You are on page 1of 6

Y Học TP.

Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học

NGHIÊN CỨU INVITRO VI KẼ THÀNH PHẦN LỚP LÓT


TRONG KỸ THUẬT SANDWICH MỞ
Huỳnh Thị Thùy Trang*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá khả năng dán của các loại Glass ionomer cement (GIC) khác nhau được sử dụng trong
kỹ thuật sandwich mở và ảnh hưởng của việc xoi mòn bề mặt GIC.
Phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trên 50 răng cối nhỏ hàm trên đã nhổ ở người trưởng thành
chia làm 5 nhóm. Tất cả các răng được tạo xoang với cùng kích thước. Nhóm 1: đặt 1 lớp lót GIC cổ điển dày 2
mm ở thành trục và thành nướu sau đó soi mòn bằng acid phosphoric 35% trong 15 giây, rửa nước 30 giây, thổi
khô vừa, bôi keo dán, chiếu đèn 10 giây, trám composite, chiếu đèn 40 giây. Nhóm 2: tiến trình thực hiện giống
nhóm 1, nhưng không soi mòn ở bề mặt lớp lót GIC. Nhóm 3: giống nhóm 1 nhưng sử dụng GIC có tăng cường
thành phần nhựa. Nhóm 4: giống nhóm 3 nhưng không soi mòn ở bề mặt lớp lót GIC. Nhóm 5: giống nhóm 4
nhưng bôi keo dán có gốc GIC (G - Bond). Ngâm răng trong xanh methylen 2% trong 24 giờ, sau đó cắt răng
theo chiều gần -xa qua tâm miếng trám. Đánh giá mức độ thâm nhập của vi kẽ qua kính hiển vi nổi độ phóng đại
X30 theo thang đánh giá của Ferrari (1996).
Kết quả: Kết quả mức thâm nhập của phẩm nhuộm trung bình ở các răng nhóm 1 là 2,7; nhóm 2 là 2,8;
nhóm 3 là 1; nhóm 4 là 0,5 và nhóm 5 là 0,2. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thâm nhập xanh methylen khác biệt
không có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm: nhóm 1 và nhóm 2, nhóm 3 và nhóm 4, nhóm 4 và nhóm 5, nhưng có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm lót GIC cổ điển và GIC có tăng cường thành phần nhựa, giữa nhóm 1
và nhóm 3, giữa nhóm 2 và nhóm 4. Cụ thể là GIC có tăng cường thành phần nhựa tăng khả năng ngăn chặn
thâm nhập vi kẽ hơn GIC cổ điển. Trong nghiên cứu này, không nhận thấy sự xâm nhập vi kẽ tại giao diện giữa
GIC và Composite ở nhóm 4 và 5.
Kết luận: Trong điều kiện của thử nghiệm invitro nhận thấy việc soi mòn bề mặt GIC trước khi trám
composite không cải thiện vi kẽ nhưng sử dụng GIC có tăng cường thành phần nhựa tăng khả năng ngăn chặn
thâm nhập vi kẽ hơn GIC cổ điển.
Từ khoá: vi kẽ, kỹ thuật sandwich mở.
ABSTRACT
MICROLEAKAGE OF GLASS IONOMER CEMENT AS BASE MATERIAL IN OPEN SANDWICH
TECHNIQUE: INVITRO STUDY
Huynh Thi Thuy Trang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 191 - 196

Objective: The objectives of this study were to evaluate the sealing ability of different Glass Ionomer Cement
(GIC) materials used in sandwich restorations and examine the influence of acid etching on microleakage of GIC.
Methods: Cavities were prepared in 50 teeth, divided in five groups (n=10) and restored as follows: group 1:
conventional GIC was applied onto the axial and cervical cavity walls, acid was etched along with the cavity
margins with 35% phosphoric acid for 15 s, then acid was washed out for 30 s and water was blotted; the adhesive

* Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM


Tác giả liên lạc: ThS Huỳnh Thị Thuỳ Trang ĐT: 0903168586 Email: mail2me_trang@yahoo.com
system was applied and light cured for 10 s, the restoration with resin composite was completed by curing for 40

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 191


Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

s; group 2: same procedure as described for group 1, but no acid was applied onto the GIC; group 3: same
procedure as for group 1 , but using the resin modified GIC; group 4: same procedure applied for group 3 without
acid etching the GIC; group 5: same procedure applied for group 4 with the adhesive system was applied G-bond.
Specimens were soaked in 2% methylene blue dye solution for 24h, rised under running water for 1h; cut and dye
penetration was measured following Ferrrari (1996) standard.
Results: Results were statistically analyzed using Mann-Whitney tests. Dye penetration scores were as
follow: group 1 - 2.7; group 2 - 2.8; group 3 - 1; group 4 - 0.5 and group 5 - 0.2. No significant differences were
found between the mean dye penetration values of groups 1 and 2 (p>0.05), between groups 3 and 4 (p>0.05), and
between groups 4 and 5 (p>0.05). However, significant differences were found between the two GIC, between
groups 1 and 3 (p<0.05), and between groups 2 and 4 (p<0.05). There was no dye penetration at GIC-resin
composite interface in groups 4 and 5.
Conclusions: Results suggest that acid etching the GIC prior the placement of resin composite do not
improve the sealing ability of sandwich restorations. The resin modified GIC was more effective in preventing dye
penetration than conventional GIC.
Keywords: microleakage, open sandwich technique.
MỞ ĐẦU vi kẽ thành phần lớp lót GIC trong kỹ thuật này
để thực hiện tốt trên bệnh nhân và ứng dụng
Để đáp ứng với sự phát triển của nha khoa vào việc giảng dạy.
hiện đại cũng như đòi hỏi ngày một cao của
bệnh nhân, nhiều kỹ thuật công nghệ mới được Mục tiêu đề tài
ứng dụng trong điều trị nha khoa. Trong thực 1. Đánh giá khả năng dán của các loại GIC
hành nha khoa, phục hồi trực tiếp xoang loại II khác nhau trong kỹ thuật sandwich mở phục
bằng cách dùng Glass Ionomer Cement (GIC) và hồi xoang loại II.
composite (kỹ thuật sandwich mở) là một trong 2.Đánh giá hiệu quả của việc soi mòn lên bề
những kỹ thuật thực hiện nhiều trên lâm sàng. mặt GIC trong kỹ thuật sandwich mở phục hồi
Khi lực co do trùng hợp nhiều hơn lực dán xoang loại II.
composite và mô răng gây ra vi kẽ giữa bờ mô
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
răng và vật liệu phục hồi làm cho nước bọt và vi
khuẩn dễ xâm nhập vào dẫn đến sự đổi màu ở Nghiên cứu được thực hiện trên 50 răng cối
bờ viền xoang, sự nhạy cảm sau điều trị và sâu nhỏ hàm trên đã nhổ của người trưởng thành
răng thứ phát xung quanh miếng trám(1)… Khi chia ngẫu nhiên làm 5 nhóm. Tất cả các răng
thực hiện kỹ thuật sandwich mở các nhà lâm được bảo quản bằng cách ngâm trong dung dịch
sàng có thể sử dụng GIC cổ điển hoặc GIC có nước muối sinh lý NaCl 0,9%, ở nhiệt độ phòng
tăng cường thành phần nhựa, một số tác giả cho cho đến khi sử dụng.
rằng sự co của composite khi trùng hợp trong
một số trường hợp có thể kéo lớp nền ximăng
GIC ra khỏi bề mặt ngà hình thành những vi kẽ.
Ngược lại, một số tác giả cho rằng GIC có
khuynh hướng làm giảm vi kẽ vì hệ số giản nở
của chúng tương tự mô răng, đặt biệt là ngà(1). Hình 1 . Tạo lỗ trám loại II.
Sau khi đặt một lớp GIC theo một số tác giả có Các răng được tạo xoang trám loại II hình
thể dùng acid soi mòn, một số tác giả khác thì hộp cùng kích thước chiều rộng ngoài trong 4
không cần acid soi mòn bề mặt lớp GIC(10). mm, chiều cao xấp xỉ 4 mm trên đường nối men-
Chính vì vậy, cần có nghiên cứu nhằm đánh giá

192 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học

cement, theo chiều gần xa rộng 2 mm để trám


bằng kỹ thuật sandwich mở.
Nhóm 1: đặt 1 lớp lót GIC cổ điển (Fuji IX)
dày 2 mm ở thành nướu sau đó soi mòn bằng
acid phosphoric 35% trong 15 giây, rửa nước
trong 30 giây, thổi khô vừa, bôi keo dán Prime &
Bond NT (Dentsply), chiếu đèn, đặt một lớp
composite lỏng lên tòan bộ đáy, thành và bờ lỗ Hình 2. Phục hồi lỗ trám loại II bằng kỹ thuật
trám, chiếu đèn, đặt composite Solare X (GC) sandwich mở.
theo kỹ thuật trám từng lớp, mỗi lớp 2 mm,
chiếu đèn 40 giây, dùng đĩa mài loại bỏ
composite dư và đánh bóng miếng trám bằng
silicon có nước làm mát.
Nhóm 2: tiến trình thực hiện giống nhóm 1,
nhưng không soi mòn ở bề mặt lớp lót GIC.
Nhóm 3: giống nhóm 1 nhưng sử dụng GIC
có tăng cường thành phần nhựa (Fuji II LC, GC).
Nhóm 4: giống nhóm 3 nhưng không soi
mòn ở bề mặt lớp lót GIC. Hình 3. Kính hiển Hình 4. Thang đánh giá
Nhóm 5: đặt 1 lớp lót GIC có tăng cường vi Olympus X30. Ferrari 1996.
thành phần nhựa (Fuji II LC, GC) ở thành nướu.
không soi mòn và bôi keo dán có gốc GIC (G-
Bond, GC).
Nhóm Nhó Nhó Nhóm Nhóm giá in vitro vi kẽ bằng mức độ thâm nhập của
1 m2 m3 4 5
phẩm nhuộm trên hai giao diện, giao diện 1
Xoi mòn H3PO4 35% + - + - -
giữa bề mặt răng và lớp GIC, giao diện 2 giữa
GIC cổ điển (FujiIX) + +
GIC và Composite qua kính hiển vi nổi độ
GIC tăng cường nhựa + + +
(Fuji II LC, GC). phóng đại X30 (Olympus).
Bôi keo dán gốc GIC + Độ thâm nhập của phẩm màu ở 5 nhóm
(G- Bond, GC)
được đánh giá bởi hai quan sát viên độc lập theo
Tất cả các răng sau khi thực hiện phục hồi cùng một thang đánh giá và ghi vào phiếu đánh
được ngâm trong nước muối sinh lý trong 24 giá theo mã số của mẫu. Đánh giá độ thâm nhập
giờ, và trải qua chu trình nhiệt 100 chu kỳ, nhiệt của phẩm màu theo thang đánh giá của Ferrari
độ từ 5 - 55 oC, thời gian ngưng ở mổi điểm và cộng sự (1996).
nhiệt là 25 giây, thời gian chuyển đổi 5 giây. Sau
Độ 0: không thâm nhập phẩm nhuộm.
khi thử thách phục hồi, răng được bảo quản
trong dung dịch nước muối sinh lý ở nhiệt độ Độ 1: thâm nhập phẩm nhuộm ít hơn ½
phòng 72 giờ, xử lý răng bằng cách bôi sơn chiều dài thành nướu.
móng tay lên toàn bộ bề mặt răng trừ miếng Độ 2: thâm nhập phẩm nhuộm nhiều hơn
trám và cách chu vi bờ miếng trám là 1 mm, sau ½ chiều dài thành nướu nhưng chưa đến
đó ngâm trong dung dịch xanh methylen 2% thành trục.
trong 24 giờ, sau đó làm sạch lớp vecni và cắt Độ 3: thâm nhập dọc theo thành trục.
răng theo chiều gần - xa qua tâm miếng trám Dùng hệ số Kappa để đánh giá độ kiên định
bằng đĩa cắt kim cương tay khoan chậm. Đánh của hai quan sát viên.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 193


Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

Dùng phép kiểm định thống kê bằng test Mann- vi kẽ hiện diện thì sự xâm nhập xanh methylen
Whitney để so sánh sự khác biệt giữa các nhóm. ở mức cao nhất tại giao diện giữa GIC và bề mặt
mô răng.
STT So sánh mức độ thâm Giá trị Giá
nhập phẩm nhuộm U trị p
1 Nhóm 1 – nhóm 2 0,74 0,05
2 Nhóm 3 – nhóm 4 0,14
3 Nhóm 4 – nhóm 5 0,44
4 Nhóm 1 – nhóm 3 0
a b c d
5 Nhóm 2 – nhóm 4 0
Hình 5. Các mức độ thâm nhập phẩm nhuộm
BÀN LUẬN
a. Độ 0; b. Độ 1; c. Độ 2; d. Độ 3.
Hiện nay, trong thực hành nha khoa, kỹ
KẾT QUẢ
thuật phục hồi xoang loại II dưới nướu bằng kỹ
Mức thâm nhập xanh methylen vào mô răng thuật sandwich mở là một kỹ thuật thường sử
ngay tại giao diện giữa GIC và mô răng của dụng trên lâm sàng. Sự co do trùng hợp xảy ra
xoang trám của nhóm 1 và nhóm 2 là cao nhất, khi những phân tử monomer chuyển thành
8/10 mẫu thấm phẩm nhuộm độ 3 theo thang mạng lưới polymer là một hiện tượng không
điểm Ferrari (1996). Mức thâm nhập xanh mong muốn khi trùng hợp của composite và có
methylen vào mô răng ngay tại giao diện giữa thể xem là một trong những yếu tố gây ra sự
GIC và mô răng ở nhóm 5 là thấp nhất, độ 0 thiếu tương thích giữa miếng trám và thành
chiếm 8/10 mẫu nghiên cứu. xoang trám, gia tăng nguy cơ sâu răng tái phát
Mức thâm nhập xanh methylen vào mô răng đặc biệt ở phần sâu của hộp bên xoang loại II có
ngay tại giao diện giữa GIC và Composite bờ dưới nướu trong kỹ thuật sandwich mở(5). Sử
không xuất hiện ở nhóm 4 và nhóm 5. Mức dụng GIC như là chất nền trong kỹ thuật
trung bình thâm nhập xanh methylen ở nhóm 1 sandwich mở truyền thống sẽ giảm đáng kể
là 2,7; nhóm 2 là 2,8; nhóm 3 là 1; nhóm 4 là 0,5 khối lượng composite sử dụng và vì vậy sẽ làm
và nhóm 5 là 0,2. Tuy nhiên, trên phép kiểm giãm sự co do trùng hợp của composite và cải
định thống kê cho thấy, không có sự khác biệt thiện sự khít sát ở bờ nướu. Thuận lợi khác của
có ý nghĩa thống kê về mức thâm nhập xanh việc sử dụng GIC trong kỹ thuật sandwich mở
methylen tại giao diện giữa lớp lót GIC và mô là sự phóng thích flour của GIC sẽ làm ức chế
răng giữa các nhóm: nhóm 1 và 2 (nhóm lót GIC sâu răng thứ phát và sự tiến triển sâu răng xung
cổ điển Fuji IX có xoi mòn bề mặt GIC và không quanh miếng trám(1).
có xoi mòn bề mặt GIC) (p>0,05), nhóm 4 và 5 Glass ionmer cement vẫn được coi là vật liệu
(p>0,05), nhóm 3 và 4 (p>0,05). duy nhất tự dán với mô răng(4) và trước đây
Nhóm Độ thâm nhập xanh methylen người ta đã cho rằng GIC và composite có thể tự
(n=10) 0 1 2 3 TB dán dính với nhau(7,13,14) cho dù hiệu quả dán
1 0 1 1 8 2,7
dính không tốt(15). Lực bền dán của hai vật liệu bị
2 0 1 0 9 2,8
3 2 6 2 0 1,0
ảnh hưởng bởi ít nhất một trong bốn yếu tố:
4 6 3 1 0 0,5 - Độ cứng của GIC mà chủ yếu phụ thuộc
5 8 2 0 0 0,2 vào tỷ lệ bột / nước.
Ở nhóm 5, mức độ xâm nhập phẩm nhuộm - Độ nhớt của tác nhân dán và khả năng làm
tại bề mặt GIC và mô răng hiện diện ở mức độ 1 ướt của bề mặt GIC.
trên 2 răng. Nhóm 4, mức độ xâm nhập phẩm - Sự thay đổi thể tích của nhựa composite
nhuộm tại bề mặt GIC và mô răng hiện diện ở trong quá trình trùng hợp.
mức độ 1 trên 3 răng, mức độ 2 trên 1 răng. Khi

194 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học

- Việc khó khăn khi đặt vào và sự khít sát màu xuyên qua giao diện của các loại vật liệu là
của khối nhựa composite vào GIC(15). điều được chứng minh trong nghiên cứu này.
Người ta đã từng khuyên rằng quá trình soi Kết quả thử nghiệm invitro thường không
mòn bằng acid sẽ giúp tạo ra một bề mặt GIC thể lặp lại hoàn toàn chính xác các điều kiện trên
hơi gồ ghề được làm sạch có năng lượng bề mặt lâm sàng, vì vậy một số điều kiện có thể không
cao(14). Quá trình này cũng được cho là sẽ giúp hoàn toàn giống trên lâm sàng. Cần nghiên cứu
tạo ra những tiếp xúc khít sát hơn và những bề sâu hơn để giúp các nhà lâm sàng có nhiều
mặt giao diện giữa GIC và composite(13). Mặc dù thông tin khi quyết định lựa chọn kỹ thuật và
có những lưu ý này, nhưng nghiên cứu cho thấy loại vật liệu trám trong trường hợp phục hồi lỗ
khi soi mòn bề mặt GIC cổ điển vẫn không cải trám loại II dưới nướu.
thiện sự dán dính của kỹ thuật sandwich mở. Trong nghiên cứu này, không nhận thấy sự
Nghiên cứu này nhận thấy sử dụng GIC có xâm nhập vi kẽ tại giao diện thứ 2 là giao diện
tăng cường thành phần nhựa có mức độ xâm giữa GIC và Composite ở nhóm 4 và 5. Trong
nhập xanh methylen ít hơn có ý nghĩa thống kê khi tham khảo tài liệu chúng tôi cũng chưa tìm
so với khi sử dụng GIC cổ điển, nhưng mức độ thấy tài liệu đánh giá vi kẽ bề mặt giao diện giữa
xâm nhập vi kẽ giữa nhóm có soi mòn và không hai loại vật liệu GIC và composite. Hy vọng thời
có soi mòn bề mặt cùng loại GIC không khác gian sắp tới sẽ có những phương tiện và
biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu phương pháp khác khảo sát vi kẽ ở giao diện
của chúng tôi tương tự kết quả nghiên cứu của này.
Bona AD, Pinzettac, Rosa V (2007, 2009)(2,3). Các KẾT LUẬN
nghiên cứu cho thấy lựa chọn loại GIC mới
quan trọng. Loại GIC nào có đặc tính cơ học và Trong điều kiện của thử nghiệm invitro
hóa học cải tiến sẽ tăng khả năng dán. Những nhận thấy việc soi mòn bề mặt GIC trước khi
nghiên cứu trước đây cho thấy, GIC cổ điển trám composite không cải thiện vi kẽ nhưng
không có khả năng tạo một lớp dán dính hiệu sử dụng GIC có tăng cường thành phần nhựa
quả do: tăng khả năng ngăn chặn thâm nhập vi kẽ hơn
GIC cổ điển.
- Sự nhạy cảm của vật liệu với độ ẩm khi
mới đặt vào và khi bắt đầu đông cứng. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bowen RL, Marjenhoff WA (1992). Dental composites/glass
- Quá trình mất nước sau khi đông cứng sẽ
ionomers: the materials. Adv Dent Res, 6: 44-49.
làm nứt gảy. 2. Bona A D1, Pinzetta C1, Rosa V2 (2007). Microleakage of acid
etched glass ionomer sandwich restorations. J Appl Oral Sci, 15:
Tuy nhiên, người ta cho rằng hiện tượng
230-234.
dán tốt hơn của GIC có tăng cường thành phần 3. Bona A D1, Pinzetta C1, Rosa V2 (2007). Effectic of acid etching
nhựa là do hiện tượng đuôi nhựa đi vào ống of glass ionomer cement surface on the miroleakage sandwich
restorations. J Appl Oral Sci, 15: 230-234.
ngà giúp cho việc trao đổi ion giữa ngà và GIC
4. De Munck J, Van Landuyt K, Peumans M, Poitevin A,
có tăng cường thành phần nhựa như một nghiên Lambrechts P, Braem M, et al (2005). A critical review of the
cứu trước đây từng ghi nhận(10). Mặc dù nhiều durability of adhesion to tooth tissue: methods and results. J
Dent Res, 84: 118-132.
nghiên cứu đã xác nhận không nhận thấy sự tồn 5. Dijkenl JWV, Kieri C, Carlen M (1999). Longevity of extensive
tại của các đuôi ngà hoặc sự hình thành một lớp class II Open - sandwich restorations with a resin-modified glass-
lai thì giả thuyết này vẫn được xem là lý do giúp ionomer cement. J Dent Res, 78: 1319-1325.
6. Dương Thị Hoài Xuân, Hoàng Tử Hùng (2007). Đánh giá
giải thích đặc tính tốt hơn của GIC có tăng invitro sự hình thành vi kẽ bờ nướu miếng trám composite trực
cường thành phần nhựa. Ngoài ra, sự có mặt tiếp xoangloại II. Luận văn thạc sỹ y học, Đại học Y Dược
của HEMA của GIC có tăng cường thành phần Tp.HCM.
7. Fortin D, Vargas MA, Swift EJ Jr (1995). Bonding of resin
nhựa giúp làm tăng độ bền dán của nhựa composites to resin-modified glass ionomers. Am J Dent, 8: 201-
composite và góp phần vào ngăn cản sự thấm 204.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 195


Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

8. Florita Z, Rominu M, Sinescu C (2006). Microleakage in open 13. McLean JW, Powis DR, Prosser HJ (1985). The use of glass-
sandwich class II restorations. Eur J Oral Sci, 11: 1033-1042. ionomer cements in bonding composite resins to dentine. Br
9. Federlin M, Thonemann B, Hiller K-A, Schmalz G (2002). Dent J, 158: 410-414.
Microleakage in class II composite resin restorations: application 14. Mount GJ (1989). Clinical requirements for a successful
of a clearing protocol. Clin J Oral Invest, 6: 84-91. ‘sandwich’ - dentine to glass ionomer cement to composite resin.
10. Hinoura K, Moore BK, Phillips RW (1987). Tensile bond Aust Dent J, 34: 259-265.
strength between glass ionomer cement and composite resin. J 15. Mount GJ (1991). Adhesion of glass-ionomer cement in the
Am Dent Assoc, 114: 167-172. clinical environment. Oper Dent, 16: 141-148.
11. Hallett KB, Garcia-Godoy F (1993). Microleakage of 16. Nguyễn Trường Sơn, Hoàng Tử Hùng (2002). Đánh giá invitro
resinmodified glass ionomercement restorations: an invitro vi kẽ trong kỹ thuật sandwich phục hồi xoang loại II( so sánh
study. Dent Mater, 9: 306-311. GIC trộn bằng máy và bằng tay). Luận văn chuyên khoa cấp II,
12. Hoàng Đạo Bảo Trâm, Hoàng Tử Hùng (1999). Đánh giá invitro Đại học Y Dược Tp.HCM.
vi kẽ của phục hồi xoang loại II sử dụng SONICSYS. Luận văn 17. Võ Thị Thanh Vân, Đinh Thị Khánh Vân (2011). Đánh giá
thạc sỹ y học, Đại học Y Dược Tp.HCM. invitro vi kẽ ở thành nướu lỗ trám loại II composite bằng kỹ
thuật trám trực tiếp và gián tiếp. Tiểu luận tốt nghiệp bác sĩ răng
hàm mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM.

196 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

You might also like