You are on page 1of 46

BẢN TUYÊN NGÔN CHUNG VỀ

TÍN LÝ CÔNG CHÍNH HÓA


Giữa Liên Hiệp Lutherô Thế Giới và Giáo Hội Công Giáo

(Bản Tuyên Ngôn được Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, trích dịch từ
L’Osservatore Romano ấn bản Anh ngữ, 6/9/2000;
tin tức về buổi họp báo để ban hành văn kiện được lấy từ Hệ Điện Toàn Cầu Vatican
Information Services ngày 5/9/2000)
(Bài dịch trên đây đã được phổ biến trên các Nguyệt San Dân Chúa Âu Châu,
số tháng 10 + 11/2000; Dân Chúa Mỹ Châu 11/2000, và Hiệp Nhất của
Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange 11/2000-1/2001)
 
 

Để có một cái nhìn khái lược và chính xác về Bản Tuyên Ngôn Chung, Đức
Hồng Y Edward I. Cassidy, Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Phụ Trách Cổ
Động Hiệp Nhất Kitô Giáo, cũng là vị đại diện Giáo Hội Công Giáo, cùng với
Giám Mục Christain Krause, đại diện Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới, chính thức
ký vào Bản Tuyên Ngôn Chung tại Augsburg, nước Đức, ngày 31-10-1999, đã
trình bày cho biết rõ ràng về tiến trình và nội dung của văn kiện này trong
tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, phát hành ngày 24/11/1999,
trang VI và VII, những điểm chính yếu sau đây.

·         “Đức Giáo Hoàng đã xin Giáo Hội hãy kêu cầu Thánh Linh ban cho mình
ơn hiệp nhất Kitô Giáo. Việc thắng vượt những chia rẽ trong quá khứ là
những gì tỏ tường phản lại với ý muốn của Chúa Kitô và là nguyên nhân gây
gương mù trước mắt thế giới, cũng như việc góp phần vào vấn đề hiệp nhất
Kitô Giáo lại với nhau ‘là một trong những việc làm của Kitô hữu trong lúc
chúng ta đang tiến đến năm 2000’ (ĐTC Gioan Phaolô II, Tông Thư Ngàn
Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 34). Bởi thế, theo Đức Thánh Cha:

·         ‘Thời điểm kết thúc ngàn năm thứ hai đòi mọi người phải xét lại lương tâm
của mình và phải phát động những sáng kiến đại kết thích hợp, để chúng ta
có thể cử hành Cuộc Mừng Kỷ Niệm Trọng Thể, nếu không hoàn toàn hiệp
nhất với nhau thì ít là cũng xích lại gần nhau hơn trong việc thắng vượt được 
những chia rẽ của ngàn năm thứ hai’ (cùng nguồn, cùng đoạn như trên).

·         Trước ngưỡng cửa ngàn năm mới của Kitô Giáo, Liên Hiệp Luthêrô Thế
Giới và Giáo Hội Công Giáo đã tiến một bước quan trọng đến việc giải
quyết căn nguyên gây ra chia rẽ trong quá khứ. Cả hai bên, vào tháng 6
năm 1998, đã chính thức xác nhận và chấp nhận Bản Tuyên Ngôn Chung
về Tín Lý Công Chính Hóa…

·         Bản văn kiện này là hoa trái của hơn 30 năm đối thoại, cả ở cấp quốc tế
cũng như quốc gia, giữa anh em Luthêrô và Công Giáo.

·         Bản Tuyên Ngôn Chung không phải là một lời Tuyên Xưng mới, cũng
không phải là  một văn kiện dung hòa. Bản Tuyên Xưng Chung đây muốn
tóm tắt những thành quả đối thoại sau một thời đoạn kéo dài 30 năm trời
giữa Luthêrô và Công Giáo Rôma về khoản tín lý này, bằng cách nói lên
những gì được mỗi một cộng đồng tin tưởng chủ trương nơi những sự thật
nền tảng về khoản tín lý ấy, cũng như cho thấy việc hai bên cắt nghĩa về
những sự thật nền tảng ấy không tương khắc với nhau…

·         Phương pháp trình bày đó là, đầu tiên nêu lên đức tin chung đối với mỗi
một sự thật được bàn tới, sau đó, nếu cần thì cắt nghĩa đường hướng hay
những điểm nhấn mạnh được mỗi bên chủ trương theo truyền thống của
mình về sự thật đặc biệt ấy.

·         Bản văn kiện trình bày khá chi tiết về bảy vấn đề căn bản cùng được hiểu
chung với nhau sau đây:

1.       Tình Trạng Loài Người Bất Lực và Tội Lỗi Liên Quan đến Việc Công
Chính Hóa;

2.       Việc Công Chính Hóa là Việc Tha Thứ Tội Lỗi và là Việc Làm Nên Chính
Trực;

3.       Việc Công Chính Hóa bởi Ân Sủng và nhờ Đức Tin;

4.       Người Được Công Chính Hóa như là Một Tội Nhân


5.       Lề Luật và Phúc Âm;

6.       Việc Bảo Đảm Phần Rỗi;

7.       Các Việc Lành Phúc Đức của Người Được Công Chính Hóa.

·         Không thể nào đi sâu vào chi tiết của những gì chất chứa trong Bản Tuyên
Ngôn Chung ở bài viết này. Tuy nhiên, tôi phải trình bày những gì nói lên
ba sự thật căn bản về khoản tín lý công chính hóa, được Giáo Hội Công
Giáo và Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới cùng nhau công nhận. Những sự thật
này được thấy ở Tiết 3, các số từ 14 đến 18, trong Bản Tuyên Ngôn Chung.

·         Thứ nhất, việc công chính hóa là một tặng ân nhưng không do Thiên Chúa
Ba Ngôi ban cho, được bắt nguồn từ con người của Đức Kitô, Đấng đã
nhập thể, tử nạn và phục sinh. Được liên kết với con người của Đức Kitô,
nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, chúng ta được ở trong tình trạng
công chính hóa. Tình trạng này không phải là những gì chúng ta lập được
mà là do hoàn toàn nhận lãnh… (xem số 15)

·         Thứ hai, chúng ta nhận được ơn cứu độ này bằng đức tin. Chính đức tin
cũng là một tặng ân của Thiên Chúa ban qua Thánh Thần, Đấng hoạt động
bằng lời Chúa cũng như bằng bí tích trong cộng đồng các tín hữu, và là
Đấng cũng làm cho các tín hữu canh tân đời sống sẽ được Thiên Chúa
hoàn thành ở sự sống đời đời. Bởi thế, thực tại của việc công chính hóa
được gắn liền với đức tin, không phải như là một ưng thuận thuần lý của
trí khôn. Trái lại, người tín hữu phải hiến bản thân nam/nữ của mình cho
Chúa Kitô bằng việc canh tân đời sống.

·         Thứ ba, việc công chính hóa nhắm đến chính cốt lõi của sứ điệp Phúc Âm,
thế nhưng việc này cần phải được đặt trong một cơ cấu duy nhất liên quan
đến tất cả mọi chân lý khác của đức tin nữa, như chân lý đức tin về Chúa
Ba Ngôi, về Kitô Học, về Giáo Hội Học và về Các Bí Tích… (xem số 18)

·         Việc cùng nhau hiểu về việc công chính hóa được diễn tả trong Bản Tuyên
Ngôn Chung có tính chất Ba Ngôi và lấy Đức Kitô làm tâm điểm. Bản
Tuyên Ngôn Chung (số 15) đã nói lên cốt lõi của kiến thức chung này là:
‘Theo đức tin, chúng ta cùng nhau xác tín rằng, công chính hóa là việc
Thiên Chúa Ba Ngôi làm… Bởi thế, việc công chính hóa có nghĩa là chính
Chúa Kitô là sự chính trực của chúng ta, một sự  chính trực chúng ta được
thông phần vào nhờ Chúa Thánh Thần theo ý Chúa Cha’…

·         Trong việc xác nhận Bản Tuyên Ngôn Chung này, thẩm quyền bên
Luthêrô cũng như bên Công Giáo đã thực sự cho thấy rằng, khoản tín lý về
việc công chính hóa được trình bày trong văn kiện ấy không phản nghịch
với giáo huấn về khoản tín lý này, nơi những nguồn huấn quyền của cả đôi
bên, Công Đồng Chung Triđentinô bên phía Công Giáo, và Bản Các Điều
Tuyên Tín bên phía Luthêrô. Trái lại, khoản tín lý này vẫn được minh
nhiên tiếp tục hiểu một cách chính thức như nó đã được cả hai bên phác
họa từ thế kỷ 16.

·         Thế nhưng, làm sao chúng ta lại kết luận như vậy được? Những nghiên
cứu về lịch sử cũng như về tín điều, nhất là theo mối liên hệ về đại kết qua
những thời gian gần đầy, đã cho thấy cái môi trường tranh cãi ở thế kỷ 16,
dính dáng đến cả chính trị, xã hội, thần học và triết lý là những gì lúc bấy
giờ đã gây ảnh hưởng đến việc mỗi bên phác họa ra những hiểu biết của
mình về khoản tín lý này, cũng như đến việc mỗi bên lên án quan niệm của
nhau về khoản tín lý ấy…

·         Nếu khoản tín lý về việc công chính hóa là ‘điểm chính yếu của cuộc tranh
cãi hồi thế kỷ 16’, thì giờ đây chúng ta có thể đặt vấn đề, vậy việc đồng ý
với nhau giữa Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới và Giáo Hội Công Giáo về
khoản tín lý này để giải quyết tình trạng xung khắc giữa người Công Giáo
và Luthêrô cho xong, là việc đồng ý ở mức độ nào?… Bản tuyên ngôn này
đã mang Giáo Hội Công Giáo và các giáo hội thuộc Liên Hiệp Luthêrô Thế
Giới xác nhận nó tiến đến một bước gần gũi nhau rõ ràng hơn. Tuy nhiên,
cả hai vẫn chưa đạt tới mục tiêu hiệp nhất với nhau hoàn toàn về hình
thức…”

·         “Quan niệm về ‘đam mê’ được hiểu khác nhau giữa hai bên Công Giáo và Luthêrô.
Theo bản văn về Các Điều Tuyên Tín của Luthêrô thì ‘đam mê’ được hiểu là ước
muốn tìm mình nơi con người, là những gì, nếu hiểu tinh thần về ý nghĩa của Lề
Luật, được coi như tội lỗi. Theo Công Giáo hiểu thì đam mê chỉ là một khuynh
hướng hạ, còn tồn tại nơi con người, ngay cả sau khi họ đã lãnh nhận phép rửa, một
khuynh hướng hạ bởi tội lỗi mà có và đẩy con người đến việc phạm tội. Mặc dầu hai
bên khác nhau ở điểm này, theo quan điểm Luthêrô, cũng được hiểu là ước muốn
đó có thể mở đường làm dịp cho tội lỗi tấn công. Vì quyền lực tội lỗi mà toàn thể
nhân loại mang trong mình khuynh hướng chống lại Thiên Chúa. Khuynh hướng
này, theo cả quan niệm của bên Luthêrô và Công Giáo, đều ‘không xứng hợp với ý
định nguyên thủy của Thiên Chúa về con người’…” (Chi tiết cuối cùng này được trích từ
Phần Phụ Thêm của Bản Công Bố Chung, một bản công bố chung để cùng nhau xác nhận Bản Tuyên
Ngôn Chung: cùng nguồn, trang V)
 

Sau đây là nguyên văn Bản Tuyên Ngôn Chung về Khoản Tín Lý Công
Chính Hóa

DẪN NHẬP

1-       Tín lý về việc công chính hóa là một tín lý quan trọng bậc nhất đối với
Phong Trào Cải Cách Luthêrô ở thế kỷ 16. Tín lý về việc công chính hóa
này được coi là ‘tiên sự và chính sự’ (The Smalcald Articles, II, 1; Book of Concord, 292), đồng
thời cũng là ‘vị lãnh đạo và là quan phán trên tất cả mọi tín lý Kitô Giáo
khác’ (‘Rector et judex super omnia genera doctrinarum’ Weimar Edition of Luther’s Works [WA], 39, I, 205 ). Tín lý
về việc công chính hóa được nắm giữ và bảo vệ một cách riêng biệt theo
thể thức Cải Cách và theo thẩm định đặc biệt, trái với Giáo Hội Công Giáo
Rôma cũng như thần học Công Giáo Rôma thời bấy giờ, một giáo hội và
một nền thần học nắm giữ và bảo vệ tín lý về việc công chính hóa có tính
chất khác. Theo quan điểm Cải Cách, việc công chính hóa là phần nan giải
nhất trong tất cả mọi tranh luận. Việc lên án nhau về phương diện tín lý đã
được đặt ra, ở cả trong Các Điều Tuyên Tín của Luthêrô cũng như ở Công
Đồng Chung Triđentinô của Giáo Hội Công Giáo Rôma. Những điều lên
án này vẫn còn hiệu lực tới ngày nay, và cũng vì thế đã gây nên việc chia
rẽ giáo hội.

2-       Đối với truyền thống Luthêrô, tín lý về việc công chính hóa vẫn nắm giữ
vai trò đặc biệt của mình. Bởi thế, từ ban đầu, tín lý về việc công chính hóa
ấy đã chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc đối thoại chính thức giữa
Luthêrô và Công Giáo Rôma.

3-       Phải đặc biệt lưu ý đến những bản tường trình sau đây: ‘Phúc Âm và Giáo
Hội’ (1972) cũng như ‘Giáo Hội và Việc Công Chính Hóa’ (1994) của Ủy
Ban Chung giữa Luthêrô và Công Giáo Rôma, ‘Việc Công Chính Hóa bởi
Đức Tin’ (1983) của cuộc đối thoại giữa Luthêrô và Công Giáo Rôma ở Hoa
Kỳ, và ‘Những Điều Lên Án Thời Cải Cách – Chúng có còn Chia Cách hay
chăng?’ (1986) của Nhóm các Thần Học Gia Thệ Phản và Công Giáo ở Đức
Hoạt Động cho Đại Kết. Có một số trong những bản tường trình này đã
được các giáo hội chính thức công nhận. Điển hình quan trọng trong vấn
đề công nhận này đó là việc Giáo Hội Luthêrô Tin Lành Liên Hiệp ở Đức
đã đáp ứng chặt chẽ đối với việc nghiên cứu ‘Các Điều Lên Án’ được thực
hiện năm 1994, ở mức độ nhìn nhận cao nhất của giáo hội, cùng với các
giáo hội khác thuộc Giáo Hội Tin Lành ở Đức.

4-       Trong vấn đề hai bên bàn luận về tín lý của việc công chính hóa, tất cả
những bản tường trình về đối thoại cũng như các đáp ứng đều cho thấy mức
hợp nhau cao độ nơi những đường lối và kết luận của mình. Bởi thế, đã đến
lúc cần phải thẩm định và tóm lại các thành quả của các lần đối thoại về việc
công chính hóa, để các giáo hội của chúng ta biết đến các hoa trái tổng quát về
cuộc đối thoại này một cách chính xác và ngắn gọn cần thiết, nhờ đó có thể
đưa ra những quyết định liên hệ.

5-       Bản Tuyên Ngôn Chung đây có ý định ấy, ý định là trình bày cho thấy
rằng, nhờ việc đối thoại của mình, các giáo hội Luthêrô liên hệ và Giáo Hội
Công Giáo Rôma giờ đây có thể nói lên rõ ràng việc hiểu biết chung về việc
công chính hóa của chúng ta nhờ ơn Thiên Chúa qua đức tin vào Chúa
Kitô. Bản Tuyên Ngôn Chung này không bao gồm tất cả những gì giáo hội
hai bên giảng dạy về việc công chính hóa; nhưng bản tuyên ngôn này thực
sự bao gồm việc đồng ý với nhau về những sự thật căn bản nơi khoản tín
lý công chính hóa, và cho thấy rằng những khác nhau nơi việc cắt nghĩa
khoản tín lý này không còn là cớ để kết án nhau về tín lý nữa. 
 

6-       Bản Tuyên Ngôn của chúng ta đây không phải là một trình bày mới mẻ
không có dính dáng gì tới các bản tường trình và văn kiện đối thoại từ
trước đến nay, một bản trình bày thay thế cho những bản tường trình và
văn kiện này. Trái lại, như phần phụ đính của các nguồn liệu cho thấy
(cùng nguồn, trang III và IV), bản tuyên ngôn đây lập lại các điều cần phải
căn cứ cùng những luận cứ của các điều cần phải căn cứ ấy. 
 

7-       Như chính các cuộc đối thoại, Bản Tuyên Ngôn Chung này cũng được
dựa vào niềm xác tín là, trong việc thắng vượt các vấn đề tranh luận và lên
án nhau về tín điều xưa kia, giáo hội hai bên không được coi nhẹ các điều
lên án ấy, cũng như không được chối bỏ quá khứ của mình. Ngược lại, Bản
Tuyên Ngôn này được thành nên bởi niềm xác tín là, theo giòng lịch sử
tương kính của mình, giáo hội hai bên chúng ta đã có những cái nhìn thấu
đáo mới mẻ. Có những phát triển đã diễn tiến, những phát triển chẳng
những khả dĩ mà còn đòi giáo hội hai bên phải khảo sát các vấn nạn về
việc phân rẽ cùng với các điều lên án nhau nữa, và nhìn vào những điều
lên án nhau này theo chiều hướng mới.
 

  

1-     SỨ ĐIỆP CỦA THÁNH KINH VỀ VIỆC CÔNG CHÍNH HÓA


 
8.              Con đường cùng nhau lắng nghe lời Chúa trong Thánh Kinh đã dẫn chúng ta đến một cái
nhìn thấu đáo mới mẻ như vậy. Chúng ta đã cùng nhau nghe thấy lời phúc âm là ‘Thiên
Chúa đã quá yêu thương thế gian đến ban Con một của mình, để ai tin vào Con thì không
phải chết song được sự sống đời đời’ (Jn 3:16). Tin mừng này đã được trình bày trong Thánh
Kinh bằng nhiều cách thức khác nhau. Trong Cựu Ước, chúng ta đã nghe lời Chúa về vấn đề
tội lỗi của con người (Ps 51:1-5; Dan 9:5f; Eccl/Qo 8:9f; Ezra 9:6f) và việc con người bất phục
tùng (Gen 3:1-19; Neh 9:16f, 26), cũng như về ‘đức chính trực’ của Thiên Chúa (Is 46:13, 51:5-
8, 56:1 [cf 53:11]; Jer 9:24) và về ‘phán quyết’ của Ngài (Eccl/Qo 12:14; Ps 9:5f, 76:7-9).   
 
9.              Tân Ước cũng có những trình bày khác nhau về ‘đức chính trực’ và ‘việc công chính hóa’,
nơi các bản văn của Thánh Mathêu (5:10, 6:33, 21:32), Thánh Gioan (16:8-11), Thư gửi Do
Thái (5:3, 10:37f), và Thánh Giacôbê (2:14-26). Trong các thư của Thánh Phaolô cũng thế,
tặng ân cứu độ được trình bày bằng nhiều cách thức khác nhau: ‘vì tựï do mà Chúa Kitô đã
giải cứu chúng ta’ (Gal 5:1-13; cf Rm 6:7), ‘đã giải hòa chúng ta với Thiên Chúa’ (2Cor 5:18-
21; cf Rm 5:11), ‘làm hòa với Thiên Chúa’ (Rm 5:1), ‘tạo vật mới’ (2Cor 5:17), ‘sống cho
Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô’ (Rm 6:11, 23), hay ‘được thánh hóa trong Đức Giêsu Kitô’
(cf 1Cor 1:2, 1:30; 2Cor 1:1). Trong số những đoạn này có đoạn về ‘việc công chính hóa’ con
người tội lỗi bởi ơn Chúa nhờ đức tin (Rm 3:23-25), một đoạn đã chiếm được một địa vị
trọng yếu đặc biệt vào thời Cải Cách.   
 
10.        Thánh Phaolô đã trình bày phúc âm như là quyền năng của Thiên Chúa để cứu độ con
người là thành phần bị rơi vào tay quyền lực tội lỗi, như là sứ điệp loan báo ‘đức chính trực
của Thiên Chúa được mạc khải cho thấy qua đức tin và cho đức tin’ (Rm 1:16f), và đức chính
trực của Ngài làm cho con người được ‘công chính hóa’ (Rm 3:21-31). Thánh nhân công bố
Chúa Kitô như là ‘đức chính trực của chúng ta’ (1Cor 1:30), khi áp dụng vào Chúa phục sinh
những gì tiên tri Giêrêmia đã loan báo về chính Thiên Chúa (Jer 23:6). Trong cuộc tử nạn và
phục sinh của Chúa Kitô, tất cả mọi chiều kích nơi công việc cứu độ của Người đều có nguồn
gốc của mình, vì Người là ‘Chúa chúng ta, Đấng đã bị giết chết vì các vấp phạm của chúng
ta và đã phục sinh cho chúng ta được công chính hóa’ (Rm 4:25). Tất cả loài người đều cần
đến đức chính trực của Thiên Chúa, ‘vì tất cả mọi người đã phạm tội và bị mất đi vinh
quang của Thiên Chúa’ (Rm 3:23; cf Rm 1:18-3:20, 11:32; Gal 3:22). Trong thư Galata (3:6) và
Rôma (4:3-9), Thánh Phaolô cho thấy đức tin của Abraham (Gen 15:6) như là niềm tin vào
Thiên Chúa, Đấng công chính hóa tội nhân (Rm 4:5), và thánh nhân dựa vào chứng từ của
Cựu Ước để làm nổi bật phúc âm ngài rao giảng, đó là đức chính trực của Thiên Chúa sẽ
được áp dụng cho tất cả những ai, như Abraham, tin tưởng vào lời hứa của Thiên Chúa. ‘Vì
kẻ chính trực sẽ sống bằng đức tin’ (Hab 2:4; cf Gal 3:11; Rm  1:17). Đức chính trực của Thiên
Chúa, qua các bức thư của Thánh Phaolô, cũng chính là quyền năng của Ngài đối với những
kẻ có lòng tin (Rm 1:16f; 2Cor 5:21). Thiên Chúa dùng quyền năng của mình để làm cho
chúng ta được nên công chính trong Đức Kitô (2Cor 5:21). Chúng ta được công chính hóa nhờ
Chúa Giêsu Kitô, ‘Đấng Thiên Chúa muốn làm như một hy tế đền tội bằng máu của Người,
mang lại công hiệu nơi đức tin’ (Rm 3:25; xem 3:21-28). ‘Vì bởi ân sủng, anh em đã dược cứu
độ nhờ đức tin, và đó không phải là việc anh em làm; đó là tặng ân của Thiên Chúa – không
phải là thành quả của việc làm’ (Eph 2:8f).
 

11.        Việc công chính hóa là việc thứ tha tội lỗi (cf Rm 3:23-25; Acts 13:39; Lk 18:14), là việc
giải thoát khỏi quyền lực thống trị của tội lỗi và sự chết (Rm 5:12-21) cũng như khỏi tình
trạng khốn nạn của lề luật (Gal 3:10-14). Việc công chính hóa là việc chấp nhận hiệp thông
với Thiên Chúa, ngay lúc này đây, nhưng toàn vẹn khi vương quốc Thiên Chúa trị đến (Rm
5:1f). Việc công chính hóa liên kết với Đức Kitô và cuộc tử nạn cũng như phục sinh của
Người (Rm 6:5). Việc công chính hóa được thực hiện trong việc chấp nhận Chúa Thánh Thần
nơi phép rửa và là việc gia nhập một thân thể duy nhất (Rm 8:1f, 9f; 1Cor 12:12f). Tất cả
những việc này đều do bởi một mình Thiên Chúa làm vì Đức Kitô, bằng ân sủng, qua đức tin
vào ‘phúc âm của Con Thiên Chúa’ (Rm 1:1-3).
 
12.        Người được công chính hóa sống bởi đức tin, một đức tin phát xuất từ Lời của Đức Kitô
(Rm 10:17), và là một đức tin hoạt động qua đức mến (Gal 5:6), hoa trái của Thần Linh (Gal
5:22f). Thế nhưng, vì người được công chính hóa bị tấn công cả từ bên trong lẫn bên ngoài
bởi những quyền lực cũng như bởi các ước muốn (Rm 8:35-39; Gal 5:16-21) và đã sa ngã
phạm tội (1Jn 1:8, 10), nên họ phải liên lỉ nghe lại các lời hứa của Thiên Chúa, phải xưng thú
tội lỗi của mình (1Jn 1:9), phải tham dự vào mình máu Chúa Kitô, và phải được khuyên nhủ
sống chính trực theo ý muốn của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Thánh Tông Đồ nói với
thành phần được công chính hóa rằng: ‘Anh em hãy lo sợ và gắng sức để làm sao cho được
cứu độ; vì Thiên Chúa là Đấng hoạt động nơi anh em, giúp anh em chẳng những muốn mà
còn làm hài lòng Ngài’ (Phil 2:12f). Thế nhưng, tin mừng vẫn là ở chỗ ‘giờ đây không còn
luận phạt cho những ai sống trong Chúa Giêsu Kitô’ (Rm 8:1), cũng như cho những ai được
Chúa Giêsu sống động trong họ nữa (Gal 2:20). ‘Tác động chính trực’ của Đức Kitô ‘làm
chúng ta nên công chính và sống cho tất cả mọi người’ (Rm 5:18).
 
 
2- TÍN LÝ VỀ VIỆC CÔNG CHÍNH HÓA LÀ VẤN NẠN CỦA VIỆC ĐẠI
KẾT
 

13.        Nguyên nhân chính gây ra chia rẽ nơi Giáo Hội Tây Phương, đưa tới cả việc lên án nhau
về tín lý vào thế kỷ 16, đã phản lại các điều dẫn giải và áp dụng của sứ điệp thánh kinh về
việc công chính hóa. Bởi thế, dứt khoát cần phải cùng nhau tìm hiểu về việc công chính hóa
để vượt qua tình trạng chia rẽ này. Bằng việc chấp nhận những cái nhìn thấu đáo từ các
cuộc tìm hiểu thánh kinh cận đại, cũng như bằng việc rút lấy những cứu xét tân thời về lịch
sử thần học và tín điều, cuộc đối thoại đại kết hậu Công Đồng Chung Vaticanô II đã dẫn
đến một điểm đồng qui về việc công chính hóa, nhờ đó, Bản Tuyên Ngôn Chung này mới có
thể phác họa nên việc đồng thuận về các sự thật căn bản liên quan đến tín lý công chính
hóa. Theo chiều hướng đồng thuận này, những điều lên án nhau về khoản tín lý liên hệ thuộc
thế kỷ 16 không còn áp dụng cho đôi bên hiện nay nữa.
 

3. KIẾN THỨC CHUNG VỀ VIỆC CÔNG CHÍNH HÓA


 
14.        Các giáo hội Luthêrô và Giáo Hội Công Giáo Rôma đã cùng nhau lắng nghe tin mừng do
Thánh Kinh loan báo. Việc cùng nhau lắng nghe này, cùng với việc trao đổi về thần học
trong những năm gần đây, đã dẫn nhau đến việc hiểu biết chung về việc công chính hóa.
Điều này bao gồm cả việc đồng thuận với nhau về những sự thật căn bản; những giải thích
khác nhau qua các câu phát biểu riêng biệt đều hợp với việc đồng thuận này.
 

15.        Theo đức tin, chúng ta cùng nhau xác tín rằng, công chính hóa là việc Thiên Chúa Ba Ngôi
làm. Chúa Cha sai Chúa Con vào thế gian để cứu độ các tội nhân. Nền tảng và điều kiện
tiên quyết để được công chính hóa là việc nhập thể, tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô. Bởi
thế, việc công chính hóa nghĩa là chính Chúa Kitô là sự chính trực của chúng ta, một sự
chính trực chúng ta được thông phần nhờ Chúa Thánh Thần theo ý muốn của Chúa Cha.
Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng: Chúng ta được Thiên Chúa chấp nhận và chúng ta
lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Đấng canh tân cõi lòng của chúng ta để trang bị và kêu gọi
chúng ta làm những việc lành, hoàn toàn là do ân sủng, bởi niềm tin tưởng vào công việc
cứu độ của Chúa Kitô, chứ không phải bởi bất cứ công lênh nào của chúng ta.
 
16.        Tất cả mọi người được Thiên Chúa kêu gọi lãnh nhận ơn cứu độ trong Chúa Kitô. Chúng
ta được công chính hóa bởi duy một mình Chúa Kitô mà thôi, khi chúng ta lấy đức tin để
lãnh nhận ơn cứu độ này. Chính đức tin cũng là một tặng ân của Thiên Chúa ban cho chúng
ta nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động bằng lời nói và bằng bí tích nơi cộng đồng các tín
hữu, và cũng là Đấng dẫn tín hữu đến việc canh tân đời sống sẽ được Thiên Chúa hoàn tất ở
sự sống đời đời.
 
17.        Chúng ta cũng chia sẻ niềm xác tín là, sứ điệp về việc công chính hóa đặc biệt hướng
chúng ta đến tâm điểm của chứng từ Tân Ước đối với hoạt động cứu độ của Thiên Chúa thực
hiện trong Chúa Kitô: chứng từ này cho chúng ta thấy rằng, là tội nhân, đời sống mới của
chúng ta hoàn toàn là do tình thương tha thứ và canh tân Thiên Chúa ban cho chúng ta như
là một tặng ân, một tặng ân chúng ta lấy đức tin lãnh nhận, chứ không phải bởi công lênh gì
của chúng ta bao giờ cả.
 
18.  Bởi thế, căn cứ vào sứ điệp và những dẫn giải ấy, tín lý về việc công chính hóa còn hơn là
một phần thuộc tín lý Kitô Giáo nữa. Khoản tín lý này có liên hệ chính yếu đến tất cả
những chân lý đức tin khác, những chân lý đức tin có liên hệ nội tại với nhau. Khoản tín lý
này là một qui luật liên lỉ giúp vào việc hướng tất cả mọi giáo huấn và thực hành của các
giáo hội chúng ta về Chúa Kitô. Khi bên Luthêrô nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc thù
của qui luật này, họ cũng không chối bỏ mối liên hệ chung và tầm quan trọng của tất cả các
chân lý đức tin. Khi bên Công Giáo buộc phải theo một số qui luật, họ cũng không phủ nhận
vai trò đặc biệt của sứ điệp công chính hóa. Cả Luthêrô và Công Giáo cùng nhắm đến mục
tiêu tuyên xưng Chúa Kitô trong tất cả mọi sự, một mình Người là Đấng duy nhất phải được
tin tưởng trên hết mọi sự như là Đấng Trung Gian duy nhất (1Tim 2:5f), Đấng mà nhờ Người
Thiên Chúa ban mình cho chúng ta trong Chúa Thánh Thần và tràn ban các tặng ân canh
tân của Ngài cho chúng ta.
4- GIẢI NGHĨA KIẾN THỨC CHUNG VỀ VIỆC CÔNG CHÍNH HÓA

4.1- Tình Trạng Bất Lực và Tội Lỗi của Con Người đối với Việc Công Chính
Hóa
 
19.        Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng, để được cứu rỗi, tất cả mọi người đều phải lệ thuộc
hoàn toàn vào ân sủng cứu độ của Thiên Chúa. Niềm tự do họ có đối với con người cũng như
đối với sự vật trên thế gian này không phải là tự do đối với phần rỗi, vì là những tội nhân,
họ phải chịu Thiên Chúa phán quyết và không thể tự mình trở về với Chúa để được giải cứu,
không thể nên công chính trước nhan Thiên Chúa, hay không thể dùng khả năng của mình để
chiếm lấy ơn cứu độ. Việc công chính hóa được thực hiện hoàn toàn là do ơn Chúa. Vì Công
Giáo và Luthêrô cùng nhau tuyên xưng điều này, nên phải công nhận:
 
20.        Khi người Công Giáo nói rằng, con người ‘cộng tác’ trong việc sửa soạn cũng như trong
việc chấp nhận trở nên công chính, bằng cách ưng thuận tác động công chính hóa của Thiên
Chúa, là họ thấy việc ưng thuận riêng tư này tự nó là hiệu quả của ân sủng, chứ không phải
là một tác động phát xuất từ những khả năng bẩm sinh của loài người.
 
21.      Theo giáo huấn của người Luthêrô, con người không thể cộng tác vào việc cứu rỗi của
mình, vì là tội nhân, họ chủ động chống lại Thiên Chúa và chống lại tác động cứu độ của
Ngài. Người Luthêrô không phủ nhận là người ta có thể từ chối hoạt động của ân sủng. Khi
họ nhấn mạnh là con người chỉ có thể lãnh nhận (hoàn toàn thụ động) việc công chính hóa,
là vì họ có ý loại trừ hết mọi khả năng đóng góp của con người vào việc công chính hóa bản
thân mình, nhưng họ cũng không phủ nhận là bản thân tín hữu cần phải hoàn toàn dấn thân
sống đức tin của mình theo tác dụng của Lời Chúa. 
 
4.2- Công Chính Hóa là Việc Tha Thứ Tội Lỗi và Làm Cho Nên Chính Trực
 
22.        Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng, Thiên Chúa lấy ân sủng mà tha thứ tội lỗi cho con
người, đồng thời giải thoát con người khỏi quyền lực cai trị của tội lỗi, cùng ban cho con
người tặng ân sự sống mới trong Chúa Kitô. Khi con người nhờ đức tin được thông phần với
Chúa Kitô, Thiên Chúa không còn qui tội cho họ nữa, và nhờ Thánh Linh Ngài thực hiện nơi
họ một tình yêu chủ động. Hai khía cạnh này nơi tác động sủng ái của Thiên Chúa: cả việc
thứ tha tội lỗi và việc hiện diện cứu độ của chính Thiên Chúa, không được tách lìa nhau, vì
con người nhờ đức tin được liên kết với Chúa Kitô, Đấng là đức chính trực của chúng ta nơi
bản thân Người (1Cor 1:30). Vì Công Giáo và Luthêrô cùng nhau tuyên xưng điều ấy nên
phải công nhận:
 
23.        Khi người Luthêrô nhấn mạnh rằng, đức chính trực của Chúa Kitô là đức chính trực của
chúng ta, thì trước hết họ có ý nhấn mạnh là tội nhân được làm cho nên chính trực trước
nhan Thiên Chúa trong Chúa Kitô, nhờ việc công bố thứ tha tội lỗi, và cũng có ý nhấn mạnh
là đời sống của con người chỉ được đổi mới ở tại việc hiệp nhất với Chúa Kitô mà thôi. Khi
họ nhấn mạnh ân sủng của Thiên Chúa là tình yêu tha thứ (‘hồng ân của Thiên Chúa’), thì
họ không phủ nhận việc canh tân đời sống Kitô hữu. Trái lại, họ có ý nói lên rằng, công
chính hóa vẫn không dính dáng đến việc cộng tác của con người, cũng như không lệ thuộc
vào các hiệu quả canh tân đời sống của ân sủng nơi con người.
 
24.        Khi người Công Giáo nhấn mạnh đến việc canh tân con người nội tâm bằng việc lãnh
nhận ân sủng được ban xuống như tặng ân cho người tín hữu, là họ muốn nhấn mạnh ơn tha
thứ của Thiên Chúa luôn luôn mang lại tặng ân sự sống mới, một sự sống trở nên hiệu
nghiệm bởi tình yêu chủ động trong Chúa Thánh Thần. Bởi thế, họ không chối bỏ việc Thiên
Chúa ban phát ơn công chính hóa cho con người mà vẫn không dính dáng gì tới việc cộng
tác của con người.
 
4.3- Công Chính Hóa bởi Đức Tin và nhờ Ân Sủng

 
25.        Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng, tội nhân được công chính hóa bởi đức tin theo tác
động cứu độ của Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Bằng hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi
phép rửa, họ được ban tặng ân cứu độ, tặng ân làm nền tảng cho cả đời sống Kitô hữu. Họ
đặt lòng tin tưởng của mình nơi lời hứa sủng ái của Thiên Chúa bằng đức tin công chính
hóa, đức tin bao gồm cả lòng cậy trông Thiên Chúa và lòng mến yêu Ngài. Một đức tin như
vậy linh hoạt trong yêu thương, nhờ đó, Kitô hữu không thể và không được thụ động không
làm gì. Thế nhưng, bất cứ những gì nơi con người được công chính hóa có trước hay theo sau
tặng ân đức tin nhưng không này đều không phải là nguồn gốc của việc công chính hóa hay
làm nên việc công chính hóa.
 
26.      Theo người Luthêrô hiểu, Thiên Chúa công chính hóa tội nhân bằng đức tin mà thôi (sola
fide). Với đức tin, họ hoàn toàn đặt lòng tin tưởng vào Đấng Tạo Hóa cũng là Đấng Cứu
Chuộc của họ, nhờ đó, họ sống hiệp thông với Ngài. Chính Thiên Chúa tác động đức tin khi
Ngài dùng lời tác tạo của mình làm phát sinh ra một lòng tin tưởng như thế. Vì tác động
của Thiên Chúa là một việc sáng tạo mới, tác động của Ngài ảnh hưởng đến tất cả mọi chiều
kích của con người và dẫn họ đến một đời sống hy vọng cũng như yêu thương. Theo tín lý về
‘việc công chính hóa bởi duy một mình đức tin’, cần phải phân biệt, chứ không phải tách
biệt, giữa chính việc công chính hóa và việc canh tân lối sống của con người, một việc canh
tân cần phải có bởi được công chính hóa, mà nếu thiếu việc canh tân này cũng kể như đức
tin không có. Nhờ có căn bản rõ ràng mới tiến hành đến việc canh tân đời sống, một việc
canh tân phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa đã ban cho con người được công chính hóa. Việc
công chính hóa và việc canh tân được liên kết với nhau trong Chúa Kitô, Đấng hiện diện
trong đức tin.
 
27.      Theo sự hiểu biết của mình, người Công Giáo cũng thấy rằng, đức tin là nền tảng trong
việc công chính hóa. Vì không có đức tin không thể nào có việc công chính hóa. Những con
người được công chính hóa nhờ phép rửa là những người nghe lời Chúa và là những người
tin vào lời Chúa. Công chính hóa tội nhân là việc tha thứ tội lỗi và làm cho họ nên chính
trực bằng ơn công chính hóa, ơn làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. Được công
chính hóa, người chính trực lãnh nhận nơi Chúa Kitô đức tin, đức cậy và đức mến, nhờ đó,
họ được hiệp thông với Ngài. Mối liên hệ mới mẻ với Thiên Chúa ấy hoàn toàn là do lòng ưu
ái của Thiên Chúa, hằng liên lỉ lệ thuộc vào tác động cứu độ và sáng tạo của Vị Thiên Chúa
là Đấng chân thực để con người có thể tin cậy nơi Ngài này. Như thế, ơn công chính hóa
không bao giờ thuộc về con người, làm cho họ có thể lên mặt với Thiên Chúa. Nếu giáo huấn
của Công Giáo nhấn mạnh đến việc canh tân đời sống bằng ơn công chính hóa, thì việc canh
tân trong đức tin, đức cậy và đức mến này luôn luôn tùy thuộc vào ân sủng khôn lường của
Thiên Chúa, và không đóng góp gì cho việc công chính hóa làm cho con người có thể hãnh
diện trước nhan Thiên Chúa (Rm 3:27).
 
4.4- Người Được Công Chính Hóa là Một Tội Nhân
 
28.        Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng, trong phép rửa, Chúa Thánh Thần đã liên kết con
người với Chúa Kitô, đã công chính hóa và thực sự đã canh tân con người. Thế nhưng, con
người được công chính hóa, trong cả đời sống, phải liên lỉ cần đến ơn công chính nhưng
không của Thiên Chúa. Họ cũng luôn luôn chịu ảnh hưởng đàn áp tấn công của quyền lực tội
lỗi (cf Rm 6:12-14), và không tránh khỏi cuộc đối chọi kéo dài cả đời với những gì phản lại
Thiên Chúa nơi các ước muốn vị kỷ của Adong xưa (cf Gal 5:16; Rm 7:7-10). Người được
công chính hóa cũng phải xin Chúa hằng ngày thứ tha cho mình như trong Kinh Chúa Dạy
(Mt 6:12; 1Jn 1:9), hằng được kêu gọi ăn năn cải thiện cùng thống hối, và hằng được nhận lại
ơn Chúa thứ tha.
 
29.        Người Luthêrô cho thân phận của Kitô hữu này là một thân phận ‘vừa là chính nhân vừa
là tội nhân’. Tín hữu hoàn toàn là con người chính trực, bởi Thiên Chúa thứ tha tội lỗi cho
họ bằng Lời Chúa cũng như bằng Bí Tích, và ban cho họ đức chính trực của Chúa Kitô mà
họ đáng được trong đức tin. Nơi Chúa Kitô, họ được nên người công chính trước nhan Thiên
Chúa. Tuy nhiên, nhìn vào mình theo lề luật, họ nhận thấy rằng họ vẫn hoàn toàn là tội
nhân. Tội lỗi vẫn sống trong họ (1Jn 1:8; Rm 7:17, 20), vì họ không thôi quay về với các ngụy
thần và không kính mến Thiên Chúa bằng một tình yêu nguyên vẹn như Thiên Chúa là Đấng
Dựng Nên họ đòi hỏi (Deut 6:5; Mt 22:36-40 pr.). Tình trạng phản nghịch với Thiên Chúa ấy
thực là tội lỗi vậy. Tuy nhiên, quyền lực làm chủ của tội lỗi đã bị chế ngự bởi công nghiệp
của Chúa Kitô. Tội lỗi không còn ‘làm chủ’ Kitô hữu nữa, vì chính nó đã bị Chúa Kitô là
Đấng kẻ được công chính hóa gắn bó trong đức tin ‘làm chủ’ rồi. Bởi thế, trong cuộc sống
này, Kitô hữu có thể sống công chính một phần nào. Cho dù tội lỗi, Kitô hữu vẫn không lìa
xa Thiên Chúa, vì hằng ngày, trong việc trở về với phép rửa, con người đã được tái sinh bởi
phép rửa và bởi Thánh Thần lại được thứ tha tội lỗi. Như thế, tội lỗi ấy không còn làm cho
con người bị trầm luân hay bị chết đời đời nữa. Vậy, khi người Luthêrô nói rằng, những
người được công chính hóa cũng là những tội nhân, và nói rằng tình trạng họ phản chống
Thiên Chúa thực sự là tội lỗi, thì họ không phủ nhận là, dù có tội như thế, thành phần này
vẫn không lìa xa Thiên Chúa và tội lỗi ấy là tội lỗi đã được ’làm chủ’. Theo những xác nhận
này, cho dù có hiểu khác với người Công Giáo về tội lỗi nơi con người được công chính hóa,
người Luthêrô cũng đồng ý với người Công Giáo Rôma.
 
30.        Người Công Giáo chủ trương rằng, ân sủng của Chúa Giêsu Kitô ban cho khi lãnh nhận
phép rửa tẩy sạch tất cả những gì là tội lỗi ‘theo đúng nghĩa của nó’ và là tội lỗi ‘đáng bị
trầm luân’ (Rm 8:1). Tuy nhiên, con người vẫn còn một khuynh hướng hạ (đam mê) bởi tội
mà ra và đẩy con người đến việc phạm tội. Vì, theo niềm tin Công Giáo, tội lỗi của con
người bao giờ cũng dính dáng đến yếu tố cá nhân, và bởi yếu tố cá nhân này không có ở nơi
khuynh hướng hạ ấy, nên người Công Giáo không cho rằng khuynh hướng hạ này là tội lỗi
theo đúng nghĩa của nó. Họ không phủ nhận là khuynh hướng hạ này không xứng hợp với dự
án nguyên thủy của Thiên Chúa về con người, và theo khách quan, nó nghịch lại với Thiên
Chúa và vẫn là kẻ thù mà con người cả đời phải chống chọi. Người Công Giáo nhấn mạnh
là, được ơn Chúa Kitô giải cứu, khuynh hướng hạ phản nghịch với Thiên Chúa này không
đáng bị phạt chết đời đời, cũng như không tách lìa con người được công chính hóa khỏi
Thiên Chúa. Thế nhưng, khi cá nhân con người tự ý tách mình lìa khỏi Thiên Chúa, thì việc
họ tuân giữ lại các giới răn cũng chưa đủ, vì họ phải lãnh nhận ơn tha thứ và bình an nơi Bí
Tích Hòa Giải qua lời xá tội lỗi của họ, căn cứ vào việc Thiên Chúa giải hòa trong Chúa
Kitô.
 
4.5- Lề Luật và Phúc Âm

 
31.        Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng, con người được công chính hóa bởi đức tin vào phúc
âm ‘tách biệt với các việc làm theo lề luật qui định’ (Rm 3:28). Chúa Kitô đã làm trọn lề
luật, và bằng cuộc tử nạn và phục sinh của mình, Người đã làm chủ lề luật như là một
đường lối cứu độ. Chúng ta cũng tuyên xưng rằng, các giới luật của Thiên Chúa vẫn còn hiệu
lực của mình đối với thành phần được công chính hóa, và giáo huấn cũng như gương mẫu
của Chúa Kitô là những gì cho thấy ý muốn của Thiên Chúa sẽ là tiêu chuẩn cho người được
công chính hóa tác hành theo.
 
32.        Người Luthêrô cho rằng, việc phân biệt và thứ tự trên dưới giữa lề luật với phúc âm là
những gì thiết yếu để hiểu được việc công chính hóa. Theo phương diện thần học thực dụng
của họ thì lề luật là điều bó buộc và là điều cáo buộc. Suốt cuộc sống của mình, tất cả mọi
người, kể cả Kitô hữu, một cuộc sống họ là những tội nhân, phải chịu đựng việc cáo buộc
này, một cáo buộc tố giác tội lỗi của họ, để rồi, bằng niềm tin vào phúc âm, họ sẽ không
ngần ngại trở về với tình thương của Thiên Chúa trong Chúa Kitô, Đấng duy nhất công
chính hóa họ.
 
33.        Vì lề luật như là một đường lối cứu độ đã được phúc âm làm cho nên trọn và chế ngự,
người Công Giáo mới cho rằng Chúa Kitô không phải là nhà ban bố luật theo kiểu Moisen.
Khi người Công Giáo nhấn mạnh là người chính trực buộc phải tuân giữ các giới răn của
Thiên Chúa thì họ cũng không chối bỏ là, nhờ Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã xót thương
hứa cho con cái Ngài ơn được sống đời đời. 
 
4.6- Việc Bảo Đảm Phần Rỗi

 
34.        Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng, người tín hữu có thể tin cậy vào tình thương và các
lời hứa của Thiên Chúa. Bất chấp nỗi yếu hèn của mình, cũng như bất chấp những đe dọa
nhiều mặt nguy hiểm đến đức tin của mình, cậy dựa vào sức mạnh của việc Chúa Kitô tử
nạn và phục sinh, họ cũng có thể vững tâm vào lời hứa hiệu năng của ơn Thiên Chúa nơi Lời
Chúa và Bí Tích, nhờ thế họ nắm chắc được ơn này.
35..      Người Cải Cách đặc biệt nhấn mạnh đến điều này, đó là, giữa thử thách cám dỗ, người tín
hữu không được cậy dựa vào mình mà phải hoàn toàn cậy dựa vào Chúa Kitô và tin tưởng
nơi một mình Người. Bằng việc tin tưởng vào lời hứa của Thiên Chúa, chứ không bao giờ
cậy dựa vào bản thân, họ nắm chắc được phần rỗi của mình.
 
36.      Người Công Giáo có thể chung một quan tâm với người Cải Cách trong việc đặt đức tin
vào thực tại khách quan của lời Chúa Kitô hứa, trong việc bỏ đi cảm nghiệm riêng tư của
mình, cũng như trong việc tin tưởng vào nguyên lời thứ tha của Chúa Kitô mà thôi (cf Mt
16:19, 18:18). Theo Công Đồng Chung Vaticanô II, người Công Giáo cho rằng sống đức tin là
hoàn toàn phó mình cho Thiên Chúa, Đấng giải thoát chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi cùng sự
chết và làm cho chúng ta bừng lên sự sống đời đời. Bởi thế, con người không thể tin tưởng
nơi Thiên Chúa, đồng thời lại coi lời hứa thần linh là không đáng tin tưởng. Không ai được
ngờ vực tình thương của Thiên Chúa và công nghiệp của Chúa Kitô. Tuy nhiên, mọi người có
thể quan tâm đến phần rỗi của mình khi họ thấy mình yếu đuối và kém cỏi. Thế nhưng,
nhận thấy mình sa ngã, tín hữu mới có thể tin là Thiên Chúa muốn cứu độ họ.
 
4.7- Các Việc Lành Phúc Đức của Người Được Công Chính Hóa

 
37.      Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng, các việc lành phúc đức – một đời sống Kitô hữu sống
đức tin, đức cậy và đức mến – là do việc công chính hóa và là hoa trái của việc công chính
hóa. Khi thành phần được công chính hóa sống trong Đức Kitô và hoạt động theo ân sủng
nhận được, là họ làm trổ sinh trái tốt, theo từ ngữ thánh kinh. Bởi Kitô hữu chống chọi với
tội lỗi suốt cuộc đời của mình, họ cũng buộc phải chiếm được thành quả của việc công chính
hóa ấy. Thế nên, cả Chúa Giêsu lẫn các Sách Thánh tông tuyền đều khuyên giục Kitô hữu
hãy làm trổ sinh các việc yêu thương.
 
38.      Theo người Công Giáo hiểu thì các việc lành phúc đức, được thực hiện nhờ ân sủng và
hoạt động của Chúa Thánh Thần, góp phần vào việc lớn lên trong ân sủng, nhờ đó đức chính
trực do Thiên Chúa ban cho được bảo tồn, và cũng nhờ đó việc hiệp thông với Chúa Kitô
được sâu đậm hơn. Khi người Công Giáo xác nhận tính chất ‘công nghiệp’ của các việc lành
phúc đức, là họ muốn nói lên rằng, theo chứng từ thánh kinh, phần thưởng trên trời được
hứa ban cho những việc làm ấy. Họ có ý nhấn mạnh đến trách nhiệm của con người đối với
hành động của mình, chứ không đặt vấn đề tính chất nơi những việc làm như là các tặng ân
ấy, và họ lại càng không chối bỏ việc công chính hóa bao giờ cũng là một quà tặng nhưng
không của ân sủng.
 
39.      Người Luthêrô cũng chủ trương quan niệm về việc bảo trì ân sủng và việc lớn lên trong ân
sủng cùng đức tin. Họ thực sự nhấn mạnh là đức chính trực được Thiên Chúa ban cho và việc
thông phần vào đức chính trực của Chúa Kitô là những gì luôn luôn trọn vẹn. Họ đồng thời
cũng cho rằng, các hiệu quả của những sự ấy có thể được phát triển trong đời sống Kitô hữu.
Tuy nhiên, khi họ quan niệm về các việc lành phúc đức của người Kitô hữu như là hoa trái
và dấu chỉ của việc công chính hóa, chứ không phải là các ‘công nghiệp’ riêng của con người,
thì họ cũng hiểu được sự sống đời đời, theo ý nghĩa của Tân Ước, là một ‘phần thưởng’
nhưng không trong việc người tín hữu làm trọn lời hứa của Thiên Chúa.
 
5. Tầm Quan Trọng và Mục Tiêu nhắm đến của Việc Đồng Ưng Thuận

 
40.      Việc tìm hiểu về tín lý công chính hóa được trình bày trong Bản Tuyên Ngôn này cho thấy
rằng, người Luthêrô và người Công Giáo đã cùng nhau chấp nhận những sự thật căn bản của
tín lý về việc công chính hóa. Theo chiều hướng đồng ưng thuận này, thì những khác nhau
còn lại về ngôn ngữ, về việc diễn giải theo thần học, và về các điểm được nhấn mạnh trong
việc hiểu biết về vấn đề công chính hóa ở các đoạn từ 18 đến 39, đều được chấp nhận. Bởi
thế, những cắt nghĩa về việc công chính hóa của người Luthêrô và người Công Giáo khác
nhau thì hướng đến nhau và không làm tiêu hủy việc đồng thuận liên quan đến các sự thật
căn bản này.
 
41.      Do đó, những điều lên án nhau về tín lý ở thế kỷ 16 liên quan đến tín lý về việc công chính
hóa có một chiều hướng mới, đó là: Giáo huấn của các giáo hội Luthêrô được trình bày
trong Bản Tuyên Ngôn này không bị rơi vào số các luận bác của Công Đồng Chung
Triđentinô. Những bác bỏ trong Các Điều Tuyên Tín của bên Luthêrô cũng không áp dụng
cho giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo Rôma được trình bày trong Bản Tuyên Ngôn này.
 
42.      Như thế, không có gì làm mất đi tính cách nghiêm trọng của các điều lên án liên quan đến
tín lý về việc công chính hóa cả. Một số điều lên án này không phải là hoàn toàn vô bổ đâu.
Đối với chúng ta, chúng vẫn là ‘những cảnh giác công hiệu’ làm cho chúng ta phải lưu ý về
việc giảng dạy và việc thực hành của chúng ta.
 
43.      Việc đồng thuận của chúng ta nơi các sự thật căn bản của tín lý về việc công chính hóa
phải gây tác dụng trên đời sống cũng như nơi các giáo huấn của giáo hội chúng ta. Việc đồng
thuận này phải tự chứng tỏ cho thấy là ở chỗ đó. Về khía cạnh này, vẫn còn nhiều vấn đề
quan trọng khác nhau cần phải được làm cho sáng tỏ hơn. Trong số những vấn đề đó là vấn
đề về mối liên hệ giữa Lời Chúa và tín lý giáo hội, cũng như vấn đề giáo hội học, vấn đề
quyền bính giáo hội, vấn đề hiệp nhất giáo hội, vấn đề thừa tác vụ, vấn đề các bí tích, và
vấn đề liên hệ giữa việc công chính hóa với đạo đức xã hội. Chúng ta tin tưởng rằng, việc
chúng ta tiến đến vấn đề đồng thuận này cống hiến cho chúng ta một căn bản vững chắc cho
việc làm sáng tỏ ấy. Các giáo hội Luthêrô và Giáo Hội Công Giáo Rôma sẽ cùng nhau tiếp
tục gắng sức đào sâu vào việc tìm hiểu chung về việc công chính hóa này, để làm cho việc
tìm hiểu ấy sinh hoa kết trái trong đời sống cũng như trong giáo huấn của các giáo hội.
 
44.      Chúng ta tạ ơn Chúa cho bước tiến trọng yếu hướng tới đường lối thắng vượt tình trạng
chia rẽ của giáo hội này. Chúng ta xin Thánh Linh dẫn chúng ta tiến xa hơn nữa tới việc
hiệp nhất hữu hình theo ý muốn của Chúa Kitô.
 (Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, phát hành ngày
24/11/1999, trang I-III)
 
  
BẢN TUYÊN NGÔN của THÁNH BỘ TÍN LÝ ĐỨC TIN
 
VAI TRÒ CHUYÊN NHẤT
CỦA CHÚA KITÔ VÀ GIÁO HỘI
 
 Giáo Hội Công Giáo, kể từ Công Đồng Chung Vaticanô II, đã phát động và
hết sức nỗ lực thực hiện việc Đại Kết Kitô Giáo khẩn thiết, để có thể phục hồi
tình trạng Giáo Hội Chúa Kitô hoàn toàn được hiệp nhất nên một như ý
muốn của Chúa Kitô, cũng như để khỏi gây ngãng trở trong việc truyền giáo,
và trong giáo triều của mình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã đẩy
mạnh việc Đối Thoại Liên Tôn hơn bao giờ hết. Thế mà, Tòa Thánh, qua
Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, vừa chính thức ban bố một văn kiện, như phản ứng
của một số nhân vật cho thấy, một văn kiện có thể gây nguy hại đến tiến trình
Đại Kết Kitô Giáo đang xích lại gần nhau, cũng như đến công cuộc Đối Thoại
Liên Tôn đang diễn tiến tốt đẹp. Vậy: 
1. Bản văn kiện này là gì?
2. Tại sao được phổ biến??
3. Nội dung như thế nào???
 
BẢN CHẤT CỦA VĂN KIỆN
 

Sáng ngày 5 tháng 9 năm 2000, tại Phòng Báo Chí của Tòa Thánh, Thánh Bộ
Tín Lý Đức Tin đã cho phổ biến một Bản Tuyên Ngôn mang tựa đề “Chúa
Giêsu - Dominus Jesus”, liên quan đến Duy Nhất Tính của Chúa Giêsu Kitô
và của Giáo Hội cùng Phổ Quát Tính Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô và của
Giáo Hội. Hiện diện trong cuộc họp báo để ban bố  văn kiện lịch sử quan
trọng này, người ta thấy có Đức Hồng Y Tổng Trưởng, Giuse Ratzinger, Tổng
Thư Ký Thánh Bộ, Đức Tổng Giám Mục Tarcisio Bertone, SDB, và hai vị tham
vấn là Đức Ông Fernando Ocariz và Cha Angelo Amato, SDB.

 
Trong phần vấn đáp trước khi kết thúc cuộc họp báo, có hai vấn đề tế nhị
được các phóng viên báo chí nêu lên. Vấn đề thứ nhất là bức văn kiện có thể
gây nguy hại cho việc Đại Kết Kitô Giáo và Đối Thoại Liên Tôn hay chăng?
Cha Angelo Amato đã trả lời cho biết, về vấn đề Đại Kết Kitô Giáo, bản văn
kiện không nói một điều gì mới lạ, ngoài việc lập lại những gì đã được Công
Đồng Chung Vaticanô II xác tín; còn về vấn đề Đối Thoại Liên Tôn, bản văn
kiện chỉ đề ra một đường hướng hòa hợp, an bình và tương kính, do đó, sẽ
không gây trở ngại gì. Vấn đề thứ hai là bức văn kiện có được tham khảo với
các vị Giám Mục Á Châu hay chăng? Đức Tổng Giám Mục Bertone, Tổng Thư
Ký của Thánh Bộ, cho biết bản văn kiện đã được tham vấn với các Hội Đồng
Giám Mục Á Châu, đặc biệt riêng với các Giám Mục Ấn Độ qua một số phiên
họp.

Đức Tổng Thư Ký còn cho biết, sở dĩ bức văn kiện này được gọi là “Bản
Tuyên Ngôn”, vì nó “không truyền dạy những tín lý mới mẻ..., hơn là chỉ tái
khẳng định và tóm gọn tín lý của đức tin Công Giáo đã được xác nhận và
truyền dạy trong các văn kiện trước đây thuộc Huấn Quyền; từ đó, bản văn
kiện đưa ra những giải thích chân thực đối với những sai lầm cũng như
những mập mờ về tín lý đang lan tràn trong phạm vi thần học và giáo hội học
tân tiến”. Tuy nhiên, Đức Tổng Thư Ký cũng nhấn mạnh đến giá trị đức tin
của văn kiện này, ở chỗ, cho dù là một Bản Tuyên Ngôn của một Thánh Bộ,
nhưng vì được Đức Thánh Cha minh nhiên chuẩn nhận trong buổi triều kiến
ngày 16/6/2000, qua công thức phê chuẩn ở đoạn cuối cùng của Bản Tuyên
Ngôn: “certa scienta et apostolica Sua auctoritate” (bằng ý thức rõ ràng và
theo tông quyền của mình), bức văn kiện ấy cũng thuộc về Huấn Quyền của
Giáo Hội: “Công thức này cho thấy tầm quan trọng và chính yếu của tín lý
được trình bày trong bản tuyên ngôn: tức là những gì trong bản tuyên ngôn
đều là những chân lý thuộc đức tin thần linh Công Giáo, hay là những sự thật
của tín lý Công Giáo cần phải được mạnh mẽ nắm giữ... Bởi thế, tín hữu buộc
phải cương quyết và dứt khoát chấp nhận”.
BẢN TUYÊN NGÔN CHUNG VỀ TÍN LÝ CÔNG CHÍNH HÓA
CĂN NGUYÊN CỦA VĂN KIỆN
 

Mục đích của Bản Tuyên Ngôn được xác định ở ngay đầu đoạn 3: “Bản Tuyên
Ngôn đây muốn nhắc nhở cho các Vị Giám Mục, thần học gia, và toàn thể tín
hữu Công Giáo, một số những yếu tố không thể bỏ qua về tín lý Kitô Giáo,
những yếu tố có thể giúp cho thần học suy tư trong việc tìm kiếm những giải
quyết hợp với đức tin và trong việc đáp ứng nhu cầu cấp thiết của văn hóa
hiện đại”. Thế nhưng, vấn đề ở đây là tại sao Bản Tuyên Ngôn này lại nêu lên
“những yếu tố không thể bỏ qua về tín lý Kitô Giáo” ấy vào lúc này đây?

Trong cuộc họp báo để ban bố Bản Tuyên Ngôn này, Đức Hồng Y Tổng
Trưởng tiết lộ cho biết bối cảnh của bức văn kiện như sau: “Một số thần học
gia hơi có vẻ hòa dịu  tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa thật và là người
thật, song cũng chủ trương rằng, vì bản tính nhân loại hạn hẹp của Đức
Giêsu, do đó mạc khải của Thiên Chúa nơi Người không thể nào hoàn toàn và
tối hậu được cả; bởi thế, mạc khải này cần phải được đối chiếu với ánh sáng
của các mạc khải khả dĩ khác của Thiên Chúa nữa, những mạc khải được thể
hiện qua các tinh hoa tôn giáo của nhân loại cũng như qua giáo tổ của các tôn
giáo trên thế giới. Như thế, khách quan mà nói, người ta đã thấy được những
tư tưởng sai lầm xuất hiện đó là chủ trương các tôn giáo trên thế giới hoàn
trọn mạc khải Kitô Giáo”.

Đề cập đến chủ nghĩa tương đối và các hậu quả của nó, Đức Hồng Y Tổng
Trưởng còn cho biết rằng, vấn đề là ở chỗ chủ nghĩa này xuất hiện như “một
thứ triết lý nhân bản, thứ triết lý có khả năng bảo toàn tình cách nhân nhượng
và dân chủ, song lại khiến thành phần cho mình là người bảo vệ căn tính Kitô
Giáo và chủ trương truyền bá sự thật phổ quát cứu độ nơi mạc khải của Chúa
Giêsu Kitô, càng trở nên xa lạ hơn”. “Xa lạ hơn” ở chỗ nào, Đức Hồng Y
Ratzinger tiếp tục vạch rõ vấn đề như sau: “Nguyên tắc về sự nhân nhượng
cùng tương kính theo tự do đã bị lèo lái và đi quá trớn đến độ mất quân bình,
khi con người chấp nhận những nội dung, như thể tất cả các nội dung của
mọi tôn giáo khác nhau cũng như những quan niệm phi tôn giáo về đời sống,
đều có thể được đặt ngang hàng với nhau; và như thể chân lý phổ quát khách
quan không còn hiện hữu nữa, vì Thiên Chúa hay Đấng Tối Cao tỏ mình ra
dưới nhiều thứ danh xưng, và tất cả mọi danh xưng đều chân thực. Đây là
một ý nghĩ nhân nhượng sai lầm có liên quan đến việc không biết và phủ
nhận vấn đề về sự thật, một vấn đề thực sự đối với nhiều người ngày nay chỉ
có một tầm vóc quan trọng thứ yếu không liên quan gì tới họ”.

Chính vì “ý nghĩ nhân nhượng sai lầm” này, “những sai lầm cũng như những
mập mờ về tín lý đang lan tràn trong phạm vi thần học và giáo hội học tân
tiến”, mới có Bản Tuyên Ngôn “Chúa Giêsu - Dominus Jesus”, liên quan đến
Duy Nhất Tính của Chúa Giêsu Kitô và của Giáo Hội cùng Phổ Quát Tính
Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô và của Giáo Hội, một văn kiện được ký ban
hành vào ngày Lễ Chúa Biến Hình, 6/8/2000.

 
 
NỘI DUNG CỦA VĂN KIỆN 
 

Ngoài hai phần mở và kết, Bản Tuyên Ngôn được chia ra làm 5 phần thứ tự
như sau: 
1. Tính Cách Trọn Vẹn và Tối Hậu nơi Mạc Khải của Chúa Giêsu Kitô
2. Lời Nhập Thể và Chúa Thánh Thần trong Công Cuộc Cứu Độ
3. Duy Nhất Tính và Phổ Quát Tính nơi Mầu Nhiệm Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô
4. Duy Nhất Tính của Giáo Hội và Việc Hiệp Nhất của Giáo Hội
5. Giáo Hội là Vương Quốc của Thiên Chúa và là Vương Quốc của Chúa Kitô
 

Qua 5 phần chính yếu làm nên nội dung của toàn Bản Tuyên Ngôn này,
Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin đã trước hết nêu lên những “ý nghĩ nhân nhượng
sai lầm”, rồi sau đó “tái khẳng định và tóm gọn tín lý của đức tin Công Giáo”
trong 10 điều chính yếu như sau.

“Ý Nghĩ Nhân Nhượng Sai Lầm”


 

Ngay ở phần mở đầu, Bản Tuyên Ngôn đã điểm mặt “những ý nghĩ nhân
nhượng sai lầm” như sau (những chỗ in đậm là do người dịch tự ý muốn
nhấn mạnh để làm nổi bật những chi tiết trọng yếu của từng chỗ):
 
·        “Việc liên tục rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội ngày nay đang gặp phải
nguy hiểm bởi những lý thuyết tương đối tìm cách biện minh cho chủ
nghĩa đại đồng tôn giáo, chẳng những về mặt thực tế (de facto) mà còn về
mặt nguyên tắc (de iure). Từ đó, mới có chủ trương thay thế một số chân
lý; chẳng hạn như chân lý về tính chất tối hậu và hoàn bị nơi mạc khải
của Chúa Giêsu Kitô, về bản chất của đức tin Kitô Giáo được đem so
sánh với bản chất của niềm tin nơi các tôn giáo khác, về bản chất linh
ứng của các sách Thánh Kinh, về việc hiệp nhất ngôi vị giữa Lời Hằng
Sống và Đức Giêsu Nazarét, về việc hiệp nhất trong công cuộc của Lời
Nhập Thể và Chúa Thánh Linh, về duy nhất tính và cứu độ phổ quát
tính nơi mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, về vai trò môi giới cứu độ phổ
quát của Giáo Hội, về tính cách bất khả phân ly – trong đó có cả những
gì khác biệt - nơi vương quốc của Thiên Chúa, vương quốc của Chúa
Kitô, và Giáo Hội, và về việc hiện hữu của một Giáo Hội duy nhất trong
Giáo Hội Công Giáo.
 
“Các căn nguyên của những vấn đề này được tìm thấy nơi một số những
dự tưởng vừa mang tính chất triết lý lẫn thần học, những dự tưởng gây
trở ngại cho việc hiểu biết và chấp nhận chân lý mạc khải. Có thể kể đến
một số những dự tưởng này như sau: dự tưởng về xác tín cho rằng không
thể nắm vững và diễn đạt chân lý thần linh, cho dù có bởi mạc khải Kitô
Giáo chăng nữa; dự tưởng về những thái độ tương đối hướng về chân lý
cho thấy có những cái đúng với người này song lại không đúng với người
khác; dự tưởng về mối tương khắc sâu xa giữa ý hệ thiên lý lẽ của Tây
Phương với ý hệ thiên biểu tượng của Đông Phương; dự tưởng về chủ
quan tính, cho rằng lý trí là nguồn duy nhất của kiến thức, lại không thể
hướng ‘tầm mắt lên cao vời, không dám tiến đến chân lý về hữu thể’ (ĐTC
Gioan Phaolô II, Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí, 5: AAS 91 năm 1999, 5-88);
dự tưởng về vấn đề khó khăn trong việc hiểu biết và chấp nhận sự hiện
diện của những biến cố cánh chung tối hậu nơi lịch sử; dự tưởng về biến cố
nhập thể lịch sử của Lời Hằng Hữu không có tính cách siêu hình, mà chỉ là
việc Thiên Chúa xuất hiện trong lịch sử mà thôi; dự tưởng về việc vượt
biên của thành phần say mê những tư tưởng phóng khoáng từ các môi
trường triết lý và thần học khác nhau trong việc tra cứu thần học, không để
ý gì đến mối liên hệ chặt chẽ theo hệ thống hay đến tính cách tương xứng
với chân lý Kitô Giáo; sau hết là dự tưởng về khuynh hướng muốn đọc và
cắt nghĩa Sách Thánh không theo Truyền Thống và Huấn Quyền của Giáo
Hội”.
 
“Từ những dự tưởng này, những dự tưởng cho thấy những uyển chuyển
khác nhau, đã xuất hiện một số những dự thảo về thần học, lúc thì được
trình bày như là những chủ trương, lúc thì như những giả thiết, những
dự thảo cho rằng mạc khải Kitô Giáo cùng với mầu nhiệm về Chúa Giêsu
Kitô cũng như về Giáo Hội không có tính chất chân thật tuyệt đối và tính
cách phổ quát cứu độ, hay tối thiểu cũng cho thấy có những ngờ vực và
nghi ngại về Chúa Kitô và Giáo Hội”.
BẢN TUYÊN NGÔN CHUNG VỀ TÍN LÝ CÔNG CHÍNH HÓA

“Tái Khẳng Định và Tóm Gọn Tín Lý của Đức Tin Công Giáo”
 (Những tiểu đề theo thứ tự từ 1 tới 10 là do người viết đặt ra cho rõ ràng những vấn đề Thánh Bộ Tín Lý
Đức Tin muốn khẳng định trong Bản Tuyên Ngôn)
 
1.         Thiên Chúa đã mạc khải đầy đủ và trọn vẹn mầu nhiệm cứu độ nơi
Chúa Giêsu Kitô.
 
·        “Thuyết chủ trương tính chất giới hạn, không trọn vẹn hay không hoàn
hảo nơi mạc khải của Chúa Giêsu Kitô, một mạc khải cần được bổ khuyết
nơi mạc khải của các tôn giáo khác là một thuyết trái với đức tin Kitô Giáo.
Chủ trương này căn cứ vào quan niệm cho rằng bất cứ một tôn giáo nào
trong lịch sử, kể cả Kitô Giáo hay Đức Giêsu Kitô đi nữa, cũng không thể
nào hiểu thấu và không thể nào bộc lộ một cách phổ quát và trọn vẹn sự
thật về Thiên Chúa.
 
“Chủ trương như vậy hoàn toàn trái với những tuyên xưng trước đây của
đức tin Công Giáo, những tuyên xưng về một mạc khải đầy đủ và trọn
vẹn nơi mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện nơi Đức
Giêsu Kitô. Vì lý do đó, những lời nói, việc làm và tất cả các biến cố lịch
sử của Đức Giêsu, mặc dù bị giới hạn theo thực tại loài người, cũng được
làm chủ bởi Ngôi Vị thần linh của Lời Nhập Thể, Đấng là ‘Thiên Chúa
thật và là người thật’ (Công Đồng Chung Chalcedon, Symbolum
Chalcedonense: DS 301; x Thánh Athanasius, De Incarnatione, 54, 3: SC
199, 458). Bởi thế, những lời nói, việc làm và biến cố đó tự mình có tính
chất mạc khải tối hậu và hoàn toàn theo những đường lối cứu độ của
Thiên Chúa, cho dù mức độ sâu xa của mầu nhiệm thần linh tự nó vốn
siêu việt và bất tận. Sự thật về Thiên Chúa không bị hủy bỏ hay bị suy
giảm khi nó được phát biểu bằng ngôn ngữ loài người; trái lại, nó
chuyên nhất, hoàn toàn và trọn vẹn, vì Đấng nói năng và tác hành chính
là Con Thiên Chúa Nhập Thể. Như thế, đức tin đòi chúng ta phải tuyên
xưng Lời nhập thể, nơi toàn thể mầu nhiệm của Người, từ khi nhập thể tới
vinh quang, là nguồn mạch, tuy dự phần song thực sự, và là viên trọn của
hết mọi mạc khải cứu độ Thiên Chúa muốn tỏ ra cho loài người biết (Công
Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải, 4), cũng như
tuyên xưng Thánh Linh, Đấng là Thần Linh của Đức Kitô, sẽ dạy “tất cả sự
thật” này (Jn 16:13) cho các Vị Tông Đồ và nhờ các ngài cho toàn thể Giáo
Hội”.
 
(Tuyên Ngôn, đoạn 6.1 và 6.2)
 
2.   Đức Tin Đối Thần nơi Kitô Giáo và niềm tin nơi các tôn giáo khác hoàn
toàn khác hẳn nhau.
 
·        “Đáp ứng xứng hợp với mạc khải của Thiên Chúa là ‘việc tin tưởng tuân
phục (Rm 16:26; x. Rm 1:5; 2Cor 10:5-6), một tác động khiến con người
hoàn toàn tự do phó mình cho Thiên Chúa, ở chỗ trí khôn và lòng muốn
của họ hết sức thuận phục Thiên Chúa, Đấng tỏ mình ra, và tự nguyện
chấp nhận mạc khải của Ngài’ (Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế
Tín Lý về Mạc Khải, 5). Đức tin là quà tặng do ân sủng: ‘để lãnh nhận đức
tin trước hết cần phải có ơn Chúa và sự trợ giúp của ơn Chúa; cũng cần
phải có cả việc hỗ trợ nội tâm của Chúa Thánh Linh nữa, Đấng tác động
tâm hồn và qui hướng nó về Thiên Chúa, Đấng mở mắt trí khôn và ban
cho mọi người niềm vui và dễ dàng trong việc ưng thuận và tin tưởng vào
chân lý’” (cùng nguồn vừa dẫn).
 
“Việc tin tưởng tuân phục bao gồm tác động chấp nhận chân lý do Chúa
Kitô mạc khải, căn cứ vào thế giá của Thiên Chúa, Đấng là chính Sự Thật
(x. Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 144): ‘Đức tin trước hết là việc
con người gắn bó bản thân mình với Thiên Chúa. Đi liền với việc này đồng
thời còn là tác động hoàn toàn chấp nhận tất cả sự thật được Thiên Chúa
mạc khải’ (cùng nguồn vừa dẫn, số 150). Thế nên, đức tin, như ‘một tặng
ân của Thiên Chúa’ và như ‘một nhân đức siêu nhiên do Ngài phú bẩm
cho’ (cùng nguồn vừa dẫn, số 153), bao gồm một gắn bó kép đôi, đó là việc
gắn bó với Thiên Chúa là Đấng tỏ mình ra và cả việc gắn bó với sự thật
được Ngài tỏ ra cho biết nữa, một gắn bó kép đôi phát xuất từ lòng tin
tưởng vào Ngài là Đấng phán bảo. Như thế, ‘chúng ta không tin vào một ai
khác ngoài Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần’ (cùng nguồn vừa
dẫn, số 178).
 
“Vì thế, phải nắm vững sự khác biệt giữa đức tin đối thần với niềm tin
nơi các tôn giáo khác. Nếu đức tin là việc theo ơn Chúa chấp nhận chân
lý mạc khải, một thứ chân lý ‘tự mình có thể thấu nhập mầu nhiệm ở chỗ
giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm ấy một cách chặt chẽ’ (Đức Gioan
Phaolô II, Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí, 13), thì niềm tin nơi các tôn giáo
khác là tất cả cảm nghiệm và tâm tưởng làm nên kho tàng khôn ngoan và
nguyện vọng đạo lý của con người, những kho tàng khôn ngoan và
nguyện vọng mà con người, trong lúc đi tìm kiếm chân lý, đã cưu mang
và tác hành trong mối liên hệ với Thiên Chúa và Đấng Tối Cao (cùng
nguồn vừa dẫn, 31-32).
 
“Việc phân biệt này không luôn luôn được thể hiện nơi tâm trí của suy tư
thần học hiện nay. Bởi thế, đức tin đối thần (việc chấp nhận chân lý được
Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi mạc khải) thường bị đồng hóa với niềm
tin nơi các tôn giáo khác, tức với cảm nghiệm tôn giáo vẫn còn đang trên
đường tìm kiếm chân lý tuyệt đối và vẫn chưa có thuận theo Thiên Chúa
là Đấng mạc khải bản thân mình ra. Đó là một trong những lý do tại sao
cái khác nhau giữa Kitô Giáo và các tôn giáo có những lúc như bị giảm
xuống tới mức độ biến mất”.
 
(Tuyên Ngôn, đoạn 7.1, 7.2, 7.3, 7.4)
 
3.   Không có vấn đề khác biệt giữa Đức Giêsu Kitô và Ngôi Lời, cũng như
giữa tác động cứu độ của Ngôi Lời và của Lời Nhập Thể.
 
·        “Nơi suy tư thần học hiện đại thường có khuynh hướng cho Đức Giêsu
Nazarét là một nhân vật lịch sử hạn hữu riêng biệt, Đấng tỏ thần linh ra
không phải một lần duy nhất mà bằng một đường lối cần được bổ
khuyết bởi các nhân vật khải huyền và cứu độ khác nữa. Như thế, Mầu
Nhiệm Vô Cùng, Tuyệt Đối, Tối hậu của Thiên Chúa được tỏ hiện cho
nhân loại thấy bằng nhiều đường lối và nơi nhiều nhân vật lịch sử, trong
số đó có cả Đức Giêsu Nazarét. Cụ thể hơn, một số người còn cho Đức
Giêsu là một trong nhiều bộ mặt được Lời tỏ hiện trong giòng thời gian để
tiếp xúc với nhân loại bằng đường lối cứu độ.
 
“Ngoài ra, để biện minh tính cách phổ quát của ơn cứu độ Kitô Giáo
cũng như sự kiện về việc đại đồng tôn giáo, vấn đề đã được đặt ra
là công cuộc của Lời hằng hữu cũng có tác hiệu cả ở ngoài Giáo Hội và
không có liên hệ gì với Giáo Hội cả, một công cuộc thêm thắt vào công
cuộc của Lời nhập thể. Công cuộc của Lời hằng hữu có một giá trị phổ
quát bao rộng hơn công cuộc của Lời nhập thể là công cuộc chỉ hạn hẹp
nơi thành phần Kitô hữu, cho dù Thiên Chúa có hiện diện tràn đầy hơn
ở công cuộc của Lời nhập thể.

Những luận đề này hoàn toàn trái với đức tin Kitô Giáo. Tín lý đức tin
cần phải được mạnh mẽ tuyên xưng Đức Giêsu Nazarét, con của Đức
Maria, cũng là Con và Lời của Chúa Cha. Lời, Đấng ‘từ ban đầu đã ở nơi
Thiên Chúa’ (Jn 1:2) cũng là Đấng ‘đã hóa thành nhục thể’ (Jn 1:14). Nơi
Giêsu ‘là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống’ (Mt 16:16), ‘toàn thể tầm
mực viên toàn của thần tính ngự trị một cách thể lý’ (Col 2:9). Người là
‘Người Con duy nhất của Cha, Đấng ở trong Cha’ (Jn 1:18), ‘Người Con
yêu dấu của Ngài, nơi Người chúng ta được cứu chuộc... Nơi Người tầm
mức viên mãn của Thiên Chúa hân hoan ngự trị, và qua Người, Thiên
Chúa muốn hòa giải tất cả mọi sự với chính mình Ngài, cả dưới đất cũng
như trên trời, giải hòa bằng máu thập tự giá của Người’ (Col 1:13-14, 19-
20).
 
“Về vấn đề này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã minh nhiên công bố là:
‘Đặt ra bất cứ một vấn đề phân chia nào giữa Lời và Đức Giêsu Kitô đều
trái với đức tin Kitô Giáo... Đức Giêsu là Lời nhập thể – một ngôi vị duy
nhất bất phân... Đức Kitô không là ai khác ngoài Giêsu Nazarét; Người
là Lời Thiên Chúa làm người vì phần rỗi của tất cả mọi người...” (Thông
Điệp Redemptoris Missio, 6). 
 
“Cũng trái với đức tin Công Giáo như vậy nữa khi đặt ra vấn đề phân
chia giữa tác động cứu độ của Lời với tác động cứu độ của Lời hóa thân
làm người. Qua việc nhập thể, tất cả mọi tác động cứu độ của Lời Thiên
Chúa luôn luôn được thực hiện trong mối hiệp nhất với bản tính loài người
được Người mặc lấy vì phần rỗi của tất cả mọi người. Chủ thể duy nhất tác
hành nơi cả hai bản tính, bản tính nhân loại và bản tính thần linh, là ngôi vị
duy nhất của Lời (x Thánh Lêô Cả, Tomus ad Flavianum: DS 294).
 
“Bởi thế, thuyết qui hoạt động cứu độ cho Lời theo thần tính của Người
sau khi nhập thể như vậy, một hoạt động cứu độ được thực hiện ‘thêm
vào’ hay ‘ở ngoài’ nhân tính của Đức Kitô, không hợp với đức tin Công
Giáo (x. Thánh Lêô Cả, Thư gửi Hoàng Đế Lêô I Promisisse me memini:
DS 318 ‘... in tantam unitatem ab ipso conceptu Birginis deitate et
humanitate conserta, ut nec sine homine divina, nec sine Deo agerentur
humana’. Cũng x DS 317)”
 
(Tuyên Ngôn, đoạn 10.1, 10.4, 10.5 và 10.6)
 
4.   Không có vấn đề hoạt động của Chúa Thánh Thần bao rộng hơn, ở ngoài
hay song song với hoạt động của Lời Nhập Thể.
 
·        “Cũng có những người nêu lên giả thiết cho rằng công cuộc của Chúa
Thánh Thần thì bao rộng phổ quát hơn công cuộc của Lời Nhập Thể,
Đấng tử giá và phục sinh. Chủ trương này cũng trái với đức tin Công
Giáo, một đức tin chủ trương ngược lại, ở chỗ, coi việc nhập thể cứu độ
của Lời như là một biến cố của cả Ba Ngôi Thiên Chúa vậy. Theo Tân
Ước, mầu nhiệm về Chúa Giêsu, Lời Nhập Thể, làm nên nơi cho Chúa
Thánh Thần hiện diện cũng như trở thành nguyên lý cho việc tuôn tràn
Thần Linh xuống trên nhân loại, chẳng những vào thời kỳ cứu độ (x Acts
2:32-36; Jn 7:39, 20-22; 1Cor 15:45), mà còn vào cả trước thời gian Người đi
vào lịch sử nữa (x 1Cor 10:4; 1Pet 1:10-12)...
 
“Bởi vậy, Huấn Quyền gần đây của Giáo Hội đã mạnh mẽ và rõ ràng nhắc
lại sự thật về một công cuộc thần linh duy nhất: ‘Sự hiện diện và hoạt động
của Thần Linh chẳng những chi phối cá nhân con người mà còn cả xã hội
và lịch sử, các dân tộc, văn hóa và tôn giáo nữa... Chúa Kitô hiện đang hoạt
động nơi tâm can nhân loại bằng quyền lực của Thần Linh Người... Chính
Thần Linh là Đấng gieo ‘hạt giống lời Chúa’ hiện diện nơi các tập tục và
văn hóa khác nhau, làm cho những lãnh vực này hoàn toàn nên trọn trong
Chúa Kitô’ (Đức Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 28; về
‘hạt giống Lời Chúa’ cũng xem cả Thánh Justine tử đạo, Hộ Giáo Thứ Hai
8, 1-2; 10, 1-3; 13, 3-6; ed. E.J. Goodspeed, 84; 85; 88-89). Trong khi công
nhận sứ vụ cứu độ trong lịch sử của Thần Linh nơi toàn thể vũ trụ cũng
như trong toàn bộ lịch sử nhân loại (cùng nguồn của ĐTC/GPII vừa dẫn,
28-29), Huấn Quyền còn xác nhận: ‘Đây là chính Vị Thần Linh đã hoạt
động trong việc nhập thể, trong đời sống, trong cuộc tử nạn và phục sinh
của Chúa Giêsu, cũng là Đấng hoạt động trong cả Giáo Hội nữa. Bởi thế,
Ngài không phải là một thứ hoán vị thay cho Chúa Kitô, và Ngài cũng
không phải là một thứ khỏa lấp, đôi khi theo người ta nghĩ, giữa Đức Kitô
và Ngôi Lời. Bất cứ những gì Thần Linh làm phát sinh nơi tâm trí con
người cũng như nơi lịch sử của các dân tộc, nơi văn hóa và tôn giáo, đều
giúp vào việc sửa soạn cho Phúc Âm, và chỉ có thể hiểu được trong mối
tương quan với Chúa Kitô là Lời, Đấng đã mặc lấy xác thịt bởi quyền phép
Thần Linh, và, vì là một con người toàn vẹn, Người đã cứu độ toàn thể
nhân loại và thâu tóm tất cả mọi sự’ (cùng nguồn của ĐTC/GPII vừa dẫn,
29).
 
“Tóm lại, hoạt động của Thần Linh không ở ngoài hay song song với
hoạt động của Chúa Kitô. Chỉ có một công cuộc cứu độ duy nhất của một
Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi, được thể hiện nơi mầu nhiệm nhập thể,
nơi cuộc tử nạn và phục sinh của Con Thiên Chúa, được hiện thực nhờ việc
hợp tác của Thánh Linh, và được vươn tới toàn thể nhân loại cùng toàn thể
vũ trụ ở giá trị cứu độ của công cuộc này: ‘Thế nên, không ai có thể được
hiệp thông với Thiên Chúa ngoại trừ qua Chúa Kitô và nhờ hoạt động của
Chúa Thánh Thần’ (cùng nguồn của ĐTC/GPII vừa dẫn, 5)”. 
 
(Tuyên Ngôn, đoạn 12.1, 12..5 và 12.6)
 
5.   Không có vấn đề tương đương hay bổ khuyết cho Chúa Giêsu Kitô trong
vai trò môi giới duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người của Người.
 
·        “Công Đồng Vaticanô II dạy rằng: ‘Vai trò môi giới chuyên biệt của Đấng
Cứu Thế không loại trừ song làm phát sinh việc hợp tác đa diện, một việc
hợp tác với nguồn mạch duy nhất ấy’ (Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium,
62). Nội dung của vai trò môi giới dự phần này cần phải được tìm hiểu sâu
xa hơn nữa, thế nhưng, vẫn phải luôn luôn hợp với nguyên lý của vai trò
làm môi giới chuyên nhất của Chúa Kitô: ‘Mặc dù không loại bỏ những
thể thức môi giới dự phần thuộc các thứ loại hay ở các cấp độ, nhưng
những thể thức môi giới dự phần này chỉ có ý nghĩa và giá trị từ vai trò
môi giới của Chúa Kitô mà thôi, chứ chúng không thể được cho là tương
đương với hay bổ khuyết cho vai trò môi giới của Người’ (Đức Gioan
Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 5). Bởi thế, những luận giải
cho rằng tác động cứu độ của Thiên Chúa ở ngoài vai trò môi giới chuyên
nhất của Chúa Kitô là những luận giải trái với đức tin Kitô Giáo và Công
Giáo”.
 
(Tuyên Ngôn, đoạn 14.2)
 
6.   Không cần phải tránh né việc sử dụng những từ ngữ đã được mạc khải
trong Thánh Kinh.
 
·        “Không phải là ít khi có vấn đề đặt ra rằng thần học phải tránh sử dụng
những từ ngữ như ‘duy nhất tính’, ‘phổ quát tính’ và ‘tuyệt đối tính’,
những từ ngữ có liên quan đến các tôn giáo khác, ở chỗ, chúng gây ấn
tượng về việc quá nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng và giá trị nơi biến
cố cứu độ của Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên, thực tế thì thứ ngôn ngữ này
chỉ phản ánh mạc khải mà thôi, vì nó biểu hiệu cho việc phát triển của
chính các nguồn mạch đức tin. Ngay từ ban đầu, cộng đồng tín hữu đã
nhận biết nơi Chúa Giêsu một giá trị cứu độ, ở chỗ, một mình Người, với
tư cách là Con Thiên Chúa làm người, tử giá và phục sinh, theo sứ vụ được
Cha trao cho và trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, đã ban bố mạc
khải (x Mt 11:27) và sự sống thần linh (x Jn 1:12, 5:25-26, 17:2) cho toàn thể
nhân loại cũng như cho hết mọi người”.
 
(Tuyên Ngôn, đoạn 15)
 
7.   “Giáo Hội Chúa Kitô, mặc dù có những phân rẽ nơi các Kitô hữu, vẫn
tiếp tục hiện hữu một cách trọn vẹn nơi duy một mình Giáo Hội Công
Giáo mà thôi”.
 
·        “Chúa Giêsu, Vị Cứu Thế duy nhất, đã không phải chỉ thiết lập một cộng
đồng môn đệ đơn thuần thôi, mà còn làm cho Giáo Hội thành một mầu
nhiệm cứu độ nữa, ở chỗ, chính Người sống trong Giáo Hội và Giáo Hội
sống trong Người (x Jn 15:1ff; Gal 3:28; Eph 4:15-16; Acts 9:5). Thế nên, tầm
mức viên trọn nơi mầu nhiệm của Chúa Kitô cũng thuộc về Giáo Hội được
hiệp nhất bất khả phân ly với Chúa của mình. Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô
tiếp tục hiện diện và hoạt động cứu độ nơi Giáo Hội và nhờ Giáo Hội (x
Col 1:24-27) (x Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Lumen
Gentium, 14) là thân thể của Người (x 1Cor 12:12-13, 27; Col 1:18) (cùng
nguồn vừa dẫn, 7). Do đó, như đầu và các chi thể trong cùng một thân xác
sống động, mặc dù không đồng nhất với nhau, cũng không thể phân ly
thế nào, Chúa Kitô và Giáo Hội cũng không thể bị lẫn lộn và phân rẽ
như vậy, và cả hai cũng làm nên một ‘toàn thể Chúa Kitô’ duy nhất như
vậy (x Thánh Âu Quốc Tinh, Enarratio in Psalmos, Ps. 90, sermo 2, 1: CCSL
39, 1266; Thánh Gregory Cả, Moralia in Iob, Praefatio, 6, 14: PL 75, 525;
Thánh Thomas Aquinas, Summa Theologiae, III, q. 48, a. 2 ad 1). Tính cách
bất khả phân ly này còn được diễn tả trong Tân Ước qua sự so sánh Giáo
Hội như Hiền Thê của Chúa Kitô (x 2Cor 11:2; Eph 5:25-29; Rev 21:2, 9) (x
Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, 6).
“Bởi thế, trong mối liên hệ với duy nhất tính và phổ quát tính nơi vai trò
môi giới cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, thì duy nhất tính của Giáo Hội do
Chúa Kitô thiết lập phải được tin tưởng một cách vững vàng như là một
chân lý thuộc đức tin Công Giáo. Như chỉ có một Chúa Kitô duy nhất thế
nào, thì cũng chỉ có một thân thể của Chúa Kitô, một Hiền Thê của Chúa
Kitô như vậy, đó là ‘một Giáo Hội Công Giáo và tông truyền duy nhất’
(Symbolum maius Ecclesiae Armeniacae: DS 48. x Boniface VIII, Unam
sanctam: DS 870-872; Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý
Lumen Gentium, 8). Ngoài ra, Chúa đã hứa Chúa sẽ không bỏ rơi Giáo Hội
của Người (x Mt 16:18, 28:20), và Người sẽ hướng dẫn Giáo Hội bằng Thần
Linh của Người (x Jn 16:13), nghĩa là, theo đức tin Công Giáo, duy nhất
tính và việc hiệp nhất của Giáo Hội – giống như tất cả những sự khác
thuộc về toàn thể Giáo Hội – sẽ không bao giờ bị thiếu hụt (x Công Đồng
Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh Unitatis Redintegratio, 4; ĐTC Gioan Phaolô
II, Thông Điệp Ut Unum Sint, 11: AAS 87 năm 1995, 927).
 
“Tín hữu Công Giáo buộc phải tuyên xưng rằng, giữa Giáo Hội được
Chúa Kitô thiết lập và Giáo Hội Công Giáo có một sự liên tục về lịch sử,
được bắt nguồn nơi việc thừa kế tông đồ: ‘Đó là một Giáo Hội Chúa Kitô
duy nhất... một Giáo Hội được Đấng Cứu Thế của chúng ta, sau khi phục
sinh, đã ký thác cho Thánh Phêrô công cuộc mục vụ (x Jn 21:17), bằng việc
truyền cho ngài cũng như cho các Vị Tông Đồ khác phải trông coi và quản
trị Giáo Hội (x Mt 28:18ff), đã dựng nên cho mọi đời thấy như ‘cột trụ và
nền tảng của chân lý’ (1Tim 3:15). Giáo Hội này, được cấu tạo và tổ chức
như là một xã hội trong hiện thế, thuộc hữu nơi Giáo Hội Công Giáo,
một Giáo Hội được cai quản bởi Vị Thừa Kế Thánh Phêrô cùng với các
Vị Giám Mục hiệp thông với ngài’ (Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế
Lumen Gentium, 8). Khi nói đến việc thuộc hữu này, Công Đồng Chung
Vaticanô II muốn dung hòa hai điều về tín lý sau đây: thứ nhất, đó là
việc Giáo Hội Chúa Kitô, mặc dù có những phân rẽ nơi các Kitô hữu, vẫn
tiếp tục hiện hữu một cách trọn vẹn nơi duy một mình Giáo Hội Công
Giáo mà thôi, thứ hai, đó là vấn đề ‘ở ngoài cơ cấu của Giáo Hội cũng có
nhiều yếu tố về vấn đề thánh hóa và chân lý’ (cùng nguồn vừa dẫn như
đoạn 8 trên và cả đoạn 15; x ĐTC Gioan Phaolô, Thông Điệp Ut Unum Sint,
13; cũng xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh Unitatis
Redintegratio, 3), tức là, nơi những Giáo Hội và cộng đồng giáo hội chưa
hoàn toàn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo (x Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin,
Thông Báo về Cuốn ‘Giáo Hội: Đặc Sủng và Quyền Bính’ của Cha
Leonardo Boff: AAS 77 năm 1985, 756-762). Thế nhưng, trong khi tôn trọng
những yếu tố này, cũng cần phải nói là ‘chúng nhận được hiệu năng từ
chính mức độ viên mãn ân sủng và chân lý đã được ký thác cho Giáo Hội
Công Giáo’ (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh Unitatis
Redintegratio, 3).
 
(Tuyên Ngôn, đoạn 16.1, 16.2 và 16.3)
 
“Do đó, chỉ có một Giáo Hội Chúa Kitô duy nhất, một Giáo Hội thuộc
hữu nơi Giáo Hội Công Giáo do Vị Thùa Kế Thánh Phêrô cai quản cùng
với các Vị Giám Mục hiệp thông với ngài (x Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin,
Tuyên Ngôn về Mầu Nhiệm Giáo Hội, 1: AAS 65 năm 1973, 396-
398). Những Giáo Hội, dù không hoàn toàn hiệp thông với Giáo Hội
Công Giáo mà vẫn hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo nhờ những mối
liên kết gắn bó nhất, tức là, nhờ việc thừa kế tông đồ và Bí Tích Thánh
Thể hiệu thành, thì đó là những Giáo Hội riêng biệt thực sự (x Công
Đồng Vaticanô II, Sắc Lệnh Unitatis Redintegratio, 14 và 15; Thánh Bộ Tín
Lý Đức Tin, Letter Communionis Notio, 17: AAS 85 năm 1993, 848). Bởi
thế, Giáo Hội của Chúa Kitô cũng đang hiện diện và hoạt động nơi cả
những Giáo Hội này nữa, mặc dù họ không hoàn toàn hiệp thông với Giáo
Hội Công Giáo, vì họ không chấp nhận tín lý Công Giáo về Thượng
Quyền, một thượng quyền mà, theo ý muốn của Thiên Chúa, Vị Giám Mục
Rôma được khách quan nắm giữ và thi hành trên toàn thể Giáo Hội (x
Công Đồng Chung Vaticanô I, Hiến Chế Pastor Aeternus: DS 3053-3064;
Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 22).
 
“Mặt khác, các cộng đồng giáo hội nào không bảo tồn Hàng Ngũ Giám
Mục được công nhận cũng như bản chất đích thực trọn vẹn của mầu
nhiệm Thánh Thể (x Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh Unitatis
Redintegratio, 22) thì không phải là những Giáo Hội đúng nghĩa; tuy
nhiên, những ai đã lãnh nhận phép rửa trong các cộng đồng này thì, nhờ
Bí Tích Rửa Tội, được tháp nhập với Chúa Kitô, nhờ đó họ cũng thật sự
được hiệp thông với Giáo Hội, mặc dù không trọn vẹn (cùng nguồn vừa
dẫn, 3). Bí Tích Rửa Tội tự mình hướng tới tình trạng phát triển trọn vẹn
đời sống trong Chúa Kitô, qua việc tuyên xưng trọn vẹn đức tin, qua Bí
Tích Thánh Thể cũng như qua việc hoàn toàn hiệp thông với Giáo Hội
(cùng nguồn vừa dẫn, 22).
 
“Thế nên, tín hữu Kitô Giáo không được phép cho rằng Giáo Hội của
Chúa Kitô chỉ là một tổng hợp – bị phân rẽ song một cách nào đó vẫn là
một – bao gồm các Giáo Hội và cộng đồng giáo hội; hay được tự do chủ
trương cho rằng ngày nay Giáo Hội Chúa Kitô thực sự không hiện hữu ở
đâu cả, và phải được coi đó như chỉ là một mục tiêu mà tất cả mọi Giáo
Hội cũng như cộng đồng giáo hội cần phải nỗ lực hướng đến’ (Thánh Bộ
Tín Lý Đức Tin, Tuyên Ngôn Mầu Nhiệm Giáo Hội, 1). Thật vậy, ‘những
yếu tố nơi Giáo Hội sẵn có này hiện hữu được liên kết với nhau theo tầm
mức trọn vẹn của mình nơi Giáo Hội Công Giáo và không trọn vẹn nơi các
cộng đồng khác’ (ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Ut Unum Sint, 14).
‘Thế nên, những Giáo Hội và cộng đồng ly khai này, dù chúng ta tin là họ
có những thiếu sót, vẫn không mất đi ý nghĩa và tầm quan trọng của mình
trong mầu nhiệm cứu độ. Vì Thần Linh của Chúa Kitô không phải là
không sử dụng họ như phương tiện cứu độ với hiệu năng có được từ chính
tầm mức viên trọn ân sủng và chân lý được ký thác cho Giáo Hội Công
Giáo’ (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh Unitatis Redintegratio, 3)”.
 
(Tuyên Ngôn, đoạn 17.1, 17.2 và 17.3) 
 
8.  Không được chối bỏ duy nhất tính nơi mối liên hệ giữa Chúa Kitô và
Giáo Hội với vương quốc của Thiên Chúa.
 
·        “Sứ vụ của Giáo Hội là ‘loan báo và thiết lập nơi tất cả mọi dân nước
vương quốc của Chúa Kitô cũng như của Thiên Chúa, và trên thế gian này,
Giáo Hội là hạt giống và là khởi điểm của vương quốc ấy’ (Công Đồng
Chung Vaticanô II, Hiến Chế Lumen Gentium, 3). Một đàng, Giáo Hội là
‘một bí tích – tức là một dấu hiệu và là dụng cụ cho việc hiệp nhất thân
mật với Thiên Chúa cũng như cho việc hiệp thông với toàn thể nhân loại’
(cùng nguồn vừa dẫn, 1). Bởi thế, Giáo Hội là dấu hiệu và là dụng cụ của
vương quốc này; Giáo Hội được kêu gọi để loan báo và thiết lập vương
quốc này. Đàng khác, Giáo Hội là ‘một dân tộc được qui tụ bởi sự hiệp
nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (cùng nguồn vừa
dẫn, 4; x Thánh Cyprian, De Dominica Oratione 23: CCSL, 3A, 105); bởi
thế, Giáo Hội là ‘vương quốc của Chúa Kitô hiện diện một cách mầu
nhiệm’ (cùng nguồn Công Đồng vừa dẫn, 3), và làm thành mầm mống
cùng khởi điểm cho vương quốc này. Thật vậy, vương quốc của Thiên
Chúa có một chiều kích cánh chung, tức vương quốc ấy là một thực tại
hiện diện trong thời gian, nhưng tình trạng toàn vẹn của nó chỉ được thể
hiện khi lịch sử nên trọn hay hoàn tất mà thôi’ (x cùng nguồn Công Đồng
vừa dẫn, 9; cũng xem kinh nguyện cầu cùng Thiên Chúa trong Didache 9,
4: SC 248, 176: ‘Chớ gì Giáo Hội được qui tụ lại từ tận cùng trái đất để làm
nên vương quốc của Ngài’, và xem cùng nguồn ở 10, 5: SC 248, 180: ‘Lạy
Chúa, xin hãy nhớ đến Giáo Hội của Chúa... và, là một Giáo Hội đã được
thánh hóa, xin Chúa hãy qui tụ Giáo Hội lại từ bốn phương trời để làm nên
vương quốc của Chúa, một vương quốc Chúa đã sửa soạn cho Giáo Hội’).
 
“... Thật vậy, vương quốc của Thiên Chúa như mạc khải tỏ cho chúng ta biết
‘không thể tách khỏi Chúa Kitô hay Giáo Hội... Nếu vương quốc ấy tách
khỏi Chúa Giêsu thì nó không còn là vương quốc của Thiên Chúa được
Người mạc khải cho biết nữa. Như thế ý nghĩa của vương quốc này sẽ bị méo
mó, một ý nghĩa có nguy cơ bị biến thành mục tiêu thuần nhân bản hay ý hệ,
và căn tính của Chúa Kitô cũng bị bóp méo nữa, Đấng sẽ không còn tỏ ra
mình là Chúa Tể mà một ngày kia tất cả mọi sự phải qui phục Người nữa (x
1Cor 15:27). Người ta cũng không thể tách vương quốc này khỏi Giáo Hội.

Đúng, Giáo Hội tự mình thật sự không phải là cùng đích, vì Giáo Hội
hướng về vương quốc của Thiên Chúa, một vương quốc mà Giáo Hội là
mầm mống, là dấu hiệu và là dụng cụ. Tuy nhiên, trong lúc còn xa cách
Chúa Kitô và vương quốc này, Giáo Hội vẫn hiệp nhất bất khả phân ly
với cả hai’ (ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 18; x
Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu, 17: Tuần San L’Osservatore Romano
ngày 7/11. Vương quốc không thể tách khỏi Chúa Kitô đến độ, ở một ý
nghĩa nào đó, được đồng hóa với Người - x Origen, In Mt. Hom., 14, 7: PG
13, 1197; Tertullian, Adversus Marcionem, IV, 33, 8: CCSL 1, 634).
 
(Tuyên Ngôn, đoạn 18.1 và 18.2)
 
“Khi nói đến mối liên hệ bất khả phân ly giữa Chúa Kitô và vương quốc
này thì không được bỏ qua sự kiện là vương quốc của Thiên Chúa – cho
dù có để ý tới vấn đề vương quốc này còn ở trong giai đoạn lịch sử đi nữa
– cũng không đồng hóa với Giáo Hội theo thực tại hữu hình và cơ cấu tổ
chức của Giáo Hội. Thật vậy, không được gạt bỏ ‘tác động của Chúa Kitô
và của Thần Linh ở bên ngoài biên giới hữu hình của Giáo Hội’ (ĐTC
Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 18). Thế nên, người ta
cũng phải nhớ rằng, ‘vương quốc này quan tâm đến hết mọi người, đến cá
nhân, xã hội và thế giới. Hoạt động cho vương quốc này nghĩa là nhận biết
và phát triển việc làm của Thiên Chúa, những việc làm đang hiện diện
trong lịch sử loài người và biến đổi lịch sử loài người. Xây dựng vương
quốc của Thiên Chúa nghĩa là hoạt động cho việc giải thoát con người khỏi
tất cả mọi hình thức của sự dữ. Tóm lại, vương quốc của Thiên Chúa là
việc biểu dương và hiện thực trọn vẹn hoàn toàn dự án cứu độ của Thiên
Chúa” (cùng nguồn vừa dẫn, 15).
 
“Trong việc xét đến mối liên hệ giữa vương quốc của Thiên Chúa, với
vương quốc của Chúa Kitô và với Giáo Hội, cần phải tránh những việc
nhấn mạnh một chiều, như trường hợp của những ‘quan niệm cố ý đề
cao vương quốc và đặt vương quốc này là trọng tâm của mình. Những
quan niệm này nhấn mạnh đến hình ảnh của một Giáo Hội không quan
tâm gì đến bản thân mình, mà chỉ hoàn toàn để ý tới việc làm chứng
nhân và phục vụ vương quốc. Đó là một Giáo Hội cho người khác, như
Chúa Kitô là một con người cho người khác vậy... Ngoài những khía cạnh
tích cực, những quan niệm này thường cho thấy cả những khía cạnh tiêu
cực nữa. Trước hết, chúng không nói gì đến Chúa Kitô, ở chỗ, vương
quốc chúng nói tới đây lấy Thiên Chúa làm chính, vì, theo những quan
niệm ấy, những người không có đức tin Kitô Giáo không thể hiểu được
Chúa Kitô, trong khi các dân tộc, văn hóa và tôn giáo khác nhau có thể gặp
nhau ở cùng một nền tảng chung nơi thực tại thần linh duy nhất, bất cứ
dưới danh xưng nào. Bởi thế, những quan niệm ấy nhấn mạnh đến mầu
nhiệm tạo dựng, một mầu nhiệm được phản ánh nơi tính cách đa văn hóa
và niềm tin, song chúng không nói gì tới mầu nhiệm cứu chuộc cả. Ngoài
ra, những quan niệm ấy còn cho thấy, vương quốc này không dành một
chỗ nhỏ bé nào hết cho Giáo Hội cả, hay chỉ cho Giáo Hội một giá trị rất
thấp để phản lại chủ trương Giáo Hội đã lấy mình làm chủ chốt trong
quá khứ, và vì những quan niệm ấy coi Giáo Hội chính là một dấu hiệu,
một dấu hiệu tất nhiên không thể nào không có tính cách mập mờ’ (cùng
nguồn vừa dẫn, 17). Những luận giải này trái với đức tin Công Giáo, vì
chúng chối bỏ duy nhất tính nơi mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội
với vương quốc của Thiên Chúa”.
 
(Tuyên Ngôn, đoạn 19.1 và 19.2)
 
9.   Không được coi Giáo Hội như là một đường lối cứu độ tương đương hay
cần được bổ khuyết bởi đường lối cứu độ nơi các tôn giáo khác.
 
·        “Từ những gì đã được nói đến trên đây, một số điểm theo đó cần phải
được thần học suy tư trong việc đào sâu vào mối liên hệ giữa Giáo Hội và
các tôn giáo khác đối với ơn cứu độ.
 
“Trước tất cả mọi sự, cần phải vững tin rằng ‘Giáo Hội, hiện nay đang lữ
hành trên trái đất, cần thiết cho phần rỗi, ở chỗ, Chúa Kitô duy nhất là vị
trung gian và là đường lối cứu độ; Người hiện diện đối với chúng ta nơi
thân thể của mình là Giáo Hội. Chính Người đã minh định nhu cầu cần
đến đức tin và phép rửa (x Mk 16:16; Jn 3:5), do đó, Người đồng thời cũng
xác nhận nhu cầu cần đến Giáo Hội mà con người tiến vào qua cửa phép
rửa’ (Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 14;
x Sắc Lệnh Ad Gentes, 7; Sắc Lệnh Unitatis Redintegratio, 3). Điều tín lý
này không được cho là phản lại với ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên
Chúa (x 1Tim 2:4); ‘hai chân lý này cần phải hòa hợp với nhau, tức là
chân lý về cơ hội thực sự cho ơn cứu rỗi nơi Chúa Kitô đối với tất cả
nhân loại và chân lý về nhu cầu cần đến Giáo Hội để được cứu độ’ (ĐTC
Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 9; x Sách Giáo Lý của
Giáo Hội Công Giáo, 846-847)”.
 
(Tuyên Ngôn, đoạn 20.1 và 20.2)
 
“Về vấn đề đường lối Thiên Chúa ban ơn cứu độ của Ngài – một ơn cứu
độ bao giờ cũng được ban phát nhờ Chúa Kitô, trong Thần Linh, và có liên
hệ một cách mầu nhiệm với Giáo Hội – cho cá nhân không phải là Kitô
hữu, Công Đồng Chung Vaticanô II đã thu gọn trong một câu, đó là Thiên
Chúa ban ơn này ‘theo những cách thức chỉ có một mình Ngài biết’ (Công
Đồng Vaticanô II, Sắc Lệnh Ad Gentes, 7). Các thần học gia đang tìm cách
để hiểu rõ ràng hơn vấn đề này. Công việc của họ phải được khích lệ, vì
chắc chắn nó giúp ích cho việc hiểu biết hơn dự án cứu độ của Thiên Chúa
cũng như những cách thức Ngài hoàn thành ơn cứu độ này. Tuy nhiên, từ
những gì đã được nói đến trên đây về vai trò môi giới của Chúa Giêsu Kitô
cũng như về ‘mối liên hệ chuyên nhất và đặc biệt’ (ĐTC Gioan Phaolô II,
Thông Điệp Redemptoris Missio, 18) Giáo Hội có đối với vương quốc của
Thiên Chúa nơi loài người, một vương quốc tự bản chất là vương quốc đại
đồng của Chúa Kitô Cứu Thế, cần phải làm sáng tỏ vấn đề là, nó sẽ trái với
đức tin nếu coi Giáo Hội như một đường lối cứu độ cùng với những
đường lối cứu độ được các tôn giáo khác phác tạo, những đường lối được
coi như bổ khuyết cho Giáo Hội hay thực sự tương đương với Giáo Hội,
cho dù những đường lối này được cho rằng cùng sánh vai với Giáo Hội
để tiến đến vương quốc cánh chung của Thiên Chúa.
 
“Chắc chắn các truyền thống tôn giáo khác nhau đều chất chứa và có
những yếu tố tôn giáo phát xuất từ Thiên Chúa (x Công Đồng Chung
Vaticanô II, Sắc Lệnh Ad Gentes, 11; Tuyên Ngôn Nostra Aetate, 2), và đó
là một phần của những gì ‘Thần Linh mang lại trong lòng người cũng
như nơi lịch sử các dân tộc, nơi các nền văn hóa và nơi các đạo
giáo’ (ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 29). Thật
vậy, một số những kinh nguyện và lễ nghi nơi các tôn giáo khác có thể ở
trong tình trạng sửa dọn cho Phúc Âm, ở chỗ, chúng là những cơ hội hay là
những trợ giúp về huấn giáo trong việc làm cho lòng người mở ra trước tác
động của Thiên Chúa (cùng nguồn vừa dẫn; Sách Giáo Lý của Giáo Hội
Công Giáo, 843). Tuy nhiên, người ta cũng không thể qui cho những thứ
này một nguồn gốc thần linh hay một năng lực cứu độ ex opere
operato (tác hiệu), một năng lực xứng hợp với các bí tích của Kitô Giáo (x
Công Đồng Chung Triđentinô, Decretum de Sacramentis, khoản 8, de
sacramentis in genere: DS 1608). Ngoài ra, cũng không thể bỏ qua vấn đề
là, nếu lệ thuộc vào những mê tín dị đoan hay những sai lầm (x 1Cor
10:20-21), những lễ nghi ấy còn làm ngăn trở cho ơn cứu độ nữa (x ĐTC
Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 55)”.
 
(Tuyên Ngôn, đoạn 21.1 và 21.2)
 
10. Không có vấn đề đạo nào cũng tốt như nhau.
 
·        “Qua việc Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô đã đến, Thiên Chúa muốn
rằng Giáo Hội được Người thiết lập để làm dụng cụ cứu độ toàn thể
nhân loại (x Acts 17:30-31) (x Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế
Lumen Gentium, 17; ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris
Missio, 11). Chân lý đức tin này không làm giảm bớt lòng Giáo Hội chân
thành trọng kính đối với các tôn giáo trên thế giới, trái lại, nó còn đồng
thời cho thấy một cách sâu xa cái ý hệ chiết trung ‘làm nên đặc tính của
khuynh hướng tương đối về đạo giáo, khiến cho người ta tin tưởng rằng
đạo nào cũng tốt như nhau’ (ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp
Redemptoris Missio, 36). Nếu thực sự tín đồ của các tôn giáo khác cũng có
thể lãnh nhận ân sủng thần linh, thì phải tin rằng, khách quan mà nói, họ
đang ở trong một tình trạng thiếu hụt trầm trọng, nếu so với thành phần
thuộc về Giáo Hội với đầy đủ những phương tiện cứu độ (x Đức Piô XII,
Thông Điệp Nhiệm Thể: DS 3821)…. Tuy nhiên, ‘tất cả mọi con cái của
Giáo Hội vẫn phải nhớ rằng tình trạng mình được nâng lên như vậy không
phải là do công nghiệp riêng của mình, mà là do ân sủng của Chúa Kitô.
Nếu họ không đáp lại ân sủng ấy trong tư tưởng, lời nói và việc làm, thì
chẳng những họ không được cứu độ mà còn bị xét xử nghiêm thẳng nữa’
(Công Đồng Chung Vaticanô II, 14)”.
 
Tóm lại, qua những điểm chính yếu được phân tích, tóm gọn và nhấn mạnh
trên đây, chúng ta thấy rằng Bản Tuyên Ngôn thiên về, nếu không muốn nói
là “đụng đến”, vấn đề Đối Thoại Liên Tôn nhiều hơn là vấn đề Đại Kết Kitô
Giáo (trong vỏn vẹn có 2 trong số, đó là số 16 và nhất là 17). Thế nhưng, trong
số 22.2, tức ngay trước khi sang phần kết của bức văn kiện, Bản Tuyên Ngôn
đã nói đến chính chủ trương của Giáo Hội về vấn đề Đối Thoại Liên Tôn
trong sứ mệnh truyền giáo của mình như sau:
 
·        “Trong cả việc đối thoại liên tôn nữa, việc truyền giáo ad gentes (cho muôn
dân) ‘ngày nay cũng như tất cả mọi lúc vẫn còn nguyên hiệu lực và khẩn
thiết’ (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh Ad Gentes, 7). ‘Thật vậy,
Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý
(1Tim 2:4); tức là, Thiên Chúa muốn ơn cứu độ của mọi người qua việc họ
nhận biết chân lý. Ơn cứu độ được tìm thấy nơi chân lý. Những ai nghe
theo những tác động của Thần Linh chân lý thì đang đi trên con đường
cứu độ rồi vậy. Thế nhưng, Giáo Hội được trao phó chân lý này cho phải
ra đi để đáp lại lòng ước vọng của họ để mang họ về với chân lý. Vì tin
vào dự án cứu độ phổ quát của Thiên Chúa mà Giáo Hội phải là truyền
giáo’ (Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, 851 và xem cả các số 849-856).
Thế nên, việc đối thoại liên tôn, vì là một phần trong sứ mệnh truyền bá
phúc âm hóa, chỉ là một trong những hoạt động của Giáo Hội trong việc
truyền giáo ad gentes của Giáo Hội (x ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp
Redemptoris Missio, 55; Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu, 31). Vấn đề
bình đẳng, vấn đề dĩ nhiên cần phải có trong việc đối thoại liên tôn, chỉ
liên quan đến phẩm vị ngang nhau theo nhân bản giữa đôi bên đối
thoại, chứ không liên quan đến nội dung của vấn đề tín lý, lại càng
không liên quan đến vị thế của Chúa Giêsu Kitô – Đấng là chính Thiên
Chúa làm người – so với những vị sáng lập các đạo giáo khác. Theo đức
bác ái và lòng tôn trọng tự do của con người (x Công Đồng Chung
Vaticanô II, Tuyên Ngôn Dignitatis Humanae, 1), Giáo Hội cần phải ưu
tiên dấn thân trong việc công bố cho tất cả mọi người chân lý đã được
Chúa hoàn toàn mạc khải cho biết, và loan báo nhu cầu con người cần phải
trở về cùng Chúa Giêsu Kitô cũng như phải liên kết với Giáo Hội qua Bí
Tích Rửa Tội cùng các bí tích khác, để nhờ đó họ có thể tham dự trọn vẹn
vào mối hiệp thông với Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. Như
thế, việc tin tưởng vào ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa chẳng
những không làm suy yếu mà trái lại còn làm tăng thêm nhiệm vụ và
động lực để loan báo ơn cứu độ và việc hoán cải trở về cùng Chúa Giêsu
Kitô nữa”.
 
Trong Chương Trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống trên làn sóng 106.3 FM
Nam California ngày 24/9/2000 và 1/10/2000, tôi đã thứ tự chia sẻ hai cảm
nhận của tôi về Bản Tuyên Ngôn này như sau:
 
Cảm nhận thứ nhất về nội dung của chính bản văn kiện qua nhan đề của nó:
 

·        “Đúng thế, Bản Tuyên Ngôn này có tựa đề là ‘Dominus Jesus’, tiếng Việt
nghĩa là ‘Chúa Giêsu’. Nếu đọc kỹ nội dung của toàn văn kiện này, người
ta hiểu ngay tại sao bản văn có tên là ‘Chúa Giêsu’. Theo tôi, ‘Giêsu’ là tên
của một con người lịch sử ở Nazarét hai ngàn năm trước, Con Người này
là con của bà Maria và bác thợ mộc Giuse (xem Mt 13:55; Mc 6:3). Và
‘Chúa’ đây chẳng những ám chỉ đến nguồn gốc thần linh của Con Người
mang tên Giêsu này là Vị Thiên Chúa nhập thể, mà còn ám chỉ đến vai trò
thượng tôn và uy quyền tuyệt đối của Con Người Giêsu Kitô’ (1Tim 2:5) ấy
nữa, trên mọi tạo vật nói chung và trên toàn thể loài người nói riêng”.
 
Cảm nhận thứ hai về chiều hướng của bản văn kiện đối với vấn đề đối thoại
liên tôn theo chủ trương của Giáo Hội:
 
·        “Thái độ trước nhất của Giáo Hội trong vấn đề Đối Thoại Liên Tôn là kính
trọng các tôn giáo khác và công nhận nơi các đạo khác có những mầm
mống Thần Linh để sửa soạn cho hạt giống Phúc Âm của Chúa Kitô. Thái
độ thứ hai là việc nỗ lực hội nhập văn hóa, tức là làm sao để gieo rắc hạt
giống Phúc Âm vào lòng đạo của con người để hạt giống Phúc Âm biến
đổi và thăng hóa những khiếm khuyết nơi niềm tin tự nhiên của con
người. Thái độ thứ ba là cùng với các đạo giáo trên thế giới hết sức cổ võ
và tích cực hoạt động cho công lý và hòa bình để xây dựng một cộng đồng
nhân loại an vui hạnh phúc. Đó là ba thái độ chính yếu của Giáo Hội liên
quan đến vấn đề Đối Thoại Liên Tôn.
 
“Còn vấn đề cùng nhau ngồi xuống để tìm hiểu giáo thuyết của nhau, theo
Bản Tuyên Ngôn ở đoạn áp kết, đã nêu lên vấn đề bình đẳng, nhưng là
một bình đẳng về phẩm vị nhân bản của hai bên đối thoại mà thôi, chứ
không phải tương đương nhau về nội dung của giáo thuyết hay thân phận
của vị giáo tổ.
 
“Thật vậy, điều kiện thiết yếu để có việc đối thoại liên tôn và tiến đến việc
đối thoại liên tôn thực sự chính là ở vấn đề ‘không phải đạo nào cũng tốt
như nhau’, nghĩa là phải hoàn toàn phủ nhận chủ trương hòa đồng tôn
giáo cho rằng ‘đạo nào cũng là đạo’. Nếu ‘đạo nào cũng là đạo’ thì cần gì
phải đối thoại nữa. Nếu đạo nào cũng là đạo thì tại sao anh theo đạo của
anh bây giờ mà không theo đạo khác. Nếu ‘đạo nào cũng là đạo’ thì tôi
theo đạo có thể vì nể nang hay vì cảm thấy vui thích, hoặc vì nhu cầu tâm
linh đòi hỏi v.v., thì một lúc nào đó, bị mất lòng hay thấy buồn chán hoặc
không cần nữa thì bỏ đạo hay sao? Như thế, có khác gì đạo chỉ là một trò
chơi, một thứ trang sức, một thứ xa xỉ phẩm của con người.
 
“Bởi vậy, theo lời Chúa Kitô phán: ‘Không phải các con đã chọn Thày mà
là Thày đã chọn các con để các con đi sinh hoa kết trái’ (Gioan 15:16), Kitô
hữu chúng ta theo Người là vì chúng ta nhận biết Người và chấp nhận
Người ‘là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’ (Gioan 14:6): ‘Lạy Thày, chúng
con còn biết theo ai, Thày có những lời ban sự sống đời đời’ (Gioan 6:68).
 
“Theo tôi, một đạo xứng danh phải là một đạo không có những gì phản
nhân bản, như không có vấn đề cho phép đa thê, và một đạo chân thật
phải là một đạo chẳng những có sức cứu độ con người khỏi tội lỗi và sự
chết mà còn làm cho họ được sống viên mãn hơn, trong việc làm cho con
người theo đạo  hăng say dấn thân phục vụ tha nhân đến cùng, dù có bị
bắt bớ vì việc lành ấy chăng nữa. Như thế, theo nguyên tắc, con người
hướng về tôn giáo thế nào, thì trên thực tế, tôn giáo cũng hướng về con
người như vậy.
 
“Nếu vấn đề đối thoại liên tôn không phải là vấn đề con người hướng về
tôn giáo hơn là vấn đề tôn giáo hướng về con người, thì việc đối thoại liên
tôn chính là một hành động con người đang tỏ ra tinh thần đoàn kết với
nhau hơn bao giờ hết”.
 
(Bản Tuyên Ngôn được trích dịch từ L’Osservatore Romano ấn bản Anh ngữ,
6/9/2000;

tin tức về buổi họp báo để ban hành văn kiện được lấy từ Hệ Điện Toàn Cầu
Vatican Information Services ngày 5/9/2000)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp và chuyển dịch

You might also like