c lậ p bở i dâ n tộ c chinh phụ c.
Họ c thuyết củ a Khổ ng Tử , trên thự c tế, có mộ t đặ c tính chính trị nổ i trộ i; nó hà m chứ a,
và nó đú ng, trong nó mộ t giá o huấ n đạ o đứ c, tuy nhiên mụ c đích thiết yếu củ a nó là cai trị
con ngườ i cho tố t đẹp.
Nguyên lý triết họ c Trung Hoa là khô ng ngừ ng tu sử a bả n thâ n và tu chỉnh tha nhâ n.
Pauthier viết, “tu sử a hoặ c hoà n thiện bả n thâ n là tuyệt đố i cầ n thiết để đi đến cả i biến
nhữ ng ngườ i khá c. Ngườ i cà ng nổ i trộ i, thứ bậ c cà ng cao, nhiệm vụ tự hoà n thiện cà ng lớ n;
vậ y, Khổ ng phu tử coi việc trị nhâ n là sứ mệnh cao nhấ t và quan trọ ng nhấ t có thể đượ c
trao cho bậ c chí thá nh, như mộ t thiên mệnh thự c sự .”[177]
“Trong thiên hạ , triết gia Trung Hoa nó i, chỉ có bậ c chí thá nh, bằ ng khả nă ng nhậ n biết
thấ u đá o và hiểu đầ y đủ cá c quy luậ t nguyên thủ y củ a chú ng sinh, mớ i xứ ng đá ng sở hữ u
quyền lự c chủ tể và chỉ huy con ngườ i; ngườ i mà , bở i khả nă ng củ a mình có mộ t tâ m hồ n vĩ
đạ i, cao thượ ng, nhã nhặ n và dịu dà ng, có khả nă ng sở hữ u quyền lự c ban bố â n huệ trà n
đầ y; ngườ i mà , bở i khả nă ng củ a mình luô n trung thự c, đơn giả n, nghiêm trang, chính trự c
và cô ng bằ ng, có khả nă ng thu phụ c sự kính trọ ng và tô n sù ng; ngườ i mà , bở i khả nă ng củ a
mình đượ c khoá c lên hà o quang trí tuệ, và tà i nă ng mang lạ i từ mộ t sự họ c tậ p cầ n mẫ n, và
sự thô ng minh đưa đến mộ t sự truy cứ u chính xá c về nhữ ng điều ẩ n giấ u nhấ t, nhữ ng
nguyên tắ c tinh tế nhấ t, có khả nă ng phâ n biệt chính xá c giả châ n, thiện á c.”[178]
Nguyên tắ c kỳ diệu, trong thự c tế, đã trao cho tấ t cả cá c thiết chế chính trị và xã hộ i củ a
Trung Hoa và An Nam, cá i đặ c tính nà y dâ n chủ và sâ u sắ c đến mứ c đượ c bả o tồ n cho đến
ngà y nay: nhữ ng luậ t lệ vĩnh cử u, bấ t biến chi phố i nhâ n loạ i, dướ i mố i tương quan tay ba
củ a con ngườ i về bả n chấ t đượ c coi là đạ o đứ c hoà n hả o, trong quan hệ gia đình, cũ ng như
thà nh viên củ a xã hộ i, chỉ có thể đượ c nhậ n biết và dạ y dỗ hoà n hả o bở i nhữ ng ngườ i có vă n
hó a đạ o đứ c trí tuệ nhấ t; bằ ng cá ch họ c tậ p, bằ ng cô ng việc, bằ ng tâ m hồ n cao thượ ng, mỗ i
ngườ i đều có thể đạ t đến phẩ m giá tố i cao củ a “nhâ n giá o”, có thể xứ ng đá ng vớ i “thiên
mệnh”. Nguyên tắ c kỳ diệu, trong thự c tế, tô i nhắ c lạ i, nhưng á p dụ ng cho ngườ i Trung Hoa,
nghĩa là vớ i mộ t lý lẽ ấ u trĩ như là thả m họ a, đã cho nhữ ng hậ u quả thả m hạ i nhấ t: duy chỉ
“thá nh nhâ n” mớ i xứ ng đá ng vớ i vương quyền; vậ y bậ c đế vương phả i là mộ t “thá nh nhâ n”;
chỉ có “hiền nhâ n”, “quâ n tử ” mớ i có khả nă ng giá o huấ n và cai quả n con ngườ i; do đó , cá c
quan lạ i và họ c giả cai quả n và giá o huấ n con ngườ i phả i là “nhữ ng quâ n tử ”, “nhữ ng hiền
nhâ n”.
Tuy nhiên, từ nguyên tắ c nà y, nguồ n cộ i củ a rấ t nhiều sự giả dố i và quan niệm giả tạ o về
gia đình, khở i nên tấ t cả cá c họ c thuyết chính trị củ a Trung Hoa cù ng toà n bộ tổ chứ c củ a xã
hộ i An Nam.
Chưa hết, cò n cầ n phả i thêm và o nhữ ng giá o điều nà y sự lạ c quan ngâ y thơ củ a Viễn
Đô ng. Đố i vớ i triết gia Trung Hoa, bả n chấ t con ngườ i rấ t tố t, Mạ nh Tử nó i, “Bả n chấ t con
ngườ i, bẩ m sinh là tố t đẹp, như nướ c chả y xuố ng tự nhiên. Nếu khô ng có con ngườ i nà o tố t
bẩ m sinh, thì nướ c cũ ng chẳ ng theo lẽ tự nhiên mà chả y từ cao xuố ng thấ p.” Giả thuyết nà y
dẫ n đến nhữ ng giả thuyết khá c, khô ng kém phầ n lạ c quan, khô ng kém phầ n giả dố i: sự tố t
đẹp củ a gia đình, và ngườ i ta tổ chứ c xã hộ i theo mô hình củ a nó ; sự thiện hả o củ a chủ gia
đình, và ô ng đã đượ c trao quyền tuyệt đố i; sự xuấ t sắ c củ a lã nh đạ o cá c chủ gia đình: Hoà ng
đế hoặ c đạ i diện củ a ô ng, và như vậ y thuyết chuyên chế đế quyền đượ c thiết lậ p và thừ a
nhậ n, do đó điều huyễn hoặ c quá i gở nà y đượ c thự c tế hó a, “trò đù a vĩ đạ i” củ a mộ t chủ
nghĩa chuyên chế trị vì trong mộ t xã hộ i mang tinh thầ n dâ n chủ .
2. Nhà nước An Nam
Tổ chứ c hiện tạ i củ a Nhà nướ c An Nam khô ng phả i hoà n toà n là tá c phẩ m củ a sự đô hộ
Trung Hoa. Và o thờ i điểm xả y ra cá c cuộ c xâ m lă ng đầ u tiên củ a Thiên triều, quố c gia Giao
Chỉ đã trả i qua cá c biến đổ i xã hộ i để chuẩ n bị đó n nhậ n cá ch tổ chứ c cao cấ p mà ngườ i
chiến thắ ng ban cho.
Trên thự c tế, theo quan điểm chính trị, chú ng ta nên nghĩ rằ ng vớ i việc dâ n tộ c An Nam
đã trả i qua gầ n như song song cù ng giai đoạ n vớ i Đế chế Trung tâ m, rấ t có thể là giữ a nhà
nướ c man rợ Giao Chỉ đầ u tiên và nhà nướ c vă n minh củ a ngườ i dâ n An Nam đương thờ i đã
có mộ t thờ i kỳ chế độ phong kiến.
Chú ng ta biết rằ ng Trung Hoa, trướ c khi trở thà nh mộ t đế chế rộ ng lớ n như ngà y nay, là
mộ t liên minh đơn giả n củ a cá c bộ lạ c, mỗ i thủ lã nh là mộ t tù trưở ng hoặ c mộ t tiểu vương,
đượ c hợ p nhấ t bở i cá c cộ ng đồ ng chủ ng tộ c hay lợ i ích, dướ i sự chỉ huy củ a nhữ ng liên
minh mạ nh nhấ t. Mã i đến thế kỷ III TCN, tá m (sá u – BT) nướ c phong kiến nguyên thủ y bị
chinh phụ c dướ i uy quyền Hoà ng đế Tầ n Thủ y Hoà ng. Khô ng cò n nghi ngờ gì nữ a, An Nam
cũ ng vậ y, nhờ hiệu ứ ng tự nhiên củ a quy luậ t tiến hó a xã hộ i họ c phổ biến đố i vớ i tấ t cả cá c
dâ n tộ c.
Gia đình, mộ t tậ p thể vữ ng chắ c thà nh lậ p, đượ c tổ chứ c vữ ng mạ nh dướ i ả nh hưở ng
tô n giá o, như chú ng ta thấ y, có khả nă ng phá t triển vô hạ n. Chú ng tô i đã giả i thích là m thế
nà o mỗ i đứ a con trai trở thà nh ngườ i chủ gia đình, nhá nh chính, mà khô ng là m gia đình tan
rã , thậ m chí thay và o đó có thể mở rộ ng chi củ a nó . Sở hữ u cá c quy tắ c đầ y đủ , chính xá c,
đượ c biểu hiện bằ ng nhữ ng tín ngưỡ ng sâ u sắ c và có thể dễ dà ng thay đổ i, mộ t cá ch hợ p lý,
cho phù hợ p vớ i mộ t phạ m vi ngà y cà ng rộ ng lớ n, đó là mô hình phù hợ p để theo đó thiết
lậ p hoặ c, chính xá c hơn, tá i lậ p thị tộ c và bộ lạ c.[179]
Ngườ i đứ ng đầ u gia đình hoặ c dò ng họ , chủ sở hữ u củ a cả i và con ngườ i củ a tậ p thể,
vương quyền và giá o quyền, nhấ t thiết rồ i sẽ trở thà nh ngườ i đứ ng đầ u mộ t nhó m ngà y
cà ng mở rộ ng. Trong nhó m nà y, sự phâ n chia tà i sả n, cuộ c số ng chung dướ i quyền củ a
ngườ i cao niên nhấ t, là quy tắ c; mỗ i nhá nh thứ đều tổ chứ c lễ cú ng riêng, nhưng cá c nghi lễ
tô n vinh tổ tiên chung thì mỗ i nă m đều triệu hồ i đủ tấ t cả thà nh viên cù ng mộ t gố c rễ.
Ngườ i đứ ng đầ u củ a cộ ng đồ ng tuyệt vờ i nà y, mặ t khá c, đã tuâ n thủ cá c quy tắ c gia đình,
quyền phá n xử đố i vớ i tấ t cả cá c thà nh viên củ a nó . Nếu đượ c thêm và o, vì nhu cầ u riêng
củ a mình, nhó m có thể đi đến quyết định dự ng lên mộ t nhà thờ chung, mộ t ngô i nhà chung,
v.v. và đến đâ y ta thấ y rằ ng nó đã thiết lậ p mộ t tổ chứ c tuyệt đố i hoà n chỉnh.
Vẫ n là là ng xã ngà y nay, bộ má y hà nh chính thuầ n An Nam, đạ o đứ c cá nhâ n độ c lậ p,
khô ng có quyền giá m hộ ; mộ t nhà nướ c nhỏ trong nhà nướ c; tự quả n lý, phâ n phố i thuế và
thu chú ng để nộ p lạ i cho Quố c khố ; bả o đả m cho sự cai quả n lã nh thổ và bả o trì cá c cô ng
trình cô ng cộ ng; “trưở ng là ng”, tó m lạ i, là ngườ i điều chỉnh cá c vụ việc ngoà i phạ m vi can
thiệp củ a triều đình.
Nhưng nhà nướ c tự trị nhỏ bé nà y, tự nó khô ng đủ , cũ ng ghen tỵ vớ i sự độ c lậ p, quyền
lợ i, đặ c quyền củ a nó . Từ đó sự đố i chọ i, đấ u tranh, chiến tranh xả y ra liên miên; song song
vớ i đó là nhữ ng cuộ c liên minh, đồ ng minh, hợ p nhấ t chố ng lạ i mộ t kẻ thù chung; cứ thế là
mộ t sự mở rộ ng mớ i, mộ t cấ p độ mớ i vượ t lên trong tổ chứ c xã hộ i. Mộ t số thị tộ c thố ng
nhấ t tạ o thà nh mộ t bộ lạ c; mộ t số bộ lạ c tạ o thà nh mộ t vương quố c.
Như vậ y, gầ n như trướ c cuộ c xâ m lượ c củ a Trung Hoa, (có thể đã có ) nhà nướ c củ a quố c
gia Giao Chỉ mà sau nà y đượ c gọ i là Bách Việt hoặ c Trăm bộ lạc. Trung Hoa đã cho nhữ ng bộ
tộ c bá n man rợ nà y sự gắ n kết chính trị mà họ thiếu, và khiến vị vua bả n xứ trở thà nh chư
hầ u. Dướ i sự bả o vệ toà n nă ng nà y, vương quyền trở nên mạ nh mẽ hơn song song vớ i việc
quố c gia nhậ n thứ c đượ c về bả n thâ n và sứ c mạ nh củ a mình. Sau khi đá nh đuổ i kẻ xâ m
lượ c, An Nam lớ n lên; vương nghiệp trở thà nh Đế chế.
Hoà ng đế là chủ tế, giá o chủ , thẩ m phá n tố i cao. Đế quyền, như ban đầ u là thẩ m quyền
gia trưở ng, trở nên tuyệt đố i, khô ng chịu sự kiểm soá t nà o, khô ng ai đượ c khá ng cá o. Đố i
vớ i nền tả ng đó là tô n giá o; đố i vớ i cá c giớ i hạ n, là tậ p tụ c. Giố ng như quyền lự c gia trưở ng,
đó là sự thừ a kế; đượ c truyền theo cá c quy tắ c tương tự . Sự kế vị ngai và ng truyền từ nam
sang nam theo thứ tự quyền trưở ng nam; và bở i ngườ i sinh ra đầ u tiên, phả i hiểu, khô ng
phả i là con cả củ a nhữ ng ngườ i vợ thứ khá c nhau củ a nhà vua, mà là con cả trong cá c con
củ a hoà ng hậ u hợ p phá p, củ a ngườ i phụ nữ hạ ng nhấ t. Phụ nữ khô ng thể thờ cú ng tổ tiên, vì
lý do nà y bị loạ i khỏ i ngai và ng. Nhưng, như trong gia đình, trong trườ ng hợ p khô ng có
ngườ i thừ a kế nam, ngườ i phụ nữ vẫ n giữ mộ t thẩ m quyền nhấ t định, họ đượ c phép nhiếp
chính.
Nếu có quyền củ a mộ t ngườ i cha, Hoà ng đế cũ ng có nghĩa vụ . Ô ng ta phả i yêu thương
dâ n như con củ a mình: “Duy có vua gợ i lên niềm vui, chính là cha và mẹ củ a dâ n. Nhữ ng gì
dâ n yêu, yêu nó ; nhữ ng gì dâ n ghét, ghét nó ; đâ y là cá i gọ i là cha và mẹ củ a dâ n.”[180]
Ô ng ta phả i khích lệ sự tô n kính, đưa ra tấ m gương đứ c hạ nh. “Ngườ i nắ m mộ t đế chế
khô ng đượ c bỏ qua việc chă m chú t bả n thâ n để hà nh thiện và lá nh á c; nếu khô ng tính đến
nhữ ng nguyên tắ c nà y thì hậ u quả là đế chế tà n hoạ i.” [181] Đó là quỵ định và cũ ng là hình
phạ t. Ngườ i cha xử sự khô ng đú ng mự c đá nh mấ t sự kính trọ ng củ a con cá i; nhà vua xấ u
mấ t đi sự kính trọ ng củ a thầ n dâ n và ngai và ng củ a mình. “Đượ c lò ng dâ n sẽ có đượ c đế chế.
Mấ t lò ng dâ n sẽ mấ t đế chế. - Thiên Khang cá o có viết: ‘Thiên mệnh mang lạ i vương quyền
cho mộ t ngườ i khô ng trao nó cho anh ta mã i mã i’. Điều đó có nghĩa là bằ ng cá ch hà nh xử tố t
hoặ c cô ng bằ ng, ngườ i ta có đượ c nó ; cò n nếu hà nh xử xấ u hoặ c bấ t cô ng, ngườ i ta sẽ đá nh
mấ t nó .”[182]
Nam Định, ngày 28 tháng Mười hai năm 1897, kỳ thi Hương năm Đinh Dậu: các tân khoa làm lễ bái tại Vọng cung. ©
André Salle
Khô ng phả i tấ t cả nhữ ng thứ nà y đá ng ngưỡ ng mộ sao? Quả là vậ y; nhưng cá c con số là
giả dố i, chỉ có bộ khung bên ngoà i; quâ n độ i thiếu ngườ i, hả i quâ n thiếu tà u thuyền; mộ t sự
rỗ ng tuếch có tổ chứ c. Nó i tó m lạ i, đó chỉ là thêm mộ t giả tưở ng đượ c thừ a nhậ n. Dâ n tộ c An
Nam mà lạ i khô ng ả o tưở ng?
3. Nền hành chánh
Chính quyền dâ n sự có quyền tổ chứ c quâ n độ i. Việc nà y đượ c giao cho cá c quan vă n.
Vớ i nhữ ng gì chú ng ta đã biết, theo lý thuyết về ngườ i An Nam, thì nhữ ng quan chứ c đó
phả i là “nhữ ng hiền nhâ n”, “nhữ ng quâ n tử ”, nhữ ng tấ m gương đứ c hạ nh. Cò n chú ng tô i sẽ
nó i họ thự c sự là gì. Họ là nhữ ng Nho sĩ, nghĩa là ngườ i vượ t qua cá c kỳ thi vă n chương và
sở đắ c nhữ ng gì ở An Nam gọ i là mộ t sự đà o tạ o hoà n chỉnh, nghĩa là theo họ c thuyết Khổ ng
Tử và cá c nhà hiền triết theo trườ ng phá i củ a ô ng, nhữ ng sá ch thá nh hiền, lịch sử và vă n
chương Trung Hoa, lịch sử An Nam, luậ t tậ p tụ c hoặ c luậ t thà nh vă n.
Luro, trong tá c phẩ m đá ng nhớ củ a mình về đấ t nướ c An Nam, cho chú ng ta biết nhữ ng
bà i thi cử vă n chương nà y là gì. Có ba kỳ:[188]
1. Kỳ thi nử a nă m theo tỉnh nhằ m duy trì sở thích họ c tậ p trong dâ n chú ng.
2. Kỳ thi ba nă m mộ t lầ n, theo khu vự c, lú c đó Nho sinh đến lấ y bằ ng tú tà i và cử nhâ n.
3. Cá c kỳ thi tạ i kinh đô ở đó có sự tham gia củ a nhữ ng cử nhâ n đến từ cá c tỉnh khá c nhau củ a vương quố c,
nhữ ng ngườ i muố n đạ t đượ c hạ ng tiến sĩ.
Cá c bà i thi đều ở dạ ng thi viết và đều giố ng nhau, từ cá c kỳ thi cấ p tỉnh đến cá c kỳ thi ở
kinh đô ; sự khá c biệt duy nhấ t là trong sự lự a chọ n củ a cá c chủ đề, từ bậ c nà y sang bậ c
khá c, ngà y cà ng trở nên khó trình bà y hơn. Phầ n đầ u tiên liên quan đến việc giả i thích mộ t
đoạ n sá ch kinh điển, trong đó cá c thí sinh phả i thể hiện tấ t cả sự uyên bá c củ a họ . Thứ hai,
có hai bà i thơ sá ng tá c thể loạ i khá c nhau. Thứ ba là diễn giả i về mộ t chủ đề triết họ c đượ c
lấ y từ Tứ thư. Thứ tư, bắ t nguồ n gầ n đâ y, bao gồ m ba chủ đề, trong đó quan trọ ng nhấ t là
mộ t bà i tá n tụ ng hoặ c mộ t bà i nghị luậ n.
Tấ t cả bà i vă n, trong kỳ thi nử a nă m, đạ t điểm “tố i ưu”, ngườ i viết đượ c miễn trừ dâ n
binh và lao dịch trong mộ t nă m. Đố i vớ i cá c bà i vă n đá nh giá “ưu” hoặ c “bình”, họ hưở ng
quyền đượ c miễn trừ tương tự trong sá u thá ng. Số hưở ng đặ c quyền thườ ng quá nhiều đến
mứ c cá c quan chứ c hà nh chá nh là ng xã khô ng cò n có thể cung ứ ng đủ nhu cầ u về dâ n binh
và lao dịch. Tổ ng đố c sau đó đã ra lệnh duyệt lạ i lầ n cuố i cá c bà i vă n đạ t giả i và kỳ thi đã trở
thà nh mộ t cuộ c so tà i thự c sự .
Mộ t thờ i gian trướ c cá c cuộ c thi khu vự c, tấ t cả ứ ng sinh tú tà i phả i trả i qua mộ t kỳ sá t
hạ ch trướ c giá m họ c vù ng, giá o thụ truyền dẫ n cá c thí sinh đượ c chấ p nhậ n đến trướ c
thanh tra củ a tỉnh; sau đó tiến hà nh tiếp mộ t cuộ c loạ i bỏ mớ i sau mộ t kỳ kiểm tra. Mộ t khi
cuộ c sà ng lọ c nà y hoà n tấ t, cá c thí sinh đượ c chấ p nhậ n phả i biện minh cho “tiếng tố t về
trung thự c và khiêm tố n; nổ i tiếng về hiếu thả o và tình huynh đệ bằ ng hữ u; sự trong sạ ch và
khoan hò a”; con chá u phườ ng há t hoặ c con chá u trong gia đình nhữ ng ngườ i liệt và o quâ n
phiến loạ n bị loạ i khỏ i cá c kỳ thi.
Cá c thí sinh đạ t điểm xuấ t sắ c ở bố n trườ ng thi trong kỳ thi đượ c xếp hạ ng theo thà nh
tích tương ứ ng củ a họ và sau đó đượ c nhậ n danh hiệu cử nhâ n vă n chương cạ nh tranh để
lấ y số vă n bằ ng đượ c phâ n phố i trong vù ng. Nhữ ng ngườ i nà y đượ c xếp loạ i ngay sau khi
nhậ n bằ ng tú tà i. Cá c hạ ng “ưu” và “bình” cũ ng đủ điều kiện để nhậ n bằ ng tú tà i. Tú tà i, theo
danh hiệu củ a họ , đượ c miễn phụ c vụ quâ n độ i và lao dịch. Họ có thể thi lên cá c cuộ c thi ba
nă m mộ t lầ n nếu mong đạ t bằ ng cử nhâ n. Cá c cử nhâ n có thể đượ c bổ nhiệm là m giá m họ c,
nếu họ khô ng thích đến kinh đô để tham dự cá c kỳ thi tiến sĩ.
Cá c kỳ thi diễn ra ba nă m mộ t lầ n. Ngườ i ta tiến hà nh trên tấ t cả cá c điểm củ a vương
quố c. Nhữ ng ngườ i có bà i thi giá trị trong cuộ c thi đượ c nhậ n và o vò ng thi củ a triều đình,
diễn ra trong cung điện củ a nhà vua. Sau kỳ thi nà y, ba ngườ i đầ u tiên trong danh sá ch
đượ c tuyên xưng là tiến sĩ đệ nhấ t giá p. Cá c bà i thi khá c có thể mang lạ i cho tá c giả danh
hiệu tiến sĩ đệ nhị giá p hoặ c phó bả ng. Nhữ ng cử nhâ n khô ng đượ c nhậ n tham gia kỳ thi củ a
triều đình, đượ c Bộ Lạ i ghi danh và bổ nhiệm mộ t cô ng việc ở phủ hoặ c huyện khi có vị trí
bị khuyết. Tiến sĩ đệ nhấ t giá p có thể đượ c bổ nhiệm chứ c á n sá t ở cá c tỉnh; nhữ ng tiến sĩ đệ
nhị giá p có đượ c mộ t vị trí trong cá c Bộ hoặ c tỉnh. Phó bả ng đượ c bổ nhiệm cuố i cù ng, ngay
khi có mộ t chỗ khuyết.
Mộ t lự a chọ n như vậ y đưa đến kết quả gì? Cá c sả n phẩ m giả tạ o củ a việc họ c từ chương
nà y có giá trị gì? Chú ng có giá trị là điều chú ng mang lạ i cho chính hệ thố ng và cho sự đà o
tạ o ở An Nam.
Thay vì mộ t sự đá nh giá hoà n toà n ở khía cạ nh cá nhâ n mà có lẽ ngườ i ta có thể tin rằ ng
đượ c lấ y từ mộ t định kiến nà o đó , tô i thích đưa ra ở đâ y mộ t phá n xét từ mộ t ngườ i chính
trự c và anh minh, mộ t ngườ i ngưỡ ng mộ nền vă n minh Viễn Đô ng là Luro. Ô ng nó i, “ngườ i
ta có thể kết luậ n nhữ ng gì chú ng ta vừ a nêu (liên quan đến cá c kỳ thi vă n chương) rằ ng
thự c trạ ng giả ng dạ y cộ ng đồ ng ở An Nam tương ứ ng vớ i mộ t nền vă n minh rấ t tiến bộ và
xá n lạ n; hình ả nh về mộ t nền khoa họ c phổ biến rộ ng rã i, việc sắ p xếp thứ bậ c tạ o cho nghề
nghiệp hà nh chá nh và chính trị xứ ng đá ng nhấ t trong vô số đố i thủ cạ nh tranh, là nhữ ng
dấ u hiệu khô ng lừ a dố i củ a sự thịnh vượ ng kỹ nghệ và thương mạ i đá ng ghi nhậ n. Chú ng ta
đã thấ y rằ ng nó khô ng phả i như vậ y. Khoa họ c triết họ c và vă n chương mà chú ng tô i đã liệt
kê cá c kỳ thi và chương trình, thườ ng ấ u trĩ, đầ y kỹ xả o và vô cù ng phứ c tạ p như cá c đặ c
trưng củ a nó . Hoặ c họ có thể so sá nh kiến thứ c củ a ngườ i An Nam vớ i khoa họ c kinh viện
thờ i Trung cổ ; tấ t cả nỗ lự c tư tưở ng giớ i hạ n trong mộ t bà i luậ n miệt mà i về kinh sá ch
Trung Hoa. Do đó , mộ t triết lý bế tắ c và hoà n toà n ướ c lệ, coi thườ ng phương phá p thự c
nghiệm, chỉ có thể nả y sinh cá c lề lố i kinh nghiệm chủ nghĩa, khô ng có mụ c tiêu nghiêm tú c
và khô ng mang tính thiết thự c.” Chú ng tô i nó i thêm, nhìn chung, họ chỉ có thể hình thà nh
nhữ ng lố i tư duy sai lạ c, bả n lĩnh khô ng cao, con ngườ i khô ng cương trự c, quan chứ c hà nh
chá nh khô ng chu đá o.
Nguyên tắ c khô ng tưở ng trên đó là quyền hà nh chá nh đượ c thiết lậ p sẽ tă ng thêm khó
nhọ c mà ngườ i dâ n An Nam vố n đã phả i gá nh chịu. Hã y lắ ng nghe nhữ ng gì Mạ nh Tử nó i:
“Mặ c dù lã nh thổ củ a nướ c Đằ ng nhỏ hẹp, nhưng phả i có nhữ ng ngườ i quâ n tử vớ i kiến
thứ c củ a họ (cá c quan lạ i), và phả i có nhữ ng ngườ i nô ng phu. Nếu khô ng có ngườ i quâ n tử
hoặ c quan lạ i, sẽ khô ng có ai đứ ng ra cai quả n và điều hà nh nhữ ng nô ng phu, khô ng có nô ng
phu khô ng ai sẽ nuô i số ng nhữ ng ngườ i quâ n tử hoặ c quan lạ i. Đâ y là lý do tạ i sao ngườ i ta
nó i: mộ t số là m việc bằ ng đầ u ó c, nhữ ng ngườ i khá c là m việc bằ ng tay châ n. Nhữ ng ngườ i
là m việc vớ i trí ó c chi phố i con ngườ i; nhữ ng ngườ i lao độ ng châ n tay đượ c cai trị bở i con
ngườ i. Nhữ ng ngườ i bị cai trị bở i con ngườ i nuô i con ngườ i; nhữ ng ngườ i cai quả n con
ngườ i đượ c con ngườ i nuô i dưỡ ng. Đó là quy luậ t phổ quá t củ a thế giớ i.”[189]
[1]
CREDITS: kaoaye, Bọ Cạ p, Đình Trí, Hoa Quach, Kiều Mạ nh Tú , Nguyễn Bá Hoà ng
Xem thêm: Alfred Fouillée, Psỵchologie du Peuple français (Tâ m lý dâ n tộ c Phá p), Félix
[2]
Léopold Pallu, Nam kỳ viễn chinh ký 1861, Thanh Thư dịch, Nxb. Hồ ng Đứ c, Hà Nộ i, tr.
[3]
135-136.
[4]
Paul Giran, Tâm lý dân tộc An Nam, “Dẫ n nhậ p”, Omega+ và Nxb. Hộ i Nhà vă n, 2019, tr.
28.
[5]
Paul Giran, Tâm lý dân tộc An Nam, “Kết luậ n”, Omega+ và Nxb. Hộ i Nhà vă n, 2019, tr.
193.
Paul Giran, Tâm lý dân tộc An Nam, “Lờ i tự a”, Omega+ và Nxb. Hộ i Nhà vă n, 2019, tr
[6]
25-26.
[7]
Paul Giran, Tâm lý dân tộc An Nam, “Kết luậ n”, Omega+ và Nxb. Hộ i Nhà vă n, 2019, tr.
194.
Nguyễn Văn Trung, Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam: Thực chất và huyền thoại,
[8]
Navarre (1572-1610, dướ i tên Henri III). Henri IV là vị quâ n vương đầ u tiên củ a dò ng
Bourbon, có biệt danh Henri le Grand (Henri Đạ i đế), le bon roi Henri (Vua Henri Nhâ n á i)
hay le Vert galant (Ô ng Xanh hà o hiệp). Ô ng là mộ t trong nhữ ng vị quâ n vương quan tâ m
đến phú c lợ i củ a thầ n dâ n, kiên định vớ i lậ p trườ ng bao dung tô n giá o (ra chỉ dụ Nantes bả o
đả m quyền tự do cho nhữ ng ngườ i Thệ Phả n), mộ t quan điểm khá c thườ ng và o thờ i ấ y.
Ngà y 14 thá ng Nă m nă m 1610, ô ng bị France Ravaillac, mộ t ngườ i Cô ng giá o cuồ ng tín, á m
sá t - ND.
(Lưu ý của BBT: Từ đây trở về sau, những cước chú có đề “ND” là do người dịch bổ chú,
“BT” là biên tập viên, những cước chú không được ghi chú gì đều là của tác giả Paul Giran.)
Phá p bắ t đầ u chinh phụ c Algérie ngà y 14 thá ng Sá u nă m 1830. Quá trình nà y diễn ra
[11]
theo từ ng giai đoạ n và phả i đến nă m 1902, sau chiến dịch Sahara, ngườ i Phá p mớ i có thể
xem như đã chinh phụ c thà nh cô ng xứ sở Bắ c Phi nà y. Tính đến khi già nh lạ i độ c lậ p nă m
1962, phầ n giá p Địa Trung Hả i củ a Algérie bị tính và o lã nh thổ Phá p, phầ n cò n lạ i là thuộ c
địa - BT.
về mộ t “quố c tịch Phá p”. Sau luậ t nhậ p tịch tự độ ng nă m 1790 cho tấ t cả ngườ i nướ c ngoà i
có ít nhấ t 5 nă m cư trú tạ i Phá p, bộ luậ t Napoleon á p đặ t khá i niệm quố c tịch hiện đạ i khô ng
chỉ đố i vớ i Phá p, mà cò n đố i vớ i phầ n cò n lạ i củ a châ u  u. Nó tạ o ưu thế cho mố i quan hệ
huyết thố ng: quố c tịch bâ y giờ là mộ t thuộ c tính cá nhâ n chuyển qua quan hệ gia đình và
khô ng cò n phụ thuộ c và o nơi cư trú .
Nhữ ng nă m 1880 đượ c đá nh dấ u bằ ng sự củ ng cố củ a chế độ Cộ ng hò a, mộ t cuộ c khủ ng
hoả ng kinh tế nghiêm trọ ng từ nă m 1882, că ng thẳ ng vớ i Đứ c và sự trỗ i dậ y củ a chủ nghĩa
dâ n tộ c, mộ t số dự luậ t ra đờ i nhằ m xử lý tình trạ ng củ a ngườ i nướ c ngoà i. Nă m 1889, ra
đờ i mộ t đạ o luậ t có thể đượ c coi là “Bộ luậ t Quố c tịch” đầ u tiên, liên quan đến cả việc đạ t
đượ c tư cá ch cô ng dâ n Phá p và nhậ p tịch Phá p. Nó cũ ng tạ o ra mộ t sự thay đổ i cơ bả n cho
Bộ luậ t Dâ n sự vì rà ng buộ c ngay đố i vớ i mộ t phầ n củ a ngườ i nướ c ngoà i sinh ra ở Phá p -
ND.
Về mặ t địa lý, giữ a đả o Sicile và vương quố c Tunisie là kênh Sicile (hay kênh Cap
[13]
Ở đoạ n nà y tá c giả có ngầ m ý nhắ c đến cá c phá i bộ tà i chính Phá p-Anh-Ý can thiệp và o
[14]
vương quố c Tunisie; tấ t cả bắ t đầ u từ việc hai bey - ngườ i đứ ng đầ u chính quyền vương
quố c Tunisie - khiến cho vương quố c mắ c nợ cá c chủ ngâ n hà ng Paris mộ t khoả n lớ n nhưng
khô ng thu xếp thương thả o đượ c, dẫ n đến việc hình thà nh mộ t ủ y ban tà i chính châ u  u can
thiệp mạ nh và o chính trườ ng Tunisie - ND.
dà nh cho Abd el-Kader, thủ lã nh lớ n củ a cuộ c chiến chố ng Phá p ở Algérie. Trướ c că ng
thẳ ng, Tổ ng thố ng Ihomas Robert Bugeaud khẳ ng định trướ c ngườ i Maroc về sự cầ n thiết
củ a việc phâ n định biên giớ i giữ a Maroc và cá c tà i sả n củ a Phá p ở Algérie, đồ ng thờ i đò i hỏ i
vương quố c nà y ngừ ng ủ ng hộ Abd el-Kader. Ngườ i Maroc khô ng đá p ứ ng cá c yêu cầ u củ a
Phá p, chính phủ củ a Louis-Philippe quyết định thự c hiện mộ t cuộ c phô trương vũ lự c bằ ng
cá ch gử i mộ t hạ m độ i chiến tranh, do Hoà ng tử de Joinville chỉ huy, ném bom Tangier ngà y
6 thá ng Tá m nă m 1844, trướ c khi tấ n cô ng Mogador.
Sau thấ t bạ i củ a Maroc, Hiệp ướ c Tangier đã đượ c ký kết mộ t thá ng sau đó , ngà y 10
thá ng Chín nă m 1844. Maroc cô ng nhậ n sự hiện diện củ a Phá p ở Algérie và ngừ ng mọ i hỗ
trợ chính thứ c cho Abd el-Kader - tuyên bố ngườ i nà y ở ngoà i vò ng phá p luậ t Maroc và
Algérie - và xá c nhậ n quá trình định rõ biên giớ i vớ i Algérie. Mogador đượ c sơ tá n và o ngà y
16 thá ng Chín, biên giớ i giữ a Maroc và cá c tà i sả n củ a Phá p ở Algérie đượ c xá c định chắ c
chắ n bở i hiệp ướ c Lalla Maghnia ký ngà y 18 thá ng Ba nă m 1845.
Ngà y 30 thá ng Ba nă m 1912, Maroc trở thà nh xứ bả o hộ củ a Phá p. Ngà y 2 thá ng Ba nă m
1956, vương quố c già nh lạ i độ c lậ p - ND.
Atlantis: tứ c lụ c địa mấ t tích. Và o khoả ng 9.000 nă m trướ c thờ i củ a Plato, sau khi
[16]
vương quố c Atlantis suy tà n, cá c vị thầ n quyết định phá hủ y lụ c địa nà y bằ ng mộ t trậ n độ ng
đấ t khủ ng khiếp vớ i nhữ ng trậ n só ng thầ n nhấ n chìm toà n bộ nhữ ng cô ng trình và nén vă n
minh Atlantis xuố ng đá y biển. Atlantis như tưở ng tượ ng củ a thờ i hiện đạ i. Khô ng cuộ c
tranh luậ n nà o về Atlantis đượ c xem là đầ y đủ nếu khô ng nhắ c tớ i nhữ ng tuyên bố mang
tính tưở ng tượ ng trong thế kỷ XIX và XX về lụ c địa đã mấ t tích. Theo Donnelly, Atlantis củ a
Plato là ngọ n nguồ n củ a mọ i thà nh tự u vă n hó a và mọ i nền vă n minh tạ i Ai Cậ p, Tâ y Á , Ấ n
Độ và châ u  u, cũ ng như Nam và Bắ c Mỹ. Lậ p luậ n củ a Donnelly khô ng dự a trên khoa khả o
cổ hay địa lý và khô ng hề có bằ ng chứ ng nà o về nguồ n gố c chung củ a mọ i nền vă n hó a - ND.
Vịnh Gabès: trướ c đâ y đượ c gọ i là Minor Sirte (Minor Syrtis) hoặ c Little Sirte, là mộ t
[17]
vịnh nằ m ở bờ biển phía đô ng Tunisie, chiếm mộ t vị trí đặ c quyền ở trung tầ m Địa Trung
Hả i - ND.
[18]
Ở đâ y ngườ i viết á m chỉ Anh quố c trong mố i quan hệ vớ i cự u thuộ c địa Bắ c Mỹ - BT.
[19]
Ở đâ y Aymonier muố n nó i đến nhữ ng ngườ i cả i cá ch ngô n ngữ ở Madagascar - ND.
mươi “biến thể” địa phương, thườ ng đượ c gọ i là “phương ngữ ”. Ở cấ p độ từ vự ng, hơn 90%
từ vự ng truyển thố ng củ a ngô n ngữ Malagasy, có thể đượ c xá c định có nguồ n gố c từ
Austronesian. Phầ n cò n lạ i là gố c Bantu, Arabo-Swilian hoặ c tiếng Phạ n. Cá c từ mượ n lâ u
đờ i nhấ t dườ ng như có nguồ n gố c từ tiếng Phạ n thô ng qua tiếng Malay trong thiên niên kỷ
đầ u tiên. Đâ y thự c sự là nhữ ng ngườ i nó i tiếng Malay ở Đô ng Nam Á , nhữ ng ngườ i đầ u tiên
chịu ả nh hưở ng củ a cá c nền vă n hó a Ấ n Độ .
Chữ viết hiện đạ i củ a ngô n ngữ Malagasy trong bả ng chữ cá i La-tinh đã đượ c sử a bở i sắ c
lệnh và o ngà y 26 thá ng Ba nă m 1823, sau cuộ c tham vấ n giữ a Vua Radama I và cá c nhà
truyền giá o ngườ i Anh. Nguyên tắ c là phụ â m nên đượ c viết như tiếng Anh và nguyên â m
như tiếng Ý . Trướ c đó , mộ t số họ c giả củ a vương quố c đã sử dụ ng bả ng chữ cá i tiếng Ả Rậ p
đượ c phá t triển ở phía đô ng nam củ a hò n đả o.
Đố i vớ i nguyên nhâ n củ a sự xuấ t hiện củ a nhữ ng ngườ i Austronesian nà y, lịch sử củ a Ấ n
Độ Dương từ đầ u thiên niên kỷ đầ u tiên củ a thờ i đạ i chú ng ta vẫ n cò n rấ t ít đượ c biết đến.
Ngườ i ta chỉ có thể cho rằ ng đả o Madagascar đó ng vai trò quan trọ ng trong thương mạ i, đặ c
biệt là cá c loạ i gia vị, giữ a Đô ng Nam Á và Trung Đô ng, trự c tiếp hoặ c qua bờ biển chầ u Phi -
ND.
giá o (gồ m linh mụ c và nữ tu) và ngườ i Phá p, đã bị sá t hạ i ở Thiên Tâ n. “Vụ thả m sá t Thiên
Tâ n” gâ y xô n xao cộ ng đồ ngquố c tế tạ i Trung Quố c, gâ y ra phả n ứ ng phẫ n nộ củ a giớ i ngoạ i
giao Phá p và khiến quâ n độ i nướ c ngoà i phả i can thiệp. Vụ việc nà y chấ m dứ t giai đoạ n
quan hệ hữ u hả o giữ a nhà Thanh (triều Đồ ng Trị) và cá c thế lự c nướ c ngoà i, ả nh hưở ng đến
tiến trình tá i thương thuyết cá c điều khoả n trong Hò a ướ c Thiên Tâ n ký nă m 1858 - ND.
phá p luậ t. Luậ t phá p ủ ng hộ ngườ i chiếm hữ u, trong khi bấ t kỳ ai khá c phả i chứ ng minh yêu
cầ u củ a mình - ND.
Sự lên ngô i củ a Hoà ng đế trẻ Mutsuhito, tiếp theo là cá c cuộ c nổ i loạ n và á m sá t chính trị,
đá nh dấ u sự khở i đầ u củ a mộ t kỷ nguyên mớ i, thờ i đạ i Meiji. Theo cá c hiệp ướ c bấ t bình
đẳ ng vớ i cá c cườ ng quố c nướ c ngoà i, chính phủ mớ i có nghĩa vụ phả i hiện đạ i hó a và cô ng
nghiệp hó a cà ng sớ m cà ng tố t, để khô ng rơi và o sự thố ng trị củ a cá c nướ c phương Tâ y như
trườ ng hợ p củ a Trung Quố c.
Trong thế kỷ XIX, Trung Quố c đã trả i qua thờ i kỳ suy tà n trì trệ và sự sỉ nhụ c quố c tế.
Nhữ ng thấ t bạ i trong cuộ c chiến tranh thuố c phiện thứ nhấ t, lầ n thứ hai, cuộ c chiến tranh
Phá p-Trung và cuộ c chiến tranh Trung-Nhậ t đầ u tiên, cũ ng như cá c hiệp ướ c bấ t bình đẳ ng,
là m nổ i bậ t sự mong manh củ a Trung Quố c khi đổ i mặ t vớ i thế giớ i bên ngoà i và sự sai lầ m
củ a hệ thố ng đế quố c. Thấ t bạ i trướ c Nhậ t Bả n là mộ t cú số c lớ n đố i vớ i Trung Quố c vì gâ y
ra bở i mộ t nhà nướ c đượ c coi là chư hầ u, nhỏ hơn nhiều và bị coi là “thấ p kém”. Hơn nữ a,
sự thấ t bạ i củ a Trung Quố c trướ c Nhậ t Bả n dẫ n đến mộ t cuộ c đua già nh “đặ c quyền” từ cá c
cườ ng quố c nướ c ngoà i khá c, đặ c biệt là từ Đứ c và Nga, rũ bỏ chủ nghĩa bả o thủ - ND.
[25]
Phan Thanh Giả n (1796-1867): mộ t nhâ n vậ t lịch sử quan trọ ng can hệ nghiêm trọ ng
đến vấ n đề Phá p chiếm trọ n Nam kỳ lụ c tỉnh nă m 1867. Ngà y 20 thá ng Sá u nă m 1867, Phá p
đá nh chiếm thà nh Vĩnh Long, trướ c sứ c mạ nh quâ n sự củ a liên quâ n Phá p-Tâ y Ban Nha,
ô ng ra lệnh cho thủ thà nh An Giang và Hà Tiên đầ u hà ng. Mồ ng 5 thá ng Bả y nă m Đinh Mã o
(tứ c ngà y 4 thá ng Tá m nă m 1867), ô ng uố ng thuố c độ c tự tử - BT.
Tô n Thấ t Đạ m (1864-1888): con trai trưở ng củ a Nhiếp chính Tô n Thấ t Thuyết thờ i
[26]
Vua Hà m Nghi, là mộ t trong nhữ ng chỉ huy củ a phong trà o Cầ n Vương. Cù ng vớ i em trai là
Tô n Thấ t Thiệp, ô ng đượ c giao nhiệm vụ bả o vệ Vua Hà m Nghi từ thá ng Hai nă m 1886 đến
thá ng Mườ i nă m 1888. Cuố i nă m 1888, Vua Hà m Nghi bị bắ t, hay tin, ô ng tự tử - BT.
[27]
Nguyên vă n tá c giả dù ng từ Moi, tứ c người Mọi: từ đượ c ngườ i Phá p dù ng để gọ i gộ p
nhữ ng cộ ng đồ ng ngườ i lú c bấ y giờ số ng ở cá c vù ng nú i, giá p vớ i khu vự c sinh số ng củ a
ngườ i An Nam trong vương quố c An Nam; cá c cộ ng đồ ng nà y từ ng có nhữ ng vương quố c
riêng, có thể từ ng phả i chịu lệ thuộ c và phả i triều cố ng cho vương quố c An Nam xưa. Sau
nhiều biến chuyển về địa-chính trị, trong tâ m thứ c ngườ i Việt Nam hiện đạ i quen gọ i gộ p
cá c cộ ng đồ ng nà y là “dâ n tộ c thiểu số ” - BT.
Chữ “Quố c ngữ ” hay chữ Việt viết vớ i chữ cá i La-tinh đã đượ c cá c giá o sĩ truyền giá o
[28]
É tienne Aymonier (1844-1929): nhà ngô n ngữ họ c và thá m hiểm ngườ i Phá p. Ô ng là
[29]
ngườ i đầ u tiên khả o sá t có hệ thố ng sự suy tà n củ a Đế chế Khmer, trả i khắ p Campuchia,
Thá i Lan, Là o và miền Tâ y Nam Bộ Việt Nam ngà y nay. Ô ng trở thà nh giá m đố c đầ u tiên củ a
Trườ ng Thuộ c địa, từ ng là thà nh viên củ a Hộ i Đồ ng quả n trị Hộ i Phá p Vă n Liên hiệp. Ô ng đã
thu thậ p đượ c mộ t lượ ng lớ n tá c phẩ m điêu khắ c Khmer cổ mà nay đượ c trưng bà y tạ i Bả o
tà ng Guimet, Paris; đồ ng thờ i là tá c giả củ a nhiều tá c phẩ m về ngô n ngữ Chă m - BT.
[31]
Jean Louis Armand de Quatrefages de Bréau (1810-1892): nhà sinh họ c ngườ i Phá p, là
ngườ i phê bình Darwin song khô ng chố ng lạ i tiến hó a luậ n. Nhữ ng nghiên cứ u về phẫ u
thuậ t họ c củ a ô ng vẫ n cò n giá trị đến ngà y nay, nhưng nhiều cô ng trình khá c đã bị quên
lã ng - BT.
trên kiến thứ c chung về quá trình giố ng Indonesian (Cổ Mã Lai) xưa cư trú ở tiểu lụ c địa Ấ n
Độ , bị giố ng Aryan (nay gọ i là Ấ n-Â u) xâ m lấ n (hồ i 30-50 Ka BP), nên phả i chạ y sang phía
đô ng, trong đó có bá n đả o Trung Ấ n.
Finot cho rằ ng tạ i phía đô ng bắ c bá n đả o, giố ng ngườ i Indo hợ p vớ i giố ng da và ng là m
thà nh giố ng Việt Nam - ND.
Eugène Cortambert và Léon de Rosny, Tableau de la Cochinchine (Giớ i thiệu vù ng đấ t
[33]
Phá p đương thờ i), Challamel, ainé, Librairie Maritime et Coloniale, Paris, nă m 1885.
[35]
Culi: nghề tay châ n; ở đâ y chỉ ngườ i giú p việc tay châ n - ND.
[36]
Culi-xe: phu kéo xe - ND.
“É tat de la Cochinchine française pendant les années 1900 et 1901” (Tình hình xứ
[37]
Nam kỳ thuộ c Phá p, giai đoạ n 1900-1901), Thông cáo chính thức của Chính quyền Nam kỳ.
(Ở thờ i điểm nă m 1904 nà y, có thể ở đâ y tá c giả Paul Giran muố n nó i đến tá c phẩ m
Lhéredité: Etude psỵchologique sur ses phénomènes, ses lois, ses causes, ses consequences (Di
truyển: Nghiên cứ u tâ m lý về hiện tượ ng, quy luậ t, nguyên nhâ n và hệ quả củ a nó ), Librairie
philosophique de Ladrange, Paris, 1873 - BT.)
Alfred Fouillée, Psychologie du peuple français (Tâ m lý dâ n tộ c Phá p), F. Alcan, Paris,
[41]
nă m 1898.
Léon Cahun, Introduction à l’histoire de L’Asie (Dẫ n nhậ p lịch sử châ u Á : ngườ i Độ t
[42]
Ê lisée Reclus và Onésime Reclus, L’Empire du milieu (Đế chế Trung tầ m: khí hậ u, đấ t
[43]
chia thà nh nhữ ng chu kỳ 12 nă m. Ngườ i Ấ n Độ , ngườ i Trung Hoa, ngườ i Đô ng Dương (và
trong số đó , ngay cả nhữ ng dâ n cư rừ ng nú i như Lô lô ) đều sử dụ ng cù ng cung hoà ng đạ o có
con giá p trù ng tên ở khắ p mọ i nơi: chuộ t, bò , hổ , thỏ , rồ ng, rắ n, ngự a, dê, khỉ, gà , chó , lợ n.
Đâ y là mộ t thự c tế cho thấ y sự tiếp xú c cổ xưa, thườ ng xuyên và kéo dà i giữ a cá c dâ n tộ c
khá c nhau, nếu khô ng từ mộ t nguồ n gố c chung.
nghĩa là “cha cao quý” hoặ c “ngườ i cha đượ c tô n kính”. Về sau ô ng đượ c Chú a đổ i tên thà nh
Abraham, nghĩa là “cha củ a nhiều dâ n tộ c”. Ô ng đượ c tô n là m là tổ phụ củ a ngườ i Do Thá i
và ngườ i Ả Rậ p. Ba tô n giá o lớ n là Do Thá i giá o, Cơ Đố c giá o và Hồ i giá o thườ ng đượ c gọ i
chung là “cá c tô n giá o khở i nguồ n từ Abraham” - BT.
Man và Tâ y Nhung củ a quan niệm Trung Quố c cổ xưa; do nhữ ng ngườ i Giao Chỉ số ng ở phía
nam vù ng trung tâ m Trung Hoa nên nằ m trong nhó m Nam Man - BT.
Giao Chỉ: có ngó n cá i tá ch khỏ i cá c ngó n khá c. Đó là mộ t dấ u vết khô ng chố i cã i chỉ có
[48]
Trong lịch sử , cao nguyên Hoà ng Thổ (loess plateau) từ ng cung cấ p nơi trú ẩ n đơn sơ
[49]
[50]
É lisée Reclus và Onésime Reclus, L’Empire du milieu, sđd.
[53]
Tứ c Đế quố c Trung tâ m, Trung Hoa - BT.
Phong tụ c nà y chỉ bắ t nguồ n sau khi cá c bộ lạ c Mã n Châ u cuộ c chinh phạ t thà nh cô ng
[54]
vù ng Trung Nguyên.
Phương ngữ Há n Việt (tên nà y đượ c hiểu là cá ch phá t â m cụ thể đượ c ngườ i An Nam
[55]
gá n cho cá c chữ biểu ý củ a Trung Hoa) rấ t gầ n vớ i phương ngữ Quả ng Đô ng, như có thể
thấ y trong bả ng từ vự ng sau đâ y, trong đó chú ng tô i đặ c biệt lưu ý nơi cá c phụ â m đầ u tiên,
ở sự hoá n vị củ a cá c chữ cá i p, k, y, p, s, t, ch và ts củ a tiếng Quả ng Đô ng vớ i b, g, n, b, t, d, 0
trong tiếng An Nam:
Đố i vớ i cá c biến đổ i ở â m cuố i, có sự giố ng nhau đá ng kể giữ a phương ngữ Quả ng Đô ng
và An Nam; do đó ; , ví dụ như bố n ngữ điệu cuố i sau đâ y, và khô ng bao giờ thấ y trong
phương ngữ tiếng Hoa, ở Nam Kinh, giố ng nhau ở tiếng An Nam và tiếng Quả ng Đô ng:
ở Trung Hoa - Phầ n “Ngườ i da và ng”), Berger-Levrault & cie, Paris, nă m 1902, tr. 142.
[57]
Tứ c cuố i thế kỷ XIX, đầ u thế kỷ XX - BT.
Alexandre de Rhodes, đượ c vẽ và o thế kỷ XVII, cho thấ y vịnh có hình tam giá c rõ nét hơn
nhiều so vớ i ngà y nay: đỉnh củ a gó c phía tâ y đã bị phù sa sô ng bồ i đắ p dầ n. Nhữ ng ngọ n đồ i
nằ m ở đồ ng bằ ng và chạ y xuô i về phía biển giả m dầ n về chiều cao so vớ i bờ hiện tạ i, từ ng là
nhữ ng hò n đả o nơi só ng đã đà o hang sâ u, để lạ i dấ u vết xó i mò n và vỏ sò biển.
Cá c tà i liệu Trung Hoa chứ ng minh rằ ng và o nhữ ng nă m 600 củ a thiên niên kỷ nà y, Hà
Nộ i là mộ t cả ng biển, và cũ ng chỉ ra sự bồ i lấ n hằ ng nă m khoả ng 48 mét đấ t trên mặ t nướ c.
Thế hệ hiện tạ i chứ ng kiến sự hình thà nh tổ ng Kim Sơn, ở tỉnh Nam Định từ nă m 1831.
Vù ng duyên hả i sô ng Đá y tă ng lên ba tổ ng trong nhữ ng nă m gầ n đâ y. Nhữ ng trung tâ m nơi
ngườ i Hà Lan buô n bá n hai thế kỷ trướ c, và đặ c biệt là Hưng Yên, giờ có nă m hoặ c sá u nơi
cậ p bến” (Bouinais và Paulus, L’Indo-Chine française contemporaine, sđd).
Jean Baptiste É liacin Luro, Henri Louis Gabriel de Bizemont (Tử tướ c), Le pays
[59]
d’Annam. Étude sur l’organisation politique et sociale des Annamites (Xứ An Nam. Nghiên
cứ u về tổ chứ c chính trị và xã hộ i củ a ngườ i An Nam), Saint-Germain, Paris, nă m 1878.
Ở đâ y có lẽ tá c giả Paul Giran muố n đề cậ p đến tá c phẩ m sau củ a Cha Adrien Launay:
Histoire ancienne et moderne de l’Annam, Tong-King et Cochinchine: depuis l’année 2700
avant l’ère chrétienne jusqu’à nos jours (Lịch sử cổ xưa và hiện tạ i củ a ba xứ Bắ c kỳ, Trung
kỳ và Nam kỳ: kể từ nă m 2700 TCN đến thờ i chú ng ta), Challamel ainé, Paris, nă m 1884 -
BT.
Jean Baptiste É liacin Luro, Henri Louis Gabriel de Bizemont (Tử tướ c), Le Pays
[61]
d’Annam, sđd.
Quả ng Đô ng, trên biên giớ i Bắ c kỳ, từ Mó ng Cá i đến Là o Kay, đã tìm thấ y tớ i hai mươi hai
nhó m ngữ vự ng khá c nhau, việc so sá nh cho phép khô i phụ c bố n nhó m thà nh phầ n dâ n tộ c
rõ rệt ở khu vự c nà y: Thá i, Má n, Mèo và Lô lô . Cũ ng như ngườ i Miêu và Dao ở Trung Hoa, ở
An Nam ngườ i Thá i, ngườ i Má n, ngườ i Mèo, ngườ i Lô lô tự cô lậ p mình khỏ i nhữ ng ngườ i di
cư đến; họ tỵ nạ n ở vù ng nú i, khu vự c nguy hiểm và khó tiếp cậ n mà ngườ i An Nam khô ng
muố n xâ m nhậ p, họ đã giữ đượ c ngô n ngữ , phong tụ c, tậ p quá n và tổ chứ c nguyên thủ y củ a
họ . Mặ t khá c, điều kiện cư trú gó p đa phầ n để duy trì chú ng trong tình trạ ng hoang sơ.
Tuy nhiên, bấ t chấ p sự cô lậ p hoang dạ i nà y, mộ t hiện tượ ng tự thâ m nhậ p chủ ng tộ c
phả i xả y ra giữ a ngườ i nhậ p cư và ngườ i bả n xứ . Chủ ng tộ c Thá i đặ c biệt “tự biến chuyển
qua hình ả nh củ a nhữ ng dâ n tộ c mà nó đã tiếp cậ n trên đườ ng đi củ a mình, ngườ i Thá i ở
Vâ n Nam giố ng vớ i ngườ i ở Trung Hoa... ở Là o và ngườ i Xiêm ở Khmer”, và như “ngườ i Thá i
củ a Bắ c kỳ tạ i An Nam” (Louis Finot, Rapport annuel sur les travaux de l’Ecole Française
d’Extrême-Orient, 1900).
Để ả nh hưở ng nà y có thể xả y ra, mộ t sự giao thương phả i đượ c thiết lậ p giữ a hai cộ ng
đồ ng cư dâ n; do đó , chú ng ta có thể thừ a nhậ n khô ng quá khinh suấ t, rằ ng có mộ t yếu tố
bả n địa xâ m nhậ p, ở mộ t mứ c độ nhấ t định, và o sự định hình kiểu mẫ u chủ ng tộ c ngườ i An
Nam hiện tạ i. Phầ n nà y chắ c chắ n là rấ t yếu; ngà y nay nó khô ng để lạ i dấ u vết gì rõ rà ng, bố i
cả nh nguyên thủ y cũ củ a chủ ng tộ c đã trả i qua nhữ ng thay đổ i quá thườ ng xuyên và quá
sâ u đậ m. Tuy nhiên, sự pha trộ n đầ u tiên nà y đã đó ng gó p ở mộ t mứ c độ nhấ t định để giú p
nhữ ng ngườ i mớ i đến dễ dà ng thích nghi hơn dướ i mộ t vù ng khí hậ u nhiệt đớ i họ cò n chưa
quen thuộ c.
gầ n vớ i “quố c gia”, “vương quố c củ a ngườ i Chă m”, khô ng phả i về mặ t “nhó m dâ n cư” - BT.
[68]
2. Sau khi đà n á p cuộ c khá ng cự củ a ngườ i Chă m và o nă m 1505, An Nam tiến hà nh
đó ng quâ n ở cá c vù ng đấ t củ a ngườ i Chă m mớ i chinh phụ c đượ c. Cha Launay nó i, “Bằ ng
cá ch định cư trên xứ sở nà y, ngườ i An Nam đã là m việc sá p nhậ p trở nên bền vữ ng hơn.
Tuy nhiên, sự hợ p nhấ t chủ ng tộ c đã khô ng diễn ra; ngườ i An Nam ít kết hô n vớ i ngườ i ở
xứ nà y; nhưng, nhờ sự sinh sả n nhanh chó ng củ a họ , chủ ng tộ c bạ i trậ n dầ n dầ n bị đẩ y trở
lạ i và o nú i” (sđd).
“Sự miễn dịch nà y có thể đượ c giả i thích”, theo Bouinais và Paulus, “bằ ng cá ch khai
[69]
[70]
Auguste Comte (1798 -1857): mộ t nhà tư tưở ng Phá p, nhà lý thuyết xã hộ i, ngườ i tạ o
ra ngà nh xã hộ i họ c, nhà thự c chứ ng luậ n đã đưa ra thuậ t ngữ Sociology (Xã hộ i họ c). Ô ng
đã đó ng gó p khô ng nhỏ và o lĩnh vự c xã hộ i họ c củ a thế giớ i, nhữ ng đó ng gó p củ a ô ng về
mặ t lý thuyết như quan niệm về xã hộ i họ c, xem xã hộ i họ c là khoa họ c nghiên cứ u cá c tổ
chứ c xã hộ i. Quan điểm nhìn nhậ n về xã hộ i và cấ u trú c xã hộ i bao gồ m: bộ phậ n, thà nh tố ,
quan hệ, sắ p xếp theo trậ t tự nhấ t định. Ô ng xem xã hộ i là mộ t hệ thố ng có cấ u trú c, cá
nhâ n, gia đình và cá c tổ chứ c xã hộ i.
Auguste Comte cho rằ ng xã hộ i họ c phả i có nhiệm vụ gó p phầ n tổ chứ c lạ i xã hộ i và lậ p
lạ i trậ t tự xã hộ i dự a và o cá c quy luậ t tổ chứ c và biến đổ i xã hộ i do xã hộ i họ c nghiên cứ u
phá t hiện đượ c.
Theo quan điểm củ a Auguste Comte, xã hộ i họ c giố ng như khoa họ c tự nhiên, như vậ t lý
họ c, sinh vậ t họ c trong việc vậ n dụ ng cá c phương phá p luậ n nghiên cứ u để tìm hiểu bả n
chấ t củ a xã hộ i. Vì vậ y, Comte cò n gọ i xã hộ i họ c là vậ t lý họ c xã hộ i.
Xã hộ i họ c nghiên cứ u xã hộ i bằ ng cá c phương phá p thự c chứ ng, tứ c là thu thậ p và xử lý
thô ng tin, kiểm tra giả thuyết và xâ y dự ng lý thuyết, so sá nh và tổ ng hợ p cứ liệu.
Auguste Comte phâ n loạ i cá c phương phá p xã hộ i họ c thà nh nhữ ng nhó m:
1. Quan sá t;
2. Thự c nghiệm;
3. So sá nh;
4. Phâ n tích lịch sử .
Quan điểm thự c chứ ng luậ n củ a Comte về xã hộ i họ c thể hiện đặ c biệt rõ qua việc trình
bà y cá c phương phá p nà y. Theo đó , ô ng quan niệm rằ ng xã hội học là khoa học sử dụng các
phương pháp khoa học thực chứng để nghiên cứu các quy luật biến đổi của xã hội. Cá c quan
điểm củ a Comte đã mở đầ u cho thờ i kỳ xâ y dự ng và phá t triển mộ t khoa họ c mớ i mẻ mà
Comte gọ i là xã hội học hay vật lý học xã hội - ND.
Điện á p khô ng khí (từ gố c trong bả n tiếng Phá p: la tension électrique de l'air): có liên
[71]
quan đến độ tích điện trong mô i trườ ng khô ng khí (nó ng, ẩ m ở Việt Nam) - BT.
[75]
Tre đan lạ i hoặ c bằ ng bù n.
Paul Bourde, De Paris au Tonkin (Từ Paris đến Tonkin), Calmann Lévy, Paris, nă m
[77]
1885 (thô ng qua phầ n trích dẫ n củ a Bouinais và Paulus trong L’lndo-Chine française
contemporaine)
Alfred de Pouvourville, La Chine des Mandarins (Trung Hoa củ a cá c quan lạ i),
[78]
[79]
Tứ c lă ng trì - ND.
[80]
Eugène Cortambert và Léon de Rosny, Tableau de la Cochinchine, sđd.
[81]
Bộ luậ t An Nam.
[82]
Alfred de Pouvourville, La Chine des Mandarins, sđd.
[83]
Nếu nhữ ng ví dụ nà y khô ng đủ để chứ ng minh sự tà n á c củ a ngườ i An Nam, chú ng ta
có thể trích dẫ n nhữ ng sự thậ t gầ n đâ y, tiết lộ nhữ ng phong tụ c tà n bạ o và vô nhâ n đạ o tồ n
tạ i và dườ ng như trá i ngượ c vớ i cá ch cư xử nhìn chung hiền hậ u củ a ngườ i dâ n.
Mộ t trong nhữ ng phong tụ c nà y đưa ra nhữ ng hình phạ t khủ ng khiếp đố i vớ i ngườ i vợ
ngoạ i tình và đồ ng phạ m củ a họ . Trong số ra ngà y 12 thá ng Tá m nă m 1902, mộ t tờ bá o ở
Hà Nộ i đã nhắ c lạ i rằ ng hình phạ t mà nhữ ng kẻ ngoạ i tình phả i chịu vẫ n cò n hiệu lự c. Mộ t
chiếc bè gố m tre và thâ n chuố i đã chìm xuố ng Việt Trì; trên bè, mộ t ngườ i đà n ô ng và mộ t
ngườ i phụ nữ bị đó ng đinh, cố định bằ ng nhữ ng chiếc đinh lớ n, miệng họ đầ y nhự a dính;
giữ a họ , mộ t đứ a trẻ bị nhố t trong lồ ng. Sự á c độ c có tính di truyền nơi ngườ i An Nam cò n
thể hiện ở thó i quen vặ t lô ng số ng nhữ ng con gia cầ m họ định là m thứ c ă n.
[84]
Charles Letourneau, Psychologie ethnique, sđd.
Philarète Chasles, Voyages d’un critique à travers la vie et les livres (Nhữ ng hà nh trình
[85]
củ a mộ t nhà phê bình qua cuộ c đờ i và kinh thư), Didier et cie, Paris, nă m 1869.
Eugène Simon, La Cité chinoise (Thà nh thị Trung Hoa), Nouvelle Revue, Paris, nă m
[86]
1891.
Jean-Louis de Lanessan, La morale des philosophes chinois: extraits des livres classiques
[87]
de la Chine et de l’Annam (Giá o huấ n củ a cá c triết gia Trung Hoa: Trích dẫ n từ cá c sá ch kinh
điển củ a Trung Hoa và An Nam), F. Alcan, Paris, nă m 1896.
[88]
Lý lẽ củ a Panurge: Trong vă n họ c cổ điển Phá p có tiểu phẩ m nổ i tiếng củ a nhà vă n
Rabelais Những con cừu của Panurge. Do có hiềm khích vớ i ngườ i lá i buô n cừ u trướ c đó
nên khi cù ng đi trên mộ t chiếc thuyền, Panurge đã lậ p mưu trả thù . Panurge, ngườ i lá i buô n
dạ n dà y kinh nghiệm, mộ t hô m lên tà u buô n củ a đố i thủ mua mộ t con cừ u, y giả vờ nă n nỉ
ngườ i chủ đà n cừ u bá n cho mộ t con, sau đó , ô ng ta ô m cừ u ra trướ c mũ i tà u và quă ng nó
xuố ng biển. Cả đoà n cừ u nghe tiếng kêu theo nhau nhả y xuố ng biển và bị dò ng nướ c cuố n
trô i.
Tinh ranh củ a Falstaff: Nhâ n vậ t trong Chuyện về Sir John Falstaff củ a William
Shakespeare. Sir John Falstaff là mộ t nhâ n vậ t hư cấ u đượ c đề cậ p trong bố n vở kịch củ a
William Shakespeare. Mộ t hiệp sĩ béo, vô ích, kiêu hã nh và hèn nhá t, anh ta dà nh phầ n lớ n
thờ i gian để uố ng rượ u tạ i quá n trọ củ a Boar vớ i nhữ ng tên tộ i phạ m nhỏ , số ng bằ ng tiền bị
đá nh cắ p hoặ c vay mượ n.
Triết lý củ a Sancho: Về cặ p nhâ n vậ t trung tâ m trong tiểu thuyết củ a Cervantes, nhà thơ
Đứ c H. Heine có viết: “Hai nhâ n vậ t mang tên Don Quixote và Sancho Panza khô ng ngừ ng
nhạ i lạ i nhau nhưng đồ ng thờ i bổ trợ cho nhau mộ t cá ch kỳ lạ để gộ p lạ i vớ i nhau thà nh
nhâ n vậ t chính củ a tiểu thuyết, hai nhâ n vậ t nà y chứ ng tỏ linh cả m nghệ thuậ t và chiều sâ u
trí tuệ củ a nhà vă n”. Cặ p nhâ n vậ t lưỡ ng hó a Don Quixote và Sancho Panza là mộ t sá ng tạ o
độ c đá o củ a Cervantes. Khô ng đơn thuầ n là mộ t thủ phá p hình thứ c, cặ p nhâ n vậ t nà y cò n
mang trong mình cả giả i phá p cho vấ n đề chính mà tá c phẩ m đặ t ra - vấ n đề thự c tế và lý
tưở ng.” (Trích từ Cặp nhân vật lưỡng hóa Don Quixote và Sancho Panza - sáng tạo độc đáo
của Cervantes, tá c giả : Đỗ Hả i Phong) - ND.
Philarète Chasles, Voyages d'un critique à travers la vie et les livres, sđd.
[89]
Alfred Russel Wallace, Malay archipelago, Macmillan, London, nă m 1869 tậ p II, tr. 273.
[90]
[92]
Alfred Russel Wallace, Malay archipelago, sđd, tậ p II, tr. 272.
Theo Alfred Fouillée; có thể là từ tá c phẩ m Tempérament et Caratère selon les invidus,
[94]
les sexes et les races (Tính khí và tính cá ch tù y theo mỗ i cá nhâ n, giớ i tính và chủ ng tộ c), F.
Alcan, Paris.
É mile Boutmy, Essai d'une Psychologie politique du peuple anglais au XlXe siècle (Tiểu
[95]
luậ n về mộ t tâ m lý chính trị củ a dâ n tộ c Anh ở thế kỷ XIX), Armand Colin, Paris, nă m 1901.
Charles-É mile Bouillevaux (1823-1913): mộ t nhà truyền giá o và nhà thá m hiểm ngườ i
[96]
Nam và Campuchia Nhữ ng chuyến đi và ghi nhậ n lịch sử ), Victor Palmé, Paris, nă m 1874.
[98]
Tính khô ng lo xa củ a ngườ i An Nam khô ng chỉ bắ t nguồ n từ nhữ ng nguyên nhâ n tâ m
lý; có lẽ phầ n nà o nó cũ ng đến từ nhữ ng đặ c thù nhấ t định củ a tổ chứ c xã hộ i.
Thự c tế, thiết chế gia đình ngă n cả n sự phâ n tá n củ a con cá i; về nguyên tắ c, chú ng phả i
luô n ở lạ i (trong gia đình ngay cả khi đã trưở ng thà nh), và trên thự c tế thườ ng vẫ n ở dướ i
quyền củ a ngườ i đứ ng đầ u gia đình. Do đó , cá c bậ c cha mẹ đượ c đả m bả o, trừ nhữ ng
trườ ng hợ p đặ c biệt, sẽ có đượ c sự giú p đỡ củ a con chá u khi về già . Có thể hiểu rằ ng, trong
hoà n cả nh nà y, ngườ i An Nam khô ng hề có mố i bậ n tâ m về tương lai, chính xá c hơn là tính
lo xa.
[99]
Charles Letourneau, Psychologie ethnique, sđd.
[100]
Albert Bouinais và A. Paulus, L’Indo-Chine française contemporaine, sđd.
Phá p đương đạ i), Librairie Hachette et cie, Paris, 1875-1893 (gồ m 3 phầ n lớ n, tổ ng cộ ng 12
tậ p)
Ê variste Régis Huc, L’Empire Chinoise (Đế chế Trung Hoa), Gaume frères, Paris, nă m
[102]
Ngườ i ta có thể phả n đố i nhữ ng cuộ c tà n sá t cá c nhà truyền giá o diễn ra ở An Nam và
[103]
Nam kỳ, trướ c khi Phá p xâ m chiếm. Mộ t sự phả n đố i như vậ y khô ng đá ng chú t nà o; trên
thự c tế, ngườ i An Nam chỉ bả o vệ thứ mà họ phả i gìn giữ trên hết thả y: tô n giá o củ a họ .
Sự suy giả m trí nhớ khá thườ ng gặ p ở nhữ ng ngườ i số ng mộ t thờ i gian ở nhữ ng xứ
[104]
nó ng; nhiều ngườ ichâ u  u ở Đô ng Dương đã có nhữ ng trả i nghiệm khó khă n đó
Mộ t nguyên nhâ n khá c khiến mô i trườ ng vậ t chấ t cũ ng có thể ả nh hưở ng đến sự phá t
[105]
triển trí tuệ củ a ngườ i An Nam. Trong Những nguyên lý sinh học (Principes de Biologie, F.
Alcan, Paris, nă m 1893) củ a mình, Herbert Spencer nhậ n xét rằ ng “có mộ t mố i quan hệ rõ
rà ng giữ a sự phá t triển nã o bộ và sự chậ m trưở ng thà nh về giớ i tính; nơi nà o có khả nă ng
sinh sả n phi thườ ng, nơi đó có sự lườ i nhá c củ a trí ó c”. Quan sá t nà y đượ c chứ ng minh bằ ng
nhữ ng thự c tế liên quan đến chủ ng tộ c An Nam. Dướ i ả nh hưở ng củ a khí hậ u và tín ngưỡ ng
(sự cầ n thiết có ngườ i nố i dõ i để đả m bả o thờ cú ng), khả nă ng sinh sả n củ a ngườ i An Nam
đã trở nên đặ c biệt. Có lẽ, do sự hoang phí tình dụ c quá mứ c nà y, mộ t phầ n, là m cho trình
độ trí tuệ củ a họ trở nên thấ p kém.
[106]
Jean-Marie Guyau, Éducation et hérédité (Giá o dụ c và sự kế thừ a), F. Alcan, Paris, nă m
1889
Téruaki Kobayashi, La société japonaise (Xã hộ i Nhậ t Bả n), Junkichi Yoshida dịch
[107]
[108]
Lý Bí tuyên bố độ c lậ p, thà nh lậ p nhà nướ c Vạ n Xuâ n – BT
[109]
Cuộ c khở i nghĩa củ a Đinh Kiến và Lý Tự Tiên chố ng nhà Đườ ng – BT
[110]
Cuộ c khở i nghĩa củ a Mai Thú c Loan chố ng nhà Đườ ng – BT
[111]
Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạ n 12 sứ quâ n, thà nh lậ p nhà nướ c Đạ i Cổ Việt – BT
[113]
Đinh Bộ Lĩnh – BT
[114]
Cuộ c khá ng chiến chố ng quâ n Tố ng lầ n thứ nhấ t do Lê Hoà n chỉ huy – BT
Thá nh Tô ng. Ba chầ u nà y là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính, nay thuộ c địa phậ n hai tỉnh Quả ng
Bình và Quả ng Trị - BT
[116]
Cuộ c khá ng chiến chố ng quâ n Tố ng lầ n thứ hai dướ i triều nhà Lý – BT
[117]
Ba đợ t tấ n cô ng lầ n lượ t và o cá c nă m 1257-1258, 1284-1285 và 1287-1288 – BT
Ngưu Hố ng hay Lò Lẹt, hoặ c Ngu Há u (tên hiệu, nghĩa là rắ n hổ mang), mộ t lã nh chú a
[118]
ngườ i Thá i Đen cai quả n vù ng Mườ ng Mỗ i (Thuậ n Châ u, Sơn La) và o khoả ng nử a đầ u thế kỷ
XIV thờ i Trầ n Minh Tô ng (hoà ng đế Đạ i Việt trị vì 1314-1329), Trầ n Hiến Tô ng (Hoà ng đế
Đạ i Việt trị vì 1329-1341). Ngưu Hố ng là tên gọ i củ a ô ng trong Đạ i Việt sử ký, phiên â m từ
tên hiệu tiếng Thá i là Ngu Há u. Nă m 1329, Lò Lẹt (Ngưu Hố ng) dẫ n quâ n xâ m phạ m đạ o Đà
Giang củ a Đạ i Việt. Thượ ng hoà ng Trầ n Minh Tô ng thâ n chinh dẫ n quâ n đi đá nh dẹp, thu
nạ p đấ t Mang Việt nay là Yên Châ u Sơn La, sau đó bắ t Ngưu Hố ng thầ n phụ c nhà Trầ n và o
nă m 1337 – ND
[119]
Nă m 1439, Thá i Tô ng tă ng cườ ng quâ n độ i và tổ chứ c duyệt quâ n binh lớ n cả nướ c.
Cù ng nă m họ Cẩ m ở châ u Phụ c Lễ nổ i dậ y, tướ ng Ai Lao là Nữ u Hoa đem 3 vạ n ngườ i sang
giú p họ Cẩ m chố ng lạ i Đạ i Việt, nhà vua tự mang 6 quâ n đi đá nh. Mù a xuâ n nă m 1440, ô ng
lạ i đi đá nh quâ n Hà Tô ng Lai ở huyện Thu Vậ t, thuộ c huyện Tuyên Quang. Ngà y 19 thá ng
Giêng  m lịch, đạ i quâ n bắ t đượ c con Tô ng Lai là Tô ng Mậ u, sang hô m sau chém đượ c Tô ng
Lai. Trên đườ ng về nhà vua cù ng quâ n sĩ nghỉ châ n tạ i Độ ng La (Thẳ m bá o ké), Lê Thá i
Tô ng thấ y nơi đâ y cả nh đẹp, địa lý thuậ n lợ i, nhà vua đã để lạ i bà i thơ và lờ i tự a gồ m 14
dò ng, mỗ i dò ng 10 chữ vớ i 140 chữ Há n khắ c trên vá ch nú i, sử gọ i là Vă n bia Quế lâ m ngự
chế.
Đến thá ng Ba  m lịch nă m 1440, Thá i Tô ng thâ n chinh đá nh thổ quan Nghiễm nổ i dậ y ở
châ u Thuậ n Mỗ i (trấ n Gia Hưng). Nghiễm dâ ng trâ u và voi tạ tộ i; lạ i gặ p lú c trờ i đang nắ ng
gắ t nên nhà vua thu quâ n về. Thá ng Ba  m lịch nă m 1441, Thá i Tô ng đi đá nh Nghiễm lầ n
hai. Ô ng đã bắ t đượ c viên tướ ng Ai Lao là Đạ o Mô ng cù ng vợ con ở độ ng La, rồ i bắ t luô n hai
con củ a Nghiễm là Sinh Tượ ng và Chà ng Đỗ ng. Nghiêm thấ t thế, phả i chịu quy phụ c triều
đình. Nhà vua về kinh sư là m lễ cá o thắ ng trậ n ở Thá i Miếu - ND.
[120]
Tứ c Mạ c Đă ng Dung – BT
[121]
Thự c chấ t là thế giằ ng co giữ a nhà Lê và tà n dư nhà Mạ c – BT
Theo J. Sylvestre trong Considérations sur 1’étude du droit Annamite ((Nhữ ng xem xét
[122]
thô ng thườ ng. Thự c tế, chú ng tô i sẽ mô tả dướ i tiêu đề nà y, cá c giai đoạ n khô ng chỉ có cá c
sá ng tạ o ngô n ngữ , nghệ thuậ t, khoa họ c hoặ c vă n họ c khá c nhau, mà cò n tấ t cả cá c sả n
phẩ m củ a trí tuệ dướ i bấ t kỳ hình thứ c nà o đượ c thể hiện: phá t minh sơ khai, kỹ nghệ, nô ng
nghiệp, v.v.
Khô ng cò n nghi ngờ gì nữ a, ở An Nam, mộ t số ngà nh kỹ nghệ địa phương như dệt lụ a
[125]
và bô ng là nhữ ng ngà nh chính. Nhưng bên cạ nh đó họ chưa bao giờ có sự phá t triển cao, cá c
sả n phẩ m củ a họ thô và kém chấ t lượ ng. Điều nà y khô ng chỉ do sự khô ng hoà n hả o củ a cá c
cô ng cụ mà cò n do tính cá ch củ a ngườ i lao độ ng. Ngườ i An Nam, dườ ng như vẫ n cò n sơ
khai dướ i nhiều quan hệ, có tính cá ch hờ i hợ t; họ thiếu kiên trì; vì vậ y thườ ng vộ i và ng
hoà n tấ t cô ng việc vớ i kết quả tồ i tệ, dù rằ ng chính họ đã khở i sự vớ i sự cầ n mẫ n
[126]
Tấ t nhiên, chú ng tô i luô n câ n nhắ c, dâ n tộ c An Nam độ c lậ p vớ i bấ t kỳ sự can thiệp
nà o từ phía chú ng tô i. Kể từ khi thà nh lậ p chế độ bả o hộ củ a chú ng tô i, điều kiện kinh tế củ a
đấ t nướ c đã thay đổ i đá ng kể và vớ i họ là điều kiện số ng cư dâ n. Chú ng tô i sẽ có cơ hộ i để
nó i thêm rằ ng việc tạ o ra cá c ngà nh kỹ nghệ địa phương và thương mạ i quố c gia sẽ là cơ sở
đầ u tiên cả i thiện đạ o đứ c ngườ i bả n xứ .
[127]
Theo sá ch Thượng thư đại truyện và Hậu Hán thư thì và o nă m thứ sá u kể từ khi Chu
Cô ng nhiếp chính ngườ i nướ c Việt Thườ ng đi bằ ng ba con voi đến dâ ng chim trĩ trắ ng cho
Chu Thà nh vương. Hai bên đều khô ng có ai biết tiếng củ a nhau nên phả i dù ng cá ch phiên
dịch giá n tiếp qua ngô n ngữ khá c để nó i chuyện.
Theo sá ch Việt sử lược và o thờ i Chu Thà nh vương bộ lạ c Việt Thườ ng thị cho ngườ i đến
dâ ng chim trĩ trắ ng.
Theo Tư trị thông giám cương mục thì và o nă m thứ sá u kể từ khi Chu Thà nh vương lên
ngô i, tứ c là nă m Tâ n Mã o, ngườ i nướ c Việt Thườ ng thị đến dâ ng chim trĩ trắ ng. Vì khô ng
biết tiếng củ a nhau nên khi nó i chuyện hai bên phả i qua ba lầ n phiên dịch mớ i hiểu đượ c
nhau. Khi sứ giả Việt Thườ ng thị về nướ c vì sứ giả khô ng biết đườ ng nên Chu Cô ng đã cho
lấ y nă m cỗ xe bình xa (軿車,xe có mà n che thờ i xưa) sử a thà nh xe chỉ nam rồ i cấ p cho sứ giả
để giú p sứ giả xá c định phương hướ ng. Sứ giả Việt Thườ ng thị đi dọ c theo bờ biển hai nướ c
Phù Nam và Lâ m Ấ p để về nướ c. Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũ ng có nó i tớ i
chuyện ngườ i Việt Thườ ng thị dâ ng chim trĩ cho nhà Chu, nộ i dung hoà n toà n giố ng vớ i
chuyện kể trong Tư trị thông giám cương mục - ND.
Dahomey: Bénin, tên chính thứ c Cộ ng hò a Bénin (tiếng Phá p: République du Bénin), là
[128]
mộ t quố c gia Tâ y Phi, tên cũ là Dahomey (cho tớ i nă m 1975) hay Dahomania. Nó có chung
biên giớ i vớ i Togo ở phía tâ y, Nigeria ở phía đô ng và Burkina Faso cù ng Niger ở phía bắ c;
bờ biển ngắ n ở phía nam nướ c nà y dẫ n tớ i Eo Benin. Thủ đô củ a Bénin là Porto Novo,
nhưng chính phủ đó ng trụ sở tạ i Cotonou - ND.
[129]
Charles Letourneau, Psychologie ethnique, sđd
[130]
Hippolyte Taine, De L’lntelligence (Về trí thô ng minh).
Ngườ i ta cho rằ ng ngô n ngữ An Nam có khoả ng 1.500 từ đơn â m; nếu chú ng ta nhâ n
[131]
Nghĩa gá n như là thế nà y: “Nếu chú ng ta biết cá i gì có trướ c và cá i gì tiếp theo, thì chú ng
ta tiếp cậ n con đườ ng đú ng” hoặ c chính xá c hơn: “Thấ u đá o nhâ n và quả và bạ n sẽ đạ t đến
că n nguyên cuố i cù ng”.
[134]
Lettre à M. Abel-Rémusat (Thư gử i ô ng Abel-Remusat).
Trên thự c tế, có thể chứ ng minh rằ ng khả nă ng nà y phá t triển cao trong nhữ ng bộ ó c
[135]
tương đố i đơn giả n, trá i lạ i, gầ n như thiếu hoà n toà n nhữ ng trí tuệ tạ o ra sự trừ u tượ ng
khoa họ c.
“Tô i đã thấ y, khô ng phả i khô ng ngạ c nhiên”, Galton nó i, trong cuộ c điều tra nă m 1880,
“về cá c hình thứ c khá c nhau đượ c thự c hiện bở i trí thô ng minh theo nă ng lự c thay đổ i củ a
trí tưở ng tượ ng, rằ ng phầ n lớ n nhữ ng nhà khoa họ c mà tô i nêu ra, đã tuyên bố rằ ng ‘sự
tưở ng tượ ng tinh thầ n’ khô ng đượ c biết đến vớ i họ : ‘Chỉ có vậ y, mộ t trong số họ nó i, bằ ng
mộ t hình ả nh ngô n ngữ mà tô i so sá nh ký ứ c củ a tô i từ mộ t sự kiện đến mộ t cả nh vậ t, đến
mộ t hình ả nh tinh thầ n có thể nhìn thấ y đượ c đố i vớ i mắ t củ a tâ m trí tô i, v.v. trong thự c tế
tô i khô ng thấ y gì cả ’”. “Kết luậ n, Galton bổ sung, đó là mộ t nhậ n thứ c quá nhanh về cá c bứ c
tranh tinh thầ n đố i nghịch vớ i sự thu đượ c nhữ ng suy nghĩ trừ u tượ ng và khá i quá t cao”
(Alfred Fouillée, Tempérament et Caractère, sđd).
Phdarète Chasles, Voyages d’un critique à travers la vie, et les livres, sđd.
[136]
Hầ u hết cá c bà i thơ An Nam là nhữ ng chuyên luậ n đạ o đứ c. Dướ i đâ y là cá c chủ đề,
[137]
mộ t trong số chú ng đã đượ c M. p. Trương Vĩnh Ký xuấ t bả n: Devoirs des filles et des femmes.
Ecole domestique, Une mère à sa Défauts et qualités des filles et desfemmes.
Đô i khi cũ ng là huấ n thị tô n giá o, hiếm khi là thơ trà o phú ng hoặ c nghiên cứ u về phong
tụ c.
[138]
Excursions et Reconnaisances, tập VIII, 1884, tlđd.
Ở phầ n miêu tả “treo trên cử a và tườ ng nhà ”, có lẽ tá c giả đã nhầ m lẫ n tụ c ngữ /thà nh
[140]
ngữ vớ i cá c cặ p câ u đố i - BT.
[141]
Théophile Gautier, En Chine (Ở Trung Hoa).
Chú ng tô i nợ ở đâ y mộ t lờ i giả i thích cho nhữ ng độ c giả khô ng quen thuộ c vớ i ngô n
[142]
ngữ và chữ viết biểu ý An Nam. Dườ ng như có mộ t sự bấ t đồ ng giữ a con số chín nghìn mà
chú ng tô i đã đưa ra ở trên vớ i mứ c tố i đa củ a cá c từ đượ c sử dụ ng và bố n mươi nghìn mà
chú ng tô i bà n về tổ ng số cá c ký tự ở đâ y. Sự bấ t đồ ng chỉ bề ngoà i. Trên thự c tế, chú ng ta đã
nó i rằ ng mỗ i từ có thể có tớ i mườ i và mườ i hai nghĩa khá c nhau; bâ y giờ , vớ i mỗ i ý tưở ng
đượ c thể hiện có thể tương ứ ng vớ i mộ t chữ tượ ng hình riêng biệt, cá ch phá t â m vẫ n giữ
nguyên. Do đó , mộ t từ duy nhấ t có thể có nhiều cá ch viết và đượ c hiểu rằ ng trong nhữ ng
điều kiện nà y, con số 40.000 khô ng hề phó ng đạ i.
giá o nhâ n loạ i; mụ c tiêu chú ng tô i là điều khá c. Chú ng tô i đế cậ p đến nghiên cứ u về thuyết
vậ t linh và cá c họ c thuyết khá c nhau mà nó đã sinh ra, cho cá c chứ ng minh khắ t khe củ a
Tylor, trong tá c phẩ m củ a ô ng: La Civilisation primitive (Vă n minh nguyên thủ y).
[145]
Adrien Launay, Histoire ancienne et moderne de L’Annam, sđd.
phổ biến ở tỉnh Quả ng Bình, An Nam), Tập san Viện Viễn Đông Bác Cổ, nă m 1901.
Jules Sylvestre, Considérations sur Vétude du droit Annamite: - Trượng với roi mây,
[147]
mộ t trong nhữ ng cô ng cụ hình phạ t đượ c sử dụ ng nhiều nhấ t ở An Nam. Trượng, theo Bộ
luậ t, Trượng có kích thướ c trung bình, có chu vi phả i nằ m trong khoả ng lớ n nhấ t từ 1 inch
hai và nhỏ nhấ t từ 1 inch mố t.
Roi mây là mộ t câ y gậ y mềm dẻo có chu vi ít nhấ t nă m phầ n mườ i inch đến sá u phầ n
mườ i inch.
[148]
Tết là ngà y đầ u nă m An Nam.
É liacin Luro, Cours d‘administration Annamite (Tìm hiểu về nền hà nh chá nh An Nam),
[149]
Sà i Gò n, 1875. - Chú ng tô i mượ n từ cuố n Rituel funéraire des Annamites (Tang lễ củ a ngườ i
An Nam, Imprimerie Typo-lithographique F-H Schneider, Hà Nộ i, nă m 1904) củ a ô ng
Dumoutier nhữ ng thô ng tin sau đâ y về cá c điện thờ tổ tiên:
“Ngay nhữ ng gia đình nghèo nhấ t, trong nhữ ng tú p lều khố n khổ nhấ t, ở nhà nhữ ng
ngườ i An Nam vẫ n có mộ t nơi đặ c biệt dà nh riêng cho tổ tiên. Mộ t cá i bà n, hoặ c thậ m chí là
mộ t tấ m vá n đơn giả n đượ c đặ t trên kệ đỡ nhữ ng bà i vị tổ tiên quá cố , và o ngà y giỗ và ngà y
cú ng tế.
Để thờ tự tổ tiên, cá c gia đình già u có xâ y ở phía đô ng ngô i nhà , mộ t tò a nhà , nơi nà y rấ t
quan trọ ng vì lý do già u có và cấ p bậ c củ a họ . Bề thế nhấ t thự c sự gồ m mộ t nhà thờ , hai bên
hai cá nh hoặ c cá c khá m thờ độ c lậ p: quâ y lạ i, tạ o thà nh ba cạ nh mộ t tò a trong đó để cá c
thà nh viên gia đình đứ ng khi hà nh lễ. Ngô i điện có bà n thờ , cá c phá p khí và tủ đự ng cá c bà i
vị. Tò a nhà bên trá i chứ a chiếc rương đự ng nhữ ng cuố n phả hệ gia đình, bằ ng sắ c, v.v. và lễ
phụ c. Tò a nhà bên phả i là m nhà bếp để chuẩ n bị thứ c ă n dâ ng cú ng...”
“Đồ nộ i thấ t nghi lễ trang trí nhà thờ tổ tiên là mộ t bà n thờ đặ t nhữ ng bà i vị, mộ t bà n
cú ng, mộ t cá i bụ c thấ p phủ thả m dà nh cho chủ lễ, mộ t lư hương, mộ t bá t nhang vớ i mộ t
khay nhỏ , mộ t câ y nến sá p thự c vậ t hoặ c đèn, bà n cầ u nguyện, mộ t bình rượ u cú ng, mộ t bộ
khay và chén, mộ t bộ muỗ ng và đũ a, mộ t chậ u đồ ng trên giá gỗ , mộ t khă n và bếp lò . Đồ nộ i
thấ t và đồ dù ng nà y khô ng đượ c dù ng cho bấ t kỳ mụ c đích nà o khá c.
Ngườ i ta chỉ giữ cá c bà i vị củ a bố n thế hệ trở lên, kể từ ngườ i cha. Ngà y cú ng tế ngườ i ta
lấ y nó ra từ tủ hoặ c rương mà nó thườ ng đượ c cấ t kỹ, chú ng đượ c lấ y khỏ i bao da và đặ t
trên bà n thờ theo thứ tự sau: ô ng kị, bà kị; ô ng cố , bà cố ; ô ng, bà ; cha, mẹ. Khi mộ t thế hệ
đượ c thêm và o bố n thế hệ cò n lạ i, tấ t cả cá c bậ c cha mẹ đượ c mờ i đến mộ t buổ i lễ để dự
tính đặ t nó cuố i bà n thờ củ a cụ kị, ngườ i ta chô n nhữ ng bà i vị dướ i bà n thờ ngay trong đấ t
củ a nhà thờ .
Bà i vị đượ c đặ t trong mộ t hộ p gỗ sơn mà i, mà u đỏ ... vẻ ngoà i rấ t đơn giả n và khô ng có
trang trí; chỉ có phầ n đế đượ c trang trí, triện mạ và ng... Hộ p đượ c mở ra và thấ y mộ t bọ c
thuô n dà i cũ ng mà u đỏ , đượ c đặ t dọ c, chỉ kín ở ba phía và phầ n trên đượ c mở ra; mặ t thứ
tư, miệng mở rộ ng, là mặ t trướ c cho thấ y bà i vị, hoà n toà n mà u trắ ng. Nó cũ ng đượ c là m
bằ ng gỗ tá o...”
“Chiếc bà i vị nà y thự c sự đượ c là m từ hai tấ m vá n nhỏ ghép và o nhau và đượ c giữ bở i
mộ t mả nh ghép cắ t xiên và gắ n chung và o lỗ đế; lắ p ghép nà y thá o rờ i đượ c. Khi bà i vị đượ c
tá ch đô i, mặ t sơn củ a tấ m ngoà i đượ c gọ i là phấ n diện, và mặ t khô ng sơn tấ m thứ hai, nộ i
hà m. Mặ t phấ n diện khắ c chữ mà u đen rõ rà ng nổ i bậ t trên nền sơn trắ ng, mà u củ a tang tó c,
trên đó ghi hình thứ c đề tặ ng...”
“Chính ngườ i con trai trưở ng cú ng bà i vị hoặ c, khi khô ng có , ngườ i chịu trá ch nhiệm thờ
cú ng hương hỏ a, hay nhang và lử a: tên củ a anh ta ở phía dướ i bên phả i củ a bả n khắ c; khi
ngườ i quá cố là đố i tượ ng danh vọ ng hoặ c đượ c ban thụ y hiệu, tên củ a ngườ i con trai biến
mấ t và đượ c thay thế bằ ng mộ t dã y nhữ ng danh hiệu nà y.
Mặ t trong, hoặ c nộ i hà m củ a bà i vị, khô ng đượ c tô điểm bấ t kỳ hình vẽ nà o, đượ c khắ c,
kiểu khả m sâ u nă m milimet... bả n khắ c nà y chứ a dò ng chữ ẩ n, cho biết tên thậ t và riêng củ a
ngườ i quá cố (bà i vị bên ngoà i chỉ ghi họ , chứ c tướ c và tên hiệu) ngà y sinh và ngà y mấ t củ a
họ ...”
“Bà i vị, ngoà i nhữ ng ngà y tế lễ, đượ c bọ c lạ i bằ ng bao hình chữ nhậ t bằ ng gỗ và đặ t
trong tủ . Ngườ i chủ gia đình mỗ i sá ng phả i đến chà o hỏ i tổ tiên; ô ng đứ ng trướ c cử a và cú i
đầ u thậ t sâ u. Ô ng cũ ng là m như vậ y khi ô ng đi xa dà i ngà y hoặ c trở về nhà sau mộ t thờ i
gian vắ ng mặ t.”
Xem mô tả chi tiết hơn về cá c nghi lễ thờ cú ng tổ tiên trong Cours d'administration
[150]
[151]
Có lẽ ở đâ y tá c giả có nhầ m lẫ n gì đó , vì trong Phậ t giá o khô ng có thượ ng đế tố i cao -
BT.
Cù ng vớ i Chu Lễ, Kinh Lễ và Gia Lễ là mộ t trong ba bộ kinh điển về Lễ. Ở Việt Nam có
[152]
Thọ Mai gia lễ dự a trên Chu Lễ nhưng đã qua ít nhiều cả i biên chứ khô ng rậ p theo khuô n
Trung Hoa - BT.
Lois Civiles (Luậ t dâ n sự , tứ c Bộ luậ t Gia Long), Philastre dịch, Enest Leroux, Paris,
[157]
Xem Luro, sđd. Ô ng nó i, về chủ đề nà y, trong thự c tế, việc nhậ n biết tổ tiên chung dễ
[158]
dà ng hơn khi tính đến thế hệ thứ 3, nhưng rấ t hiếm khi thấ y mộ t gia tộ c có nhiều nhá nh
khá c nhau có thể đồ ng nhấ t quan niệm từ thế hệ thứ 4 hoặ c thứ 5 trở đi. Về mặ t phá p lý,
cấ p độ họ hà ng đượ c ghi rõ trong Bộ luật ở mụ c “Tang chế”; việc tính và o họ hà ng dừ ng lạ i
ở chá u chắ t, ngườ i phả i mang tang trong ba thá ng trướ c cá i chết củ a ô ng cố .
Luro chỉ ra rằ ng quyền cử hà nh thờ cú ng tổ tiên đượ c truyền từ nam sang nam theo
[159]
thứ bậ c con chá u, có thể xả y ra lú c Trưởng tộc khô ng phả i là ngườ i cử hà nh cá c nghi lễ gia
đình.
Nếu, chẳ ng hạ n, chồ ng củ a gó a phụ khô ng phả i là chủ gia đình, họ vẫ n có thể nằ m
[160]
[161]
Ở đâ y, tấ t nhiên chú ng tô i chỉ nó i về quyền sở hữ u tà i sả n.
[162]
Numa Denis Fustel de Coulanges, La Cité antique (Đô thị cổ đạ i), Paris, nă m 1864.
Numa Denis Fustel de Coulanges (1830 -1889) là mộ t nhà sử họ c ngườ i Phá p, cuố n
[163]
mộ t tră m trượng và ba nă m khổ sai. Tù y theo tình tiết, hình phạ t có thể đượ c tă ng thà nh
mộ t tră m trượ ng và lưu đà y, đô i khi bị thắ t cổ (Điều 332).
J. Sylvestre đưa ra kết luậ n tương tự : “Ở ngườ i An Nam, khá i niệm về quyền sở hữ u
[165]
khô ng có tính tuyệt đố i, độ c quyền, ích kỷ đã biến Bộ luậ t Dâ n sự khô ng như củ a chú ng ta.
Theo họ , khô ng ai có thể có toà n quyền và toà n bộ quyền sở hữ u trên đấ t đai; quyền nà y chỉ
thuộ c về chủ nhâ n củ a tấ t cả nhữ ng thứ mà họ gọ i là Trờ i, vì chính Trờ i, theo ý muố n củ a
ô ng, tạ o nên đấ t đai, bả o tồ n nó , có thể phá hủ y nó . Đó là lý do tạ i sao chú ng ta sẽ thấ y luậ t
phá p và tậ p tụ c đồ ng ý giớ i hạ n quyền sở hữ u tà i sả n củ a đấ t đố i vớ i quyền là m chủ lợ i ích
(dominium utile): con ngườ i có , chắ c chắ n, đố i vớ i vù ng đấ t mà đích thị anh ta sở hữ u,
quyền hưở ng cá c loạ i hoa lợ i củ a đấ t nà y; nhưng quyền là m chủ toà n vẹn (dominium
plénum) chỉ thuộ c về đạ i gia đình nhâ n loạ i, bị giớ i hạ n trong quố c gia, đó là sự thậ t, và đượ c
coi là mộ t sự nhấ t quá n về đạ o đứ c.
Luậ t tự nhiên, sự tấ t yếu củ a đờ i số ng xã hộ i đã á p đặ t, tiếp đến là việc mở rộ ng dâ n số
và vì lợ i ích củ a cộ ng đồ ng, quyền sở hữ u cá nhâ n; nhưng về sau, theo mộ t số quan điểm
nhấ t định, vẫ n giữ đượ c đặ c tính củ a sự ủ y quyền đơn thuầ n, và ngườ i sở hữ u buộ c phả i
hưở ng nó chỉ trong mộ t số điều kiện nhấ t định, khi bị phạ t tịch thu. Đó là mộ t nguyên tắ c cơ
bả n rằ ng khô ng ai có thể già u có mà khô ng cầ n là m việc; đó là lý do tạ i sao ngườ i giữ đấ t mà
anh ta để hoang hó a và khô ng phả i trả thuế nà o cả , bị tướ c quyền sở hữ u” (sđd).
Luận Ngữ, chương XV, đoạ n 30. (Tấ t cả cá c phầ n trích dẫ n Tứ thư trong nộ i dung
[167]
Jean-Louis de Lanessan, La morale des philosophes chinois: extraits des livres classiques
[168]
Ch. 1,82.
[169]
Chú thích của BT: Luận Ngữ, chương I, đoạ n 2, có viết: “Hiếu đễ dã giả , kỳ vi nhâ n chi bả n
dữ !” (Hiếu thả o và hò a thuậ n là cá i gố c củ a đạ o là m ngườ i.)
[170]
Đại Học hay la Grande Étude, chương IX, đoạ n 7.
(Thi vân: “'Nghi huynh nghi đệ.” Nghi huynh nghi đệ, nhi hậu khả dĩ giáo quốc nhân.
Dịch nghĩa:
Kinh Thi rằ ng: “Xứ ng hợ p vớ i anh, xứ ng hợ p vớ i em.” Xứ ng hợ p vớ i anh, xứ ng hợ p vớ i
em, rồ i sau mớ i có thể giá o dụ c ngườ i trong nướ c.)
(Tiễn kỳ vị, hành kỳ lễ, tấu kỳ nhạc, kính kỳ sở tôn, ái kỳ sở thân, sự tử như sự sinh, sự
vong như sự tồn, hiếu chi chí dã.
Dịch nghĩa:
“Đứ ng và o ngô i vị củ a cha ô ng, tiến hà nh nghi lễ củ a cha ô ng, tấ u nhạ c củ a cha ô ng, kính
ngườ i mà cha ô ng tô n trọ ng, yêu ngườ i mà cha ô ng thâ n thiết, thờ ngườ i quá cố như thờ
ngườ i số ng, thờ ngườ i đã mấ t như thờ ngườ i hiện cò n, đó là hiếu hết mứ c vậ y.)
(Mạnh Tử vị Vạn Chương viết: “Nhất hương chi thiện sĩ, tư hữu nhất hương chi thiện sĩ.
Nhất quốc chi thiện sĩ, tư hữu nhất quốc chi thiện sĩ. Thiên hạ chi thiện sĩ, tư hữu thiên hạ chi
thiện sĩ.
“Dĩ hữu thiên hạ chi thiện sĩ vi vị túc; hựu thượng luận cổ chi nhân, tụng kỳ thi, độc kỳ thư.
Bất tri kỳ nhân, khả hồ? Thị dĩ luận kỳ thế dã. Thị thượng hữu dã.”
Dịch nghĩa:
Mạ nh Tử bả o Vạ n Chương rằ ng: “Là kẻ sĩ đạ o đứ c trong mộ t là ng, hã y nên kết bạ n vớ i
nhữ ng kẻ sĩ đạ o đứ c trong là ng. Là kẻ sĩ đạ o đứ c trong mộ t nướ c, hã y nên kết bạ n vớ i
nhữ ng kẻ sĩ đạ o đứ c trong nướ c. Là kẻ sĩ đạ o đứ c trong thiên hạ , hã y nên kết bạ n vớ i nhữ ng
kẻ sĩ đạ o đứ c trong thiên hạ .
“Kết bạ n vớ i cá c kẻ sĩ đạ o đứ c trong thiên hạ chưa lấ y là m đủ , lạ i cò n luậ n bà n hướ ng
lên vớ i ngườ i xưa bằ ng việc tụ ng đọ c thơ vă n, sá ch vở củ a ngườ i xưa. Thế mà có thể khô ng
biết đượ c ngườ i xưa chă ng? Do đó mà luậ n bà n về cá c tình thế củ a ngườ i xưa nữ a. Thế là
đượ c kết bạ n vớ i cá c bậ c trên xưa vậ y.”)
(Tử Cống vấn vi nhân. Tử viết: “Công dục thiện kì sự, tất tiên lợi kì khí. Cư thị bang dã, sự
kì đại phu chi hiền giả, hữu kì sĩ chi nhân giả”.
Dịch nghĩa:
Tử Cố ng hỏ i về sự tu dưỡ ng đứ c nhâ n. Khổ ng Tử đá p: “Ngườ i thợ muố n là m việc cho
khéo thì trướ c hết phả i có đồ dù ng tố t. (Cũ ng vậ y, muố n tu dưỡ ng đứ c nhâ n, cầ n có thầ y,
bạ n). Ở nướ c nà o thì tìm ô ng đạ i phu nà o hiền mà thờ , tìm ngườ i nhâ n mà là m bạ n.”
(Thi vân: “Tiềm tuy phục hỹ, diệc khổng chi chiêu.” Cố quân tử nội tỉnh bất cửu, vô ố ư chí.
Quân tử chi sở bất khả cập dã, kỳ duy nhân chi sở bất kiến hồ.
Dịch nghĩa:
Kinh Thi rằ ng: “Ẩ n ná u trong nướ c tuy là nấ p kín, mà cũ ng hiện rõ tỏ tườ ng.” Cho nên
ngườ i quâ n tử tự xét trong lò ng thấ y khô ng lỗ i lầ m, thì khô ng tự thẹn (khô ng thấ y ý chí
chá n ghét). Chỗ mà quâ n tử chưa thể đạ t tớ i (ở đá y lò ng), riêng ngườ i ngoà i khô ng thấ y
đượ c.
Trung Dung, chương XXXIII, đoạ n 4.
[175]
(Thi vân: “Tướng tại nhĩ thất, thượng bất quí vu ốc lậu." Cố quân tử bất động, nhi kính;
bất ngôn, nhi tín.
Kinh Thi rằ ng: “Xem ở nhà ngươi, hã y chuộ ng điều gì mà khô ng thẹn ở gó c nhà tâ y bắ c.”
Vì vậ y, ngườ i quâ n tử khô ng hà nh độ ng mà ngườ i vẫ n kính trọ ng; khô ng nó i mà ngườ i vẫ n
tin.)
Jean-Louis de Lanessan, La morale des philosophes chinois: extraits des livres classiques
[176]
[177]
Pauthier, Khổng Tử và Mạnh Tử, “Dẫ n nhậ p”.
(Duy thiên hạ chí Thánh, vi năng thông, minh, duệ, trí, túc dĩ hữu lâm dã ; khoan, dũ, ôn,
nhu, túc dĩ hữu dung dã ; phát, cường, cương, nghị, túc dĩ hữu chấp dã; trai trang, trung
chính, túc dĩ hữu kính dã; văn, lý, mật, sát, túc dĩ hữu biệt dã.
Dịch nghĩa:
Chỉ riêng bậ c chí thá nh trong thiên hạ mớ i có khả nă ng thô ng suố t, sá ng tỏ , hiểu sâ u,
khô n ngoan đủ để có sự soi xét đố i nhìn; có khả nă ng khoan nhâ n, rộ ng lượ ng, ô n hò a, dịu
dà ng đủ để có sự bao dung; có khả nă ng khở i phá t, mạ nh mẽ, cứ ng rắ n, quả quyết đủ để có
sự nắ m giữ , có khả nă ng thanh khiết, trang nghiêm, ngay thẳ ng, chính đá ng đủ để có sự tô n
kính; có khả nă ng vă n vẻ, lý sự , kỹ lưỡ ng, minh bạ ch đủ để có sự phâ n biệt.)
Trên thự c tế, chú ng ta biết rằ ng gia đình khô ng phả i là yếu tố nguyên thủ y củ a xã hộ i,
[179]
(Thi vân: “Lạc chỉ quân tử, dân chi phụ mẫu." Dân chi sở hiếu, hiếu chi; dân chi sở ố, ố chi.
Thử chi vị dân chi phụ mẫu.
Dịch nghĩa:
Kinh Thi rằ ng: “Vui thay quâ n tử , cha mẹ củ a dâ n.” Điều gì dâ n thích, mình thích; điều gì
dâ n ghét, mình ghét. Như thế gọ i là cha mẹ củ a dâ n.)
(Thi vân: “Tiệt bỉ Nam sơn, duy thạch nham nham, hách hách Sư Doãn, dân cụ nhĩ chiêm.”
Hữu quốc giả bất khả dĩ bất thận, tịch, tắc vi thiên hạ lục hỹ.
Kinh Thi rằ ng: “Nú i Nam kia cao ngấ t, chỉ có đá chậ p chồ ng. Lẫ m liệt thay Sư Doã n, dâ n
chú ng đều ngắ m ô ng.” Ngườ i có nướ c khô ng thể khô ng thậ n trọ ng, lệch lạ c thì bị thiên hạ
giết chết.)
(Thi vân: “Ân chi vị táng sư, khắc phối Thượng đế. Nghi giám vu Ân: tuấn mệnh bất dị.”
Đạo đắc chúng, tắc đắc quốc; thất chúng, tắc thất quốc. Thị cố, quân tử tiên thận hồ đức.
Hữu đức, thử hữu nhân; hữu nhân, thử hữu thổ; hữu thổ, thử hữu tài; hữu tài, thử hữu dụng.
Dịch nghĩa:
Kinh Thi rằ ng: “Nhà Â n hồ i chưa mấ t dâ n, hay kết hiệp vớ i Thượ ng đế. Hã y coi nhà Â n
là m mẫ u: mệnh lớ n khô ng dễ dà ng đâ u!” Nó i cho rõ là đượ c dâ n chú ng, thì đượ c nướ c; mấ t
dâ n chú ng thì mấ t nướ c. Vậ y nên, bậ c quâ n tử trướ c hết là thậ n trọ ng giữ đứ c. Có đứ c, ấ y là
có ngườ i; có ngườ i ấ y là có đấ t; có đấ t ấ y là có củ a cả i; có củ a cả i ấ y là có chỗ dù ng.)
Jean Baptiste É liacin Luro, Henri Louis Gabriel de Bizemont (Tử tướ c), Le pays
[183]
d’Annam, sđd.
[184]
Alfred de Pouvourville, La Chine des Mandarins, sđd.
Ngũ quâ n đô thố ng: Trong thờ i chiến tranh Tâ y Sơn chú a Nguyễn, chú a Nguyễn Á nh
[186]
chia quâ n độ i theo 5 đạ o quâ n, gồ m trung quâ n, tả quâ n, hữ u quâ n, tiền quâ n, và hậ u quâ n
vớ i chú a là vị Đạ i Nguyên Soá i,- thố ng lĩnh toà n bộ quâ n binh. Mỗ i mộ t đạ o quâ n do mộ t vị
võ quan chỉ huy. Vị võ quan chỉ huy đạ o quâ n thườ ng đượ c gọ i theo tên đạ o quâ n như Tả
quâ n Lê Vă n Duyệt, Hữ u quâ n Nguyễn Huỳnh Đứ c hoặ c ngắ n gọ n như Chưở ng quả n Hữ u
quâ n dinh.
Thờ i Gia Long, cá c chưở ng quả n Ngũ quâ n Đô thố ng, ngoà i quyền hạ n quâ n sự là cá c võ
quan cao cấ p nhấ t triều đình, cò n đượ c triều đình thặ ng bổ chứ c Tổ ng trấ n, là chứ c đượ c
đặ c trá ch toà n quyền dâ n sự lẫ n quâ n sự mộ t thà nh (Bắ c thà nh và Gia Định thà nh), mộ t đơn
vị hà nh chính gầ n bằ ng cả mộ t miền tạ i Việt Nam, gồ m nhiều dinh hoặ c trấ n hợ p lạ i mà
mình đượ c giao phó .
Từ Minh Mạ ng (1831), chứ c Tổ ng trấ n đượ c bã i bỏ vớ i cuộ c cả i tổ toà n diện về hà nh
chính và quâ n sự . Quyền hạ n cá c Ngũ quâ n đô thố ng lạ i đượ c giớ i hạ n trong quâ n sự , việc
hà nh chính tạ i cá c tỉnh từ thờ i điểm nà y đượ c chuyển giao cho cá c quan Tuầ n phủ hoặ c
Tổ ng đố c.
Thờ i Nguyễn, Ngũ quâ n Đô thố ng dướ i quyền vua và trên chứ c Chưở ng Doanh (Thố ng
chế, Đề đố c, Chưở ng vệ) - ND.
Đờ i vua Gia Long chỉ có kỳ thi Hương, đến nă m 1822, vua Minh Mạ ng mở khoa thi
[188]
Hộ i, thi Đình để lấ y Tiến sĩ. Đến nă m 1829 nhà vua lạ i cho nhữ ng ngườ i trú ng cá ch, nhưng
khô ng cậ p phâ n, đượ c đỗ phó bả ng. Phó bả ng khở i đầ u từ đâ y.
Trướ c đâ y cứ 6 nă m mộ t khoa thi, rồ i đổ i lạ i là m 3 nă m mộ t khoa, cứ nă m Tý, Ngọ , Mã o,
Dậ u thì thi Hương; nă m Thìn, Tuấ t, Sử u, Mù i thi Hộ i, thi Đình.
Phép thi vẫ n theo như đờ i vua Gia Long. Kỳ đệ nhấ t thi kinh nghĩa; đệ nhị: thi tứ lụ c; kỳ
đệ tam: thi phú ; kỳ đệ tứ : thi vă n sá ch. Trướ c ai đỗ tam trườ ng, gọ i là sinh đồ , ai đỗ tứ
trườ ng gọ i là hương cố ng; nay đổ i sinh đồ là Tú tà i, hương cố ng là cử nhâ n.
Trả i qua cá c đờ i Minh Mạ ng, Thiệu Trị, Tự Đứ c, mỗ i đờ i vua có sử a đổ i nhưng thi Hộ i
vẫ n có bố n trườ ng, cò n thi Hương thì rú t mộ t cò n ba trườ ng và o đờ i vua Tự Đứ c. Đến đờ i
Kiến Phú c thì định thi Hương quyền nà o đượ c và o hạ ng ưu bình phả i thi thêm mộ t kỳ phú c
hạ ch. Bà i thi vẫ n là kinh nghĩa, tứ lụ c, thơ phú và vă n sá ch. Ở triều Lê ngườ i thi Hương đậ u
gọ i là Cử nhâ n, Tú tà i; đến đờ i Hậ u Lê gọ i là Hương cố ng, Sinh đồ ; đờ i Gia Long cũ ng theo
đờ i trướ c, đến đờ i vua Minh Mạ ng đổ i gọ i là Cử nhâ n và Tú tà i - ND.
“Phù, Đằng nhưỡng địa biển tiểu, tương vi quân tử yên, tương vi dã nhân yên. Vô quân tử,
mạc trị dã nhân; vô dã nhân, mạc dưỡng quân tử. ”
Dịch nghĩa:
“Nướ c Đằ ng tuy đấ t đai nhỏ hẹp, nhưng vẫ n phả i có quan lạ i hưở ng lộ c để giú p vua và
nô ng phu chuyên việc là m ruộ ng. Khô ng có quan lạ i thì chẳ ng có ai quả n lý nô ng phu. Khô ng
có nô ng phu thì chẳ ng có ai nuô i dưỡ ng quan lạ i.”
Mạnh Tử, chương V, đoạ n 4.
“Nhiên tắc trị thiên hạ, độc khả canh thả vi dư? Hữu đại nhân chi sự, hữu tiểu nhân chi sự.
Thả nhất nhân chi thân nhi bách công chi sở vi bị; như tất tự vi nhi hậu dụng chi, thị suất
thiên hạ nhi lộ dã. Cố viết: Hoặc lao tâm, hoặc lao lực. Lao tâm giả trị nhân; lao lực giả trị ư
nhân. Trị ư nhân giả tự nhân; trị nhân giả tự ư nhân. Thiên hạ chi thông nghĩa dã.”
Dịch nghĩa:
“Vậ y thì cai trị thiên hạ , mộ t mình lạ i có thể cà y cấ y đượ c ư? Có việc củ a bậ c đạ i nhâ n, có
việc củ a kẻ tiểu nhâ n. Vả lạ i, thâ n xá c mộ t con ngườ i phả i cầ n đầ y đủ chứ c nă ng củ a cá c
ngà nh cô ng nghệ; nếu như tự mình là m lấ y mà dù ng sẽ khiến cho thiên hạ số ng ngoà i
đườ ng (chạ y ngượ c chạ y xuô i) vậ y. Cho nên mớ i nó i: Có ngườ i lao nhọ c tâ m trí, có kẻ lao
nhọ c sứ c lự c. Ngườ i lao tâ m thì cai trị ngườ i khá c; kẻ lao lự c thì đượ c ngườ i khá c cai trị. Kẻ
đượ c ngườ i cai trị thì nuô i ngườ i; kẻ cai trị ngườ i thì đượ c ngườ i nuô i.” Đó là nghĩa lý phổ
thô ng trong thiên hạ vậ y.
Table of Contents
LỜ I TỰ A
DẪ N NHẬ P
Phầ n đầ u tiên: ĐẶ C ĐIỂ M QUỐ C GIA
CHƯƠNG I: Chủ ng tộ c
CHƯƠNG II: Mô i trườ ng
CHƯƠNG III: Tâ m hồ n ngườ i An Nam
Phầ n thứ hai: TIẾ N HÓ A CỦ A DÂ N TỘ C AN NAM
CHƯƠNG I: Tiến hó a lịch sử
CHƯƠNG II: Tiến hó a trí tuệ
CHƯƠNG III: Tiến hó a xã hộ i và tiến hó a chính trị
KẾ T LUẬ N