Professional Documents
Culture Documents
tài liệu
tài liệu
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam nằm ở bán đảo Đông Dương, nằm trọn trong vùng KH nhiệt đới, là nước
đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Điều kiện tự nhiên có nhiều thuận lợi cho phát triển
NN đặc biệt là trồng lúa nước. Người dân đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý báu trong
SX, đã dựa vào các điều kiện vốn có của tự nhiên để mở rộng đất canh tác, nâng cao năng
suất qua mỗi mùa vụ. Ngày nay, ngoài những kinh nghiệm, người dân đã và đang áp dụng
nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật vào trồng trọt để nâng cao năng và sản lượng. Với những
thành tựu to lớn của khoa học công nghệ đã mang lại nhiều sự đổi mới, cuộc sống của người
dân ngày càng được nâng cao nhưng tác hại của chúng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới môi
trường. Hiện nay, KH đang biến đổi từng ngày từng giờ, Trái đất đang ngày một nóng lên,
băng ở hai cực đang tan ra, nhiều vùng đất thấp ở ven biển đã bị nhấn chìm trong nước,
nhiều vùng đất bị ngập mặn, thiên tai gia tăng, dịch bệnh phát triển mạnh mẽ.
Biến đổi khí hậu làm thu hẹp diện tích đất đất nông nghiệp phần đáng kể diện tích đất
nông nghiệp ở vùng thấp đồng bằng ven biển, ĐBSH, ĐBSCL bị ngập mặn do nước biến
dâng. Nhiệt độ tăng, lượng mưa giảm… làm cho cơ cấu cây trồng, vật nuôi và mùa vụ bị
thay đổi ở một số khu vực. Trong đó, vụ đông ở miền Bắc bị rút ngắn lại, vụ mùa kéo dài
hơn, từ đó đòi hỏi phải thay đổi kỹ thuật canh tác. Nhiệt độ tăng và tính biến động của nhiệt
độ lớn hơn, kể cả nhiệt độ cực đại và cực tiểu, cùng với biến động của các yếu tố thời tiết
khác và thiên tai làm tăng khả năng sâu bệnh, dịch bệnh dẫn đến giảm năng suất và sản
lượng, tăng nguy cơ rủi ro đối với nông nghiệp.
Khí hậu biến đổi làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quá trình sản xuất của người dân.
Nhiều đồng ruộng vùng đồng bằng ven biển đang dần bị hoang mạc hóa, đất bị nhiễm mặn,
hạn hán gia tăng, diện tích đất canh tác bị thu hẹp, sản lượng giảm dần. Mùa hè, nhiều vùng
rơi vào tình trạng hạn hán, thiếu nước trầm trọng, sinh hoạt của người dân gặp nhiều khó
khăn. Nước sinh hoạt còn khan hiếm thì thử hỏi lấy đâu ra nước để sản xuất? Kèm theo đó
là những thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, sâu bệnh phá hoại cây trồng làm cho năng suất giảm,
thậm chí có vụ còn trắng tay. Một số nơi người dân sử dụng nhiều phân bón hóa học, thuốc
trừ sâu với liều lượng cao nhằm phòng, chống sâu bệnh và nâng cao năng suất. Qua những
lần sử dụng đó đã dần tiêu diệt những động vật, côn trùng có lợi như ếch, nhái… ảnh hưởng
tới cân bằng HST, tăng thêm sâu bệnh. Việc sử dụng nhiều phân bón hóa học với hàm lượng
cao và không đúng cách đã làm cho đất đai bị bạc màu, độ phì nhiêu giảm và ít màu mỡ.
Hiện nay biến đổi khí hậu đã và đang hiện hữu và gây ra những thiệt hại nặng nề cho
các tỉnh Tây Nguyên. Nhằm mục đích phát triển nền nông nghiệp bền vững và thích ứng
với những biến đổi phức tạp của khí hậu đã thôi thúc tôi quyết định lựa chọn và tiến hành
nghiên cứu đề tài “Chiến lược phát triển nông nghiệp ở Tây Nguyên trong điều kiện biến
đổi khí hậu” nhằm góp phần ứng phó với BĐKH một cách hiệu quả hơn.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Đối với Hiệp hội Khí tượng Mỹ (American Meteorological Society - AMS) chỉ tập
trung đề cập đến nguyên nhân dẫn đến BĐKH: “Bất kỳ sự thay đổi có hệ thống của
các nhân tố KH trong một thời gian dài (nhiệt độ, áp suất hoặc gió) qua hàng chục
năm hoặc lâu hơn. BĐKH có thể do các quá trình tự nhiên, như các thay đổi trong
quá trình phát năng lượng của Mặt trời, hoặc các thay đổi chậm chạp của trục quay
Trái đất, hoặc do các quá trình tự nhiên nội tại của hệ thống KH; hoặc do tác động từ
các hoạt động của con người”.\
Định nghĩa của Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt nam: “BĐKH xác định sự khác
biệt giữa các giá trị trung bình dài hạn của một tham số hay thống kê KH. Trong đó,
trung bình được thực hiện trong một khoảng thời gian xác định, thường là vài thập
kỷ. Sự thay đổi của KH được quy trực tiếp hay gián tiếp là do hoạt động của con
người làm thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu và đóng góp thêm vào sự biến
động KH tự nhiên trong các thời gian có thể so sánh được”
Theo báo cáo mới nhất của LHQ, nguyên nhân gây ra BĐKH 90% là do con người,
10% là do tự nhiên. Sau cuộc tranh luận kéo dài hơn 30 năm cho đến nay, các nhà khoa học
đã nhất trí cho rằng những hoạt động phát triển KT - XH với nhịp điệu ngày một cao trong
nhiều lĩnh vực như năng lượng, công nghiệp, giao thông, nông - lâm - ngư nghiệp và sinh
hoạt của con người đã làm tăng nồng độ các khí gây HƯNK trong khí quyển, làm Trái đất
nóng lên, biến đổi hệ thống KH và ảnh hưởng tới môi trường toàn cầu.
Tỷ lệ các hoạt động của con người trong tổng lượng phát thải KNK (IPCC, 2007): SX
điện năng 25,9%; Công nghiệp 19,4%; Lâm nghiệp 17,4%; NN 13,5%; Giao thông vận tải
13,1%; Thương mại và tiêu dùng 7,9%; Rác thải 2,8%.
1.1.2.1. Sự biến đổi của tự nhiên
Gia tăng nhiệt độ là do HƯNK, song cần nhấn mạnh hơn đến chu kỳ nóng lên của
Trái đất do hoạt động nội tại. Nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên và lạnh đi vốn là hiện tượng
tự nhiên xảy ra có tính chu kỳ trong lịch sử hình thành và phát triển của Trái đất. Không
phải chỉ bây giờ, lịch sử Trái đất hàng triệu năm đã trải qua nhiều lần nóng lên rồi lạnh đi
kéo theo những biến động to lớn trong đời sống sinh vật, làm thay đổi cả diện mạo địa hình
lục địa và đại dương.
Tính từ 1,6 triệu năm cho đến nay đã có 5 - 6 chu kỳ biến động lớn. Đó là các thời
kỳ băng hà kéo theo mực nước biển hạ thấp và các thời kỳ băng tan kéo theo mực NBD
cao. Vào thời kỳ băng hà, nhiệt độ bề mặt Trái đất khô lạnh. Vào thời kỳ băng tan, nhiệt độ
bề mặt Trái đất đan xen giữa nóng ẩm và khô hạn. Vào các thời kỳ đó, biên độ dao động
của nước biển lên đến hàng chục hàng trăm mét. Mỗi chu kỳ kéo dài hàng vạn, chục vạn
năm. Mỗi chu kỳ như vậy còn được chia ra các chu kỳ ngắn hơn với thời gian kéo dài hàng
trăm năm đến nghìn năm với biên độ dao động mực nước biển 2 - 3m hoặc hơn.
Nguyên nhân gây ra BĐKH do tự nhiên bao gồm thay đổi cường độ sáng của Mặt
trời, sự xuất hiện các điểm đen trên Mặt trời (Sunspots), các hoạt động núi lửa, thay đổi đại
dương, thay đổi quỹ đạo quay của Trái đất…
Với sự xuất hiện các điểm đen làm cho cường độ tia bức xạ Mặt trời chiếu xuống Trái
đất thay đổi, nghĩa là năng lượng chiếu xuống mặt đất thay đổi, từ đó làm thay đổi nhiệt độ
bề mặt Trái đất.
Sự thay đổi cường độ sáng của Mặt trời cũng gây ra sự thay đổi năng lượng chiếu
xuống mặt đất làm thay đổi nhiệt độ bề mặt Trái đất. Từ khi tạo thành Mặt trời đến nay (gần
4,5 tỷ năm), cường độ sáng của Mặt trời đã tăng lên hơn 30%. Như vậy, có thể thấy rằng
khoảng thời gian khá dài thì sự thay đổi cường độ sáng Mặt trời không ảnh hưởng nhiều đến
BĐKH.
Khi một ngọn núi lửa phun trào sẽ phát thải vào bầu khí quyển một lượng lớn sulfur
dioxide (SO2) và tro bụi, ảnh hưởng đến KH trong nhiều năm. Các hạt nhỏ (sol khí) được
phun ra bởi núi lửa phản chiếu lại bức xạ Mặt trời trở vào không gian, vì vậy, chúng có tác
dụng làm giảm nhiệt độ lớp bề mặt Trái đất.
Sự di chuyển của các dòng hải lưu qua các đại dương có thể gây nên thay đổi cụcbộ
của KH ở các vĩ độ địa lý, làm cán cân phân phối nhiệt độ giữa đất liền và vùng biển trong
khu vực thay đổi. Sự thay đổi khối nhiệt khổng lồ do chuyển dịch các dòng hải lưu lên phía
Bắc có thể tạo nên hiện tương băng tan đột ngột làm KH thay đổi và nồng độ mặn trong
nước biển cũng bị ảnh hưởng.
Nhà toán học người Pháp cho rằng sự thay đổi quỹ đạo hình Elip của Trái đất quanh
Mặt trời có thể là nguyên nhân làm thay đổi khối lượng băng hà. Vào thời điểm hạ chí và
đông chí, xuân phân và thu phân thì góc chiếu của các tia sáng từ Mặt trời đến Trái đất sẽ
bị ảnh hưởng do độ lệch trục Trái đất so với mặt phẳng hình elip của quỹ đạo.
1.1.2.2. Hoạt động SX và sinh hoạt của con người
Từ khi có sự hiện diện của con người cho đến nay, KH trên Trái đất đã bắt đầu có
những thay đổi nhất định. Khởi thủy, các hoạt động của con người như khai thác rừng, mở
rộng diện tích canh tác NN, phát triển chăn nuôi, khai thác khoáng sản, đốt nhiên liệu hóa
thạch… đã phát thải ra bầu khí quyển nhiều CO2, CH4 và nhiều chất KNK khác gây nên
hiện tượng nghẽn nhiệt trên bầu khí quyển làm Trái đất nóng lên. Theo số liệu công bố của
IPCC, giai đoạn 1850 - 2005, nồng độ các chất KNK đã tăng lên rất nhiều: CO2 tăng 30%,
CH4 tăng 17%, N2O tăng 15%. Con người cũng đã xả ra nhiều chất CFC vào không khí làm
cho lớp khí ozone ở
BĐKH toàn cầu với biểu hiện chính là sự tăng cao nhiệt độ bề mặt Trái đất, NBD, và
những hiện tượng KH cực đoan đang gây hại cho nhiều khu vực trên thế giới. Năm 2010,
người dân Ireland và Anh phải đón một “Giáng sinh trắng”, Canada lại bất ngờ ấm lên,
còn Nga thì có một mùa hè nóng bỏng, Pakistan có thêm nhiều kinh nghiệm với trận lũ lịch
sử. Ở Việt Nam, biểu hiện rõ nhất là các hiện tượng thời tiết cực đoan đã gây thiệt hại nặng
nề về người và tài sản như bão, lũ lụt ở miền Trung, lốc xoáy và mưa đá ở miền Bắc, đặc
biệt ĐBSCL là khu vực dễ bị tổn thương nhất, đang phải đối mặt với vấn đề NBD, xâm
nhập mặn, triều cường ngày càng gia tăng.
Sự nóng lên của nhiệt độ bề mặt Trái Đất hay còn gọi là hiện tượng nóng lên toàn
cầu. Nhiệt độ trung bình ở nhiều nơi đều có xu thế gia tăng.
Lượng mưa thay đổi bất thường, mùa khô ngày càng ít hơn mùa mưa. Ngày bắt đầu
mùa mưa, mưa đến trễ hơn nhưng cuối mùa mưa lại có nhiều trận mưa lớn hơn và số
trận mưa cũng thay đổi khác thường.
Mực NBD cao do sự tan băng ở hai đầu cực Trái đất và do sự giãn nở vì khối nước
từ đại dương và biển, dẫn tới ngập úng ở những vùng đất thấp.
Các hiện tượng thời tiết dị thường ngày càng rõ hơn và xuất hiện nhiều trận lũ dữ dội
hơn, nhiều nơi băng giá dày hơn vào mùa đông, nhiều trận cháy rừng khốc liệt hơn,
nhiều vùng khô hạn mở rộng và kéo dài hơn. Các thiên tai và hiện tượng thời tiết cực
đoan (lốc xoáy, sấm sét…) gia tăng về cường độ, vị trí.
Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của người
và các sinh vật trên Trái đất.
Sự dịch chuyển của các đới KH đang tồn tại đến các vùng khác nhau trên thế giới
dẫn đến nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật, các HST và hoạt động của con
người.
Sự thay đổi cường độ hoạt động của các quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần
hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác.
Sự thay đổi năng suất sinh học của các HST, chất lượng và thành phần của thủy quyển,
sinh quyển và địa quyển.
Sự thay đổi chế độ mưa, dòng chảy và hạn hán, sự biến đổi, gia tăng tần số và cường
độ của bão và ATNĐ, cùng với những hệ quả về KT - XH và môi trường.
BĐKH là một hiện tượng diễn biến trong quá khứ cũng như biện tại và có thể biến
động nhanh hơn trong tương lai. Hiện tượng nóng lên toàn cầu làm băng ở Bắc Cực và Nam
Cực cũng như các dải băng ở các dãy núi cao tan nhanh, khiến mực nước biển nhận thêm
nhiều nguồn nước nên đang có xu thế dâng cao, cán cân tuần hoàn nước thay đổi, đe dọa
toàn bộ HST hiện hữu, đặc biệt là các vùng đất thấp và ven biển có thể bị nước biển nhấn
chìm. Vùng cao, vùng thượng nguồn hoặc trong đê bao khép kín chỉ chịu tác động của
BĐKH như mưa bão, lũ lụt, xói lở, hạn hán… là chính, trong khi vùng thấp ven sông chịu
ảnh hưởng thủy triều của biển và vùng ven biển có thể chịu cả hai tác động BĐKH và NBD.
BĐKH làm cho bão, lũ lụt, hạn hán, mưa lớn trong những năm tới trở nên ác liệt hơn,
gây rủi ro lớn cho phát triển KT - XH hoặc xóa đi những thành quả nhiều năm của sự phát
triển, trong đó có những thành quả thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. NN trong tương
lai vẫn là giá đỡ cho đất nước đứng vững trước nhiều biến động của BĐKH. “Phi công bất
phú và Phi nông bất an” đã nói lên tầm quan trọng của SX NN đối với sự sinh tồn và phát
triển của một đất nước. Tuy nhiên, hiện nay dưới sự tác động của BĐKH, ngành NN đang
phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, đe dọa đến an ninh lương thực của thế giới.
1.2.1.1. Nhiệt độ
Giai đoạn 1895 - 1970, nhiệt độ trung bình hàng năm không có gia tăng. Tuy nhiên,
nhiệt độ đã gia tăng đáng kể trong 3 thập niên qua, tăng khoảng 0,32oC kể từ năm 1970.
Giai đoạn 1900 - 2000, nhiệt độ trung bình năm tăng 0,1oC một thập kỷ. Mùa hè nóng hơn
với nhiệt độ trung bình các tháng hè tăng từ 0,1oC - 0,3oC một thập kỷ. Khu vực có nhiệt
độ tăng cao nhất là Tây Bắc và Việt Bắc.
Nhiệt độ tháng 1 (tháng đặc trưng cho mùa đông), nhiệt độ tháng 7 (tháng đặc trưng
cho mùa hè) và nhiệt độ trung bình năm tăng lên khoảng 0,5oC trên phạm vi cả nước trong
50 năm qua. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn so với nhiệt độ mùa hè, nhiệt độ vùng sâu
trong đất liền tăng nhanh hơn nhiệt độ vùng ven biển và hải đảo, nhiệt độ vùng KH phía
Bắc tăng nhanh hơn vùng KH phía Nam. Nhiệt độ cao nhất miền Nam là khu vực Phước
Long, Đồng Xoài, Xuân Lộc. Vào mùa đông, nhiệt độ tăng nhanh hơn cả là ở Tây Bắc Bộ,
Đông Bắc Bộ, đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (1,3 - 1,5oC). Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên và Nam Bộ có nhiệt độ tháng 1 tăng chậm hơn so với các vùng KH phía Bắc (0,6
- 0,9oC). Tính trung bình cho cả nước, nhiệt độ mùa đông đã tăng lên 1,2oC trong 50 năm
qua.
Bảng 1.3: Mức tăng nhiệt độ (oC) trong 50 năm qua ở các vùng KH Việt Nam
Mức thay đổi nhiệt độ cực đại trên toàn Việt Nam dao động trong khoảng từ -3oC -
3oC. Mức thay đổi nhiệt độ cực tiểu dao động trong khoảng -5oC - 5oC. Xu thế chung của
nhiệt độ cực đại và cực tiểu là tăng, tốc độ tăng của nhiệt độ cực tiểu nhanh hơn so với nhiệt
độ cực đại, phù hợp với xu thế chung của BĐKH toàn cầu. Xu thế chung của nhiệt độ là
tăng ở hầu hết các khu vực trên cả nước, tuy nhiên có những khu vực nhỏ thuộc vùng biển
ven Trung Bộ và Nam Bộ như Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Tiền Giang nhiệt độ có xu
hướng giảm. Việt Nam có khuynh hướng gia tăng nhiệt độ đáng kể, các tỉnh miền Bắc gia
tăng nhiều hơn các tỉnh miền Nam, đặc biệt trong những tháng mùa hè với biên độ lớn hơn.
Biến đổi về mùa mưa có các đặc điểm sau: mùa mưa thực tế luôn dao động xung
quanh mùa mưa trung bình xét về tháng bắt đầu, tháng cao điểm và tháng kết thúc. Khoảng
thời gian xung quanh tháng bắt đầu, tháng cao điểm và tháng kết thúc của mùa mưa trung
bình là 3 - 6 tháng tùy thuộc vào đặc tính mùa mưa trên từng vùng KH. Trên vùng KH
Tây Bắc, Đông Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ khoảng dao động xung
quanh tháng bắt đầu và tháng kết thúc thường rất ngắn nhưng khoảng dao động xung quanh
tháng cao điểm lại rất dài. Đối với vùng KH Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ thì khác hơn,
dao động xung quanh tháng bắt đầu và tháng kết thúc thường rất dài trong khi dao động
xung quanh tháng cao điểm lại rất ngắn. Số ngày nắng nóng trong thập kỷ 1991 - 2000
nhiều hơn, nhất là ở Trung Bộ và Nam Bộ. Mưa trái mùa và mưa lớn dị thường xảy ra nhiều
hơn, nổi bậc là đợt mưa tháng 11 năm 2008 ở Hà Nội và vùng lân cận.
1.2.1.3. Không khí lạnh
Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi rõ rệt trong 2 thập kỷ qua.
Trong thập niên 1971 - 1980, trung bình mỗi năm nước ta đón nhận 29 đợt không khí lạnh
thì đến giai đoạn 1994 - 2007 đã giảm xuống chỉ còn 16 đợt mỗi năm. Tuy nhiên, các biểu
hiện dị thường lại thường xuất hiện mà gần đây nhất là đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét
hại kéo dài 38 ngày trong tháng 1 và 2 năm 2008 ở Bắc Bộ. Tần số hoạt động của không
khí lạnh ở Bắc Bộ giảm rõ rệt trong 3 thập kỷ qua: 1971 - 1980: 288 đợt; 1981 - 1990: 287
đợt; 1991 - 2000: 249 đợt.
Việt Nam nói chung, Tây Nguyên nói riêng đang phải hứng chịu những tác hại nặng
nề từ BDKH. BĐKH hàng ngày, hàng giờ đã và đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Hiện
tượng El Nino đã làm cho các tỉnh Tây nguyên mùa khô đến sớm và không có mưa nghịch
mùa như những năm trước, mùa mưa đến chậm hơn 1 tháng và lượng mưa phân phối không
đều giữa các vùng làm cho cây trồng, vật nuôi phát triển kém, dịch bệnh nhiều hơn. Nhiều
loại hoa chỉ nở về mùa hè nay do nhiệt độ cao lại nở rực rỡ ngay đầu xuân như Bằng lăng,
Phượng hồng, Hoàng hậu, Diệp vàng...
BĐKH sẽ ảnh hưởng trực tiếp và rõ rệt nhất đến an ninh lương thực, do dân số tăng
nhanh, trong khi diện tích đất NN sẽ bị giảm đi do: đô thị hóa, nhà ở nông thôn tăng, công
nghiệp phát triển chiếm khá lớn đất. Như vậy ngay từ bây giờ chúng ta cần phải thực hiện
đồng bộ nhiều giải pháp:
2.1.2.1Giải pháp về thủy lợi
Chính phủ đã và đang đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để xây dựng và nâng cấp hệ thống
hồ chứa, kênh mương. Thành lập và củng cố Ban điều tiết nước của Khu vực và của các
tỉnh để điều tiết việc đóng mở các cống liên huyện, liên tỉnh để vừa đảm bảo có đủ nước
cho sản SX được an toàn.
Thực hiên phương pháp tưới nước tiết kiệm, hợp lý đối với các loại cây trồng sử
dụng lượng nước cao như cà phê, lúa,... Áp dụng các công nghệ tưới tiết kiệm vào nông
nghiệp.
2.1.2.2 Giải pháp chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi
Tiếp tục nghiên cứu, chọn tạo các giống cây trồng có khả năng chịu mặn, chịu
hạn, chịu ngập úng, có sức đề kháng sâu bệnh cao; kể cả cây trồng biến đổi gen làm thức
ăn chăn nuôi hay cây công nghiệp ngắn ngày như: đậu tương, ngô, bông vải. Lai tạo, gây
giống vật nuôi có khả năng chịu nóng, có sức đề kháng cao với dịch bệnh, những giống
thủy sản chịu mặn, những giống vật nuôi sử dụng thức ăn là phế phụ phẩm thủy hải sản hay
phế phụ phẩm từ lương thực để không cạnh tranh lương thực với con người như động vật
ăn cỏ, ăn rơm như trâu, bò, ngựa, dê, cừu, đà điểu; những loài thủy cầm và những loài động
vật hoang dã như rùa, ba ba, cá sấu, trăn, rắn, kỳ đà, nhím. Xây dựng và chuyển giao những
cây lương thực có củ như khoai môn, khoai mỡ, khoai chuối , khoai mì...
2.1.2.3 Giải pháp về mùa vụ
Đối với cây trồng ngắn ngày thì chủ động trồng lệch vụ để đảm bảo các điều kiện tự
nhiên thích hợp. Chuyển đổi những cây sử dụng nhiều nước qua trồng các cây trồng cạn,
sử dụng ít nước và có khả năng chịu hạn hay chịu ngập úng.