You are on page 1of 23

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ATNĐ: Áp thấp nhiệt đới


BĐKH: Biến đổi khí hậu
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
ĐDSH : Đa dạng sinh học
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
HST : Hệ sinh thái
HƯNK: Hiệu ứng nhà kính
IPCC : Ủy ban Liên Chính phủ về BĐKH
KH : Khí hậu
KNK : Khí nhà kính
KT – XH: Kinh tế - xã hội
LHQ : Liên Hiệp Quốc
NBD : Nước biển dâng
NN : Nông nghiệp
NN & PTNT: Nông nghiệp và Phát triển Nông
PGS : Phó giáo sư
SX : Sản xuất
TP : Thành phố
TP HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
TS : Tiến sĩ
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam nằm ở bán đảo Đông Dương, nằm trọn trong vùng KH nhiệt đới, là nước
đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Điều kiện tự nhiên có nhiều thuận lợi cho phát triển
NN đặc biệt là trồng lúa nước. Người dân đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý báu trong
SX, đã dựa vào các điều kiện vốn có của tự nhiên để mở rộng đất canh tác, nâng cao năng
suất qua mỗi mùa vụ. Ngày nay, ngoài những kinh nghiệm, người dân đã và đang áp dụng
nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật vào trồng trọt để nâng cao năng và sản lượng. Với những
thành tựu to lớn của khoa học công nghệ đã mang lại nhiều sự đổi mới, cuộc sống của người
dân ngày càng được nâng cao nhưng tác hại của chúng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới môi
trường. Hiện nay, KH đang biến đổi từng ngày từng giờ, Trái đất đang ngày một nóng lên,
băng ở hai cực đang tan ra, nhiều vùng đất thấp ở ven biển đã bị nhấn chìm trong nước,
nhiều vùng đất bị ngập mặn, thiên tai gia tăng, dịch bệnh phát triển mạnh mẽ.
Biến đổi khí hậu làm thu hẹp diện tích đất đất nông nghiệp phần đáng kể diện tích đất
nông nghiệp ở vùng thấp đồng bằng ven biển, ĐBSH, ĐBSCL bị ngập mặn do nước biến
dâng. Nhiệt độ tăng, lượng mưa giảm… làm cho cơ cấu cây trồng, vật nuôi và mùa vụ bị
thay đổi ở một số khu vực. Trong đó, vụ đông ở miền Bắc bị rút ngắn lại, vụ mùa kéo dài
hơn, từ đó đòi hỏi phải thay đổi kỹ thuật canh tác. Nhiệt độ tăng và tính biến động của nhiệt
độ lớn hơn, kể cả nhiệt độ cực đại và cực tiểu, cùng với biến động của các yếu tố thời tiết
khác và thiên tai làm tăng khả năng sâu bệnh, dịch bệnh dẫn đến giảm năng suất và sản
lượng, tăng nguy cơ rủi ro đối với nông nghiệp.
Khí hậu biến đổi làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quá trình sản xuất của người dân.
Nhiều đồng ruộng vùng đồng bằng ven biển đang dần bị hoang mạc hóa, đất bị nhiễm mặn,
hạn hán gia tăng, diện tích đất canh tác bị thu hẹp, sản lượng giảm dần. Mùa hè, nhiều vùng
rơi vào tình trạng hạn hán, thiếu nước trầm trọng, sinh hoạt của người dân gặp nhiều khó
khăn. Nước sinh hoạt còn khan hiếm thì thử hỏi lấy đâu ra nước để sản xuất? Kèm theo đó
là những thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, sâu bệnh phá hoại cây trồng làm cho năng suất giảm,
thậm chí có vụ còn trắng tay. Một số nơi người dân sử dụng nhiều phân bón hóa học, thuốc
trừ sâu với liều lượng cao nhằm phòng, chống sâu bệnh và nâng cao năng suất. Qua những
lần sử dụng đó đã dần tiêu diệt những động vật, côn trùng có lợi như ếch, nhái… ảnh hưởng
tới cân bằng HST, tăng thêm sâu bệnh. Việc sử dụng nhiều phân bón hóa học với hàm lượng
cao và không đúng cách đã làm cho đất đai bị bạc màu, độ phì nhiêu giảm và ít màu mỡ.
Hiện nay biến đổi khí hậu đã và đang hiện hữu và gây ra những thiệt hại nặng nề cho
các tỉnh Tây Nguyên. Nhằm mục đích phát triển nền nông nghiệp bền vững và thích ứng
với những biến đổi phức tạp của khí hậu đã thôi thúc tôi quyết định lựa chọn và tiến hành
nghiên cứu đề tài “Chiến lược phát triển nông nghiệp ở Tây Nguyên trong điều kiện biến
đổi khí hậu” nhằm góp phần ứng phó với BĐKH một cách hiệu quả hơn.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

1.1. Biến đổi khí hậu

1.1.1. Khái niệm Biến đổi khí hậu


 Theo công ước chung của LHQ đã đặc biệt nhấn mạnh sự ảnh hưởng của hệ sinh thái
tự nhiên, đến các hoạt động KT - XH, đến sức khỏe và phúc lợi của con người:
“BĐKH là những ảnh hưởng có hại của BĐKH, là những biến đổi trong môi trường
vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng
phục hồi hoặc sinh sản của các HST tự nhiên hoặc đến hoạt động của các hệ thống
KT - XH hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người”.

 Đối với Hiệp hội Khí tượng Mỹ (American Meteorological Society - AMS) chỉ tập
trung đề cập đến nguyên nhân dẫn đến BĐKH: “Bất kỳ sự thay đổi có hệ thống của
các nhân tố KH trong một thời gian dài (nhiệt độ, áp suất hoặc gió) qua hàng chục
năm hoặc lâu hơn. BĐKH có thể do các quá trình tự nhiên, như các thay đổi trong
quá trình phát năng lượng của Mặt trời, hoặc các thay đổi chậm chạp của trục quay
Trái đất, hoặc do các quá trình tự nhiên nội tại của hệ thống KH; hoặc do tác động từ
các hoạt động của con người”.\

 Định nghĩa của Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt nam: “BĐKH xác định sự khác
biệt giữa các giá trị trung bình dài hạn của một tham số hay thống kê KH. Trong đó,
trung bình được thực hiện trong một khoảng thời gian xác định, thường là vài thập
kỷ. Sự thay đổi của KH được quy trực tiếp hay gián tiếp là do hoạt động của con
người làm thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu và đóng góp thêm vào sự biến
động KH tự nhiên trong các thời gian có thể so sánh được”

1.1.2. Nguyên nhân gây ra BĐKH

Theo báo cáo mới nhất của LHQ, nguyên nhân gây ra BĐKH 90% là do con người,
10% là do tự nhiên. Sau cuộc tranh luận kéo dài hơn 30 năm cho đến nay, các nhà khoa học
đã nhất trí cho rằng những hoạt động phát triển KT - XH với nhịp điệu ngày một cao trong
nhiều lĩnh vực như năng lượng, công nghiệp, giao thông, nông - lâm - ngư nghiệp và sinh
hoạt của con người đã làm tăng nồng độ các khí gây HƯNK trong khí quyển, làm Trái đất
nóng lên, biến đổi hệ thống KH và ảnh hưởng tới môi trường toàn cầu.
Tỷ lệ các hoạt động của con người trong tổng lượng phát thải KNK (IPCC, 2007): SX
điện năng 25,9%; Công nghiệp 19,4%; Lâm nghiệp 17,4%; NN 13,5%; Giao thông vận tải
13,1%; Thương mại và tiêu dùng 7,9%; Rác thải 2,8%.
1.1.2.1. Sự biến đổi của tự nhiên
Gia tăng nhiệt độ là do HƯNK, song cần nhấn mạnh hơn đến chu kỳ nóng lên của
Trái đất do hoạt động nội tại. Nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên và lạnh đi vốn là hiện tượng
tự nhiên xảy ra có tính chu kỳ trong lịch sử hình thành và phát triển của Trái đất. Không
phải chỉ bây giờ, lịch sử Trái đất hàng triệu năm đã trải qua nhiều lần nóng lên rồi lạnh đi
kéo theo những biến động to lớn trong đời sống sinh vật, làm thay đổi cả diện mạo địa hình
lục địa và đại dương.
Tính từ 1,6 triệu năm cho đến nay đã có 5 - 6 chu kỳ biến động lớn. Đó là các thời
kỳ băng hà kéo theo mực nước biển hạ thấp và các thời kỳ băng tan kéo theo mực NBD
cao. Vào thời kỳ băng hà, nhiệt độ bề mặt Trái đất khô lạnh. Vào thời kỳ băng tan, nhiệt độ
bề mặt Trái đất đan xen giữa nóng ẩm và khô hạn. Vào các thời kỳ đó, biên độ dao động
của nước biển lên đến hàng chục hàng trăm mét. Mỗi chu kỳ kéo dài hàng vạn, chục vạn
năm. Mỗi chu kỳ như vậy còn được chia ra các chu kỳ ngắn hơn với thời gian kéo dài hàng
trăm năm đến nghìn năm với biên độ dao động mực nước biển 2 - 3m hoặc hơn.
Nguyên nhân gây ra BĐKH do tự nhiên bao gồm thay đổi cường độ sáng của Mặt
trời, sự xuất hiện các điểm đen trên Mặt trời (Sunspots), các hoạt động núi lửa, thay đổi đại
dương, thay đổi quỹ đạo quay của Trái đất…
Với sự xuất hiện các điểm đen làm cho cường độ tia bức xạ Mặt trời chiếu xuống Trái
đất thay đổi, nghĩa là năng lượng chiếu xuống mặt đất thay đổi, từ đó làm thay đổi nhiệt độ
bề mặt Trái đất.
Sự thay đổi cường độ sáng của Mặt trời cũng gây ra sự thay đổi năng lượng chiếu
xuống mặt đất làm thay đổi nhiệt độ bề mặt Trái đất. Từ khi tạo thành Mặt trời đến nay (gần
4,5 tỷ năm), cường độ sáng của Mặt trời đã tăng lên hơn 30%. Như vậy, có thể thấy rằng
khoảng thời gian khá dài thì sự thay đổi cường độ sáng Mặt trời không ảnh hưởng nhiều đến
BĐKH.
Khi một ngọn núi lửa phun trào sẽ phát thải vào bầu khí quyển một lượng lớn sulfur
dioxide (SO2) và tro bụi, ảnh hưởng đến KH trong nhiều năm. Các hạt nhỏ (sol khí) được
phun ra bởi núi lửa phản chiếu lại bức xạ Mặt trời trở vào không gian, vì vậy, chúng có tác
dụng làm giảm nhiệt độ lớp bề mặt Trái đất.
Sự di chuyển của các dòng hải lưu qua các đại dương có thể gây nên thay đổi cụcbộ
của KH ở các vĩ độ địa lý, làm cán cân phân phối nhiệt độ giữa đất liền và vùng biển trong
khu vực thay đổi. Sự thay đổi khối nhiệt khổng lồ do chuyển dịch các dòng hải lưu lên phía
Bắc có thể tạo nên hiện tương băng tan đột ngột làm KH thay đổi và nồng độ mặn trong
nước biển cũng bị ảnh hưởng.
Nhà toán học người Pháp cho rằng sự thay đổi quỹ đạo hình Elip của Trái đất quanh
Mặt trời có thể là nguyên nhân làm thay đổi khối lượng băng hà. Vào thời điểm hạ chí và
đông chí, xuân phân và thu phân thì góc chiếu của các tia sáng từ Mặt trời đến Trái đất sẽ
bị ảnh hưởng do độ lệch trục Trái đất so với mặt phẳng hình elip của quỹ đạo.
1.1.2.2. Hoạt động SX và sinh hoạt của con người
Từ khi có sự hiện diện của con người cho đến nay, KH trên Trái đất đã bắt đầu có
những thay đổi nhất định. Khởi thủy, các hoạt động của con người như khai thác rừng, mở
rộng diện tích canh tác NN, phát triển chăn nuôi, khai thác khoáng sản, đốt nhiên liệu hóa
thạch… đã phát thải ra bầu khí quyển nhiều CO2, CH4 và nhiều chất KNK khác gây nên
hiện tượng nghẽn nhiệt trên bầu khí quyển làm Trái đất nóng lên. Theo số liệu công bố của
IPCC, giai đoạn 1850 - 2005, nồng độ các chất KNK đã tăng lên rất nhiều: CO2 tăng 30%,
CH4 tăng 17%, N2O tăng 15%. Con người cũng đã xả ra nhiều chất CFC vào không khí làm
cho lớp khí ozone ở

1.1.3. Biểu hiện của BĐKH

BĐKH toàn cầu với biểu hiện chính là sự tăng cao nhiệt độ bề mặt Trái đất, NBD, và
những hiện tượng KH cực đoan đang gây hại cho nhiều khu vực trên thế giới. Năm 2010,
người dân Ireland và Anh phải đón một “Giáng sinh trắng”, Canada lại bất ngờ ấm lên,
còn Nga thì có một mùa hè nóng bỏng, Pakistan có thêm nhiều kinh nghiệm với trận lũ lịch
sử. Ở Việt Nam, biểu hiện rõ nhất là các hiện tượng thời tiết cực đoan đã gây thiệt hại nặng
nề về người và tài sản như bão, lũ lụt ở miền Trung, lốc xoáy và mưa đá ở miền Bắc, đặc
biệt ĐBSCL là khu vực dễ bị tổn thương nhất, đang phải đối mặt với vấn đề NBD, xâm
nhập mặn, triều cường ngày càng gia tăng.
 Sự nóng lên của nhiệt độ bề mặt Trái Đất hay còn gọi là hiện tượng nóng lên toàn
cầu. Nhiệt độ trung bình ở nhiều nơi đều có xu thế gia tăng.
 Lượng mưa thay đổi bất thường, mùa khô ngày càng ít hơn mùa mưa. Ngày bắt đầu
mùa mưa, mưa đến trễ hơn nhưng cuối mùa mưa lại có nhiều trận mưa lớn hơn và số
trận mưa cũng thay đổi khác thường.
 Mực NBD cao do sự tan băng ở hai đầu cực Trái đất và do sự giãn nở vì khối nước
từ đại dương và biển, dẫn tới ngập úng ở những vùng đất thấp.
 Các hiện tượng thời tiết dị thường ngày càng rõ hơn và xuất hiện nhiều trận lũ dữ dội
hơn, nhiều nơi băng giá dày hơn vào mùa đông, nhiều trận cháy rừng khốc liệt hơn,
nhiều vùng khô hạn mở rộng và kéo dài hơn. Các thiên tai và hiện tượng thời tiết cực
đoan (lốc xoáy, sấm sét…) gia tăng về cường độ, vị trí.
 Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của người
và các sinh vật trên Trái đất.
 Sự dịch chuyển của các đới KH đang tồn tại đến các vùng khác nhau trên thế giới
dẫn đến nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật, các HST và hoạt động của con
người.
 Sự thay đổi cường độ hoạt động của các quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần
hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác.
 Sự thay đổi năng suất sinh học của các HST, chất lượng và thành phần của thủy quyển,
sinh quyển và địa quyển.
 Sự thay đổi chế độ mưa, dòng chảy và hạn hán, sự biến đổi, gia tăng tần số và cường
độ của bão và ATNĐ, cùng với những hệ quả về KT - XH và môi trường.

1.1.4. Tác động của BĐKH

BĐKH là một hiện tượng diễn biến trong quá khứ cũng như biện tại và có thể biến
động nhanh hơn trong tương lai. Hiện tượng nóng lên toàn cầu làm băng ở Bắc Cực và Nam
Cực cũng như các dải băng ở các dãy núi cao tan nhanh, khiến mực nước biển nhận thêm
nhiều nguồn nước nên đang có xu thế dâng cao, cán cân tuần hoàn nước thay đổi, đe dọa
toàn bộ HST hiện hữu, đặc biệt là các vùng đất thấp và ven biển có thể bị nước biển nhấn
chìm. Vùng cao, vùng thượng nguồn hoặc trong đê bao khép kín chỉ chịu tác động của
BĐKH như mưa bão, lũ lụt, xói lở, hạn hán… là chính, trong khi vùng thấp ven sông chịu
ảnh hưởng thủy triều của biển và vùng ven biển có thể chịu cả hai tác động BĐKH và NBD.
BĐKH làm cho bão, lũ lụt, hạn hán, mưa lớn trong những năm tới trở nên ác liệt hơn,
gây rủi ro lớn cho phát triển KT - XH hoặc xóa đi những thành quả nhiều năm của sự phát
triển, trong đó có những thành quả thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. NN trong tương
lai vẫn là giá đỡ cho đất nước đứng vững trước nhiều biến động của BĐKH. “Phi công bất
phú và Phi nông bất an” đã nói lên tầm quan trọng của SX NN đối với sự sinh tồn và phát
triển của một đất nước. Tuy nhiên, hiện nay dưới sự tác động của BĐKH, ngành NN đang
phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, đe dọa đến an ninh lương thực của thế giới.

1.1.4.1. Tác động của BĐKH đến SX NN và an ninh lương thực


a. Diện tích đất NN bị thu hẹp
Nhiệt độ gia tăng là điều kiện thuận lợi cho việc canh tác ở các vùng ôn đới nhưng lại
làm cho SX lương thực ở các vùng nhiệt đới bị suy giảm. Đây là khu vực canh tác NN lớn
nhất và tập trung nuôi sống những quốc gia nghèo. Mực nước gia tăng khiến nhiều vùng
đất thấp, các vùng canh tác ở hạ lưu sông ngòi bị thu hẹp diện tích và bị nhiễm mặn khiến
năng suất và sản lượng bị ảnh hưởng.
NBD cao làm cho nhiều vùng đất ven biển, khu vực đồng bằng bị nhiễm mặn. Từ đó,
diện tích canh tác ngày càng giảm dần. Kết quả nghiên cứu của LHQ cho thấy, tình trạng
sa mạc hóa đang gia tăng với tốc độ đáng báo động, gấp đôi so với những năm 1970. Theo
tính toán đến năm 2025, sẽ có 2/3 diện tích đất canh tác ở Châu Phi, 1/3 ở Châu Á, 1/5 ở
Nam Mỹ không còn sử dụng được nữa.
Theo đánh giá của LHQ, Việt Nam sẽ là quốc gia đứng thứ 2 (sau Ấn Độ) bị mất
nhiều diện tích đất NN do BĐKH. Ước tính mỗi năm, nước ta mất khoảng 20 ha đất NN do
nạn cát bay, cát chảy và hàng trăm nghìn hécta đất bị thoái hóa. Ở Quảng Trị hàng năm có
khoảng 20 - 30 ha đất ruộng vườn và cây ăn quả bị cát phủ dầy thêm 2m. Theo dự báo, khi
mực NBD lên 1m thì Việt Nam sẽ mất đi 5% diện tích đất đai, giảm 7% sản lượng NN và
10% GDP.
b. Thiếu hụt nguồn nước
BĐKH làm cho nhiệt độ tăng cao và thay đổi lượng mưa khiến cho nhu cầu tưới nước
lớn và dẫn đến thiếu hụt nguồn nước sử dụng. Nếu nhiệt độ tăng lên 1oC thì nhu cầu tưới
nước cho cây trồng sẽ tăng lên 10% làm cho năng lực tưới của các công trình thủy lợi như
hiện nay không đáp ứng đủ.
Theo nghiên cứu của Snnye Masile và Peter Urich (2009), năm 2050 chi phí cung cấp
nước cho ngành chăn nuôi ở châu Phi có thể tăng lên 23% do ảnh hưởng của BĐKH. Ở
Việt Nam, BĐKH kéo theo hiện tượng El Nino làm giảm từ 20 - 25% lượng mưa ở khu vực
miền Trung - Tây Nguyên gây ra hạn hán kéo dài.
c. Gia tăng dịch bệnh
BĐKH làm thay đổi quy luật thủy văn của các con sông, gây nên hạn hán. Sự biến
đổi về đất đai, nguồn nước, nhiệt độ sẽ kéo theo sự thay đổi về cơ cấu cây trồng và mùa vụ.
BĐKH cũng làm thay đổi điều kiện sinh sống của các loài sinh vật, làm mất đi hoặc thay
đổi các mắc xích trong chuỗi và lưới thức ăn dẫn đến tình trạng biến mất của một số loài
sinh vật ngược lại xuất hiện nguy cơ gia tăng các loại thiên dịch. Nhiệt độ tăng trong mùa
đông tạo điều kiện cho nguồn sâu bệnh có khả năng phát triển nhanh và gây hại mạnh hơn.
BĐKH làm phát sinh một số chủng, nòi sâu mới, gây hại cho SX và bảo quản nông sản,
thực phẩm.
Trong thời gian qua, các dịch bệnh tai xanh, lỡ mốm long móng, cúm AH5N1 ở gia
súc, gia cầm đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của ngành chăn nuôi. Mức
độ trở nên nghiêm trọng hơn khi các dịch bệnh này lây lan sang người đe dọa tính mạng
của con người trên toàn cầu.
Nhiệt độ Trái đất nóng hơn làm gia tăng mật độ côn trùng. Nhiều loài ruồi muỗi chỉ
phát triển trong điều kiện thời tiết nóng và ẩm nay phát triển thuận lợi hơn khi không gian
và môi trường sống của chúng được mở rộng. Hệ quả là những vùng có vĩ độ cao hơn sẽ
xuất hiện những đàn ruồi muỗi và côn trùng vốn sống ở vùng có vĩ độ thấp. Nhiều người
sống ở vùng lạnh trước kia nay phải đối đầu thêm một loạt chứng bệnh từ ruồi muỗi đem
đến. Trong khi ở vùng nhiệt đới, sự dễ dàng thích nghi và biến thái của các vi khuẩn, vi rút
sẽ là tiền đề cho những dịch bệnh mới mà trước đây hiếm khi xuất hiện.
d. Giảm năng suất và sản lượng
BĐKH tác động đến sinh trưởng, năng suất, thời vụ gieo trồng, tăng nguy cơ lây lan
sâu bệnh. BĐKH ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng của gia súc, gia cầm, làm tăng khả
năng sinh bệnh, truyền dịch. Với sự nóng lên trên phạm vi toàn lãnh thổ, thời gian thích
nghi của cây trồng nhiệt đới mở rộng và của cây trồng á nhiệt đới thì thu hẹp lại. Ranh giới
của cây trồng nhiệt đới dịch chuyển về phía vùng núi cao hơn và các vĩ độ cao ở phía Bắc,
phạm vi thích nghi của cây trồng á nhiệt đới bị thu hẹp thêm. BĐKH có khả năng làm tăng
tần số, cường độ, tính biến động và tính cực đoan của các hiện tượng thời tiết nguy hiểm.
Tố, lốc, bão và các thiên tai liên quan đến nhiệt độ và mưa như thời tiết khô nóng, lũ lụt,
ngập úng hay hạn hán, rét hại, xâm nhập mặn, sâu bệnh, làm giảm năng suất và sản lượng.
Nghiên cứu ở Viện lúa gạo quốc tế (IRRI, Philippines) trong giai đoạn 1979 - 2003,
năng suất lúa đã giảm 10% khi nhiệt độ tối thiểu gia tăng thêm 1oC. Theo nghiên cứu tại
đại học Reading (Anh), khi nhiệt độ tăng chỉ vài độ trên mức bình thường trong vài ba ngày
ở thời kỳ ra hoa, thụ phấn của lúa nước, lúa mì, đậu phộng, đậu nành sẽ làm giảm năng suất
rất trầm trọng. Các nhà khoa học ước tính nếu nhiệt độ tăng thêm 1oC thì năng suất lương
thực sẽ giảm 17%. Hậu quả là đẩy giá lương thực tăng cao và nạn đói sẽ gia tăng ở các quốc
gia, ngày nay có 1 tỷ người đang thiếu dinh dưỡng. Vì vậy, sự cạnh tranh nguồn cung thức
ăn giữa con người và vật nuôi sẽ ngày càng trở nên gay gắt hơn.
Báo cáo đánh giá của IPCC về tác động của BĐKH lên cây lương thực cho thấy ở
vùng nhiệt đới, nhiệt độ tăng lên sẽ ảnh hưởng xấu tới năng suất do ảnh hưởng trực tiếp đến
thời kỳ nở hoa, thụ phấn (1oC đối với lúa mì và ngô, 2oC đối với lúa nước), nếu tăng lên
3oC sẽ gây ra tình trạng cực kỳ căng thẳng cho các loại cây trồng ở hầu hết các vùng. Nhiệt
độ tăng lên 1oC, ngô giảm năng suất từ 5 - 20% và giảm đến 60% nếu nhiệt độ tăng thêm
4oC . Tương tự, năng suất lúa giảm đến 10% đối với mỗi độ tăng lên. Năng suất các loại
cây này có khả năng giảm đáng kể khi nhiệt độ mùa đông tăng cao. Nhiệt độ cũng làm cho
tính bất dục đực của các dòng mẹ lúa lai bị đảo lộn, việc SX giống lúa lai sẽ gặp khó khăn
hơn. BĐKH và NN có mối quan hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau. Đối với nhà nông,
thời tiết đóng vai trò quyết định cho thành công hay thất bại, được mùa hay mất mùa. Ngược
lại, NN cũng ảnh hưởng đến KH, vì thải ra các khí làm tăng HƯNK. Sự phát quang, phá
rừng để trồng trọt, hoang hoá hay sa mạc hoá đất đai cũng làm thay đổi mặt vỏ Trái Đất,
làm mất quân bình cán cân bức xạ nhiệt. BĐKH ảnh hưởng đến toàn bộ ngành NN &
PTNT. Ông Nguyễn Khắc Hiếu cho rằng: "Sinh kế của hàng chục triệu người đang bị đe
dọa với những ảnh hưởng của BĐKH. Vấn đề này và những hệ quả của nó đang khiến cho
cuộc sống người nghèo và những người cận nghèo ở vùng núi, vùng biển, vùng đồng bằng
bị đe dọa".
Hai vựa lúa lớn nhất là ĐBSH và ĐBSCL là những vùng đất thấp trong tương lai sẽ
chịu ảnh hưởng lớn của BĐKH khi mực NBD cao và chu trình thủy văn thay đổi. Khô hạn
và sự thiếu hụt nguồn nước sẽ làm năng suất NN giảm sút. Nhiều loại dịch bệnh cây trồng
của vùng KH nóng Tây Nam Bộ sẽ có khả năng xâm lấn vào đồng ruộng; các giống cây
trồng ưa nước sẽ không cho năng suất và bị các loài ưa khô hạn thay thế, dẫn đến khủng
hoảng các HST NN bản địa. Xu thế này tất yếu dẫn đến việc nông dân lạm dụng phân bón
hóa học và hóa chất bảo vệ thực vật, làm cho đất bị suy thoái và chất lượng nông sản không
cao.
1.1.4.2. Tác động của BĐKH đến đời sống SX và sinh hoạt của con người
BĐKH tác động tiêu cực đến đời sống và sinh hoạt của con người nhất là về vấn đề
sức khỏe, tái định cư. Nhiệt độ tăng làm gia tăng sức ép nhiệt đới với cơ thể con người, nhất
là người già và trẻ em, tăng bệnh tật nhất là các bệnh nhiệt đới, truyền nhiễm thông qua sự
phát triển của các vi khuẩn, côn trùng và vật chủ mang bệnh, chế độ dinh dưỡng và vệ sinh
môi trường suy giảm. TS Nguyễn Quốc Triệu cho rằng, BĐKH đang đe dọa đến sức khỏe
của con người nhất là đối với những người nghèo. Hậu quả rõ rệt nhất là sự hình thành và
phát triển một số bệnh truyền nhiễm dao động qua các năm, với nguy cơ bùng phát cao đặc
biệt là bệnh sốt rét và các bệnh về đường tiêu hóa như tả, lỵ, thương hàn, tiêu chảy cấp làm
hàng chục ngàn người mắc bệnh mỗi năm.
Gần đây xuất hiện nhiều loại bệnh mới gây tử vong cao như SAR, cúm AH5N1,
H1N1; các dịch bệnh sốt xuất huyết, sốt rét cũng tăng mạnh. Năm 2000, cả nước có khoảng
30.000 ca sốt xuất huyết, đến cuối năm 2010 lên tới 80.000 ca. TS Trần Mai Kiên cho biết
những thay đổi về tỷ lệ mắc bệnh sốt rét và một số bệnh lây lan qua nước uống đều có liên
quan tới lũ lụt, hạn hán… Năm 1979 đến nay, Tây Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc
có số người mắc bệnh sốt rét cao, số ca mắc bệnh tăng lên từ tháng 10 đến tháng 12 và
tháng 1 năm sau. Các tỉnh miền núi phía Bắc, dịch sốt rét diễn ra theo chu kỳ hàng năm và
không theo mùa. Kể từ năm 1983, số ca sốt rét tăng rất nhanh vào các năm tiếp theo, năm
1986 - 1988 lên đến 1,4 triệu ca. Đặc biệt trong thập kỷ qua, bệnh sốt rét có xu hướng mở
rộng đến Tây Bắc và các tỉnh đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa, Quảng
Trị, Quảng Bình), Nam Trung Bộ (Khánh Hòa, Ninh Thuận).
1.1.4.3. Tác động của BĐKH đến tài nguyên nước
Tác động của BĐKH lên tài nguyên nước biểu hiện chủ yếu dưới hai dạng: NBD và
hiện tượng cực đoan của thiên tai như bão, lũ, hạn hán. BĐKH tác động lên tài nguyên nước
thể hiện rõ nhất là thiên tai xảy ra dồn dập trên khắp thế giới trong mười năm qua: lũ lụt
ngập 2/3 lãnh thổ Bangladesh năm 2004; năm 2010, trên sông Trường Giang (Trung Quốc)
đã xảy ra trận lũ lớn đến nỗi mà hồ chứa khổng lồ Tam Điệp không thể khống chế được;
sông Chao Phraya ở Thái Lan là con sông rất hiền hòa bỗng dưng năm 2011 xảy ra lũ lớn
gây ra thảm họa lũ lụt nhiều tháng liền. Sông Mekong mười năm qua khô hạn đến mức
người ta có thể lội qua sông ở đoạn Vientiane trong mùa khô, nhưng đến năm 2011, lũ lớn
bất ngờ vượt mức lịch sử năm 2000. Hạn cũng rất khắc nghiệt, lưu vực sông Senegal ở Tây
Phi ngày nay có tổng lượng dòng chảy chỉ còn 1/4 so với thập niên 1950 trong khi dân số
tăng lên 30%, có nghĩa là lượng nước tính theo đầu người ngày nay ở Senegal chỉ còn 1/6
so với 60 năm trước.
Việt Nam có tài nguyên nước thuộc loại trung bình trên thế giới, tài nguyên nước
mặt chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng chảy của các sông. Tổng lượng dòng chảy trung
bình hàng năm giai đoạn 1977 - 2008 của tất cả các sông trên lãnh thổ khoảng 837,7 km3,
trong đó 61,4% từ các nước lân cận chảy vào và 38,6% được hình thành trên lãnh thổ.
Lượng nước này đủ cấp cho dân số hiện nay khoảng 10.440m3/người/năm, so với mức đảm
bảo nước trung bình toàn thế giới cho một đầu người, nước ta lớn hơn 1,36 lần [45]. Tuy
nhiên trong những năm gần đây, trên các lưu vực sông, tình trạng suy giảm nguồn nước dẫn
tới thiếu nước, khan hiếm nước không đủ cung cấp cho sinh hoạt, SX đang diễn ra ngày
một thường xuyên hơn, trên phạm vi rộng lớn hơn và nghiêm trọng hơn. Suy thoái tài
nguyên nước được biểu hiện ở sự giảm sút về số lượng và chất lượng. Hậu quả tác hại của
sự suy giảm nguồn nước đã không còn trên quy mô một vài địa phương mà gây tác động
lớn đến môi trường sinh thái của các dòng sông, làm gia tăng nguy cơ kém bền vững của
tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và phát triển XH.
1.1.4.4. Tác động của BĐKH đến HST và ĐDSH
LHQ cảnh báo, các quốc gia nên nhanh chóng thực hiện các biện pháp mang tính
cơ bản và sáng tạo để giữ gìn sự ĐDSH trước nguy cơ đổ vỡ các hệ thống tự nhiên bảo đảm
cho cuộc sống trên hành tinh. Lời kêu gọi được nêu trong báo cáo “Triển vọng ĐDSH toàn
cầu - xuất bản lần thứ 3” (GBO - 3) tại hội nghị về ĐDSH (CBD) và Chương trình Môi
trường LHQ (UNEP). Báo cáo nêu rõ, cùng với BĐKH, nhiều diện tích rừng Amazon bị
chặt phá và đốt cháy đã gây hậu quả xấu cho môi trường, làm tăng nguy cơ mưa lụt và hủy
hoại môi trường sống của nhiều loài sinh vật, đẩy chúng tới bờ tuyệt chủng. Sự thay đổi
mực nước ở các sông hồ đang hủy diệt một số loài thủy sinh, nhiều hệ thống san hô bị phá
hủy do khai thác quá mức, ô nhiễm và BĐKH đã đe dọa cuộc sống của hàng trăm triệu loài
hải sản sống dựa vào san hô. 5 nhân tố trực tiếp làm mất ĐDSH gồm thay đổi điều kiện cư
trú, khai thác quá mức, ô nhiễm, sự xâm lấn của các loài sinh vật lạ và BĐKH vẫn tiếp tục
tồn tại, thậm chí càng nghiêm trọng hơn.
Biến động phức tạp của thời tiết đang và sẽ gây ra nhiều tác hại tới rừng và nghề
rừng. BĐKH làm thay đổi cơ cấu mùa vụ, giảm tăng trưởng cây trồng dẫn đến nguy cơ mất
rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất lâm nghiệp. Đồng thời, đe dọa tới ĐDSH, thay đổi
tổ thành loài, phân bố và khả năng sinh trưởng của các sinh vật., nhiều loài nhiệt đới ưa
sáng di cư cao hơn và các loài á nhiệt đới mất dần. Số lượng quần thể các loài sinh vật quý
hiếm sẽ suy kiệt đồng thời xuất hiện các loài sinh vật ngoại lai có hại sẽ tăng lên. Nhiều
loài phải di cư tìm nơi sống mới và nếu không thể thích ngi sẽ có nguy cơ biến mất khỏi
hành tinh, đồng thời, làm tăng nguy cơ dịch bệnh, cháy rừng, các HST bị suy thoái. Tuy
nhiên, rừng cũng có những tác động ngược lại đối với BĐKH. Sự phát triển chưa bền vững
của rừng đang góp phần làm tăng thêm tính cực đoan của KH, mất rừng và suy thoái rừng
làm tăng 15% phát thải KNK trên toàn cầu. Ở Việt Nam, mất rừng và chuyển đổi mục đích
sử dụng đất lâm nghiệp, ước tính làm phát thải 19,38 triệu tấn CO2. Độ che phủ của rừng
thấp, chất lượng rừng không làm giảm đi khả năng hấp thụ khí gây HƯNK thải ra từ các
ngành SX khác, ảnh hưởng tới KH, làm tăng tần suất thiên tai như bão, lũ lụt, hạn hán, gây
rét đậm, rét hại, triều cường, tăng nhiệt độ và NBD, gây triều cường và nhiễm mặn, nhiễm
phèn.

1.2. Biểu hiện BĐKH

1.2.1. Biểu hiện BĐKH ở Việt Nam

1.2.1.1. Nhiệt độ
Giai đoạn 1895 - 1970, nhiệt độ trung bình hàng năm không có gia tăng. Tuy nhiên,
nhiệt độ đã gia tăng đáng kể trong 3 thập niên qua, tăng khoảng 0,32oC kể từ năm 1970.
Giai đoạn 1900 - 2000, nhiệt độ trung bình năm tăng 0,1oC một thập kỷ. Mùa hè nóng hơn
với nhiệt độ trung bình các tháng hè tăng từ 0,1oC - 0,3oC một thập kỷ. Khu vực có nhiệt
độ tăng cao nhất là Tây Bắc và Việt Bắc.
Nhiệt độ tháng 1 (tháng đặc trưng cho mùa đông), nhiệt độ tháng 7 (tháng đặc trưng
cho mùa hè) và nhiệt độ trung bình năm tăng lên khoảng 0,5oC trên phạm vi cả nước trong
50 năm qua. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn so với nhiệt độ mùa hè, nhiệt độ vùng sâu
trong đất liền tăng nhanh hơn nhiệt độ vùng ven biển và hải đảo, nhiệt độ vùng KH phía
Bắc tăng nhanh hơn vùng KH phía Nam. Nhiệt độ cao nhất miền Nam là khu vực Phước
Long, Đồng Xoài, Xuân Lộc. Vào mùa đông, nhiệt độ tăng nhanh hơn cả là ở Tây Bắc Bộ,
Đông Bắc Bộ, đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (1,3 - 1,5oC). Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên và Nam Bộ có nhiệt độ tháng 1 tăng chậm hơn so với các vùng KH phía Bắc (0,6
- 0,9oC). Tính trung bình cho cả nước, nhiệt độ mùa đông đã tăng lên 1,2oC trong 50 năm
qua.

Bảng 1.3: Mức tăng nhiệt độ (oC) trong 50 năm qua ở các vùng KH Việt Nam

Vùng khí hậu Tháng 1 Tháng 7 Trung bình Năm


Tây Bắc Bộ 1,4 0,5 0,5
Đông Bắc Bộ 1,5 0,3 0,6
Đồng bằng Bắc Bộ 1,4 0,5 0,6
Bắc Trung Bộ 1,3 0,5 0,5
Nam Trung Bộ 0,6 0,5 0,3
Tây Nguyên 0,9 0,4 0,6
Nam Bộ 0,8 0,4 0,6

Mức thay đổi nhiệt độ cực đại trên toàn Việt Nam dao động trong khoảng từ -3oC -
3oC. Mức thay đổi nhiệt độ cực tiểu dao động trong khoảng -5oC - 5oC. Xu thế chung của
nhiệt độ cực đại và cực tiểu là tăng, tốc độ tăng của nhiệt độ cực tiểu nhanh hơn so với nhiệt
độ cực đại, phù hợp với xu thế chung của BĐKH toàn cầu. Xu thế chung của nhiệt độ là
tăng ở hầu hết các khu vực trên cả nước, tuy nhiên có những khu vực nhỏ thuộc vùng biển
ven Trung Bộ và Nam Bộ như Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Tiền Giang nhiệt độ có xu
hướng giảm. Việt Nam có khuynh hướng gia tăng nhiệt độ đáng kể, các tỉnh miền Bắc gia
tăng nhiều hơn các tỉnh miền Nam, đặc biệt trong những tháng mùa hè với biên độ lớn hơn.

1.2.1.2. Lượng mưa


Lượng mưa biến đổi phức tạp ở từng khu vực khác nhau. Lượng mưa giảm ở các
vùng KH phía Bắc và tăng lên ở các vùng KH phía Nam. Lượng mưa trung bình năm trong
50 năm qua (1958 - 2007) đã giảm 2%: lượng mưa mùa khô (tháng 11 - 4) tăng lên chút ít
hoặc không thay đổi ở các vùng KH phía Bắc và tăng lên mạnh mẽ ở các vùng KH phía
Nam. Lượng mưa mùa mưa (tháng 5 - 10) giảm từ 5 - 10% trên đa phần diện tích phía Bắc
và tăng từ 5 - 20% ở các vùng KH phía Nam. Xu thế diễn biến của lượng mưa năm tương
tự như lượng mưa mùa, tăng ở các vùng KH phía Nam và giảm ở các vùng KH phía Bắc.
Khu vực Nam Trung Bộ có lượng mưa mùa khô, mùa mưa và lượng mưa năm tăng mạnh
nhất so với các vùng khác, có nhiều nơi tăng đến 20%.
Lượng mưa ngày cực đại tăng lên ở hầu hết các vùng KH, nhất là trong những năm
gần đây. Số ngày mưa lớn cũng tăng lên tương ứng, nhiều biến động xảy ra ở khu vực miền
Trung. Tồn tại mối tương quan khá rõ giữa sự nóng lên toàn cầu và nhiệt độ bề mặt biển
khu vực Đông xích đạo Bình Dương với xu thế biến đổi ngày mưa lớn trên các vùng KH
phía Nam.
Bảng 1.5: Mức thay đổi lượng mưa trong 50 năm qua các vùng KH Việt Nam
Đơn vị: %

Thời kỳ tháng Thời kỳ tháng Trung bình


Vùng khí hậu
11 - 4 5 - 10 Năm
Tây Bắc Bộ 6 -6 -2
Đông Bắc Bộ 0 -9 -7
Đồng bằng Bắc Bộ 0 - 13 - 11
Bắc Trung Bộ 4 -5 -3
Nam Trung Bộ 20 20 20
Tây Nguyên 19 9 11
Nam Bộ 27 6 9

Biến đổi về mùa mưa có các đặc điểm sau: mùa mưa thực tế luôn dao động xung
quanh mùa mưa trung bình xét về tháng bắt đầu, tháng cao điểm và tháng kết thúc. Khoảng
thời gian xung quanh tháng bắt đầu, tháng cao điểm và tháng kết thúc của mùa mưa trung
bình là 3 - 6 tháng tùy thuộc vào đặc tính mùa mưa trên từng vùng KH. Trên vùng KH
Tây Bắc, Đông Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ khoảng dao động xung
quanh tháng bắt đầu và tháng kết thúc thường rất ngắn nhưng khoảng dao động xung quanh
tháng cao điểm lại rất dài. Đối với vùng KH Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ thì khác hơn,
dao động xung quanh tháng bắt đầu và tháng kết thúc thường rất dài trong khi dao động
xung quanh tháng cao điểm lại rất ngắn. Số ngày nắng nóng trong thập kỷ 1991 - 2000
nhiều hơn, nhất là ở Trung Bộ và Nam Bộ. Mưa trái mùa và mưa lớn dị thường xảy ra nhiều
hơn, nổi bậc là đợt mưa tháng 11 năm 2008 ở Hà Nội và vùng lân cận.
1.2.1.3. Không khí lạnh
Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi rõ rệt trong 2 thập kỷ qua.
Trong thập niên 1971 - 1980, trung bình mỗi năm nước ta đón nhận 29 đợt không khí lạnh
thì đến giai đoạn 1994 - 2007 đã giảm xuống chỉ còn 16 đợt mỗi năm. Tuy nhiên, các biểu
hiện dị thường lại thường xuất hiện mà gần đây nhất là đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét
hại kéo dài 38 ngày trong tháng 1 và 2 năm 2008 ở Bắc Bộ. Tần số hoạt động của không
khí lạnh ở Bắc Bộ giảm rõ rệt trong 3 thập kỷ qua: 1971 - 1980: 288 đợt; 1981 - 1990: 287
đợt; 1991 - 2000: 249 đợt.

1.2.1.4. Mực nước biển dâng


Cũng như các yếu tố KH, xu thế biến đổi của mực nước biển ở Việt Nam được đánh
giá thông qua xu thế của mực nước biển thời kỳ nghiên cứu 1960 - 2008 và tương quan so
sánh giữa thời kỳ 1961 - 1990 và thời kỳ gần đây 1991 - 2008 về mực nước biển trung bình.
Trong thời kỳ 1960 - 2008, tốc độ tăng của mực nước biển trung bình năm là 3,88 mm/năm
ở trạm Hòn Dấu, tiêu biểu cho vùng biển Bắc Bộ; 3,10 mm/năm ở Sơn Trà, tiêu biểu cho
vùng biển Trung Bộ và 3,38 mm/năm ở trạm Vũng Tàu tiêu biểu cho vùng biển Nam Bộ.
Giữa các trạm hải văn tiêu biểu cho 3 vùng không có sự khác biệt đáng kể về tốc độ tăng
của mực nước biển trung bình năm.
Tốc độ tăng của mực nước biển cao nhất năm là 5,60 mm/năm ở Hòn Dấu; 1,29
mm/năm ở trạm Sơn Trà và 4,34 mm/năm ở Vũng Tàu. So với mực nước biển trung bình
năm, tốc độ tăng của mực nước biển cao nhất có sự khác nhau đáng kể giữa các trạm tiêu
biểu. Mực nước biển thấp nhất năm có tốc độ tăng là 2,15 mm/năm được ghi nhận ở Hòn
Dấu; 3,10 mm/năm ở Sơn Trà và - 0,84 mm/năm ở Vũng Tàu. Sự khác biệt giữa các trạm
về tốc độ tăng mực nước biển thấp nhất rõ rệt hơn nhiều so với mực nước biển trung bình
cũng như mực nước biển cao nhất.

1.2.1.5. Các thiên tai


a. Lũ lụt
BĐKH thực sự đã làm cho các thiên tai đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác
liệt hơn. Thiên tai do lũ lụt, lũ quét có xu thế xuất hiện thường xuyên hơn trong những năm
gần đây. Lũ đặc biệt lớn xảy ra ở miền Trung và miền Nam gây thiệt hại nghiêm trọng về
người và tài sản. Trận lụt tháng 11/1999 là trận lụt ghi nhiều kỷ lục đặc biệt về lượng mưa:
ở Huế trong vòng 245 giờ lượng mưa đạt đến 1.384mm. [12]
Năm 2009, có 11 cơn bão ảnh hưởng đến nước ta. Bão, lũ đã làm chết 435 người;
làm đổ trôi 13.354 ngôi nhà; làm ngập úng, hư hại 237.799 ha lúa; làm vỡ 9.424 ha ao hồ
nuôi tôm cá; làm sạt trôi, bồi lấp 3.033.202 m3 đất công trình thủy lợi và 10.321.193 m3 đất
công trình giao thông… ước tính tổng thiệt hại khoảng 23.300 tỷ đồng [38]. Năm 2010, các
sông miền Trung đã xuất hiện 4 đợt lũ lớn gây ngập lụt nghiêm trọng. Đối với hệ thống
sông Hồng, mặc dù xu thế dòng chảy trong những năm gần đây giảm nhưng xuất hiện lũ
lớn không giảm mà còn còn có xu thế gia tăng về tầng suất.
b. Bão
Trung bình hàng năm, nước ta có khoảng 12 cơn bão và ATNĐ hoạt động trên biển
Đông. Trong đó, khoảng 45% số cơn nảy sinh ngay trên biển Đông và 55% số cơn từ Thái
Bình Dương di chuyển vào. Số cơn bão và ATNĐ ảnh hưởng đến Việt Nam vào khoảng 7
cơn mỗi năm và trong đó có 5 cơn đổ bộ hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền.
Số cơn bão với cường độ mạnh đang có xu hướng gia tăng và diễn biến hết sức
bất thường. Mùa bão kết thúc muộn dần, mùa hoạt động của bão kéo dài hơn về các tháng
cuối năm và số bão ảnh hưởng đến tỉnh phía Nam nhiều hơn. Trong khi đó, thông thường
bão đổ bộ vào miền Bắc vào tháng 8, miền Trung tháng 10, miền Nam tháng 11. Quỹ đạo
của bão bất thường, khu vực Nam Trung Bộ và Nam Bộ phải chịu ảnh hưởng nhiều cơn
bão hình thành ngoài biển Đông. BĐKH làm cho số lượng bão nhiều hơn ở Tây Nam Thái
Bình Dương tác động đến Việt Nam. Nhiệt độ nước bề mặt đại dương tăng làm cho tốc độ
gió trong bão tăng và kéo dài. Bão sẽ mạnh hơn nhất là vào những năm El Nino. Tại nhiều
khu vực như ở tỉnh Bến Tre trước đây chưa bao giờ có bão nhưng năm 2007 đã có bão lớn.
c. Hạn hán
Hạn hán có xu thế tăng lên nhưng với mức độ không đồng đều giữa các vùng.
Hiện tượng nắng nóng có dấu hiệu gia tăng rõ rệt ở nhiều vùng trong cả nước, đặc biệt là ở
Trung Bộ và Nam Bộ. Hạn hán xảy ra hàng năm ở hầu hết các khu vực của cả nước với
thiệt hại ngày càng lớn hơn: theo thống kê của trường đại học Thủy Lợi có 11 vụ hạn hán
xảy ra nghiêm trọng trong các năm 1976 - 1998 dẫn đến thiệt hại nặng nề cho SX NN, gây
cháy rừng, cạn kiệt nước ở miền trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ… Hạn hán nghiêm
trọng trên diện rộng gắn liền với tác động của hiện tượng El Nino, thường xảy ra ở Bắc
Trung Bộ năm 1976, ở Đắc Lắc năm 1994 - 1995, hạn hán kéo dài 9 tháng liền ở nước ta
năm 2004 và 2005.
CHƯƠNG 2: ĐỀ XUẤT CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP Ở TÂY
NGUYÊN TRONG ĐIỀU KIỆN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

2.1 Giải pháp chung ứng phó với BĐKH

2.1.1 Các giải pháp chủ yếu


Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể nên nhanh chóng đưa nội dung ứng phó với
BĐKH vào chương trình công tác, kể cả đưa vào chương trình giáo dục học sinh, sinh viên;
chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; chương trình hàng ngày của các
phương tiện thông tin đại chúng. Xây dựng năng lực, kỹ năng, phổ biến kinh nghiệm phòng,
tránh thiên tai, thích ứng với BĐKH cho nhân dân, bảo đảm mọi người dân và toàn xã hội
luôn sẵn sàng ứng phó với BĐKH.
Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là đổi mới
công nghệ SX theo hướng thân thiện với môi trường, tiết kiệm năng lượng, sử dụng hiệu quả
tài nguyên, ít chất thải và cácbon thấp. Đồng thời thúc đẩy nghiên cứu phát triển và tiếp nhận
chuyển giao công nghệ tiên tiến cho ứng phó với BĐKH.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới luật và các văn bản dưới luật trên lĩnh vực
BĐKH, nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm
chủ động ứng phó cho công tác này. Cần phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về ứng
phó với BĐKH, khắc phục sự chồng chéo về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ, phân công,
phân cấp không phù hợp, cũng như xây dựng cơ chế liên ngành, liên vùng và thống nhất đầu
mối quản lý nhà nước đối với nhiệm vụ ứng phó với BĐKH.
Tăng cường hệ thống theo dõi, giám sát, cảnh báo sớm các hiện tượng KH cực đoan,
bao gồm cả hệ thống thông tin trên cơ sở trang thiết bị hiện đại và trình độ kĩ thuật đến
nghiệp vụ của cán bộ chuyên môn được nâng lên.
Thành lập các nhóm chuyên gia, tổ chức, viện và trung tâm nghiên cứu, trường đại
học để thực hiện các nghiên cứu, dự án về BĐKH; xây dựng các kịch bản BĐKH; xây dựng,
đánh giá các phương án giảm nhẹ phát thải KNK và đề xuất các biện pháp ứng phó với
BĐKH. Đầu tư cho các chương trình nghiên cứu và đánh giá tính tổn thương của các HST.
Khai thác và ứng dụng công nghệ mới trong các lĩnh vực liên quan đến BĐKH và phát triển
bền vững. Quy hoạch lại đất đai, tài nguyên nước, xây dựng kết cấu hạ tầng tại các vùng
nhạy cảm, dễ bị ảnh hưởng.
Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quản lý tài nguyên đất và nước trên cơ sở đánh
giá tác động và khả năng tổn hại do BĐKH đối với lĩnh vực và tỉnh, nhằm tránh rủi ro và
hạn chế tổn hại đồng thời khai thác các điều kiện thuận lợi đặc biệt chú trọng vùng ven biển
và miền núi.
Điều chỉnh bổ sung và hoàn thiện chiến lược phòng chống và giảm nhẹ thiên tai có
xét đến tác động trước mắt và tiềm tàng của BĐKH bao gồm chiến lược phòng ngừa từ xa,
ứng cứu khẩn cấp và khắc phục hậu quả.
Đẩy mạnh truyền thông, tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho toàn xã hội
về BĐKH gắn với huấn luyện đào tạo, tăng cường kỹ năng và năng lực ứng phó của các
cộng đồng dân cư đặc biệt ở những vùng có nguy cơ tổn hại và rủi ro cao để người dân nhận
thức được BĐKH là vấn đề hiện hữu, là mối đe dọa trực tiếp đến sức khỏe và cuộc sống của
con người. Qua đó, góp phần thay đổi hành vi của họ với môi trường như tiết kiệm và sử
dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên nước, bảo vệ rừng ngập mặn, trồng và bảo vệ các
loại rừng phòng hộ ven biển.
Ban hành các cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích, thu hút đầu tư vào các hoạt
động thích ứng với BĐKH ở các lĩnh vực, hạn chế đầu tư phát triển ở những khu vực có
nhiều rủi ro.
Chuyển đổi cơ cấu, giống cây trồng, vật nuôi, điều chỉnh mùa vụ, kỹ thuật SX NN
thích ứng với BĐKH. Tăng cường kiến thức, nâng cao năng lực thích ứng, bảo đảm sinh kế
cho người dân những vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề của BĐKH, vùng thường xuyên
bị tác động của thiên tai.
Nâng cao chất lượng rừng, trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc bảo đảm khai
thác hiệu quả các loại rừng để duy trì và nâng cao khả năng phòng, chống thiên tai, chống
sa mạc hóa, xâm thực, suy thoái đất; tăng cường bảo vệ, quản lý và phát triển rừng.
Chủ động chuẩn bị các phương án, điều kiện phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai phù
hợp với từng ngành, lĩnh vực, vùng, miền, nhất là các địa phương ven biển, vùng núi cao,
vùng dễ bị tổn thương trước thiên tai đóng vai trò rất quan trọng trong việc chủ động ứng
phó với BĐKH. Cần có phương án chủ động xử lý tình huống xấu nhất ảnh hưởng đến SX,
đời sống của nhân dân và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nâng cao năng lực tìm kiếm, cứu
nạn, cứu hộ, phòng, chống dịch bệnh.
Nâng cấp, bảo đảm an toàn các hồ chứa nước, nhất là ở khu vực, Tây Nguyên. Bảo
vệ, đẩy mạnh phục hồi rừng phòng hộ đầu nguồn.
Bảo vệ không gian thoát lũ trên các lưu vực và lòng sông. Củng cố và xây dựng mới
các công trình cấp, thoát nước của các đô thị, nhất là vùng ven biển.
Chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế và phát triển quan hệ đối tác chiến lược; tăng
cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, đối thoại chính sách, hợp tác trong dự báo, đào tạo
nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ với các nước về ứng phó với
BĐKH.
Để Trái đất mãi là “hành tinh xanh” thì mỗi chúng ta cần phải có một nhận thức
đúng đắn hơn về BĐKH. Khi đã hiểu được những tác hại nghiêm trọng của BĐKH thì phải
có ý thức cao hơn nữa bằng những việc làm rất đơn giản trong cuộc sống để giảm thiểu
phát thải KNK vào bầu khí quyển. Tuy là những việc làm rất dễ thực hiện nhưng không
phải ai cũng có thể thực hiện được. Sau đây là những hành động, những việc làm cụ thể
mang lại hiệu quả cao mà chúng ta nên cố gắng làm để phần nào có thể giảm thiểu và thích
ứng được với BĐKH.
Trồng cây gây rừng, tái tạo rừng và chống phá rừng: những cánh rừng xanh bạt ngàn
với màu xanh biếc được xem là “lá phổi”, là sự sống của con người, là môi trường sinh tồn
của sinh vật. Những dãi rừng hùng vĩ như những chiến sĩ oanh liệt có nhiệm vụ bảo vệ chúng
ta trước sự hung hãn của bão tố phong ba. Hiện nay, diện tích rừng nhất là rừng ngập mặn
của nước ta đã giảm đi đáng kể. Nguyên nhân rừng bị cháy chủ yếu là do sự bất cẩn hay
cố ý của con người cộng với nắng hạn kéo dài làm cho những đám cháy thêm dữ dội hơn.
Mỗi chúng ta nên có ý thức tuyệt đối không được tổn hại đến rừng, tích cực tham gia trồng
và tái tạo rừng, báo ngay với kiểm lâm khi thấy xuất hiện “lâm tật”.
Sử dụng tiết kiệm điện bằng những hành động thiết thực: tắt đèn, quạt, máy lạnh khi
đi ra ngoài; tắt máy tính khi không sử dụng... Hạn chế sử dụng năng lượng truyền thống, tích
cực sử dụng phương tiện công cộng, xe đạp. Đạp xe hàng ngày giúp cho chúng ta có một
sức khỏe tốt hơn, tiết kiệm được tiền bạc và quan trọng nhất là giảm được lượng CO2 phát
thải vào bầu khí quyển.
Tăng cường trồng cây xanh, thảm phủ cho những nơi xói mòn, xói lở...: đối với những
nơi đã đang và có nguy cơ bị sạc lở thì nên tiến hành trồng cây xanh ngay lập tức, đây là
biện pháp được xem là hữu hiệu nhất để hạn chế và chống xói mòn, hơn nữa cây xanh sẽ
hấp thụ khí CO2 và thải ra khí O2 tạo một môi trường sống với bầu khí quyển trong lành.
2.1.2 Giải pháp cụ thể ứng phó với BĐKH trong nông nghiệp

Việt Nam nói chung, Tây Nguyên nói riêng đang phải hứng chịu những tác hại nặng
nề từ BDKH. BĐKH hàng ngày, hàng giờ đã và đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Hiện
tượng El Nino đã làm cho các tỉnh Tây nguyên mùa khô đến sớm và không có mưa nghịch
mùa như những năm trước, mùa mưa đến chậm hơn 1 tháng và lượng mưa phân phối không
đều giữa các vùng làm cho cây trồng, vật nuôi phát triển kém, dịch bệnh nhiều hơn. Nhiều
loại hoa chỉ nở về mùa hè nay do nhiệt độ cao lại nở rực rỡ ngay đầu xuân như Bằng lăng,
Phượng hồng, Hoàng hậu, Diệp vàng...
BĐKH sẽ ảnh hưởng trực tiếp và rõ rệt nhất đến an ninh lương thực, do dân số tăng
nhanh, trong khi diện tích đất NN sẽ bị giảm đi do: đô thị hóa, nhà ở nông thôn tăng, công
nghiệp phát triển chiếm khá lớn đất. Như vậy ngay từ bây giờ chúng ta cần phải thực hiện
đồng bộ nhiều giải pháp:
2.1.2.1Giải pháp về thủy lợi
Chính phủ đã và đang đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để xây dựng và nâng cấp hệ thống
hồ chứa, kênh mương. Thành lập và củng cố Ban điều tiết nước của Khu vực và của các
tỉnh để điều tiết việc đóng mở các cống liên huyện, liên tỉnh để vừa đảm bảo có đủ nước
cho sản SX được an toàn.
Thực hiên phương pháp tưới nước tiết kiệm, hợp lý đối với các loại cây trồng sử
dụng lượng nước cao như cà phê, lúa,... Áp dụng các công nghệ tưới tiết kiệm vào nông
nghiệp.
2.1.2.2 Giải pháp chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi
Tiếp tục nghiên cứu, chọn tạo các giống cây trồng có khả năng chịu mặn, chịu
hạn, chịu ngập úng, có sức đề kháng sâu bệnh cao; kể cả cây trồng biến đổi gen làm thức
ăn chăn nuôi hay cây công nghiệp ngắn ngày như: đậu tương, ngô, bông vải. Lai tạo, gây
giống vật nuôi có khả năng chịu nóng, có sức đề kháng cao với dịch bệnh, những giống
thủy sản chịu mặn, những giống vật nuôi sử dụng thức ăn là phế phụ phẩm thủy hải sản hay
phế phụ phẩm từ lương thực để không cạnh tranh lương thực với con người như động vật
ăn cỏ, ăn rơm như trâu, bò, ngựa, dê, cừu, đà điểu; những loài thủy cầm và những loài động
vật hoang dã như rùa, ba ba, cá sấu, trăn, rắn, kỳ đà, nhím. Xây dựng và chuyển giao những
cây lương thực có củ như khoai môn, khoai mỡ, khoai chuối , khoai mì...
2.1.2.3 Giải pháp về mùa vụ
Đối với cây trồng ngắn ngày thì chủ động trồng lệch vụ để đảm bảo các điều kiện tự
nhiên thích hợp. Chuyển đổi những cây sử dụng nhiều nước qua trồng các cây trồng cạn,
sử dụng ít nước và có khả năng chịu hạn hay chịu ngập úng.

2.1.2.4 Giải pháp kỹ thuật


Ngoài việc nghiên cứu chọn tạo các giống cây trồng vật nuôi thích ứng với
BĐKH như trên, các quy trình kỹ thuật cũng cần phải được thay đổi hay cải tiến, hoàn thiện
nâng cao hiệu quả và tính bền vững của mô hình SX. Chẳng hạn qui trình tưới nước tiết
kiệm đối với cây trồng, qui trình chăn nuôi gia cầm an toàn sinh học, qui trình tiết kiệm
điện năng trong sưởi ấm gia súc, gia cầm non; tiết kiệm nước trong vệ sinh chuồng trại chăn
nuôi; tận dụng phần gia súc, gia cầm để tạo khí sinh học làm chất đốt hay chạy máy phát
điện công suất nhỏ phục vụ lại chăn nuôi.
Nghiên cứu trồng các cây rau, màu trong vườn cà phê (trong mùa mưa) để làm
thức ăn chăn nuôi. Mở rộng, hoàn thiện mô hình Nông – Lâm kết hợp. Nghiên cứu trồng
các cây chịu hạn, cây che bóng, cây rừng có giá trị trong vườn cây để vừa có thêm nguyên
liệu chế biến hàng thủ công mỹ nghệ. Nghiên cứu chế biến sản phẩm phụ trong nông nghiệp
như vỏ cà phê, thân rơm rạ, các cây họ đậu bằng cách nghiền nhỏ, đóng bánh dự trữ làm
thức ăn cho gia súc nhai lại trong mùa khô thiếu cỏ....

You might also like