You are on page 1of 8

BÀI 1: CHIỀU TỐI – HỒ CHÍ MINH

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ


Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”
“ Chiều tối” là bài thơ số 31 trong tập thơ “ Nhật kí trong tù” (gồm 134 bài thơ) được viết
bằng chữ Hán. Bài thơ được viết trong hoàn cảnh đặc biệt: trên đường Bác đi đày từ Tĩnh
Tây đến Thiên Bảo vào cuối mùa thu năm 1942.
Vấn đề 1: Bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt
1. Hai câu đầu – Bức tranh thiên nhiên
Phiên âm:” Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Dịch thơ: “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
a.Hình ảnh cánh chim – “quyện điểu”: Được vận dụng bút pháp chấm phá – thủ pháp
nghệ thuật quen thuộc trong Đường thi, bức tranh thiên nhiên của Hồ Chí Minh hiện lên
qua hình ảnh cánh chim tuy giản đơn nhưng giàu sức gợi.
* Gợi thời gian: Dựa vào sắc thái của cánh chim “quyện” (mệt), ta hình dung ra một bầy
chim tan tác, đang cố gắng vẫy đôi cánh mỏi mệt sau một ngày kiếm ăn cực nhọc, chúng
bỏ lại phía sau bóng chiều tàn, bỏ lại những vất vả để sinh tồn mà tìm về chốn nghỉ.
Hoàng hôn trùm lên đất trời cũng là lúc đôi cánh “quy lâm” của chúng thêm nặng với
thanh trắc của từ “quyện” đè nặng lên từng chuyển động.
* Gợi không gian: Không chỉ gọi xuống bóng xế tà, cánh chim mỏi ấy trở thành điểm
nhấn, lột tả một không gian bao la, rộng lớn của núi rừng. Giữa khoảng trời mênh mông
vùng sơn cước, xa xa phía bìa rừng là bầy chim nhỏ cất cánh bay, theo từng lần vỗ cánh,
khi bóng của chúng càng thu nhỏ, bầu trời chiều càng trở nên im vắng, trống trải, mênh
mông hơn. Đây chính là nghệ thuật lấy động tả tĩnh thường được bắt gặp trong thơ xưa.
* Gợi tâm trạng: Không phải người đi đường nào cũng có thể nhìn ra được vẻ mệt mỏi ẩn
sau cánh chim chiều, Hồ Chí Minh phải là người có tình yêu thiên nhiên sâu sắc lắm, gắn
kết với thiên nhiên vô cùng, mang cái hồn thi sĩ sâu lắng lãng mạn khôn tả mới dùng
được chữ “quyện” để miêu tả bầy chim đang tất tả bay về rừng kia. Nhưng như vậy chưa
đủ, Người không chỉ yêu, mà còn thấu hiểu cảnh. Bởi bản thân Hồ Chí Minh cũng như
cánh chim kia, mệt mỏi, ủ rũ, chán chường và cực nhọc. Bầy chim về tổ sau một ngày
kiếm mồi, tuy vất vả, nhưng vẫn còn tự do. Còn Bác, là tù nhân bị áp giải từ nhà lao này
sang nhà ngục kia, hành trình “năm mươi ba cây số một ngày”, từ lúc “gà gáy một lần
đêm chửa tan”. Qua bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc trưng của Đường thi, nỗi khổ của
người tù xa xứ đã được bộc lộ trọn vẹn trước người đọc như vậy.
* Mở rộng: + Đây không phải lần đầu người đọc thấy nhà thơ gửi tâm trạng mình vào
cánh chim chiều. Ta đã nghe Nguyễn Du buồn than trong “Truyện Kiều”: “Chim hôm
thoi thóp về rừng”, cũng đã nghe tiếng lòng của Bà Huyện Thanh Quan trong hai câu thơ
trích bài “Chiều hôm nhớ nhà”: “Ngàn mai lác đác chim về tổ/ Rặng liễu bâng khuâng
khách nhớ nhà.” Tuy mỗi người một nỗi song ẩn dưới bóng chim, nỗi buồn nào cũng da
diết.
+Trong thơ Đường, người đọc dễ dàng bắt gặp những cánh chim lọt thỏm giữa bầu
không như trong thơ Liễu Tống Nguyên: “Thiên sơn điểu phi tuyệt/ Vạn kính nhân trung
diệt” (“Nghìn non chim bay mất hút/ Muôn nẻo dấu người vắng không”). Bên cạnh đó,
những thi nhân xưa miêu tả cánh chim nhưng hầu như không vẽ cho chúng một lối về,
cánh chim cứ bay trong mông lung vô tận; nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc, Vương Bột
từng viết “Lạc hà dữ cô lộ tề phi” (“Ráng chiều với cò lẻ cùng bay“) và cả Đỗ Phủ cũng
“vẽ”: “Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên” (Một hàng cò trắng bay vút lên trời xanh).
Tuy nhiên, là một tác gia có phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo, Hồ Chí Minh
không chịu gò bó những vần thơ của mình trong khuôn khổ nét đẹp cổ điển mà thổi vào
thơ linh hồn hiện đại. Cánh chim của Bác ủ rũ, nhưng vẫn đập cánh bay về rừng “tìm
chốn ngủ” để lấy sức cho một ngày dài tiếp theo. Bác cho thấy sức sống và ý chí của bầy
chim nhỏ, điều mà thơ xưa ít đề cập tới.
b. Hình ảnh chòm mây – “cô vân”: Cũng giống như “quyện điểu”, “cô vân” là hình ảnh
ước lệ tượng trưng, là thi liệu quen thuộc trong thơ Đường, là một trong những nét chấm
phá đặc sắc giữa khung cảnh “Chiều tối”.
* Gợi không gian: Lại một bút pháp cổ điển nữa được Hồ Chí Minh sử dụng: lấy hữu hạn
nói vô hạn. Chòm mây nhỏ bé có sức gợi lớn lao, khơi dậy cả một không gian khoáng
đạt, rộng lớn không thấy được đường chân trời của miền sơn cước. Không phải “Lớp lớp
mây cao đùn núi bạc”, một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ với những tầng mây đồ sộ
chất cao kín nền trời, mây của Bác là điểm nhấn đứng riêng lẻ, cô độc giữa trời chiều
quạnh hiu, im vắng. Một từ “cô” vẽ nên hình ảnh đám mây bé nhỏ co mình lại trong làn
gió se se lạnh khi mặt trời đã khuất dần sau núi, khiến phông nền đằng sau nó càng tỏa
rộng, lan ra ngút ngàn.
* Gợi tâm trạng: Bút pháp tả cảnh ngụ tình không chỉ thổi hồn người vào cánh chim mà
đặt tâm trạng trĩu nặng lên chòm mây trôi hờ hững. Phải chăng những ưu tú trong Hồ Chí
Minh đè nặng lên chòm mây, khiến chúng không thể trôi nhanh, cuốn vào gió mà bay
mất hút, thay vì vậy lại “mạn mạn độ thiên không”, một chút lững lờ, một chút quẩn
quanh cả một chút bế tắc – điều đã bị đánh mất trong bản dịch thơ của Nam Trân. Hình
ảnh chòm mây cô độc trên nền trời vô tận chính là biểu tượng cho người tù nơi đất khách,
cô đơn, trơ chọi, lạ lẫm và buồn chán.
* Mở rộng:+ Đọc “Hoàng Hạc Lâu” – tuyệt tác Đường thi của Thôi Hiệu, người đọc cảm
nhận được nỗi buồn của chòm mây chết lặng cả ngàn năm “Bạch vân thiên tải không du
du” (“Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay”). Giữa vô số những hình mây trong thơ xưa
cũng nổi bật lên một ví dụ điển hình, đặc sắc khác của Lí Bạch: “Chúng điểu cao phi tận/
Cô vân độc khứ nhàn.” (“Bầy chim một loạt bay cao/ Lưng trời thơ thẩn đám mây một
mình”). Qua những ví dụ này, ta thấy hình ảnh mây trong thơ Bác không phải là thi liệu
mới.
+ Cái mới trong thờ Người không phải hình ảnh, mà là hồn thơ. Khác với mây trong hai
tuyệt tác trên, mây của Hồ Chí Minh cũng thoát tục, cũng buồn, cũng lẻ loi đơn chiếc
nhưng không chết lặng, không thẩn thơ, không chịu bay đi. “Cô vân” của Người mang
linh hồn người tù xa xứ, tuy gần mất phương hướng, không nhìn ra hi vọng, ánh sáng
phía trước nhưng chưa vội bỏ cuộc, linh hồn ấy vẫn thôi thúc đám mây trôi, dù không
nhanh, những vẫn chứa đựng sức sống dai dẳng.
c. Tiểu kết: Hai hình ảnh cánh chim và chòm mây không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên
đẹp mà buồn, chúng còn bộc lộ con người Hồ Chí Minh, một tâm hồn yêu, gắn kết, cùng
nhịp điệu với thiên nhiên, một trái tim lãng mạn với thơ ca, mọt người chiến sĩ đứng
trước gian lao không chịu chùn bước khuất phục: người đọc thấy được cái buồn, cái mệt
của Người, nhưng không mảy may tìm được dấu hiệu bỏ cuộc. Có thể nói, điều khiến cho
bức tranh miền sơn cước đẹp lanh động lòng người còn là ý chí, tinh thần hiện đại của Hồ
Chí Minh.
2. Hai câu cuối – Bức tranh con người
Phiên âm: Thôn sơn thiếu nữ ma bao túc/ Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Dịch thơ: Cô em xóm núi xay ngô tối/ Xay hết lò than đã rực hồng.
a. Hình ảnh cô gái xóm núi – “thôn sơn thiếu nữ”: Trên đường chuyển lao của Hồ Chí
Minh, Người không chỉ chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên mà còn ngắm nhìn cả cuộc
sống con người vùng sơn dã. Lọt vào tầm mắt Người là hình ảnh cô gái miền núi đang lao
động, một hình ảnh bé nhỏ gợi nên biết bao điều.
* Gợi sức sống: Hình ảnh “thôn sơn thiếu nữ” được đặt ở trung tâm bài thơ, làm điểm
sáng nghệ thuật, điểm nhấn thu hút người đọc. Mọi ánh nhìn như đổ dồn vào người con
gái khỏe khoắn, đầy sức sống, đang hăng say lao động. Từng vòng xoay của cối xay ngô
qua phép điệp vòng “ma bao túc/ bao túc ma hoàn” gợi lên chuyển động nhịp nhàng, dẻo
dai của người lao động đang vui vẻ chuẩn bị bữa tối. Đây là cảnh tượng dễ dàng được bắt
gặp ở bất kỳ miên thôn sơn nào: con người đơn giản mộc mạc làm công việc bình dị quen
thuộc. Bản dịch của Nam Trân với hai chữ “cô em” tuy đánh mất phần trang trọng song
lại bù đắp sự thân thuộc, gần gũi trong tiếng gọi.
* Mở rộng: +Trong thơ xưa hình ảnh con người điểm xuyết trên nền bức tranh thiên
nhiên cũng đã xuất hiện nhiều, như trong thơ Bà Huyện Thanh Quan: “Lom khom dưới
núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông chợ mấy nhà”. Ngư, tiều, canh, mục hiện lên bé nhỏ,
mờ nhạt trong những bức cổ họa Đường thi.
+ Một trong số ít những thi nhân sáng tạo thơ Đường, thể hiện sức sống nhộn nhịp, vui vẻ
của con người trên bức tranh thiên nhiên có Nguyễn Trãi đã viết: “Lao xao chợ cá làng
ngư phủ“. Nếu như tác giả “Cảnh ngày hè” lấy âm thanh sống động để miêu tả cuộc sống,
sinh hoạt của người lao động thì Hồ Chí Minh lại lấy những âm điệu nhịp nhàng từ chiếc
cối xay ngô và dáng hình uyển chuyển của người thiếu nữ để họa con người. Người thiếu
nữ không những không bị hòa lẫn vào cảnh vật im lìm lặng lẽ mà còn trở thành tâm điểm
bức tranh.
* Gợi tâm trạng: Hình ảnh người con gái xay ngô đánh thức trong tâm trí người chiến sĩ
lưu lạc nơi đất khách về người dân lao động hiền lành, chất phác, như những con dân
Việt Nam đang chịu cảnh lầm than cần người tài cứu giúp. Hình ảnh ấy thôi thúc tác giả
cố gắng phấn đấu, bước tiếp trên con đường cứu nước gian khổ. Vì vậy, hình tượng “thôn
sơn thiếu nữ” mang đậm tính tích cực không những là nguồn động lực, mà còn là lời nhắc
nhở đến trái tim yêu nước nồng nàn của Hồ Chí Minh.
b. Hình ảnh “lò than đã rực hồng” – “lô dĩ hồng”: Được đặt ở trung tâm bài thơ, cảnh
tượng người con gái miền núi xay ngô chính là điểm sáng của tác phẩm. Tuy nhiên, đó
không phải hình ảnh đắt giá duy nhất. Nhãn tự của “Chiều tối” lại nằm ở cuối bài, là ánh
sáng tỏa ra từ lo than – “hồng” – ấm áp và rực rỡ.
* Gợi thời gian: Để đảm bảo không đánh mất cái hay và tinh tế của từ ngữ, người đọc nên
nhìn nhận thời gian trong bài “Mộ” qua phần phiên âm. Vì trong phần phiên âm không hề
có chữ “tối” nên chữ “hồng” ở câu kết càng tỏa sáng hơn bao giờ hết. Ánh lửa chỉ có thể
rực hồng khi nền trời đã ngả sang màu xanh thẫm. Người ta chỉ có thể nhìn ra ánh sáng
bừng lên từ chiếc lò than bé nhỏ khi vạn vật xung quanh đã chìm trong bóng tối. Đây
chính là ví dụ điển hình cho một đặc trưng của Đường thi – “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài
lời) hay “họa vân hiển nguyệt” (vẽ mây hiện trăng).
* Gợi sức sống: Nếu như ở trên, độc giả cảm nhận sự hiu quạnh, man mác buồn, cái se
lạnh buổi chiều tàn thì ở đây, người đọc lại thấy ấm lòng khi nhìn ra ánh lửa bập bùng từ
căn nhà nhỏ dưới chân núi. Lại một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định sức sống dẻo dai,
khỏe khoắn của con người. Hơi ấm từ chữ “hồng” khiến ta nghĩ đến những con người lao
động chân chất châm nên ngọn lửa ấy. Ngọn lửa ấy giúp họ nấu cơm nóng hổi, tạo hơi
ấm trong những ngày lạnh giá, chiếu sáng khi màn đêm buông xuống, giúp tận hưởng
cuộc sống dù vẫn còn nhiều thiếu thốn về vật chất song có hạnh phúc mộc mạc, có niềm
vui bình dị.
* Gợi tâm trạng: Sau một ngày chuyển lao mệt mỏi, cực nhọc, Hồ Chí Minh không nhìn
về điểm cuối chân trời xa xăm không thấy tận cùng, cũng không nhìn về phía rừng sâu tối
không thấy lối ra, cũng không thả hồn lên những đám mây lững lờ bay vô định. Người
đặt trọn tầm nhìn của mình về phía “lò than đã rực hồng”. Ngọn lửa “hồng” tùy nhỏ
nhưng cháy mãnh liệt ấy thu hút cả đôi mắt và trái tim của chủ thể trữ tình. Nhìn về phía
đó, Bác thấy niềm tin về hạnh phúc luôn tồn tại ở đâu đó trong cuộc đời, phụ thuộc vào
con người ta có chịu tìm kiếm, hay tạo ra hay không mà thôi. Cũng như ngọn lửa, nó
không thể tỏa ánh hồng chiếu sáng cả vùng sơn cước bao la rộng lớn nếu không có bàn
tay con người thắp nên. Cũng như đồng bào Việt Nam không thể thoát khỏi lầm than, khổ
cực nếu không có những chiến sĩ dũng cảm dám đứng lên, ra đi tìm đường cứu nước. Từ
đó, trái tim của Hồ Chí Minh được tiếp thêm sức mạnh, ý chí và nghị lực. Những mệt
mỏi đã gửi vào cánh chim, chòm mây không còn, trong cặp mắt Người mới đây còn chứa
nặng lo lắng, ưu tư nay chỉ thấy hi vọng, khát khao tìm ra chân trời mới.
* Tiểu kết: Chữ “hồng” tạo nên sự vận chuyển của hình tượng thơ: từ quạnh vắng đến
tươi vui, từ bóng tối ra ánh sáng, từ mệt mỏi tới hân hoan, từ bế tắc về hi vọng. Trái với
mường tượng của người đọc, “Chiều tối” không kết thúc bằng một khung cảnh u buồn
với lời thở than của người tù, mà khép lại trong niềm hạnh phúc êm đềm, thanh bình. Qua
đó, người đọc cảm nhận được tình yêu cuộc sống, tinh thần “thép” và tâm hồn đẹp của
Hồ Chí Minh. Chính những nét đẹp đó, kết hợp với nghệ thuật tài tình đã tạo nên tứ thơ
cô đọng, giàu ý nghĩa.
Vấn đề 2: Vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ- thi sĩ Hồ Chí Minh
*Hồ Chí Minh là một con người yêu đời, yêu thiên nhiên, nhạy cảm trước những biến
thái tinh vi của tạo vật:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
+ Tác giả đã gợi ra thời gian vào buồi chiều tà. Thời điểm buổi chiều tối thường gợi
buồn, nhất là trong hoàn cảnh Bác đang ở trên đất khách quê người trong cảnh mệt mỏi,
lê bước trong chặng đường chuyển lao. Buổi chiều là quãng thời gian gợi cảm xúc của
con người nhất trong một ngày, nó gợi sâu sắc nỗi nhớ về sự đoàn tụ.
+ Bác cảm nhận về cánh chim và chòm mây. Độc giả đã bắt gặp rất nhiều những bài thơ
viết về cánh chim như bài “Hoàng Hạc Lâu”- Thôi Hiệu, nhưng hình ảnh cánh chim trong
bài thơ này lại là cánh chim mệt mỏi. Bên cạnh đó, hình ảnh chòm mây như chính là hình
ảnh của tác giả và niềm khao khát tự do của người chiến sĩ cộng sản.
+ Hai câu thơ trên gợi ra cho người đọc hình ảnh một người chiến sĩ, với tư thế ung dung,
hòa hợp với thiên nhiên, thể hiện niềm khao khát tự do của con người. Trong hoàn cảnh
bị trói buộc về mặt thể chất, nhưng tác giả vẫn có sự giải thoát về mặt tinh thần. Bác vẫn
có một tinh thần lạc quan, vẫn có những quan sát, cảm nhận tinh tế đối với sự chuyển
động của cảnh vật thiên nhiên.
*Hồ Chí Minh là một người mang trong mình tình yêu thương sâu sắc, dù trong bất kì
hoàn cảnh nào cũng luôn có sự đồng cảm:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng)
+ Bác Hồ thể hiện sự chia sẻ nỗi vất vả của cô gái xay ngô nơi xóm núi, vui với niềm vui
lao động của cô. Nếu như trong các bài thơ thất ngôn tứ tuyết của Thơ Đường, có xuất
hiện hình ảnh những người phụ nữ, nhưng họ thường xuất hiện ở trong sự khuê các thì
Hồ Chí Minh lại nêu ra hình ảnh người phụ nữ trong lao động một cách thật tự nhiên.
+ Bên cạnh đó, độc giả còn thấy được vẻ đẹp của niềm lạc quan bất diệt xuyên suốt cả bài
thơ. Trong một bài thơ, từ hình tượng thơ ta có thể nhận ra tư tưởng của tác giả đều có sự
vận động nhất quán, hướng tới sự sống tương lai. Tâm trạng có sự vận động từ buồn đến
vui, từ cô đơn, lẻ loi đến ấm áp. Hình ảnh cánh chim đượm buồn nhưng là cánh chim bay
về tổ, gợi một chút gì đó ấm áp của sự đoàn tụ. Chòm mây cô đơn gợi nỗi buồn lẻ loi,
nhưng chòm mây ấy lại “mạn mạn độ thiên không” gợi một tâm hồn khoáng đạt, một
phong thái ung dung, tự tại, làm chủ mình trong mọi hoàn cảnh.
+ Từ hình ảnh cánh chim và chòm mây vận động, chiếc cối xay ngô của cô gái vùng sơn
cước cũng vận động. Thời gian trôi dần theo cánh chim và chòm mây theo những vòng
xoay của cối xay ngô, quay mãi, và đến khi “bao túc ma hoàn” thì “lô dĩ hồng”.
+ Câu thơ kết thức bằng ngọn lửa hồng và cảnh bình minh mang lại cảm giác phấn chấn,
lạc quan. Có thể nói , chữ “hồng” ở cuối bài thơ đã tạo ra một luồng sáng chói rọi ngược
trở lại làm sáng rực bài thơ, làm mất đi sự mệt mỏi, uể oải, sự vội vã, nặng nề, cực nhọc
nhất của cuộc đời.
+ Những hình ảnh đối lập giữa niềm vui và nỗi cô đơn, buồn bã, giữa chiều tối và bình
minh, mặt trời hồng đã thể hiện một phong cách thơ Hồ Chí Minh dầy tinh tế và nhạy
cảm, một sứ kết hợp rất tự nhiên giữa màu sắc cổ điển và tinh thần thời đại.
“ Chiều tối” giống như bao bài thơ khác, thật nhỏ nhắn trong bố cục nhưng từng câu từng
chữ đều như một nét phác họa bức chân dung con người, tinh thần Hồ Chí Minh: một tâm
hồn nghệ sĩ dạt dào tình yêu với thiên nhiên, con người; một ý chí sắt đá vượt lên mọi
hoàn cảnh, một tinh thần lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Bức chân dung ấy là
sự hòa hợp giữa chất thép và chất tình, thi sĩ và chiến sĩ, như trong bài “Đọc thơ Bác”,
nhà thơ Hoàng Trung Thông đã viết: “Vần thơ của Bác, vần thơ thép/ Mà vẫn mênh
mông bát ngát tình”.

Vấn đề 3: Màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại


1.Màu sắc cổ điển:thể hiện rõ ở chất thơ
1.1. Thể loại, đề tài, thi liệu và cấu tứ:
a. Thể loại:
* Nhà thơ đã sử dụng thể thơ nổi tiếng của Đường thi – thể thất ngôn tứ tuyệt – mỗi bài
chỉ gồm bốn câu, mỗi câu bảy chữ. Ngắn gọn là vậy song câu thơ nào của Hồ Chí Minh
cũng hàm chứa ý nghĩa sâu xa.
b. Đề tài:
* Nhan đề “Chiều tối” đã cho thấy đề tài của bài thơ – khoảng thời gian dễ gợi sầu nhất
trong ngày. Nói đề tài này quen thuộc vì nó đã trở đi trở lại trong thơ xưa. Cũng với đề tài
chiều tối, Bà Huyện Thanh Quan đã trải nỗi lòng “nhớ nước…thương nhà” dưới “bóng
xế tà” bên Đèo Ngang.
c. Thi liệu:
* “Chiều tối” của Bác Hồ tái hiện bức tranh hoàng hôn bằng những hình ảnh thiên nhiên
vô cùng quen thuộc trong thi ca phương Đông là cánh chim và chòm mây. Người ta đã
bắt gặp những hình ảnh này trong:
+ “Xuất tái – Lương Châu từ” của Vương Chi Hoán: “Hoàng Hà viễn thướng bạch vân
gian” (Xa xa, sông Hoàng Hà leo lên tận khoảnh mây trắng)
+ “Lạng Châu vãn cảnh” của Trần Nhân Tông: “Phong định vân nhàn hồng thụ sơ” (Gió
im mây nhởn nhơ, cây lơ thơ lá đỏ.)
d. Cấu tứ:
* Bốn câu thơ “Mộ” là sự kết hợp, lồng ghép những mối quan hệ tương phản mang
phong vị Đường thi – giữa cái hữu hạn với vô hạn, lấy cái nhỏ bé của cánh chim, chòm
mây tô đậm không gian rộng lớn, mênh mông của đất trời. Ngoài ra còn sự hòa quyện
giữa những ánh sáng với bóng tối, Hồ Chí Minh miêu tả ánh “hồng” của lò than mà lột tả
bóng tối đã bao trùm lên vạn vật.
1.2. Bút pháp miêu tả thiên nhiên:
a. Bút pháp chấm phá:
* Để đưa những thi liệu cổ xưa vào thơ, Hồ Chí Minh sử dụng bút pháp chấm phá – một
nét đặc trưng trong nghệ thuật thơ Đường. Cánh chim và chòm mây hiện lên qua những
cụm từ miêu tả ngắn gọn, cô đọng, hàm súc phù hợp với thể thất ngôn tứ tuyệt. Dù không
nói dông dài, Người vẫn diễn tả trọn vẹn từng chuyển động, sắc thái của cảnh vật.
* Nhìn lại “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, người đọc cũng thấy sự xuất hiện của bút pháp
chấm phá trong những câu thơ như: “Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một
vài bông hoa.”
b. Bút pháp tả cảnh ngụ tình:
*Những bậc tao nhân mặc khách xưa vẫn dùng thơ để thể hiện suy nghĩ cá nhân. Dù
mang thân phận người tù xa xứ, Hồ Chí Minh vẫn chọn cách truyền tải cảm xúc đầy
thanh tao và ý tứ. Người đã gửi tâm trạng buồn chán, cực nhọc của mình vào “quyện
điểu”, “cô vân”,vừa để bộc lộ tâm tư tình cảm, vừa để làm dịu đi những mệt mỏi tinh thần
trên đường chuyển lao.
c. Bút pháp họa vân hiển nguyệt:
* Người đọc thấy không gian như xa hơn, rộng hơn khi chòm mây cô độc chầm chậm
trôi, thấy bóng tối hiện lên khi ánh lửa của lò than rực hồng. Đó chính là tác dụng của bút
pháp họa vân hiển nguyệt mà tác giả “Chiều tối” đã sử dụng.
* Bút pháp cổ điển này cũng được Huy Cận – một nhà thơ chịu ảnh hưởng lớn từ thơ
Đường áp dụng: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả/ Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
2.Tinh thần hiện đại:thể hiện rõ ở hồn thơ
2.1. Sự vận động của hình tượng thơ:
a. Bức tranh thiên nhiên:
+ Hình ảnh “ cánh chim”: Khác với những thi nhân xưa miêu tả cánh chim nhưng hầu
như không vẽ cho chúng một lối về, cánh chim cứ bay trong mông lung vô tận; nhà thơ
nổi tiếng của Trung Quốc, Đỗ Phủ đã “vẽ”: “Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên” (Một
hàng cò trắng bay vút lên trời xanh). Tuy nhiên, là một tác gia có phong cách nghệ thuật
đa dạng, độc đáo, Hồ Chí Minh không chịu gò bó những vần thơ của mình trong khuôn
khổ nét đẹp cổ điển mà thổi vào thơ linh hồn hiện đại. Cánh chim của Bác ủ rũ, nhưng
vẫn đập cánh bay về rừng “tìm chốn ngủ” để lấy sức cho một ngày dài tiếp theo. Bác cho
thấy sức sống và ý chí của bầy chim nhỏ, điều mà thơ xưa ít đề cập tới.
+ Hình ảnh “chòm mây”: Khác với hình ảnh mây trong tác phẩm “Hoàng Hạc Lâu”-Thôi
Hiệu, mây của Hồ Chí Minh cũng thoát tục, cũng buồn, cũng lẻ loi đơn chiếc nhưng
không chết lặng, cũng không thẩn thơ không chịu bay đi. “Cô vân” của Người mang linh
hồn người tù xa xứ, tuy gần mất phương hướng, không nhìn ra hi vọng, ánh sáng phía
trước nhưng chưa vội bỏ cuộc, linh hồn ấy vẫn thôi thúc đám mây trôi, dù không nhanh,
những vẫn chứa đựng sức sống dai dẳng.
b. Bức tranh đời sống: Hình ảnh “lò than đã rực hồng” cho thấy sự biến chuyển của bức
tranh đời sống miền sơn cước. Nếu như ở hai câu trên của bài, người đọc cảm nhận được
bóng chiều tà đang dần kéo xuống sau cánh chim bay về tổ, áng mây nhẹ trôi trên nền
trời thì ở hai câu cuối, ta lại thấy rõ sắc màu buổi tối bao trùm lên vạn vật. Màu “hồng”
của bếp lửa chỉ có thể rực lên khi phông nền xung quanh đã chìm trong sắc xanh thẫm.
Từ đó ta khẳng định thời gian trong bài thơ đã chuyển mình, từ chiều sang tối.
c. Bức tranh tâm trạng: Tinh thần hiện đại của “Chiều tối” còn thể hiện ở sự chuyển biến
tâm trạng của chủ thể trữ tình, điều được thấy rõ qua sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng,
từ mệt mỏi đến tươi vui, từ cô đơn tới ấm áp. Độc giả sau khi thấm thía sự lẻ loi, hiu
quạnh của người tù xa xứ ở hai câu đầu ngỡ rằng tâm trạng ấy cũng sẽ khép lại cả tứ thơ.
Tuy nhiên, đoạn kết đi vào lòng người của tác phẩm lại là khung cảnh cuộc sống thanh
bình, giản dị.
2.2. Sự vận động của tư duy nghệ thuật:
a. Vẻ đẹp cuộc sống đời thường:
+ Hình ảnh “thôn sơn thiếu nữ” được đặt ở trung tâm bài thơ, làm điểm sáng nghệ thuật,
điểm nhấn thu hút người đọc. Mọi ánh nhìn như đổ dồn vào người con gái khỏe khoắn,
đầy sức sống, đang hăng say lao động. Từng vòng xoay của cối xay ngô qua phép điệp
vòng “ma bao túc/ bao túc ma hoàn” gợi lên chuyển động nhịp nhàng, dẻo dai của người
lao động đang vui vẻ chuẩn bị bữa tối.
+ Hình ảnh “ lò than” : Lại một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định sức sống dẻo dai, khỏe
khoắn của con người qua ánh lửa bập bùng tuwfcawn nhà nhỏ dưới chân núi. Hơi ấm từ
chữ “hồng” khiến ta nghĩ đến những con người lao động chân chất châm nên ngọn lửa ấy.
Ngọn lửa ấy giúp họ nấu cơm nóng hổi, tạo hơi ấm trong những ngày lạnh giá, chiếu sáng
khi màn đêm buông xuống, giúp tận hưởng cuộc sống dù vẫn còn nhiều thiếu thốn về vật
chất song có hạnh phúc mộc mạc, có niềm vui bình dị.
b. Vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ:
* Tính hiện đại của tác phẩm bộc lộ qua tâm hồn của chủ thể trữ tình: tâm hồn luôn rộng
mở đón nhận cái đẹp của thiên nhiên, con người dù ở trong hoàn cảnh nào. Ban đầu, độc
giả nhận thấy vẻ mệt mỏi, buồn chán của người tù trên đường chuyển lao dưới nhịp bay
của “quyện điểu”, “cô vân” nhưng những cảm xúc ấy không sâu đậm, rõ nét khi những
cực nhọc, bế tắc dần chuyển hướng đến niềm tin, hi vọng. Nhưng tới khi tầm nhìn của
nhà thơ thu lại nơi cô gái xóm núi xay ngô và lò than rực hồng, tinh thần ấy đã thăng hoa
thành niềm vui, niềm lạc quan, bản lĩnh phi thường – bản lĩnh bỏ lại phía sau chặng
đường đầy chông gai, vất vả, để tâm hồn tự do, giang cánh bay cùng cái hồn thi sĩ đầy thơ
mộng.
3. Kết luận: Giống như mọi bài thơ thuộc tập “Nhật ký trong tù”, “Mộ” (Chiều tối) là sự
kết hợp hài hòa giữa nét điển và nét hiện đại. Nhờ đó, bài thơ vừa mang phong vị Đường
thi, vừa giữ được chất riêng của thơ Hồ Chí Minh – những vần thơ thép: “Tôi đọc trăm
bài trăm ý đẹp/ Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh/ Vần thơ của Bác vần thơ thép/ Mà vẫn
mênh mông bát ngát tình.”

You might also like