Professional Documents
Culture Documents
-
15 – Chỉ nhờ đức tin
- Barth đồng ý rằng trong tiến trình công chính hóa, vấn đề không nằm ở phía sự công chính của
TC vì rõ ràng đây thực sự là món quà, sự tha thứ mà TC ban tặng nhưng không cho con người;
nhưng Ngài cũng muốn một thứ từ phía con người, đó là lòng tin. Điều đòi hỏi đó được thấy trong
Thánh Kinh. Một điều rõ ràng là lòng tin đó có giá trị là do TC ban cho nó 1 giá trị chứ không phải
nó có giá trị tự thân (IV/l, 615).
- chúng ta chỉ nhờ vào đức tin mới có thể nhận biết một người được công chính hóa là thực tại
thực sự chứ không phải là một ý tưởng, ảo giác hay mầu nhiệm nào đó. (IV/1, 608-614).
- Đức tin là sự ý thức, thừa nhận, và đón nhận bản án của TC dành cho con người. đức tin ấy được
nhận thấy nơi con người khiêm tốn nhìn nhận bản án mà TC dành cho mình và ghê tởm sự kiêu
ngạo nơi chính mình. Không phải người ấy hết là người kiêu ngạo nhưng người ấy biết và ghê tởm
sự kiêu ngạo nơi chính người ấy. Đức tin đó không phải là sự khiêm nhường cá nhân hay sự khiêm
nhường bị ép buộc. Đức tin đúng hơn là sự tự nguyện vâng phục. Đó có thể coi là một sự tuyệt
vọng đầy tin tưởng (IV/1, 614-621).
- Đức tin đang nói ở đây là đức tin “công chính hóa” mà trung tâm điểm của nó là sự liên kết của
nó với sự công chính hóa.
- Đối với đức tin nói chung, xem đức tin và Lời Chúa (I/1, 260-283); đức tin như sự hiểu biết về
Thiên Chúa (I1/1, 3-254); niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa (III/1, 3-41); đức tin và sự quan
phòng (III/3, 246-253); đức tin và Giáo hội (IV/1, 650-660).
- Đối với Barth, sự công chính hóa duy nhờ đức tin có nghĩa là gì? Điều đó có nghĩa là đức tin đối
lập với mọi công trạng (works). Hai tuyên bố: (1) không có công trạng nào của con người (thậm chí
ngay cả đức tin) được coi là công chính của con người; (2) người tin là người được TC công chính
hóa. Cái tuyên bố thứ 2 giả định cả cái thứ nhất rồi. (IV/1, 621).
- (IV/1, 621): không có công trạng nào, dù cho là điều luật đòi buộc người ta khiến người ta thấy
mình là tốt hay công chính. đó tuyên bố của thánh Phaolo và của nhóm cải cách. Công trạng ở đây
đối với Barth là suy nghĩ, lời nói và hành động của một tội nhân. Đức tin xét như một sự khiêm
nhường vâng phục thì chối bỏ mọi năng lực hay giá trị của bất kỳ việc gì mình làm.
- (I/1, 280-283; IV/1, 629-633): Lý do sâu xa nhất của việc công chính duy đức tin chính là ĐKT,
Đấng được công chính hóa và là Đấng công chính. Đức tin là tin vào Ngài. Đức tin ấy được công
chính hóa trong mức độ mà nó nhận ra sự công chính đến từ ĐKT như là tuyến bố của TC; và trong
mức độ nó chờ đợi mọi thứ ân sủng từ ĐKT mà không có gì từ chính nó cả.
- Điều này không có nghĩa là nhờ đức tin tự thân mà con người tự công chính hóa mình.
- Barth biết rằng Phaolo hiểu và trân trọng, không phủ nhận những công việc (works) của những
người Do Thái thực hành theo luật cựu ước. Barth cũng hiểu điểm yếu đó của nhóm Cải Cách ở
đoạn (IV/1, 622f.) sau đây: có nhiều điều để nói về GHCG và thần học CG hơn là những gì Luther
đã nói; dù sao chúng ta cũng không cần ràng buộc chính mình vào những gì họ nói.
comment: như thế, nếu hiểu theo Tin Lành, vì tôi tin nên tôi làm và điều tôi làm đó là nhờ ân sủng
Chúa ban nên tôi phải cám ơn Chúa. Đối lại, Công giáo hiểu việc làm tốt có một giá trị trước mặt
Chúa. Lối hiểu này cần được hiểu trong bối cảnh sự cộng tác của con người với ân sủng Chúa chứ
không thể hiểu theo nghĩa là mọi việc tốt đó là do duy con người làm được (lối hiểu đó là theo
Pêlagio và có nguy cơ lan rộng trong giáo hội hôm nay).
32- Soli Deo Gloria – Duy Vinh Quang TC
- Ở cuối chương 29 đã nói, nếu sự công chính là phán quyết của TC dành cho cái chết và sự phục
sinh của ĐKT thì không hề có sự cộng tác nào của con người. Sự công chính là công trình của riêng
mình TC trong ĐKT mà thôi. Duy một mình TC làm người là ĐKT mới là Đấng Cứu độ. Nhờ duy một
mình ĐKT, con người mới được cứu độ. Ở điểm “cộng tác” này, K. Barth đã hiểu lầm ý của CĐ
Trento. CĐ Trento không hề muốn nói “sự cộng tác” này ở bình diện khách quan của công trình
cứu độ (x.D 794), cho bằng ở góc độ chủ quan trong tiến trình cứu độ (D.795, 797).
- Sự “chủ quan” trong công trình cứu độ được hiểu thế nào? CĐ khởi đi từ việc tội nhân không thể
có khả năng tự công chính hóa (D.811-3). Tuy nhiên, nhờ ân sủng của TC, con người trở nên năng
động
Hans Urs Von Balthasar, The Theology of Karl Barth, Ignatius Press, 1992,
Part II – 4.5 (Sin)
- Sin as “impossible possibility”
- Tội là mâu thuẫn tự nội tại bản chất của thụ tạo vốn tạo ra khoảng cách giữa thụ tạo với
TC. Tuy nhiên, mầu nhiệm ĐKT, TC cứu chuộc con người đã bao trùm trên sự mâu thuẫn
ấy.
o There is no Fall from God in Adam and no judgment of death that does not have its
origin at the point where man, already reconciled to God in Christ, has been
promised life. . . . Dialectics is the movement of the second moment against the
first, the turning or reorientation of the first to the second, the victory of the
second over the first. (The Epistle to the Romans
- Tội hủy hoại bản tính con người cách hoàn toàn và chỉ trong ĐKT, một sự phục sinh mới
hoàn toàn cho con người được thực hiện.
- Con người tội lỗi không thể nào thoát khỏi tình trạng tồi tệ của mình mà chỉ có thể thoát
được nhờ vào tình thương ân sủng của TC. Trong ĐKT, không hề có sự chống đối TC mà chỉ
có sự vâng phục tuyệt đối. Nhờ đó, trong ĐKT, có sự giao hòa giữa con người với TC.
- Chỉ trong ĐKT thì một người mới được hòa giải với TC. Dù cho người ấy nói mình là anh em
của ĐKT mà chống lại TC thì người ấy tự mâu thuẫn với chính mình và chuốc lấy hình phạt.
Part III – 4. (grace and sin theo Catholic)
- Ân sủng là sự tự tỏ lộ chính mình của TC cho con người. TC không thể thông ban chân lý
mà không để con người tiếp cận đến chính Người.
- Việc TC thông ban chính mình cho con người là một biến cố đã thực sự xảy ra và làm biến
đổi bản thể của con người. Bởi lẽ nếu không, TC vẫn luôn ở trên cao và con người sa ngã
vẫn mãi luôn nằm sâu dưới vực thẳm của thế giới tội lỗi.
- Tuy nhiên, tín lý GHCG dạy con người cũng cần chuẩn bị mới có thể đón nhận được ân
sủng của TC.
- …
Part III và IV về tư tưởng của K. Barth (websites)
- Nền tảng của thần học phải được tìm thấy ở chỗ (loci) bền vững hơn là nơi con người thụ
tạo. Nó luôn có 2 mặt: devine và creaturely; tức là luôn nằm trong tương quan giữa sự
thánh thiêng và thụ tạo. Điều đó chỉ có thể tìm được nơi ĐKT, Thiên Chúa thật và là người
thật.
- Nói về học thuyết của Barth, mọi thứ đều liên hệ đến ĐKT. Một số thuật ngữ sau cũng cần
được chú ý: mặc khải, tuyển chọn, sáng tạo và hòa giải.
- Mặc khải:
o Chính là ĐKT
o Không phải là việc TC tỏ mình qua tự nhiên
o Không phải là kinh nghiệm chủ quan của con người
o Thậm chí không phải là Thánh Kinh
o Ta vẫn có thể phân loại 3 hình thức của Lời Chúa: (1) mặc khải uyên nguyên là ĐKT,
còn (2) Kinh Thánh chỉ là mặc khải thứ cấp; và (3) Lời Chúa còn nói cho riêng mỗi
người, mặc khải trong ĐKT. Kinh Thánh không chỉ là mặc khải mà còn chỉ đến sự
mặc khải của TC trong ĐKT. Kinh Thánh không phải là mặc khải bất khả sai lạc của
TC nhưng là minh chứng cho ĐKT, mặc khải không bao giờ sai lạc của TC.
- Tuyển chọn (election)
o McCormack nói rằng với Barth thì hành động tuyển chọn của Thiên Chúa đi trước
và cấu thành nên Ngài như là Một vị TC Ba Ngôi.
o K. Barth có chiều hướng theo thuyết tiền định, giống dạng căn bản chống người
Viking thời công đồng Calcedonia. Trong đó, một số người được TC tiền định chọn
và cứu. Ở đây là ĐKT, Đấng vừa là TC tuyển chọn, vừa là người được tuyển chọn.
o Trong ĐKT, tất cả mọi người được chọn.
o Hai khía cạnh: chịu sỉ nhục và được tôn vinh là 2 giai đoạn ứng với thời gian con
người sa ngã và giai đoạn sau là được cứu nhờ ĐKT.
- Sáng tạo
o Barth phân biệt ra thành: Tạo hóa, thụ tạo và hành động sáng tạo
o Với Barth, CKT là chủ thể (thiên tính), đối tượng (nhân tính) và cũng là hành động
sáng tạo (sự nối kết).
- Hòa giải
o John Murray phân chia sự hòa giải này thành 2 phần: hoàn tất (điều ĐKT đã trải qua
trong lịch sử) và ứng dụng (công trình của ĐKT tác động trên tôi bởi CTT).
o Thần học nhóm Cải Cách truyền thống thì cho đó đều là công trình của TC và ĐKT
hoàn tất cuộc vượt qua và phục sinh để ban ơn cứu độ 1 lần là đủ và áp dụng ơn
cứu độ cho hết thảy mọi người, bất kể trước hay sau ĐKT lịch sử.
o Với Barth, ĐKT vừa là Đấng Cứu Chuộc, vừa là người được cứu chuộc.
- Với Barth, mọi thần học đều quy về Ki-tô học.
- Thời gian và vĩnh cửu, Thiên Chúa và tạo vật đều được diễn tả trong hành động siêu
nghiệm. hành động được thực hiện trong thời gian siêu nghiệm được gọi là “thời gian của
TC dành cho chúng ta”. Đó không phải là thời gian của chúng ta, cũng không phải là vĩnh
cửu.
- ĐKT là siêu vượt trên thời gian
Karl Barth là một thí dụ tiêu biểu cho lập trường này, ông đã giản lược nhân học vào Kitô học. Theo
ông, nhân học không khác với Kitô học bởi lẽ những gì đích thực là con người thì chúng ta biết được nơi
Đức Kitô, con người đúng nghĩa, con người theo như Thiên Chúa đã muốn và đã dựng nên. Bởi vậy, tìm
hiểu Đức Kitô cũng có nghĩa là chúng ta đang xây dựng khoa nhân học đích thực, đối với những gì chúng ta
biết được về con người ngoài Đức Kitô thì đó chỉ là con người hình bóng, không có giá trị gì. Lập trường của
K.Barth có tích cực là đề cao vai trò của Đức Kitô trên vũ trụ và nhất là con người. Tuy nhiên cũng có những
nguy cơ gắn liền với một lập trường như thế. Thực tế cho thấy, trước khi biết Đức Kitô thì người ta đã biết
điều gì đó về con người rồi bằng chính kinh nghiệm của mình, bằng những suy tư triết học. K.Barth đã loại
trừ tất cả những tri thức ấy thay vì hội nhập chúng vào trong sự nhận thức mà Đức Kitô đem lại. Nói chung,
lập trường của Barth không tôn trọng tính hiện thực và sự tự lập tương đối của thụ tạo (sự tự lập của các
thụ tạo – chúng có thể đứng trên đôi chân của mình, vật nào chiếm sự hữu cho riêng nó thì hiện hữu) hay
bình diện “tự nhiên”. Thực ra, ân sủng không phá đổ hay nuốt chửng tự nhiên, nhưng kiện toàn nó, cả khi
bản tính tự nhiên hiệu hữu là do ân sủng (ân sủng bất thụ tạo) và hướng đến ân sủng (ân sủng siêu nhiên)
đi nữa thì cái trật tự của thế giới tạo thành này cũng không dẫn xuất từ mặc khải hay ân sủng (ân sủng
không làm nên bản chất của các thụ tạo). Ađam tiên khởi có một bản tính được xác định dù rằng Ađam thứ
hai là nền tảng và cùng đích của bản tính ấy (Đức Kitô đến để cho thấy đâu là mức độ thành toàn cao nhất
mà bản tính ấy có thể vươn đến). [K.Barth: “Tội lỗi là điều có thật trong thực tế nhưng lại là cái bất khả xét
theo quan điểm hữu thể học – tội lỗi chỉ xuất phát đối với con người đích thực, mà Đức Kitô là con người
đích thực, mà Đức Kitô không có bóng dáng tội lỗi, nên tội lỗi không có nơi những con người hình bóng].
Paul O’Callaghan - Children of God in the World_ An Introduction to Theological Anthropology (2016, The
Catholic University of America Press)
Barth, K., 74–76, 79, 93, 95–96, 98, 106, 219, 221, 223,
265–67, 275, 294, 310, 398, 425, 436–37, 532–33, 569