You are on page 1of 183

LÀM VĂN 12

Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000


(Tái bản lần thứ sáu)
3
KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN (6 TIẾT)
I – LẬP Ý VÀ LẬP DÀI BÀI TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
A – LẬP Ý
Lập ý là định ra nội dung cần trình bày trong bài văn
CĂN CỨ LẬP Ý
Để làm ý cho bài văn, ta có thể dựa vào hai căn cứ sau :
1. Những chỉ dẫn trong đề bài về nội dung và phương pháp
nghị luận
a) Về nội dung, đề bài bao giờ cũng chỉ rõ vấn đề cần nghị luận
là gì, như vậy là ít nhất cũng giúp ta xác định được phương
hướng lập ý. Có những đề bài còn gợi ra các khía cạnh của vấn
đề, thậm chí nêu lên một hoặc một số nhận định của dân gian,
của những người có uy tín, của sách giáo khoa hay của chính
người ra đề về vấn đề cần nghị luận nhằm giúp học sinh có
phương hướng giải quyết vấn đề. Trong trường hợp như thế, chỉ
cần bám sát đề bài là lập được. Ví dụ:
4
Đề 1
Anh chị nêu lên nhận xét về phần đóng góp và hạn chế của dòng
văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
Yêu cầu của đề bài là phân tích một hiện tượng văn học (dòng
văn học lãng mạn). Hai khía cạnh của vấn đề nêu ra trong đề bài
(đóng góp và hạn chế của dòng văn học lãng mạn) đã gợi ra hai
ý lớn cần trình bày trong bài làm.
Đề 2
Nhận định về nội dung các tác phẩm viết về nông dân của Nam
Cao, có người nói: “Tác phẩm của Nam Cao không những đã
vạch ra nỗi khổ cùng cực của người nông dân mà còn thể hiện
cảm động bản chất đẹp đẽ, cao quý trong tâm hồn của họ”.
Dựa vào tác phẩm của Nam Cao mà anh chị đã học và đã đọc,
hãy chứng minh ý kiến trên.
Vấn đề đặt ra là chứng minh nhận định về nội dung các tác
phẩm của Nam Cao viết về nông dân. Dựa vào nhận định của
sách giáo khoa Văn học nêu trong đề bài, ta có thể xác lập được
hai ý lớn cho bài làm là: 1. Tác phẩm của Nam Cao phản ánh
nỗi cùng khổ của người nông dân; 2. Tác phẩm của Nam Cao
thể hiện cảm động bản chất đẹp đẽ, cao quý của người nông dân.
b) Cùng với những chỉ dẫn về nội dung nghị luận. trong mỗi đề
bài đều có chỉ dẫn về phương pháp nghị luận (kiểu bài), ví dụ:
giải thích, chứng minh, phân tích, bình giảng, bình luận. Đây
cũng là căn cứ để người làm bài định hướng lập ý. Chẳng hạn,
nếu đề bài yêu cầu chứng minh một ý kiến thì các ý trong bài
làm nên triển khai theo hai bước:
5
- Giải thích nội dung cơ bản của ý kiến nêu trong đề bài.
- Chứng minh ý kiến ấy.
Nếu đề bài yêu cầu phân tích toàn diện một tác phẩm văn học thì
ý của bài làm thường xây dựng theo các bước:
- Phân tích hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
- Phân tích giá trị tư tưởng của tác phẩm.
- Phân tích giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
- Phân tích ảnh hưởng của tác phẩm đối với văn học và đời
sống.
2. Những kiến thức về văn học và xã hội mà học sinh đã học,
đã đọc hoặc đã tiếp thu được qua những nguồn đáng tin cậy
Một đề bài dù có chứa đựng những gợi ý cụ thể đến đâu cũng
chỉ giúp người làm bài vạch ra được một số ý lớn hoặc tương
đối lớn. Để xác lập được các ý nhỏ, ta còn phải dựa vào những
kiến thức lí luận văn học, văn học sử và giảng văn hoặc những
kiến thức về xã hội đã học được trong và ngoài nhà trường. Đối
với những đề bài không chứa đựng gợi ý cụ thể, việc dựa vào
những kiến thức nói trên lại càng cần thiết. Ví dụ:
Đề 3
Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của ngòi bút Nguyễn Ái
Quốc trong truyện ngắn Vi Hành.
Đề bài này không gợi ra các ý lớn cho bài làm mà chỉ nêu vấn
đề cần giải quyết. Nhờ dựa vào các kiến thức lí luận văn học và
giảng văn, học sinh có thể nêu lên ba đặc điểm nghệ thuật của
Nguyễn Ái Quốc trong truyện ngắn Vi Hành như sau :
- Nghệ thuật châm biếm.
- Nghệ thuật tạo tình huống nhầm lẫn.
- Nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, tự nhiên.
6
CÁC BƯỚC LẬP Ý
1. Xác lập các ý lớn
Nếu đề bài đặt ra nhiều yêu cầu thì ứng với mỗi yêu cầu ấy là
một ý lớn. Ví dụ, để giải quyết đề 1, bài làm cần có hai ý lớn là:
1. Đóng góp của văn học lãng mạn.
2. Hạn chế của văn học lãng mạn.
Nếu đề bài chỉ đặt ra một yêu cầu thì mỗi ý trực tiếp đáp ứng
yêu cầu ấy là một ý lớn. Ví dụ, bài làm theo đề 3 có ba ý lớn là:
1. Nghệ thuật châm biếm.
2. Nghệ thuật tạo tình huống nhầm lẫn.
3. Nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, tự nhiên.
2. Xác lập các ý nhỏ
Mỗi ý lớn cần được cụ thể hóa thành nhiều ý nhỏ. Ví dụ, để giải
quyết ý lớn 1 của đề 1 (đóng góp của văn học lãng mạn), có thể
vạch ra hai ý nhỏ là:
A) Đóng góp về nội dung tư tưởng.
B) Đóng góp về nghệ thuật.
Mỗi ý nhỏ cũng có thể được cụ thể hóa thành những ý nhỏ hơn.
Ví dụ, khi xem xét phần đóng góp của văn học lãng mạn Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945 về mặt nghệ thuật (ý nhỏ b nói
trên), ta có thể trình bày một số ý sau đây:
- Văn học lãng mạn góp phần quan trọng đổi mới ý thức văn học
hiện đại.
- Văn học lãng mạn góp phần quan trọng tạo nên bước phát
triển của tiếng Việt.
Tùy từng trường hợp, bài văn có thể gồm ít hay nhiều bậc ý nhỏ.
B – LẬP DÀN BÀI
Lập dàn bài là sắp xếp các ý đã tìm được ở bước lập ý theo trật
tự thích hợp và xác định mức độ trình bày mỗi ý theo tỉ lệ thỏa
đáng giữa các ý.
7
1. Sắp xếp ý:
Viết văn nghị luận là trình bày lập luận để người đọc hiểu, tin,
suy nghĩ và hành động theo quan điểm của người viết về vấn đề
đặt ra trong đề bài. Bởi vậy, việc sắp xếp ý trong bài văn cần
đảm bảo tính hệ thống của lập luận và chú ý đếm tâm lí tiếp
nhận của người đọc. Có trường hợp các ý phải được sắp xếp
theo một trật tự bắt buộc, bởi vì có giải quyết xong ý này mới đủ
điều kiện để giải quyết ý kia. Ví dụ, nếu đề bài yêu cầu giải
thích và chứng minh một ý kiến thì cần giải thích cho rõ ý kiến
ấy mới có thể đưa dẫn chứng để chứng minh được. Cũng có khi
việc sắp xếp ý không bị gò bó theo hẳn một trật tự cố định nào.
Trong trường hợp này, người viết cần cân nhắc để chọn một trật
tự thuận lợi hơn cho việc trình bày lập luận và việc tiếp thu của
người đọc. Chẳng hạn:
- Chọn cách sắp xếp ý tứ dễ tiếp thu đến khó tiếp thu hơn. Ví dụ,
giữa hai ý về đóng góp của văn học lãng mạn Việt Nam giai
đoạn 1930 – 1945 về mặt nghệ thuật là sự đổi mới ý thức văn
học và sự phát triển tiếng Việt, nếu ý đầu được trình bày trước
thì thuận lợi hơn cho sự tiếp thu của người đọc.
- Chọn cách sắp xếp ý đỡ gây ra hiện tượng lập ý. Ví dụ, khi
phân tích nghệ thuật của ngòi bút Nguyễn Ái Quốc trong truyện
ngắn Vi Hành (đề 3), nên trình bày ý 1 (nghệ thuật châm biếm)
trước ý 2 (Nghệ thuật tạo tình huống nhầm lẫn) và trình bày ý 2
trước ý 3 (Nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, tự nhiên), vì nếu làm
ngược lại thì khó tránh khỏi hiện tượng lặp ý.
- Chọn cách sắp xếp ý theo trật tự nêu trong đề bài. Ví dụ khi
làm đề 1, có thể nói đến những đóng góp của văn học lãng mạn
trước, nói đến những hạn chế của dòng văn học ấy sau. Hoặc,
khi làm đề 2, ý “Tác phẩm của Nam Cao phản ánh nỗi cùng khổ
của người nông dân” đặt trước ý “Tác phẩm của Nam Cao thể
hiện cảm động bản chất đẹp đẽ, cao quý của người nông dân”
cũng là hợp lí.
8
2. Xác định mức độ trình bày mỗi ý
Trong bài văn, không phải bao giờ các ý cũng cần được trình
bày dàn đều mà nên có chỗ đậm, chỗ nhạt, chỗ nói kĩ, chỗ nói
lướt qua. Ngay ở khâu lập dàn ý, sau khi sắp xếp ý, ta nên cân
nhắc trước tỉ lệ dành cho mỗi ý trong bài để chủ động xây dựng
một bài văn cân đối, có sức hấp dẫn. Thông thường, ý được nói
kĩ là ý trọng tâm. Ví dụ, nếu đề bài yêu cầu chứng minh một ý
kiến thì phần chứng minh cần được nói kĩ, còn phần giải thích ý
kiến chỉ nên nói đến nức đủ rõ để tạo điều kiện cho phần chứng
minh. Còn nếu đề bài yêu cầu vừa giải thích vừa chứng minh thì
hai phần có thể xấp xỉ nhau. Ý được nói kĩ trong bài cũng có khi
là những ý phức tạp, phải trình bày thật tỉ mỉ mới đủ sức thuyết
phục người đọc, hoặc là những ý thể hiện khám phá mới mẻ của
người viết về vấn đề được đặt ra.
C – MỘT SỐ KIỂU LỖI VỀ LẬP Ý VÀ LẬP DÀN BÀI
1. Lạc ý (lạc đề)
Bài văn lạc ý là bài văn:
a) Có những ý lớn không phù hợp với yêu cầu về nội dung và
phương pháp nghị luận nêu trong đề bài. Ví dụ, đề yêu cầu phân
tích đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Vi Hành (đề 3) mà bài
làm đưa ra một ý lớn là “thái độ phê phán chế độ phong kiến”
hoặc sa vào bình luận về giá trị của tác phẩm hay đóng góp của
tác giả.
b) Có những ý nhỏ không phù hợp với nội dung của ý lớn hoặc
có những ý nhỏ bậc dưới không phù hợp với nội dung của ý nhỏ
bậc trên. Ví dụ, để minh họa ý kiến của sách giáo khoa về bài
thơ Tràng giang của Huy Cận là: “Bài thơ đã biểu lộ kín đáo mà
thấm thía tình yêu quê hương đất nước”, có học sinh đã biết đưa
ra một ý đúng là bài thơ của Huy Cận là thể hiện tình yêu thiên
nhiên; nhưng khi phân tích tình yêu thiên nhiên ấy, học sinh này
chỉ khai thác nỗi buồn mênh mông trong các hình ảnh thiên
nhiên. Nỗi buồn mênh mông ấy tuy là có thật, nhưng nếu chỉ
dùng lại ở đó thì bài làm lạc ý.
9
c) Có những dẫn chứng nằm ngoài phạm vi tư liệu mà đề bài
cho phép sử dụng. Ví dụ, về văn học lãng mạn nhưng lại đưa
dẫn chứng trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng hay thơ Tú Mỡ,
viết về đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Vi Hành nhưng lại
đưa dẫn chứng trong các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc. Nếu
những dẫn chứng kiểu như trên được đưa ra quá nhiều và đưa ra
không phải để so sánh làm nổi bật ý cần nói về văn học lãng
mạn hay về nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Ái Quốc thì đó
là những dẫn chứng lạc ý.
2. Thiếu ý
a) Thiếu một số ý lớn so với yêu cầu của đề bài. Ví dụ, đề 2 yêu
cầu làm sáng tỏ hai ý về các tác phẩm của Nam Cao nhưng bài
làm chỉ tập trung vào một ý.
b) Thiếu ý nhỏ để cụ thể hóa ý lớn. Ví dụ, bàn về đóng góp và
hạn chế của văn học lãng mạn mà chỉ tập trung vào nội dung tư
tưởng, bỏ qua mặt nghệ thuật của các tác phẩm. Hoặc, phân tích
giá trị nhân đạo của văn học hiện thực phê phán mà chỉ khai thác
tình thương yêu và lòng trân trọng những người cùng khổ thể
hiện trong các tác phẩm, không đề cập một khía cạnh khác của
lòng nhân đạo là vạch trần những hiện tượng vô nhân đạo, lên
án những kẻ chà đạp cuộc sống và phẩm giá của người lao động
trong xã hội cũ.
3. Lặp ý
a) Ý sau lặp lại hoàn toàn ý trước
Ví dụ 1: Có học sinh nêu lên bốn hạn chế về nội dung tư tưởng
của văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 như sau:
1. Né tránh những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc.
2. Bỏ qua đề tài đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
giới cần lao.
3. Khẳng định cái tôi một cách cực đoan.
4. Ủy mị bế tắc.
Ý 1 và ý 2 trùng nhau, nên nhập làm một.
10
Ví dụ 2: Nhiều học sinh làm bài văn phân tích tả chân dung
nhân vật trong truyện Truyện Kiều, nói về bức chân dung nào
cũng khẳng định “chân dung rất sinh động”, lời lẽ miêu tả rất
xác đáng”. Lối nói sáo chung chung này cũng là lặp ý. Nó cho
thấy ở bước lập ý và lập dàn ý, người làm bài không chịu khó
suy nghĩ để nhận ra vẻ riêng của ngòi bút Nuyễn Du trong mỗi
bức chân dung.
b) Ý sau bao chứa ý trước hoặc ý trước bao chứa ý sau
Ví dụ: Để chứng minh “Lao động là cái đáng quý nhất”, có học
sinh nêu ra bốn ý:
1. Lao động sáng tạo ra lòai người;
2. Lao động nuôi sống con người;
3. Lao động sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần
trong xã hội;
4. Lao động là môi trường rèn luyện để con người hoàn
thiện không ngừng.
Ta thấy ý 2 bị bao chứa trong ý 3. Đặt một ý nhỏ ngang hàng
với ý lớn như vậy cũng gây ra tình trạng lập ý khi viết.
4. Sắp xếp ý lộn xộn
a) Sắp xếp ý không theo trật tự nào
Ví dụ: Đề bài yêu cầu giải thích và chứng minh nhận định “Văn
học hiện thực phê phán tuy còn những hạn chế về tư tưởng và
nghệ thuật nhưng nó vẫn có lợi cho cách mạng” mà trong phần
giải thích nhận định ấy lại xen những ý chứng minh, trong phần
chứng minh xen cả ý giải thích, đang chứng minh ý 1 thì xen ý 2
… Đây là hiện tượng viết văn tùy tiện, gặp đâu nối đấy, không
chuẩn bị kĩ dàn ý.
b) Trật tự các ý không thích hợp
Ví dụ: Khi giải quyết đề bài nói trên, người viết trình bày ý
“Văn học hiện thực phê phán có lợi cho cách mạng” trước ý
“Văn học hiện thực phê phán có những hạn chế về tư tưởng và
nghệ thuật”.
11
LUYỆN TẬP
1. Cho một sốt đề bài như sau:
a) Đề 1: Tục ngữ có câu: có chí thì nên. Hãy chứng minh ý kiến
đó và rút ra bài học cho bản thân.
b) Đề 2: Bài thơ Tràng giang của Huy Cận đã biểu lộ kín đáo mà
thấm thía tình yêu quê hương đất nước. Anh chị hãy phân tích
bài thơ để làm sáng tỏ điều đó.
c) Đề 3: Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo.
Anh chị hãy vạch ra các ý lớn, ý nhỏ để giải quyết một trong các
đề bài nói trên và cho biết căn cứ vào đâu mà lập được những ý
như vậy?
2. Một bài văn giải thích câu tục ngữ: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
có ba ý lớn như sau: 1. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây nghĩa là gì? 2.
Vì sao ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây? 3. Thế nào là nhớ kẻ trồng
cây?
Anh chị hãy phát triển một trong các ý lớn trên thành những ý
nhỏ và sắp xếp chúng thành dàn bài hoàn chỉnh.
12
II – LẬP LUẬN TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
A – LẬP LUẬN CÁC YẾU TỐ CỦA LẬP LUẬN
1. Lập luận là gì?
Nhiệm vụ của việc lập ý là xác định các ý lớn, nhỏ cần được
trình bày trong bài văn để thỏa mãn yêu cầu của đề bài. Các ý
này có khi đã nêu được một quan điểm (của người ra đề của
người viết) về vấn đề đặt ra (ví dụ, các ý triển khai đề 2: 1. Tác
phẩm của Nam Cao phản ánh nỗi cùng khổ của người nông dân;
2. Tác phẩm của Nam Cao thể hiện cảm động bản chất đẹp đẽ
cao quý của người nông dân), nhưng nhiều khi chỉ đặt ra vấn đề
cần giải quyết (ví dụ, các ý triển khai đề 1: 1. Đóng góp của văn
học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945; 2. Hạn chế của
văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945). Dù trong
trường hợp nào, việc lập ý cũng chỉ mới định ra được những
điều khái quát cần nói. Để giải quyết vấn đề, người viết phải biết
lập luận.
Lập luận là dựa vào các sự thật đáng tin cậy và các lí lẽ xác đáng
để nêu lên ý kiến của mình về một vấn đề nhất định. Khi lập
luận, người ta, một mặt, nêu rõ luận điểm để mọi người biết
mình muốn nói gì, tán thành điều gì, phản đối điều gì; mặt khác,
nêu ra các lí lẽ, dẫn chứng (luận cứ) và tổ chức các lí lẽ, dẫn
chứng ấy một cách hợp lí (tiến hành luận chứng) nhằm thuyết
phục người đọc tin vào nhận định và tán thưởng thái độ của
mình.
2. Các yếu tố của lập luận
a) Luận điểm
Luận điểm là ý kiến xác định của người viết về vấn đề được đặt
ra. Ví dụ, nhận định về nghệ thuật của Truyện Kiều, Hoài Thanh
nêu ra luận điểm: “Nguyễn Du đã tái tạo lại cuộc sống đương
thời và sáng tạo củc một thế giới có thật”.
Để thuyết minh cho luận điểm lớn, người ta thường đề xuất các
luận điểm nhỏ. Ví dụ, thuyết minh cho luận điểm trên, Hoài
Thanh nêu ra các luận điểm nhỏ như sau: 1. Trong thế giới ấy có
những con người rất sống, rất thật; 2. Cảnh vật cũng sống động.
Một bài văn nghị luận có thể có một số luận điểm lớn và nhiều
luận điểm nhỏ. Các luận điểm ấy liên kết với nhau để soi sáng,
thuyết minh cho luận điểm lớn của toàn bài.
13
Các luận điểm lớn, nhỏ của bài nghị luận đều phải chính xác,
tức là nói đúng được đặc điểm của sự vật và sự việc được nói
đến. Muốn có được luận điểm chính xác thì phải có hai điều
kiện: một là có nhiều luận cứ đáng tin cậy, hai là có cách luận
chứng đúng đắn, thuyết phục.
b) Luận cứ:
Luận cứ là các tài liệu dùng làm cơ sở thuyết minh cho luận
điểm. Có hai loại luận cứ: thực tế (của đời sống và văn học được
dùng làm dẫn chứng) và lí lẽ (các nguyên lí, chân lí, ý kiến đã
được công nhận). Ví dụ, để chứng minh cho luận điểm “Trong
thế giới Truyện Kiều, có những con người rất sống, rất thật”,
Hoài Thanh đã nêu ra các lí lẽ: Những người sống thì không ai
giống ai, một người sống thì khi thế này khi thế khác; muốn biết
một người sống thật thì hãy nghe lời họ nói; một nhân vật sống
thì ai cũng cảm thấy như thật. Đó là những lí lẽ đơn giản mà ai
cũng dễ chấp nhận. Dựa vào các lí lẽ ấy, Hoài Thanh nêu ra các
dẫn chứng. Đối với lí lẽ thứ nhất, nhà phê bình nêu ra các nhân
vật khác nhau. Đối với lí lẽ thứ hai, ông nêu ra sự thực mà ai
cũng thấy: ngay một việc Kiều đánh đàn thì tiếng đàn mỗi lúc
một khác, các cuộc chia li cũng diễn ra không giống nhau. Đối
vối lí lẽ thứ ba, ông dẫn ra một loạt câu nói của Kiều để ta thất
giọng điệu chân thật trong lời của nàng, và nói thêm ngay:
“giọng người con gái ấy thì cũng không lần nào giống lần nào”
… Đối với lí lẽ thứ tư, Hoài Thanh lấy dẫn chứng trong thực tế:
Các nhà nho khinh ghét Kiều hoặc yêu mến Kiều đều xem Kiều
là người có thật. Một bà cụ nông dân cũng xem Kiều là người có
thật. Người ta quên rằng Kiều là con người trong tiểu thuyết. Từ
các luận cứ trên, Hoài Thanh kết luận: “Nội chừng ấy cũng đã
nói lên thành công to lớn của “Truyện Kiều” về nghệ thuật”.
Luận cứ của lập luận phải chân thực, xác đáng và toàn diện.
Muốn vậy, khi sử dụng luận cứ, phải xem xét, cân nhắc, thẩm
tra, nhất là những luận cứ then chốt (ví dụ, tính đa dạng, không
lặp lại của các tình huống, các tình cảm, tâm trạng vốn có trong
Truyện Kiều).
14
Mối quan hệ giữa luận điểm và luận cứ rất khăng khít, chặt chẽ;
luận điểm đứng được là dựa vào luận cứ, còn luận cứ nêu ra là
để phục vụ cho luận điểm. Trong nội bộ các luận cứ, lí lẽ và dẫn
chứng cũng soi sáng cho nhau: lí lẽ tạo cho dẫn chứng khả năng
thuyết minh cho luận điểm, còn dẫn chứng thực tế lại làm cho lí
lẽ có nội dung, có sức nặng.
c) Luận chứng
Có luận điểm, luận cứ rồi, còn phải biết làm cho luận cứ “nói
lên” luận điểm, làm sao cho lí lẽ và dẫn chứng thực tế phối hợp
với nhau để thuyết minh luận điểm một cách mạnh mẽ, nổi bật
thuyết phục. Muốn vậy thì phải biết cách luận chứng.
Luận chứng là sự phối hợp, tổ chứ các lí lẽ và dẫn chứng để
thuyết minh cho luận điểm. Thực chất của luận chứng, là cách
đưa luận cứ vào quỹ đạo lôgic để tạo thành sức thuyết phục của
luận điểm. Ví dụ, bàn về nghệ thuật Truyện Kiều, Hoài Thanh
trước tiên nêu ra luận điểm lớn, cụ thể hóa thành một số luận
điểm nhỏ, sau đó tiến hành luận chứng qua các luận cứ cụ thể:
phối hợp lí lẽ với dẫn chứng và phép suy luận. Trước hết, ông
nêu một lí lẽ mà ai cũng thừa nhận: một con người sống thì bao
giờ cũng mỗi lúc một khác. Tiếp đến, đưa dẫn chứng mà ai cũng
biết: Kiều nhiều lần đánh đàn, nhiều lần chia li mà không lúc
nào giống nhau. Sau đó, đưa một chứng cớ là phát hiện riêng
của ông: lời nói của Kiều là lời của một con người sống (có lời
Kiều nói với Kim Trọng nghe vô lí nhưng đúng lí của người
đang yêu, có lời dịu dàng với cha mẹ, đốp chát, mát mẻ đối với
quân Sở Khanh …, không lúc nào giống lúc nào). Luận chứng
xong về tính sống động của nhân vật chính diện, tác giả chuyển
sang luận chứng về tính sống động của nhân vật phản diện, hết
phần nhân vật chuyển sang phần cảnh vật … Hoài Thanh đã tạo
ra một luận chứng toàn diện, phong phú với nhiều phương pháp
suy luận đa dạng.
15
Luận chứng phải chặt chẽ. Ví dụ, nêu dẫn chứng bà cụ nông dân
đọc Truyện Kiều tưởng nàng Kiều là người có thật. Hoài Thanh
liền đó nêu thêm nhiều ví dụ cho thấy các nhà nho cũng xem
Kiều như người có thật: Không chỉ người yêu nàng xem là có
thật, mà cả người khinh ghét nàng cũng cho là có thật. Vậy cảm
giác xem là có thật ấy có tính phổ biến, không trừ một ai: Không
phải chỉ bà cụ ít học mới có cảm giác ấy mà cả các nhà nho uyên
thâm cũng vậy. Luận chứng như thế là chặt chẽ, không sơ hở.
Dẫn chứng phải được phân tích, giải thích thì mới có giá trị
chứng minh (xem bài Chọn và trình bày dẫn chứng, tr 35).
Luận chứng phải tránh cực đoan, một chiều; phải biết lật đi lật
lại vấn đề để xem xét cho cạn lí hết lẽ.
B – MỘT SỐ CÁCH LUẬN CHỨNG
1. Diễn dịch
Diễn dịch là từ chân lí chung, quy luật chung mà suy ra các hệ
luận, các biểu hiện cụ thể. Ví dụ:
“Đau thương bao giờ cũng là nguồn cảm hứng nhân đạo chủ
nghĩa lớn lao của văn học nghệ thuật. Nguyễn Du, Tônxtôi, Lỗ
Tấn… đã trở thành những nghệ sĩ lớn trước hết là vì hơn bất cứ
ai họ đã thông cảm sâu sắc và đau đớn da diết những nỗi đau
nhân tình trong thời đại họ” …
(Hoàng Ngọc Hiến)
Câu thứ nhất là một nguyên lí phổ biến (bao giờ cũng là). Câu
thứ hai là một nhận định mới về các nhà văn cụ thể được suy ra
từ quan điểm của câu thứ nhất (nhấn mạnh trước hết).
16
2. Quy nạp
Quy nạp là nhưng chứng cớ cụ thể mà rút ra những nhận định
khát quát. Ví dụ:
“Bộ Sử kí Tư Mã Thiên mà các nhà thơ vẫn công nhận làm kiểu
mẫu văn hay kia, nếu không phát sinh từ trong buồn gan uất ức
của ông “Thái sử” thì ở đâu ra? Gần chúng ta hơn là các nhà tiền
bối như Nguyễn Du, Cao Bá Nhạ, Nguyễn Công Trứ, Yên Đổ,
Tú Xương, Phan Sào Nam, Nguyễn Khắc Hiếu cũng vậy. Những
câu văn mà hiện còn truyền tụng cũng đều biểu hiện những
buồng tim đã chán chê hay tê tái với thế cuộc nhân tình: Không
có một khối óc sôi nổi, không có một thế giới quan, nhân sinh
quan sinh động thì không thể sản sinh được một áng danh văn”.
(Đặng Thai Mai)
Phần đầu, tác giả nêu lên các luận cứ cụ thể, và phần cuối, quy
nạp thành luận điểm.
3. Phối hợp diễn dịch với quy nạp (tổng – phân – hợp)
Ví dụ: “Trong hoàn cảnh “trăm dâu đổ đầu tằm”, ta càng thấy
chị Dậu thật là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Một mình
chị phải giải quyết mọi khó khăn đột xuất của gia đình, phải
đương đầu với những thế lực tàn bạo, quan lại, cường hào, địa
chủ và nhắm mắt khoanh tay, mà tích cực tìm cách cứu được
chồng ra khỏi cơn hoạn nạn. Hình ảnh chị Dậu hiện lên vững
chãi như một chỗ dựa chắc chắn của cả gia đình”
(Theo Nguyễn Đăng Mạnh)
Câu mở đầu đoạn văn nêu lên một nhận định chung về nhân vật.
Hai câu khai triển đoạn đưa ra các biểu hiện cụ thể minh họa cho
nhận định chung ấy. Từ những chứng cớ cụ thể này, câu kết
đoạn đúc kết thành một nhận định mời vừa phù hợp với nhận
định ban đầu, vừa được nâng vao hơn. Đó là mô hình tổng hợp –
phân tích – tổng hợp (tổng – phân – hợp)
17
Mô hình tổng – phân – hợp cũng thường là mô hình cấu tạo của
toàn bài văn nghị luận
4. Nêu phản đề
Nêu phản đề là nêu một luận điểm giả định và phát triển nó cho
đến tận cùng để chứng đó là luận điểm sai và từ đó mà khẳng
định luận điểm của mình. Đây là cách lật ngược vấn đề để xem
xét. Ví dụ:
“Giả sử, nếu không có Thơ mới thì sau Cách mạng tháng Tám,
tình hình thơ ca sẽ ra thế nào? Chắn chắn là từ các thể thơ cũ,
bát cú, tuyệt cú, cổ phong mà nhảy vọt lên để sớm có được
những thành tựu như của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu
… Trong kháng chiến lần thứ nhất, là chuyện khó quan niệm
nổi. Lịch sử là sợi dây chuyền mà mỗi khâu trong đó đều có vai
trò trong quá trình phát triển”.
(Lê Đình Kị)
5. So sánh
a) So sánh tương đồng (loại suy)
So sánh tương đồng là từ một chân lí đã biết suy ra một chân lí
tương tự, có chung một lôgic bên trong. Ví dụ:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”.
Lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước
Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”.
(Hồ Chí Minh)
18
b) So sánh tương phản
So sánh tương phản là đối chiếu các mặt trái ngược nhau để làm
nổi bật luận điểm.
Ví dụ, để bênh vực cho sự xuất hiện của Thơ mới, diễn đạt
những tình cảm mới mang màu sắc riêng của thời đại, Lưu
Trọng Lư viết:
“Các cụ ưa những màu đỏ choét, ta lại ưa những màu xanh nhạt
… Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta nao nao vì
tiếng gà lúc đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ các
cụ coi như là một việc tội lỗi, ta thì cho là mát mẻ như đứng
trước một cách đồng xanh. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự
hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình
say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gụi, cái tình xa xôi...,
cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu”…
6. Phân tích nhân quả
a) Trình bày nguyên nhân trước, chỉ ra kết quả sau. Ví dụ:
“Câu chuyện lẽ ra chấm hết ở đó, nhưng dân chúng không chịu
nhận ra tình thế đau đớn ấy và cố gắng đem một nét huyền ảo để
an ủi ta. Vì thế mới có đoạn thứ hai, kể chuyện nàng Trương
xuống thủy cung, và sau lại còn gặp mặt chồng một lần nữa”.
(Nguyễn Đình Thi)
b) Chỉ ra kết quả trước trình bày nguyên nhân sau. Ví dụ:
“Tính nhân dân bộc lộ một cách trực tiếp và dễ thấy nhất trong
văn học dân gian, vì đây là những sáng tác tập thể, truyền
miệng, “vô danh” của chính quần chúng, phản ánh chủ yếu sinh
hoạt của những người lao động, nói lên tư tưởng, tình cảm của
họ, thể hiện cách suy nghĩ, các diễn đạt, lời ăn tiếng nói của họ”.
(Nguyễn Văn Hạnh).
19
c) Trình bày hàng loạt sự việc theo quan hệ nhân quả liên hoàn
Ví dụ:
“Muốn xây dựng chủ nghĩ xã hội thì phải tăng gia sản xuất.
Muốn tăng gia sản xuất tốt thì phải có kĩ thuật cải tiến. Muốn sử
dụng tốt kĩ thuật thì phải có văn hóa. Vì vậy, công việc bổ túc
văn hóa là cực kì cần thiết”.
(Hồ Chí Minh)
7. Vấn đáp
Vấn đáp là nêu câu hỏi rồi trả lời hoặc để người đọc tự trả lời Ví
dụ:
“Những câu thơ này của Nguyễn Du:
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một và bông lau
Thì có quan hệ gì với “đạo đức”? Câu thơ tưởng như chẳng dính
líu gì đến đạo đức cả. Nó không dạy cho người ta phải làm việc
này thiện, việc kia thiện. Nhưng một câu thơ như thế làm cho
người ta nhìn thấy cảnh mà động lòng thương, nó cho ta thấy
ngọn “gió hiu hiu thổi” và cảm thấy đằng sau đó còn có cái gì
nữa. Con người đã giàu lòng thông cảm như thế, đã động lòng
được với từng ngọn cỏ, lá cây, thì làm sao mà không động lòng
thương những nỗi khổ của con người được?”.
(Nguyễn Đình Thi)
Câu hỏi trước nêu vấn đề. Câu hỏi sau đã hàm chứa một câu trả
lời, bởi vì không dễ trả lời phủ định được.
20
C – MỘT SỐ KIỂU LỖI VỀ LẬP LUẬN
1. Luận điểm không rõ ràng
Luận điểm không rõ ràng là nói lan man mà không nêu được ý
kiến nhận định, đánh giá của mình về vấn đề đặt ra trong bài,
hoặc diễn đạt thiếu mạnh lạc nên không làm rõ được nội dung ý
kiến. Ví dụ:
Trong văn học cách mạng 1930 – 1945 là chủ nghĩ hiện thực
chẳng những phải có một ngòi bút lạnh lùng mà phải có một trái
tim nhân đạo chính là nơi xuất phát, nơi bắt đầu của những sáng
tác, của nhân vật hiện thực cũng là thiên chức của nhân vật trong
bất cứ thời đại nào.
(Bài làm của học sinh)
2. Luận cứ không chuẩn xác, không đáng tin cậy
Một biểu hiện của luận cứ thiếu chuẩn xác, không đáng tin cậy
là nhớ lời thơ, văn không chuẩn, dẫn đến bình giảng không đúng
tinh thần của câu chữ. Ví dụ:
Nắng xuống, trời lên xanh bát ngát
Sông dài trời rộng, bến cô liêu …
Thường khi nắng chiều đã xuống thì bầu trời trở nên xanh mênh
mông bát ngát, cảnh đẹp của quê hương cũng không lấp được
nỗi trống trải cô đơn trong lòng người.
(Bài làm của học sinh)
3. Luận chứng thiếu lôgic
Biểu hiện thiếu lôgic của luận chứng thường là:
a) Lập luận có mâu thuẫn (các luận điểm trái ngược nhau, luận
cứ trái ngược với luận điểm). Ví dụ:
21
Hình tượng người nông dân trong văn học hiện thực phê phán có
những nét đẹp truyền thống. Nếu đặt họ bên những nhân vật
phản diện như Nghị Lại, Nghị Quế thì họ hoàn toàn đối lập với
bản chất kệch cỡm, nhố nhăng, tàn ác của bọn quan lại. Chị Dậu
không như Thúy Kiều hay Kiều Nguyệt Nga khi gặp hoạn nạn
thì tìm vào cõi Phật để hưởng chút bình an, mà chị chị đã đấu
tranh để bảo vệ nhân phẩm.
(Bài làm của học sinh)
Trong đoạn trên, câu chủ đề đã khẳng định rằng “người nông
dân trong văn học hiện thực phê phán có những nét đẹp truyền
thống”, nhưng luận cứ lại nói lên sự khác biệt giữa nhân vật
nông dân của văn học hiện thực phê phán với các nhân vật
truyền thống như Thúy Kiều hay Kiều Nguyệt Nga.
b) Lập luận không nhất quán (luận điểm một đằng, luận cứ một
nẻo). Ví dụ:
Trước hết, ta thấy nàng Kiều là một người có lòng nhân ái. Nàng
có tài, có sắc, có đạo đức. Lẽ ra con người này phải được sống
sung sướng, nhưng nàng đã nếm trải tất cả nỗi khổ đau của
người phụ nữ trong xã hội cũ.
(Bài làm của học sinh)
Luận cứ trong đoạn văn trên tuy không mâu thuẫn với luận điểm
“Kiều là người có lòng nhân ái”, nhưng nó không phục vụ gì
cho luận điểm này.
c) Lập luận không đủ lí do. Ví dụ:
Sách […] thiệt là vừa hay, vừa lành: hay vì nó không đến nỗi vô
vị, vô duyên, lành vì nó không ảnh hưởng gì xấu đến tinh thần
người đọc.
(Sách)
Một cuốn sách “không đến nỗi vô vị, vô duyên” chưa thể gọi là
một cuốn sách “hay” và một cuốn sách “không có ảnh hưởng gì
xấu” chưa thể gọi là một cuốn sách “lành” được.
22
LUYỆN TẬP
1. Các đoạn văn sau đây thể hiện những cách luận chứng
nào? Chỉ ra mối quan hệ của luận cứ và luận điểm.
a) Gorki nói: “Khi đọc Tônxtôi, tôi có cảm giác là các nhân vật
có thật, có xương có thịt …, ta tưởng như nhìn thấy họ trước mắt
ta, ta lấy tay sờ vào họ được”. Chúng ta đọc Truyện Kiều đều
cùng chung một cảm giác ấy.
(Hoài Thanh)
b) Tôi bước dưới những hàng ống sứ
Rất trắng tròn như cổ tay em
… Những cái ống sứ trắng tròn như cổ tay em thì có xinh
không? So sánh như vậy có làm vinh dự cho thiếu nữ, có tôn vẻ
đẹp của thiếu nữ lên không? Người con gái nào mà lại thích cổ
tay mình đẹp như ống sứ mắc dây điện? Ống sứ ấy trắng và tròn,
nhưng cứng nhắc và trơ trẽn lắm.
(Xuân Diệu)
c) Trung thành với một tập quán đã thành truyền thống, ở Xuân
Diệu, Huy Cận, cũng như ở nhiều người khác, thi sĩ bao giờ
cũng hiện ra như một người tinh tế, dịu dàng. Đến Hàn Mặc Tử
thì cách nói, cách tiếp nhận đời sống khác hẳn; người làm thơ
không có thì giờ nghĩ về mình nên cách bộc lộ có sỗ sàng sống
sượng, thậm chí bệnh hoạn cũng không quản ngại.
(Vương Trí Nhàn)
d) Những cảnh sống động và tươi tắn ấy bỗng chuyển thành
những tiếng kêu Chàng ôi, chàng có hay?, Đi ta đi, chàng ôi!
Ngày vui đã hết. Thơ Nguyễn Nhược Pháp thường là những bi
kịch nhỏ, bi kịch của chia li.
(Đỗ Đức Hiểu)
23
e) Nếu khối óc nhà văn không có những luồng sáng bất bình nếu
như tâm hồn kẻ cầm bút không cảm thấy những nỗi đau đớn,
thiếu thốn của kiếp người, những điều mong mỏi thiết tha của
thời đại, nếu không lĩnh hội được tính cách luôn luôn biến thiên
của thế giới, của nhân sinh, nếu như đối với hiện tại, với tương
lai không có một yêu cầu, một hi vọng tin tưởng gì, thì cái thứ
văn mơn trớn, béo tốt như đẫy thịt, trơn như tảng trán hói của
nhà trưởng giả, cũng chỉ là một “văn chơi” mà thôi, chả có ý
nghĩa gì là văn học!
(Đặng Thai Mai)
2. Sau đây là một đoạn văn phối hợp nhiều kiểu luận chứng.
Đó là những kiểu nào?
Tiếng suối trong như tiếng hát xa …Nguyễn Du, Bạch Cư Dị so
tiếng đàn với tiếng suối. Thế Lữ lại so tiếng hát trong với nước
ngọc tuyền. Những người này không miêu tả trực tiếp tiếng suối.
Chỉ có Nguyễn Trãi cho tiếng suối là tiếng đàn cầm. Có lẽ đó là
hình ảnh gần nhất với hình ảnh trong câu thơ này. Có thể chẳng
phải ngẫu nhiên. Nguyễn Trãi sành âm nhạc, Bác Hồ cũng thích
âm nhạc. Tiếng hát của một danh ca Pháp từng thích nghe thời
trẻ, đến tuổi bảy mươi Bác còn nhờ chị Mađơlen Ripphô tìm lại
hộ. Tiếng suối ngàn của đất nước hay đó là tiếng hát của trái tim
người nghệ sĩ yêu đời?
(Lê Trí Viễn )
3. Hãy trình bày một trong hai ý sau theo cách lập luận tổng
– phân – hợp:
a) Đêm đêm cố thức đợi tàu, chị em Liên (trong tác phẩm Hai
đứa trẻ của Thạch Lam) thể hiện lòng mong muốn được giải
thoát khỏi cuộc sống buồn tẻ.
b) Trong to Vi hành, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng rất thành công
biện pháp hư cấu nghệ thuật.
24
III – MỞ BÀI, KẾT BÀI VÀ CHUYỂN ĐOẠN TRONG
VĂN NGHỊ LUẬN
A – MỞ BÀI:
Mở bài là giới thiệu vấn đề sẽ được bàn luận trong bài văn đồng
thời khêu gợi, lôi cuốn sự chú ý của người đọc đối với vấn đề
đó.
1. Nguyên tắc mở bài
a) Phần mở bài cần nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài. Nếu đề
bài yêu cầu giải thích, chứng minh, phân tích hay bình luận một
ý kiến thì phần mở bài phải dẫn lại nguyên văn ý kiến ấy.
b) Phần mở bài chỉ được phép nêu những ý khái quát. Học sinh
không được lấn sang phần thân bài, giảng giải, minh họa hay
nhận xét ý kiến nêu trong đề bài.
2. Cách mở bài:
Có rất nhiều cách mở bài. Tùy dụng ý của người làm mà có thể
vận dụng một trong các cách sau đây:
a) Mở bài trực tiếp: giới thiệu ngay vấn đề cần nghị luận. Đó là
phép mà người xưa nói “mở cửa sổ thấy núi”. Ví dụ:
Đề 1
Bình luận câu tục ngữ: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
Mở bài: Bàn về mối quan hệ giữa bản chất với hình thức bề
ngoài của sự vật, hiện tượng, tục ngữ Việt Nam có câu: Tốt gỗ
hơn tốt nước sơn.
Đề 2
Phân tích vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác
phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
25
Mở bài: Ai đã đọc tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
thì không thể không xúc động sâu sắc trước vẻ đẹp của hình
tượng nhân vật Huấn Cao.
b) Mở bài gián tiếp: nêu ra những ý liên quan đến vấn đề cần
nghị luận để khêu gợi rồi mới bắt vào vấn đề ấy. Mở bài gián
tiếp có bốn kiểu như sau:
Diễn dịch
Mở bài theo kiểu diễn dịch tức là nêu lên những ý khái quát hơn
vấn đề đặt ra trong đề bài rồi mới bắt vào vấn đề ấy. Ví dụ:
Mở bài theo đề 1: Tục ngữ thường thể hiện những triết lí rất sâu
sắc của dân gian. Bàn về mối quan hệ giữa bản chất với hình
thức bề ngoài của sự vật, hiện tượng, ông cha ta có câu: “Tốt gỗ
hơn tốt nước sơn”.
Mở bài theo đề 2: Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa, đã xây
dựng được những hình tượng đẹp về con người tài hoa, có nhân
cách cao thượng. Một trong các nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc
cho bạn đọc là Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù.
Quy nạp
Mở bài theo kiểu quy nạp tức là nêu lên những ý nhỏ hơn vấn đề
đặt ra trong đề bài rồi tổng hợp lại thành vấn đề cần nghị luận .
Ví dụ:
Mở bài theo đề 1: Trong đời sống, nhiều khi ta phải đứng trước
một sự lựa chọn về vật, về người: người đẹp mà kém, người giỏi
lại không đẹp. Đối với các trường hợp ấy, dân gian ta có lời
khuyên: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
26
Mở bài theo đề 2: Trong cuộc sống cũng như trong văn học, có
không ít nhân vật tài cao khiến ta phải nghiêng mình thán phục.
Lại có những người được ngưỡng mộ vì vẻ đẹp ngời sáng của
tâm hồn. Nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù
của Nguyễn Tuân là một hình tượng đẹp theo cả hai nghĩa: đẹp
ở sự tài hoa và đẹp ở nhân cách cứng cỏi, cao thượng.
Tương liên
Mở bài theo kiểu tương liên tức là nêu lên một ý giống như
trong đề bài rồi bắt sang vấn đề cần nghị luận. Ý được nêu ra
trước thường là tục ngữ, ca dao, danh ngôn hoặc những chân lí
phổ biến, những sự kiện nổi tiếng. Ví dụ:
Mở bài theo đề 1: L.Tônxtôi từng nói: “Người ta đáng yêu
không phải vì đẹp mà đẹp vì đáng yêu”. Ý của nhà văn muốn đề
cao phẩm chất của con người. Cùng quan điểm như vậy, nhưng
với cách diễn đạt giàu hình ảnh, và có thể được hiểu một cách
rộng hơn phạm vi đánh giá con người, tục ngữ Việt Nam có câu
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
Mở bài theo đề 2: Trong văn học sau cách mạng tháng tám, đã
có không ít tác phẩm viết về những con người không may rơi
vào tay giặc, trong nhà lao, trước cái chết vẫn hiên ngang, bất
khuất. Thật thú vị là trước Cách mạng tháng Tám, nhà văn
Nguyễn Tuân cũng đã xây dựng thành công một hình tượng
tuyệt vời về con người khí phách, tài hoa, trong nhà thù chờ
ngày lĩnh án chém – ông Huấn Cao, nhân vật chính của tác
phẩm Chữ người tử tù.
Đối lập
Mở bài theo kiểu đối lập tức là nêu lên một ý trái ngược với ý
trong đề bài rồi lấy đó làm cớ để chuyển sang vấn đề cần nghị
luận. Ví dụ:
27
Mở bài theo đề 1: Người đời không mấy ai không bị hấp dẫn bởi
vẻ đẹp bên ngoài; bởi danh vọng, địa vị. Vì thế, nhiều người
thường bị những hình thức bên ngoài ấy lừa dối, khiến mất khả
năng đánh giá chính xác sự vật, hiện tượng, thậm chí còn đem cả
cuộc sống theo đuổi “những vinh quang vô ích”. Để răn đời,
đồng thời để nêu lên một nhận xét chung về vai trò quan trọng
của nội dung so với hình thức, tục ngữ có câu: Tốt gỗ hơn tốt
nước sơn.
Mở bài theo đề 2: Đối với giai cấp thống trị, Cao Bá Quát là
quân phản nghịch, quân giặc cỏ, nhưng đối với nhân dân, ông là
một con người khí phách, tài hoa. Từ nguyên mẫu ấy, nhà văn
Nguyễn Tuân đã xây dựng nhân vật Huấn Cao, một hình tượng
đẹp trong tác phẩm Chữ người tử tù.
Cũng có thể kết hợp các kiểu mở bài thành một kiểu hỗn hợp.
Những điều cần chú ý là mở bài gián tiếp chỉ nhằm mục đích
khêu gợi chú ý, nêu bật vấn đề, do đó cần tránh lối mở bài dài
dòng, vòng vo, làm loãng vấn đề cần nghị luận.
B – KẾT LUẬN
Nhiệm vụ của phần kết bài là kết thúc vấn đề đã đặt ra ở phần
mở bài, và đã giải quyết ở phần thân bài.
1. Nguyên tắc kết bài
a) Phần kết bài phải thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở
phần thân bài.
b) Phần kết bài chỉ nêu những ý khái quát. Không trình bày lan
man hay lặp lại sự giảng giải, minh họa, nhận xét chi tiết. Cũng
không nên lặp lại nguyên văn lời lẽ của mở bài. Khác với mở
bài, phần kết bài thiên về tổng kết, đánh giá vấn đề.
28
2. Cách kết bài
Có nhiều cách kết bài khác nhau, tùy theo dụng ý của người viết
a) Tóm lược: tóm tắt quan điểm của người viết ở phần thân
bài. Ví dụ:
Đề 1:
Bình luận câu tục ngữ: Trăm hay không bằng tay quen.
Giả định đã có một thân bài theo đề này, có thể kết bài như sau:
Kết bài: Tóm lại, quan điểm đề cao kinh nghiệm, đề cao thực
hành, chống lí thuyết suông trong câu tục ngữ Trăm hay không
bằng tay quen là đúng đắn. Nhưng nếu hiểu lệch câu tục ngữ ấy
mà coi nhẹ lí thuyết lại là cực đoan, phiến diện. Trình độ lao
động của mỗi người nói riêng và của toàn xã hội nói chung, chỉ
có thể phát triển vững chắc và nhanh chóng nếu biết kếp hợp hài
hòa lí thuyết với thực hành
Đề 2:
Bình giảng bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh trong tập Nhật
kí trong tù.
Giả định có một hướng bình giảng cụ thể, ta có thể kết bài như
sau:
Kết bài: Mặc dù được sáng tác cách đây nửa thế kỉ bằng thể thơ
tứ tuyệt cổ điển, Ngắm trăng vẫn làm rung động chúng ta. Bài
thơ là sự kết hợp hài hòa giữa chất “thép” với chất “tình”, giữa
người chiến sĩ với người nghệ sĩ trong một con người. Đó không
chỉ là một sáng tạo nghệ thuật đáng trân trọng mà còn là một bài
học về phong cách sống, về nhân sinh quan.
b) Phát triển: là cách kết bài mở rộng thêm vấn đề đặt ra trong
đề tài. Ví dụ:
Kết bài theo đề 1: Qua tìm hiểu câu tục ngữ Trăm hay không
bằng tay quen, chúng ta thấy kinh nghiệm của cha ông thể hiện
trong các câu tục ngữ thật là quý báu, nhưng không hẳn kinh
nghiệm nào cũng đã xác đáng hoàn toàn. Bởi vậy, trong khi tiếp
thu các kinh nghiệm cổ truyền một cách trân trọng, chúng ta
cũng cần vận dụng hiểu biết khoa học và thực tiễn đời sống hiện
nay bổ khuyết cho những thiếu sót, những điểm chưa hoàn chỉnh
của các kinh nghiệm ấy, góp phần làm giàu vốn tri thức của dân
tộc ta.
29
Kết bài theo đề 2: Bài thơ Ngắm trăng chẳng những đem lại cho
chúng ta những cảm xúc khỏe khoắn, thanh cao mà còn gợi cho
giới sáng tác và công chúng suy nghĩ về vấn đề tiếp thu vốn cổ.
Bằng những hình thức nghệ thuật cổ truyền, nhà nghệ sĩ vẫn có
thể phản ánh một cách chân thực và sinh động cuộc sống hôm
nay, bồi dưỡng nhận thức và tình cảm cách mạng cho công
chúng. Nếu biết kếp hợp nhuần nhuyễn giữa cổ với kim.
c) Vận dụng: là cách kết bài nêu ra phương hướng áp dụng
cái tốt, cái hay hoặc khắc phục cái xấu, cái dở của hiện tượng
hay ý kiến trong bài văn vào cuộc sống. Ví dụ:
Kết bài theo đề 1: Tiếp thu kinh nghiệm quý báu của người xưa
trong câu tục ngữ Trăm hay không bằng tay quen, chúng ta phải
coi trọng kinh nghiệm thực tế và những người có kinh nghiệm
thực tế, phải luôn luôn có ý thức vận dụng các hiểu biết lí thuyết
vào cuộc sống, không ngừng rèn luyện kĩ năng lao động. Mặt
khác, cũng cần khắc phục lề lối làm việc kinh nghiệm chủ nghĩa,
ra sức học hỏi lí luận khoa học và làm việc theo phương pháp
khoa học để nâng cao năng suất lao động, phát triển kĩ năng
thực hành một cách có ý thức, có kế hoạch.
Kết bài theo đề 2: Ngắm trăng không thuộc loại thơ để ngâm
vịnh, giải trí đơn thuần. Đọc Ngắm trăng và nhiều bài thơ khác
của Hồ Chí Minh, chúng ta học ở Người lòng yêu đời, phong
cách sống lạc quan, ung dung tự tại và ý chí cách mạng kiên
cường không khó khăn nào lay chuyển nổi.
d) Liên tưởng: là cách kết bài mượn ý kiến tương tự của dân
gian, của một người có uy tín hay của sách để thay cho lời tóm
tắt của người làm bài. Ví dụ:
30
Kết bài theo đề 1: Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn chúng ta
Học phải đi đôi với hành. Lí thuyết phải gắn liền với thực tiễn.
Đó cũng chính là bài học chúng ta cần rút ra từ câu tục ngữ
Trăm hay không bằng tay quen.
Kết bài theo đề 2: Tìm hiểu bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí
Minh, chúng ta có thể hoàn toàn chia sẽ với cảm xúc chân thành
của nhà thơ Tố Hữu khi viết về những ngày tháng Bác bị giam
cầm.
Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi thân yếu, mắt mờ, tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung.
Có thể kết hợp các kiểu kết bài thành kiểu kết bài hỗn hợp. Kết
bài theo kiểu bào cũng nhằm khắc sâu kết luận, để lại ấn tượng
đậm đà hoặc nâng cao ý nghĩa của vấn đề đã nêu.
C – CHUYỂN ĐOẠN
Trong bài văn, các phần, các ý vừa phải được trình bày tách
bạch, đối lập với nhau, vừa phải liên kết chặt chẽ để tạo thành
một văn bản thống nhất và hoàn chỉnh. Chuyển đoạn tức là dùng
các từ ngữ hoặc câu văn thể hiện đúng mối quan hệ nội dung
giữa các phần, các ý để liên kết chúng lại, làm cho bài văn liền
mạch.
Có hai cách chuyển đoạn như sau:
1. Dùng các từ hoặc các ngữ tương đương với kết từ
Các kết từ và các ngữ thường dùng là: trước tiên, trước hết,
thọat tiên, tiếp theo, sau đó, một là, hai là, cuối cùng, sau cùng,
sau hết …(nối các đoạn có quan hệ thứ tự với nhau); một mặt,
mặt khác, ngoài ra, bên cạnh đó… (nối các đoạn có quan hệ
song song); vả lại, hơn nữa, thậm chí…(nối các đoạn có quan hệ
tăng tiến); tương tự, cũng thế, cũng vậy, cũng giống như
trên…(nối các đoạn có quan hệ tương đồng); bởi vậy, bởi thế,
cho nên, và lí do trên …(nối các đoạn có quan hệ nhân quả);
nhưng, song tuy nhiên, tuy thế, thế mà, thế nhưng, trái lại,
ngược lại … (nối các đoạn có quan hệ tương phản); tóm lại, nói
tóm lại, tổng kết lại, chung quy… (nối một đoạn có ý nghĩa tổng
kết với các đoạn trước) Ví dụ :
31
Chung quy vẫn làm những sự ngẫu nhiên may mắn song hành
một cách “hài hòa” với các quy luật xã hội mà ta đã nói ở trên.
Tuy nhiên, nếu theo dõi sát quá trình diễn biến tâm lí của Xuân
Tóc Đỏ, sẽ thấy nó càng ngày càng chủ động hơn, nghĩa là càng
có ý thức hơn trong cuộc khai thác những may mắn của số phận
nó.
Khái quát lại, có thể nói như thế này: Xuân Tóc Đỏ, từ thế giới
hạ lưu, đột nhập vào thế giới thượng lưu vừa do số đỏ, vừa
không hoàn toàn ngẫu nhiên.
(Theo Nguyễn Đăng Mạnh)
2. Dùng câu chuyển đoạn
a) Chêm vào văn mạch những câu thông báo trực tiếp về ý định
chuyển đoạn của người viết. Ví dụ:
“Trở lên, tôi đã đứng về phía người đọc, người nghe mà nhìn
nhận tác dụng của phê bình. Cũng có thể đứng về phía người
sáng tác mà nhìn vấn đề”
(Hoài Thanh)
b) Chuyển đoạn bằng những câu nối kết ý một cách tự nhiên. Ví
dụ:
“Ca dao yêu thiên nhiên, nhưng yêu nhất là con người. Chúng ta
không thể nào kể hết được những câu hát nói về tình yêu của
dân chúng …”.
… Nhưng đã yêu là phải nhớ. Người dân ta nhớ như thế nào ?
… Nhớ nghĩa là buồn. Người Việt Nam buồn như thế nào ?...
32
… Yêu người yêu còn hẹp, tâm hồn người dân ta yêu rộng hơn
nữa. Những câu hát ca tụng sự hợp quần, lòng yêu dòng giống
nhiều không đếm xiết”.
(Nguyễn Đình Thi)
Có thể kết hợp các kiểu chuyển đoạn thành một kiểu chuyển
đoạn hỗn hợp.
LUYỆN TẬP
1. Sau đây là một số lời mở bài. Hãy cho biết các lời mở bài ấy
thuộc những kiểu nào?
a) Nhà thi sĩ ấy là một chàng trai trẻ hiền hậu và say mê, tóc như
mây vương trên đài trán thơ ngây, mắt như bao luyến mọi
người, và miệng cười mở rộng như một tấm lòng sẵn sàng ân ái.
Chàng đi trên đường thơ hái những bông hoa gặp dưới bước
chân, những hương sắc nảy ra bởi ánh sáng của lòng chàng. Thơ
thơ là cụm đầu mùa chàng tặng cho nhân gian. Và từ đây chúng
ta đã có Xuân Diệu.
(Thế Lữ. Tựa viết cho tập Thơ thơ)
b) Người xưa từng nói, văn chương của những bậc lấy việc hành
đạo, cứu đời làm mục đích, tất cũng rộng lớn, phong phú như
cuộc đời. Đó không phải là thứ nghệ thuật của bồn hoa, chậu
cảnh, mà là vẻ đẹp bát ngát của đồng xanh nghìn mẫu, nước bạc
muôn trùng. Phong cách thơ văn Hồ Chí Minh là như thế.
(Nguyễn Đăng Mạnh. Bác sống như trời đất của ta)
2. Chọn một đề bài đã cho ở mục II (Kết bài), viết một lời mở
bài trực tiếp và một lời mở bài gián tiếp.
3. Sau đây là một số kết bài. Hãy cho biết các lời kết bài ấy
được viết theo những kiểu nào:
33
a) Tìm hiểu toàn diện các chứng năng của văn học, chúng ta
hoàn toàn tán thành với nhận định của nhà viết kịch Đức Bectôn
Brêch: “Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một nghệ thuật
vĩ đại nhất là nghệ thuật sống trên trái đất”.
(Trần Đình Sử. Các chức năng của văn học)
b) Nghệ thuật diễn tả của bài ca (thắt rồi mở, mở rồi thắt). Thật
tài tình và độc đáo. Nhưng đáng quý hơn hết là tinh thần lạc
quan thắm đượm trong bài ca dân gian này.
(Vũ Tú Nam. Một bài ca lạc quan)
c) Phần trên là một ví dụ về giảng nghĩa trong giảng văn. Phát
hiện (và sáng tạo) những ý nghĩa của bài văn đòi hỏi một trình
độ phân tích và cảm thụ cao hơn. Làm sao nêu được những ý
nghĩa đích đáng? Công việc này chí ít đòi hỏi: chọn vấn đề đích
đáng, chọn chi tiết đích đáng, có ý kiến đích đáng trong giải
quyết vấn đề và phân tích chi tiết, diễn đạt ý kiến bằng một số từ
đích đáng … Đây lại là phạm vi của một bài nghiên cứu khác.
(Hoàng Ngọc Hiến. Bàn góp về phương pháp giảng văn)
d) Không giam mình trong quá khứ, trong những tình cảm tội
lỗi, yếu mềm, không say sưa đau đớn vì định mệnh, ca dao và cổ
tích Việt Nam khuyên người thanh niên phải biết can đảm, nhìn
thẳng vào cuộc sống, nhận cho rõ những vấn đề cần giải quyết
trong đó, rồi lăn vào đời, đem tấm lòng trung hậu, sức mạnh dồi
dào thẳng thắn của mình cùng với người chung quanh giữ vững
lửa sống truyền tự bao nhiêu đời khỏi bị dập tắt, và nguồn sống
của dân tộc lưu thông thế hệ nọ sang thế hệ kia khỏi bị khô cạn,
để làm cho những mối đau thương mỗi ngày một ít hơn và cuộc
sống trong non sông gấm vóc chúng ta mỗi ngày một đáng sống
hơn.
(Nguyễn Đình Thi. Sức sống của dân tộc Việt Nam
trong ca dao và cổ tích)
34
4. Chọn một đề bài đã cho trong mục I (Mở bài), viết hai lời kết
bài theo hai kiểu khác nhau.
5. Trong các đoạn trích sau đây, tác giả đã dùng những cách nào
để chuyển đoạn?
a) Chúng tôi vừa nói đến bút pháp tả thực trong Truyện Kiều.
Một yếu tố thứ hai của tác phẩm chính là yếu tố trữ tình. Truyện
Kiều có những trang trữ tình ưu tú nhất trong văn học nước ta.
(Đặng Thai Mai)
b) Cái thứ “mặt sắt” mà “ngây vì tình” ấy quả không lấy gì làm
đẹp. Ông quan đã thế, lại con bà quan nữa. Đại biểu cho bà quan
ở đây là mụ mẹ Hoạn Thư,
(Hoài Thanh)
c) Nói chung, nhân vật của Nguyễn Du, chính diện hay phản
diện đều là những con người rất sống. Những con người ấy đi lại
trong những cảnh rất sống. Cùng một cảnh nơi mộ Đạm Tiên mà
trong buổi chơi xuân thì thanh thanh, lặng lặng … Sau khi Kim,
Kiều gặp nhau, yêu nhau, chưa nói được với nhau một lời đã
mỗi người một ngả thì phong cảnh như bâng khuâng một mối
tình khó tả.
(Hoài Thanh)
d) Vậy xã hội Đăm San là xã hội như thế nào? Căn cứ vào nội
dung Bài ca, chúng ta thấy xã hội được phản ánh trong tác phẩm
có hai đặc điểm:
Thứ nhất, đây là thời kì mà các tù trưởng có đến hàng nghìn nô
lệ …
… Ta hãy xét đến đặc điểm thứ hai của xã hội được phản ánh
trong Bài ca: phong tục nối dây và những tàn tích của chế độ
mẫu quyền …
35
… Về mặt hình thức, Bài ca chàng Đăm San được sáng tác theo
thể thơ dùng để đọc và hát …
… Trước hết, Bài ca sắp xếp thành từng chương hay đúng hơn
là thành từng đoạn, mỗi đoạn có thể kể độc lập…
… Một đặc điểm khác của nghệ thuật Bài ca chàng Đăm San là
phương pháp xây dựng hình tượng nghệ thuật.
(Chu Xuân Diên)
IV – CHỌN VÀ TRÌNH BÀY DẪN CHỨNG TRONG VĂN
NGHỊ LUẬN
Dẫn chứng là những sự vật, sự việc, số liệu, ý kiến … rút ra từ
thực tế hay từ sách vở để thuyết minh cho ý kiến nhận định,
đánh giá trong nghị luận. Việc sử dụng loại luận cứ này, nhất là
trong nghị luận văn học, có những đặc điểm riêng cho nên cần
nghiên cứu kĩ.
A – CHỌN DẪN CHỨNG
Yêu cầu của việc chọn dẫn chứng là:
1. Dẫn chứng phải phù hợp với luận điểm, phải tiêu biểu.
Đây là yêu cầu về chất của dẫn chứng.
Dẫn chứng không phù hợp với luận điểm là dẫn chứng lạc ý. Để
tăng sức thuyết phục của lập luận, ta cần phải chọn lọc những
dẫn chứng tiêu biểu nhất, nghĩa là phù hợp ở mức cao nhất đối
với luận điểm. Đọc văn nghị luận của các tác giả có uy tín, ta
thường thấy dẫn chứng trong các bài văn ấy rất giàu sức thuyết
phục.
36
Đó là vì các dẫn chứng đã được phân tích, chọn lọc rất kĩ càng
bằng con mắt thẩm định tinh tường trước khi đưa vào bài. Ví dụ,
để minh họa cho nhận xét về những rung động, xôn xao rất tinh
tế trong cảnh và tình thơ Xuân Diệu, Hoài Thanh chọn mấy câu
thơ: Những luồng run rẩy, rung rinh lá (Đây mùa thu tới), Cành
biếc run run chân ý nhi (Thu), Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân (Thơ duyên). Để minh họa cho
nhận xét về tính chất “Tây” mới lạ của thơ Xuân Diệu, Vũ Ngọc
Phan đưa ra các câu thơ:
Lẫn với đời quay, tôi cứ đi
Người ngoài không thấu giữa lòng si
Cũng như xa quá nên ta chỉ
Thấy núi yên như một miếng bìa.
(Núi xa)
Trường hợp nào, dẫn chứng cũng phải phù hợp với nhận xét.
2. Dẫn chứng phải đủ
Đây là yêu cầu về lượng của dẫn chứng.
Một trong những yêu cầu của lập luận là mỗi ý kiến nhận định,
đánh giá đưa ra đều phải có đủ luận cứ. Bởi vậy, khi dùng dẫn
chứng minh họa cho ý kiến trong bài, cần bao quát cho hết các
khía cạnh của ý kiến ấy để tập hợp dẫn chứng thể hiện đủ các
khía cạnh. Ví dụ: Để chứng minh truyền thống yêu nước của
nhân dân Việt Nam, ta cần chú ý lấy các dẫn chứng về tinh thần
yêu nước từ xưa đến nay, thể hiện trong chiến đấu và trong xây
dựng Tổ Quốc, ở người lớn cũng như ở trẻ em, dưới miền xuôi
cũng như trên miền ngược … Tuy nhiên, đủ không có ý nghĩa là
nêu dẫn chứng tràn lan hay mang tính chất quân bình. Người
viết nên tìm cách kết hợp diện với điểm, vừa đảm bảo đầy đủ
các mặt, vừa tập trung vào một số điểm mấu chốt. Có thể tham
khảo cách đưa dẫn chứng (luận cứ) trong bài Lập luận trong văn
nghị luận cũng như ở bài Phân tích văn học.
37
B – SẮP XẾP DẪN CHỨNG
Tùy mục đích, yêu cầu nghị luận, có thể sắp xếp dẫn chứng theo
trình tự thời gian trình tự không gian hay theo các khía cạnh của
vấn đề. Cũng có thể căn cứ vào tâm lí tiếp nhận của người đọc
mà sắp xếp dẫn chứng theo cách khác để tạo hiệu quả cao trong
việc thuyết phục hay duy trì hứng thú của người đọc. Chẳng
hạn:
- Xếp những dẫn chứng mà người đọc dễ chấp nhận hơn trước
những dẫn chứng có thể khó chấp nhận hơn. Ví dụ: Để minh họa
cho một nhận xét là truyện dân gian Việt Nam thường không
chịu công nhận những sự thật lịch sử đau đớn mà tìm cách chữa
lại sự thật, nhà văn Nguyễn Đình Thi đưa ra hai dẫn chứng –
truyện Hai Bà Trưng và truyện Phù Đổng Thiên Vương; cả hai
truyện đều nói là các vị anh hùng sau khi đánh giặc đã hóa lên
trời. Tác giả dẫn truyện Hai Bà Trưng trước, mặc dù việc phản
ánh trong diễn ra sau cuộc kháng chiến chống giặc Ân kể trong
sự tích Phù Đổng Thiên Vương hơn 1000 năm. Đó có lẽ là vì
đối với trường hợp Hai Bà Trưng, chúng ta có điều kiện để so
sánh giữa truyền thuyết với chính sử, còn Phù Đổng Thiên
Vương chỉ được kể trong truyền thuyết mà thôi, tưởng tượng ra
sự hi sinh của vị anh hùng này dù sao vẫn là suy đoán.
- Xếp dẫn chứng theo trình tự tăng dần sức khái quát, sức thuyết
phục. Có thể lấy đoạn văn sau đây của Nguyễn Đình Thi nói về
nỗi nhớ trong ca dao làm ví dụ:
“Nhưng đã yêu là phải nhớ. Người dân ta nhớ như thế nào? Hơi
đượm khôi hài, một nhà thơ bình dân đã tả:
Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
Đã chôn điếu xuống, lại đào điếu lên.
38
Cảm động và thành thực hơn, một nàng thiếu nữ than:
Qua cầu ngả nón trông cầu,
Cầu bao nhiêu nhịp, em sầu bấy nhiêu.
Sầu đây là nhớ. Cũng tả nỗi mong nhớ, có nhiều câu thực là
thấm thía. Ví dụ bài hát quen thuộc này:
Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.
Buồn trông con nhiện giăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
Nỗi nhớ tả trong mấy câu thực man mác, chân
thành”.
Dẫn chứng 1 là nỗi nhớ (có thể của một chàng trai) thể hiện dưới
hình thức pha trò, khó nói là có gắn với buồn hay không. Dẫn
chứng 2: nhớ gắn với buồn nói em sầu vừa thật lòng, vừa để
khỏi phải nói em nhớ. Dẫn chứng 3 là ví dụ đạt nhất để nhận ra
một nỗi buồn nhớ thành thực, da diết mà không bi lụy.
C – CÁC HÌNH THỨC NÊU DẪN CHỨNG
Có ba hình thức nêu dẫn chứng là:
- Dẫn nguyên văn cả câu, cả đoạn hay cả một văn bản ngắn.
- Trích một số từ ngữ tiêu biểu.
- Tóm lượt nội dung chính.
Hai hình thức cuối thường được áp dụng trong những trường
hợp sau:
- Khi chỉ cần trích một số từ ngữ tiêu biểu hoặc tóm lược ý là đủ
để minh họa. Ví dụ:
39
“Chỉ vài nét cũng đủ khiến cả cái xã hội ghê tởm đó sống nhô
nhúc dưới ngòi bút Nguyễn Du với cái màu da nhờn nhợt của Tú
Bà, cái bộ mặt mày râu nhẵn nhụi của Mã Giám Sinh, cái vẻ
chải chuốt dịu dàng của Sở Khanh, cái miệng thề xoen xoét của
Bạc Bà, Bạc Hạnh”.
(Hoài Thanh)
- Khi dẫn chứng quá dài (ví dụ, cả một tác phẩm hay một đoạn
chừng vài trang trở lên) dẫn ra sẽ làm cho bài văn cồng kềnh và
người đọc khó theo dõi lập luận.
- Khi dẫn chứng có nội dung không lành mạnh, dẫn nguyên văn
có thể khiếm nhã hoặc bất lợi.
- Khi dẫn chứng có nội dung không phù hợp với trình độ nhận
thức của người đọc (ví dụ một đoạn miêu tả không phù hợp với
lứa tuổi học sinh, một đoạn chứa nhiều thuật ngữ chuyên môn
xa lạ với bạn đọc bình thường), dẫn nguyên văn không tiện,
hoặc làm cho người đọc khó tiếp thu.
Thông thường, nếu dẫn chứng chỉ là một vài từ ngữ tiêu biểu thì
dẫn chứng ấy được hòa vào lời văn nghị luận của tác giả bài
văn. Ví dụ:
Kẻ nông phu
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Nhưng không vì thế mà chán nản. Trái lại, anh ta vui vẻ gọi:
Hỡi cô yếm thắm dải là
Lại đây đập đất trồng cà với anh.
(Nguyễn Đình Thi)
40
Trong bài văn nghị luận, ta nên sử dụng phối hợp nhiều hình
thức nêu dẫn chứng để tránh đơn điệu, cứng nhắc, làm tăng
thêm vẻ sinh động của bài.
D – PHÂN TÍCH DẪN CHỨNG
Nêu dẫn chứng phải kèm theo phân tích, bình phẩm. Nếu không
bài văn nghị luận sẽ biến thành bảng liệt kê dẫn chứng đơn
thuần. Có phân tích, bình phẩm thì từ dẫn chứng, ta mới làm toát
lên được vấn đề cần nói. Ví dụ một đoạn phân tích của Vũ Ngọc
Phan sau đây:
“Đến bài thơ Say của Lưu Trọng Lư mới thật tiêu biểu cho
những bài thơ hay nhất của ông: vừa tình, vừa mộng, lại thêm
say nữa, nên mộng và thực bị xáo trộn, làm cho giọng thơ ngây
ngất, người đời cũng bị say lây. Bài thơ như vầy:
Ước gì ta có ngựa say
Con sông bên ấy bên này của ta.
Trời cao, bến lặng, bờ xa …
Lao đao gió sậy, là đà dặm trăng …
Một mai bên quán lại ngừng
Quẩy theo với rượu một vừng giai nhân.
Ta say ngựa cũng tần ngần
Trời cao xuống thấp, núi gần lên xa.
Thi sĩ đã là người mơ mộng, lúc thường cũng đã lẫn lộn, không
phân biệt được thực với mộng, bây giờ lại thêm cái say; mà
mình đã say, lại còn ước cho ngựa của mình cũng say nốt.
Người say, ngựa say, nên cảnh trời đất đều nghiêng ngả, trời sụt,
núi nhô, thật là một cảnh động đất trong tưởng tượng. Nhưng dù
sao thi sĩ cũng vẫn nhớ mang thêm rượu cho được túy lúy hơn
nữa; thi sĩ lại vốn đa tình, nên muốn đèo thêm một vị giai nhân.
Thật là tuyệt …”.
(Nhà văn hiện đại, Tập II)
41
Phân tích dẫn chứng là công việc đòi hỏi vận dụng các phương
pháp luận chứng đã học. Có vận dụng các phương pháp ấy mới
tránh được tình trạng phân tích tùy tiện hoặc tình trạng diễn giải
vụng về thơ thành văn xuôi, văn xuôi hay thành văn xuôi dở.
E – MỘT SỐ KIỂU LỖI VỀ CHỌN VÀ TRÌNH BÀY DẪN
CHỨNG
1. Chọn dẫn chứng không có sức thuyết phục
Ví dụ: Tác giả đã tố cáo chế độ phong kiến xấu xa, đồng tiền tác
oai tác quái làm người dân lương thiện không được hưởng một
cuộc sống hạnh phúc:
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu
… Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
(Bài làm của học sinh)
2. Sắp xếp dẫn chứng không hợp lý
Ví dụ: Thương người con trai đi xa, lão Hạc thương cả con chó.
Lúc kể câu chuyện bán chó cho ông giáo nghe, mắt lão rơm
rớm. Lão đối xử bình đẳng với con chó như bạn: Tao ăn gì, mày
ăn nấy. Thậm chí, lão còn gọi con chó là cậu Vàng như một đứa
con.
(Bài làm của học sinh)
3. Thiếu phân tích dẫn chứng
Ví dụ: Tác giả đã miêu tả những người dân nghèo khổ qua câu
thơ:
Việc cuốc việc cày tay vốn quen làm.
Những người chiến sĩ được tác giả khắc họa rất đậm nét. Đó là
những nghĩa quân chiến đấu rất anh dũng, dùng dao xông vào
chém ngược chém xuôi, “coi giặc cũng như không”.
(Bài làm của học sinh)
42
4. Phân tích sai dẫn chứng
Ví dụ:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Màu xanh là màu tượng trưng cho hòa bình. Ở đây nó là màu
của ấm no, hạnh phúc. Còn màu vàng là màu của “Hình hài đất
nước”. Ở đây nó thể hiện sự ấm no.
(Bài làm của học sinh)
LUYỆN TẬP
1. Đọc và phân tích cách trình bày dẫn chứng trong đoạn
văn sau đây:
“Nguyễn Du đã thấy rất rõ mặt mũi của bọn buôn người. Hơn
nữa, Nguyễn Du đã nhìn thấu tận ruột gan, đã “đi guốc trong
ruột” chúng nó, như người ta thường nói. Nếu không, không thể
nào tóm đúng được thần thái gian tà của chúng như vậy. Sở
Khanh có vẻ một nhà nho. Nhưng ngay trong hình dáng “chải
chuốt dịu dàng” đã có một cái gì tỏ ra rằng Sở Khanh không
phải là nhà nho chân chính. Kế đó, Sở Khanh nói với Kiều
những lời lụa là, ngọt ngào nhưng cũng khó mà tin có một chút
tình nghĩa nào trong đó:
Giá đành trong nguyệt trên mây
Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa?
Nghe như một giọng hát rất điêu luyện mà rỗng không. Đến khi
Sở Khanh nói những lời khảng khái, lời nói Sở Khanh rất giống
lời một hiệp khách nhưng vẫn không phải là lời hiệp khách:
Tức gan riêng, giận trời già
Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng?
43
Sau khi nghe Kiều kể nông nỗi đầu đuôi thì Sở Khanh:
Lặng nghe lẩm nhẩm gật đầu
“Ta đây nào phải ai đâu mà rằng!
Nàng đà biết đến ta chăng
Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi”.
Chưa nói đến cái dáng ngồi lẩm nhẩm gật đầu rất đáng nghi,
ngay lời nói cũng có vẻ khoác lác, trống rỗng, khác xa những lời
nói thực sự ngang tàng của Từ Hải.
Trong văn chương, nói trắng cho ra trắng, đen cho ra đen đã là
khó. Ở đây lại phải nói trắng mà trên thực chất lại là đen: không
được để trắng đen lẫn lộn mà vẫn không có khả năng lẫn lộn.
Nguyễn Du đã vượt được cái khó khăn ấy. Sở Khanh chỉ đi
thoáng qua trong truyện mà người đời sẽ mãi mãi không quên!
Xét về mức độ bỉ ổi và trâng tráo thì nó vượt xa tất cả những Sở
Khanh có thật ngày trước và ngày nay. Người xưa có kẻ khen
một bức tranh vẽ ngựa nói: từ khi có bức tranh ấy thì trong
thiên hạ không còn có gì đáng gọi là ngựa. Ta cũng có thể nói
như vậy về nhân vật Sở Khanh”.
(Hoài Thanh)
Hãy cho biết:
a) Nhận định cần thuyết minh trong đoạn này là gì ?
b) Cách trích dẫn của tác giả: Chỗ nào trích trọn vẹn cả câu thơ?
Chỗ nào chỉ lược trích vài từ ngữ tiêu biểu ?
c) Cách phân tích dẫn chứng: Lời phân tích được đặt ở những vị
trí nào so với dẫn chứng? Sự phân tích ở đây có làm rõ nhận
định cần thuyết minh không?
2. Chỉ ra và nêu phương hướng sửa chữa các lỗi về chọn và
trình bày dẫn chứng trong các đoạn văn sau đây của học
sinh:
44
a) Bài thơ tràn đầy tình yêu thiên nhiên:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa
Ở đây, tác giả sử dụng từ rất phong phú như mây, núi, nhỏ,
chiều sa làm cho bài thơ thêm đậm đà và nhiều màu sắc quê
hương.
b) Như ta đã biết, Hoàng lê nhất thống chí nói về giai đoạn vua
Lê thống nhất đất nước, nhưng tại sao sách Văn học 11 lại cho
rằng: Hoàng Lê nhất thống chí là bức tranh hài hước về sự tàn
lụi của chế độ phong kiến? Nó hài hước vì nó đã vạch mặt chỉ
tên những tên vua, chúa, quan lại bán nước hại dân. Như vua Lê
Hiển Tông suốt 40 năm trời làm vua bù nhìn nhưng vẫn thích
thú với thân phận bù nhìn. Chúa Trịnh Sâm thì dâm ô mê gái, bỏ
con trưởng. Vua Lê Chiêu Thống thì đúng như lời nhận xét của
tác giả: Nước Nam ta từ khi có đế vương đến giờ không thấy có
vua nào hèn hạ đến thế”.
V – HÀNH VĂN TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
A – YÊU CẦU VỀ HÀNH VĂN TRONG BÀI NGHỊ LUẬN
Sau khi đã xác lập được các ý lớn, nhỏ và sắp xếp chúng thành
dàn bài, ta phải diễn đạt các ý ấy thành lời. Sự diễn đạt đó gọi là
hành văn.
Vì mục đích của văn nghị luận là dùng lí lẽ và dẫn chứng thuyết
phục người đọc tin vào ý kiến của người viết nên lời văn trong
bài nghị luận vừa phải chuẩn xác, lại vừa phải truyền cảm.
45
1. Chuẩn xác
Chuẩn xác trước hết có nghĩa là dùng từ, đặt câu đúng và trong
sáng. Thật ra, đây không phải là yêu cầu riêng đối với văn nghị
luận. Nhưng vì trong bài văn nghị luận ta thường sử dụng các từ
có ý nghĩa trừu tượng, các thuật ngữ chuyên môn, các cấu trúc
phức tạp với nhiều thành phần câu được mở rộng, cho nên cần
nhấn mạnh yêu cầu này. Muốn sử dụng các từ biểu thị những
khái niệm trừu tượng, các thuật ngữ chuyên môn, học sinh cần
thường xuyên đọc sách báo, cần xây dựng thói quen tra từ điển,
để hiểu nghĩa của chúng đến nới đến chốn. Không nắm chắc
nghĩa của từ, tốt nhất là không nên dùng. Về câu, khi mở rộng
các thành phần câu, người viết cần lưu ý sắp xếp trật tự các từ
trong câu cho đúng quy tắc và không bỏ sót các thành phần
chính. Mỗi khi viết xong một câu, nên đọc lại, tự đặt mình vào
địa vị người đọc xem viết như thế đã rõ ý chưa. Nếu chưa thì
cần xem nguyên nhân ở đâu mà khắc phục.
Để đảm bảo tính chuẩn xác, bên cạnh yêu cầu dùng từ, đặc câu
đúng và trong sáng, lời văn nghị luận còn phải chặt chẽ. Sự chặt
chẽ của lời văn nghị luận thể hiện trên ba phương diện sau:
- Nhất quán trong cách dùng từ, nhất là dùng thuật ngữ. Trong
bài văn, một thuật ngữ (chẳng hạn: đề tài, tư tưởng chủ đề, thể
loại, phong cách, bút pháp…) chỉ nên hiểu theo một cách nhất
định. Ngược lại, một nội dung cũng chỉ nên biểu thị bằng một
thuật ngữ nhất định từ đầu đến cuối bài văn. Nếu cần điều chỉnh
cách hiểu thuật ngữ hoặc thay thuật ngữ này bằng thuật ngữ
khác thích hợp hơn thì người viết phải có ý thức về điều đó và
thông báo rõ cho người đọc về sự điều chỉnh hay sự thay đổi của
mình.
- Đúng mức trong lời lẽ nhận định. Ví dụ, một câu thơ lạ và gợi
cảm chưa nên vội cho là xuất sắc, có một không hai; một tác
phẩm xuất sắc đừng nói quá lên thành vĩ đại. Đối với các tác giả,
cũng nên đánh giá đúng mức: Có nhà văn đáng quý mến, trân
trọng; có nhà văn tài năng, thể hiện một phong cách độc đáo; có
nhà văn thuộc tầm cỡ lớn, có đóng góp đáng kể cho sự phát triển
văn học dân tộc hay nhân loại.
46
Học sinh nên đọc rộng, đọc kĩ, đặc biệt là đọc kĩ sách giáo khoa
để có cách dùng từ thỏa đáng cho các trường hợp. Thông
thường, một đặc điểm của sáng tác văn học nhất định không cô
lập mà liên quan đến nhiều mặt khác, nhiều đặc điểm khác.
Người viết văn nghị luận giỏi là người biết giới hạn vấn đề,
không sa vào cách nói phiến diện, tuyệt đối hóa sự việc. Ví dụ,
nhận xét về chất châm biếm trong truyện và kí của Nguyễn Ái
Quốc, Phạm Huy Thông viết: “Châm biếm chẳng phải nét độc
đáo duy nhất hay bao trùm của Nguyễn Ái Quốc, nhưng đó quả
là búp pháp ưa thích, bút pháp sở trường của Người”. Phải hiểu
vấn đề một cách sâu sắc, toàn diện thì mới có được cách diễn đạt
thỏa đáng như vậy.
- Đảm bảo tính đơn nghĩa của câu văn. Nếu như trong sáng tá,
nhà văn nhiều khi cố ý dùng những từ, những câu đa nghĩ và
khuyến khích người đọc hiểu chúng theo nhiều nghĩa khác nhau,
thì trong nghị luận, đó lại là điều cần tránh. Người viết văn nghị
luận cần dùng từ, đặt câu sao cho người đọc hiểu đúng ý mình
mong muốn nói, thậm chí dù cho ai d0ó có thiện thiện chí cũng
không thể xuỵên tạc ý mình được.
2. Truyền cảm
Lời văn nghị luận, nhất là nghị luận văn học, không chỉ cần
chuẩn xác mà còn cần c ó hình ảnh và cảm xúc.
Sử dụng hình ảnh đúng chỗ, đúng mức là tạo điều kiện thuận lợi
cho người đọc đến với chân lí, với sự thật một cách dễ dàng hơn,
đồng thời cũng gây cho họ ấn tượng sâu sắc hơn, Ví dụ, bàn về
thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Phạm Văn Đồng vó viết: “Trên
chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng
thấy sáng. Thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng cậy”. Hình ảnh so sánh
trong lời nhận xét này nhắc nhở những ai quen với loại văn trau
chuốt thì chớ đem cái thước đo quen thuộc ấy mà định giá của
thơ văn của nhà thơ yêu nước này, đồng thời gợi ra trong người
đọc cảm nhận tổng quát rất xác đáng về thơ văn của ông.
47
Người viết văn nghị luận phải tin vào chân lí, vào sự thật mà
mình nhận thức được và nhiệt thành cổ vũ cho chân lí ấy, sự thật
ấy. Có niềm tin, có nhiệt tình thì lời văn sẽ là lời tâm huyết tự
đáy lòng, sẽ giàu cảm xúc, nhờ đó mà dẽ thuyết phục người đọc.
Điều này đã từng được thể hiện qua nhiều áng văn nghị luận nổi
tiếng xưa nay, như Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn, các
thư từ chiếu, biểu trong Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn
Trãi, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí
Minh …
Có một điều cần lưu ý là không nên hiểu lệnh yêu cầu truyền
cảm của lời văn nghị luận thành thói khoa trương trống rỗng,
tầm thường. Hình ảnh so sánh phải nảy sinh từ sự phân tích thực
tiễn một cách khoa học thì hình ảnh ấy mới nâng cao được nhận
thức của người đọc. Cảm xúc phải xuất phát từ niềm tin và nhiệt
tình thành thật thì cảm xúc ấy mới tạo nên sức lôi cuốn của lời
văn. Ngoài ra, cũng cần tránh dùng hình ảnh hay những từ cảm
thán chệch khỏi phong cách ngôn ngữ khoa học mà nó cần có.
B – MỘT SỐ KIỂU LỖI VỀ HÀNH VĂN
1. Dùng từ sai chuẩn mực
Các lỗi kiểu này đã được phân tích kĩ trong các sách Tiếng Việt
10 và Tiếng việt 11. Ở đây chỉ nhắc lại một số lỗi dễ mắc:
a) Dùng từ không đúng nghĩa
Ví dụ: Nam Cao đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh
điển hình về người nông dân bị lưu manh hóa.
(Dẫn theo Đình Cao, Lê A).
48
Những lỗi chính tả như viết trữ tình thành chữ tình, bàng quan
thành bàng quang, chia sẻ thành chia xẻ, dành thì giờ thành
giành thì giờ…cũng xuất phát từ chỗ không hiểu nghĩa của từ.
b) Dùng từ không hợp phong cách
Ví dụ : Lời nhận xét ấy có đúng không? Đúng quá đi chứ ! Nào,
mời bạn cùng tôi đi phân tích tác phẩm để hiểu rõ vấn đề!
(Bài làm của học sinh)
c) Dùng từ lặp
- Lặp đi lặp lại một từ. Ví dụ:
Có thể nói Chí Phèo có thể trở thành người lương thiện nếu xã
hội Chí Phèo sống là một xã hội khác.
(Bài làm của học sinh)
- Lặp những từ có nghĩa tương tự nhau. Ví dụ:
Quá trình vượt núi cao là quá trình con người trưởng thành và
lớn lên.
(Sách)
d) Kết hợp từ sai chuẩn mực
Ví dụ: Lòng yêu mến thiên nhiên say đắm đã làm cho Người
quên nỗi vất vả trên đường đi.
(Sách)
2. Đặt câu sai quy tắc
Ở đây cũng chỉ nhắc lại một số lỗi phổ biến đã được phân tích kĩ
trong các sách tiếng việt 10 và tiếng việt 11.
a) Thiếu các thành phần chính của câu
- Thiếu cả chủ ngũ lẫn vị ngữ. Ví dụ:
49
Sau những năm tháng chìm nổi khổ đau, bằng sự thể nghiệm của
chính bản thân mình, với trái tim nhân hậu và ngọn bút tài hoa –
bút phát đã đưa ông lên hàng thi thánh.
(Bài làm của học sinh)
- Thiếu chủ ngữ. Ví dụ:
Qua truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh cho ta thấy niềm tin của
người lao động vào chiến thắng trong cuộc đấu tranh với thiên
nhiên.
- Thiếu vị ngữ. Ví dụ:
Nghĩa quân, những người chưa quen cung ngựa, đâu tới trường
nhung, trong chiến đấu, với lòng nồng nàn yêu nước.
(Bài làm của học sinh)
b) Thiếu một vế của câu ghép chính phụ
Ví dụ: Mặc dù bị bọn cường hào, địa chủ và quan lại áp bức, lóc
lộc nặng nề, mặc dù phải chịu những khổ đau cùng cực. Mà chị
Dậu khổ thật. Nỗi khổ của chị tiêu biểu cho nỗi khổ của người
nông dân trước cách mạng.
(Bài làm của học sinh)
c) Thể hiện sai quan hệ giữa các bộ phận câu
Ví dụ: Mắt đăm đăm nhìn ra cửa bể, ta thấy Kiều dõi theo cánh
buồm thấp thoáng mà nghĩ đến cảnh cô đơn của mình.
(Bài làm của học sinh)
d) Không biết cách tách mỗi ý độc lập thành câu
Ví dụ: Đức tính của người phụ nữ Việt Nam đã được tiếp nối từ
đức tính sẵn có mà Chị Dậu đã mang lấy đến nay hai mươi bảy
năm chẵn là bài học quý báu tuy đối với ngày nay thì đức tính
đó chưa đầy đủ, hoàn chỉnh.
(Dẫn phỏng theo Nguyễn Xuân Khoa)
50
3. Diễn đạt thiếu chặt chẽ
Ví dụ 1: Bé tuy chưa biết chữ mà biết dạy học như một cô giáo
thực thụ.
(Sách)
Sự diễn đạt thiếu cân nhắc ở ví dụ trên khiến ý của hai vế câu
mâu thuẫn với nhau. Có thể sửa câu ấy như sau : “Bé tuy chưa
biết chữ nhưng đóng vai dạy học y hệt một cô giáo”.
Ví dụ 2: Đỗ Phủ là một nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc.
(Bài làm của học sinh)
Đọc câu này, người ta có thể hiểu là Đỗ Phủ chỉ nổi tiếng trong
phạm vị đất Trung Hoa. Để thể hiện đúng tầm vóc thực tế của
nhà thơ này, nên thay đổi trật tự từ: “Đỗ Phủ là nhà thơ Trung
Quốc nổi tiếng”.
4. Khoa trương, khuôn sáo
Ví dụ 1: Hình tượng vũ trụ nhưng tâm lí con người ước mơ vĩ
đại bao dung chứa đựng một cốt lõi thực rất con người.
(Bài làm của học sinh)
Câu văn này không phải không có ý nhưng thói khoe chữ của
tác giả khiến người đọc khó có thể nhận ra ý kiến xác đáng đó:
“Hình tượng tuy mang tầm vóc vũ trụ, có vẻ hoang đường
nhưng thể hiện một ước mơ rất thực của con người”.
Ví dụ 2: Bọn phong kiến nhu nhược gây chiến tranh liên miên.
(Bài làm của học sinh)
Sự mâu thuẫn về ý trong câu này bắt nguồn từ một nguyên nhân
khác với nguyên nhân ở câu văn phân tích nhân vật Bé đã nói ở
trên: Người viết không chịu suy nghĩ để tìm từ thích hợp mà chỉ
dựa vào một công thức kếp hợp từ có sẵn (bọn phong kiến nhu
nhược), bất kể nó còn sức gợi cảm hay đã sáo mòn, nó có phù
hợp với nội dung định diễn đạt hay không. Dùng những chữ sáo
mòn, dùng chữ bất kể hiệu quả diễn đạt là điều cần tránh.
51
LUYỆN TẬP
1. Sau đây là ý kiến của Hoài Thanh và Hoài Chân về một số
nhà thơ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám:
- Thơ Thế Lữ là nơi hẹn hò của hai nguồn thi cảm: nẻo về quá
khứ với mơ mộng, nẻo tới tương lai và thực tế.
- Bây giờ khó mà nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt
Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta với một y
phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con
người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần
vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng. Ngày một
ngày hai cơ hồ ta không còn để ý đến những lối dùng chữ đặt
câu quá Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã
mượn trong thơ Pháp. Cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong
nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta.
- Thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu
trong lòng ta.
- Với đôi ba nét đơn sơ, Nguyễn Nhược Pháp đã làm sống lại cả
một thời xưa, không phải cái thời xưa nặng nề của nhà sử học,
cũng không phải cái thời xưa tráng lệ hay mơ màng của Huy
Thông, mà là một thời xưa gồm những màu sắc tươi vui, những
hình dáng ngộ nghĩnh.
Hãy cho biết:
a) Mỗi ý kiến trên đã nêu ra những nhận xét gì về nhà thơ được
nói trên? Những nhận xét ấy tinh vi, uyển chuyển như thế nào ?
b) Những đặc điểm gì trong cách hành văn đã tạo nên sức gợi
cảm và để lại ấn tượng đậm đà cho người đọc?
52
2. Chỉ ra và chữa các lỗi dùng từ trong những câu sau đây:
a) Người dân đã mượn trí tưởng tượng của mình xây dựng nên
những hình tượng kì vĩ.
b Trong các câu chuyện ấy, người nguyên thủy đã được nhân
cách hóa rất sinh động.
c) Thần núi Tản Viên đã được thần cách hóa.
d) Đề tài, chủ đề, nội dung, của các bài thơ đa dạng, khác nhau.
e) Bác với trăng không chỉ là bạn bầu thân thiết mà còn là những
người bạn tri kỉ, tri âm.
3. Chỉ ra và chữa các lỗi đặt câu trong các câu sau đây:
a) Với bài điếu Trương Định của ông đã nói lên lòng yêu nước
sâu sắc của tầng lớp sĩ phu lúc bấy giờ.
b) Lời thơ của ông, lời thơ như có lửa ở bên trong, lửa nóng
bỏng của nhiệt tình yêu nước, lửa ấm áp của tình thương đồng
bào.
c) Tuy Nguyễn Du xuất thân từ tầng lớp quyền quý. Cha và anh
trai ông đều làm quan to trong triều. Bản thân ông cũng từng
tham gia bộ máy cai trị phong kiến. Trong những năm loạn lạc,
ông có điều kiện sống gần dân, nếm trải đủ mùi cay đắng. Vì
thế, ông rất đồng cảm với người dân cùng khổ.
d) Thông qua những cảnh ngộ đau lòng của nhiều tầng lớp lao
động, từ anh tá điền lương thiện bị lưu manh hóa, ông lão nghèo
cùng kế phải tự vẫn đến những trí thức nhỏ kéo dài kiếp sống
mòn.
4. Vì sao có thể nói cách diễn đạt trong những câu sau đây là
thiếu chuẩn xác? Hãy nêu cách chữa chúng.
a) Đây là những năm tháng đất nước ta lần lượt rơi vào ách xâm
lăng của thực dân Pháp.
b) Người không bỏ sót dù là một vẻ đẹp khi chiều xuống:
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
Có khi bị trói, nhưng hồn thơ Bác vẫn chan hòa cùng cảnh vật.
Chúng có thể trói thân thể Bác, nhưng không trói được tâm hồn.
53
PHÂN TÍCH VĂN HỌC (3 tiết)
I – MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
VĂN HỌC
1. Ôn lại khái niệm
Phân tích văn học là kiểu bài nghị luận đem một hiện tượng văn
học (tác phẩm, vấn đề) chia nhỏ ra để xem xét từng phần rồi
đem kết quả tổng hợp lại trong một kết luận chung.
Chúng ta đã học kiểu bài này ở Làm văn 10, qua việc phân tích
đoạn văn, bài thơ ngắn. Ở Làm văn 11, ta lại học phân tích văn
học qua việc phân tích nhân vật. Ở Làm văn 12, kiểu bài này
được vận dụng vào những đối tượng cao hơn, khó hơn: phân
tích tác phẩm, tác giả, một vấn đề văn học sử hoặc lí luận văn
học. Mỗi đối tượng có những đặc điểm và yêu cầu phân tích
riêng, nhưng phương pháp phân tích có những yêu cầu và đặc
điểm chung: khách quan, xác thực, toàn diện và có phát hiện ở
một mức độ nào đó. Tất nhiên, phân tích văn học cần có sự phán
đoán, tưởng tượng, liên tưởng chủ quan, nhưng phải dựa trên
những căn cứ nhất định, để tránh suy diễn tùy tiện.
54
2. Một số phương pháp phân tích văn học
a) Muốn phân tích một đối tượng thì ta thường phải chia tác nó
thành từng bộ phận hay từng phương diện để phân tích. Phân
tích thơ, có thể chia ra từng phần theo bố cục, theo khổ thơ hay
dòng thơ. Phân tích truyện, có thể chia ra từng nhân vật hay từng
vấn đề. Phân tích nhân vật có thể chia theo tính cách, nội tâm,
ngoại hình, hay theo các đặc điểm của tính cách, số phận …
Đây là bước sơ bộ để phân tích mà ta đã học từ lớp 10, lớp 11.
b) Để thực sự bước vào phân tích nội dung bên trong của hiện
tượng văn học, ta có thể thực hiện theo các phương pháp sau
đây:
- Phân tích đối tượng theo quá trình phát triển. Phân tích nhân
vật cần theo dõi nhân vật đã trải qua những giai đoạn phát triển
nào, đối chiếu những đổi thay, chỉ ra những chi tiết thể hiện sự
đổi thay và vạch ra ý nghĩa của chúng. Ví dụ: phân tích nhân vật
Chí Phèo, cần chú ý giai đoạn trước khi đi tù và sau khi đi tù về,
trước khi gặp Thị Nở và sau khi gặp Thị Nở. Phân tích vợ chồng
A Phủ thì chú ý giai đoạn ở nhà thống lí và giai đoạn lên căn cứ
du kích. Trong giai đoạn ở nhà thống lí thì chú ý giai đoạn trước
và sau khi cô Mị thấy A Phủ bị trói đứng sắp chết … Phân tích
tác phẩm có thể đối chiếu ý đồ sáng tác ban đầu (nếu biết) và sự
thực hiện, sửa chữa trong tác phẩm. Phân tích phong cách nhà
văn cũng cần đối chiếu qua các giai đoạn. Việc đối chiếu sự vật
qua các giai đoạn như thế có thể giúp ta nhân ra sự vận động,
đổi thay và ý nghĩa của chúng.
- Phân tích đối tượng theo mối quan hệ của nó đối với môi
trường, hoàn cảnh xung quanh. Phân tích nhân vật thì chú ý mối
quan hệ nhân vật với hoàn cảnh của nó, xem quan hệ đó là
tương đồng hay tưởng phản trong việc biểu hiện tính cách nhân
vật. Ví dụ, hình tượng Huấn Cao tương phản với môi trường,
còn hình tượng Chí Phèo thì vừa tương đồng với môi trường phi
nhân tính, vừa tương phản, thù địch với nó. Phân tích tác phẩm
thì xem xét nó trong quan hệ với hoàn cảnh xã hội, với các xu
hướng sáng tác, để thấy cái độc đáo của tác phẩm. Phân tích
phong cách thì đối chiếu phong cách nhà văn này với phong
cách nhà văn khác …
55
- Phân tích đối tượng theo cấu trúc của chính nó. Phân tích thơ
thì chú ý tương quan giữa bài thơ và luật thơ, cách ngắt nhịp cụ
thể với cách ngắt nhịp quy phạm. Phân tích nhân vật thì chú ý
tương quan nội tâm và ngoại hình, biểu hiện bên ngoài và bên
trong, cách nhân vật tự cảm thấy và nhân vật khác nhận xét về
nhân vật đó. Ví dụ, ngoại hình và nội tâm của Chí Phèo và lão
Hạc, bên ngoài và bên trong của Huấn Cao …
- Phân tích đối tượng theo mối quan hệ tương đồng hay tương
phản với các đối tượng cùng loại. Phân tích thơ hay truyện, có
thể đối chiếu với bài thơ, thiên truyện khác có những nét giống
nhau. Chẳng hạn bài thơ Thanh minh của Hồ Chí Minh trong
Nhật Kí trong tù và bài Thanh minh của Đỗ Mục, truyện Chí
Phèo của Nam Cao và AQ chính truyện của Lỗ Tấn …
Các phương pháp trên dây giúp ta phát hiện các chi tiết có ý
nghĩa và khám phá giá trị tác phẩm.
II – CÁCH LÀM BÀI PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC
Bài phân tích tác phẩm văn học phản ánh kết quả phân tích và
cách phân tích, nhưng không có nghĩa là rập khuôn theo trình tự
phân tích. Tùy theo yêu cầu truyền cảm, thuyết phục, bài phân
tích có thể có nhiều cách tổ chức khác nhau. Sau đây là các khâu
chính cần làm:
56
1. Định hướng và lập ý
Bài phân tích tác phẩm văn học phải thỏa mãn một lúc vừa yêu
cầu của đề bài, vừa yêu cầu phân tích khách quan các giá trị của
tác phẩm văn học. Để đáp ứng yêu cầu thứ nhất, cần cụ thể hóa
vấn đề phân tích (cũng gọi là chủ đề phân tích) của đề bài để
làm định hướng. Để đáp ứng yêu cầu thứ hai, cần tiến hành phân
tích tác phẩm.
a) Cụ thể hóa chủ đề phân tích của đề bài
Nếu đề yêu cầu phân tích một tác phẩm hay bộ phận tác phẩm
(ví dụ, phân tích nhân vật), thì cần vận dụng hiểu biết về lí luận
mà chia tác phẩm ra các mặt nội dung và hình thức biểu hiện,
mỗi mặt lại chia ra các khía cạnh nhỏ hơn. Nếu yêu cầu phân
tích nhân vật thì có thể chia tác nhân vật ra các mặt nội tâm và
ngoại hình, tính cách và số phận, các chặng đường biến đổi. Nếu
đề yêu cầu phân tích theo một định hướng xác định (ví dụ, phân
tích tinh thần nhân đạo hay phong cách nghệ thuật) thì cần giải
thích chủ nghĩa nhân đạo gồm những khía cạnh nào (ví dụ,
thương yêu con người, tôn trọng cá tính, nhân phẩm con người,
chống mọi sự chà đạp, áp bức con người), phong cách nghệ
thuật là gì, biểu hiện ra ở những mặt nào (ví dụ, cách cảm nhận
độc đáo và bút pháp nghệ thuật độc đáo). Đây chưa phải là ý của
bài làm, nhưng là định hướng cần xác định để tìm ý và lập dàn
ý.
b) Phân tích sơ bộ tác phẩm theo các định hướng
Đối chiếu các định hướng và tác phẩm, phân tích sơ bộ văn bản
tác phẩm theo bố cục, kết cấu, tập hợp các yếu tố cùng chủ đề,
chia tách các bình diện, khía cạnh, vạch ra các ý cần phân tích.
Ví dụ, đề bài: Phân tích tinh thần nhân đạo trong tác phẩm Nhật
kí trong tù (hay trong tác phẩm Chí Phèo).
Đối chiếu định hướng ấy vào Nhật kí trong tù, ta có các ý lớn:
57
- Lòng thương xót, đồng cảm với số phận của các bạn tù và gia
quyến họ, với những người lao động nghèo khổ.
- Khát vọng tự do, ý thức thường trực về sự mất tự do.
- Sự lên án chế độ nhà tù bất công, tàn nhẫn.
Đối chiếu quan niệm trên vào Chí Phèo, ta có các ý lớn:
- Tố cáo chế độ cường hào biến người lành thành quỷ dữ, nuôi
dưỡng, lợi dụng bọn quỷ dữ làm phương tiện vụ lợi.
- Thông cảm, đồng tình với khát vọng được sống lương thiện
của Chí Phèo.
- Đấu tranh với các định kiến để hiểu đúng con người, hiểu đúng
người nông dân.
Đối với đề bài không hạn định chủ đề phân tích cụ thể (ví dụ:
Phân tích bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh) thì có thể phân
tích các ý chính:
- Về nội dung:
+ Hai câu đầu: cái khó của người đi đường.
+ Hai câu sau: tư thế làm chủ của người chinh phục được đỉnh
cao.
- Về nghệ thuật: hình ảnh về tương quan giữa con người và núi
cao, vẻ đẹp hào hùng của con người.
2. Chọn chi tiết để phân tích
Nội dung khái quát của tác phẩm được gửi gắm qua các chi tiết
(lời nói của nhân vật, bộ điệu, cử chỉ, nét mặt, đồ vật, cảnh
tượng …). Chi tiết bao giờ cũng có khả năng thuyết minh, biểu
hiện cái toàn thể (phạm vi ý nghĩa mà nó thuộc vào). Nhưng
không cần và không thể phân tích mọi chi tiết. Chỉ cần chọn các
chi tiết tiêu biểu nhất, nói lên tư tưởng quan trọng của nhà văn,
và hợp với chủ đề phân tích của đề bài. Biết lựa chọn thì bài làm
tập trung, không dàn trải, lan man.
58
Ví dụ, điều quan trọng nhất trong nhân vật Chí Phèo là việc Chí
phẫn uất về số phận mình, sự bất đắc dĩ phải làm việc ác, sự
thức tỉnh về cuộc sống lương thiện, tuyệt vọng về khả năng sống
lại cuộc đời lương thiện và sự nổi loạn chống lại số phận bế tắc.
Muốn phân tích những ý đó thì phải chọn các chi tiết phù hợp:
tiếng chửi, cơn say, bát cháo hành, cơn tỉnh, hành động trả thù.
Đối với bài thơ Đi đường, thực ra chỉ có hai chi tiết có thể phân
tích: Núi cao rồi lại núi cao trập trùng, Thu vào tầm mắt muôn
trùng nứơc non. Có những chi tiết có tác dụng soi sáng chủ đề
của cả tác phẩm, cần được đặc biệt chú ý. Chẳng hạn, cảm giác
của Liên ở đoạn kết tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam: Liên
thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết, như chiếc
đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Trong thơ,
có những từ, những chữ mà người ta xem như “con mắt thơ” (thi
nhân), có tác dụng soi sáng cảm xúc của cả bài thơ, chẳng hạn
như từ vèo trong câu Vèo trông lá rụng đầy sân của Tản Đà
trong bài Cảm thu tiễn thu, phải từ run rẩy trong câu Những
luồng run rẩy rung rinh lá trong bài Đây mùa thu tới của Xuân
Diệu thì người phân tích không được bỏ qua.
3. Phân tích chi tiết
Phân tích văn học không chỉ là chia tách các khía cạnh để xem
xét, mà còn chỉ ra các giá trị nội dung, nghệ thuật qua các chi
tiết cụ thể. Thiếu phân tích chi tiết, bài sẽ nghèo ý, chung chung.
Có hai cách phân tích chi tiết:
a) Khai thác chức năng biểu hiện của các chi tiết trong văn
bản:
Chi tiết trong tác phẩm bị quy định bởi các phạm vi ý nghĩa và
biểu hiện cho ý nghĩa ấy. Mọi chi tiết của Chí Phèo đều biểu
hiện sự quằn quại, giãy giụa của Chí giữa hai phạm vi ý nghĩa:
con quỷ (con vật, công cụ) và con người. Mọi chi tiết của Chữ
người tử tù đều gắn với một trong hai phạm vi: cuộc sống tù
hãm, đen tối, tội ác và cuộc sống tự do với nhân cách, tài hoa,
tính người. Do đó, cần phân tích chi tiết bằng cách khai thác các
mối liên hệ chủ đề ẩn giấu trong văn bản, phát hiện các phạm vi
ý nghĩa hàm chứa trong tác phẩm.
59
b) Dùng biện pháp đối chiếu, so sánh, suy luận từ bên ngoài
để phát hiện giá trị
Người phân tích có thể nêu câu hỏi đề tìm câu trả lời trong tác
phẩm.. (Chẳng hạn, tiếng chửi của Chí: chỉ để gây chú ý hay còn
có ý nghĩa gì? Tại sao Mị lúc nào cũng buồn rười rượi?). Người
phân tích có thể miêu tả ấn tượng của mình về tác phẩm. Chẳng
hạn, Nguyễn Tuân thấy Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một cục tối,
đống tối, trong đó các nhân vật chính, phụ, thiện, ác đều thào
thào giọng tiếng của lũ bóng ma. ấn tượng này giúp soi sáng
phạm vi ý nghĩa mà tác giả muốn biểu hiện, từ đó giúp ta chỉ ra
ý nghĩa của từng chi tiết.
Người phân tích có thể tìm cái tương đồng cùng loại để so sánh,
nhằm chỉ ra sự khác biệt, độc đáo. Chẳng hạn, để chỉ ra cái độc
đáo của cây tùng, cây chuối trong thơ Nguyễn Trãi, cần so sánh
nó với hình ảnh cây tùng, cây chuối khác có trong văn thơ nói
chung.
Người phân tích cũng có thể trừu tượng hóa một khía cạnh của
hình thức nghệ thuật để tìm hiểu giá trị của nó. Chẳng hạn, để
chỉ ra tính dân tộc trong thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên tìm một câu
thơ rất Tây của nhà thơ:
Có phải Sôpanh tình chứa chan
Nâng đàn ca cô gái Ba Lan
Có phải Ađam hồn vĩ đại
Bay trên đầu thế kỉ nhân gian …
và phân tích: bỏ âm nhạc đi, đấy là những câu thơ rất Tây. Lồng
âm nhạc vào, đó là những câu thơ rất Việt.
60
Ngoài ra, người ta còn có thể sử dụng các biện pháp phân tích
ngôn ngữ học, sử dụng các con số thống kê về cách sử dụng các
phương tiện ngôn ngữ nhằm phân tích đặc trưng phong cách, giá
trị biểu cảm của lời văn (Cách sử dụng từ Hán việt, hư từ, vần
điệu …)
Các biện pháp phân tích văn học khá đa dạng, tương ứng với sự
đa dạng của văn học. Vận dụng thích đáng sẽ nâng cao hiệu quả
phân tích.
4. Tổng kết, nhận định, đánh giá
Mục đích phân tích văn học là để nhận định, đánh giá xác đáng
một hiện tượng văn học. Vì vậy, sau khi tiến hành phân tích theo
hướng đề ra, bài viết phải đề xuất nhận định, đánh giá hiện
tượng văn học về tính độc đáo (Câu tứ mới lạ, đổi mới so với
truyền thống), giá trị nhận thức (mức độ sâu, nông so với vấn đề
nêu ra), giá trị tư tưởng (thái độ đối với nhân dân, đất nước, con
người), giá trị nghệ thuật (mức độ tài nghẹ, sức thuyết phục, gợi
cảm, phong cách). Ví dụ, sau khi phân tích bài Đi đường của Hồ
Chí Minh, có thể nhận định đó là một bài thơ hay, súc tích, thể
hiện tinh thần lạc quan của nhà cách mạng vĩ đại và tâm hồn
phóng khoáng cao đẹp của một nhà thơ. Bài thơ nhỏ mà có kịch
tính. Thoạt đầu tưởng đâu con người bị nuốt chửng giữa trùng
san, nhưng đến cuối thì chính trùng san bị nuốt vào tầm mắt. Bài
thơ thể hiện tư tưởng một cách tự nhiên, không có chút gì lên
gân, gượng ép.
Những lời tổng kết, nhận định, đánh giá nâng cao giá trị của sự
phân tích, đem lại tính mục đích cho sự phân tích. Nó phải phù
hợp với sự phân tích, tránh sự khập khiễng, phân tích một đằng,
kết luận một nẻo.
61
BÀI TẬP
1. Đọc kĩ các mục Đề bài, Tìm hiểu đề và Dàn bài sơ lược sau
đây và nhận xét cách tìm hiểu, triển khai có phù hợp không? Phù
hợp những điểm nào? Theo anh chị còn có thể bổ sung điểm
nào?
2. Đọc bài làm tham khảo và chỉ ra: a) Những chi tiết nào được
chú ý phân tích, b) Cách phân tích, c) Những câu khái quát,
nhận định, d) Những câu chuyển đoạn.
Đề bài:
Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt của
Kim Lân.
Tìm hiểu đề
Đây là đề văn phân tích yêu cầu người làm chỉ ra các giá trị
nhân đạo sâu sắc trong một tác phẩm cụ thể.
Để làm tốt bài này trước hết cần có khái niệm về giá trị nhân
đạo, thứ hai là biết chỉ ra đúng các phương diện của giá trị nhân
đạo của tác phẩm, có sự phân tích thuyết phục về các chi tiết,
các hình tượng mang các giá trị ấy.
Giá trị nhân đạo tức là giá trị về phương diện tư tưởng nhân đạo
(cũng gọi là chủ nghĩa nhân đạo). Giá trị này, nói chung, bao
gồm các mặt: lòng thương yêu con người, trân trọng con người,
tin tưởng vào phẩm chất tốt đẹp của con người, đồng thời tư
tưởng nhân đạo cũng đòi hỏi lên án mọi biểu hiện áp bức, bất
công chà đạp lên quyền sống, quyền hướng hạnh phúc của con
người.
Xét về mặt này, truyện ngắn Vợ nhặt chứa chan tư tưởng nhân
đạo. Đây là đề yêu cầu phân tích nội dung tư tưởng của tác
phẩm. Người làm không nên sa đà vào việc biểu dương “tình
huống độc đáo”, mà nên khai thác xem với tình huống đó giá trị
nhân đạo của tác phẩm được nổi bật lên như thế nào. Người làm
phải luôn luôn bám sát yêu cầu của đề để tránh lạc sang chủ đề
phân tích khác.
62
Dàn bài sơ lược
a) Mở bài
- Văn học cách mạng sau năm 1945 không chỉ giàu tính chiến
đấu, mà còn giàu tính nhân đạo.
- Vợ nhặt của Kim Lân là một biểu hiện sâu sắc cho tính nhân
đạo ấy.
b) Thân bài
Giá trị nhân đạo của tác phẩm được biểu hiện qua nhiều phương
diện phong phú và sâu sắc.
- Nạn đói khủng khiếp phủ xuống xóm làng như muốn tiêu diệt
mọi tình cảm, ý chí sống của con người:
+ Bóng người như một bóng ma;
+ Người con gái vì miếng ăn có thể đanh đá, chua ngoa;
+ Người làng không ai tin là sống qua được nạn đói, càng không
tin vào hạnh phúc gia đình;
- Niềm khát khao được sống và khát khao hạnh phúc đã khiến
cho anh Tràng và cô gái gặp nhau, tình cảm nhân hậu của nhà
văn:
+ Cô gái sẵn sàng theo không để sống;
+ Anh Tràng liều lĩnh “nhặt vợ”;
+ Cuộc dắt vợ về làng là sự thách thức của niềm hi vọng sống
trước mối tuyệt vọng phổ biến của mọi người.
- Tình yêu cuộc sống đã thắng, niềm tin của tác giả vào con
người:
+ Người mẹ từ lo âu, tủi cực đến tích cực vun xới;
+ Người đàn bà tự đổi thay;
+ Anh Tràng ý thức được trách nhiệm gia đình;
+ Gửi hi vọng vào cách mạng và đổi đời.
63
c) Kết bài
- Vợ nhặt là tác phẩm ngợi ca
- Khẳng định vai trò của cách mạng tháng Tám đối với cuộc đổi
đời của bao kiếp lầm than.
BÀI LÀM THAM KHẢO
Văn học Việt Nam sau năm 1945 không chỉ giàu tính chiến đấu
mà còn giàu tính nhân đạo. Hai tính chất này không tách rời
nhau, bởi vì cuộc chiến đấu của dân tộc hơn ba mươi năm nhằm
mục đích khẳng định con người, giải phóng con người; và mặt
khác, muốn bảo vệ con người, thương yêu con người, người ta
phải dấn thân vào chiến đấu. Vợ nhặt của Kim Lân được hoàn
thành vào thời gian sau năm 1955, trên cơ sở một bản thảo cũ
viết ngay thể nghiệm sâu sắc tư tưởng của tác phẩm, làm cho nó
trở thành một tác phẩm mang những giá trị nhân đạo hết sức sâu
sắc và phong phú.
Tác phẩm bắt đầu bằng việc miêu tả sự đổi thay to lớn của xóm
làng khi nạn đói tràn tới. Anh cu Tràng, một người vô tư, vui
tính, được trẻ con yêu mến là thế mà nay đi từng bước mệt mỏi
(…) cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước. Các lều chợ đầy
những người đói bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những
bóng ma, sáng nào cũng thấy ba bốn cái xác người chết đói nằm
ngổn ngang … Nạn đói tràn đến đang gieo rắc chết chóc và xóa
mất sinh khí của xóm làng. Làng xóm xơ xác, đêm về không nhà
nào có ánh đèn, lửa.
64
Trên cây gạo ngoài làng, tiếng quạ kêu hòa với tiêng shờ khóc
người chết. Hình như không ai tin là mình có thể sống qua nạn
đói, và người đói, qua biểu hiện của cô gái mà Tràng gặp ở cửa
nhà kho trên tỉnh, cái đói đang làm mất dần nhân cách của cô: ăn
nói chua ngoa, chỏng lỏn, liều lĩnh. Giữa lúc ấy thì Tràng nhận
người đàn bà kia làm vợ và đưa cô về làng. Người ta thường nói,
nạn đói làm cho con người mất giá, một cô gái phải là cái nhìn
của nhà văn. Với tấm lòng rất mực nhân hậu, nhà văn nhìn thấy
khát vọng được sống còn bức thiết của cô gái. Ông cũng cảm
thông niềm khát khao được có vợ của anh cu Tràng. Anh cũng
liều lĩnh, tặc lưỡi: Kệ, cứ đón cô ta về đã.
Lòng yêu thương, trân trọng của tác giả đối với những người bất
hạnh thể hiện ở cuộc dắt díu về làng của hai người. Nhà văn
không hề có chú rẻ rúng nào khi miêu tả cuộc về làng của họ.
Trái lại ngòi bút tươi vui, dí dỏm, tinh tế đã khắc họa mọi cảm
nhận hạnh phúc của Tràng. Hơn hai mươi lần truyện ngắn nhắc
đến nụ cười của Tràng: khi thì phởn phơ, khi thì tủm tỉm, khi thì
bật cười. Đi bên cạnh cô gái gầy gò và rách như tổ đỉa, Tràng
không hề gợn trong tình cảm mình một chút gì như coi thường
cô gái do cô đã theo không mình vì bốn bát bánh đúc! Anh
không hề có tình cảm lên mặt do trong túi mình đang rích bố cu.
Trái lại, nhờ cô giá mà anh quên hết những cảnh sống ê chề, tăm
tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa …”.
Đó là gì, nếu không phải do anh đã thấy ở cô gái một nguồn ấm
áp, tươi sáng tỏa rạng đời mình? Về phía cô gái, cô cũng không
hề có chút mặc cảm về thân phận bị nhặt. Trên đường về khi thì
cô giễu anh: Bé lắm đấy!, khi thì cô mắng anh Khỉ gió, rồi phát
đánh đét vào lưng anh và khoặm mặt lại với anh. Cô vẫn cảm
thấy mình có đầy đủ sức mạnh đói với phái mạnh như bất cứ cô
gái bình thường nào! Họ thực sự hướng về nhau, thích thú nhau
như mọi đôi tình nhân khi bắt đầu làm thân nhau.
65
Điều thú vị là tác giả đã để cho hai người dắt díu nhau diễu qua
trước mắt dân làng. Rõ ràng sự kết hợp của họ đã dem lại sinh
khí cho cái làng đầy tử khí. Trẻ con thì gào lên: Chông vợ hài!
Người trong xóm thì Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ
bỗng dưng rạng rõ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi
vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ. Họ không hiểu nổi,
họ thở dài, họ nín lặng, bởi vì họ đang tuyệt vọng. Sự kết hợp
liều lĩnh của Tràng và cô gái là một thách thức quyết liệt của
khát vọng sống còn và khát vọng hạnh phúc trước mọi ý thức
tuyệt vọng và tê liệt vì nạn đói, và không phải không có tác dụng
làm cho tâm hồn họ rạng rỡ hơn. Viết đoạn về làng này, nhà văn
hoàn toàn đứng về phía khẳng định sự sống và ý chí sống còn
của con người, trân trọng và yêu mến hành động liều lĩnh của
họ.
Nhưng tư tưởng nhân đạo của tác phẩm không chỉ có thế. Qua
cuộc gặp gỡ với người mẹ và qua một đêm thành vợ chồng, nhà
văn khẳng định tình yêu cuộc sống sẽ thắng được chết chóc,
cuộc sống sẽ thay đổi.
Bà mẹ trước nạn đói cũng thất vọng và hòai nghi như mọi
người: biết có nuôi nhau sống qua được cơn đói khát này
không? bà cũng thở dài. Nhưng bà là mẹ, bà thấy cái sự nhặt vợ
cũng là may, nên bà mừng lòng, bà nuôi hi vọng cho đôi trẻ. Bà
mẹ nhìn người con dâu lòng đầy thương xót, không chút coi
thường. Bà nghĩ đến việc phải có dăm ba mâm cho phải lẽ,
chứng tỏ trong lòng bà không vướng ý nghĩ nhặt không người
đàn bà cho con mình. Đó là tình cảm nhân đạo có tác dụng nâng
cao phẩm giá cho con người. Có thể nói nhà văn Kim Lân chọn
tình huống “nhặt vợ”, một tình huống con người bị đánh mất
phẩm giá trong mắt mọi người ngoài cuộc để nâng niu, khẳng
định phẩm giá của họ, những người trong cuộc.
66
Sau một đêm thành vợ chồng tại ngôi nhà nát, sáng hôm sau,
vẫn trong cơn đói khát, nhưng một không khí đầy sinh khí đã
đến với mọi người. Ngôi nhà sạch sẽ, gọn gàng, ang nước đầy
ăm ắp … Người vợ trở nên hiền hậu, đúng mực, còn Tràng thì
bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn
lạ lùng (…) Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn
có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Một niềm tin vào
tương lai gieo vào lòng mọi người: Hình như ai nấy đều có ý
nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ
có thể khác đi làm ăn có cơ khấm khá hơn. Chưa bao giờ trong
nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Nhưng bữa cháo,
bữa rau, và với lòng thương yêu, hi vọng suông không thể cứu
họ qua khỏi nạn đói. Muốn sống họ còn phải hành động. Những
tin đồn mơ hồ về Việt minh phá kho thóc Nhật, chia cho dân
nghèo, những hình ảnh về đoàn người đi trên đê Sộp lại gieo vào
lòng họ những hi vọng mới, gợi ý những hành động mới. Những
con người đã vượt qua mặc cảm đói nghèo, tủi hờn để khẳng
định sự sống, chắc chắn sẽ đi theo tiếng gọi của Việt Minh để
giành lại sự sống cho mình, trong cách mạng. Nhà văn không dễ
dãi trong việc miêu tả gia đình anh Tràng tham gia cách mạng.
Nhưng logic cuộc sống sẽ cho thấy họ sẽ không có con đường
nào khác.
Tóm lại Vợ nhặt của Kim Lân là một truyện ngắn chứa chan tư
tưởng nhân đạo. Chọn tình huống “nhặt vợ” do nạn đói khủng
khiếp gây nên, nhà văn không nhằm miêu tả sự mất giá, sa đọa
của con người, trái lại, khẳng định khát vọng sống còn và phẩm
giá của họ. Nhà văn đã miêu tả tình yêu sự sống của những con
người bên bờ cái chết như một nguồn sáng, nguồn ấm áp sưởi
ấm lòng người, thôi thúc họ đi tới, cứu lấy đời mình. Tác phẩm
đã cho thấy mối liên hệ khắng khít giữa nhu cầu sống còn của
mỗi cá nhân lao khổ với công cuộc cách mạng xã hội. Đó là một
tư tưởng nhân đạo mới mẻ, có tính chiến đấu.
67
3. Trả lời các câu hỏi sau:
a) Khi phải thực hiện một đề làm văn phân tích văn học, học
sinh phải làm những việc gì?
b) Hãy kể lại những phương pháp phân tích tác phẩm và nêu dẫn
chứng thuyết minh?
4. Lập dàn bài cho các đề sau đây:
a) Phân tích giá trị nhân đạo trong đoạn trích Huệ Chi trước lễ
cưới.
b) Phân tích nghệ thuật châm biếm sâu sắc, tài tình trong truyện
ngắn Vi hành của Hồ Chí Minh.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Đọc và theo dõi cách kết hợp nhận định và đưa dẫn chứng trong
đoạn văn dưới đây:
TIẾNG CƯỜI NHẠI TRONG “SỐ ĐỎ” CỦA VŨ TRỌNG
PHỤNG
Sự thật của Số đỏ chính là cái cười. Nhiều nhà phê bình đã nói
sâu sắc về cái hoạt kê, cái cười hể hả, cái hài hước, cái châm
biếm, nhạo báng, cái hề … của Số đỏ. Tôi hiểu thêm rằng Số đỏ
là cái cười nhại với một tầm cỡ lớn. Số đỏ nhại một xã hội, một
phong trào chính trị, một thời đô thị hóa. Nó nhại một trào lưu
văn hóa, một trào lưu văn học, một nghệ thuật trừu tượng cực
đoan. Nó nhại một ngôn ngữ đang hình thành, hổ lốn, tạp nham,
lổn nhổn, không ăn khớp – ngôn từ khấp khểnh, xiêu vẹo, tạp –
bí – lù …

68
(…) Số đỏ nhại cái trò Âu hóa, tức là cả một nền chính trị lừa
bịp của thực dân tuyên bố mang văn minh phương Tây cho
những dân tộc dã man phương Đông. Nhà văn chọn giai đoạn
ầm ĩ nhất, rầm rộ nhất, phong trào Mặt trận bình dân, để nhại,
nhại những diễn văn khoa trương nhất của các chính khách thực
dân cỡ lớn nhất. Ngọn đuốc văn minh được chuyền từ thực dân
đến Văn Minh chồng, Văn Minh vợ, bà Phó Đoan, Typn… rồi
đến Xuân Tóc Đỏ và Xuân Tóc Đỏ mới là kẻ đủ tầm cỡ gánh
nhiệm vụ Âu Hóa vĩ đại ấy; nói cách khác, Âu hóa đồng nhất
với Xuân Tóc Đỏ, tức là với “vô giáo dục”, “ma cà bông”, “chạy
cờ hiệu”, “thổi loa thuốc lậu”. Số Đỏ là một cuộc hóa than lớn,
Xuân Tóc Đỏ là một chuỗi hóa thân kì lạ, từ một đứa vô gia cư
đến một giáo sư, một thi sĩ, một quan đốc tờ, một vĩ nhân, một
anh hùng cứu quốc, đến mức Văn Minh, bà Phó Đoan phải
“kinh hoàng cả lên”. Kết cấu Số Đỏ giống như kết cấu truyện cổ
tích, cuối cùng Xuân Tóc Đỏ lên ngôi vua, cưới nàng công chúa
Tuyết và “một nhà phúc lộc gồm hai” (cụ cố Hồng và bà Phó
Đoan). Thật là một truyện cổ tích tân thời vậy. (…)
Với Vũ Trọng Phụng, Âu hóa trước hết là lãng mạn hóa đô thị
Hà Nội đang đổi mới, đó là điều có thật. Cái không khí lãng mạn
trong Số Đỏ, với tiếng ca véo véo von von: “Tôi có hai cái tình”,
những tranh giành mới cũ, những vụ tự vẫn ở Hồ Gươm, Hồ
Tây, Hồ Trúc Bạch, những bài báo “ỏm tỏi” xung quanh tự tử,
phong trào áo tân thời Lơmuya, phong trào thơ mơi, nhưng từ
“cụ vía”, “mọc sừng”, những xưng hô “toa, moa”(1) … đều có
thật. Không phải Vũ Trọng Phụng không đồng tình với việc giải
phóng cá tính, với văn minh phương Tây, với Thơ mới… song
ông cảm thấy, nhìn thấy cái bên trong giả dối, mị dân của kẻ chủ
trương và của những kẻ “làm cách mạng trong vòng pháp luật”,
cái động lực của những “cải cách bề ngoài” và “cải cách bề
trong” (quần đùi, coóc xê). Áo Lơmuya biến dạng thành Ngây
thơ, Lưỡng lự, Hãy chờ một chút, hội họa trừu tượng hóa thân
thành “những cái thẹo lộn xuôi, lộn ngược”. Cô gái lãng mạn
Hoàng Hôn, “người đàn bà đức hạnh, tân tiến” chủ trương người
đàn bà “muốn ra giống đàn bà thì phải giữ trinh tiết với hai
người … mông amăng, mông mari …”(2).
Chú thích:
(1) Toa (phiên âm tiếng Pháp): mày. Moa (phiên âm tiếng
Pháp): tôi, ta.
(2) Mông amăng, mông mari (phiên âm tiếng Pháp): người tình
nhân của tôi, người chồng của tôi.
69
(…)
Đoạn kết thúc tiểu thuyết Số Đỏ còn là một áng văn nhại tuyệt
tác những diễn văn chính trị hùng hồn của những Anbe Xarô,
Varen, Blum: bài diễn thuyết của nhà Đại chính trị Xuân Tóc Đỏ
với những từ khoa trương to tướng như Hòa bình, Tổ quốc, nạn
can qua, Hi sinh, Cao thượng… Như mọi lần, người kể chuyện
giải thích tài “hùng biện” của nó như sau: nó vận dụng hai cái
vốn sống (thổi loa cho hiệu thuốc lậu và chạy hiệu rạp hát) được
hiện đại hóa bằng cái đĩa hát do Văn Minh vặn. Thắng lợi hoàn
toàn. Đám dân chúng hô vang: “Xuân Tóc Đỏ vạn tuế!”, mọi
lần, người ta hoan hô “bác sĩ Xuân” hoặc nhà tài tử quần vợt
Xuân, lần này, người ta gọi đúng tên cúng cơm của nó: “Xuân
Tóc Đỏ”. Vậy Xuân Tóc Đỏ lên ngôi vĩ nhân. Xuân Tóc Đỏ -
tên nó từ nay đi vào lịch sử, tên nó gắn với một thời kì khai hóa.
(Trích Đỗ Đức Hiểu)
III – CÁCH LÀM BÀI PHÂN TÍCH CÁC VẤN ĐỀ VĂN
HỌC
1. Phạm vi, yêu cầu
Các vấn đề văn học có thể gặp trong chương trình trung học là
đặc điểm của một giai đoạn văn học hoặc so sánh các phong
cách nghệ thuật, hoặc một vấn đề lí luận văn học (Xem các bài
khái quát và mục Tiểu dẫn về tác giả và tác phẩm trong SGK
Văn học 10, 11, 12).
70
Yêu cầu đối với loại bài phân tích này là trình bày sự hiểu biết
về đặc điểm của giai đoạn văn học hoặc phong cách nghệ thuật
nhà văn hoặc khái niệm lí luận qua khía cạnh và các biểu hiện
cụ thể. Học sinh cần nắm chắc các đặc điểm nghệ thuật ấy, biết
cụ thể hóa thành các khía cạnh, vấn đề và tìm các ví dụ tiêu biểu
có sức biểu hiện mà phân tích, so sánh nhằm làm sáng tỏ các đặc
điểm đã nêu trên.
2. Định hướng và lập ý
Giải thích, phân tích đặc điểm của một giai đoạn văn học hoặc
của một tác giả, một phong cách văn học được nêu ra trong đề
bài, chia tách thành các khía cạnh cần được tìm hiểu.
Ví dụ 1:
Đề bài:
Nói về đặc điểm của sáng tác văn học cách mạng giai đoạn 1945
– 1975, sách giáo khoa nói đến chất sử thi và cảm hứng lãng
mạn. Anh chị hãy phân tích những tác phẩm đã học để làm sáng
tỏ hai đặc điểm ấy.
Để làm đề bài này, hãy chú ý tới khái niệm chất sử thi và cảm
hứng lãng mạn và các các tác phẩm đã học như một phạm vi tư
liệu cần dùng.
Bước thứ nhất là giải thích khái niệm “chất sử thi” để xác định
các khía cạnh cần được phân tích. “Sử thi” đây không phải là
khái niệm thể loại như sử thi cổ đại, mà là đặc điểm của văn học
sáng tác trên nền tảng của ý thức cộng đồng toàn dân xuất hiện
vào các thời kì có đấu tranh chống ngoại xâm, có phong trào xã
hội bảo vệ các lợi ích toàn dân. Xung đột có tính sử thi là xung
đột của dân tộc với kẻ xâm lược, của cộng đồng toàn dân “ta”
với “quân địch”.
71
Chủ đề cơ bản có tính sử thi là dân tộc, nhân dân, Tổ quốc,
truyền thống. Lập trường sử thi là lợi ích dân tộc, cộng đồng.
Nhân vật có tính sử thi là nhân vật anh hùng đại diện cho phẩm
chất, ý chí và sức mạnh của dân tộc, đặc biệt là các hình tượng
lãnh tụ, hình tượng người chiến binh, hình tượng người mẹ.
Giọng điệu cơ bản của văn học sử thi là ngợi ca, khẳng định, cổ
vũ nhân dân. Tình cảm sử thi chủ yếu là tình cảm yêu Tổ Quốc,
yêu đồng bào, yêu bộ đội … Do các đặc điểm này mà các khía
cạnh đời sống khác như đời sống cá nhân, sinh hoạt đời thường,
các hiện tượng tiêu cực … đều được nhìn nhận theo xu hướng
sử thi. Ta có thể phân tích chất sử thi qua các khía cạnh: chủ đề,
xung đột, lập trường tư tưởng, nhân vật, giọng điệu…
Theo cách này, ta cũng có thể giải quyết các đề bài phân tích
cảm hứng lãng mạn, tính chất trữ tình, tính chất dân tộc của giai
đoạn văn học 1945 – 1975.
Ví dụ 2:
Đề bài:
Nói về phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, sách Văn học 12 đã
nói đến thơ trữ tình chính trị, khuynh hướng sử thi, giọng tâm
tình ngọt ngào tha thiết, tính dân tộc đậm đà. Anh chị hãy phân
tích các bài thơ của Tố Hữu đã học để làm sáng tỏ phong cách
ấy.
Đối với nhứng đề bài phân tích loại này, học sinh dựa vào kiến
thức đã biết để trình bày các khía cạnh của phong cách nhà thơ:
một phong cách thơ trữ tình độc đáo, kết hợp giọng ngợi ca,
khẳng định lí tưởng một cách đắm say, nhiệt huyết với giọng
tâm tình ấm áp, mến thương, kết hợp các mô típ truyền thống
với tinh thần sử thi hiện đại, kết hợp các hình thức thơ truyền
thống với thơ hiện đại, tự do, cởi mở, làm cho thơ Tố Hữu có
sức ngân vang tiêu biểu của một thời.
72
3. Chọn dẫn chứng
Điều quan trọng nhất là học sinh biết lựa chọn những dẫn chứng
đã học để phân tích cho sáng tỏ các khía cạnh của một đặc điểm
văn học nào đó.
Dẫn chứng soi sáng cho tính chất sử thi của nền văn học mới, có
thể chọn các bài thơ của Tố Hữu (Người con gái Việt Nam, Mẹ
Tơm, Mẹ Suốt, Bác ơi, bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi,
các truyện Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành, Những đứa
con trong gia đình của Nguyễn Thi… Có thể kể thêm nhiều tác
phẩm khác để chứng tỏ tính chất phổ biến về diện. Nhưng mặt
khác cần chọn một số chi tiết ứng với các khía cạnh trên mà
phân tích cho cụ thể về điểm.
Dẫn chứng cho phong cách thơ Tố Hữu, có thể chọn các bài thơ
của tập Từ ấy, như Từ ấy, Tâm tư trong tù, Trăng trối và của các
tập thơ về sau, như Sóng tháng Năm, Việt Bắc, Quê mẹ, Mẹ
Tơm, Bác ơi…
4. Phân tích vấn đề
Phần quan trọng không kém là phân tích vấn đề qua chi tiết. Để
cho thấy rõ các biểu hiện của đặc điểm văn học mọt giai đoạn
hoặc phong cách nhà văn cần chỉ ra các tính chất ấy qua chi tiết,
chẳng hạn, con người sử thi đại diện cho dân tộc, đất nước như
chị Lí là Người con gái Việt Nam, có trái tim vĩ đại, không đập
cho em, mà cho lẽ phải trên đời, cho quê hương em, cho Tổ
quốc, lòai người, hoặc tôi trong Từ ấy: Tôi đã là con của vạn
nhà. Là em của vạn kiếp phôi pha. Là anh của vạn đầu em
nhỏ… Trái tim sử thi mang tầm vóc vĩ đại, chẳng hạn, Buồng
mẹ buồng tim giấu chúng con (Mẹ Tơm), Quả tim lớn lọc trăm
dòng máu đỏ (Sáng tháng năm)… Về văn xuôi, có thể phân tích
Rừng xà nu, mọi nhân vật làng Xô Man đều chung một ý thức, ý
nghĩ như nhau, các thế hệ người như các thế hệ cây rừng xà nu,
mỗi cá nhân được hiểu như là một thể hiện của cộng đồng, đồng
nhất với cộng đồng qua tên gọi người Đảng, thằng Mĩ - Diệm,
quân địch thì chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục, bên ta muôn
người như một, Heng giống Tnú, Dít giống Mai, những người
anh hùng làng Xô man.
73
Phân tích các đặc điểm của giai đoạn văn học hay phong cách,
cần chú ý tính hệ thống: xung đột thời đại có tính sử thi, lập
trường sử thi, quy định giọng điệu ngợi ca sử thi, hình tượng sử
thi, các thể tài có tính sử thi …
Phân tích phong cách cũng vậy. Tính hệ thống ở đây là cái nhìn
độc đáo của nhà văn quy định sự chọn lựa các chi tiết, các mô
típ, các hình ảnh, các ví von, ẩn dụ…
Phân tích các đặc điểm nói trên, nếu có thể, cần kết hợp so sánh
đặc điểm văn học giai đoạn trước hoặc sau đó. Phân tích phong
cách cần lưu ý so sánh, đối lập với các phong cách khác. Chẳng
hạn, so sánh tình yêu sử thi với tình yêu đời thường, người mẹ
sử thi với người mẹ đời thường.
5. Tổng kết, nhận định, đánh giá
Cần nêu lên chỗ mạnh, chỗ yếu, đóng góp và hạn chế của hiện
tượng văn học được xét (giai đoạn văn học hoặc phong cách tác
giả).
Ví dụ, đối với tính chất sử thi của văn học Việt Nam giai đoạn
1945 – 1975, sau khi phân tích, ta có thể đánh giá văn học sử thi
đã xây dựng được những hình tượng về nhân dân, Tổ quốc anh
hùng, góp phần đoàn kết, cổ vũ nhân dân đấu tranh giành độc
lập, thống nhất Tổ quốc. Cùng với các sáng tác mang tính sử thi
thời trước (như Thánh Gióng, Bình Ngô Đại cáo, Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc), văn học giai đoạn này góp phần nuôi dưỡng tinh
thần yêu nước và ý chí chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Tuy vậy, sự
độc tôn của một loại hình văn học đã ít nhiều hạn chế sự đa dạng
của văn học, hạn chế cách nhìn đời sống theo các góc độ khác…
74
BÀI TẬP
Đọc các mục Đề bài, Tìm hiểu đề và Dàn bài sơ lược sau đây và
nhận xét xem phương hướng lập ý đúng đắn và sang tạo như thế
nào?
Đọc bài làm tham khảo và đánh dấu những chỗ cần phân tích
chi tiết. Nhận xét về cách phân tích ở đây.
Đề bài
Phân tích những nét chung trong cảm hứng về quê hương, đất
nước của các nhà thơ kháng chiến chống Pháp được thể hiện qua
các bài Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm), Việt Bắc (Tố Hữu),
Đất nước (Nguyễn Đình Thi).
Tìm hiểu đề
Đây là kiểu bài thử thách khả năng khái quát một vấn đề văn
học sử trên cơ sở bám sát và nắm chắc văn bản tác phẩm. Mọi
“nét chung” được nêu lên phải tìm được dẫn chứng ở cả ba tác
phẩm, nếu không, đó không còn là “nét chung” nữa. Tuy vậy,
cần ưu tiên phân tích những dẫn chứng lấy từ tác phẩm nào thể
hiện rõ nhất điều mà cả ba tác phẩm cùng quan tâm.
Sau khi nêu lên những nét chung, cần lí giải nguyên nhân nào đã
khiến cho các bài thơ gặp gỡ nhau, thống nhất nhau trên vấn đề
đó. Có thể mở rộng so sánh với thơ văn thời trung đại, với Thơ
mới để làm sáng tỏ nguyên nhân này.
Hệ thống luận điểm nêu lên phải minh xác. Chỉ phân tích một
vài điểm trong các bài thơ để làm sáng tỏ những nét chung được
nêu lên. Tránh sa vào phân tích tràn lan mọi giá trị nội dung và
nghệ thuật của từng bài thơ một cách không cần thiết.
75
Dàn bài sơ lược
a) Mở bài
- Tình yêu quê hương, đất nước là một đề tài lớn trong thơ ca
Việt Nam nói chung và thơ ca kháng chiến chống thực dân Pháp
nói riêng.
- Do sự quy định của ý thức nghệ thuật thời đại, của quan điểm
văn nghệ mới, các nhà thơ đã có những điểm gặp gỡ nhau trong
cái nhìn về quê hương, đất nước.
b) Thân bài
- Nét chung đầu tiên là các nhà thơ kháng chiến chống thực dân
Pháp đều rung động với thiên nhiên tươi đẹp thắm đượm chất
trữ tình của đất nước. Khác với thiên nhiên trong thơ mới, thiên
nhiên lúc này tràn ra ngoài những cái khung nhỏ hẹp và nhiều
khi mang những đường nét kì vĩ, phóng khoáng. Nó hay được
tái hiện từ một cái nhìn toàn cảnh, có tính khách quan, tạo nên
một cái phông thích hợp cho những vấn đề to lớn được nói tới.
- Các nhà thơ thường thể hiện ý thức làm chủ đối với quê
hương, đất nước, vì họ là những công dân mới của một đất nước
có chủ quyền. Từ sở hữu “của” xuất hiện nhiều lần. Quê hương
lúc này đồng nghĩa với đất nước, Tổ quốc. Tên các địa danh của
đất nước thường được nhắc đến với cảm xúc tự hào.
- Bề sâu lịch sử và truyền thống văn hóa của quê hương đất
nước được các nhà thơ quan tâm thể hiện, khiến cho hình tượng
được mô tả có thêm chiều sâu. Ở đây, thơ kháng chiến đã kế
thừa được truyền thống tốt đẹp của thơ văn yêu nước thời trung
đại.
- Cảm hứng về quê hương, đất nước mang tính chất chính trị -
xã hội rõ nét. Hình ảnh quê hương, đất nước ở đây không chỉ
mang sắc thái muôn đời như trong Thơ mới mà còn là hình ảnh
đang vận động, biến đổi theo từng bước phát triển của cách
mạng, của kháng chiến. Có hình ảnh quê hương trong cảnh điêu
tàn. Có hình ảnh quê hương quật khởi. Có hình ảnh quê hương
sáng đẹp trong một tương lai gần.
76
c) Kết bài
- Những nét chung trong cảm hứng về quê hương, đất nước
được nêu ở trên cũng chính là những nét mới mà thơ kháng
chiến đã mang lại cho thơ ca Việt Nam.
- Thơ kháng chiến quả đã đánh dấu bước chuyển của một nền
thơ theo hướng gắn bó với dân tộc và cách mạng, với những vấn
đề liên quan tới cả cộng đồng.
BÀI LÀM THAM KHẢO
Tình yêu quê hương, đất nước là một đề tài lớn trong thơ ca Việt
Nam nói chung và thơ ca thời kì kháng chiến chống thực dân
Pháp nói riêng. Do các nhà thơ mỗi người có một phong cách
nghệ thuật khác nhau nên cảm hứng về quê hương, đất nước
cũng đa dạng, lắm hình, nhiều vẻ. Tuy nhiên, lại do cùng có
chung số phận gắn bó với nhân dân, với cuộc kháng chiến vĩ đại
của dân tộc, có chung tâm huyết đem thơ phục vụ cuộc đời mới,
các nhà thơ cách mạng đã có những điểm chung trong cái nhìn
về quê hương, đất nước. Những bài thơ nổi tiếng như Bên kia
sông Đuốn của Hoàng Cầm, Việt Bắc của Tố Hữu, Đất nước của
Nguyễn Đình Thi được học trong chương trình Văn 12 đã thể
hiện điều đó rất rõ.
Nói về quê hương, đất nước, không thể không rung động với
thiên nhiên tươi đẹp, thắm đượm chất trữ tình của nó. Thơ cổ
điển, thơ lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 đã không ít câu tuyệt
bút truyền đến cho người đọc những xúc cảm thẩm mĩ đậm đà
về vẻ đẹp đơn sơ hoặc mĩ lệ của non nước mình. Nhưng khác
với thiên nhiên trong thơ cổ điển gắn liền với đạo và phần lớn
mang ý nghĩa tượng trung, cũng khác với thiên nhiên trong thơ
mới tuy sinh động, tươi nguyên nhưng hay bị cắt vụn ra thành
từng mảnh riêng tư cho phù hợp với tâm trạng của những cái tôi
cá nhân cô đơn, thiên nhiên đất nước trong các bài thơ kháng
chiến có được những sắc màu hết sức cụ thể và gắn bó chặt chẽ
với cuộc sống của toàn dân. Nó tràn ra ngoài những cái khung
nhỏ hẹp và nhiều khi mang những đường nét kì vĩ, tung hoành,
khoáng đạt:
77
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nó rất hay được tái hiện từ một cái nhìn toàn cảnh có thể ôm
chứa được mọi biểu hiện phong phú:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì.
Hay:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Vì những điều trên, thiên nhiên đất nước trong thơ kháng chiến
bên cạnh sự cụ thể thì cũng mang vẻ khái quát cao hơn, nhiều
lúc thoát khỏi việc bị gán ghép cho những sắc thái tình cảm quá
cá biệt. Nó hình như khách quan hơn, tạo nên một cái phông rất
thích hợp, có màu sắc sử thi cho những vấn đề to lớn được nói
tới.
Từ 1945, Việt Nam đã trở thành một nước độc lập sau hơn tám
mươi năm trời bị nô lệ. Là những người công dân mới của một
đất nước đã có chủ quyền, các nhà thơ kháng chiến luôn có ý
thức làm chủ đối với đất nước. Ý thức đó không thấy xuất hiện
trong thơ mới dù các nhà thơ thuở đó cũng hết sức nặng olòng
với quê hương. Điều này dĩ nhiên có nguyên nhân lịch sử. Khi
viết về quê hương, nhiều lắm họ cũng chỉ nói được như Tế
Hanh: Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới…
78
Làng tôi ở chứ không phải là “làng tôi”, nghĩa là “làng tôi” lúc
này mới chỉ được xác định như một mảnh đất từ đó mình sinh ra
và lớn lên chứ chưa được xác định như một đối tượng sở hữu.
Thơ kháng chiến đã khác. Trước quê hương đất nước, từ sở hữu
của xuất hiện rất nhiều lần, mang âm điệu khẳng định mạnh mẽ,
dứt khoát. Nguyễn Đình Thi đã hả hê sung sướng biết bao khi
viết:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta …
Tố Hữu cũng lòng đầy phấn chấn khi nói:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Đến một lúc nào đó, từ của không nhất thiết phải xuất hiện. Chủ
quyền người Việt đối với đất nước Việt Nam đã hiển nhiên. Các
nhà thơ chỉ cần nói nước chúng ta, quê hương ta cũng đủ để ý
thức sở hữu gây được ấn tượng mạnh cho người đọc. Người ta
thường nói thơ kháng chiến thấm đượm ý thức dân chủ chính
một phần căn cứ vào điều đó. Điều đáng chú ý là khi thể hiện
thứ tình cảm mới mẻ và lớn lao này trước đất nước, cái “tôi” của
các nhà thơ cũng mang một tầm vóc mới, là cái tôi mang tính
chất đại diện cho cả nhân dân. Bởi vậy, quê hương trong suy
nghĩ của họ không còn bó hẹp nơi cái làng tôi ở, nơi những
mảnh vườn, góc phố xinh xẻo hoặc điều hiu mà mở rộng ra đến
cả mọi vùng. Trong thơ kháng chiến xuất hiện nhiều địa danh và
địa danh nào cũng vang vọng, cũng trở thành một phần máu thịt
của nhà thơ:
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài …
(Bên kia sông Đuống)
79
Nỗi nhớ của các nhà thơ trùm lên cả mọi miền:
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phù Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.
(Việt Bắc)
Kế thừa truyền thống tốt đẹp của văn thơ yêu nước thời trung
đại, những bài thơ viết về quê hương, đất nước trong những năm
kháng chiến mang nặng cảm hứng lịch sử và hình ảnh quê
hương đôi khi hiện lên với vẻ đẹp của truyền thống văn hóa lâu
đời. Cảm hứng này làm cho hình tượng được mô tả có thêm
chiều sâu. Sau niềm vui về nền độc lập, tự do của Tổ quốc, các
nhà thơ càng trở nên trầm lắng, bâng khuâng:
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
(Đất nước)
Rõ ràng cảm xúc của các nhà thơ về đất nước không hề hời hợt.
Họ không chỉ vui với cái bề ngoài, không chỉ nhạy cảm với
không gian thơm ngát, bát ngát, “mênh mông bốn mặt” trải rộng
mà còn hết sức xúc động với cái bề sâu, với chiều thời gian
thăm thẳm. Những câu thơ rất khái quát như vừa trích trên và
hai câu:
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.

80
chính đã được viết ra trong niềm tự hào ấy về lịch sử. Nhưng
lịch sử và văn hóa có thể nào tồn tại tách rời nhau. Trong bài thơ
khá dài Bên kia sông Đuống, Hoàng Cầm muốn quan sát vẻ đẹp
của quê hương ở phương diện văn hóa đó. Hàng loạt hình ảnh
sinh động, cụ thể được vẽ lên khiến ta được đắm mình trong một
không khí đặc biệt trộn lẫn ảo và thực, xưa và nay, quá khứ và
hiện tại để từ đó ta hiểu ra vì sao quê hương, đất nước mình vẫn
muôn đời tồn tại:
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.
Rồi các hình ảnh như Những nàng môi cắn chỉ quết trầu, Những
cô hàng xén răng đen, Những em sột soạt quần nâu… tất cả đều
là văn hóa, tất cả đều là quê hương. Đặt trong mạch suy cảm
chung, những bức tranh phong tục như thế bỗng mang thêm
nhiều ý nghĩa mới.
Trong các bài Bên kia sông Đuống, Việt Bắc, Đất nước, cảm
hứng về quê hương, đất nước mang tính chất chính trị - xã hội rõ
nét. Nó gắn liền với cảm hứng lịch sử nói trên. Hình ảnh quê
hương, đất nước ở đây không chỉ mang sắc thái muôn đời như
trong Thơ mới mà còn là hình ảnh quê hương trong cảnh điêu
tàn. Có hình ảnh quê hương quật khởi. Khi quê hương bị quân
thù giày xéo, lòng nhà thơ đau đớn, căm giận. Càng say đắm với
vẻ đẹp quê hương trong cảnh thanh bình, các nhà thơ càng xót
xa với hiện tại:
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay.
(Bên kia sông Đuống)
81
Nhưng với “mối thù nặng vai”, cả quê hương, đất nứơc này đã
đứng dậy. Lòng các nhà thơ nao nức khi nghe vọng tiếng Bộ đội
bên sông đã trở về. Họ đã thật sự xúc động trước tiếng căm hờn
bật lên từ gốc lúa bờ tre hồn hậu, đã phấn chấn biết bao với hình
ảnh Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây. Cuộc kháng chiến đã lớn
mạnh. Từ phòng ngự, cầm cự, ta đã chuyển sang thế phản công.
Từ khắp miền đất nước đều có tin vui, tin chiến thắng:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
(Việt Bắc)
Cùng với niềm vui về hình ảnh Nước Việt Nam từ máu lửa, Rũ
bùn đứng dậy sáng lòa, các nhà thơ bắt đầu mơ ước về tương lai,
về trời đất mới, họ nghĩ đến ngày:”
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
(Bên kia sông Đuống)
Thậm chí, nghĩ xa hơn đến cả ngày đất nước thay da đổi thịt.
Ngày mai, ấy là cả một trời hạnh phúc của đất nước này:
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy bốn bề lưới giăng
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời.
(Việt Bắc)
Quả là nếu không gắn bó máu thịt với đất nước từ trong những
ngày đau khổ, các nhà thơ khó lòng có được sự tưởng tượng bay
bổng như thế. Trong cảm xúc và suy nghĩ của họ, quê hương và
cách mạng không tách rời nhau (chính Tố Hữu từng gọi Việt
Bắc là “quê hương cách mạng”). Đây cũng là một nét mới mà
thơ ca kháng chiến đem đến cho xúc cảm truyền thống về quê
hương, đất nước.
82
Nhìn nhận về những nét chung trong cảm hứng về quê hương
đất nước qua một số bài thơ kháng chiến như trên, ta có điều
kiện thấy rõ hơn những bước chuyển của một nền thơ theo
hướng gắn bó với dân tộc và cách mạng với những vấn đề lớn
liên quan tới cả cộng đồng. Nội dung chính trị thay đổi là
chuyện dễ hiểu. Nhưng đối với văn học, điều quan trọng là cái
nhìn nghệ thuật. Trên thực tế, cái nhìn nghệ thuật mới của nền
văn học mới đã được hình thành với thơ kháng chiến mà những
điều vừa phân tích đã phần nào giúp ta thấy được.
(Phan Huy Dũng)
3. Trả lời các câu hỏi sau:
a) Phạm vi đề bài phân tích vấn đề văn học sử thường bao gồm
những dạng nào? Nêu một số đề làm ví dụ.
b) Để làm tốt bài phân tích này, học sinh cần chuẩn bị những gì?
4. Lập dàn bài cho các đề bài sau:
a) Phân tích phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu qua các bài thơ
được chọn trong chương trình: Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn
Du, Quê mẹ, Mẹ Tơm.
b) Phân tích quan điểm sáng tác của chủ tịch Hồ Chí Minh.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
PHONG CÁCH ĐA DẠNG TRONG “NHẬT KÍ TRONG
TÙ”
Tính đa dạng của sự nghiệp văn học Hồ Chí Minh thể hiện nổi
bật ở bình diện thể loại sáng tác và phong cách nghệ thuật. Đây
là một cây bút lớn, tài năng nhiều mặt, có khả năng thể hiện
trong nhiều phong cách khác nhau, có thể gọi là cây bút đa
phong cách.
83
Thơ Hồ Chí Minh, nhìn về mặt thể loại và phong cách cũng rất
đa dạng. Đặt những bài ca, bài vè Người viết ở Việt bắc thời
Mặt trận Việt Minh bên cạnh những bài thơ chữ Hán của Người
trong Nhật kí trong tù hay ra đời trong thời kì kháng chiến
chống Pháp, thoạt xem, tưởng chúng như của những cây bút
khác nhau.
Một đằng là những sáng tác dân gian hết sức mộc mạc, chất
phát:
Trên đồi cỏ mọc xanh xanh
Một đàn cò đậu ngoài ghềnh xa xa …
… Việt Nam độc lập đồng minh
… Có bản chương trình đánh Nhật, đánh Tây …
Tiếp thu và phát huy nghệ thuật dân gian, nhà thơ dân gian Hồ
Chí Minh sử dụng rộng rãi những thủ pháp quen thuộc của ca
dao, dân ca. Gần thơ với ca (Ca dân cày, Ca phụ nữ, Ca sợi chỉ,
Ca du kích…), nhà thơ dân gian Hồ Chí Minh muốn chính trị
nhập sâu vào sinh hoạt vui chơi thỏai mái của dân gian, và có
thể đi theo họ véo von trên nương rẫy, réo rắt giữa cánh đồng,
ngân nga nơi sườn non, bờ suối …
Với những bài thơ chữ Hán, Hồ Chí Minh trở thành một nhà thơ
cổ điển. Một con người từng sống lâu năm ở phương Tây hiện
đại, từng viết những truyện kí “như một ngòi bút phương Tây
sắc sảo” (Phạm Huy Thông) khi làm thơ cảm hứng trữ tình cho
mình hay những đồng chí gần gũi với mình thưởng thức, lại
thường làm thơ chữ Hán đậm màu sắc Đường thị. Có quy luật gì
ở đây chăng? Có lẽ mọi hồn thơ xưa nay đều hình thành từ tuổi
thiếu niên, trong môi trường tình cảm, trong không khí văn hóa
nghệ thuật được nhà thơ hít thở từ tuổi chín, mười, thậm chí từ
khi còn nằm trong nôi. Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình
trí thức Hán học, hồn thơ ấy, phải chăng đã hình thành một cách
hồn nhiên, tự nhiên từ nhỏ trong không khí sinh hoạt văn
chương của những ông nghè, ông cử, nghĩa là trong âm hưởng
của thơ Đường, thơ Tống?
84
Người để lại cho đời tập Nhật kí trong tù, một thi phẩm lớn. Từ
ngày bản dịch Nhật kí trong tù ra đời, đã có hàng trăm công
trình lớn nhỏ, trong nước, ngoài nước viết về giá trị tư tưởng và
nghệ thuật của tác phẩm này. Ở đây chỉ xin nói thêm về một
khía cạnh của tập thơ, tính chất phong phú, đa dạng từ nội dung
đến bút pháp, phong cách. Có thể nói, tập thơ đã tạo nên một sự
thống nhất hài hòa rất độc đáo của nhiều yếu tố tư tưởng và
nghệ thuật tưởng như đối lập với nhau.
Chỉ điểm qua hệ thống đề tài cũng đã thấy như thế; bên cạnh
những đề tài rất thi vị vốn quen thuộc với thơ ca cổ điển nhau
phong, hoa, tuyết, nguyệt, triêu cảnh, vãn cảnh, đăng sơn, ức
hữu … là những đề tài rất nôm na, đầy chất “văn xuôi” như của
các bài Điền Đông, Sơ đáo Thiên Bảo ngục, Lại sang, Bào
Hương cẩu nhục, Hạn chế, Nhân đỗ ngã …
Đi vào thế giới hình tượng thì thấy bên cạnh một cái tôi trữ tình
có phong thái ung dung, nhàn tản, bầu bạn với thiên nhiên, tựa
như Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Bạch Vân
am, là một cái tôi khao khát tự do, khao khát chiến đấu, lòng
như lửa đốt hướng về Tổ quốc, về đồng chí, đồng bào đang
ngóng đợi mình. Nghĩa là bên cạnh một bậc hiền triết của thuở
xưa sống thanh thản ở ngoài dòng chảy của thời gian, là một
chiến sĩ cách mạng luôn tính đến từng chút quang âm qua đi một
cách oan uổng bên ngoài song sắt nhà lao; Bốn tháng rồi, Tám
tháng hao mòn với xích gồng, Mồng chín ta vừa đến Liễu Châu,
Ngoảnh lại hơn trăm ngày ác mộng, Ngày đi bạn tiễn đến bên
sông, Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng, rồi Giam lâu ngày chưa được
chuyển hay Tiếc ngày giờ… Nghĩa là sống cao độ từng giờ,
từng phút của mình.
Mà cả hai đều là Hồ Chí Minh, đều rất Hồ Chí Minh.
ấy là sự thống nhất hài hòa giữa cái cổ điển và cái hiện đại trong
một nhân cách thơ phong phú và độc đáo.
85
Nhật kí trong tù được viết với một phong cách phong phú, đa
dạng. Nếu nói ở đây có một loạt bài thơ mang phong cách
Đường thì nhận xét ấy cũng chỉ đúng một nửa. Phải thấy rằng
những bài thơ ấy, một mặt rất Đường, mặt khác lại không hẳn là
Đường, Đường ở chỗ khi viết về thiên nhiên, thường chỉ dùng
một vài nét chấm phá, để lại nhiều khoảng trống, cố ghi lấy linh
hồn của cảnh hơn là hình xác của tạo vật. Đường ở thế giới hình
tượng tĩnh, có tính phi thời gian, và ở hình ảnh nhân vật trữ tình
ung dung tự tại, tâm hồn hòa hợp với thiên nhiên. Nhưng không
hẳn là Đường, vì thế giới nghệ thuật của nhà thơ cách mạng thể
hiện một quan niệm khác với người xưa về không gian, thời gian
và về con người trong quan hệ với tạo vật. Nếu trong thơ xưa,
thiên nhiên là chủ thể, con người thường sắm vai ngư, tiều,
canh, mục, ẩn dật giữa chốn thôn dã, lâm tuyền thì trong thơ Hồ
Chí Minh, con người là con người hành động. Con người không
ẩn đi là hiện ra, không phải ẩn sĩ mà là chiến sĩ. Con người cao
độ với thời gian. Con người là chủ thể:
Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
(Đi đường – Tẩu lộ)
Sự đa dạng của phong cách Nhật kí trong tù còn có liên quan
đến tính chất nhật kí của tác phẩm. Trong nhà tù, Bác Hồ ngồi
ghi chép những sự thật diễn ra hằng ngày mà Người quan sát
được. Cũng là một cách để giải trí, đồng thời, có lẽ còn là nhu
cầu của một con người hết sức năng động, không chịu để cho
tâm trí mình được nghỉ ngơi chăng?
86
Có hai sự thật người tù cách mạng có thể theo dõi, quan sát và
ghi chép. Một là sự thật khách quan, nghĩa là những điều mắt
thấy tai nghe ở trong nhà tù và trên đường đi đày. Đối với sự
thật này, tác giả dùng lối thơ hướng ngoại là chính, một thứ thơ
thiên và bút pháp tự sự - tả thực:
Hỏa lò ai cũng có riêng rồi
Nhỏ nhỏ, to to mấy chiếc nồi:
Cơm, nước, rau, canh đun với nấu
Suốt ngày khói lửa mãi không thôi.
(Sinh hoạt trong tù)
Kết hợp những bài thơ, ta có thể hình dung được rất cụ thể, chi
tiết, như xem một cuốn phim tài liệu bộ mặt thật của nhà tù và
một phần xã hội Trung Quốc hồi 1942, 1943.
Nhưng có một loại sự thật khác: ấy là diễn biến tư tưởng và tâm
trạng của tác giả khi một mình đối diện với thiên nhiên hay với
bản thân mình. Đối với sự thật này, tất nhiên phải dùng lối thơ
hướng nội, bút pháp trữ tình – một thứ nhật kí tâm sự, nhật kí tư
tưởng. Kết hợp những bài này lại, ta lại được chiêm ngưỡng một
bức chân dung tinh thần tự họa rất rõ nét và sinh động của nhà
thơ.
Ở loại bài thứ nhất, người ta thấy, trong nhà thơ Hồ Chí Minh,
có nhà báo Nguyễn Ái Quốc hết sức sắc sảo trong bút pháp kí
sự, phóng sự và nghệ thuật mỉa mai, châm biếm.
Ở loại bài thứ hai, ta lại thấy ở nhà thơ cách mạng, sự tiếp nối
truyền thống thi ca lâu đời của Phương Đông, của dân tộc, từ Lí
Bạch, Đỗ Phủ… đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến…
(Trích Nguyễn Đăng Mạnh)
87
BÌNH GIẢNG VĂN HỌC (2 tiết)
I – MỘT SỐ BIỆN PHÁP BÌNH GIẢNG VĂN HỌC
Bình giảng văn học là kiểu bài thể hiện năng lực cảm thụ văn
học của học sinh. Ở Làm văn 11, chúng ta đã nói tới cách bình
giảng những điểm mà ta thấy thấm thía, thích thú nhất, nhấn
mạnh tới khía cạnh cảm thụ có tính lựa chọn chủ quan. Ở Làm
văn 12, chúng ta nhấn mạnh tới phương diện cảm thụ toàn vẹn
đối với tác phẩm.
1. Ôn lại khái niệm
Bình giảng văn học theo lối cảm thụ toàn vẹn này là một kiểu
riêng của bài phân tích văn học, có nhiệm vụ giảng rõ, mạch lạc
về nghĩa lí, ý tứ của bài văn, lời văn, giúp cho người đọc cảm
thụ và đánh giá tác phẩm văn học một cách toàn vẹn.
Khác với bài văn phân tích thông thường chia tách tác phẩm ra
từng khía cạnh để xem xét, bài bình giảng nghiêng về phân tích
các biểu hiện ngôn ngữ, hình ảnh, kết cấu…, nhằm nắm bắt tính
chính thể, mối liên hệ nội tại của bài văn để hiểu bài văn như
một sự sống toàn vẹn.
88
Mọi người đều biết tác phẩm văn học là một thế giới nghệ thuật
chứa đầy ý nghĩa, những ý nghĩa được biểu hiện qua những tín
hiệu ngôn ngữ không giống như thực tại. Hình tượng được lạ
hóa. Giữa các câu, chữ, nhất là trong thi ca, có nhiều khoảng
trống và khoảng trắng, lời chật ý rộng, đòi hỏi người đọc phải
đem kinh nghiệm, tưởng tượng mà suy đoán, thể nghiệm để lấp
đầy khoảng trống văn bản mới mong thâm nhập vào thế giới sự
sống của tác phẩm. Bình giảng văn học chính là dùng ngôn ngữ
của người đọc mà giảng giải, thuật lại tác phẩm sao cho ý nghĩa
của nó hiện ra bề mặt.
Trên một ý nghĩa chặt chẽ, ngôn ngữ nghệ thuật là không thể
được dịch ra một cách trọn vẹn bằng ngôn ngữ kiểu khác, chẳng
hạn, không thể dịch thơ, diễn giải thơ ra thành văn xuôi hoặc
ngược lại, vì như vậy sẽ đánh mất rất nhiều sắc thái tình cảm
tinh vi, tế nhị vốn có của nghệ thuật. Do vậy, bình giảng không
có nghĩa là diễn xuôi, diễn nôm một tác phẩm thơ hay một thiên
truyện bằng một ngôn ngữ ít thơ hơn, khô khan hơn. Bình giảng
chỉ là khám phá những điểm nút, những từ ngữ “chìa khóa”,
những “thi nhân” (mắt thơ), những mạch ngầm để mở đường
thâm nhập thưởng thức văn bản, chứ không che lấp hay thay thế
văn bản nghệ thuật.
Mặt khác, khác với bài phân tích nặng nề về tính chất khách
quan (chẳng hạn, có thể phân tích trên cơ sở những con số thống
kê, cơ sở mô hình hóa…), bài bình giảng nặng về tính chất chủ
quan. Bởi vì người giảng giảng cái mà họ hiểu và cảm thấy,
tưởng tượng trông thấy. Dĩ nhiên đó là cái cảm thấy trên cơ sở
chữ nghĩa, kết cấu, chứ không phải suy diễn tùy tiện. Mặc dù
vậy, cơ sở chủ quan của bình giảng là rất rõ. Người ta có thể
giảng những câu thơ, bài văn một cách khác nhau, tùy thuộc vào
việc nhấn mạnh vào yếu tố nào đó khác nhau. Điều quan trọng
là phải có căn cứ từ văn bản.
89
Tóm lại, bình giảng văn học là kiểu bài làm văn đòi hỏi giảng
giải văn bản, một đoạn văn, thơ hoặc tác phẩm ngắn nhằm làm
hiện lên cái hình tượng toàn vẹn, và qua hình tượng đó mà
chiếm lĩnh ý nghĩa tác phẩm, đồng thời đánh giá ý nghĩa tư
tưởng và nghệ thuật của nó.
2. Tìm ý, bình giảng
Muốn khám phá tính chính thể của nghệ thuật theo yêu cầu bình
giảng như trên, trước hết, người bình giảng cần chú ý tới những
chỗ trống, chỗ trắng, chỗ lạ hóa, khác thường trong văn bản, đặc
biệt là cách cấu tạo hình tượng, các chi tiết giàu ý nghĩa, các từ
ngữ dùng đắt hoặc kết hợp đặc biệt. Từ những chỗ độc đáo, đặc
thù đó mà tìm đến mạch lạc bên trong của bài thơ, đoạn văn,
khám phá các mối liên hệ không gian, thời gian, cách cảm nhận
riêng của tác giả cũng như cấu tứ, bố cục của tác phẩm.
Đọc các bài bình giảng văn học của các cây bút giàu kinh
nghiệm, thông thường, ta thấy bài bình giảng thường bắt đầu
bằng việc xác định những chỗ lạ, chỗ khó của văn bản, mà việc
tháo gỡ những chỗ đó có ý nghĩa quyết định để hiểu đúng tác
phẩm. Bình giảng như vậy sẽ hữu ích, giúp nâng cao trình độc
thưởng thức. Một tác phẩm chẳng có gì lạ và mới thì không nhất
thiết phải bình giảng.
3. Một số biện pháp bình giảng
a) Miêu tả tác phẩm, đoạn trích đem giảng
Thông thường, bài bình giảng bắt đầu bằng việc miêu tả tác
phẩm, đoạn thơ, văn đem giảng, nói rõ xuất xứ, chỗ khó, chỗ lạ,
chỗ độc đáo.
90
b) Bình giảng bài thơ bằng cách miêu tả cái tứ của bài thơ
Ví dụ: Bình giảng bài thơ Gà gáy trên cánh đồng Ba Vì được
mùa (*):
Gà gáy đầu thôn, gáy cuối thôn
Mưa tình sương mát tận tâm hồn
Đêm qua tắt gió, cây không ngủ,
Mưa sớm, hàng cây đứng ngủ ngon.
Gà gáy trong mưa tiếng vẫn trong,
Giọng kim, giọng thổ rộn vang đồng,
Được mùa giống mới gà no bữa
Tiếng gáy tròn như lúa nặng bông,
Núi Tản như con gà cổ đại
Khổng lồ, mào đỏ thắp bình minh
Mênh mông gọi nắng cho mùa chín
Từ buổi Sơn Tinh thắng Thủy Tinh.
(Huy Cận)
“Núi Tản Viên như một con gà cổ khổng lồ, điều này trước nay
chưa ai nhìn ra, chưa ai nói, đã con gà khổng lồ, lại gặp nắng
mọc, cho nên mào đỏ vĩ đại; hình chỏm núi như cái mào gà,
nhưng nếu không đỏ rực thì đâu có phải chính cống là mào gà
trống, cho nên phải chọn buổi sáng mặt trời lên. Mặt khác, nếu
chỉ nhìn về tạo hình mà thấy phần trên núi Tản như đầu con gà
khổng lồ, thì con gà ấy cũng vô duyên đứng một mình. Vả lại,
rất có thể khía cạnh nhìn của nhà thơ như vậy, chưa hẳn đã
thuyết phục người khác cùng nhìn thấy như thế; vì vậy mà phải
chọn vào lúc gà dưới chân núi gáy rộn, nhân cái đà ấy mà nói
núi Tản cũng như một con gà, thì mới có thế, huống chi nhiều gà
đã gáy thì “gà ghen nhau, đua nhau tiếng gáy”, con gà núi Tản
cũng ngửa cổ gáy nốt! Cho nên khổ 1 và khổ 2 rất cần thiết cho
khổ 3. Tôi nghĩ, viết nên một bài thơ hay, phải tạo điểm hội tụ
của những tình thế, gà phải nhiều và phải gáy to thì núi Tản
nghe thấy mới nổi hứng, muốn gáy to, phải được ăn nhiều thóc,
phải được mùa; cái tên bài thơ sở dĩ dài dòng, nhất định phải có
chữ “được mùa” sau chữ cánh đồng Ba Vì, là vì thế. Hai câu
kết: Mênh mông gọi nắng cho mùa chín, nhất là câu cuối cùng
Từ buổi Sơn Tinh thắng Thủy Tinh thắng các thứ Thủy Tinh và
Thiên Tinh nữa”.
(Xuân Diệu)
91
Ở đây, người giảng đã mô tả lô gíc nội tại của cái tứ nối kết ba
khổ thơ tạo thành chỉnh thể, giúp cảm thụ các câu thơ.
c) Thuật lại nội dung, ý tứ đoạn trích có nhấn mạnh, tô đậm chi
tiết giàu ý nghĩa. “Viết về Thị Lộ, Nguyễn Trãi có bài:
Loàn đơn, ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng
Ngoài ấy dù còn manh áo lẻ
Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng.
Loàn đơn là lẻ loi. Ông lẻ loi trong vườn vải của mình, xin hỏi
cái người đang ở ngoài Thăng Long, ngoài Hà Nội. Ngoài ấy có
còn dư thừa áo lẻ nào, thì rộng lòng mà gửi về đây với! Đêm
xuân rét mướt lắm mà! Với các danh nhân, vĩ nhân, ta thường
hay chú ý mặt này mà quên mặt khác. Ta thường chú ý phía sử
thi Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi mà có khi quên mất phía
trữ tình rất là nhân loại của ông”.
(Chế Lan Viên)
Lược thuật cũng là một cách giảng xuyên kết cấu bài thơ. Ví dụ
bình giảng bài Ông đồ: “Nhà thơ Vũ Đình Liên đã dự cảm bước
đi im lìm mà quyết liệt của thời gian. Hai khổ thơ đầu (1 và 2)
tươi vui, nhảy nhót, với cái nền hoa đào nở ngày Tết của mùa
xuân, với giấy đỏ, mực tàu đen, với người qua lại tấp nập, với
những lời bình luận ngợi ca nét chữ đẹp của ông đồ. Ba khổ thơ
cuối (3, 4, 5) miêu tả những biến động của thời gian: ông đồ vẫn
ngồi đó, người thuê viết không còn (khổ 3); ông đồ còn ngồi
đây, không người nào biết (khổ 4); ông đồ không còn đây nữa
(khổ 5). Ông đồ, biểu tượng của một thời gian cụ thể, xóa dần,
xóa dần, rồi mất hẳn. “Sự ra đi” của ông đò, với nhà thơ, có ý
nghĩa sự ra đi của một thời xưa đẹp, của một nền văn hóa đang
đô thị hóa (về một phương diện) một cách tàn nhẫn”.
(Đỗ Đức Hiểu)
92
d) Nhập thân vào tác giả để nói rõ ý mà tác giả muốn nói
Ví dụ: Đối với những người lầm đường theo giặc, Nguyễn Đình
chiểu vừa giận lại vừa thương. Ông khuyên răn nhiều hơn là
chửi bới. Ông muốn nói sao cho mọi người thấy rõ sống với
Tây, sống theo Tây là một cuộc sống cực kì thảm hại:
Sống làm chi theo quân tà đạo
Quăng vùa hương, xua bàn độc, thấy lại thêm buồn.
Sống làm chi ở lính mã tà,
Chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”.
(Hoài Thanh)
đ) Nhập thân vào hình tượng, vào nhân vật để nói lên ý nghĩa
của hình tượng
Ví dụ: “Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp
trong chuỗi ngày tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Thị Nở không
phải đã khơi dậy bản năng sinh vật ở gã đàn ông Chí Phèo, mà
sự săn sóc giản dị, đầy ân tình cùng tình thương yêu mộc mạc,
chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã khiến bản chất
người lao động lương thiện Chí Phèo thức dậy. Lần đầu tiên, sau
bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghe thấy tiếng chim hót vui
vẻ, tiếng cười nói của mấy người đi chợ về, tiếng anh thuyền
chài gõ mái chèo đuổi cá …”.
(Nguyễn Hoành Khung)
93
e) Liên hệ, đối chiếu với những bài thơ, ý thơ, câu thơ gần gũi,
tương đồng để bình giảng, khai thác ý thơ
Ví dụ:
“Cũng chỉ Xuân Diệu mới tìm được nơi đồng quê cái cảnh:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò
của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt
của hơn một nghìn năm và của hai thế giới”.
(Hòai Thanh)
Chú thích: Vương Bột là một nhà thơ đời Đường, có câu: “Lạc
hà dữ cô lộ tề phi, Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc. Nghĩa
là: Ráng chiều cùng bay với con cò lẻ loi, Sông nước mùa thu
cùng một màu với trời rộng.
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa.
Câu đầu bài thơ đã đi sát vấn đề: Tiếng suối cũng mới mẻ, thân
thiết làm sao. Người xưa ví tiếng suối với tiếng đàn:
Côn Sơn có suối nước trong
Ta nghe tiếng suối chảy như cung đàn cầm.
(Nguyễn Trãi)
Với Bác, tiếng suối như tiếng hát. Nếu thiên nhiên có khi gào
lên trong tiếng gió (gió gào), thét lên trong tiếng mưa (mưa
thét), thì giữa đêm khuya thanh vắng, tiếng suối đúng là tiếng
hát trong trẻo của thiên nhiên. Cách ví ấy vừa mới mẻ vừa gợi
lên những tình cảm bạn bè thân thiết, hiền hòa giữa con người
với thiên nhiên”.
(Nguyễn Xuân Nam)
g) Giảng giải ý nghĩa từ “đắt”, từ then chốt và vị trí quan hệ
của nó trong văn bản nhằm hiểu trọn nội dung biểu hiện của
văn bản
Chú thích:
Vương Bột: một nhà thơ thời Đường, có câu: Lạc hà dữ cô lộ tề
phi, Thu thủy cộng đường thêin nhất sắc. Nghĩa là: Ráng chiều
cùng bay với con cò lẻ loi, sông nước mùa thu cùng một màu
với trời rộng.
94
Ví dụ:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
(Nguyễn Du)
Người ta hỏi: Tại sao Nguyễn Du không dùng nhờ, mà dùng
cậy; không dùng nhận mà dùng chịu? Chính vì giữa các từ ấy có
một sự sai khác khá tinh vi. Đặc nhờ vào chỗ cậy, không những
âm điệu thơ sẽ nhẹ đi, âm thanh không đọng ở chữ thứ nhất của
câu thơ nữa, làm giảm nhẹ chừng nào cái quằn quại khó nói của
Thúy Kiều, mà ý nghĩa hi vọng tha thiết của một lời trối trăng, ý
nghĩa nương tựa gửi gắm của một tấm lòng tuyệt vọng, đồng
thời cũng là ý nghĩa tin tưởng thân mật ở một mối tình ruột thịt,
những ý nghĩa đó sẽ gần như mất đi. Còn giữa chịu và nhận thì
dường như có vấn đề tự nguyện hay không tự nguyện nữa. Nhận
lời có lẽ là có nội dung tự nguyện ở trong, hay ít ra cũng là có ý
kiến của người nhận lời. Chịu lời thì hình như chỉ có một sự nài
ép phải nhận vì không nhận không được. Trong tình thế của
Thúy Vân bây giờ chỉ có chịu lời chứ làm sao có thể nhận lời
được.
Câu thơ sáu chữ giản dị mà chứa đựng trong vài từ cân nhắc kĩ
tất cả chiều sâu của một tình thế phức tạp càng làm cho nó có
dáng dấp như một lời cầu nguyện linh thiêng, ý nghĩa đã có sẵn
trong lời thơ nhưng người nghe vẫn chưa sao hiểu được.
Tại sao lại lạy?
Việc nhờ cậy quả là quan trọng, cho người nhờ cũng như cho
người được nhờ. Cho người nhờ, đó là món trả nợ tình …. Cho
người được nhờ thì càng quá rõ …. Nhận lời là một sự hi sinh
vì chị, vì cái cao quý của chị. Mà đối với một cử chỉ hi sinh vì
người khác như vậy, chỉ có kính phục và biết ơn, ngày xưa phải
tỏ bày bằng cái lạy. Thúy Kiều đòi lạy Thúy Vân là lạy cái hi
sinh cao cả ấy”.
(Lê Trí Viễn)
95
Người giảng đã cho thấy tất cả chiều sâu nghĩa lí đằng sau
những chữ mới xem ra rất bình thường ấy, làm ta hiểu thấu sự
dụng công lựa chọn của tác giả.
h) Tưởng tượng, mở rộng hình tượng như một thủ pháp bình
giảng
Ví dụ: “Dòng cuối cùng của Tắt Đèn: “Trời tối như mực và như
cái tiền đồ của chị”. Tối thật, tối quá lắm, sự sống đến như đời
sống của chị Dậu thì tối sầm cả mắt người đọc truyện hai mươi
năm sau này. Nhưng câu kết của Tắt Đèn không hẳn là một câu
tiêu cực. Nó có hiện tượng bi quan, nhưng không là tiêu cực về
bản chất. Bản chất của chị Dậu rất khỏe, cứ thấy lăn xả vào bóng
tối mà phá ra. Một nhân vật khỏe và mạnh như chị Dậu, có thể
ngừng cuộc đời của mình ở đây không? Hay là nó phải tuông ra
khỏi cái tối như mực? Vì cái tiền đồ như mực ấy mà không
tuông ra khỏi thì sao có thể sống được? Tôi ngờ câu kết này
cũng mới chỉ là cái chấm hết của một thiên truyện dài. Với một
cái tiền thân ngay thẳng, lành mạnh như vậy, tôi nghĩ rằng chị
Dậu thể tất phải có một hậu thân trong các đoàn thể các mạng;
và tôi nhớ như đã có lần nào, tôi đã gặp chị Dậu ở một đám
đông phá kho thóc Nhật, ở một cuộc cướp chính quyền huyện kì
Tổng khởi nghĩa; và nếu không thì, chí ít, tôi cũng đã gặp chị
vào những ngày địch hậu o ép, chị tải thương hoặc đậy nắp hầm
bem cho cán bộ cơ sở. Đúng thế đấy, Tắt đèn chỉ là một đoản
thiên. Lúc bấy giờ chưa có cách mạng ruộng đất, mà đã có
những ngòi bút dồn nhân vật nông dân mình vào chỗ chân
tường, dồn đến mức người độc giả có suy nghĩ phải ý thức ngay
được cái tuông ra tất nhiên của nhân vật. Tôi cho đó là dư vị
chính trị của Tắt đèn”.
(Nguyễn Tuân)
Ngoài ra, có thể kể thêm một số biện pháp khác nữa, nhưng nếu
rèn luyện tốt các biện pháp trên, học sinh có thể nắm được các
biện pháp bình giảng cơ bản.
96
II – CÁCH LÀM BÀI BÌNH GIẢNG THƠ
Cách làm bài bình giảng thơ, tuy phải khai thác cách giảng thơ
nêu trên, nhưng cách trình bày, cách viết nên đa dạng. Có thể bắt
đầu bằng đối chiếu với một bài thơ nào đó rồi giảng bài thơ cần
giảng, có thể bắt đầu từ một từ lạ, tứ lạ, cũng có thể từ nội dung
cảm xúc khái quát giảng đến các biểu hiện câu chữ, vần điệu …
Tuy vậy, nhìn chung bài bình giảng thơ nên thực hiện như sau:
1. Giới thiệu khái quát xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác và vị trí
tác giả
Xuất xứ là chỗ mà từ đó bài văn, bài thơ, đoạn trích được dẫn ra.
Ví dụ, bài thơ Việt Bắc in trong tập Việt Bắc của Tố Hữu, xuất
bản năm 1954; bài thơ Đây mùa thu tới in trong tập Thơ thơ của
Xuân Diệu, xuất bản năm 1938. Đối với đoạn trích, không chỉ
nói rõ đoạn thơ rút ra từ tác phẩm nào, mà còn cần giới thiệu vị
trí đoạn ấy trong tác phẩm được trích. Ví dụ, đoạn Kim Trọng
trở lại vườn Thúy trích từ truyện Kiều của Nguyễn Du, miêu tả
tâm trạng Kim Trọng sau khi về quê chịu tang chú trở lại tìm
Kiều thì gặp cảnh nhà cửa tiêu điều, người xưa vắng bóng.
Hoàn cảnh sáng tác rất cần được biết để hiểu sâu tác phẩm.
Chẳng hạn, bài thơ Mới ra tù, tập leo núi của Hồ Chí Minh. Nếu
không biết tác giả viết lúc nào, sẽ chỉ hiểu bài thơ như một cảm
xúc đăng cao nhớ bạn.
Giới thiệu vị trí tác phẩm, cung cấp một sự đánh giá tổng quát.
Ví dụ 1: Về bài Việt Bắc của Tố Hữu.
“Tháng 10 – 1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, tác
phẩm chín nhất của tác giả thời kì này và cũng là một trong
những bài thơ hay nhất trong nền thơ hiện đại của chúng ta. Việt
Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bản tình ca rất tiêu biểu cho
hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu …”.
(Nguyễn Văn Hạnh)
97
Ví dụ 2: Về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.
“Đối với Chính Hữu, Đồng chí chưa phải là bài thơ hay nhất,
nhưng nó là bài thơ được biết đến nhiều nhất, thậm chí, nhắc
đến Chính Hữu nhiều người nghĩ ngay đến Đồng Chí …”.
(Vũ Quần Phương)
2. Giảng giải ý tứ bài thơ
a) Phát biểu về cấu tứ, đại ý, bố cục của bài thơ
Vì ý gắn liền với tứ cho nên tìm hiểu đại ý bài thơ phải gắn liền
với phát hiện tứ thơ. Ví dụ, đối với bài Việt Bắc, nên chú ý cấu
tứ đối lập nhằm dựng nên cái thế không chỉ người hỏi kẻ đáp mà
còn kẻ hô người ứng tạo thành một bài ca chung. Chú ý sự xưng
hô “mình”, “ta” xem ra rất riêng tư, nhưng thật ra là tình cảm
chung của nhân dân, cán bộ, miền xuôi, miền ngược. Khám phá
các biểu hiện về giọng điệu, lời lẽ, hình ảnh, nhịp điệu, nhạc
điệu để giảng giải cho rõ, tại sao bài thơ tạo được ấn tượng đẹp
đẽ, ấm cúng, gây được cảm giác ngọt ngào, tha thiết và dư vang
đậm đà trong tâm hồn người đọc.
Đối với bài Đồng chí, đáng chú ý là sự phát hiện ra một cảm
quan mới về đời và người qua ý niệm “đồng chí”. Tại sao anh và
tôi “đôi người xa lạ”, “chẳng hẹn quen nhau”, bỗng trở thành
“đôi tri kỉ” – đồng chí? Đó là do tất cả cái chung về đời sống xã
hội quy định: chung đói nghèo, chung chiến đấu, chung thiếu
thốn, và đêm khuya chờ giặc, chung một vầng trăn: “Đầu súng
trăng treo”.
Để hiểu đúng ý và tứ một bài thơ, nhiều khi phải đối chiếu với
bài thơ khác. Chẳng hạn, nội dung bài Đồng chí của Chính Hữu
trên đây cũng là cái chung thiêng liêng của cuộc đời sống chết
có nhau mà sau này nhà thơ phát triển trong bài Giá từng thước
đất:
98
Đồng đội ta là hớp nước uống chung,
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa.
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà.
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp.
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.
Không cần phải liên hệ những ý thơ giống với Chính Hữu ở nhà
thơ này, nhà thơ kia, để hòa tan mất bài thơ, mà cần chỉ ra cái
riêng của nó. Đặt trong cái mạch của nó thì “Đầu súng trăng
treo” là biểu tượng của một cái chung, chứ không nhất thiết là
có nghĩa “thanh bình, tươi đẹp”. Hình ảnh thơ đa nghĩa, nhưng
thường có một nghĩa là hợp hơn cả với mạch tư duy, tình cảm
của bài thơ. Bỏ qua cấu tứ bài thơ mà phát biểu đại ý thì dễ
chung chung, na ná, chưa phải là cái ý mà tác giả hoặc bài thơ
nói với người đọc.
b) Giảng nghĩa lí, mạch lạc, từ ngữ, hình ảnh thơ
Bình giảng thơ, văn có một điểm khác với bài phân tích văn học
là bài phân tích chỉ cần tập trung khám phá các chủ đề phân tích,
mà không nhất thiết phải xem xét mọi yếu tố của văn bản. Còn
bình giảng văn học là giảng văn, có thể chọn những câu hay, từ
đắt để giảng, nhưng không được bỏ qua những câu chữ không
hiểu, vì như vậy là bỏ qua sự toàn vẹn của tác phẩm. Cho đến
nay còn nhiều bài thơ mà về nghĩa lí của nó đang có nhiều ý
kiến khác nhau, nhưng người bình giảng không thể bỏ qua, mà
chỉ có thể bày tỏ cách hiểu biết của mình. Có như vậy, việc
giảng thơ mới giúp phát triển các năng lực ngữ văn.
Trong bài bình giảng, khi cần làm sáng tỏ ý tứ, mạch lạc bài thơ,
cần giải thích các từ ngữ then chốt, kể cả tên đầu đề. Ví dụ, đề
bài Thu vịnh của Nguyễn Khuyến vừa có nghĩa là “vịnh mùa
thu”, vừa có nghĩa là “làm thơ mùa thu”, bài thơ giảng theo hai
hướng ấy đều có nghĩa. Đề bài Bài ca ngất ngưởng cung cấp một
tư tưởng, một góc nhìn để hiểu tác phẩm.
99
Khi cần đi sâu vào nội dung, lại cần giảng các từ ngữ mang nội
dung lịch sử, ví dụ, khi bình giảng bài Tây Tiến thì phải cho biết
Tây Tiến là gì, thế nào là đoàn binh không mọc tóc, quân xanh
màu lá dữ oai hùm? Bình giảng bài Pác Bó hùng vĩ, cũng cần
thuyết minh địa điểm Pác Bó, nó có ý nghĩa gì, hoặc khi nói tới
đoạn Kim Trọng trở lại vườn Thúy thì vườn ấy ở đâu? … Chú
thích, giải nghĩa đúng thì mới giảng đúng.
Nhưng quan trọng hơn hết là giảng những từ ngữ mang cái thần
sắc, cái hồn riêng của mỗi tác giả, ví như Lòng quê dợn dợn vời
con nước trong Tràng Giang hay Những luồng run rẩy rung rinh
lá trong Đây mùa thu tới hoặc Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
trong Tương tư. Đặc biệt, cần thể nghiệm, phân tích để giảng
được nghĩa lí trong các câu thơ như: Nắng xuống, trời lên, sâu
chót vót, Sông dài, trời rộng, bến cô liêu; Đưa người, ta chỉ đưa
người ấy, Một giã gia đình, một dửng dưng, Li khách, li khách!
Con đường nhỏ, Chí lớn chưa về bàn tay không, Thì không bao
giờ nói trở lại, Ba năm mẹ già cũng đừng mong… Câu chữ vừa
như dính nhau, vừa như không dính nhau, nghĩa lí chúng thế
nào? Đâu là sức hấp dẫn của chúng? Nguyên tắc chung để giảng
là cần phát hiện những mạch chỉnh thể trong cách cảm, cách
nhìn, trong quan niệm của một thời đại văn hóa. Trên kia đã nói
cách cắt nghĩa về hình ảnh Đầu súng trăng treo. Vậy Ruộng
nương anh gửi bạn thân cày, Gian nhà không mặc kệ gió lung
lay… biểu hiện nghĩa gì? Cần cắt nghĩa ở khía cạnh biểu trưng:
gian nhà, ruộng nương biểu trưng cho cái riêng, gia đình, và đó
là sự dứt bỏ cái riêng, gia đình để sống cuộc đời chung với một
ý vị lãng mạn.
Nói chung, giảng thơ không nhất thiết chỗ nào cũng giảng. Chỉ
cần tập trung giảng những chỗ có vấn đề nghĩa lí, ý tứ. Do vậy,
khi giảng cần thuyết minh lí do vì sao phải giảng chỗ ấy, chỉ ra
cái “lạ”, cái “khác thường” mang ý nghĩa cần được khám phá,
như vậy, việc giảng mới có nghĩa lí và hấp dẫn. Ví dụ, trong thời
Thơ mới, khi người ta thổ lộ cái “tôi” một cách thành thực mà
Nguyễn Bính trong Tương tư vẫn nói theo điệu: Thôn Đoài ngồi
nhớ Thôn Đông là một sự lạ. Ở trong tù, thấy hương hoa bay
vào mà nghĩ: Hương hoa bay thấu vào trong ngục, Kể với tù
nhân nỗi bất bình cũng là một sự lạ.
100
Giảng văn góp phần bồi dưỡng năng lực văn hóa ngữ văn cho
con người, làm cho sự cảm nhận văn học trở nên tinh tế.
3. Đánh giá các giá trị văn học của bài thơ
Bình là một khâu trung tâm của bài bình giảng chúng ta đã học
kĩ ở lớp 11. Bình đây là bình phẩm, bình luận, đánh giá. Có hai
điều cần bình: giá trị nghệ thuật, thẩm mĩ và giá trị xã hội, nhân
văn.
Bình về giá trị nghệ thuật là chỉ ra giá trị biểu hiện của các
phương tiện văn học: cách cấu tứ, cách dùng từ, cách tổ chức bài
thơ, phong cách, bút pháp… có sức biểu hiện tới mức nào, mới
lạ như thế nào. Ví dụ, cấu tứ hài hước, trào phúng trong các bài
thơ Ghẻ lở, Chia nước … trong Nhật kí trong tù hay lời thơ tha
thiết, bâng khuâng mà gân guốc, mạnh mẽ trong các bài thơ
Tống biệt hành, Tây Tiến…
Bình về giá trị nghệ thuật, thẩm mĩ đòi hỏi phải có tiêu chuẩn,
mà tiêu chuẩn quan trọng nhất là phù hợp với tình ý cần biểu
hiện và tính chất thẩm mĩ. Tiêu chuẩn này rất đa dạng: có khi
tao nhã mà hay, có khi thô tháp cũng hay, có khi chặt chẽ mà
hay, có khi lỏng lẻo cũng hay …, tùy từng trường hợp mà xét.
Bình về giá trị xã hội, nhân văn là chỉ ra chiều sâu về mặt nhân
cách, đạo đức, trí tuệ, vốn sống của các ý tình trong tác phẩm,
như lòng thương người, tình yêu thiên nhiên, tình yêu nam nữ, ý
thức trách nhiệm trước xã hội, lòng yêu nước cảm giác cô đơn…
Người bình cần chỉ ra những ý sâu, ý mới có khả năng cho thấy
những khía cạnh phong phú của lòng người và cuộc đời.
Giảng và bình có thể xen nhau và phải dựa vào nhau. Giảng
đúng mới có cơ sở để bình đúng. Bình đúng là tôn lên giá trị, ý
nghĩa của việc giảng. Bởi chẳng thú vị gì khi giảng ra một điều
không có mấy ý nghĩa.
101
Trên đây là ba việc chính tạo thành nội dung cơ bản của bài bình
giảng thơ. Như lẽ thường, đầu bài phải có mở bài và cuối bài
phải có kết bài. Người viết tổng kết thành những nhận định cơ
bản và đi tới kết thúc bài văn.
Hành văn bài bình giảng nên uyển chuyển, tinh tế, tránh thô bạo,
khiên cưỡng, vì đang nói đến sự cảm nhận của mình về bài thơ,
về cái đẹp, cái thi vị. Bài thơ dù dài, ngắn cũng là một thế giới
nghệ thuật mà lời bình giảng chỉ đề cập đến một phần. Vì vậy,
lời văn cần nhã và khiêm tốn.
BÀI TẬP
1. Đọc các mục Đề bài, Tìm hiểu đề, Dàn bài dưới đây, nhận xét
xem cách lập ý có đúng hướng không?
2. Đọc bài làm tham khảo và chỉ ra cách giảng, cách bình tương
tự với các biện pháp bình giảng nêu trên.
Đề bài
Bình giảng đoạn mở đầu bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng
Cầm:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về bên kia sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay.
102
Tìm hiểu đề
Đoạn mở đầu (gồm 10 dòng) có vị trí đặc biệt trong toàn bộ bài
thơ mang ý nghĩa tạo nền cảm xúc, định hướng cho những tình
cảm lớn trong cả bài thơ. Ngay ở đoạn mở đầu này cũng đã thể
hiện khá rõ tâm hồn nghệ sĩ, ngòi bút trữ tình gợi cảm, tinh tế
của Hoàng Cầm.
Vì những lẽ trên, về mặt phương pháp, khi bình giảng đoạn thơ
này phải đặt nó vào chỉnh thế tác phẩm. Cần cảm nhận và phân
tích cái hay trong sử dụng ngôn từ, xây dựng hình ảnh; đặc biệt,
trong giọng điệu, nhịp điệu của đoạn thơ.
Dàn bài
a) Mở bài
- Khẳng định thành công của bài Bên kia sông Đuống trong nền
thơ ca kháng chiến trên đề tài về quê hương đất nước.
- Giới thiệu đoạn thơ mở đầu và vị trí đặc biệt của nó trong toàn
bài thơ. Đây là bức tranh toàn cảnh quê hướng bên kia sông
Đuống trong tình yêu thiết tha và niềm xót xa căm giận của
Hoàng Cầm.
b) Thân bài
Bình giảng đoạn thơ theo 3 đoạn ngắn:
- Ba dòng đầu:
+ Một tiếng gọi thiết tha, một lời khuyên nhủ chân tình từ đó
xuất hiện nhân vật “em” như đối tượng tâm tình, chia sẻ.
+ Sự trở về với dòng sông Đuống ngày xưa – ngày quê hương
còn thanh bình, yên ả, chưa hề có bóng dáng quân thù (hình ảnh
“cát trắng phẳng lì”).
- Ba dòng tiếp:
+ Dòng sông Đuống trở thành nhân vật trung tâm trong bức
tranh về quê hương, trở thành tâm điểm của nỗi nhớ.
103
+ Cách ngắt nhịp thơ ngắn, chậm rãi gây ấn tượng. Vẻ hiền hòa,
bất tận và bất diệt của dòng sông quê hương qua chữ “trôi đi”.
Về trữ tình gợi cảm của “một dòng sông lấp lánh”.
+ Một liên tưởng trữ tình, về tư thế dòng sông Đuống trong cuộc
kháng chiến trường kì của quê hương, của dân tộc.
- Bốn dòng còn lại:
+ Vẫn lấy dòng sông Đuống làm trung tâm nhưng miêu tả những
bãi bờ cây cối tốt tươi bên dòng sông ấy. Các từ láy xanh xanh,
biêng biếc gợi tả vẻ lớn rộng, bát ngát cùng màu xanh trẻ trung,
đầy sức sống của những bãi mía bờ dâu, những cánh đồng ngô
khoai.
+ Nỗi xót xa, căm giận khi trở lại với hiện tại hoang tàn, đổ nát
trên quê hương. Hai lời tự hỏi với hai chữ sao để giãi bày, để
xoáy sâu vào nỗi xót xa thật khác thường. Nỗi đau đớn trong cõi
lòng được cụ thể hóa như một bộ phận thân thể đang bị cắt lìa.
c) Kết bài
Mười dòng thơ này là toàn cảnh quê hương bên kia sông Đuống
trong tình yêu thiết tha, trong niềm xót xa nhớ tiếc của Hoàng
Cầm. Đoạn thơ đã định hình cho những tình cảm lớn được thể
hiện xuyên suốt cả bài thơ.
BÀI LÀM THAM KHẢO
Nhắc tới tình cảm sâu nặng đối với quê hương, đất nước được
biểu hiện trong thơ ca, khó thể quên Bên kia sông Đuống – một
sáng tác nổi tiếng của Hoàng cầm. Bài thơ, ngay từ lúc ra đời, đã
được truyền đi rất sâu rộng, không chỉ bằng sách báo mà bằng
cả chép tay, truyền miệng.
104
Cảm hứng viết Bên kia sông Đuống bật lên từ nỗi đau của nhà
thơ khi nghe tin quê hương mình, một vùng quê tươi đẹp và trù
phú phía Nam sông Đuống, bị giặc Pháp tấn công và chiếm
đóng (tháng 4 – 1948). Từ sự kiện này, bỗng ào ạt sống dậy
trong tâm trí Hoàng Cầm bao kỉ niệm đẹp về một miền đất Kinh
Bắc thanh bình, thơ mộng, có bề dày truyền thống văn hóa,
những tưởng tượng về khung cảnh hoang tàn, khói lửa của quê
hương, về cuộc sống và con người của quê hương gian lao
kháng chiến. Cả bài thơ dài Bên kia sông Đuống được viết liền
một mạch trong tâm trạng bảng hoảng, ngổn ngang như bãi cỏ
rối lút người (lời Hoàng Cầm). Trong đó, đoạn mở đầu bài thơ
(gồm 10 dòng) như khúc dạo đầu, có ý nghĩa tạo nền cảm xúc
chung cho toàn bài.
Dòng thơ mở đầu như tiếng gọi tha thiết, đồng thời là lời khuyên
nhủ ân tình:
Em ơi buồn làm chi
Em ở đây là ai vậy? Có thể em là một người con gái Kinh Bắc
nào đó mà lúc này nhà thơ đang hướng về. Cũng có thể “em
chẳng cụ thể là một ai. Khi thiết tha tâm sự, khi mong ước giãi
bày, nhà thơ trữ tình thường tưởng tượng ra một đối tượng nào
đó, thường tìm đến em. Sự xuất hiện nhân vật em ở đây khiến
bài thơ ngay từ đầu mang dáng dấp một lời tâm sự riêng và dễ
dẫn vào không khí của hoài niệm. Khuyên em buồn làm chi
nhưng chính bởi lòng anh đang buồn. Lời khuyên em hay là lời
tự khuyên mình vậy!
Hoàng Cầm tâm sự rằng ba dòng thơ mở đầu như được thần linh
bỗng dưng trợ giúp, như tự trời xa xanh rơi xuống. Kì thực đó là
kết quả của sự nhập tâm đến xóa nhòa ranh gới giữa thực và ảo,
giữa hiện tại và quá khứ, là sự trộn lẫn giữa vô thức và hữu thức
ở một thời khắc ám ảnh đặc biệt. Lời thơ như tự khắc vọng lên
từ tâm khảm. Từ tiếng gọi, lời khuyên này, nhà thơ đưa nhân vật
em về với con sông Đuống ngày xưa:
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì.
105
Ngày xưa, đó là thuở quê hương còn thanh bình, thơ mộng, chưa
hề có bóng dáng quân thù. Hình ảnh cát trắng phẳng lì gợi trong
ta cảm giác xa vắng mênh mông, mịn mát và thanh thản.
Sang ba dòng thơ tiếp theo, dòng sông Đuống trở thành nhân vật
trung tâm trong bức tranh về quê hương:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Lời thơ được ngắt thành các dòng ngắn, nhất là hai dòng trước.
Nếu để thành một dòng, nhịp đọc tất phải liền nhanh và ý thơ do
thế cũng khác. Bằng sự ngắt dòng này, nhịp thơ trở nên chậm
rãi, đĩnh đạc. Nó vừa nhấn mạnh sự trôi đi lai vừa tô đậm vẻ lấp
lánh. Từ ngàn xưa dòng sông Đuống đã trôi đi. Giờ đây nó vẫn
đang trôi đi với vẻ hiền hòa bất tận. Nhịp thơ kéo dài chảy trôi
dòng sông. Vào những ngày nắng hay những dêm trăng, mặt
sông xao động lấp lánh ánh sáng. Và dòng sông Đuống càng trở
nên linh động hơn, có hồn hơn với câu thơ tiếp:
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì.
Cái hay của thơ lắm khi khó diễn giải rõ bằng lời. Trong bài Bên
kia sông Đuống có những câu thơ, những hình ảnh linh diệu,
lung linh giữa khả giải và bất khả giải mà đây là một trường
hợp. Đi trên bờ đê cao dọc sông Đuống ở huyện Thuận Thành
nhìn xuống một dòng lấp lánh, nhìn sang phía bên kia với những
bãi mía, bờ dâu ngút ngát, dễ có cảm giác dòng sông như nằm
nghiêng nghiêng. Trong cảm giác tinh tế này, hình ảnh thơ bỗng
trở nên “mù mờ”, hư ảo hơn bởi sông Đuống không phải nằm
nghiêng nghiêng trên bãi cát trắng bờ xanh mà lại trong kháng
chiến trường kì. Phải chăng, đó là liên tưởng về tư thế độc đáo
của dòng sông quê hương trong cuộc kháng chiến gian khổ, anh
hùng của đất nước. Nó có chút hồi hộp, chênh vênh. Nó duyên
dáng chất trữ tình mềm mại ngay trong sự chênh vênh ấy. Qua
con mắt đa tình của thi sĩ, dòng sông Đuống bỗng trở thành một
sinh thể có vóc dáng và mang tâm trạng.
106
Vẫn lấy sông Đuống làm nhân vật trung tâm nhưng đây không
còn là vẻ đẹp của một dòng lấp lánh đang trôi đi nữa mà mở ra
khung cảnh cuộc sống bên bờ sông ấy:
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Hai dòng thơ vừa có giá trị tạo hình vừa mang ý nghĩa biểu cảm.
“xanh xanh” không chỉ tả màu sắc mà còn ca ngợi vẻ bát ngát,
cứ rộng xa mãi trong tầm mắt. Biêng biếc là màu xanh non,
đang phát triển đầy sức sống (trong bài Sáng tháng năm, Tố Hữu
cũng miêu tả cảnh núi rừng Việt Bắc trên đường lên thăm Bác
Hồ ở một sáng mùa hè: Suối dài xanh mướt nương ngô …). Các
từ láy âm được Hoàng Cầm sử dụng ở đây khiến cho lời thơ
thêm sức ngân, thêm nhẹ.
Chính vì quê hương giàu đẹp, trù phú như thế đang bị lũ giặc
chiếm đóng, giày xéo nên nhà thơ càng xót xa, căm giận:
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay.
Hai câu thơ này đã đẩy hình ảnh về quê hương ở hai câu thơ
trước trở về hoài niệm. Những bãi mía, bờ dâu, những ngô khoai
biêng biếc giờ đâu còn nữa. Ý thơ thoắt chuyển đổi, đi về thật
linh động giữa hiện tại và quá khứ, giữa thực và mộng. Đặc
điểm này chúng ta còn gặp lai ở một số đoạn sau của bài Bên kia
sông Đuống. Nó càng chứng tỏ tâm trạng bàng hoàng, bất định
của Hoàng Cầm lúc viết bài thơ. Hai dòng thơ có hai chữ “sao”,
là hai lần tự hỏi dể giãi bày tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Hiếm ai bộc lộ nỗi đau xót sắc cạnh đến như Hoàng Cầm. Niềm
xót xa trong tâm trạng được nhà thơ cụ thể hóa như một bộ phận
thân thể đang bị rụng lìa.
107
Những tình cảm lớn của Hoàng Cầm lúc viết Bên kia sông
Đuống dã được thành hình ở đoạn thơ mở đầu trên. Ấy là tình
thiết tha yêu mến quê hương, là niềm tự hào với một miền đất
trù phú và thơ mộng. Ấy là niềm xót xa căm giận trước thực
trạng quê hương đang bị giày xéo. Sự đan xen, hòa lẫn giữa các
tình cảm này đã tạo nên sức lay động riêng của nhiều hình ảnh
thơ trong Bên kia sông Đuống mà đoạn thơ mở đầu là một phần
tiêu biểu.
(Lê Quang Hưng)
3. Trả lời câu hỏi:
a) Yêu cầu của bài làm văn bình giảng văn học là gì?
b) Các nhà văn, nhà thơ thường bình giảng thơ theo những
phương pháp nào?
c) Nói về cách tìm ý và cách làm bài bình giảng thơ
4. Bình giảng các bài thơ, đoạn thơ sau:
a) Bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh.
b) Khổ cuối trong bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
BÌNH GIẢNG “TRÀNG GIANG” CỦA HUY CẬN
Tràng Giang không chỉ là một bài thơ hay của Huy Cận mà còn
là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới.
Đôi khi người ta thường hiểu Tràng Giang là bài thơ miêu tả
phong cảnh quê hương đất nước, thể hiện tình yêu quê hương
đất nước, nhưng đúng hơn đây là bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ
vơ của con người ngay giữa quê hương mình.
Tràng giang in trong tập Lửa thiêng của Huy Cận, xuất bản năm
1940. Đúng như nhà thơ Huy Cận thường nói, bài thơ này được
sông Hồng quãng Chèm, Vẽ và những con sông khác gợi tứ,
nhưng nó là bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm
được lối ra, nên như kéo dài triền miên.
108
Trước hết ta chú ý đầu đề bài thơ là Tràng giang chứ không phải
“Trường giang”, để ta không lầm với sông Trường giang
(Trung Quốc), hay con sông dài dài nói chung. Trong tiếng Việt
“Tràng giang” thường nằm trong thành ngữ “tràng giang đại
hải”, chỉ một hiện tượng mênh mông bất tận.
Mở đầu bài thơ đúng là một cảnh sông nước mênh mông bất tận:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả:
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Ngay câu đầu bài thơ không chỉ nói sông, mà nói buồn, nói về
một nỗi buồn bất tận, bằng một hình ảnh ẩn dụ: sóng gợn tràng
giang trùng trùng điệp điệp, như nỗi buồn trùng trùng điệp điệp.
Con thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời lênh
đênh, cô đơn, vô định. Ở đây con thuyền buông mái chèo xuôi
dòng (xuôi mái) theo dòng nước, nhưng thuyền và nước chỉ
song song với nhau chứ không gắn bó gì với nhau. Thuyền di
với dòng để rồi chia li với dòng. Câu thứ ba đã nói tới sự chia li:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả. Nước buồn như không biết
trôi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện tập trung cho kiếp
người nhỏ nhoi, lạc lõng, vô định: Củi một cành khô lạc mấy
dòng.
Tác giả lưu ý, không phải là cây gỗ, mà chỉ là củi một cành khô,
một mảnh rơi gẫy, khô xác của thân cây..
109
Cả khổ thơ đầu đã vẽ lên một không gian sông nước bao la, vô
định, rời rạc, hờ hững. Những đường nét: nước song song, buồn
điệp điệp, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng không hứa hẹn gì về hội
tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia tan, xa vời. Trên con sông đó một con
thuyền, một nhánh củi lênh đênh càng tỏ ra nhỏ nhoi, bất lực. Ở
đây không chỉ thuyền buồn, cành củi buồn, mà cả sóng gợn,
sông nước đều buồn..
Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ của khổ đầu:
Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng bến cô liêu.
Một cái cồn nhỏ, thơ lơ, vắng vẻ, lại thêm ngọn gió đìu hiu,
càng thêm vắng vẻ buồn bã hơn, như bị cuộc sống bỏ quên, Huy
Cận nói, ông đã học được chữ đìu hiu trong câu thơ Chinh phụ
ngâm: Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò cũng nói về cảnh vắng
vẻ, không người. Âm thanh của cuộc sống náo động của các
phiên chợ, của làng quê nghe rất xa vắng, càng tăng thêm cảm
giác bị bỏ quên ở đây. Hai dòng cuối càng tô đậm thêm cảm
giác lạc lõng: nắng xuống, trời lên không chỉ gợi ra khung cảnh
nắng chiều, mà bản thân hai hướng lên xuống như không ăn
nhập với nhau, và sông dài, trời rộng càng tăng thêm cái vắng vẻ
của bến sông. Cô liêu là vắng vẻ. Trong hai dòng này nhà thơ đã
đem đặt bên nhau những yếu tố vốn không có gì là buồn để tạo
nên một cảnh buồn. Giữa các yếu tố đều có đặt dấu phẩy.
Khổ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết
liên hệ giữa các sự vật:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
110
Vẫn các sự vật đặt bên nhau: bèo hàng nối hàng, bờ xanh tiếp
bãi vàng, hai bờ rộng mênh mông không cầu, không đò ngang,
tạo thành một thế giới không liên hệ. Từ sóng, thuyền, củi, dòng
trôi, dến cồn nhỏ, làng xa, chợ chiều, rồi nắng xuống, trời lên,
sông dài, trời rộng, bến vắng… mọi vật thì vẫn có, nhưng không
vật nào có ý tìm nhau, đến với nhau, cần đến nhau:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vờn con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Lớp lớp mây cao đùn ra thành từng núi mây bạc. Chữ đùn mượn
từ thơ cổ của Đỗ Phủ, nói rằng mây trồi ra, lừng lững như núi
trên trời. Cánh chim nghiêng nghiêng bay về tổ ấm được cảm
nhận như chịu sức nặng của bóng chiều đè xuống. Bóng chiều
mông lung bỗng trở thành có hình có khối như có thể cảm nhận
được bằng đôi cánh nhỏ. Và cánh chim bay đi đâu cho thoát
khỏi cái bóng chiều đang đè nặng xuống mình?
Lòng quê là lòng nhớ quê hương, lấy từ hai chữ hương tâm, chứ
không phải là tấm lòng chất phác, quê mùa. Dợn là gợn lên, như
ta nói sóng dợn, chỉ một chất lỏng xao động chuyển động dâng
lên, uốn xuống. Dợn dợnn là dợn liên tục, nhiều lần, không phải
là dờn dợn, chỉ mức độ xao động thấp. Ý này hô ứng với mấy
chữ sóng gợn, điệp điệp ở dòng đầu bài thơ. Chính vì vậy mà
nhà thơ phiền lòng khi thấy người đọc chệch thành dờn dợn hay
rờn rợn, làm mất nghĩa câu thơ.
Cả câu này có nghĩa là lòng nhớ quê hương dâng mãi lên khi
phóng tầm mắt nhìn con nước. Chữ vời cũng hay, ta cảm thấy
như gặp ý câu Kiều:
Bốn phương mây trắng một màu
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà?
111
Lòng nhớ quê hương được gợi lên từ mây trắng, từ cánh chim
chiều, nhưng mạnh hơn là từ con nước. Và nhà thơ kết thúc bài
thơ bằng câu: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Viết câu thơ
này chứng tỏ Huy Cận đã biết có câu thơ Thôi Hiệu trong bài
Hoàng Hạc lâu do Tản Đà dịch: Quê hương khuất bóng hoàng
hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Nhà thơ dựa ý thơ
Thôi Hiệu để nói ý mình.
Nhiều người, kể cả nhà thơ, khi đọc đến câu này đều nói rằng
Huy Cận buồn hơn Thôi Hiệu, bởi Thôi Hiệu trông khói sóng
mới nhớ nhà, còn Huy Cận thì ngược lại, không khói hoàng hôn
cũng nhớ nhà. Thực ra ai buồn hơn ai thì làm sao mà xác định
được. Điều quan trọng là Huy Cận có một ý thơ khác. Xưa Thôi
Hiệu buồn vì cõi tiên mờ mịt, quê nhà cách xa, khói sóng trên
sông gợi lên cảnh mờ mịt mà sầu. Nay Huy Cận buồn trước
không gian hoang vắng, sóng gợn tràng giang khiến ông nhớ tới
quê hương như một nguồn ấm áp. Xưa Thôi Hiệu tìm giấc mơ
tiên chỉ thấy hư vô, lòng khát khao một cõi quê hương thực tại.
Nay Huy Cận một mình đối diện với khung cảnh vô tình, dợn
lên nỗi khát khao quê nhà ấm áp. Một đằng là ý thức về thực tại,
một đằng là ý thức về tình người.
Tràng giang là một bài thơ buồn, dòng nào cũng buồn. Nhưng
Tràng giang là một bài thơ vẽ lên một phong cảnh đẹp, giàu màu
sắc (núi bạc, bờ xanh, bãi vàng), nhiều đường nét hùng vĩ, mở ra
vô tận (buồn điệp điệp, sâu chót vót, sông dài, trời rộng …),
nhiều tương phản, nhiều động từ chỉ sức sống rộn ràng: sóng
gợn, mây đùn, thuyền về, nước lại, nắng xuống, trời lên … Cái
buồn của bài thơ rõ ràng không phải do cảnh vật tàn phai, không
gian chật hẹp tù túng, mọi vật chết chóc, ngưng đọng. Cái buồn
như toát ra từ cấu tạo của thế giới, từ cái đẹp thiếu tình người, từ
một sự mất mát các mối liên hệ có tính phổ quát gây nên. Một
cái buồn đậm màu triết lí. Nỗi buồn này cũng phản ánh sự đổi
thay của đời sống xã hội: xã hội cộng đồng truyền thống với vô
vàn mối dây liên hệ đã đứt tung để thay vào một xã hội đô thị
với những cái tôi rời rạc, bơ vơ.
(Trần Đình Sử)
112
BÌNH LUẬN VĂN HỌC (4 tiết)
I – KHÁI NIỆM VỀ BÀI BÌNH LUẬN VĂN HỌC
1. Khái niệm
Kiểu bài bình luận văn học là bài văn nghị luận tổng hợp viết ra
để phát biểu ý kiến nhận xét, nhận định, đánh giá về đặc điểm, ý
nghĩa của một hiện tượng, văn học như tác phẩm, tác giả, hoặc
phong cách, trào lưu sáng tác, thể loại, hay một vấn đề lí luận
văn học.
So với kiểu bài phân tích và bình giảng, bài bình luận văn học
có những đặc điểm riêng. Bài phân tích và bình giảng chủ yếu là
những hình thức rèn luyện năng lực hiểu văn, cảm thụ văn,
luyện tập thao tác làm văn trong nhà trường, còn bài bình luận
văn học mới thực sự là một thể loại nghị luận văn học đòi hỏi sự
nhận xét, đánh giá chủ động của học sinh.
113
Là bài văn nghị luận tổng hợp, bài bình luận văn học vận dụng
các kĩ năng của bài phân tích, bình giảng văn học nhằm hướng
tới rèn luyện năng lực thẩm định, nhận xét, đánh giá các hiện
tượng văn học, vấn đề văn học. Mặt khác, muốn thẩm định,
nhận xét, đánh giá đúng một hiện tượng văn học (tác phẩm, tác
giả, vấn đề văn học …) thì trước hết phải có năng lực hiểu đúng,
cảm thụ đúng hiện tượng văn học đó. Vì vậy phải học tốt việc
phân tích, bình giảng rồi mới học bình luận.
Do vậy, về một mặt nào đó, bình luận văn học là sự mở rộng,
phát huy kết quả phân tích. Ngoài ra người viết bình luận còn
phải thể hiện lập trường xã hội, nhận thức lí luận tiêu chuẩn
đánh giá của mình như là những căn cứ khách quan thì sự bình
luận mới có sức thuyết phục. Tuy vậy, “tiêu chuẩn đánh giá”
thường đổi thay trong lịch sử, cho nên muốn có nhận định mới,
muốn đánh giá lại, người bình luận phải xác lập căn cứ, tiêu
chuẩn cho mình, phải thảo luận với các căn cứ và tiêu chuẩn cũ.
Đó cũng là một nội dung đặc trưng của kiểu bài này.
Hiểu như vậy, khi đứng trước đề bài khác nhau về một hiện
tượng văn học, ta có thể nhận ra những phạm vi nội dung khác
nhau. Chẳng hạn:
Đề bài: Phân tích tác phẩm Vi hành. Yêu cầu khám phá các giá
trị nội dung và hình thức trên từng mặt qua các biểu hiện cụ thể:
đề tài, chủ đề, sự mỉa mai, cái hài.
Đề bài: Bình luận tác phẩm Vi hành. Yêu cầu nêu được tính
chiến đấu của tác phẩm, vị trí của nó trong sự nghiệp văn học
của Hồ Chí Minh, trong dòng văn học trào phúng Việt Nam,
trong văn học cách mạng.
Đây chỉ là sự phân biệt tương đối, có tính chất nhà trường nhằm
rèn luyện các kĩ năng văn học khác nhau. Trong thực tế, bài viết
trong sách báo không phải lúc nào cũng có sự tách bạch như
vậy.
2. Yêu cầu đối với bài bình luận văn học
a) Bài bình luận văn học, dù trên thực tế khác nhau như thế nào,
đều phải làm hai việc sau đây:
114
- Nhận định về nội dung, đặc điểm của hiện tượng văn học được
xét. Nếu là tác phẩm văn học thì nó viết về cái gì, viết như thế
nào, biểu hiện cái gì? Nếu là phong cách nghệ thuật thì phong
cách ấy có những đặc điểm nào? Nếu là một vấn đề văn học thì
nội dung của vấn đề ấy gồm những khía cạnh nào?
- Đánh giá ý nghĩa của hiện tượng hoặc vấn đề văn học ấy. Hiện
tượng ấy đáp ứng đòi hỏi gì của xã hội và thời đại, tính chân
thực và thẩm mĩ của nó đạt được đến đâu, nó góp phần và làm
phong phú cho tâm hồn con người những gì, nó đóng góp gì cho
sự phát triển văn học, xét từ các mặt ngôn ngữ thể loại, phong
cách, kiểu sáng tác …? Nếu là nhận định vấn đề văn học thì
nhận định ấy đúng sai thế nào, đúng tới mức nào, sâu sắc thế
nào?
b) Một bài bình luận văn học hay bao giờ cũng nêu được vấn đề,
có kiến giải riêng, có phát hiện về đặc điểm và ý nghĩa của hiện
tượng hoặc vấn đề văn học được xét. Nó chứng tỏ người viết có
kiến thức vững vàng, có phương pháp tiếp cận đáng tin cậy, có
dẫn chứng xác thực, có thái độ trung thực, có lời văn chính xác,
gợi cảm.
Nhận định chung chung thì bài viết không gây được sự chú ý.
Thiếu lí luận, thiếu tư tưởng thì bài viết không sâu. Nhận định
quá đáng hay bất cập, trích dẫn tùy tiện, thiếu phân tích khách
quan, khen chê thiếu công bằng, quy chụp, áp đặt đều làm suy
giảm sức thuyết phục của bài bình luận văn học.
3. Các kiểu bài bình luận văn học
Tùy theo phạm vi của đề tài bình luận mà ta có các kiểu bài bình
luận văn học như sau:
a) Bình luận tác phẩm văn học (một tác phẩm hay khía cạnh tác
phẩm).
Ví dụ 1:
Đề bài: Bình luận bài thơ Từ ấy của Tố Hữu.
115
Ví dụ 2:
Đề bài: Bình luận nghệ thuật trào phúng của tác phẩm Số đỏ của
Vũ Trọng Phụng.
Ví dụ 3:
Đề bài: Bình luận tính chất tuyên ngôn của tác phẩm Đôi mắt
của Nam Cao.
b) Bình luận sáng tác của một tác giả (con đường sáng tác,
phong cách, bút pháp, các đề tài, hình tượng nghệ thuật xuyên
suốt)
Ví dụ 4:
Đề bài: Quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh.
Ví dụ 5:
Đề bài: Nhận xét những chuyển biến thơ của Tố Hữu từ nội
dung đến hình thức qua các chặng đường của nhà thơ.
Ví dụ 6:
Đề bài: Bình luận về sự thống nhất và khác biệt trong phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân từ Chữ người tử tù đến Người
lái đò sông Đà và Tờ hoa.
c) Bình luận vấn đề lí luận văn học
Ví dụ 7: Có ý kiến cho rằng: “Văn học là nhân học, ái học, tâm
hồn học”. Hãy bình luận ý kiến đó.
Ví dụ 8:
Đề bài: Người ta thường nói: “Người đọc là kẻ đồng sáng tạo
với tác giả”. Anh chị nghĩ như thế nào về ý kiến đó?
Các dạng đề trên gọi chung là bình luận vấn đề văn học.
116
II – CÁCH LÀM BÀI BÌNH LUẬN TÁC PHẨM VĂN HỌC
1. Phạm vi, yêu cầu, điều kiện
Các vấn đề của bình luận tác phẩm văn học bao gồm bình luận
tác phẩm hoặc nhóm tác phẩm, hoặc các khía cạnh của tác
phẩm, từ nội dung đến hình thức. Yêu cầu của bài bình luận tác
phẩm là đề xuất được những nhận định sát đúng về những đặc
điểm của tác phẩm, đề xuất được những đánh giá thỏa đáng,
khách quan về chúng. Càng đề xuất được nhận định vừa đúng,
có sức thuyết phục, vừa mới mẻ, thì bài bình luận càng có giá
trị.
Muốn làm tốt điều trên đây, người bình luận ngoài việc đọc kĩ
tác phẩm được bình luận, cần có hiểu biết về các tác phẩm khác
của cùng tác giả (nếu có), về xu hướng chung của văn học khi
tác phẩm ra đời, xu hướng đời sống tinh thần của thời điểm bình
luận, biết được những ý kiến đã có về tác phẩm được bình luận.
2. Cách làm bài bình luận tác phẩm văn học.
Trong trương trung học, đây là hình thức tập bình luận tác
phẩm văn học đã học trong phạm vi chương trình.
a) Xác định nội dung bình luận
Bình luận một tác phẩm văn học, nếu ta nói đó là một tác phẩm
“hay” thì chung quá, cho nên phải tập trung vào một số mặt
“hay” tiêu biểu về nội dung, hình thức, để tránh chung chung,
tràn lan, mù mờ.
b) Đề xuất nhận định về đặc điểm tác phẩm
- Đây là phần chủ yếu của bài bình luận văn học. Ví dụ bình
luận bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu thì phải chỉ ra bài thơ viết về
cái gì, hình tượng trong bài thơ là hình tựơng của ai, có ý nghĩa
như thế nào, tác phẩm thể hiện tư tưởng gì, hình thức của nó đặc
sắc như thế nào?
117
- Đối với tác phẩm đã được bình luận, mà ý kiến nhận định về
nó đã được thừa nhận, nói chung, người bình luận có thể xuất
phát từ các ý kiến đã có mà tán thành, phản đối, hoặc bổ sung,
uốn nắn hoặc cụ thể hóa các nhận định ấy. Ví dụ, một số nhà
văn đã xem Đôi mắt là tác phẩm có tính chất tuyên ngôn của họ
thời ấy. Nội dung tuyên ngôn ấy là gì? Phân tích cụ thể, có thể
đưa ra nhận định về nội dung tuyên ngôn ấy (xem bài của
Nguyễn Đăng Mạnh). Bình luận văn học cần có và nên xuất phát
từ các ý kiến đa có về tác phẩm văn học, đối thoại với chúng,
nhằm làm cho việc nhận thức về tác phẩm ấy sâu hơn, đúng hơn.
Bình luận văn học cũng có thể hoàn toàn tán thành với ý kiến đã
có, nhưng vần có thể nghiệm, lập luận riêng của mình.
c) Đề xuất nhận định, đánh giá
- Các bình diện chủ yếu để đánh giá tác phẩm
+ Sự thống nhất hình thức và nội dung (mức độ hoàn thiện nghệ
thuật).
+ Đóng góp mới cho truyền thống nghệ thuật về các mặt (phong
cách, ngôn ngữ, thể loại, các thủ pháp nghệ thuật, cách sử dụng
chất liệu …)
+ Đóng góp cho đời sống về nhận thức, tư tưởng, tình cảm (phát
hiện vấn đề mới, nêu tư tưởng mới, thể hiện tình cảm thời đại
…).
Yêu cầu một cách lí tưởng thì ba bình diện giá trị này nên thống
nhất với nhau, nhưng thực tế thì không hoàn toàn như vậy. Có
tác phẩm thống nhất về hình thức và nội dung nhưng không mấy
giá trị, có tác phẩm đổi mới ngôn ngữ, thể loại nhưng nội dung
tư tưởng không thật đặc sắc, có tác phẩm nêu được tư tưởgn,
tình cảm mới, nhưng nghệ thuật có chỗ chưa theo kịp. Người
bình luận cần tinh tế nhận ra, đánh giá đúng mức, không vơ đũa
cả nắm.
118
- Cách đánh giá
+ Đối với bình diện thứ nhất, cần xem xét mối quan hệ nội tại
của tác phẩm, kết cấu, mạch lạc, nghĩa lí của nó trong chức năng
biểu hiện nội dung (xem Bình giảng văn học).
+ Đối với bình diện thứ hai, cần tiến hành so sánh, đối chiếu.
Trước hết cần thấy rằng cái mới trong văn học vô cùng đa dạng
và xuất hiện ở nhiều cấp độ: mới ở chữ, ở câu, ở văn, tình điệu,
mới ở hình ảnh, ở cảm xúc, tư tưởng … Không có tác phẩm mới
một trăm phần trăm. Thứ hai, cái mới cũng có nhiều mức độ:
mới so với tác phẩm trước của cùng một tác giả, mới so với tác
giả khác, mới so với một truyền thống, hoặc so với một nền văn
học, có khi không mới so với nước ngoài, nhưng mới với nước
mình cũng đáng trân trọng. Thứ ba, để nhận định cái mới, cần
xác lập những so sánh hợp lí: so sánh cùng thể loại, cùng chủ đề,
đề tài, cùng mô típ, tình huống. Ví dụ, nhận định cái mới trong
thơ Xuân Diệu, Hoài Thanh tìm được câu trong thơ Xuân Diệu:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Và viết: “Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều
đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự
cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới”. Phải hơn
một nghìn năm mới có sự đổi thay hình tượng con cò trong thơ
và gắn với một cảm quan mới về thế giới. Nói chung, sự tiến bộ
trong văn học không phải diễn ra theo kiểu tác phẩm đời sau
hơn, tinh hơn, vĩ đại hơn tác phẩm đời trước, mà thường là tầm
cảm, sức nghĩ mở rộng hơn, sắc thái đổi khác hơn. Vì vậy, bình
luận về cái mới nên chỉ ra sự đổi khác có tác dụng nhìn nhận ra
những nét trước đó chưa có, chưa cảm thấy, chưa nói ra. Nhưng
cũng cần tránh lối so sánh giản đơn, cho rằng, hễ có nói được
điều mới thì tác phẩm sau sẽ hay hơn tác phẩm của người đi
trước, rằng thơ Xuân Diệu hay hơn thơ Vương Bột …
119
+ Đối với bình diện thứ ba, cần chỉ ra giá trị phản ánh hiện thực.
Phản ánh hiện thực không giản đơn là ghi chép sự kiện mà là
phản ánh tinh thần thời đại, xu hướng tư tưởng, tình cảm trong
thực tế. Ví dụ, tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao phản ánh hiện
thực không phải chỉ là thể hiện mâu thuẫn giai cấp nông dân và
địa chủ. Điều này chưa phải điểm phản ánh sâu sắc của Nam
Cao. Chỗ sâu sắc là Nam Cao phản ánh cái tình cảm không cam
tâm làm kiếp quỷ dữ, một tình cảm “tức nước vỡ bờ” như chị
Dậu trong Tắt đèn. Cùng với tinh thần thời đại, là khát vọng
nhân văn muốn trở lại làm người lương thiện. Chữ người tử từ
của Nguyễn Tuân cũng phản ánh cùng một tinh thần thời đại
như thế, nhưng bằng kiểu lãng mạn. Đó là ý chí hiên ngang, bất
khuất, khát vọng “thay đổi chốn ở”, “thoát khỏi cái nghề hiện
tại”, không hợp tác với thế lực tàn bạo. Giá trị nhân văn ở đây là
khẳng định nhân cách, cái tài, cái đẹp.
Bình luận giá trị phản ánh tư tưởng là so sánh với tinh thần thời
đại, chiều hướng tư tưởng, tình cảm khách quan của thời đại
được miêu tả, cũng có thể đối chiếu với nhu cầu tư tưởng, tình
cảm nhân văn của thời điểm bình luận mà xem xét. Chẳng hạn,
bình luận Chữ người tử tù, có người viết: “Lâu nay, nói về
những nhân cách cao thượng, người ta thường nhấn mạnh đến
tinh thần gang thép, đến cái “vô úy”, cái không biết sợ trước
những lực lượng thù địch. Thiên hướng ấy thực ra cũng dễ hiểu
đối với một dân tộc luôn luôn phải đương đầu với bọn xâm lược,
với bạo lực hung hãn nhấn … Nhưng thử nghĩ mà xem, con
người không biết sợ cái gì trên đời này cả, liệu có phải là con
người không? Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân dạy cho người
ta hiểu rằng, muốn nên người phải biết kính sợ ba điều này: cái
tài, cái đẹp và cái thiên tính tốt của con người (thiên lương)”.
120
Bình luận về giá trị tác phẩm cũng cần tranh luận, bàn bạc với
cách đánh giá đã có để đánh giá được thỏa đáng hơn. Chẳng hạn
bình luận văn học hôm nay, không tránh khỏi có khi tranh luận
với cách đánh giá xã hội học tầm thường, hễ gặp tác phẩm hiện
thực thì quy về phản ánh mâu thuẫn giai cấp, còn gặp tác phẩm
lãng mạn thì quy về thoát li đời sống, gặp tác phẩm cách mạng
thì quy về tính chiến đấu, về tình thế đấu tranh địch ta … làm
cho sự đánh giá bị phiến diện.
Đánh giá tác phẩm, nếu cần, có thể chỉ ra nguyên nhân và tác
động xã hội của giá trị văn học đó, ý nghĩa nhận thức và giáo
dục, cũng như khả năng thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ trước mắt và
lâu dài.
BÀI TẬP
1. Đọc các mục Đề bài, Tìm hiểu đề và Dàn bài, cho nhận xét về
sự triển khai có phù hợp với đề không?
2. Đọc bài làm tham khảo và cho biết:
Các nhận định về tình yêu trong truyện có sức thuyết phục
không? Có đúng là lãng mạn và lí tưởng hóa không? Sự chứng
minh, phân tích có đầy đủ không?
Đề bài
Bình luận mối tình đẹp trong tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng
của Nguyễn Minh Châu.
121
Tìm hiểu đề
Đối với một đề bài bình luận, trước hết người làm bài phải suy
nghĩ để đề xuất nhận định của mình về tác phẩm. Ta biết truyện
ngắn Mảnh trăng cuối rừng kể một chuyện tình yêu giữa Lãm và
Nguyệt. Vậy đó là một tình yêu như thế nào? Nguyệt trong tác
phẩm là một cô gái xinh đẹp, vậy tác giả cảm nhận vẻ đẹp ấy
như thế nào? Kể một câu chuyện tình yêu trong chiến tranh ác
liệt, tác giả hướng tới khẳng định tư tưởng gì? Nêu và trả lời
được các câu hỏi đó là đã bứơc đầu bình luận về tác phẩm, nhận
định về tác phẩm.
Vấn đề thứ hai của bài bình luận là đánh giá tác phẩm. Miêu tả
một chuyện tình như vậy có ý nghĩa gì? Nó có chân thực không?
Tác phẩm thể hiện những phẩm chất gì của người chiến sĩ chống
Mĩ, cứu nước? Vì sao tác phẩm được yêu mến?
Dàn bài
a) Mở bài
Giới thiệu xuất xứ của tác phẩm và nêu ra đánh giá khái quát về
tác phẩm (chú ý các ý kiến của người đi trước đã bàn luận về tác
phẩm này).
b) Thân bài
Chú trọng nêu nhận định về tính chất đặc thù, độc đáo của tác
phẩm.
- Một truyện tình yêu lãng mạn:
+ Một không hông khí yêu đương trong bối cảnh chiến tranh.
+ Một cuộc chơi trốn tìm của hai người yêu.
+ Một tình yêu của hai người chưa từng nhận ra nhau.
- Vẻ đẹp của Nguyệt, một vẻ đẹp trong sáng, tinh khiết, lí tưởng
và kỉ niệm về mối tình chiến đấu.
122
- Một tình yêu để ước mơ và chiêm ngưỡng, suy nghĩ.
+ Một khoảng cách xa để suy nghĩ và chiêm ngưỡng.
+ Một ước mơ làm ấm lòng chiến sĩ.
Phần đánh giá: Đánh giá có thể trình bày gắn liền với nhận định
đặc điểm hoặc tách riêng. Ở đây có thể đánh giá truyện ngắn này
là một truyện tình yêu lãng mạn, tình yêu gắn với tình đồng đội,
với tinh thần chiến đấu, thể hiện diện mạo tinh thần cao đẹp của
chiến sĩ và thanh niên xung phong trong chiến tranh cứu nước.
c) Kết bài
Tác phẩm là bài ca hi vọng, bài ca lí tưởng, bài ca về tinh thần
cao đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến cứu nước.
Về nghệ thuật cũng có những tìm tòi mới.
BÀI LÀM THAM KHẢO
Mảnh trăng cuối rừng là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh
Châu thuộc thời kì đầu, khi nhà văn vừa bước vào con đường
sáng tác văn học chưa lâu, sau tập truyện vừa Cửa sông (1968).
Truyện ngắn này lúc đăng báo có tên là Mảnh trăng, sau đổi lại
thành Mảnh trăng cuối rừng, in trong tập Những vùng trời khác
nhau (1970). Tuyển tập Nguyễn Minh Châu (1994) lại lấy tên là
Mảnh trăng.
Đây là một tác phẩm đẹp, sản phẩm của một thời tâm hồn nhà
văn đầy ắp ước mơ và niềm tin lãng mạn vào cuộc đời. Tác
phẩm phản ánh chân thật cuộc sống chiến đấu và vẻ đẹp tâm hồn
của những người chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc, đồng thời cũng
thể hiện một cách nhìn đời đầy thơ mộng. Đương thời, nhà văn
Nguyễn Kiên đã nhận xét: Một tình yêu kì diệu trong truyện của
anh bị mất đi vẻ tự nhiên hằng ngày. Làm sao cô gái lại có thể
yêu người chiến sĩ lái xe cô chưa hề gặp mặt, kéo dài qua thời
gian và bom đạn, nếu không có những lí do cá biệt, thấu nhân
tình ẩn giấu bên trong? Sau này nhà nghiên cứu văn học Việt
Nam người Nga, tiến sĩ Niculin cũng nhận xét về cái nhìn lãng
mạn của Nguyễn Minh Châu qua chi tiết bom tọa độ của Mĩ chỉ
làm “sướt da” cánh tay cô Nguyệt.
123
Mảnh trăng cuối rừng là bài ca lãng mạn, thơ mộng về tình yêu
trong chiến tranh, thể hiện một cách cảm nhận đặc biệt của thời
đại.
“Mảnh trăng cuối rừng” là một truyện tình yêu lãng mạn.
Trong văn học những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước,
không chỉ có chuyện chiến đấu, mà còn có chuyện tình yêu.
Mảnh trăng cuối rừng là một truyện như thế. Mở đầu truyện, nhà
văn dựng nên một không khí yêu đương: “Ngoài rừng sâu tịch
mịch vọng lại tiếng suối chảy và tiếng kêu khắc khỏai, tha thiết
của đôi chim trống mái”. Khi câu chuyện kết thúc, nhà văn lại
nhắc: “Đôi chim gọi nhau suốt đêm đã im tiếng, có lẽ chúng đã
tìm thấy nhau”. Câu chuyện của Lãm đặt trọn trong cái khung
tình yêu thơ mộng ấy, nhưng truyện kết thúc mà hai người chưa
tìm thấy nhau!
Nhưng đây là một tình yêu lãng mạn bởi hai người chưa hề gặp
mặt nhau và chưa hứa hẹn yêu nhau, được thể hiện trong một
cốt truyện tìm nhau mà không gặp, gặp nhau mà không nhận ra
nhau, như một trò chơi trốn tìm.
Lãm được người chị ruột giới thiệu cho một người con gái xinh
đẹp làm việc ở một đơn vị cầu đường trọng điểm. Theo chị cho
biết, cô gái đã chờ anh mấy năm trời, từ chối những người ngỏ
lời khác. Lãm tranh thủ chuyến công tác để thăm chị và nhìn
mặt người yêu. Trên đường, họ đã gặp nhau nhưng không nhận
ra nhau. Khi anh trở lại tìm thị cô gái vắng. Cho đến khi kể
chuyện này họ vẫn chưa gặp nhau! Một tình yêu lãng mạn, chỉ
dựa trên sự vun đắp, mai mối của tập thể và niềm tin, sự ngưỡng
mộ trong tâm hồn.
124
Do chỉ biết nhau, mà chưa gặp nhau, thậm chí chưa có kỉ niệm
về nhau, tình yêu trong truyện là một tình yêu đầy mơ mộng, lí
tưởng và khắc khỏai.
Khi sắp lên đường làm nhiệm vụ và kết hợp thăm người yêu,
Lãm, người con trai “đứng bên đường thở khói thuốc vòng tròn
và ngắm vầng trăng khuyết mỏng manh bằng con mắt mơ
mộng”. Con mắt mơ mộng ấy sẽ theo Lãm và theo người đọc
suốt cả câu chuyện. Cả Lãm và người đọc dễ dàng liên hệ cô
Nguyệt với vầng trăng non đầu tháng mỏng manh như một
mảnh bạc, mà tình yêu xa xôi như một lời nhắn. . Rồi vầng trăng
đi theo hai người suốt cả chặng đường, khi soi tỏ, tôn lên vẻ đẹp
của cô gái, khi lại chập chờn lay động, có lúc thấy rơi tõm
xuống khoảng tối mịt mù của cánh rừng giá “như một trò chơi ú
tim”.
Suốt câu chuyện Lãm khắc khoải suy nghĩ về tình yêu như một
mối tình đẹp khó tin, đậm màu huyền thoại. Người con gái yêu
anh chỉ qua lời giới thiệu của người chị, nhất là bị thu hút bởi
chi tiết anh đã trốn nhà đi tuyển bộ đội. Một tình yêu dựa trên
lòng cảm phục đối với tình yêu Tổ quốc, trên niềm tin yêu của
đồng đội. “Và cũng thật lạ! Qua bấy nhiêu năm sống giữa bom
đạn tàn phá mà một người con gái vẫn giữ bên lòng hình ảnh
một người con trai chưa hề gặp mặt và chưa hứa hẹn điều gì ư?
Trong lòng cô gái, cái sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng ánh qua thời
gian và bom đạn vẫn không hề phai, không hề đứt ư?”. Cho đến
cuối truyện, khi linh cảm mách bảo cô gái đi nhờ xe chính là cô
Nguyệt của anh, khi nhìn thấy cây cầu bằng đá xanh xây mất hai
năm mới xong, “xanh biết và đẹp như giấc mộng” (chú ý: lại
“giấc mộng”) đã bị bom Mĩ “cắt làm đôi như nhát rìu phang rất
ngọt”, Lãm lại tự hỏi: “Trong tâm hồn người con gái nhỏ bé,
tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh
óng ánh ấy, bao nhiều bom đạn giội xuống cũng không hề đứt,
không thể nào tàn phá nổi ư?”. Câu hỏi như một ngạc nhiên, một
phát hiện và cũng như một lời suy tôn. Sợi tơ hồng xe duyên
trong huyền thoại được chuyển thành sợi chỉ xanh óng ánh”,
một hình ảnh mới về mối tình giàu sức sống như huyền thoại.
125
Vẻ đẹp của Nguyệt và kỉ niệm của mối tình chiến đấu
a) Nguyệt là nhân vật trung tâm của câu chuyện, là đối tượng mà
nhân vật Lãm đi tìm. Với đôi mắt mơ mộng của Lãm, Nguyệt đã
hiện lên tuyệt đẹp như hiện thân của sự thanh bạch, tinh khiết,
trẻ trung và ánh sáng.
Sau lời đối đáp tinh nghịch cứng cỏi trong bóng tối, lần đầu tiên
dưới ánh đèn gầm, Nguyệt hiện ra trong vẻ đẹp tinh khiết: “Một
đôi gót chân bóng hồng, sạch sẽ, đôi dép cao su cũng sạch sẽ,
gấu quần lụa đen chấm mắt cá”. Qua ánh đèn xe xích loang
loáng “tôi kịp nhận thấy vẻ xinh đẹp của cô gái, một vẻ đẹp giản
dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, lời nói và tấm
thân mảnh dẻ, khác hẳn với nhiều cô gái công trường… Cô ta
mặc áo xanh chít hông vừa khít, mái tóc dày tết thành hai dải.
Chiếc làn và chiếc nón mới trắng lóa khoác ở cánh tay một cách
nhẹ nhàng”. Rõ ràng Nguyệt biết làm đẹp một cách kín đáo
Ánh sáng càng tăng lên, vẻ đẹp của Nguyệt càng ngời ngời.
Khi Nguyệt đã ngồi vào xe, Lãm càng mơ mộng hơn: “Xe tôi
chạy trên lớp sương bồng bềnh. Mảnh trăng khuyết đứng yên ở
cuối trời, sáng trong như một mảnh bạc. Khung cửa phía cô gái
ngồi lồng đầy bóng trăng… Liếc về phía Nguyệt, thấy trong
từng sợi tóc của Nguyệt đều sáng lên, mái tóc thơm ngát, dày và
trẻ trung làm sao!”. Khi Nguyệt quay lại, thì mắt tôi đã choáng
ngợp như vừa trông vào ảo ảnh. Trăng sáng soi thẳng vào khuôn
mặt Nguyệt làm cho khuôn mặt tươi mát ngời lên đẹp lạ
thường!”. Có thể nói vẻ đẹp của Nguyệt không chỉ được soi
sáng bằng ánh trăng, mà chủ yếu bằng ánh sáng tình yêu của
Lãm. Bởi vì ánh trăng đầu tháng ở cuối rừng làm sao có thể soi
tỏ khuôn mặt trong xe được? Sau đó khi Nguyệt lội sông ướt
sũng, Lãm càng nhìn thấy cô đẹp “như một con công vừa tắm”.
Lời văn hòa cùng ánh mắt nâng noi. Nguyệt đẹp lộng lẫy, nhưng
chưa phải một vẻ đẹp có giới tính, gợi cảm về mặt giới tính.
126
b) Nguyệt không chỉ đẹp mà còn khéo léo, dũng cảm, quên mình
vì đồng đội. Khi xe Lãm gặp khó khăn, bị đánh bom, Nguyệt hết
lòng giúp đỡ. Khi thì nhanh nhẹn dẫn đường, khi thì lội phăng
sang sông buộc dây tời để đưa xe sang, khi xô Lãm vào nơi
tránh bom, nhường hầm cho Lãm, khi hướng dẫn cho lãm lái xe
trong đêm tối. Khi bị thương, cô nhìn vết thương cười: “Vết
thương chỉ sướt da thôi”. Câu nói vừa coi thường gian khó, vừa
trấn an cho bạn. Đến đây thì Lãm đã yêu Nguyệt “gần như mê
muội lẫn cảm phục”. Đây là tình yêu trong chiến đấu, cùng hoạn
nạn, cùng sinh tử. Đây cũng là kỉ niệm chung sẽ củng cố thêm
tình yêu của họ về sau, một khi đã nhận ra nhau. Một tình yêu
đậm đà chất lí tưởng.
Một tình yêu để suy nghĩ, chiêm ngưỡng, trông đợi
Trong cuộc chiến tranh cứu nước gian khổ, ác liệt, tình yêu khó
mà có vị trí hàng đầu trong đời sống tình cảm. Tình yêu trong
truyện là tình yêu ban đầu, như mảnh trăng thượng huyền, còn
khuyết và mỏng, chưa phải là tình yêu đầy đặn của trăng rằm.
Tình yêu chưa có thời gian để thực hiện. Bao nhiêu năm, Lãm
mới nghỉ phép được một ngày, nhưng anh nghĩ “dù sao đó cũng
chỉ là việc riêng”, nghĩa là không phải việc đáng coi trọng. Khi
gặp Nguyệt trong xe, chỉ cần một câu hỏi là “mọi sự sẽ vỡ ra
ngay” nhưng anh “vẫn không muốn hoặc không dám hỏi”,
“không muốn đi sâu vào câu chuyện riêng giữa chuyến công
tác”. Nghĩa là Lãm chưa dành thì giờ cho tình yêu, chưa muốn
tranh thủ cho tình yêu. Mặc dù Lãm một lần hứa: “Thế nào
chúng ta cũng còn gặp nhau”. Rồi lại hứa: “Ngày mai tôi quay
về, nhất định tôi vào thăm Nguyệt”. Nhưng cho đến khi kể
chuyện này cho đồng đội, hai người vẫn chưa gặp nhau, thậm
chí chưa nhận thư, mặc dù Lãm đã gửi thư, và cũng không thấy
tình cảm khắc khỏai chờ thư! Lãm bận đủ thứ việc để chưa về
gặp Nguyệt: kiểm tra ngụy trang, tháo xăng, nấu cơm. Ta có thể
thấy tác giả đã dềnh dàng, kéo dài thời điểm hai người gặp lại
nhau, để cho tình yêu trong truyện mãi mãi chỉ là tình yêu chiêm
ngưỡng, trông đợi, xa vời như mảnh trăng cuối rừng! Đó chính
là đặc điểm riêng của tình yêu trong truyện, thể hiện quan niệm
tình yêu của tác giả. Đối với Nguyễn Minh Châu, lúc này, tình
yêu chỉ là thứ ánh sáng để ngắm nhìn vẻ đẹp tâm hồn của con
người đã hi sinh chiến đấu cho Tổ quốc. Một tình yêu để nhớ, để
hoài niệm và nâng cao phẩm giá của con người.
127
Mảnh trăng cuối rừng là bài ca lãng mạn vè một mối tình lí
tưởng trong những năm tháng chiến tranh. Hòa nhịp với những
vần thơ chiến sĩ, với những ca khúc cách mạng đương thời,
truyện ngắn này là bài ca hi vọng, bài ca lí tưởng, bài ca ngợi ca
tinh thần cao đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng
chiến đến thắng lợi trọn vẹn.
3. Trả lời câu hỏi:
a) Yêu cầu chủ yếu của bài bình luận tác phẩm văn học là gì?
b) So với yêu cầu phân tích, bình giảng, bài bình luận nhấn
mạnh tới việc đưa ra nhận định như thế nào?
4. Lập dàn bài cho các đề sau:
a) Bình luận ý nghĩa tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao.
b) Bình luận về tình cảm thiên nhiên trong tập thơ Nhật kí trong
tù.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA TÁC PHẨM ĐÔI MẮT CỦA
NAM CAO
Nhà văn Tô Hòai còn gọi Đôi mắt là một thứ tuyên ngôn nghệ
thuật chung của lớp nghệ sĩ các anh hồi ấy.
128
Cứ như cái tên của nó thì tác phẩm muốn nói vấn đề cách nhìn,
vấn đề quan điểm. Điều ấy đã rõ. Nhưng nói cho chặt chẽ hơn,
căn cứ vào nội dung hình tượng, thì nó trước hết đặt vấn đề lập
trường. Đúng thế, mâu thuẫn giữa Độ và Hoàng trước hết là mâu
thuẫn về lập trường. Một đằng coi cuộc kháng chiến là của mình
và tích cực tham gia kháng chiến. Một đằng tự xem như người
ngoài cuộc, từ chối không làm gì hết, dù chỉ là công tác Bình
dân học vụ trong làng. Một đằng vui sướng trước cuộc đổi đời
của nhân dân và nhìn cuộc sống mới, tư thế mới mà cách mạng
đem đến cho nhân dân lao động là tốt đẹp. Một đằng chỉ thấy thế
là lố bịch, là hài hước. Nói tóm lại một câu: Hoàng không thực
sự tán thành cách mạng và kháng chiến. Lập trường ấy quyết
định cách nhìn của anh mà Nam Cao gọi là chỉ thấy có một phía;
“Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài “ba giai
đoạn” nhưng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ
vác đi để ngăn quân thù. Mà ngay trong cái việc anh thanh niên
đọc thuộc lòng bài báo nhưng một con vẹt biết nói kia, anh cũng
chỉ nhìn thấy cái ngố bề ngoài của nó, mà không nhìn thấy cái
nguyên cớ thật đẹp đẽ bên trong. Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời
thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, người ta chỉ càng thêm
chua chát và chán nản”.
Vậy nếu gọi đôi mắt là bản tuyên ngôn nghệ thuật, thì trước hết
đó là bản tuyên ngôn về lập trường cách mạng, lập trường kháng
chiến của lớp văn nghệ sĩ tiểu tư sản quyết tâm từ bỏ những
quyền lợi ích kỉ của riêng mình, từ bỏ những thói quen sinh hoạt
cũ, từ bỏ cả cái nghệ thuật cho là “cao siêu” của mình ngày
trước, sẵn sàng, nói như nhà văn Độ, làm một “anh tuyên truyền
nhãi nhép” nhưng có ích cho nhân dân, cho kháng chiến.
Đôi mắt xét ở phương diện khác, còn đặc vấn đề quan niệm về
cái đẹp, về đối tượng của nghệ thuật mới nữa. Phải tìm cái đẹp ở
đâu? Theo quan điểm nào? Phải thể hiện nó ra sao? Nam Cao có
thể chưa ý thức được đầy đủ lắm, nhưng tác phẩm tự nó đã gợi
ra và bước đầu giải đáp được những câu hỏi đó.
129
Tôi vẫn nghĩ rằng, không phải đến Đôi mắt, Nam Cao mới đặt
vấn đề Đôi mắt. Qua một số truyện anh viết từ trước cách mạng
tháng tám, đã thấy anh luôn luôn băn khoăn day dứt về vấn đề
ấy: phải biết nhìn người dân lao động bằng đôi mắt như thế nào
mới thấy được bản chất tốt đẹp của họ thhường ẩn giấu sau một
vẻ ngòai hết sức tầm thường, thậm chí vụng về thô lỗ nữa. Theo
Nam Cao hồi ấy, đôi mắt đó phải là đôi mắt của tình thương.
Chính nhờ đôi mắt yêu thương ấy mà nhà văn chẳng những đã
nhìn thấy tấm lòng vị tha, xả kỉ của lão Hạc … mà còn phát hiện
được cả chất thơ trong trẻo trong tâm hồn tưởng chừng đã hoàn
toàn đen độc của Chí Phèo nữa.
Nhưng hồi ấy anh tuy đã thấy được một số đức tính của người
dân nghèo, nhưng dưới ngòi bút của anh, họ chỉ là những con
người bé nhỏ, bất lực. Trong Nhật kí ở rừng, Nam Cao đã tự phê
phán như thế. Ở Đôi mắt, anh cũng viết như vậy: “Người nhà
quê dẫu sao thì cũng còn là một cái bí mật đối với chúng ta. Tôi
gần gũi họ rất nhiều. Tôi đã gần như thất vọng vì thấy họ phần
đông dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng
thương (…), Nhưng đến hồi tổng khởi nghĩa thì tôi đã ngã ngửa
người. Té ra người nông dân nứơc mình vẫn có thể làm cách
mạng hăng hái lắm. Tôi đã theo họ đi đánh phủ. Tôi đã gặp họ
trong mặt trận Nam trung Bộ. Vô số anh răng đen, mắt toét, gọi
lựu đạn là “nựu đạn”, hát “Tiếng quân ca” như người buồn ngủ
cầu kinh mà lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm …”.
Như vậy, nhờ thực sự tham gia cách mạng, sát cánh với nhân
dân, Nam Cao đã có được đôi mắt mới để thấy quần chúng
không chỉ là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh, mà còn là
những con người cải tạo hoàn cảnh, tức là những anh hùng.
Những còn người áo vải, răng đen, đi chân đất, gọi lựu đạn là
“nựu đạn”, đã đứng dậy làm cuộc cách mạng tháng tám vĩ đại và
sau đó gánh cả cuộc kháng chiến lên đôi vai vững chãi của
mình. Phải, Đôi mắt chưa tạo ra được nhân vật ấy, nhưng đã
khẳng định được sự xuất hiện tất yếu của nhân vật ấy, những
còn người bình thường mà vĩ đại; sau này, dã trở thành phổ biến
trong nền văn học chúng ta.
(Nguyễn Đăng Mạnh)
130
III – CÁCH LÀM BÀI BÌNH LUẬN CÁC VẤN ĐỀ VĂN
HỌC
1. Phạm vi, yêu cầu, điều kiện
Bình luận các vấn đề văn học có thể bao gồm các đề: bình luận
sáng tác của một tác giả (như quan điểm sáng tác, phong cách,
hình tượng xuyên suốt …), bình luận đặc điểm sáng tác một giai
đoạn (như tính nhân đạo, tính lãng mạn, tính hiện thực …), bình
luận một vấn đề lí luận văn học (chủ trương sáng tác, quan điểm
lí luận) …
Yêu cầu chung là nhằm trúng vấn đề, nhận định sát đúng, đánh
giá thỏa đáng, có dẫn chứng, phân tích cụ thể.
Điều kiện để làm tốt loại đề này là học sinh phải đọc được kĩ
các tác phẩm trong chương trình và các tác phẩm đọc thêm, suy
nghĩ về các đánh giá, nhận định trong sách giáo khoa, trong tài
liệu tham khảo và các tài liệu khác.
2. Cách làm bài bình luận các vấn đề văn học
a) Xác định đúng nội dung bình luận
Đọc kĩ đề đề xác định rõ vấn đề cần bình luận – vấn đề của một
tác giả, một giai đoạn hay vấn đề lí luận văn học nào đó. Lại chú
ý phạm vi tư liệu mà đề bài yêu cầu sử dụng: các tác phẩm của
một tác giả, hay sáng tác của nhiều tác giả, nếu là một nhận định
văn học sử hay một quan điểm lí luận văn học thì phải suy nghĩ
kĩ về nội dung khái niệm trong nhận định đó. Đặc biệt là chú ý
cách diễn đạt bóng bẩy, sâu sắc có thể có để hiểu cho đúng nội
dung cần bình luận.
131
b) Đề xuát nhận định về đặc điểm sáng tác của tác giả, giai
đoạn và vấn đề lí luận văn học
Xuất phát từ yêu cầu của đề bài và từ nội dung vấn đề mà đề
xuất nhận định cho sát. Đây là một yêu cầu rất khó. Tốt nhất là
học sinh đọc kĩ sách giáo khoa để nắm các nhận định khái quát
trong ấy, rồi tìm cách cụ thể hóa thêm theo phân tích của mình.
Ví dụ, nhận định về Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh, sách
giáo khoa viết: Nhật kí trong tù là tập thơ “chứa chan tình cảm
nhân đạo”, “là một tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật”. Về truyện
và kí của Nguyễn Ái Quốc, sách giáo khoa viết: “Truyện và kí
Nguyễn Ái Quốc là tác phẩm mở đầu và góp phần đặt nền móng
cho nền văn xuôi cách mạng”. “Chất trí tuệ và và tính hiện đại là
những nét đặc sắc của truyện ngắn Nguyễn Ái Quốc” … Việc
nắm vững, hiểu cụ thể các nhận định trong SGK sẽ giúp học
sinh có định hướng trong việc nêu ra các nhận định trong bài
làm.
Để lời nhận định có thêm sức thuyết phục, nên sử dụng các ý
kiến của tác giả nói về sáng tác của họ hay nói về văn học nói
chung. Chẳng hạn Tố Hữu trước sau nhấn mạnh tới tính chất ca
ngợi lí tưởng của văn học cách mạng: nâng đón lấy màu xanh
hương bát ngát, của ngày mai muôn thủơ với muôn hoa. Thơ ta
ơi hãy cất cao tiếng hát, ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta…
Khi vận dụng các ý kiến cần tinh tế. Ví dụ, trong Nhật kí trong
tù, một mặt Hồ Chí Minh nói làm thơ là làm chuyện bất đắc dĩ
(Ngâm thơ ta vốn không ham), nhưng mặt khác, bàn về thơ,
người chủ trương Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
Nhận định về văn học nên cụ thể, sát đúng mới có sức thuyết
phục, tránh nhận định chung chung. Ví dụ, nói nhà văn này có
“một giọng điệu riêng”, “một gương mặt không dễ lẫn”, thì phải
chỉ ra cái đặc điểm riêng ấy. Có như thế bình luận mới thấu đáo.
c) Đề xuất nhận định đánh giá
- Các bình diện chủ yếu để đánh giá các hiện tượng, vấn đề văn
học
132
+ Sự phù hợp giữa hình thức, thể loại, phong cách với nội dung,
khuynh hướng tư tưởng của tác phẩm.
+ Đóng góp mới cho văn học dân tộc về nội dung và hình thức.
+ Đóng góp mới về quan điểm sáng tác, tư duy nghệ thuật, về lí
luận văn học.
- Cách đánh giá
Văn học sáng tác cho người đọc thưởng thức, do đó trước hết
hãy đánh giá sức tác động của tác phẩm đối với chính mình như
các bậc thầy. Ví dụ, nói về vị trí của Thế Lũ trong Thơ mới,
Hòai Thanh viết: “Độ ấy Thơ mới vừa ra đời, Thế Lữ như vầng
sao đột hiện, ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam” … Đối
với sáng tác của các nhà văn, cần đánh giá ý nghĩa cái riêng độc
đáo của họ so với các tác giả khác.
Đối với văn học một giai đoạn, cần đánh giá cái mới, cái khác
của nó so với giai đoạn trước.
Đối với vấn đề lí luận văn học, cần đánh giá tính mới mẻ và sâu
sắc của nó, ý nghĩa thực tiễn của nó …
Để đánh giá đúng giá trị một vấn đề văn học, học sinh cũng có
thể tranh luận, bàn bạc với những nhận định, đánh giá khác mà
mình không đồng tình. Tuy nhiên, muốn thế thì nhận thức học
sinh phải vững vàng. Học sinh cũng có thể dựa vào những nhận
định, đánh giá của những nhà lí luận nghiên cứu mà mình tin
cậy, nhưng phải thể hiện sự hiểu biết của mình, để tránh nói dựa,
nói theo mà không hiểu gì.
133
BÀI TẬP
1. Đọc kĩ hai đề bài, tự tìm hiểu đề và lập dàn bài rồi đối chiều
với các mục Tìm hiểu đề, Dàn bài xem có gì khác và giống, tự
đánh giá.
2. Đọc Bài làm tham khảo và nhận xét về cách giải thích và bình
luận.
Đề bài 1
Truyện ngắn Việt Nam thời kì chống Mĩ, cứu nước đã thể hiện
nổi bật chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Anh chị hãy
nhận xét sự thể hiện đa dạng của chủ nghĩa anh hùng ấy qua các
tác phẩm Rừng xà nu (nguyễn Trung Thành), Quán rượu người
câm (Nguyễn Quang Sáng), Những đứa con trong gia đình
(Nguyễn Thi), Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu)
Tìm hiểu đề
Đề yêu cầu chỉ ra được sự đa dạng của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng Việt Nam được thể hiện trong bốn truyện ngắn thời chống
Mĩ, cứu nước. Đồng thời đây là đề bình luận. Mấy chữ “nhận
xét” đòi hỏi người làm nêu lên ý kiến bình luận về sự đa dạng
đó. “Sự đa dạng ở đây nên hiểu ở hai mặt: đa dạng về hành động
anh hùng cũng như đa dạng về cách thể hiện nghệ thuật.
Để làm tốt đề này, người làm trước hết cần có khái niệm về anh
hùng và chủ nghĩa anh hùng, về sự thể hiện đa dạng của nó
trong bốn tác phẩm trên. Học sinh cần phân tích được các biểu
hiện đa dạng đó. Nói tới chủ nghĩa anh hùng là nói tới hành
động anh hùng của con người. Do đó người làm bài phải tập
trung chú ý tới việc phân tích hành động và tâm hồn của nhân
vật, tránh sa đà vào việc miêu tả. Nói “đa dạng” nghĩa là người
làm phải nhận ra sự khác nhau của bốn tác phẩm. Sự giống nhau
của bốn tác phẩm là dễ thấy: các nhân vật đều ở vào các tình
huống thử thách, lực lượng chênh lệch: địch nhiều ta ít, địch ở
thế mạnh áp đảo.
134
Các nhân vật anh hùng đều đối mặt với cái chết, với sự hủy diệt,
tàn bạo, nhưng nhờ anh dũng, bất khuất, mưu trí, cuối cùng cách
mạng đã thắng. Sự đa dạng thể hiện ở chỗ mỗi tác phẩm nhận
mạnh vào một khía cạnh. Rừng xà nu nói về tinh thần hi sinh,
bất khuất, một lòng một dạ bảo vệ cách mạnh, bảo vệ quê
hương, một chủ nghĩa anh hùng của nhiều thế hệ. Quán rượu
người câm kể về một hành động ý chí và khéo léo phi thường có
tính huyền thoại. Những đứa con trong gia đình thể hiện hành
động dũng cảm và vẻ đẹp tâm hồn của con người, một chủ nghĩa
anh hùng được thể hiện hồn nhiên, trong sáng. Mảnh trăng cuối
rừng kể về một tình yêu lãng mạn trong chiến tranh, về hành
động dũng cảm, khéo léo bảo vệ xe và người để hoàn thành
nhiệm vụ.
Nhận xét về chủ nghĩa anh hùng cách mạng ở đây cần cho thấy
được: đó là cội nguồn sức mạnh Việt Nam, là nguyên nhân làm
nên thắng lợi huy hoàng: giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc. Đó là chủ nghĩa anh hùng nhân dân, nên nhiều vẻ, phong
phú. Sự đa dạng còn do ngòi bút đa dạng của các nhà văn. Rừng
xà nu đậm chất sử thi truyền thống, Quán rượu người câm thì li
kì, Những đứa con trong gia đình thì đậm chất trữ tình hồn hậu,
còn Mảnh trăng cuối rừng thì lãng mạn, bay bổng.
Dàn bài
a) Mở bài
- Chủ nghĩa anh hùng là đặc điểm cơ bản phổ biến trong cuộc
sống và chiến đấu của nhân dân Việt Nam trong những năm
tháng chiến tranh. Phản ánh cuộc sống đó, văn học cách mạng
đã thể hiện nổi bật chủ đề chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Có
thể thấy được điều đó qua bốn tác phẩm (kể tên).
135
b) Thân bài
- Anh hùng là khái niệm chỉ những người có hành động dũng
cảm xuất sắc vì chính nghĩa, lí tưởng , được mọi người khâm
phục. Chủ nghĩa anh hùng là một nguyên lí đạo đức, một
nguyên lí tinh thần chi phôi cuộc sống con người, được biểu
hiện nổi bật trong những thử thách lớn lao, khắc nghiệt của dân
tộc.
- Trong thời đại “ra ngõ gặp anh hùng”, các tác phẩm trên đã
phản ánh chân thực, phong phú chủ nghĩa anh hùng cách mạng
Việt Nam.
+ Chủ nghĩa anh hùng trong rừng xà nu.
+ Chủ nghĩa anh hùng trong Quán rượu người câm.
+ Chủ nghĩa anh hùng trong Những đứa con trong gia đình.
+ Chủ nghĩa anh hùng trong Mảnh trăng cuối rừng.
- Nhận xét về chủ nghĩa anh hùng trong bốn tác phẩm.
c) Kết bài
- Phản ánh chủ nghĩa anh hùng cách mạng, văn học cách mạng
đã để lại những gương oanh liệt mãi mãi sáng ngời.
- Những tác phẩm ấy không chỉ cổ vũ, biểu dương nhân dân ta
trong chiến đấu, mà còn có tác dụng bồi đắp truyền thống anh
hùng cho các thế hệ mai sau.
BÀI LÀM THAM KHẢO
Chủ nghĩa anh hùng là một đặc điểm cơ bản trong đời sống của
nhân dân Việt Nam, một dân tộc từng chịu cuộc chiến tranh xâm
lược tàn khốc, buộc phải vùng lên bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ
và sự yên bình, hạnh phúc cho các thế hệ con cháu. Cuộc chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mĩ một lần nữa đặt nhân dân ta
trước thử thách to lớn. Một lần nữa chủ nghĩa anh hùng Việt
Nam lại biểu hiện sáng ngời, làm thất bại âm mưu của bọn đế
quốc và tay sai, giải phóng Việt Nam, thống nhất Tổ quốc. Phản
ánh cuộc sống và chiến đấu ấy, văn học cách mạng Việt Nam
nói chung, truyện ngắn nói riêng đã biểu hiện thành công và đa
dạng chủ nghĩa anh hùng cách mạng phong phú trong thực tế.
136
Qua các truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Quán
rượu người câm (Nguyễn Quang Sáng), Những đứa con trong
gia đình ( Nguyễn Thi), Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh
Châu) chúng ta có thể thấy phần nào sự phong phú đa dạng ấy.
“Anh hùng” là khái niệm chỉ những người có hành động dũng
cảm xuất sắc, nhiều khi phi thường, vì chính nghĩa, vì lí tưởng
cao đẹp, được mọi người khâm phục, ngưỡng mộ. Lí tưởng chủ
nghĩa anh hùng Việt Nam là độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh
phúc cho nhân dân. Chiến đấu, hi sinh vì lí tưởng đó là nguyên
tắc đạo đức, nguyên lí tinh thần cao đẹp của người Việt Nam đã
được hình thành trong vô vàn thử thách khắc nghiệt và lưu
truyền từ đời này sang đời khác. Trong thời kì kháng chiến
chống Mĩ, chủ nghĩa anh hùng ấy lại được dịp phát huy hơn bao
giờ hết. Người ta thường nói đó là thời “Ra ngõ gặp anh hùng”.
Quả đúng như vậy, bởi anh hùng của chúng ta là anh hùng quần
chúng, mọi người, mọi giới, già trẻ lớn bé đều trở thành anh
hùng. Các tác phẩm nêu trên đã thể hiện rõ rệt cho chủ nghĩa
anh hùng ấy.
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành có thể coi là bức tranh
toàn cảnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Nhà
văn không miêu tả một đôi người anh hùng, mà là miêu tả cả
một làng anh hùng, được tượng trung bằng cánh rừng xà nu bạt
ngàn chạy tít chân trời, những cây xà nu đầy mình thương tích
mà vẫn vươn cao những cái chồi nhọn hoắt lên đón ánh mặt trời!
Từ ngày giặc đến lùng bắt cán bộ, chúng dùng mọi thủ đoạn tàn
bạo như treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, chặt đầu bà Nhan
cột tóc treo lên đầu súng, nhưng vẫn không làm cho dân làng sợ
hãi, thôi nuôi và bảo vệ cán bộ. Các em trong thiếu nhi Tnú và
Mai đã tiếp tế cho cán bộ và được dạy dỗ, trưởng thành. Tiêu
biểu nhất cho tủôi trẻ anh hùng là nhân vật Tnú. Tnú bị giặc bắt
khi bị ép buộc phải khai ai là cộng sản. Tnú đã đặt tay lên bụng
mà nói “ở đây này!”. Em thà chết chứ không khai. Sau ba năm,
em vượt ngục Công Tum trở về xây dựng gia đình với Mai, và
lãnh đạo dân làng “mài giáo” chuẩn bị đánh giặc.
137
Quân giặc biết tin đến vây làng, nhưng cụ Mết, Tnú và thanh
niên đã lánh vào rừng. Chúng bắt mẹ con Mai, đánh đập dã man
để buộc khai ra Tnú và trai làng. Tnú không đành lòng, đã xuất
hiện. Chúng bắt Tnú và đốt mười ngón tay anh để trấn áp dân
làng xông vào diệt gọn lũ ác ôn. Sau khi Mai chết, làng Xô Man
đã vũ trang. Tnú đi bộ đội. Khi trở về thì thế hệ đàn em như Dít,
Heng đã lớn khôn, trưởng thành. Nhà văn đã miêu tả dân làng
Xô Man như một tập thể anh hùng, người trước ngã, người sau
nối gót. Và cụ Mết người già làng quắt thước dạy dỗ dân làng
theo gương Tnú.
Quán rượu người câm của Nguyễn Quang Sáng kể về một tấm
gương anh hùng li kì. Bối cảnh của truyện là thời kì đen tối năm
1956, bọn giặc tìm mọi cách tiêu diệt những người cộng sản. Có
người phản bội bán rẻ đồng chí và có những người thà chết
không khai. Anh Ba Hoàng trong một lần bị tra tấn dã man đã
giả câm. Địch tìm mọi cách để thử thách, nhưng anh vẫn tỏ ra là
bị câm, cuối cùng chúng thả anh về nhà. Anh mở quán rượu.
Địch lại tìm cách theo dõi ráo riết, nhưng chúng vẫn chỉ xác
nhận được anh bị câm. Rồi đến ngày Đồng khởi anh Ba Hoàng
lại xuất hiện, làm người lãnh đạo, và nói trước dân chúng. Đó là
tấm gương kiên trì, mưu trí, chuẩn bị lực lượng để giành lại
chính quyền. Ba Hoàng là con người của nhân dân, quán rượu
của anh đã tập hợp được mọi người, gắn bó sinh tử với họ.
Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi lại vẽ lên một
bức tranh khác: đây là một gia đình anh hùng. Người cho tham
gia kháng chiến chống Pháp bị quân Pháp chặt đầu. Người mẹ
đang nấu cơm, nghe tin, cầm cả đũa bếp chạy đi đòi trả đầu
chồng! Khi đòi được về bà mới khóc! Sau này người mẹ đó bị
trúng mảnh đạn ca nông mà chết. Nhà còn chú Năm nuôi dạy
các cháu.
138
Ngoài chị Hai là con nuôi đã đi lấy chồng, gia đình chỉ còn ba
chị em, chị chiến 19 tuổi, em là Việt 18 tuổi và thằng út 10 tuổi.
Hai chị em nuôi chí đi bộ đội, đánh giặc trả thù cho cha mẹ.
Trong những câu chuyện, tranh cãi của hai chị em, toát lên một
tinh thần yêu nước, yêu nhà, căm thù giặc, yêu chính nghĩa. Chị
Chiến nói lại với em một câu đầy khí phách: “Đã làm thân con
gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy
à!”. Còn Việt cậu em trai, trong một trận chiến đấu, bị thương
vào mắt, nằm lại chiến trường, giữa bao nhiêu xe tăng, máy bay
giặc gầm rú, khi tỉnh dậy, nhận ra tình thế: “Tao sẽ chờ mày!
Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình
tao. Mày bắn tao thì tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ, các
anh tao sẽ chạy tới đâm mày!”. Một tinh thần cứng cỏi kế thừa
từ lớp cha, mẹ bất khuất.
Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu lại thể hiện một
khía cạnh khác của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Đó là sự kìm nén nhu cầu hạnh phúc cá nhân để hiến thân cho
tình yêu lớn đối với tổ quốc. Nguyệt và Lãm là những thanh
niên rất đẹp, vào thời bình, họ chắc chắn có một cuộc sống lứa
đôi hạnh phúc. Nhưng trong chiến tranh, họ mến mộ nhau, giành
cho nhau những tình cảm tốt đẹp nhất, nhưng chưa có thì giờ
cho tình yêu cá nhân. Đoạn đường đi chung của Nguyệt và Lãm
lên ngầm đá xanh là con đường của tình yêu, mà cũng là con
đường chiến đấu. Họ chưa nhận ra là người yêu của nhau, nhưng
đã nhận ra nhau là đồng đội. Và Nguyệt đã quên mình vì Lãm.
Nguyệt nhanh trí, gan dạ, vị tha, hết lòng giúp Lãm vượt qua
con đường bị đánh phá, đã bộ lộ vẻ đẹp anh hùng của Nguyệt
hòa điệu với vẻ đẹp tinh khiết, trẻ trung, sáng ngời mà Lãm đã
ngắm nghía và phát hiện trong suốt quãng đường.
139
Trong chiến đấu, họ gần sát bên nhau, Lãm nghe được hơi thở
của Nguyệt, thậm chí không ngần ngại bế xốc Nguyệt lên đặt
giữa cái khe giữa hai gốc cây, nhưng trong tình yêu thì họ xa xôi
như mảnh trăng thượng huyền cuối trời, còn sáng một vẻ lạnh
lùng như một mảnh bạc. Một truyện chiến đấu pha trộn tình yêu
đầy chất mơ mộng. Chất anh hùng hòa quyện với chất lãng mạn
trong tâm hồn. Khát vọng tình yêu làm cho người chiến sĩ thêm
đẹp.
Qua bốn tác phẩm trên, ta thấy chủ nghĩa anh hùng được thể
hiện khá phong phú, đa dạng về hình thái và sắc thái thẩm mĩ.
Điều quan trọng nhất là các tác phẩm đều cho thấy chủ nghĩa
anh hùng cách mạng là cội nguồn sức mạnh Việt Nam, sức
mạnh làm nên chiến thắng huy hoàng của dân tộc trước quân thù
tàn bạo. Đó đúng là chủ nghĩa anh hùng nhân dân, gắn liền với
cuộc chiến tranh nhân dân. Đồng thời chủ nghĩa anh hùng được
ghi lại trong tinh thần ngợi ca, cảm phục, ngưỡng mộ. Điều này
làm cho các tác phẩm là những khúc ca anh hùng. Nội dung chủ
nghĩa anh hùng thật phong phú, và sự biểu hiện nghệ thuật cũng
đa dạng. Rừng xà nu đậm đà chất sử thi, bi tráng; Quán rượu
người câm li kì, bí ẩn; Những đứa con trong gia đình thủ thỉ như
một lời tâm sự, còn Mảnh trăng cuối rừng là bài ca khắc khoải,
ngưỡng vọng.
Những tác phẩm trên không chỉ phản ánh chân thực đời sống mà
còn khắc họa được những tấm gương oanh liệt mãi mãi sáng
ngời. Chúng không chỉ phát huy vai trò cổ vũ biểu dương tinh
thần chiến đấu đương thời, mà còn có tác dụng bồi dưỡng tâm
hồn và khí phách cho các thế hệ tương lai.
Đề bài 2
Hãy giải thích và bình luận ý kiến sau đây của Thạch Lam:
“Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho
người đọc sự thoát ki hay sự quên; trái lại, văn chương là một
thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo
và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng
người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.
140
Tìm hiểu đề
Đây là một đề nghị luận hỗn hợp vừa đòi hỏi cả giải thích lẫn
bình luận. Có thể giải thích trước, bình luận sau hoặc phối hợp
vừa giải thích vừa bình luận từng ý một trong câu nói của Thạch
Lam. Dù làm theo cách nào cũng phải biết chia tách câu nói trên
thành các vế, các mệnh đề khác nhau để sự giải thích, bình luận
không rơi vào chung chung.
Câu nói của Thạch Lam bao hàm hai vế phủ định và khẳng định.
Trong khi khẳng định quan niệm nghệ thuật về con người, nhà
văn đồng thời bộc lộ niềm tự hào về vũ khí văn chương. Người
viết cần phải bình luận về cả ba ý chính trong câu nói đó.
Dàn bài
a) Mở bài
Nêu vị trí ý kiến của Thạch Lam trong giai đoạn văn học 1930 –
1945. Trích dẫn ý kiến đó.
b) Thân bài
- Giải thích (lần lượt từng ý)
+ “Văn chương không phải là một cách đem đén cho người đọc
sự thoát li hay sự quên” nghĩa là:
Văn chương không thể tách rời cuộc sống, không thể đưa đến
cho người đọc thái độ quay lưng, lảng tránh đời sống. Nó không
phải là liều thuốc ngủ.
+ Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực nghĩa là:
Văn chương là công cụ nghề nghiệp hoàn hảo của nhà văn, là vũ
khí có khả năng giúp nhà văn hoàn thành sứ mệnh của mình một
cách có hiệu quả. Nó không bị sử dụng vào mục đích xấu, hơn
nữa, luôn tác động bằng con đường tình cảm.
141
+ “Tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác”, “làm
cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn” nghĩa
là:
Văn chương vạch trần, phê phán những tệ lậu, những cái xấu xa
của xã hội và đòi hỏi diệt trừ, thay thế nó, đồng thời bồi đắp tinh
thần, xây dựng đời sống tâm hồn, thanh lọc tình cảm con người.
- Bình luận (lần lượt từng ý)
+ Thể hiện một thái độ lựa chọn dứt khoát, tiến bộ, tích cực.
+ Ngầm đối thoại với xu hướng văn học thoát li.
+ Thể hiện một quan niệm gần gũi với quan niệm của các nhà
văn hiện thực phê phán về văn học.
+ Rất hiểu vai trò trách nhiệm của nhà văn cũng như sự mê
hoặc, quyến rũ của văn chương.
+ Rất tự hào về vũ khí của mình.
+ Ý thức được sức mạnh và sự cao cả của văn học.
+ Một nhận xét đúng đắn, khái quát, sát thực tế.
+ Thấy được cách tác động đặc thù của văn học vào cuộc sống.
+ Nhận thức đúng về hiện trạng đời sống lúc bấy giờ.
+ Xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ của văn học.
+ Hiểu rõ tương quan giữa hai nhiệm vụ.
+ Đầy niềm tin ở khả năng của văn học, khả năng tự cải tạo của
tâm hồn con người, nói chung là niềm tin vào một tương lai sáng
sủa hơn.
c) Kết bài
- Một quan niệm đúng đắn về vai trò, tác dụng của văn chương
trong đời sống xã hội.
- Ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa lâu dài của ý kiến đó.
142
BÀI LÀM THAM KHẢO
Trong giai đoạn 1930 – 1945, văn học Việt Nam phát triển thành
nhiều dòng, nhiều khuynh hướng. Các dòng, các khuynh hướng
này có những quan điểm khác nhau về văn học, về trách nhiệm
xã hội của nhà văn. Nhiều cuộc bút chiến hay tranh luận ngầm
nảy sinh từ đó đã cung cấp cho ta một số ý kiến có giá trị về văn
học, trong đó, ý kiến sau đây của Thạch Lam thường được nhắc
nhở với thái độ tán thưởng, đồng tình: “Đối với tôi văn chương
không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay
sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao, và
đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế
giới giả dối và tán ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong
sạch và phong phú hơn”.
Có thể xem ý kiến vừa nêu là một tâm niệm sáng tác của Thạch
Lam. Thạch Lam là nhà văn lặng lẽ, vốn không ưa tranh luận ồn
ào. Tuy nhiên, đời văn của ông có mục đích rõ ràng và suốt đời
mình, ông phấn đấu cho những gì mình ấp ủ và tin tưởng. Các
tác phẩm của ông đã làm chứng cho quan niệm mà ông nói rõ ra
đó.
Một nhà văn khi mới bắt đầu bước vào nghề viết phải đứng
trước rất nhiều lựa chọn. Có người từng chọn lầm đường để rồi
quy trở lại một cách chật vật. Với Thạch Lam, có lẽ ngay từ đầu
ông đã chọn đúng, chọn trúng. Ông tránh con đường văn học
đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, cũng có nghĩa là
ông đã từ chối thứ văn học xa rời cuộc suống, quay lưng lại với
hiện thực, có thể gieo rắc vào tâm hồn độc giả một thái độ sống
tiêu cực. Trong ý kiến của ông, mấy chữ đối với tôi cũng có
nhiều ý nghĩa. Nó xác định rõ đây là một ý kiến giữa nhiều ý
kiến khác nhau về văn học, một ý kiến của riêng ông, được phát
biểu trên cơ sở hiểu biết sâu sắc về thực tế văn học bề bồn, phức
tạp bấy giờ. Nó cũng thể hiện rõ tinh thần đối thoại của ông đối
với nhiều xu hướng văn học khác nhau tồn tại trong đời sống
văn học.
143
Quả thực, nhiều tác phẩm văn học thời kì ấy đã lựa chọn thái độ
lẩn tránh hiện thực. Hoặc chúng đưa người đọc lên tiên, lên
chốn Bồng Lai Xán lạn u thuyền trong khói hương (Thế Lữ),
hoặc đưa họ về ẩn nấp trong tình yêu chật hẹp của riêng hai
người. Cũng có khi chúng ca tụng thuốc phiện như một phương
tiện cứu rỗi, có thể Đưa hồn say về tận cuối trời Quên ( Vũ
Hoàng Chương). Thậm chí, ngay cả khi đưa người đọc về với
bối cảnh nông thôn, nhiều trang viết của các nhà văn lãng mạn
đã phớt lờ bao cảnh bùn lầy nước đọng. Ở đây tệ hơn cả sự thoát
li, sự quên là việc che giấu sự thật của một hiện thực phũ phàng.
Dĩ nhiên, hành động “quên” của một số nhà văn vừa nói có
những mặt đáng thông cảm. Đôi khi, chúng biểu lộ một sự bất
mãn đối với hiện thực đau khổ. Nhưng dẫu sao đó vẫn là thái độ
phản kháng tiêu cực. Thạch Lam rõ ràng không đồng tình với nó
và quan niệm của ông lúc này thật gần gũi với quan niệm của
các nhà văn hiện thực phê phán như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao.
Phải chăng, từ thâm tâm ông hiểu rằng thoát li và quên lúc này
là tội lỗi, là đồng lõa với tội ác?
Sau khi thể hiện một thái độ chối bỏ dứt khoát con đường văn
chương thoát li, Thạch Lam đã nói rõ mục đích văn chương của
mình. Mục đích văn chương ấy trước hết được xây dựng trên cơ
sở một sự hiểu biết đúng đắn về tính chất, đặc điểm của văn học.
Theo ông, văn chương là một thứ khí giới, nghĩa là một thứ
công cụ mà nhà văn sử dụng để thực thi trách nhiệm xã hội của
mình. Nó có đặc tính là thanh cao và đắc lực. Nó thuộc lĩnh vực
tinh thần, luôn tuyên truyền cho cái đẹp và bản thân nó là cái
đẹp (do vậy mà thanh cao). Đồng thời, cũng vì thanh cao mà nó
là lợi khí trong tay nhà văn, có thể trợ giúp nhà văn một cách có
hiệu quả. Nếu yêu cầu đầu tiên đối với một người thợ, người
chuyên gia giỏi là phải hiểu rõ công cụ làm việc của mình, thì ở
đây Thạch Lam quả là một chuyên gia cừ khôi. Mặt khác, trong
mấy từ chúng ta có, có thể cảm nhận thấy nỗi tự hào chính đáng
của nhà văn về nghề nghiệp ông đang theo đuổi.
144
Nhìn chung, cái nhận định “văn chương là một thứ khí giới
thanh cao và đắc lực mà chúng ta có” là một nhận định tổng
quát, đúng đắn, chứng tỏ người nói thấy được sự lợi hại của văn
học trong lịch sử, thấy được hình thức tác động rất đặc thù của
văn học vào cuộc sống. Nhận định này kế thừa được những quan
niệm tiến bộ về văn học của ông cha ta ngày xưa, như quan
niệm tiến bộ về văn học của ông cha ta ngày xưa, như quan
niệm thơ ca có tác dụng di dưỡng tính tình và văn học có nhiệm
vụ “tải đạo”, có sức mạnh Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. Nó
hoàn toàn có thể được chứng minh bằng thực tiễn văn học
phong phú. Thơ đánh giặc của Nguyễn Trãi từng được ca ngợi là
“có sức mạnh như mười vạn quân” hay những bài thơ thu của
Nguyễn Khuyến quả thực là một “thứ khí giới thanh cao” có thể
cải tạo tâm hồn.
Nhưng Thạch Lam không dừng lại ở sự nhìn nhận suôn sẻ khí
giới của mình. Ông đòi hỏi cái khí giới kia phải được sử dụng
vào mục đích “vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và
tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong
phú hơn”. Đúng là hai nhiệm vụ tồn tại song song, không thể
thiếu một. Một bên là thanh lọc tình cảm cho con người, nâng
cao đời sống tinh thần của con người lên một tầng cao mới. Khi
nêu lên nhận định này, Thạch Lam đã chứng tỏ một nhận thức
đúng đắn về hiện trạng đời sống lúc bấy giờ. Chúng ta ngầm
hiểu “cái thế giới giả dối và tàn ác” mà ông nói tới không phải là
của một thời nào khác, mà là của thời ông. Ở đây cách nhìn của
ông chẳng khác gì cách nhìn của một nhà văn hiện thực phê
phán. Xã hội áp bức bất công lúc ấy thật là đáng vạch trần và tố
cáo. Nó chứa đựng trong mình bao nhiêu ung nhọt. Người lao
động bị bóc lột đến tận xương tủy, lắm kẻ bị đẩy vào con đường
lưu manh hóa do không có lối thoát nào khác. Thực chất bên
trong là thế nhưng những kẻ cai trị lại cố sức tô vẽ cho chế độ
chính trị này. Nó trưng ra một bộ mặt vui vẻ trẻ trung giả dối,
kết quả của những trò lừa bịp, ma mị, tráo trở. Không chỉ gặp gỡ
với các nhà văn hiện thực trên quan điểm, bản thân Thạch Lam
cũng sáng tác một số truyện ngắn nói về nỗi khổ của người lao
động như Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén …
145
Điểm đặc biệt là khi tố cáo, ông không chấp nhận cái ác như
một định mệnh, một chuyện hiển nhiên bất di bất dịch. Ông nghĩ
rằng nó sẽ bị lật đổ, bị thay thế. Chữ thay đổi mà ông sử dụng ở
đây thể hiện một cái nhìn tích cực, lạc quan về hiện thực cũng
như lòng tin mạnh mẽ vào khả năng của văn chương. Tố cáo là
để mà thay đổi. Văn chương có thể cũng như phải làm việc đó.
Trong thực tế văn học không thiếu dẫn chứng có thể lấy làm chỗ
dựa vững chắc cho nhận định của Thạch Lam. Không nó đâu xa,
sáng tác của những người đồng thời với ông như Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng
đã thực sự là lời tố cáo đầy sức nặng đối với xã hội thực dân nửa
phong kiến xấu xa.đầy bi thảm ấy. Chúng đưa đến cho người
đọc sự căm ghét chế độ bạo tàn, khơi dậy ở họ lòng mong muốn
hành động để thay đổi thực trạng cuộc sống đầy bi thảm ấy. Với
sáng tác của nhà văn cách mạng, cảm hứng đòi lật đổ chế độ cũ,
xây dựng chế độ mới càng bộ lộ rõ nét hơn, lôi cuốn hơn.
Trong bài Tiếng hát sông hương, Tố Hữu từng hứa hẹn rất nhiều
với những thân phận khổ đau về một ngày mai đầy tươi sáng
(ngày mai bao lớp đời dơ, Sẽ tan như đám mây mờ đêm nay).
Quả thực, bên cạnh nhiều thứ vũ khí vật chất, văn chương là một
thứ vũ khí tinh thần sắc bén có khả năng giúp con người diệt trừ
cái ác một cách có hiệu quả. Bên cạnh nhiệm vụ phá, văn
chương còn có nhiệm vụ xây, và cái xây quan trọng nhất là xây
dựng đời sống tâm hồn con người. Có thể xem đây là sứ mệnh
cao cả của văn học. Là nhà văn có sở trường mô tả tâm lí, biết đi
sâu khám phá những bí ẩn, những xao động của tâm hồn con
người, hơn ai hết, Thạch Lam hiểu rất rõ khả năng thanh lọc,
nhân đạo hóa con người của văn chương. Văn chương đã mở
rộng những cánh cửa hiểu biết trước người đọc. Nó cũng giữ
cho con mắt ta luôn biết ngạc nhiên trước thế giới, trái tim ta
luôn biết xúc động trước những niềm vui, nỗi khổ của đồng loại.
Trên nền những cảm xúc mà văn chương đưa lại, con người sẽ
hiểu mình hơn và có thêm hoài bão tự hoàn thiện.
146
Như vậy, Thạch Lam đã rất tin vào sự cao quý của văn học cũng
như khả năng tự cải tạo của độc giả, của con người. Đọc một tác
phẩm như Sống mòn của Nam Cao, hẳn độc giả sẽ thấy tâm hồn
mình được gội rửa khỏi những toan tính nhỏ nhặt làm hèn mọn
con người. Còn đọc thiên truyện Dưới bóng hoàng hôn của
Thạch Lam, ta bỗng thấy lòng mình dễ rung động hơn trước
những vẻ đẹp của cuộc đời giản dị …
Nhìn chung, nhận định của Thạch Lam thể hiện một quan điểm
niệm sâu sắc, tiến bộ về vai trò, tác dụng của văn chương đối
với con người và xã hội, cũng như thể hiện một thái độ nghề
nghiệp nghiêm túc của nhà văn. Dù được phát biểu vào một thời
điểm cách đây đã hơn nửa thế kỉ, nhận định này vẫn còn có ý
nghĩa thời sự. Nó còn mới mẻ cũng như những tác phẩm văn
chương có tác dụng làm phong phú tâm hồn con người thì không
bao giờ cũ được.
(Phan Huy Đăng)
3. Trả lời câu hỏi
Làm bài bình luận sáng tác văn học một tác giả, một thời kì, giai
đoạn văn học, một vấn đề lí luận phải chú ý những gì, chuẩn bị
những gì?
4. Lập đề cương chi tiết cho đề số 1 và số 3 Bài làm văn số 8 ở
cuối sách.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
TỐ HỮU LÀ MỘT NHÀ THƠ CÓ LÍ TƯỞNG
Tôi nghĩ: người ta thcíh một thi sĩ nào, đầu tiên là vì cái lí
tưởng, cái khuynh hướng của anh ấy. Người đọc, nhất là thanh
niên vào đời, đứng trước cái ngã năm ngã bảy của cuộc sống,
thường rất phân vân. Lúc này họ rất cần người bày cho họ sống
sao ra sống. Họ tìm đến những người cộng sản, những người
yêu nước. Họ tìm đến các thi nhân. Họ tìm đến Tố Hữu. Giữa
bao ngọn cờ sai lạc dưới thời Pháp thuộc, anh là lá cờ Đảng nêu
lên thành thơ cái lí tưởng, cái triết học, cái lối sống duy nhất
đúng lúc bấy giờ:
147
Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi.
Hoặc:
Đã vay dòng máu thơm thiên cổ
Phải trả ta cho mạch giống nòi …
Khoan nói cái hay của những câu thơ ấy vội. Cái hấp dẫn ở đây
trước tiên là cái lí tưởng. Lí tưởng cộng sản. Nó dạy cho ta lòng
yêu nước và căm thù giai cấp:
Hãy đứng dậy. Nào ta liên hiệp lại
Hỡi tù nhân khốn nạn của bần cùng
Ngày mai đây tất cả sẽ là chung.
Nó làm cho ta trở thành người chia ngọt sẻ bùi với nhân dân:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ …
Và Tổ quốc! Lí tưởng ấy khiến cho nhà thơ như luôn nghe được
bên tai tiếng gọi của Tổ quốc, tự mình biến thành tiếng gọi ấy để
thức tỉnh lòng người.
Lòng yêu Đảng đối với chiến sĩ cộng sản lúc bấy giờ là lòng yêu
những người lao khổ: em bé mồ côi, em Phước đi ở, chị vú em,
những người thợ hai bàn tay, ấy đó cả gia tài, những nông dân
tháng ngày chát cổ cơm, khoai, sắn. Nhưng lòng yêu Đảng lúc
ấy cũng là lòng yêu cả dân tộc, giống nòi:
Hỡi những con khôn của giống nòi
Những chàng trai quý, gái yêu ơi!
Cảm động xiết bao, luôn ba lần trong một bài thơ, Tổ quốc được
gọi bằng tiếng Mẹ thiêng liêng nhất:
Đã từng thấy mẹ lăn trong máu …
Mẹ đã vì con khổ vạn đời …
Vú Mẹ giờ đây cạn sữa rồi …
148
Người chiến sĩ cộng sản là người yêu nước như ai, và hơn ai hết.
Nhà thơ tốt là người đến được chỗ độc giả đang đứng. Nhưng tốt
hơn nữa là họ còn biết từ chỗ đứng ấy dùng lí tượng mình như
một lá cờ, gọi độc giả đi lên. Lí tưởng cộng sản dạy cho ta yêu
giai cấp, yêu nhân dân, yêu Tổ quốc. Nhưng lí tưởng cộng sản
còn dạy thêm: phải biết hi sinh cho cái mình yêu:
Sống đã vì cách mạng, anh em ta
Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà
Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng …
Hay như nói tiếng nói ngày nay, đặt cái riêng dưới cái chung,
đặt cá nhân mình trong và dưới tập thể:
Một người – đâu phải nhân gian?
Sống chăng, một đốm lửa tàn mà thôi …
Lí tưởng ấy dạy một tư thế làm người:
Khóc là nhục. Rên, hèn. Van, yếu đuối …
Cái thái độ đứng trước kẻ thù, trước gian nguy:
Đầu sắp rơi mà môi vẫn cười tươi.
Cái thái độ đối với anh em, đồng chí:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người …
Lí tưởng ấy nói ra thì rất rộng, rất cao:
Xây thế giới cao quá trời xanh thẳm.
Không có gì hạn định trước được:
Đường xa vô hạn, đích vô cùng
Chân trời lui mãi lan lan rộng.
Hi vọng tràn lên đồng mênh mông.
Lí tưởng ấy trước hết là làm ngay cuộc cách mạng tháng Tám
lúc bấy giờ - hái cho được một trong những chùm táo treo nghìn
đời nay trước mắt ta:
149
Quyết hi sinh, phá tan hết gông xiềng
Cho Tổ quốc muôn muôn năm độc lập.
Bài thơ sau khác bài thơ trước, tập thơ này khác tập thơ kia,
nhưng muôn nghìn nhịp đập cũng chỉ là của một con tim – tất cả
sáng tác hai mươi sáu năm qua của Tố Hữu chỉ là sự phát triển,
nhân lên của một lí tưởng ấy, xoay quanh một cái lõi ấy. Tả tình
hay tả cảnh, kể chuyện mình hay kể chuyện người, viết về các
vấn đề lớn hay về một sự việc nhỏ, đối với anh là để nói cho
được cái lí tưởng cộng sản ấy thôi.
Nhờ thế, những câu thơ anh liền một bài, những bài thơ anh liền
một tập, những quyển sách anh liền một đời. Giữa bài thơ anh ít
có chữ “nhưng” cắt làm hai đoạn. Trong đời thơ anh, anh không
phải hối tiếg vì giai đoạn nọ hay giai đoạn kia.
Câu sau này của Biêlinxki có thể áp dụng vào anh:
“Trong thơ, tư tưởng là nhiệt tình của tác phẩm. Nhiệt tình là gì?
Nhiệt tình là lòng sôi nổi tràn trề và sự trung thành đối với một
tư tưởng nhất định…”.
Chúng ta yêu thơ Tố Hữu vì đấy là những bài thơ xúc động ta
mãnh liệt. Nhưng những bài thơ ấy làm ta xúc động vì nó đã
được đốt lên bởi lí tưởng cách mạng mà tác giả đã biết trung
thành.
Lí tưởng là một quá trình, với những người suốt một đời phấn
đấu cho Đảng, nó càng là quá trình hơn đối với ai hết. Vì không
một lúc nào họ chịu dừng lại, đứng yên ở một bước nào, mà mỗi
phút này đều muốn vượt phút vừa qua, luôn luôn họ cố nâng
mình lên cho kịp với đòi hỏi ngày càng cao của lí tưởng.
Đọc thơ Tố Hữu, ta thấy rõ ràng, mỗi bước tiến lên của Đảng,
Tố Hữu lại tiến theo. Lí tưởng Đảng ở trong anh, ngày mỗi có
một nội dung phong phú và sâu xa hơn trước. Bao nhiêu người
vì yêu cách mạng mà đến với thơ Tố Hữu thời Từ ấy, bao nhiêu
người vì yêu thơ thời Từ ấy mà đến với cách mạng. Mặc dù thế
có phải ở một số bài đầu của thời kì ấy, còn rõ dấu vết “anh
hùng” hay ủy mị của một cậu học sinh tiểu tư sản mới vào Đảng
và vào cuộc đời?
150
Ở Từ ấy, ta đã thấy tình yêu vô hạn của Tố Hữu với quần chúng.
Nhưng quần chúng ở đây mới chỉ là những người lao khổ đòi
giải phóng. Phải qua một cuộc kháng chiến, những năm xây
dựng chủ nghĩa xã hội thì trong lí tưởng của chúng ta cũng như
của thi sĩ, hai chữ quần chúng mới có cái nội dung cụ thể này:
đấy là công nông, đấy là quân đội, đã dùng bàn tay mình giải
phóng đất nước, lại dùng bàn tay mình xây dựng xã hội chủ
nghĩa “trời mới, đất mới” cho chúng ta. Đối với Tổ quốc cũng
vậy. Từ những bài thơ điêu luyện sau này, bao giờ cũng là một
tình yêu Tổ quốc nồng cháy trong thơ Tố Hữu. Nhưng có phải
trong lí tưởng anh, Tổ quốc bây giờ cũng có những nội dung
sung mãn hơn?
Tổ quốc bây giờ là chế độ! Là những “áo nâu non”, nói tóm lại
là xã hội chủ nghĩa, là Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Cái tên Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa bao lần thành ra một câu thơ vang dội
trong thơ Tố Hữu.
Tổ quốc bây giờ cũng lại là miền Nam. Miền Nam năm nào là
tiếng khóc, tiếng hét, nhưng bây giờ là tiếng mõ, tiếng súng náo
động trong thơ anh.
Càng về sau, hai chữ Tổ quốc trong thơ Tố Hữu càng nặng thêm
bao tình nghĩa khác. Đó là những năm đầu của Đảng sơ sinh, đó
là Phạm Hồng Thái, Nguyễn Phi Khanh, là Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, là “tiếng của cha ông thuở trước”, là cái Việt Nam
bốn nghìn năm cũ đọng lại trong cái mười tuổi (nay là mười tám
tuổi) của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hãy biết quý nhà thơ cộng sản đã viết nên câu:
Bốn nghìn năm ta lại là ta …
Rung động trong lòng ta một tình yêu dân tộc rất là sâu thẳm.
151
Hãy biết quý nhà thơ cộng sản đã làm cho ta yêu nước rất là cụ
thể: yêu đất nước, yêu từng lá cây, ngọn cỏ như thịt xương của
Tổ quốc, những bóng cò, những sông lạch, những sóng biển,
những bóng dừa … tất cả những cái gì đã làm nên Việt Nam ta.
Tôi xin nhường lời cho các nhà phân tích. Nhưng có một điều
chúng ta cần thấy rõ là nhờ gắn chặt với Đảng, nhà thơ đã ngày
mỗi trưởng thành. Lí tưởng trong anh ngày mỗi có nội dung
phong phú hơn, mà cũng có tầm bao quát hơn:
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau.
Trông bắc trông Nam, trông cả địa cầu …
Con người lí tưởng trong thơ Tố Hữu, thời Từ ấy đã biết nhìn
xa, nhưng quả thực chưa có được một cái nhìn như thế.
Tố Hữu đến với ta trong những lúc phân vân giữa hai tư tưởng,
hai con đường, và cần có một cách giải quyết. Kháng chiến. Phá
hoại các thành phố. Ngày mai rồi sẽ ra sao? Tố Hữu nói, “lí
tưởng” nói:
Ngày mai về lại thủ đô …
Ngày mai sống lại từng mô đất này …
Ngày mai …
Câu thơ như thêm sức sống cho lòng người. Hòa bình. Rời cuộc
đời kháng chiến để về Hà Nội “phồn hoa”. Ta sẽ sống sao đây?
Nhà cao chẳng khuất non xanh
Phố đông càng giục chân nhanh bước đường
Ngày mai lại về thôn hương …
Bài thơ như dự đoán trước được những biến chuyển tư tưởng
phức tạp của những năm về sau và đã bày cho ta cách giải quyết.
Tố Hữu có lúc diễn đạt tư tưởng, lí tưởng mình trong những lời
vỗ về, khuyên nhủ như thế. Có khi anh lại đưa ra những trường
hợp, những bức tranh (Trăng trối; Con cá, chột nưa), ở đây lí
tưởng đã chiến đầu và chiến thắng. Có khi anh lại dựng nên hình
tượng những nhân vật lí tưởng: Những người không chết, Mẹ
Tơm. Tôi rất thích anh bạn nào đó đã gọi Lượm là một anh
hùng. Vâng, Lượm là một người lí tưởng.
152
Nhưng rất nhiều lúc khác, Tố Hữu diễn đạt một cách kín đáo lí
tưởng của mình. Hương bay xa, Thơm ngát, Đường ta, Nhớ
nghe hoa, Người quét rác, Đêm qua là một cách gửi gắm, một
lời dặn thầm như vậy. Em ơi Ba Lan, Tiếng ru, Cánh chim
không mỏi nằm trong cách nói ấy. Nhiều sự kiện, tình hình
trong nước và trên thế giới đã làm cho những tiếng nói thầm ấy
trở nên vang dội:
Mùa cam đương ngọt địa cầu của ta
Gió sương đương hẹn mùa hoa …
Câu thơ củng cố rất nhiều lòng tin cho lòng người.
Tố Hữu không diễn đạt lí tưởng mình bằng con đường luân lí
như một nhà triết học. Anh nói với người ta mà người ta nghe
lọt, bởi anh đã nói như tự mình dặn dò khuyên nhủ lấy mình.
Bằng giọng nhà thơ. Như giọng người yêu: Nhớ em nghe, Tiếng
chổi tre, Chị quét …, Nhớ nghe em những đôi giày nhỏ …
Em đó chính là tác giả đấy thôi. Những con người tốt là những
con người đầu tiên biết quý cái cuộc đời mình, muốn mỗi phút
của nó đều là ánh sáng. Trên mỗi bước đi của cuộc đời, khi dặn
dò khuyên nhủ người khác, họ đều dặn dò, khuyên nhủ lấy
mình. Tố Hữu là một con người như thế. Cái lí tưởng mà anh
chiến đấu để thực hiện, đầu tiên anh cố gắng để thực hiện trên
bản thân mình. Bởi thế, nó càng có sức hấp dẫn với chúng ta.
Chúng ta yêu thơ anh vì đó là những tác phẩm nghệ thuật có giá
trị, nhưng còn vì đó là những bằng chứng sống về cuộc sống của
một con người có lí tưởng chói ngời.
(Chế Lan Viên)
153
BÌNH LUẬN XÃ HỘI (2 tiết)
I – KHÁI NIỆM VỀ BÀI BÌNH LUẬN XÃ HỘI
1. Yêu cầu về bài bình luận xã hội
a) Bài bình luận xã hội chính là bài văn nghị luận bàn đến các
vấn đề của đời sống xã hội. Bài nghị luận xã hội học ở Làm văn
10 chủ yếu nhằm rèn luyện các thao tác giải thích, phân tích,
chúng minh. Ở làm văn 12 bài nghị luận được gọi là bình luận
để nhấn mạnh tới việc vận dụng tổng hợp các thao tác và chủ
động đề xuất ý kiến về các vấn đề xã hội như: quyền lợi và
nghĩa vụ công dân, nâng cao dân trí, vấn đề nạn tham nhũng, cờ
bạc, ma túy, tệ phá rừng, tệ làm hoặc ô nhiễm môi trường …
Khi đề cập tới các vấn đề xã hội ấy, bài bình luận xã hội sẽ phân
tích, giải thích vấn đề, chỉ ra chỗ đúng, chỗ sai, mặt lợi, mặt hại,
tán thành điều này, phẩn đối điều kia, xác định một thái độ, và
có lúc đề xuất một giải pháp thích hợp.
Trong thực tế, ta thường gặp bài bình luận xã hội dưới các mục
xã luận, bình luận trên các báo, tạp chí. Trong các bài phát biểu,
nói chuyện ở nơi công cộng hoặc trên báo đài, cũng thường có
yếu tố bình luận xã hội. Trong nhà trường, bình luận xã hội là
kiểu bài nghị luận đòi hỏi học sinh bộc lộ sự hiểu biết và bày tỏ
lập trường công dân trước một số vấn đề xã hội.
154
b) Bài bình luận xã hội đòi hỏi phải thể hiện sự hiểu biết rõ ràng
về vấn đề xã hội được xét, bày tỏ lập trường, quan điểm, phương
pháp xem xét vấn đề (có lợi cho ai, vì ai), phân tích, đánh giá,
thuyết phục từng mặt, đề nghị thái độ đối xử và biện pháp giải
quyết với một nhiệt tình và trách nhiệm công dân.
Bình luận xã hội đòi hỏi một lời văn sáng rõ, chặt chẽ, có lí, có
tình để thuyết phục đông đảo người đọc.
2. Các chủ đề bình luận xã hội
Bình luận xã hội có thể đề cập tới rất nhiều mặt của đời sống xã
hội, từ vấn đề chính trị tư tưởng, văn hóa đến vấn đề đạo đức,
nhân sinh quan, thế giới quan …
a) Bình luận chính trị đề cập tới những chủ trương, đường lối
của Đảng và Nhà nước. Ví dụ, đề bài: Đất nước ta đang tiến
hành mở rộng dân chủ, Cương lĩnh xây dựng đất nước của Đảng
Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Dân chủ đi đôi với kỉ luận, kỉ
cương, phải được thể chế bằng pháp luật và được pháp luật bảo
đảm”.
Anh, chị hãy bày tỏ quan điểm của mình trước vấn đề được nêu.
b) Bình vấn đề xã hội bàn tới mọi vấn đề nảy sinh trong đời
sống xã hội. Ví dụ, đề bài: Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
có nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân
dân”. Anh, chị suy nghĩ gì về lời dạy của Người?
c) Bình luận vấn đề tư tưởng, văn hóa bàn đến mọi khía cạnh
của thế giới quan và nhân sinh quan của con người, về văn hóa,
tôn giáo, triết học, đạo đức, phương pháp tu tưởng. Ví dụ, đề
bài: có ý kiến cho rằng trong xã hội mới, cá tính con người dẽ
được phát triển toàn diện. Trong điều kiện đó, mỗi người cần
phải biết chấp nhận, thậm chí chịu đựng cá tính người khác.
Anh, chị suy nghĩ thế nào về thái độ của mình đối với những cá
tính khác mình?
155
II – CÁCH LÀM BÀI BÌNH LUẬN XÃ HỘI
1. Giới thiệu, trình bày, giải thích rõ vấn đề được bình luận
Đề bài bình luận bao giờ cũng nêu ra một vấn đề có tầm quan
trọng đối với đời sống xã hội, thường là dưới dạng một ý kiến.
Người làm bài phải vận dụng hiểu biết để giải thích rõ ý kiến đó,
trình bày cho cụ thể và đúng đắn vấn đề được nêu ra đó. Bởi vì,
nếu không có hiểu biết về vấn đề ấy thì cũng không thể bình
luận gì được.
Ví dụ, trong bài Bàn về thầy, trước hết Hàn Dũ xác định rõ thầy
là người như thế nào, sau đó mới bàn đến việc học thầy. Cũng
vậy, trong bài báo Phát huy tinh thần khoa học của Nguyễn
Khắc Viện thì việc đầu tiên là phải giải thích óc khoa học là thế
nào?
2. Phân tích các mặt đúng, sai, lợi, hại của vấn đề xã hội
được xét
Thực chất của bài bình luận là giúp cho người ta nhận thức được
vấn đề xem xét đúng, sai, lợi, hại như thế nào để có thái độ cho
thích hợp. Trong bài bình luận Thực hành tiết kiệm, chống tham
ô, lãng phí và bệnh quan liêu, do Chủ tịch Hồ Chí Minh viết, sau
khi xác định “tham ô là gì, lãng phí là gì, bệnh quan liêu là gì”,
Người đã chỉ rõ: tham ô tác hại thế nào, lãng phí nguy hiểm ra
sao và cuối cùng nhận định: tham ô lãng phí và bệnh quan liêu
là kẻ thù của nhân dân. Trong bài Bàn về óc khoa học, tác giả
nêu rõ: đầu óc khoa học ảnh hướng tới sự nhìn nhận và xử lí vấn
đề như thế nào, có tầm quan trọng như thế nào đối với cuộc
sống.
Để xác định được các mặt lợi, hại, đúng, sai, người bình luận
phải đề xuất tiêu chuẩn, lập trường. Trong các bài bình luận xã
hội, lập trường đó là các lợi ích chung của xã hội, của dân tộc,
của cộng đồng người và các thành viên trong đó. Vì vậy, người
viết thường nhân danh lợi ích xã hội, nhân danh nhu cầu tồn tại
và phát triển của mọi thành viên xã hội mà đề xuất và giải quyết
vấn đề.
156
Trong bài bình luận xã hội, các dẫn chứng lấy từ thực tế, các con
số thống kê, các sự kiện lịch sử đều có sức thuyết phục rất lớn.
Ví dụ, nói về bệnh “dùng chữ Hán”, Hồ Chí Minh từng lấy dẫn
chứng: không nói “ba tháng” mà lại nói “tam cá nguyệt”, không
nói “phòng cháy chữa cháy” mà nói “cứu hỏa”. Ông Phạm Văn
Đồng đè xướng viẹc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng việt cũng
đề nghị lựa chọn: nên dùng “vùng trời” thay cho “không phận”,
“đèn biển” thay cho “hải đăng” … Nghữn víe dụ như vậy cụ thể,
sinh động, giàu sức thuyết phục để mọi người quan tâm trau dồi
và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
3. Phân tích nguyên nhân và dự báo hậu quả
Để vấn đề xã hội đem bàn được nhận thức thấu đáo và gây được
sự quan tâm thực sự, người bình luận còn phải phân tích nguyên
nhân của vấn đè, cũng như dự báo hậu quả của chúng. Phân tích
các nạn tham ô, lãng phí, Hồ Chí Minh chỉ ra nguyên nhân là tệ
quan liêu, không quản lí chặt chẽ tài sản, không kiểm tra tới nơi
tới chốn, và tiếp theo, chỉ ra hậu quả: “Tham ô, lãng phí và bệnh
quan liêu dù cố ý hay không (…) cũng làm chậm trễ công cuộc
kháng chiến và kiến quốc. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và
ý chí vượt khó khăn của cán bộ ta”. Trong bài Bàn về đầu óc
khoa học, Nguyễn Khắc Viện nêu rõ: “Vì tính chất tương đối
của khoa học, cho nên trong rất nhiều cấn đề chưa kể kết luận
được”. Mà chưa kết luận được thì tất “sẽ có nhiều ý kiến, nhiều
giả thiết khác nhau”, có tranh luận, trao đổi, phải biết nghe “ý
kiến khác ý của mình” và có đầu óc “dân chủ”. Như vậy, phát
huy đầu óc khoa học sẽ nâng cao trách nhiệm của chúng ta đối
với ý kiến của mình. Bình luận như vậy rõ ràng làm cho tầm
quan trọng của vấn đề được nêu bật lên.
157
4. Kết luận
Kết bài của bài bình luận xã hội bao giờ cũng chốt lại một thái
độ cần phải có trước vấn đề xã hội được nêu ra, khẳng định cái
gì, phản đối cái gì, hướng tới hành động thực tiễn.
Một bài bình luận xã hội hay là bài nêu được vấn đề bức xúc,
thiết thực, biết nhận định đúng đắn bản chất vấn đề, phân tích
được nguyên nhân, hậu quả, có dẫn chứng thuyết phục và có
nhiệt tình công dân chân thật, có sức vang động trong lòng
người.
Yếu tố suy luận sắc bén cũng đóng vai trò rất lớn tạo thành sức
mạnh của bài bình luận.
BÀI TẬP
1. Đọc các mục Đề bài, Tìm hiểu đề, Dàn bài và Bài làm tham
khảo để nhận xét cách triển khai một đề bài thành bài viết trọn
vẹn.
Đề bài
Một nhà triết học nói: “Mỗi con vật khi sinh ra đều là tất cả
những gì mà nó có. Chỉ có con người là ngay từ thuở lọt lòng thì
chẳng là gì cả. Nó phải làm như thế nào thì nó sẽ được trở thành
như thế ấy, và nó phải tự làm bằng tự do của chính nó. Tôi chỉ
có thể trở thành kẻ do chính tôi làm ra”. Anh chị hãy bình luận
câu nói đó.
Tìm hiểu đề
Đề bài nêu một vấn đề rất quan trọng và lí thú: phẩm chất nhân
cách con người do chính con người tạo nên: “Tôi chỉ có thể trở
thành kẻ do chính tôi làm ra”.
158
Để làm đề này, trước hết hãy tìm hiểu nội dung tư tưởng trong
câu nói, xem nó đúng hay sai? Liệu tư tưởng đó có xem nhẹ vai
trò của môi trường, điều kiện khách quan của xã hội không? Có
quá coi trọng vai trò chủ quan không? Vậy nên hiểu câu nói đó
thế nào cho đúng? Hãy vận dụng vốn kiến thức để kiểm tra xem
câu nói đó đúng như thế nào?
Nếu đúng thì em phải làm gì để trở thành con người mà em
mong muốn?
Dàn bài
a) Mở bài
Giới thiệu vấn đề bình luận, dẫn câu nói của nhà triết học.
b) Thân bài
- Giới thiệu tư tưởng cơ bản của câu nói:
+ Đặc điểm của con vật.
+ Đặc điểm của con người và nhiệm vụ trở thành người đặt ra
cho mỗi người.
- Đánh giá câu nói đúng hay sai?
+ Vai trò của điều kiện gia đình, xã hội rất quan trọng nhưng
không quyết định.
- Vai trò của bản thân cá nhân mỗi người là quyết định.
- Nêu các ví dụ chứng minh.
c) Kết bài
Vai trò quyết định của mỗi người đối với số phận của mình.
159
BÀI LÀM THAM KHẢO
Con người khác con vật ở chỗ nó dự phần quyết định vào việc
tạo dựng nên nhân cách của nó. Chính vì vậy, một nhà triết học
có nói: “Mỗi con vật khi sinh ra đều là tất cả những gì mà nó có.
Chỉ có con người là ngay từ thuở lọt lòng thì chẳng là gì cả. Nó
phải làm như thế nào thì nó sẽ được trở thành như thế ấy, và nó
phải tự làm bằng tự do của chính nó. Tôi chỉ có thể trở thành kẻ
do chính tôi làm ra”. Câu nói đó chẳng những nêu bật sự khác
nhau giữa con người và con vật, mà còn nhấn mạnh tới vai trò
con người trong việc hình thành nhân cách của mình.
Thật vậy, mỗi con vật khi sinh ra đều đã là tất cả những gì mà
nó có. Điều đó có nghĩa là con vật được sinh ra như thế nào thì
nó sẽ lớn lên như thế ấy. Một con chó sói sinh ra thì sẽ trở
thành con chó sói, một con chim được sinh ra thì sẽ trở thành
một con chim. Dĩ nhiên phải có thời gian để con chó sói trưởng
thành, tự kiếm ăn và tự vệ, để con chim con được lớn, mở mắt,
biết bay đi kiếm mồi. Nhưng qua thời gian đó, con sói và con
chim trưởng thành vẫn chỉ là con vật được quy định trong bộ
gen của nó. Con vật được sinh ra trong trạng thái đã tự đầy đủ.
Con người thì khác hẳn, khi sinh ra tự nó không đầy đủ, không
là gì cả. Một em bé sơ sinh đang oa oa chào đời, tự em không
thể sống được nếu thiếu sự chăm sóc, bú mớm, đùm bọc của
người mẹ. Em sẽ không trở thành người được nếu không biết
nói, biết đọc, biết viết, biết giao tiếp với cộng đồng. Em sẽ
không có chỗ đứng trong xã hội nếu em không có một nghề
nghiệp nào đó. Rồi em có thể có được một nghề nào không, em
sẽ trở thành người tốt hay xấu, chưa ai có thể quả quyết được.
Vậy là con người, do khi lọt lòng tự nó không đầy đủ cho nên
mỗi người sinh ra đều mang theo một nhiệm vụ: hãy trở thành
một con người!
Ai chịu trách nhiệm làm cho một con người trở thành một con
người? Xã hội hay cá nhân? Tại sao nhà triết học nói con người
làm như thế nào thì nó sẽ trở thành như thế ấy, như vậy có coi
nhẹ điều kiện xã hội hay không? Có quá coi trọng vai trò của
chủ thể cá nhân hay không?
160
Xét về điều kiện, thì gia đình, xã hội là điều kiện để con người
trở thành con người. Cha mẹ bú mớm, nuôi nấng, dạy dỗ. Xã hội
cung cấp trường học, sách vở, kiến thức, ngành nghề. Các điều
kiện này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thử tưởng tượng một
con người sinh ra trong một gia đình nghèo túng, ăn không đủ
no lại phải làm việc để sống thì sẽ như thế nào? Lại tưởng tượng
một người sinh ra trong một gia đình giàu có, đầy đủ tiện nghi
sinh hoạt và học tập thì như thế nào? Nếu một con người ở nơi
hẻo lánh, xa trung tâm văn hóa, thiếu trường sở, ít giao lưu thì
thế nào? Một người khác ở thành phố lớn, nhiều trường tốt, có
nhiều thầy giỏi thì sẽ ra sao? Rõ ràng điều kiện tốt là rất thuận
lợi và điều kiện xấu là hết sức khó khăn. Nhưng điều kiện không
thể là cái quyết định tất cả. Nhiều người khi sinh ra trong nhà
giàu chỉ biết hưởng thụ, lười biếng. Nhiều người xuất thân
nghèo hèn lại có chí vươn lên. Ở đây hoạt động tích cực, chủ
động sáng tạo của mỗi người vẫn là yếu tố quyết định việc sử
dụng điều kiện như thế nào.
Khi nói tôi sáng tạo ra tôi, tôi tự làm ra chính tôi, không có
nghĩa là tôi muốn trở thành cái gì cũng được, làm cái gì cũng
được. Một người mà không có giọng hát trời phú thì không thể
trở thành danh ca; một người không có thể chất tốt không thể trở
thành vận động viên triển vọng … Nhưng khi đã có một số điều
kiện nào đó thì việc phát huy điều kiện tốt, khắc phục điều kiện
xấy phụ thuộc chủ yếu vào vai trò cá nhân có điều kiện ấy.
Con người làm như thế nào thì nó sẽ được trở thành như thế ấy.
Đúng như vậy, con người được tự do lựa chọn để tự thực hiện
mình theo một lí tưởng nhất định. Nhà sư Tuệ Tĩnh đi tu, nhưng
ông tự hoc để trở thành một thầy thuốc vĩ đại của dân tộc. Ông
Tư Mã Thiên đời Hán bị nhục hình, nhưng ông chu du khắp
nước, thu thập tài liệu để hoàn thành bộ Sử kí nổi tiếng … Lỗ
Tấn đã tốt nghiệp trường khai mỏ, nhưng niềm băn khoăn cho số
phận dân tộc dẫn ông đến nghề văn. Paxtơ thi đỗ vào trường sư
phạm nhưng niềm say mê hóa học và sinh học làm ông dồn sức
vào những môn khoa học này và cuối cùng trở thành nhà bác
học về vi trùng và phòng dịch vĩ đại. Ngay trước cái chết con
người vẫn có cơ hội để khẳng định mình. Câu nói của Trần Bình
trọng “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn là vương đất bắc” đã
khích lệ bao nhiều thế hệ người Việt Nam yêu nước. Anh
Nguyễn Ngọc Kí liệt hai tay vẫn học viết bằng chân …
161
Rõ ràng điều kiện, hòan cảnh có vai trò quy định như thế nào,
con người vẫn chịu trách nhiệm trước nhân cách của mình. Hiểu
được điều này, mỗi người cần thấy hết trách nhiệm của mình
trước cuộc đời của mình trong từng hành động lớn nhỏ.
Trước mỗi con người, cuộc đời mở ra muôn ngả. Con người có
thể chọn một nghề phù hợp với khả năng, sở trường của mình.
Nhưng khả năng, sở trường của con người chỉ có thể thực sự
phát huy khi nó gắn liền với mục đích cao đẹp phục vụ con
người, phục vụ xã hội và nhân loại.
Không phải ai cũng hiểu được trách nhiệm của mình đối với
cuộc đời của mình. Gặp khó khăn, trắc trở, người ta thường than
thở, viện ra nào hoàn cảnh, nào số phận, rồi buông xuôi, gặp sao
hya vậy. Nhưng tư tưởng đúng đắn thì cho thấy ngòai hoàn
cảnh, yếu tố quyết định số phận mỗi người là chính người đó.
2. Trả lời câu hỏi:
a) Yêu cầu của bài bình luận xã hội.
b) Cách làm bài văn bình luận vấn đề xã hội.
3. Lập dàn ý các đề văn sau đây:
a) Bình luận câu ngạn ngữ Hi Lạp: “Học vấn có những chùm rễ
đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt ngào”.
b) Bình luận câu nói sau đây của Điđơrô: “Nếu không có mục
đích, anh không làm được điều gì cả. Anh cũng không làm được
cái gì vĩ đại nếu mục đích tầm thường”.
162
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. BÀN VỀ THẦY
Những người theo đòi học vấn thời xưa ai cũng có thầy. Thầy là
kẻ truyền đạo, dạy nghề, giảng giải những điều ngờ vực. Con
người không phải sinh ra là đã hiểu biết mọi nhẽ, ai mà chẳng có
những điều ngờ vực? Ngờ vực mà không học thầy thì cái điều
ngờ vực ấy cuối cùng cũng không giải quyết được. Những người
sinh ra trước ta, cố nhiên họ biết về đạo trước ta, ta theo mà học
họ; những người sinh ra sau ta, học cũng có thể biết về đạo
trước ta, ta theo mà học họ. Ta cốt học cái đạo, cần gì phải biết
là họ sinh ra trước ta hay sau ta? Vì thế cho nên bất luận địa vị
cao hay thấp, nhiều tuổi hay nhỏ tuổi, nơi nào có đạo thì ở đó có
thầy vậy
Than ôi, cái lẽ học thầy từ lâu đã thất truyền thì có muốn cho
người ta hết điều ngờ vực cũng khó lắm thay! Các thánh nhân
ngày xưa, cái hơn người đã hẳn rồi, vậy mà còn tìm thầy để học
hỏi. Đám đông ngày nay sự thua kém về thánh nhân cũng đã hẳn
rồi, thế mà còn lấy việc học thầy làm xấu hổ, vì thế nên bậc
thành thì càng thánh mà kẻ ngu lại càng ngu. Bậc thánh sở dĩ là
thánh, kẻ ngu sở dĩ là ngu lí do cũng chỉ như thế mà thôi!
Những kẻ yêu con biết chọn thầy dạy con, cũng vẫn coi việc
mình học người là xấu hổ, thật là lầm vậy. Ông thầy dạy trẻ em
đọc sách và tập ngắt câu đâu phải là kẻ truyền đạo, giảng giải
điều ngờ vực như tôi nói đâu. Không biết ngắt câu thì tìm thầy
mà học, còn có những điều ngờ vực thì lại không tìm thầy mà
học. Học cái nhỏ mà bỏ cái lớn, tôi chẳng thấy họ sáng suốt chút
nào. Thầy cúng, thầy thuốc, thầy nhạc, người làm các nghề khác
đều không coi việc học hỏi nhau là xấu hổ. Còn những kẻ có
học, làm quan, thì mỗi khi nói ai là thầy của ai, ai là trò của ai
thì túm tụm mà cười. Hỏi tại sao thì nói: “Kẻ ấy và kẻ kia đều
cùng trạc tuổi với nhau, học vấn cũng tương tự nhau thôi. Học
kẻ địa vị thấp hơn mình thì cảm thấy là sỉ nhục, mà học kẻ địa vị
cao hơn mình thì cảm thấy như là a dua.”. Chao ôi, cái đạo học
thầy không còn, nghe thế cũng đủ biết vậy. Thầy cúng, thầy
thuốc, thầy nhạc, người làm các nghề khác nhau, nhưng kẻ quân
tử đều xem thường cả, cho nên nay tri thức của họ không bằng
những kẻ kia, vậy mà họ vẫn còn lấy làm lạ!
163
Kẻ thánh nhân không có thầy cố định. Khổng tử đã học Đàm
Tử, Trường Hoàng, Sư Nhương, Lão Đam(1). Loại người như
Đàm Tử về mặt đức hiền đều không bằng Khổng Tử. Khổng Tử
nói “Cứ trong ba người cùng đi tất có một người có thể làm thầy
ta”. Vì thế, học trò không nhất thiết phải thua thầy, thầy cũng
không nhất thiết phải hiền đức hơn trò. Thầy trò chỉ khác nhau
một điều là biết về đạo trước và sau, nghề nghiệp tinh và không
tinh, có thế mà thôi (…).
(Hàn Dũ)
Chú thích:
Đàm Tử, vua nứơc Đàm, Khổng Tử từng hỏi ông ta về tên gọi
quan chức thời cổ đại. Trường Hoằng, đại phu thời Chu Kính
Vương, Khổng Tử từng theo học âm nhạc. Sư Nhương, thầy
nhạc, Khổng Tử từng theo học đàn. Lão Đam – tức Lão Tử -
Khổng Tử từng hỏi ông về lễ nhà Chu.
2. PHÁT HUY TINH THẦN KHOA HỌC
Khoa học xuất phát từ ý thức muốn cải tạo đời sống, không chịu
thỏa mãn với cách làm ăn, vốn hiểu biết hiện có. Con người
khoa học luôn luôn tự đặt câu hỏi: Hiện tượng này vì đâu mà
có? Tại sao việc này lại không chạy? Làm thế nào để cải tiến
việc kia? Nhiều sự việc đối với mọi người thì rất bình tường,
nhưng lại không để cho người khoa học ngồi yên, cứ buộc họ
phải ngạc nhiên, băn khoăn, buộc họ phải suy nghĩ. Vì đâu? Tại
sao? Làm thế nào? Tự mãn với hiện tại là hoàn toàn xa lạ với óc
khoa học. Một người cho rằng trong đời mình, chung quanh
mình không có gì đáng suy nghĩ nữa cả, không có nhiều đêm
trằn trọc vì vấn đề này nọ, chắc chắn không có óc khoa học, có
khi còn chống lại khoa học là khác. Có mặt tại cơ quan tám giờ
đầy đủ, chưa đến giờ là chưa mở máy suy nghĩ, kẻng đánh lại
khóa mày, cũng chưa phải là con người khoa học. Người khoa
học bao giờ cũng tập trung suy nghĩ một vấn đề gì, không kể giờ
giấc. Không có say mê, không có khoa học.
164
Nhưng say mê nhiệt tình chưa đủ, càng nóng lòng giải quyết
một vấn đề, lại càng dễ rơi vào một chứng xấu mà khoa học kị
nhất, đó là bệnh chủ quan. Con người khoa học lòng nóng bỏng
nhưng trí óc lại nguội lạnh, khách quan điều tra, quan sát, tìm
tòi, không vội vàng kết luận. Quan sát, điều tra bình thường,
nghĩa là ở mức xem xét theo kinh nghiệm, theo cảm giác tự
nhiên, theo hiện tượng bên ngoài, chưa nắm được một phương
pháp nào để đi sâu vào sự vật, thì chưa đủ. Như dùng bàn tay sờ
vào trán bệnh nhân rồi bảo sốt nặng hay nhẹ chưa phải là khoa
học. Cảm giác chủ quan rất cần thiết, hiểu biết của con người
bắt nguồn từ đó nhưng cảm giác luôn luôn biến động tùy theo
tình trạng của con người. Tay vừa cầm tảng nước đá, sờ vào vật
gì cũng cảm thấy nóng. Thêm nữa giác quan của con người chỉ
hoạt động trong những giới hạn nhất định. Tay không thể phân
biệt được độ nóng của hai lò lửa khác nhau, tai không thể phân
biệt được những dao động tần số quá cao hay quá thấp. Cho nên,
cần có một phương pháp quan sát sự vật khách quan để hỗ trợ
cho giác quan của con người, nhưng không lấy cảm giác bàn tay
xét nóng lạnh, mà lấy ảnh hưởng của sức nóng đến một chất
nhất định, làm giãn chất ấy nhiều hay ít. Một cột thủy ngân, một
đoạn dây thép vì nóng giãn ra, kéo dài ra nhiều hay ít không
những là bằng chứng của sức nóng, mà còn trở thành thước đo
chính xác. Lúc ấy, người thầy thuốc không còn nói sốt ít hay
nhiều một cách mơ hồ, mà nói nhiệt độ lên 30 hay 40 độ, người
kĩ sư không nói lò này rất nóng hay còn nguội mà nói nhiệt độ
đã lên đến 1000 hay 500 độ C. Có một phương pháp đi sâu vào
sự vật thì mới thực sự phân tích được vấn đề, cũng như có con
dao bổ quả bưởi, tách nó ra từng múi, mới thấy rõ cấu trúc của
nó.
165
Phương pháp quan sát, điều tra khoa học buộc người ta bám sát
sự vật, và trong quá trình bám sát ấy thường phát hiện ra những
điều mới. Như mỗi lần chẩn đoán một bệnh, không ngừng ở
cảm giác và suy luận chủ quan, cho nên đến một lúc nào đó sẽ
vấp phải một sự việc không ăn khớp với ước lượng của mình.
Tại sao một bệnh trạng rất giống lao hay sốt rét, mà tìm mãi
không ra vi trùng, kí sinh trùng các bệnh ấy? Những trường hợp
như vậy buộc người nghiên cứu phải tìm cho ra manh mối, nhờ
vậy phát hiện ra hoặc những loại bệnh mới, hoặc những phương
pháp nghiên cứu quan sát mới, tinh vi hơn. Có luôn luôn đối
chiếu ý nghĩ của mình với sự vật bằng những phương pháp
khách quan thuần xuất phát từ một số hiểu biết hay nguyên lí
nhất định, suy diễn ra một vài kết luận, rồi ngừng ở đấy, đinh
ninh đấy là chân lí. Nghiên cứu phát hiện vấn đề, giải quyết vấn
đề là cả một quá trình đối chiếu đi đối chiếu lại, cọ xát chứng
nghiệm nhiều lần giữa thực tế và ý kiến chủ quan của mình (…).
Nếu ý nghĩ chủ quan, giả thiết chỉ có giá trị tạm thời thì ngay cả
những kết luận, những chân lí được xác định rõ ràng cũng chỉ có
giá trị tương đối. Vì sự thật là vô tận, tri thức của con người dù
cao xa đến đâu cũng chỉ nắm được một khía cạnh, một phần
nào.
Vì tính chất tương đối của khoa học, cho nên trong rất nhiều vấn
đề chưa thể kết luận được.
Đối với những vấn đề chưa giải quyết, sẽ có nhiều ý kiến, nhiều
giả thiết khác nhau. Sẽ có tranh luận, có trao đổi. Không tranh
luận, không trao đổi, không có khoa học. Không có gì nguy
hiểm bằng không bao giờ được nghe một ý kiến khác ý của
mình. Nghe mà phải tôn trọng, dù điều ấy có thể làm sụp đổ bao
nhiêu suy nghĩ mà mình đã công phu xây dựng lên. Chỉ muốn
nghe những người nhất trí với mình, những điều thuận tai là một
thái độ phản khoa học. Óc khoa học nhất định phải đi đôi với óc
dân chủ.
166
Một người khoa học bao giờ cũng hành động và suy nghĩ theo
hai chiều hướng trái ngược nhau. Trong hành động thì tinh thần
tổ chức kỉ luận rất cao, chính vì biết rõ quan hệ chặt chẽ giữa ý
kiến và hành động, biết rõ ý kiến là cơ sở của hành động, không
thể vì chủ quan mà gây nên tai hại cho người khác và xã hội.
Nhưng khi suy nghĩ thì hoàn toàn giữ quyền độc lập và cố gắng
tìm hiểu ý kiến của người khác. Nếu chưa được thuyết phục, và
nếu đủ lí để nghĩ rằng ye của mình đúng hơn, thì dù có phải
tranh luận với bất kì ai, có khi bị cả một số đông phản đối vẫn
bảo vệ lấy ý kiến riêng. Khoa học phải đi đôi với dũng khí.
Yêu cầu của cách mạng đòi hỏi mọi người nhanh chóng học tập
tiến tới một trình độ khoa học nhất định. Nhưng thái độ đối với
những con người khoa học còn quan trọng hơn nữa. Cần hiểu
rằng chính vì những người khoa học chân chính bao giờ cũng có
óc độc lập suy nghĩ, cho nên hay “có ý kiến”, học thường tập
trung suy nghĩ một vấn đề nào đó, cho nên không thể tham gia
một số công tác “xã hội” hoặc “đoàn thể”. Xã hội cần đánh giá
đúng, tức đánh giá cao cái say mê đó. Điều mà nước ta cần phát
huy cao nhất là sự say mê lao động, say mê khoa học. Trong
hoàn cảnh hiện nay, đứng trước rất nhiều khó khăn trong đời
sống do 30 năm chiến tranh gây ra, say mê về khoa học kĩ thuật
sẽ giúp giữ vững lạc quan cách mạng, thấy rõ với khoa học kĩ
thuật hiện đại có thể nhanh chóng đẩy mạnh lao động sản xuất,
hàn gắn vết thương chiến tranh và nâng cao mức sống của toàn
dân.
(Nguyễn Khắc Viện)
167
3. TỰ HỌC – MỘT CHÌA KHÓA VÀNG CỦA GIÁO DỤC
Tự học – Chuyện cũ mà mới
Lênin nói: “Học, học nữa, học mãi”. Hồ Chí Minh nói: “Lấy tự
học làm cốt”. Einstein nói: “Kiến thức chỉ có được qua tư duy
của con người”. Một nhà khoa học Pháp nói: “Văn hóa không
nhận được từ ngoài vào mà là kết quả của việc làm bên trọng,
một việc làm của mình với mình” … Chúng ta có thể trích dẫn
hàng trăm, hàng ngàn danh ngôn về việc tự học của Đông Tây
kim cổ, ngoài nước và trong nước. Và, trong đời sống văn hóc,
khoa học trong và ngoài nước, xưa và nay, cũng có thể dẫn ra rất
nhiều tấm gương tự học của các danh nhân chính trị, nhà văn
hóa hay khoa học lớn thành nhân và thành danh phần quan
trọng là nhờ tự học.
Từ những dữ kiện lí luận cũng như thực tiến chúng ta có thể
khẳng định rằng chuyện tự học không phải là vấn đề mới lạ. Có
lạ chăng là sự khôn ngoan đã từng giúp ích cho con người khôn
lớn lên nhưng rồi nhiều khi chính con người lại bỏ quên những
kinh nghiệm quý giá đó, biến nó thành một thứ kho báu chìm
lẫn trong lớp bụi thời gian.
Điều thứ hai có thể khẳng định thêm từ những dữ kiện trên là tự
học đã từng là một kinh nghiệm quý giá, một chìa khóa vàng
cho sự thành đạt với những ai biết sử dụng nó trong hành trang
lập nghiệp của mình. Thế nhưng, tiếc thay cho đến nay những
năm cuối cùng của thế kỉ XX, chúng ta vẫn chưa có được một
tổng hợp kinh nghiệm, một chuyên luận về tự học. Thông tin
khoa học càng phát triển thì vấn đề tự học càng được đặc biệt đề
cao.
Bí mật và bí quyết của tự học
1) Tự học – con đường khắc phục nghịch lí: học vấn thì vô hạn
mà tuổi học đường thì có giới hạn. Xu hướng hiện đại cố rút
ngắn thời gian đào tạo ở phổ thông có nơi chỉ bốn hoặc năm
năm, thời gian ở đại học từ ba đến bốn năm. Cách gì đi nữa thì
thời gian ngồi trên ghế học đường cũng có giới hạn nghiêm ngặt
của nó. Để tiếp tục con đường học vấn trên đại học không phải
ai cũng có điều kiện và hoàn cảnh cho phép. Tự học, tự bổ túc
kiến thức, cập nhật hóa thông tin các mặt của một công dân hay
của một nhà chuyên môn, không có con đường nào khác là tự
học. Tự học để tự phát triển; bằng không là tự mình vô hiệu hóa.
168
2) Tự học – con đường cứu giúp cho mỗi con người trước mâu
thuẫn giữa khát vọng cao đẹp về học vấn với hoàn cảnh khắc
nghiệt ngặt nghèo của cuộc sống cá nhân. Không phải ai sinh ra
cũng được học hành, nhất là trong xã hội cũ. Không phải ai sinh
ra cũng được đến trường. Có người không may mắn sớm phải
bươn chải kiếm sống; có người mang chí lớn lập thân nhưng
hiện thực lại khắc nghiệt. Gorki, nhà đại văn hào của thế giới đã
từng sớm nếm vị đắng cay của cuộc đời kiếm sống. Hồ Chí
Minh sớm vật lộn với sóng gió cuộc đời để nuôi thân và nuôi chí
lớn. Biết bao vĩ nhân, danh nhân thế giới – niềm vinh hạnh cho
loài người, đã thành đạt từ trong đấu tranh cách mạng và trong
cuộc đấu tranh chống sự thất học bằng con đường tự học. Nếu
nghiên cứu tiểu sử của các nhà khoa học xuất thân bình dân
trong và ngoài nước, chúng ta sẽ thấm thía hơn sức mạnh kì diệu
của tự học.
3) Tự học là con đường thử thách rèn luyện và hình thành ý chí
cao đẹp của mỗi người trên con đường lập nghiẹp. Không ai
thành đạt mà không có chí lớn. Chí làm chính trị cứu dân, cứu
nước. Chí làm nhà khoa học. Chí là một nhà kinh tế … Muốn
thực hiện được chí lớn thì phải nâng cao đức hạnh và học vấn.
Muốn nâng cao học vấn thì ngoài việc học tập tại các nhà trường
phải thường xuyên tự học. Tự học là biểu hiện của chí lớn lập
nghiệp của mỗi con người trên con đường hòa nhập vào cộng
đồng. Chúng ta còn nhớ cảnh tự học ngoại ngữ của Bác Hồ hồi
còn trẻ, những ngày Người phải lênh đênh kiếm sống trên con
tàu nơi biển cả hay trong những ngày xúc tuyết ở Luân Đôn.
Chúng ta cũng không quên phút giây xúc động khi Bác Hồ tìm
được Luận cương của Lênin lúc Người đang tìm đường cứu
nước. Các chiến sĩ cộng sản, nhiều người đến với cách mạng với
vốn văn hóa nghèo nàn nhưng trong nhà tù họ đã tự học, vươn
lên chiếm lĩnh tri thức nhiều mặt, kể cả văn hóc và đã trở thành
những nhà chính trị xuất sắc.
169
Vị Tổng thống mới nhất của Hàn Quốc hôm nay từng lĩnh án tử
hình rồi chung thân rồi hạ xuống hai mươi năm. Hai mươi năm
trong tù ông đã tự học tiếng Anh. Ra tù bị trục xuất là ông nhập
học ngay vào các trường đại học danh tiếng của Mĩ, Nah, Nga
và ở tuổi 72 con người thuộc phe đối lập ấy đã tranh được quyền
tổng thống sau hơn ba mươi năm chịu bao phong trần, trong đó
có nghị lực tự học để vươn lên danh vọng.
Gần gũi chúng ta hơn là các nhà khoa học, nhà sư phạm quen
biết của Việt Nam đã thành đạt theo con đường tự học. Các Giáo
sư, Nhà giáo nhân dân như Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Trí Viễn, Lê
Đình Kỵ … và tiếp theo sau là cả một thế hệ những Giáo sư có
tên tuổi của Việt Nam hiện nay cũng vươn lên bằng con đường
tự học là chính. Có người là Giáo sư danh tiếng nhưng vốn liếng
bắt đầu chỉ là trình độ lớp 10 phổ thông. Có người cũng chưa hề
đi tu nghiệp nước ngoài lần nào nhưng kết quả tự học đã được
nhà nước và nhân dân công nhận và phong tặng các chức danh
cao quý.
4) Tự học là con đường tạo ra trí thức bền vững cho mỗi con
người trên con đường học vấn thương xuyên của cả cuộc đời.
Tâm lí học hoạt động gần đây cũng như tâm lí học nhận thức
vẫn thường nhấn mạnh đến tính năng động của chủ thể trong
nhận thức hiện thực khách quan. Sư phạm học hiện đại đề cao
nguyên lí học là công việc của từng cá thể. Tri thức thu nhận
thông qua việc làm hay nói rộng ra thực chất gọi là quá trình thu
nhận tri thức phải là quá trình tư duy bên trong của bản thân chủ
thể. Quá trình tự học khác hẳn với quá trình học tập thụ động
nhồi nhét, áp đặt theo phương thức thông tin – tiếp thụ. Quá
trình tự học diễn ra đúng quy luật của hoạt động nhận thức. Kiến
thức tự học là kết quả của hứng thú, của tìm tòi, của lựa chọn,
của định hướng ứng dụng. Kiến thức tự học bao giờ cũng vững
chắc bền lâu, thiết thực và nhiều sáng tạo.
170
Các nhà tâm lí học hoạt động đã làm nhiều thí nghiệm cho rằng
kiến thức lí thuyết thu nhận được khi đưa vào một tình huống
ứng dụng thường là rất lúng túng tuy kiến thức lí thuyết cần ứng
dụng có khi chỉ là loại kiến thức rất thông thường như diêm có
thể đốt cháy nến và nến chảy thì trọng lượng cây nến thay đổi.
Thế nhưng nhà tâm lí học Maiamin chứng minh rằng nhiều
nhóm thí nghiệm vẫn không ứng dụng được tri thức sơ đẳng đó
vào cuộc thí nghiệm cân bằng trọng lượng.
5) Tự học đang trở thành chìa khóa vàng trong thời đại bùng nổ
thông tin ngày nay. Trong bản Thông điệp 97 của Tổng thống
Mĩ Clintơn khi nói về mục tiêu giáo dục lứa 8 tuổi, lứa 12 tuổi
và tuổi vào đại học cũng nhấn mịnh đến khả năng tự học sau khi
rời trường đại học. Không có nền giáo dục hiện đại liên tiếp nào
ngày nay không nhấn mạnh đến nỗ lực cá nhân, vấn đề tự học,
tự mình phát triển, tự mình giáo dục, tự mình điều khiển. Tốc độ
thông tin ở cấp vũ trụ, nhu cầu luân chuyển tri thức diễn ra dữ
dội và ngày càng dữ dội trong cuộc vận hành cơ chế thị trường
sôi động và khắc nghiệt. Cho nên khả năng thích ứng, hòa nhập,
tự khẳng định cá nhân trong guồng máy văn hóa kinh doanh lập
nghiệp ngày nay đòi hỏi mỗi thành viên trong cộng đồng không
ngừng tự bổ túc tri thức bằng con đường tự học. Tự học là con
đường tự khẳng định, là con đường sống, con đường thành đạt
của mỗi ai muốn vươn lên đỉnh cao trí tuệ của thời đại thông tin
siêu tốc ngày nay.
6) Tự học là chìa khóa vàng càng cần được mài sáng thêm trong
giai doạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nuwocs trong thế kỉ
XXI. Cũng có thể nghĩ rằng tự học là con đường dân chủ hóa, xã
hội hóa giáo dục và khoa học một cách có hiệu lực nhằm phát
huy, tận dụng tiềm năng to lớn của mỗi thành viên cộng đồng
trong sự nghiệp đi nhanh đón đầu lên đỉnh cao khoa học công
nghệ hiện đại.
171
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước càng phải là kết quả của ý chí nghị lực và
trí tuệ cộng động người Việt Nam. Muốn cho mỗi người có thể
góp phần vào sự nghiệp vinh quang đó, không thể không huy
động tiềm năng trí tuệ của mỗi công dân. Dân chủ hóa, xã hội
hóa giáo dục không chỉ trên phương diện hưởng thụ giáo dục
hay huy động tiền của nhân dân mà còn là sự huy động chất xám
cho giáo dục. Tự học, tự vươn lên cuộc sống và hoạt động xã
hội của bản thân chính là con đường tích lũy và đầu tư chất xám
trí tuệ cho sự nghiệp chung của đất nước trong vận hội mới ngày
nay.
Tự học xét cho kĩ là một vấn đề then chốt của giáo dục – đào tạo
đồng thời cũng là một vấn đề có ý nghĩa văn hóa, khoa học xã
hội và chính trị sâu sắc. Đề cao tự học trong bối cảnh hiện nay
của đất nước và thế giới, trong thế kỉ XXI là một cách nhìn vừa
thực tế vừa có ý nghĩa chiến lược. Tuy nhiên, để kết thúc bài
viết, tôi vẫn nghĩ rằng khi nhấn mạnh những ưu điểm và ưu thế
của tự học, chúng ta không hề đối lập hay hạ thấp tác dụng to
lớn của học đường chính quy, nhất là vai trò to lớn của những
nhà trường hiện đại về phương thức đào tạo. Có nhà sư phạm
nổi tiếng Nga đã từng nói một cách chí lí, đại ý là ai không được
đào tạo một cách chính quy có hệ thống ở nhà trường thì những
lỗ hổng học vấn sẽ theo đuổi suốt cả một đời người. Tự học
không thay thế được học tập chính quy và hệ thống. Song đó là
chủ đề của một bài viết khác.
(Phan Trọng Luận)
172
ĐỀ BÀI VÀ GỢI Ý LÀM VĂN
(Theo phân phối của chương trình: 8 bài, 16 tiết)
A – PHẦN VĂN HỌC VIỆT NAM
BÀI LÀM VĂN SỐ 1
(Giải thích, chứng minh)
Đề 1
Dựa vào các tác phẩm Truyện và kí, Nhật kí trong tù của Hồ Chí
Minh, hãy giải thích và chứng minh ý kiến:
“Văn thơ của Hồ Chí Minh có một phong cách nghệ thuật hết
sức phong phú và đa dạng”.
Đề 2
Chứng minh nghệ thuật châm biếm đặc sắc của Nguyễn Ái
Quốc qua tác phẩm Vi hành.
Đề 3
Trong bài đọc “Nhật kí trong tù”, nhà phê bình Hoài Thanh viết:
“Nhật kí trong tù là một tiếng nói chứa chan tính nhân đạo”.
Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào?
173
Đề 4
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
(Cảm hứng đọc “Thiên gia thi”)
Anh chị hiểu như thế nào về hai câu thơ trên? Và chứng minh
rằng quan niệm văn chương này đã được Hồ Chí Minh thể hiện
đẹp đẽ trong các sáng tác của Người.
Đề 5
Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung.
(Tố Hữu – Theo chân Bác)
Bốn câu thơ trên giúp cho anh chị hiểu gì về con người Hồ Chí
Minh qua Nhật kí trong tù?
BÀI LÀM VĂN SỐ 2
(phân tích văn học - văn xuôi)
Đề 1
So sánh tính cách của hai nhân vật Độ và Hoàng trong tác phẩm
Đôi mắt của Nam Cao.
Đề 2
Anh chị có nhận xét gì về “đôi mắt” của nhân vật Hoàng trong
truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao?
174
Đề 3
Phân tích đặc sắc nghệ thuật văn xuôi của Nguyên Hồng qua
đoạn văn Huệ chi trước lễ cưới
Đề 4
Phân tích tùy bút Tờ hoa của Nguyễn Tuân để thấy được chất
uyên bác và tài hoa của nhà văn.
Đề 5
Phân tích nghệ thuật miêu tả những biến đổi tâm lí của nhân vật
Đào trong tác phẩm Mùa lạc của Nguyễn Khải.
Đề 6
Phân tích những diễn biến tâm lí của Mị từ chỗ bị A Sử trói
trong đêm hội mùa xuân đến hành động cởi trói cho A Phủ.
Đề 7
Chiến tranh qua đã lâu nhưng vì sao vẻ đẹp của Nguyệt trong
Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu) đến nay vẫn còn
hấp dẫn người đọc? Anh chị hãy phân tích và lí giải hiện tượng
đó.
BÀI LÀM VĂN SỐ 3
(phân tích văn học – thơ)
Đề 1
Phân tích hai bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Bên kia sông
Đuống của Hoàng Cầm để làm nổi rõ tình cảm yêu nước và cảm
hứng lãng mạn của thơ Việt Nam những năm đầu kháng chiến
chống Pháp.
175
Đề 2
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi để làm nổi rõ
những cảm hứng về đất nước của nhà thơ.
Đề 3
Phân tích cảm nhận nỗi đau của cha ông ta qua bài thơ Các vị La
Hán chùa Tây Phương của Huy Cận.
Đề 4
Phân tích hiệu quả nghệ thuật đối lập quen thuộc của Chế Lan
viên qua bài thơ Người đi tìm hình của nước.
BÀI LÀM VĂN SỐ 4 VÀ SỐ 5
(bình giảng văn học)
Đề 1
Bình giảng bài thơ Chiều tối trong Nhật kí trong tù
Đề 2
Bình giảng bài thơ Khi con tu hú:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng vàng
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không …
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngòai trời cứ kêu!
Huế, tháng 7 – 1939
Tố Hữu
176
Đề 3
Bình giảng đoạn thơ sau trích trong bài Bên kia sông Đuống của
Hoàng Cầm
… Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt dùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu.
Đề 4
Bình giảng bài thơ Đồng Chí của chính Hữu.
Đề 5
Kết thúc bài thơ Mẹ Tơm, Tố Hữu xúc động viết:
Ôi bóng người xưa, đã khuất rồi
Tròn đôi nấm đất trắng chân đồi
Sống trong cát chết vùi trong cát
Những trái tim như ngọc sáng ngời!
Đốt nén hương thơm, mát dạ Người
Hãy về vui chút, mẹ Tơm ơi!
Nắng tươi xóm ngói, tường vôi mới
Phấp phới buồm giong, nắng biển khơi …
Hãy bình giảng hai khổ thơ trên để làm nổi bật những suy ngẫm
sâu lắng của nhà thơ trước nấm mồ người đã khuất.
177
Đề 6
Mở đầu bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương, Huy Cận viết:
Các vị La Hán chùa tây phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương
Há chẳng phải đây là xứ Phật,
Mà sao ai nấy mặt đau thương?
Và đến giữa bài thơ, tác giả viết tiếp:
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau …
Hãy bình giảng hai khổ thơ trên.
BÀI LÀM VĂN SỐ 6
(bình luận văn học)
Đề 1
Bình luận về chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang
Dũng.
Đề 2
Bình luận về tính dân tộc trong nghệ thuật thơ Tố Hữu.
Đề 3
Nhà văn Tô Hoài cho rằng tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao là
bản tuyên ngôn nghệ thuật của các nhà văn hồi bấy giờ. Hãy
bình luận ý kiến trên.
178
Đề 4
Bình luận cách nhìn của Nam Cao đối với người nông dân qua
tác phẩm Đôi mắt.
BÀI LÀM VĂN SỐ 7
(bình luận xã hội)
Đề 1
Trả lời câu hỏi điều tra của nhà bác học Hantơn, nhà bác học
Đácuyn nói về kinh nghiệm thành công của mình như sau: “Tôi
nghĩ rằng tất cả những gì có giá trị một chút, tôi đều đã thu nhận
được bằng cách tự học”.
Bình luận câu nói trên. Anh chị có suy nghĩ gì về con đường học
tập sắp tới của mình?
Đề 2
“Nếu đứa trẻ dửng dưng với những gì đang diễn ra trong trái tim
của người bạn, người anh em, của bố mẹ mình hoặc của bất cứ
một đồng bào mà em gặp, nếu đứa trẻ không biết đọc trong mắt
người khác điều đang xảy ra trong trái tim người đó thì đứa trẻ
chẳng bao giờ trở thành con người chân chính”.
Anh chị hãy tỏ bày ý kiến của mình về nhận định trên của nhà
sư phạm Xukhômlinxki.
Đề 3
Bình luận danh ngôn: “Tiền mua được tất cả, trừ hạnh phúc”.
179
Đề 4
Nhà thơ Hungari Pêtôphi có viết:
Tự do và ái tình
Vì các người tôi sống
Vì tình yêu lồng lộng
Tôi xin hiến đời tôi
Vì tự do muôn đời
Tôi hi sinh tình ái.
(Xuân Diệu dịch)
Hãy bình luận mấy câu thơ trên.
Đề 5
Dân tộc ta cùng nhân loại đã bước sang thế kỉ XXI, là một thanh
niên của thời đại được chứng kiến và tham gia vào bước chuyển
lịch sử vĩ đại này, anh chị có những cảm nghĩ gì sâu sắc nhất?
BÀI LÀM VĂN SỐ 8
(bình luận văn học)
Đề 1
Bình luận nhận định sau đây về văn học Việt Nam giai đoạn
1945 – 1975: “Cuộc chiến đấu trường kì gian khổ đòi hỏi sức
mạnh tinh thần to lớn và bền bỉ, cần đến một sự cổ vũ mạnh mẽ
và liên tục của con người. Văn học Việt Nam trong 30 năm ấy
đã đáp ứng được một cách xuất sắc sức mệnh lịch sử đó”.
Đề 2
Bình luận về khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn của văn
học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.
180
Đề 3
Trước Cách mạng, nhà thơ Xuân Diệu nghĩ: “Là thi sĩ nghĩa là
ru với gió, Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây …”. Sau cách
mạng, ông viết: “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi” …
Hãy bình luận về sự thay đổi trong quan niệm của tác giả về mối
liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân.
Đề 4
Bình luận về hình ảnh người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt
Nam qua một số sáng tác văn học giai đoạn 1945 – 1975.
B – PHẦN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI VÀ LÍ LUẬN VĂN
HỌC
Đề 1
Từ nhân vật Têrêda trong tác phẩm cùng tên của Amađô, ta dễ
liên tưởng đến nàng Kiều trong to Truyện Kiều của Nguyễn Du,
anh chị hiểu thế nào về hiện tượng trên?
Đề 2
Trong vở kịch Dưới đáy, Gorki viết: “Tất cả ở trong con người,
tất cả vì con người … Con người! Tiếng ấy thật tuyệt diệu!
Tiếng ấy vang lên kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao”/
Tình cảm nhân văn ấy của Gorki đã được thể hiện như thế nào
trong tác phẩm Một con người ra đời?
181
Đề 3
Kết thúc tác phẩm Số phận con người, nhà văn Sôlôkhôp viết:
“Không phải những người đứng tuổi đã bạc đầu trong chiến
tranh, chỉ khóc trong chiêm bao đâu! Họ cũng khóc trong thực
tại đấy. Cái chính ở đây là phải biết kịp thời quay mặt đi. Cái
chính ở đây là đừng làm tổn thương trái tim em bé, đừng để cho
em thấy những giọt nước mắt đàn ông hiếm hoi nóng bỏng lăn
trên má anh”.
Dựa vào tác phẩm và suy nghĩ của bản thân, anh chị hãy phát
biểu ý kiến về lời nhận xét ấy của nhà văn.
Đề 4
M.Gorki nói về kinh nghiệm đọc sách thời trai trẻ của ông như
sau: “Tôi càng độc nhiều thì sách càng làm cho tôi gắn bó với
thế giới, cuộc đời càng trở nên rực rỡ, có ý nghĩa đối với tôi”.
Với kinh nghiệm đọc sách của bản thân, anh chị có những suy
nghĩ gì về chức năng của văn học qua lời tâm sự ấy của Gorki?
Đề 5
Phân tích những chứng minh sự gặp gỡ kì diệu về tấm lòng nhân
ái của các nhà văn lớn trên thế giới qua các tác phẩm văn học đã
học trong chương trình lớp 12.
Đề 6
“Tiếp nhận đòi hỏi người đọc sống với tác phẩm bằng toàn bộ
tâm hồn để cảm nhận cái thông điệp thẩm mĩ và tác giả gửi đến
cho người đọc văn học” (Văn học 12).
Với kinh nghiệm đọc sách của bản thân, anh chị hiểu ý kiến
trên như thế nào?
Đề 7
“Xem người thì có thể biết thơ”. Theo anh chị, ý kiến trên của
Cao Bá Quát có những điểm nào gần gũi với quan niệm của
chúng ta ngày nay về phong cách nghệ thuật không?
182
Đề 8
Loại văn chương không đáng thờ là loại văn chương chỉ chuyên
chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con
người”.
Với hiểu biết của anh chị về giá trị văn học, hãy phát biểu ý kiến
về lời nói trên của Nguyễn Văn Siêu.
C – GỢI Ý LÀM BÀI
A. PHẦN VĂN HỌC VIỆT NAM
BÀI LÀM VĂN SỐ 1
Đề 1
Kiểu bài đã được xác định rõ. Nhưng cái khó của đề bài này là
người làm bài phải bao quát được tư liệu truyện kí những năm
20 và Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh. Một bên là văn xuôi,
một bên lại là thơ. Vậy cần khai thác từ tư liệu riêng rẽ đó nét
chung về phong cách. Mặt khác, để lại đòi hỏi giải thích và
chứng minh tính chất phong phú đa dạng trong phong cách. Đây
cũng là điểm hơi rắc rối. Học sinh phải xác định được sự khác
nhau trong hai khái niệm này. Trên đây là hai cái chốt của đề
bài. Học sinh có mở được, mới đi vào giải đề.
Để hiểu nội dung “tính phong phú và đa dạng của phong cách”.
Học sinh cần ôn lại khái niệm phong cách nghệ thuật trong sách
Văn 12, đặc biệt là khai thác kĩ phần viết về Phong cách nghệ
thuật của Hồ Chí Minh. Trong bài viết này, đã có khá nhiều ý
cần thiết cho bài làm.
183
Đề 2
Đề bài chỉ yêu cầu chứng minh. Thực tế khi làm bài văn phải có
một phần nào lí giải , phân tích, phẩm bình để cho rõ nét “đặc
sắc”. Để làm tốt bài văn, học ính phải đọc kĩ lại tác phẩm Vi
hành, đọc kĩ để phát hiện những điểm nào chứng tỏ nghệ thuật
châm biếm đặc sắc. Chỗ khó của đề là yêu cầu nói rõ được nghệ
thuật châm biếm đặc sắc, phải có ý thức về điểm tinh tế này của
đề ra, để tránh đi chệch hướng. Đành rằng không thể không nói
đến nội dung biểu hiện của nghệ thuật châm biếm, nhưng nói
đến là để làm nổi bật nét đặc sắc của nghệ thuật đó.
Đề 3
Đề có thể gợi ra hai cách nhận dạng kiểu đề: Giải thích và chứng
minh hay bình luận. ở dạng trên, cần làm sáng tỏ bằng lĩ lẽ và
dẫn chứng; ở dạng dưới, cần tỏ bày ý kiến của mình về nhận
định của Hoài Thanh. Dù có bình luận cũng phải dùng thao tác
phân tích, chứng minh ý kiến của Hoài Thanh rồi từ đó mới đưa
ra ý kiến bình luận.
Tuy nhiên theo kế hoạch chương trình Làm văn đầu năm lớp 12,
nên coi đây là để giải thích và chứng minh.
Khi giải dề này, học sinh không đi tản mạn về các giá trị khác
của Nhật kí trong tù mà chỉ tập trung vào chủ đề nhân đạo. Học
sinh phải làm sáng tỏ được vì sao lại nói Nhật kí trong tù chan
chứa tính nhân đạo? Tính nhân đạo được biểu hiện ở những
phương diện nào? Lí luận phải được minh hoạ bằng những dẫn
chứng tiêu biểu lấy từ Nhật lí trong tù.
Đề 4
Đề gồm có hai ý phải thực hiện. Một là làm sáng tỏ quan niệm
của tác giả về văn chương (văn chương và người sáng tác văn
chương) qua hai câu thơ. Hai là chọn một số tác phẩm thơ và
văn, trước và sau khi có Nhật kí trong tù … để chứng minh Bác
Hồ đã thể hiện nhất quán và sâu sắc quan niệm của mình vào
công việc sáng tác văn chương.
184
Đề 5
Học sinh phải tự xác định kiểu bài. Đề bài cũng không định
hướng sẵn cụ thể nội dung cần đạt, chỉ nói chung là “hiểu gì về
con người Hồ Chí Minh”. Câu giải đáp lại phải dựa vào kết quả
phân tích đúng bốn câu thơ của Tố Hữu được dùng làm để dẫn
cho nội dung bài làm. Rắc rối của đề này là ở đó.
Cho nên để làm tốt đề này, học sinh phải phân tích, phát hiện
những ý chính về con người Hồ Chí Minh mà Tố Hữu để nêu ra
trong bốn câu thơ. Phân tích nhưng không nên đi tỉ mỉ như giảng
văn mà hỉ coi như là một bước cần đi qua trong quá trình làm
bài văn, cố phát hiện được những ý chính khái quát tổng hợp về
con người Hồ Chí Minh mà Tố Hữu đã nêu lên. Và từ đó mới
dựa vào Nhật kí trong tù để chứng minh, mở rộng, làm sáng tỏ
hơn con người vĩ đại.
BÀI LÀM VĂN SỐ 2
Đề 1
Đề bài này đòi hỏi học sinh phải tiến hành hai bước. Bước thứ
nhất là phân tích sự miêu tả tính cách mỗi nhân vật (Độ và
Hoàng). Bước thứ hai là so sánh tính cách của hai nhân vật (chỗ
khác nhau, chỗ giống nhau?). Tuy nhiên, khi làm bài vẫn có thể
viết tổng hợp.
Đề bài làm được sáng sủa, chặt chẽ, ngoài việc so sánh các mặt
cần nói về tính cách nhân vật (như lai lịch, nếp sống, ngoại hình
…), nên tập trung so sánh chỗ khác nhau cơ bản về “đôi mắt”.
185
Đề 2
Đề yêu cầu “nói lên nhận xét” của học sinh về “đôi mắt” của
nhân vật Hoàng. Muốn nhận xét thì phải phân tích; phân tích
đây là phân tích tính cách nhân vật. Khi làm bài, học sinh phải
đưa ra được nhận xét của mình thông qua việc phân tích “đôi
mắt” của Hoàng. Nói “đôi mắt” là nói cách nhìn. Hoàng có một
chỗ đứng khác với Độ nên có cái nhìn thiên lệch một phía về
cuộc đời và con người. Cụ thể là cách nhìn người nông dân,
cách nhìn lãnh tụ, cách nhìn cuộc kháng chiến, cách nhìn Độ và
những người khác trong nghề làm văn, làm báo … Khi đưa ra
nhận xét của mình, học sinh ít nhiều có thể đi sang kiểu bài bình
luận, song nên nhớ chủ yếu ở đây vẫn là kiểu đề phân tích.
Đề 3
Kiểu đề này ít gặp ở phổ thông. Đề bài đòi hỏi học sinh đào xới
sâu vào một đoạn văn nghệ thuật cụ thể để phát hiện một nét đặc
sắc trong phong cách của nhà văn.
Để làm bài văn này được tốt, học sinh nên xem lại bài Tiểu dẫn
về Nguyên Hồng (văn học 12) để nắm chắc đặc điểm phong
cách của tác giả nhằm định hướng cho việc khám phá sự thể
hiện của nó qua đoạn văn. Dĩ nhiên, một đoạn văn trích không
thể bao gồm mọi yếu tố phong cách nhà văn mà chỉ cần đề cập
được những điểm nào có trong đoạn văn.
Đề 4
Cần nắm chắc khái niệm “uyên bác và tài hoa”. Một bên là độ
am hiểu sâu rộng, một bên là độ sáng tạo trong nghệ thuật viết
văn.
Cũng giống ở đề bài trên, học sinh cần dựa vào định hướng
chung về phong cách Nguyễn Tuân qua bài Tiểu dẫn về Nguyễn
Tuân (văn học 12) để xem xét, riêng tùy bít Tờ hoa có ít nhiều
thể hiện được những đặc điểm chung của Nguyễn Tuân. Nhưng
cái chính là phân tích sự thể hiện của phong cách trên qua bản
thân thiên tùy bút này.
186
Đề 5 và 6
Đây là kiểu bài phân tích sự miêu tả tâm lí nhân vật, học sinh đã
học từ lớp 11. Điểm cần chú ý chung là phải bám sát các chi tiết
nghệ thuật, nhất là những chi tiết then chốt mà các nhà văn rất
có dụng ý trong sáng tác của mình.
Đề 7
Đây là kiểu đề phân tích văn học. Đề không trực tiếp nêu rõ vấn
đề phải phân tích nhưng đề trả lời được câu hỏi mà đề đặt ra,
học sinh phải biết phân tích vẻ đẹp của Nguyệt. Đó là lí do đến
nay vẫn còn hấp dẫn người đọc.
Cách kết cấu bài có thể tự do nhưng nội dung các ý phải làm nổi
bật được vẻ đẹp lí tưởng của Nguyệt mà Nguyễn Minh Châu đã
xây dựng khá công phu và thành công tiêu biểu cho thế hệ nữ
thanh niên Việt Nam trong bom đạn của đế quốc Mĩ. Nguyệt lấp
lánh nhiều vẻ đẹp: Đẹp từ tên gọi. Đẹp về hình thể. Đẹp trong
tâm hồn và lí tưởng sống. Đẹp trong cuộc sống chiến đấu, trong
tình yêu và trong quan hệ với mọi người. Chiến tranh càng ác
liệt và gian khổ, vẻ đẹp càng lấp lánh tỏa ngời hơn …
BÀI LÀM VĂN SỐ 3
Đề 1
Đây là kiểu đề phân tích tác phẩm thơ theo chủ đề cho trước:
“Tình cảm yêu nước và cảm hứng lãng mạn”. Song đề bài lại
không chỉ giới hạn vào chủ đề ấy ở riêng hai bài thơ mà muốn từ
đó nói được “của thơ Việt Nam những năm đầu kháng chiến
chống Pháp”. Đây là một nét kín đáo trong đề mà học sinh dễ bỏ
qua. Khi làm bài, một mặt phải bám vào hai bài thơ nhưng mặt
khác, phải làm nổi rõ được bối cảnh, không khí và cảm hứng
chung của thơ Việt Nam những năm đầu kháng chiến chống
Pháp.
187
Về cách xây dựng bài, không nên phân tích vụn lẻ từng bài thơ
mà nên phân tích tổng hợp ngay những khía cạnh nào thể hiện
được chủ đề “yêu nước và lãng mạn”.
Đề 3
Đây là kiểu đề phân tích một phương diện, một khía cạnh của
bài thơ. Chỗ khó khi làm đề bài này là trong bài thơ Các vị La
Hán chùa Tây Phương, tác giả chỉ nói đến nỗi đay của cha ông
trong một vài khổ thơ, trong khi đó lại miêu tả các tượng Phật
một cách cụ thể và tổng hợp khá kĩ.
Cho nên khi hiểu bài thơ cũng như khi làm bài không nên có sự
tách bạch ra hai phần: Một bên là tượng gỗ, tượng Phật; một bên
là nỗi đau của cha ông. Thật ra nỗi đau là mạch thơ xuyên thám
từ chuyện tượng gỗ mà ra chuyện đau đời, từ chuyện đau đời
đến nỗi đau của cha ông. Nỗi đau của cha ông cũng bắt gặp
trong sự khô héo tàn tạ, nỗi quằn quại bế tắc của các vị La Hán.
BÀI LÀM VĂN SỐ 4 VÀ 5
Đề 1
Nhiều năm qua, bài Chiều tối được khai thác theo những hướng
khác nhau như đồng nhất tứ thơ trong bài Chiều tối với tư tưởng
chính trị lớn lao ở Hồ Chí Minh, hoặc khai thác bài thơ theo
hướng xã hội học, coi bài thơ là một bức tranh lao dộng rực rỡ
hào quang của con người lao động miền núi, hoặc là cảnh lao
động lam lũ của các cô thôn nữ.
Làm bài này, học sinh nên hướng sự cảm thụ vào phương diện
tình cảm nhân văn, rất bình dị của đời sống con người và của
chính tác giả. Tính giản dị và đời thường đó không hề hạ thấp
tính cao cả và đẹp đẽ của bài thơ cũng như tâm hồn, tư tưởng
của tác giả. Học sinh cố gắng tiếp cận, chiếm lĩnh bài thơ theo
hướng này.
188
Đề 2
Học sinh cần tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của bài thơ. Đây là bài
thơ làm trong tù của Tố Hữu. Ông viết tại nhà lao Thừa Thiên,
hè năm 1939, giữa tuổi thanh xuân đầy sức sống và khát vọng
chiến đấu cho đời.
Không nên phân tích lẻ từng câu thơ, nên chú ý làm rõ tâm trạng
nhà thơ trước tiếng gọi náo nức của cuộc sống bên ngoài: Từ
tiếng chim tu hú, tiếng ve gọi hè, lúa chiêm đương chín, trái cây
ngọt dần, ánh nắng vàng với trời xanh và đôi chim trời tự do …
đến liên tưởng tình cảm ngột ngạt trong tù không thể không đạp
phá để tìm đến tự do.
Phân bình là phần cảm nghĩ tự do của học sinh nhưng không nên
thoát li bài thơ và tâm tư của nhà thơ trong hoàn cảnh bấy giờ.
Tuy nhiên từ hoàn cảnh người thanh niên bị tù đày ngày trước
liên hệ đến suy nghĩ của thanh niên ngày nay vẫn cần thiết.
Đề 3
Đề yêu cầu học sinh tập vận dụng lý thuyết về bình giảng vào
một đoạn thơ. Tuy là đoạn trích song vẫn có tính chỉnh thể và
trọn vẹn của một ý thơ, tứ thơ và chứa đựng nhiều nét độc đáo
trong thi pháp thơ Hoàng Cầm.
Học sinh cần giảng rõ được nội dung và nghệ thuật độc đáo của
bức tranh làng quê Kinh Bắc trước và sau khi bị giặc dày xéo và
nỗi xót đau sâu thẳm của tác giả.
Trên cơ sở giảng cần đưa ra một số lời bình, có thể nói về nghệ
thuật tương phản trong cấu tứ bài thơ, vừa có màu sắc Kinh Bắc
độc đáo, vừa có ý nghĩa khái quát chung; có sự hòa quyện giữa
nỗi đau thương với lòng căm giận, sự sáng tạo trong từ ngữ,
hình ảnh và nhịp thơ … những lí do làm cho bài thơ có sức sống
lâu bền.
189
Đề 4
Nhan đề bài thơ gợi ra một chủ đề chính trị: tình đồng chí. Tuy
vậy không nên lệch vào nội dung chính trị của bài thơ, bời vì cái
hay của nó lại là ở chất thơ. Chủ đề chính trị đã được thể hiện
trong bài thơ bằng chất thơ, cần phải bình giảng đúng hướng.
Đề 5
Đề bình giảng một đoạn thơ nhưng có định hướng vào chủ điểm
là “những suy ngẫm trước nấm mồ người đã khuất”. Chú ý đến
ý niệm về cái hữu hạn của kiếp người và cái bất tử của những
trái tim như ngọc, đồng thời nói được lòng biết ơn đối với người
đã khuất với niềm vui đi lên của cuộc đời bắt nguồn từ sự hi
sinh cao đẹp của bao người đã khuất. Bài làm không được coi
nhẹ thi pháp riêng, đặc biệt là giọng thơ quen thuộc của Tố Hữu.
Lời bình nên gắn với suy ngẫm của tuổi trẻ hôm nay về quá khứ.
Đề 6
Chỉ là hai khổ thơ trong toàn bài nhưng cũng đã nói đến khá rõ,
khá tập trung cảm hứng chính của tác giả. Học sinh cần cắt
nghĩa ở khổ 1 câu hỏi đặt ra như một nghịch lí: đi xứ Phật về mà
sao lòng vấn vương? Xứ Phật mà sao ai nấy mặt đau thương? Ở
khổ 2 cần làm rõ cái riêng của mỗi tượng Phật song vẫn chụm
vào một hướng chung, một câu hỏi lớn không có lời giải đáp.
Trong phần bình, nên chú ý ý nghĩa triết lí sâu sắc của bài thơ và
tư duy thơ độc đáo của Huy Cận về kiếp người và cõi đời, về bi
kịch của kiếp người. Thành công đặc sắc của bài thơ là kết hợp
hài hòa triết lí với cảm xúc.
190
BÀI LÀM VĂN SỐ 6
Đề 1
Học sinh nắm lại khái niệm “lãng mạn” là gì để có tiêu chí phát
hiện “chất lãng mạn” trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
Đồng thời lại không được thoát li bài thơ để tránh áp đặt những
gì mà chính bài thơ không có hoặc bỏ qua cái độc đáo vốn có
của nó.
Đề 2
Tính dân tộc của sáng tác văn học là một khái niệm rộng bao
gồm nhiều phương diện nội dung, hình thức, quan điểm sáng tác
của tác giả cũng như giá trị của tác phẩm. Đề bài chỉ giới hạn
trong phạm vi nghệ thuật. Học sinh cần đọc kĩ, phát hiện các ý
đã có trong bài Tiểu dẫn về Tố Hữu (Văn học 12).
BÀI LÀM VĂN SỐ 7
Đề 1
Đề bài có hai yêu cầu: Một là bình luận về ý kiến của nhà bác
học Đacuyn. Hai là bày tỏ ý kiến của mình về con đường học
vấn sắp tới. Hai vấn đề có vẻ khác nhau, nhưng vẫn phải xâu
chuỗi, định hướng vào cái lõi của vấn đề là cách tự học. Bình
luận hay phát biểu ý kiến mà xa rời cốt lõi đó thì bài làm chệch
hướng và dễ lạc đề.
Đề 2
Câu nói của Xukhômlinxki có đề cập đến nhiều quan hệ: bạn bè,
anh em, bố mẹ, đồng bào, mọi người, nhưng khi làm bài, học
sinh không nên sa vào những quan hệ này mà phải biết chú ý
đến yêu cầu cơ bản mà nhà sư phạm đặt ra đối với mỗi con
người trong mối quan hệ cụ thể cũng như trừu tượng, gần cũng
như xa. Đó là tình cảm nhân ái trong quan hệ hằng ngày với mọi
người.
191
Đề bài yêu cầu “tỏ bày ý kiến”. Đây là một cách phát biểu uyển
chuyển, có khác công thức quen thuộc, nhưng thực chất vẫn là
kiểu bài bình luận.
Đề 4
Bài thơ của Pêtôphi đặt ra nhiều quan hệ, quan hệ giữa tự do với
ái tình và quan hệ “tôi” với ái tình và tự do. Nhưng thực chất là
thái độ ứng xử cần có của tuổi trẻ, của mỗi con người trước tình
yêu, hạnh phúc cá nhân trong quan hệ với nhiệm vụ đối với tự
do của con người. Tự do cần được hiểu trên nhiều phương diện
(đấu tranh chống cường quyền để giải phóng cho con người, đáu
tranh vì dân chủ, vì hạnh phúc nhân dân, vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc …).
Đề 5
Chủ đề bình luận là một sự kiện lịch sử xã hội cực kì rộng lớn
tưởng chừng quá tầm với của một học sinh lứa tuổi 17 còn ngồi
trên ghế nhà trường phổ thông. Trong thời đại thông tin phát
triển cùng xu thế toàn cầu hóa, mỗi con người Việt Nam chúng
ta, nhất là thanh niên, phải tập luyện hình thành dần một nếp
nghĩ rộng mở hơn và nhạy cảm hơn với từng bước đi của xã hội,
dân tộc cũng như nhân loại. Ngay ở Pháp, trong một kì thi Tú tài
quốc gia, cũng có đề nghị luận xã hội yêu cầu thí sinh bình luận
về sự kiện Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Học sinh ta
cũng cần nâng tầm suy nghĩ của mình lên dần.
Học sinh được tự do tùy trình độ, tùy khả năng của mình, phát
biểu những cảm nhận sâu sắc nhất của bản thân, về bất cứ một
vấn đề gì có liên quan đến chủ đề của bài làm.
192
BÀI LÀM VĂN SỐ 8
Đề 1
Có nhiều đối tượng bình luận khác nhau. Có thể là một hiện
tượng văn học (một tác phẩm cụ thể, một nhân vật cụ thể …) và
cũng có thể là một nhận định. Đề bài này yêu cầu bình luận về
một nhận định văn học có sẵn. Trong nhận định này, nếu làm bài
phân tích, chúng ta phải đi sâu vào nhiều ý như “sức mạnh tinh
thần to lớn bền bỉ, sự cổ vũ mạnh mẽ và liên tục …”. Nhưng với
một bài bình luận, chỉ cần và nên khái quát thành một vấn đề lớn
có tính chất bao trùm được đặt ra từ lời nhận định. Để cho lời
bình luận có sức thuyết phục, cần vận dụng một vốn tư liệu văn
học có tính chất bao quát trên nhiều phương diện, ví dụ về loại
thể, về nội dung sáng tác, về lực lượng sáng tác, về hiệu quả
sáng tác, vì đây là một loại đề thuộc phạm vi kiến thức khái quát
về một giai đoạn văn học.
Đề bài này là đề bình luận nhưng do nội dung của đề, học sinh
dễ sa vào giải thích, chứng minh.
Đây là điều rất cần lưu ý khi làm bài.
Đề 2
So với đề bài trên, đề này yêu cầu bình luận một tính chất:
khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam
sau cách mạng tháng Tám (giai đoạn 1945 – 1975).
Muốn có cơ sở để bình luận, cần ôn lại những biểu hiện của
khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam
trong bài khái quát giai đoạn 1945 – 1975
Cũng giống bài trên, đề phòng dễ sa vào giải thích, chứng minh.
193
Đề 3
Đề bài không yêu cầu phân tích hay giải thích, chứng minh sự
thay đổi trong quan niệm nghệ thuật của Xuân Diệu mà yêu cầu
bình luận về sự thay đổi đó như chính tác giả đã phát ngôn trước
và sau cách mạng.
Tuy nhiên, để bình luận được xác đáng, không thể không hiểu rõ
quan niệm nghệ thuật của tác giả trước và sau cm chứa đựng
trong hai lời thơ tiêu biểu mà đề đã trích dẫn.
B. PHẦN VĂN HỌC NƯỚC NGÒAI VÀ LÍ LUẬN VĂN
HỌC
Đề 1
Đây là đề bài vận dụng lí luận tiếp nhận văn học vào việc học
tập văn học nước ngoài và Việt Nam. Đề yêu cầu giải thích hiện
tượng liên tưởng từ Têrêda đến nàng Kiều.
Muốn lí giải được hiện tượng này, học sinh phải tiến hành phân
tích, so sánh thân phận giữa hai nhân vật văn học trên và dựa
vào tác động có ý nghĩa phổ quát của nhân vật Têrêda đối với sự
tiếp nhận của người đọc Việt Nam.
Đề 2
Để làm bài này, học sinh cần nhận ra mối quan hệ giữa lời trích
dẫn câu nói của Gorki với lời phát biểu yêu cầu của đề bài.
Trong lời phát biểu của đề, có nêu khái niệm “tình cảm nhân văn
ấy” của Gorki. Vì vậy, học sinh phải dựa vào nội dung lời nói
của Gorki để hiểu thế nào là tình cảm nhân văn. Sự hiểu biết đó
sẽ định hướng cho việc phân tích tác phẩm Một con người ra đời
và việc phân tích tác phẩm Một còn người ra đời chỉ nhằm minh
họa cho tình cảm nhân văn của Gorki đã xác định trước.
194
Đề 3
Đây không hẳn là một đề bài nghị luận văn học: Nó lấy một lời
phát biểu của tác giả trong tác phẩm Số phận con người, nhưng
yêu cầu lại là bình luận một vấn đề có tính chất xã hội. Học sinh
làm bài này không nên chỉ hướng suy nghĩ vào tác phẩm của
Sôlôkhôp, mà phải tìm hiểu bản thân lời phát biểu kia đề xem
xét tác giả định nêu ra vấn đề có ý nghĩa xã hội gì về thái độ, về
bản lĩnh của người lớn sau chiến tranh. Tuy nhiên, trong khi làm
bài, học sinh dựa một phần vào nội dung tác phẩm này của
Sôlôkhôp đề bài làm vừa ăn nhập với mạch văn, ý định của đề,
vừa phong phú thêm về nội dung, vừa có màu sắc văn chương
hơn.
Đề 4
Đây là đề lí luận văn học nhằm củng cố hiểu biết của học sinh
về việc đọc sách, về tác dụng của văn học đối với đời sống mỗi
con người.
Đề không xác định kiểu bài nhưng thực chất là kiểu bài phân
tích một ý kiến và chứng minh bằng kinh nghiệm của bản thân.
Đề 5
Đây là đề bài ôn tập tổng hợp thu hoạch của học sinh về văn học
nước ngoài theo chủ đề lòng nhân ái. Đề tập cho học sinh biết
khai thác, phân tích từ một số tác phẩm khác nhau những nét
đồng nhất về lòng nhân ái của các nhà văn thể hiện trong tác
phẩm của họ.
Nên chọn một vài tác giả, tác phẩm tiêu biểu được học tương đối
kĩ (ví dụ: Gorki, Sôlôkhôp, Hêminuây … và tác phẩm của họ).
Song tùy sự tiếp nhận của mỗi người, có thể chọn những tác giả,
tác phẩm mình thích nhất.
195
PHỤ LỤC : BÌNH GIẢNG VĂN XUÔI
I. NGHỆ THUẬT CỦA VĂN XUÔI
Quan niễm em văn xuôi chỉ là lời nói hằng ngày như ông Giuốc
đanh đã qua lâu rồi. Quan niệm xem nghệ thuật tiểu thuyết, kí sự
chỉ là kể chuyện, nghĩa là giá trị của nó chỉ ở bản thân các nhân
vật, cốt truyện, các tính cách điển hình, các chi tiết đời sống, ở
cách phân tích tâm lí, hòan cảnh đã tỏ ra phiến diện, vì đã không
xem văn trong văn xuôi có một ý nghĩa nghệ thuật nào. Sách
văn học 11 – Tập II đã nhấn mạnh đặc điểm thứ nhất của tác
phẩm tự sự là lời kể, chỉ ra đó là một yếu tố nghệ thuật của văn
xuôi, bên cạnh các yếu tố khác.
Khi kể về sự kiện, miêu tả nhân vật, phân tích tâm lí …, văn
xuôi không hề là một công cụ trung lập, vô sắc thái. Ngược lại,
văn xuôi – lời kể cung cấp cho người đọc một cách nhìn, cách
gọi tên, cách xác định, cung cấp một giọng điệu, gây không khí
để cảm nhận chúng. Khi trần thuật các nhân vật và sự kiện, nhà
văn xuôi có thể biểu thị một thái độ thân hay sơ, xa hay gần,
ngợi ca hay suồng sã, bông đùa, giễu cợt. Nhà nghệ sĩ văn xuôi
đã biến lời kể thành một diễn viên đóng các vai trò khác nhau,
cốt sao tạo được một cách cảm thụ hợp với cách đánh giá của
tác giả. Khái Hưng trong Hồn bướm mơ tiên gọi nhân vật một
cách thân tình: Lan, Ngọc. Ngô Tất Tố gọi nhân vật trong Tắt
đèn bằng anh Dậu, chị Dậu rất trân trọng. Nam Cao gọi nhân vật
bằng hắn, y một cách suồng sã. Khi kể, nhà văn xuôi có thể chọn
một góc nhìn nào đó làm cho sự vật lạ di để gây cười, hoặc nhìn
nó theo một ý nghĩa mới.
196
Ví dụ: Nguyễn Công Hoan trong tác phẩm Nỗi vui sướng của
thằng bé khốn nạn đã kể chuyện đám tang qua con mắt của
thằng Dần, một đứa trẻ không hiểu cái chết là gì, làm cho đám
tang trở nên mất trang nghiêm, trở nên buồn cười. Trong tác
phẩm Vi Hành, Nguyễn Ái Quốc tả vua Khải Định theo con mắt
người Âu, những kẻ không hiểu các giá trị sắc phục của vua An
Nam, đã miêu tả cách ăn mặc của vua một cách ngộ nghĩnh:
“chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn”, “đeo lụa là, hạt cườm
…”. Trong Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành trần thuật theo
con mắt người Xô Man, một dân tộc àm ý thức cá nhân chưa
phát triển, nên tình cảm cộng đồng toàn dân biểu hiện ra một
cách đậm đặc. Nguyễn Thi trong Những đứa con trong gia đình
lại trần thuật qua cảm nghĩ của em Việt, một người con ngây
thơ, con trẻ, và do đó có một sắc thái đáng yêu. Mặt khác, lời
trần thuật của tác giả không chỉ nhằm gọi tên đối tượng miêu tả,
mà còn hướng tới lời người khác, những người nghe với giọng
điệu của họ, tạo thành lời mỉa mai, lời nhại. Ví dụ, trong Số đỏ,
Vũ Trọng Phụng kể chuyện theo lời của các nhân vật Âu hóa,
hoặc lời của kẻ hạ lưu Xuân tóc đỏ. Nam Cao trong nhiều truyện
nhại lại lời văn lãng mạn, như đang tranh luận ngầm. Tóm lại,
văn xuôi là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, đa dạng, cần
được bình giảng để cảm nhận hết cái hay của nó.
II. CÁCH LÀM BÀI BÌNH GIẢNG VĂN XUÔI
Bình giảng văn xuôi, về yêu cầu, mục đích cũng như bình giảng
thơ, chỉ khác về đối tượng bình giảng. ở đây, vẫn phân tích nhân
vật, sự kiện, chi tiết, nhưng qua lời văn.
Làm bài bình giảng văn xuôi, học sinh cần chỉ ra giọng điệu của
lời văn, các dấu hiệu ngôn ngữ biểu thị thái độ, tình cảm của tác
giả đối với nhân vật, tác giả đã trần thuật theo một quan điểm ý
thức của ai, và làm như vậy để làm gì.
197
Học sinh cũng cần tập bình giảng một số đoạn văn trào phúng,
để xem văn trào phúng được cấu tạo như thế nào (ví dụ, văn
trong một số truyện kí trào phúng của Nguyễn Ái Quốc, văn
truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan, văn học trào
phúng của Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ).
Học sinh còn có thể bình giảng một vài đoạn văn của Nguyễn
Trung Thành, Nguyễn Thi để cảm nhận lời văn, giọng điệu sử
thi trong văn học hiện đại ra sao.
Kiểu bài bình giảng văn xuôi nghệ thuật còn chưa được phổ biến
ở nhà trường, nhưng cần được phát triển thêm để nâng cao năng
lực cảm nhận văn xuôi, một hình thức nghệ thuật ngôn từ rất nổi
bật của thời hiện đại.
BÀI TẬP
1. Đọc và nhận xét về cách bình giảng văn xuôi dưới đây.
ĐỀ BÀI
Bình giảng đoạn văn kể về đoạn đời đã qua của cô Đào trước
khi lên nông trường Điện Biên trong Mùa lạc của Nguyễn Khải:
“Đào lên nông trường Điện Biên từ dạo đầu năm, ngòai Tết âm
lịch chừng nửa tháng, với tâm lí con chim bay mãi cũng mỏi
cách, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo
lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời
đã qua, còn những ngày sắp tới ra sao thì chị cũng không cần rõ,
đại khái là cũng chẳng hơn gì trước mấy, có thể gặp nhiều điều
đau buồn hơn. Quân tử gian nan, hồn nhan vất vả, số kiếp đã
định thế, trước sau vẫn chỉ một con đường ấy, không thể nào
tránh được.
198
Chị quê ở Hưng Yên, nhà không có ruộng, vẫn làm nghề đậu
phụ, thời địch tạm chiếm lại xoay sang ủ men nấu rượu. Lấy
chồng từ năm mười bảy tuổi, nhưng chồng cờ bạc, nợ nần nhiều
bỏ đi Nam đến đầu năm 1950 mới về quê. Ăn ở lại với nhau
được đứa con trai lên hai thì chồng chết. Cách mấy tháng sau
đứa con lên sài bỏ đi để chị ở một mình. Từ ngày ấy chị không
có gia đình nữa, đòn gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là
giường, khi ra Hòn Gai, Cẩm Phả lấy muồng, khi ngược Lào Cai
buôn gà vịt, mùa tu hú kêu sang đất Hà Nam buôn vải, tháng sáu
lại về quê bẻ nhãn. Khi thì ở chợ Cuối Chắm, ở đò Tràng Thưa,
khi lại về phố Rỗ, chợ Bì, chợ Bưởi. Màu hè vài cái áo cánh nâu
vá vai, mùa đông một chiếc áo bông ngắn đã bạc, ngày mưa,
ngày nắng, bàn chân đã từng đi khắp mọi nơi không dừng lại
buổi nào. Cũng có ngày ốm đau, nằm nhờ nhà người quen, bưng
bát cơm nóng, nhìn ngọn đèn dầu lại sực nhớ trước đây mình
cũng có một gia đình, có một đứa con, sớm lo việc sớm, tối lo
việc tối. Còn bây giờ bốn bể là nhà, chỉ lo cho thân mình sao
được cơm ngày hai bữa, chân cứng đá mềm. Mái tóc óng mượt
ngày xưa qua năm tháng đã khô lại, đỏ đi như chết, hàm răng
phai không buồn nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn
hương nổi càng nhiều. Muốn về sống lại ở quê hương nào còn
ai. Thôi đành đi mãi, ngày khỏe đã vậy, ngày ốm chưa biết ra
sao. Muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống”.
HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU ĐỀ
Đây là đoạn văn mở đầu đoạn thứ hai của truyện ngắn Mùa lạc
của nhà văn nguyễn Khải. Đoạn này giới thiệu cuộc đời của
nhân vật Đào và tâm trạng của chị trước khi lên nông trường
Điện Biên. Nhưng đoạn văn không hề giản đơn kể lại các biến
cố và tâm trạng của nhân vật. Nhà văn truyền lại cho người đọc
tất cả cái cảm giác ê chề, chán chường của nhân vật đối với cuộc
đời, tạo thành một đoạn văn nghệ thuật.
199
Nhà văn đã sử dụng những hình thức xưng hô và kiểu câu đặc
biệt. Khi thì xưng hô là “Đào”, khi thì xưng hô là “chị”. Các câu
phần nhiều không có chủ ngữ. Các thành phần chỉ thời gian
được lặp đi lặp lại nhiều lần, tạo cảm giác không biết bao nhiêu
thời gian đã trôi qua trong quãng đời dài dằng dặc ấy. Khôn gian
đổi thay, bước chân vô định.
Các thành ngữ, quán ngữ được sử dụng nhiều thể hiện một tâm
trạng từng trải …
Bình giảng đoạn văn phải chỉ ra các đặc điểm và ý nghĩa nghệ
thuật của các thủ phátp văn học, làm cho người ta thấy nghệ
thuật văn xuôi già dặn của Nguyễn Khải qua đoạn văn ngắn này.
DÀN BÀI
a) Mở bài
Giới thiệu qua về Nguyễn Khải và xuất xứ đoạn văn.
b) Thân bài
- Giới thiệu đoạn văn và vai trò của nó trong truyện ngắn của
nhà văn.
- Đoạn văn không chỉ là lời kể của người kể chuyện mà còn là
tiếng thở dài não nuột của nhân vật trước cuộc đời.
- Vì sao có hai cách xưng hô vừa thân (“Đào”), vừa sơ (“Chị”)?
- Cảm giác về thời gian, không gian.
- Sự từng trải, chán chường.
c) Kết bài:
Nghệ thuật khắc họa tính cách, tâm lí nhân vật của Nguyễn
Khải.
200
BÀI LÀM THAM KHẢO
Nguyễn Khải là nhà văn có biệt tài, bất cứ viết về nhân vật nào
ông đều tỏ ra am hiểu thành thạo về cuộc đời và lĩnh vực đời
sống của nhân vật đó. Nếu viết về nông nghiệp về nông dân thì
bao nhiêu kiến thức về mùa màng, thời vụ, giống má kĩ thuật …
ông đều kể vanh vách như một lão nông lành nghề. Còn viết về
tôn giáo, ông lại nói năng, diễn đạt, dùng từ y hệt như một kẻ
đạo ròng chính hiệu. Chính vì như vậy, chuyện của ông, nhiều
khi có vẻ giản đơn, đọc lên vẫn hấp dẫn, đậm đà, nó là sự hấp
dẫn của bản thân đời sống và của trí tuệ, tài nghệ của nhà văn.
Đoạn văn nêu trên là đoạn giới thiệu thân thế, cuộc đời bất hạnh,
ba chìm bảy nổi của nhân vật Đào trước khi lên nông trường
Điện Biên tìm thấy hạnh phúc trong truyện ngắn Mùa Lạc, một
truyện ngắn hay vào những năm sáu mươi. Một đoạn đời xám
xịt. Không có ruộng, chồng cờ bạc, nợ nần, bỏ đi Nam, khi về ăn
ở lại với nhau mới có đứacon hai tuổi thì chồng chết, rồi con sài
đẹn chết theo … Nhưng nhà văn không làm một bản khai lí lịch,
một bản “trích ngang” về các biến cố đổi thay của cuộc đời một
cách khô khan của văn hành chính. Ông cũng không để cho
người trần thuật kể một cách thuần túy khách quan, mà dùng lối
văn “nửa trực tiếp”, bên cạnh lời trần thuật là lời kể như tiếng
thở dài não nuột thốt ra tự đáy lòng nhân vật: “Quân tử gian nan,
hồng nhan vất vả, số kiếp đã định thế, trước sau vẫn chỉ một con
đường ấy, không thể nào tránh được”. Lời là lời của người thuật
chuyện, nhưng giọng điệu, ngôn từ, ý thức thì không phải là lời
thuần túy của tác giả, cũng không phải là lời thuần túy của nhân
vật, mà là lời nghệ thuật do tác giả tạo ra! Tiếng thở dài của
nhân vật còn vang mãi cho đến khi hết đoạn văn: “Thôi đành đi
mãi, ngày khỏe đã vậy, ngày ốm chưa biết ra sao. Muốn chết
nhưng đời còn dài nên phải sống”.
201
Nhà văn khi thì gọi nhân vật là Đào một cách thân mật, gần gũi,
khi lại gọi là chị một cách trung tính, nhằm tạo ra một khoảng
cách cho người đọc quan sát, cũng là biểu thị một sự trân trọng,
như Ngô Tất Tố đã gọi chị Dậu trong Tắt đèn bằng chị.
Đoạn đời từ khi Đào không còn có gia đình là chuỗi ngày không
nhà, cô đơn thui thủi, nhan sắc tàn phai … Những quán ngữ như
“đòn gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường” đã lột tả
được cuộc sống lênh đênh, vô định, cô đơn, không còn gì vướng
bận ở trên đời.
Những ngày tháng lênh đênh vô định của nhân vật thật là không
đếm hết. Những ngày tháng đó đối với nhân vật chỉ có đổi thay
mà không có tính liên tục, mạch lạc. Nhân vật hầu như chỉ nhớ
những lúc, những khi đổi thay nhưng mà lặp lại, không đổi.
Nhàn văn dùng biện pháp liệt kê để tạo ra cảm giác ấy. “Khi ra
Hòn Gai … Khi ngược Lào Cai … mùa tu hú kêu sang Hà nam
… tháng sáu lại về quê bẻ nhãn. Khi ở chợ … khi về phố …
Mùa hè vài cái áo cánh nâu … mùa đông một chiếc áo bông …
ngày mua, ngày nắng …” Đoạn văn đã diễn tả cảm giác thời
gian trôi, sự việc lắp lại đều đặn, mà đời người không có gì thay
đổi, mặc dù nhân vật phải tất bật chạy ngược chạy xuôi bươn
chải để sống! Đoạn văn này khiến người ta liên tưởng nhân vật
như một con thoi không có suốt, cứ chạy đi chạy lại dệt suông
hoài trên khung cửi đời, mà không bao giờ có được tấm ván!
Đoạn miêu tả cảnh ốm đau cô đơn mới thật hay: “Cũng có ngày
ốm đau nằm nhờ nhà người quen, bưng bát cơm nóng, nhìn
ngọn đèn dậy lại sực nhớ trước đaay mình cũng có một gia đình,
có một đứa con, sớm lo việc sớm, tối lo việc tối …” đã khắc họa
sinh động một con người cô đơn giữa cuộc đời. “Bát cơm nóng”
thể hiện tình đời, còn “nhìn ngọn đèn dầu” là hình ảnh của nỗi
cô đơn. Câu văn ngắt nhịp đều đặn gần như 4 chữ một, có hơi
hướng nhịp điệu biền ngẫu, gợi một cảm giác xưa cũ, bởi tác giả
đang kể về một đoạn đời cũ. Có thể nói tác giả đã huy động mọi
khả năng biểu hiện để khắc họa nhân vật của mình một cách
sống động, thần tình.
202
Các thành ngữ, quán ngữ đóng vai trò thể hiện một ý thức từng
trải và cảm giác chán chường. Hãy đọc câu: “Còn bây giừo bốn
bể là nhà, chỉ lo cho thân mình sao được cơm ngày hai bữa, chân
cứng đá mềm”. Các thành ngữ, quán ngữ như “bốn bể là nhà”,
“chân cứng đá mềm”, “cơm ngày hai bữa” đã thể hiện sự từng
trải, dày dạn, nhưng cũng thể hiện sự chán chường, sáo mòn, bởi
trong cách diễn đạt đó, nhân vật đã mất hết khả năng cảm nhận
những cảm giác mới lạ.
Nguyễn Khải là một nhà văn có văn, một thứ văn tự nhiên mà
giàu có nội tại, không gợi cảm giác về sự kiểu cách, làm dáng.
Lời văn đi đến đâu thì không chỉ chi tiết đời sống, mà cả hơi thở,
không khí, nhịp điệu, cảm giác, tâm lí cảm xúc đi liền đến đó,
dựng lên trước mắt ta một thế giới, một con người sâu sắc,
phong phú. Đó chính là sức hấp dẫn của văn Nguyễn khải mà
đoạn văn trên chỉ là một ví dụ.
2. Trả lời câu hỏi:
a. Bình giảng văn xuôi có gì giống và khác với bình giảng thơ?
b. Nêu cách làm bài văn bình giảng văn xuôi.
3. Lập dàn ý chi tiết cho hai đề bình giảng văn xuôi tự chọn
trong số các đề sau đây.
GỢI Ý MỘT SỐ ĐỀ BÌNH GIẢNG VĂN XUÔI
Đề 1
Bình giảng đoạn văn trích sau dây trong tác phẩm Vợ chồng A
Phủ của Tô Hoài:
203
“Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực
từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy
đồng, người hát, nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước. Tai
mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi
sáo giỏi. Mùa xuân này, mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị
uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao
nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.
Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị
không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới
đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi mà Mị từ từ
bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi tết. Mị
cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái
cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi
phới trở lạ, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết
ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao
nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày tết. Huống chi A Sử với
Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có
nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ
không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà
tiếng sáo bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường:
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi …
Lúc ấy A Sử vừa ở đâu về, lại đang sửa soạn đi chơi. A Sử thay
áo mới, khoác thêm hai vòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trắng
lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó còn muốn rình bắt
mấy người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mị nói
gì.
Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn
một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang
rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị
quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. A
Sử đang sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. Nó nhìn quanh,
thấy Mị rút thêm cái áo. A Sử hỏi:
- Mày muốn đi chơi à?
204
Mị không nói. A Sử cũng không hỏi thêm nữa. A Sử bước lại,
nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi
đay ra trói đứng Mị vào cột nàh. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn
luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cuối, không nghiêng đầu
được nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra
ngòai áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại.
Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị
trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi
theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả
pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào …”. Mị vùng
bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe
tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách.
Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình
không bằng con ngựa.
Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc con trai đang
đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị
nín khóc, Mị lại bồi hồi”.
Đề 2
Bình giảng cảnh gặp gỡ đầu tiên giữa mẹ Tràng với người con
dâu mới qua đoạn văn trích sau đây trong tác phẩm Vợ nhặt của
Kim Lân:
“Tràng nhắc mẹ:
- Kìa nhà tôi nó chào u.
Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp”
- Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải
duyên phải kiếp với nhau … Chẳng qua nó cũng là cái số cả …
205
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo
khổ sở ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót
thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả
chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong
sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì … Trong kẽ mắt
kèm nhèm của bà rĩ xuống hai dòng nước mắt … biết rằng
chứng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?
Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị
cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và
bà nghĩ: người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta
mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được … Thôi thì
bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con … May ra
mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ,
nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ
biết thế nào mà lo cho hết được!
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nới với “nàng dâu
mới”:
- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng
mừng lòng …
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một
tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta thì nghèo con ạ! Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau
làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá … Biết thế nào hở con,
ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về
sau”.
Đề 3
Bình giảng đoạn văn trích sau đây trong tùy bút Người lái đò
Sông Đà của Nguyễn Tuân:
206
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở dây lặng tờ.
Hình như từ đời Lí đời trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ
đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy
lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh
đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp
cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sôn hoang dại như một bờ tiền sử.
Bồ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi,
thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp – lê của một
chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu.
Con Hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm
chăm nhìn tôi lừ lừ troi trên một mũi đò. Hươu nghểnh tai, nhìn
tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của
con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng ừa
nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên
mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông
đuổi mắt đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “dải Sông Đà
bọt nước bênh bênh – bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một
người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng
này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên
thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những
giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những
con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi
én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Đề 4
Bình giảng đoạn văn sau đây mô tả những giây phút cuối cùng
của cô gái Huệ Chi trong tác phẩm Cửa biển của Nguyên Hồng:
207
“ Nếu như mọi khi, Huệ Chi không ngã chúi thì cũng loạng
choạng vì làn gió và sự xuất hiện choáng vập nọ. Huệ chi đã nhô
dần khỏi bực cuối cùng lên gác thượng. Cả khoảng lộ thiên lan
can bao chung quanh đều bày các thứ đồ sứ, pha lê, đồng hun,
bạc đựng hoa. Vẫn toàn huệ trắng, sen trắng và hồng bạch. Một
dãy bàn phủ khăn trắng và hay dãy ghế nệm nhung màu tím hoa
sim và bọc một phần bằng sa tanh màu nguyệt bạch, kê giữa sân.
Hai đầu có hai cụm hoa không biết la bao nhiêu chậy, bao nhiêu
gốc, còn trên bàn thì bày rải các đĩa hoa, bát hoa, bình hoa và
các cụm nến pha lê. Những đèn điện bóng che rất khéo trong các
khóm hoa và cụm nến đều kết thêm dải sa tanh, cẩm châu màu
nguyệt bạch và tím hoa sim…
Một cành trăng lá lan đang hé hé trên cao. Gió ù ù. Hương hoa
càng như sương tỏa.
- Mẹ ơi! Kia là quê mẹ đấy! Nhà bà ở gần biển,có năm bị bão
nước vỡ để, cậu Khòa phải cõng mẹ bơi qua những ngọn sóng
tung hai người lên quá cả ngọn tre, mãi mới vào được trong làng
mẹ nhỉ! Mẹ chỉ kể chuyên quê mình cho các con nghe, và đã hẹn
khi nào con lớn, có dịp thì đưa cả con và hai em về … Lạ chưa
kìa! Hơn năm giờ, gần sáu giờ rồi, sao ngòai Đồ Sơn lại sáng
như thế kia, sáng hơn cả buổi sáng ấy. Hay giờ đây đang là buổi
sáng, mà mẹ thì về ở đây từ mười lăm năm nay …
Người mẹ vấn khăn tóc đuôi gà, gương mặt ngăm ngăm nâu,
mắt bồ câu nửa vui nửa buồn, răng hạt tuyền, người nhỏ bé, mặc
áo the màu gụ, quần nái, từ từ đến giơ giơ tay ngăn đón và bỗng
hét lên:
- Huệ Chi! Giêsuma! Huệ Chi! Con tôi chết rồi! … Lạy Chúa tôi
rất nhân từ và lòng lành vô cùng! Thế là con tôi chết rồi!
Giêsuma lạy Chúa tôi! …
Huệ Chi đã mở cửa lan can sân gác thượng tầng gió thổi hun
hút, lờ đờ bước ra, thả người xuống một vùng thăm thẳm mờ
mờ, ầm ầm, ù ù, và hương hoa lộng ngát …”.
208
Đề 5
Bình giảng đoạn văn trích sau đây trong tác phẩm Mảnh trăng
cuối rừng của Nguyễn Minh Châu:
“Trăng thật. Hôm nay đầu tháng. Từ đầu hôm, tôi đi giữa đêm
trăng ma không biết. Cô gái vẫn bình thản ngồi nhìn ra ngòai
trời. Tôi quẹt diêm châm một điếu thuốc rồi tăng số cho xe
phóng nhanh hơn, trong lòng vẫn không hết ngượng. Già đời
trong nghề lái xe, bom đạn nguy hiểm gặp đã nhiều, tôi vốn
không phải anh nhút nhát, vậy mà không hiểu sao đêm nay nhìn
trăng ra pháp sáng? Qua tấm kính ướt hơi sương, mảnh trăng
nằm giữa những tảng mây hiện ra tái ngắt, ánh sáng lòe nhèo,
mỗi lúc xe nảy lên hay vòng qua chỗ lượng, mảnh trăng lại chập
chờn lay động, có lúc thấy rơi tõm xuống khoảng tối mịt mù của
cánh rừng già như một trò chơi ú tim.
Khoảng gần khuya, trên các chỏm rừng, gió tây nam cuốn mây
xám về một góc rồi thổi dạt đi. Gió thổi vào cành lá nguỵ trang
trên nóc xe ràn rạt. Trên đầu chúng tôi, khoảng trời đêm trên cao
trở nên trong vắt, cao lồng lộng, trong khoảng sâu thẳm nổi lên
một tiếng chim mơ hồ. Nhưng ở lưng các cánh rừng, sương
trắng không biết từ đâu cứ đùn ra mãi. Dòng sông bên trái
đường phút chốc biến mất, chỉ còn là sương trắng phủ kín, thảng
hoặc mới thấy một chỏm rừng, một ngọn núi đá bên kia sông
nhô lên, đen đủi và cô độc giữa một màu trắng xóa.
Xe tôi chạy trên lớp sương bồng bềnh. Mảnh trăng khuyết đứng
yên ở cuối trời, sáng trong như một mảnh bạc. Khung cửa xe
phía cô gái ngồi lồng đầy bóng trăn. Không hiểu sao, lúc ấy, như
có một niềm tin vô cớ nhưng chắc chắn từ trong không gian ùa
tới tràn ngập cả lòng tôi. Tôi tin chắc chắn người con gái đang
ngồi cạnh mình chính là nguyệt, chính là người mà chị tôi
thường nhắc đến.
209
Chốc chốc, tôi lại đưa mắt liếc về phía Nguyệt, thấy từng sợi tóc
của Nguyệt đều sáng lên. Mái tóc thơm ngát, dày và trẻ trung
làm sao! Bất ngờ, Nguyệt quay về phía tôi và hỏi một câu gì đó.
Tôi không kịp nghe rõ vì đôi mắt tôi đã choáng ngợp như vừa
trông vào ảo ảnh. Trăng sáng soi thẳng vào khuôn mặt Nguyệt
làm cho khuôn mặt tươi mát ngời lên và đẹp lạ thường! Tôi vội
nhìn thẳng vào đoạn đường đầy ổ gà, không dám nhìn Nguỵêt
lâu. Từng khúc đường trước mặt cũng thếp từng mảng ánh trăng
…”.
210
MỤC LỤC
KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN (6 tiết)
I – Lập ý và lập dàn bài trong văn nghị luận -3
II – Lập luận trong văn nghị luận - 11
III – Mở bài, kết bài và chuyển đoạn trong văn nghị luận - 24
IV – CHọn và trình bày dẫn chứng trong văn nghị luận - 35
V – Hành văn trong văn nghị luận - 44
PHÂN TÍCH VĂN HỌC (3 tiết)
I – Một số phương pháp phân tích tác phẩm văn học - 53
II – Cách làm bài phân tích tác phẩm văn học - 55
II – Cách làm bài phân tích các vấn đề văn học - 69
BÌNH GIẢNG VĂN HỌC (2 tiết)
I – Một số biện pháp bình giảng văn học - 87
II – Cách làm bài bình giảng thơ - 96
BÌNH LUẬN VĂN HỌC (4 tiết)
I - Khái niệm về bài bình luận văn học - 112
II – Cách làm bài văn bình luận tác phẩm văn học - 116
III – Cách làm bài bình luận các vấn đề văn học - 130
BÌNH LUẬN XÃ HỘI (2 tiết)
I – Khái niệm về bài bình luận xã hội - 153
II – Cách làm bài bình luận xã hội - 155
ĐỀ BÀI VÀ GỢI Ý LÀM VĂN
A. Phần văn học Việt Nam - 172
Bài làm văn số 1 - 172
Bài làm văn số 2 - 173
Bài làm văn số 3 - 174
Bài làm văn số 4 và số 5 - 175
Bài làm văn số 6 - 177
Bài làm văn số 7 - 178
Bài làm văn số 8 - 179
B. Phần văn học nước ngòai và lí luận văn học - 180
C. Phần gợi ý làm bài - 182
PHỤ LỤC: BÌNH GIẢNG VĂN XUÔI - 195

Ban Biên tập:


TRẦN ĐÌNH SỬ (Chủ biên)
PHAN TRỌNG LUẬN – NGUYỄN MINH THUYẾT
Biên tập: VŨ KIM
Biên tập tái bản: PHAN BÍCH VÂN
Biên tập mĩ thuật: TÀO THANH HUYỀN
Trình bày: LƯU CHÍ ĐỒNG
Vẽ bìa: PHẠM NGỌC TỚI
Sửa bản in:
VƯƠNG TRÌNH – TRẦN THỊ OANH – LÊ NHƯ HÀ
Chế bản: PHÒNG CHẾ BẢN (NXB GIÁO DỤC)

Chịu trách nhiệm xuất bản:


Chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc Ngô Trần Ái
Phó tổng giám đốc kiêm Tổng biên tập Nguyễn Quý Thao

LÀM VĂN 12 - Mã số: 3H203T6. Số in 30/HĐĐT. Số xuất bản:


1517/460-05. In xong và nộp lưu chiểu tháng 1 năm 2006.

You might also like