Professional Documents
Culture Documents
Phân tích chỉ số an ninh năng lượng Việt Nam giai đoạn
2005-2017 và đề xuất một số hướng giải pháp đảm bảo an
ninh năng lượng Quốc gia giai đoạn 2020-2025
HÀ NỘI, 12/2019
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn toàn thể thầy
cô giáo trong bộ môn Kinh tế công nghiệp thuộc Viện Kinh tế và Quản lí trường Đại
học Bách Khoa Hà Nội đã giảng dạy, trang bị cho em những kiến thức nền tảng, cung
cấp cho em các kiến thức cũng như kỹ năng để em có thể hoàn thành tốt quá trình học
tập cũng như tích lũy kinh nghiệm để bươc từng bước vào con đường tương lai phía
trước.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo TS Phạm Cảnh Huy là người đã trực
tiếp hướng dẫn em tận tình giúp em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè là nguồn động viên to lớn
về vật chất và tinh thần, giúp đỡ em vượt qua những khó khăn trong suốt thời gian học
tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Vì trình độ hiểu biết và thời gian nghiên cứu của em có hạn nên khóa luận này
không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô
giáo để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tóm tắt nội dung khóa luận
Khóa luận tốt nghiệp gồm 3 phần chính: Phần 1 tổng quan, cung cấp kiến thức
chung về năng lượng, các kiến thức, thông tin, yếu tố ảnh hưởng đến an ninh năng
lượng. Phần 2 đi sâu vào việc phân tích các chỉ số an ninh năng lượng có đề cập đến
từ phần 1. Phân tích từ các yếu tố cấu thành nên các chỉ số an ninh năng lượng đến đi
sâu vào việc phân tích các chỉ số cũng như phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến an
ninh năng lượng. Từ việc phân tích các chỉ số an ninh năng lượng, từ đó ta xác định
được phương hướng, giải pháp để đề xuất các biện pháp đảm bảo an ninh năng lượng
quốc gia trong tương lai và cụ thể là giai đoạn 2020-2025. Bài khóa luận trình bày
khái quát, cơ bản tình hình an ninh năng lượng quốc gia giai đoạn 2005 – 2017. Để từ
các chỉ số phân tích nêu ra từng bước xây dựng, đề xuất giải pháp đmả bảo an ninh
năng lượng, bền vững và phát triển năng lượng cũng như kinh tế, xã hội của đất nước
trong tương lai.
Lời mở đầu................................................................................................................... 1
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về an ninh năng lượng và phương pháp phân tích các
chỉ số an ninh năng lượng...........................................................................................4
2.1 Tổng quan tình hình năng lượng Việt Nam giai đoạn 2005 - 2017....................11
2.1.1 Tiêu thụ năng lượng Việt Nam giai đoạn 2005 - 2017...........................................11
2.1.2 Tổng nguồn cung năng lượng Việt Nam giai đoạn 2005-2017...............................13
2.1.3 Xuất/Nhập khẩu năng lượng Việt Nam giai đoạn 2005-2017.................................16
2.2 Phân tích các chỉ số an ninh năng lượng............................................................19
2.2.1 Phân tích tổng quát ESI – Chỉ số an ninh năng lượng............................................19
2.2.2 Phân tích chỉ số DPES – Chỉ số đa dạng hóa các dạng năng lượng........................37
2.2.3 Phân tích chỉ số NEID – Chỉ số phụ thuộc năng lượng nhập khẩu.........................39
2.3 Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số an ninh năng lượng.........................40
2.4 Đánh giá chung tình hình an ninh năng lượng Quốc gia giai đoạn 2005-2017. .41
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp đảm bảo an nin năng lượng Quốc gia giai
đoạn 2020-2025..........................................................................................................44
3.1 Dự báo tình hình năng lượng Việt Nam giai đoạn 2020-2025...........................44
3.2 Đề xuất một số giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng Quốc gia giai đoạn 2020-
2025............................................................................................................................. 48
3.2.2 Phát triển đa dạng hóa các nguồn năng lượng.........................................................48
3.2.3 Cải thiện chỉ số năng lượng không gây ô nhiễm (CFEP)........................................54
Tài liệu tham khảo.....................................................................................................60
PHỤ LỤC................................................................................................................... 61
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
An ninh năng lượng được coi là “chìa khóa” để các quốc gia tránh được nguy cơ
tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào vấn đề năng lượng và đáp ứng được mục tiêu phát
triển thiên niên kỷ của Cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, việc sử dụng năng lượng ngày
càng nhiều đã tác động tiêu cực đến sự phát triển, làm cho trái đất nóng lên, tăng phát
thải khí nhà kính.
An ninh năng lượng là một trong những vấn đề ưu tiêu hàng đầu tại Việt Nam
hiện nay. Trong bối cảnh các nguồn năng lượng không tái tạo đang khan hiếm hiện
nay (than, dầu, khí,…) cùng với sự phát triển của các nguồn năng lượng tái tạo gây
ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế xã hội cũng như việc bảo đảm an ninh năng lượng là
vấn đề thiết yếu, cấp thiết đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2050 đề ra mục tiêu phấn đấu đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cho nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể đến năm 2020 đạt khoảng 100- 110 triệu TOE
năng lượng sơ cấp và khoảng 310- 320 triệu TOE vào năm 2050.
Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia điều chỉnh giai đoạn 2011- 2020 có xét
đến năm 2030 đặt ra các mục tiêu cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng cho
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với mức tăng GDP bình quân khoảng
7,0%/năm trong giai đoạn 2016- 2030. Theo đó, dự kiến đến năm 2020, tổng công
suất các nhà máy điện khoảng 60.000 MW, định hướng đến năm 2030, con số này đạt
khoảng 129.500 MW.
Thực tế đòi hỏi chúng ta tiếp tục phát triển các nguồn năng lượng một hài hòa,
hợp lý, trên cơ sở bảo đảm phát triển của cả nước trong các lĩnh vực kinh tế- xã hội,
đồng thời gắn với yếu tố bảo vệ môi trường, chất lượng tăng trưởng trên thực tế.“Đảm
bảo an ninh năng lượng - Nền tảng phát triển bền vững” Nhu cầu và áp lực bảo đảm
an ninh năng lượng trong bối cảnh hiện nay cũng như những thách thức giữa tăng
trưởng kinh tế và an ninh năng lượng, các chính sách và giải pháp thúc đẩy phát triển
năng lượng tái tạo ở Việt Nam.
Năng lượng là đầu vào thiết yếu phục vụ cho nhu cầu sản xuất, sinh hoạt, phát
triển kinh tế xã hội của cả nước. Việc sử dụng tiết kiệm hiệu quả là yếu tố cần thiết
đang được áp dụng và đẩy mạnh trong thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay.
Chính vì những lý do nêu trên em đã chọn đề tài: “Phân tích chỉ số an ninh
năng lượng Việt Nam giai đoạn 2005-2017 và đề xuất một số hướng giải pháp
đảm bảo an ninh năng lượng Quốc gia giai đoạn 2020-2025 ”, làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Cho tới nay, an ninh năng lượng không còn là vấn đề mới mẻ, lạ lẫm ở Việt
Nam. Tuy nhiên, các bài nghiên cứu về tình hình an ninh năng lượng chủ yếu chỉ chỉ
ra được một phần về tình hình sử dụng năng lượng cũng như các biện pháp đảm bảo
an ninh năng lượng quốc gia trên một hướng tiếp cận chưa bao gồm tổng quát toàn bộ
tình hình năng lượng quốc gia cũng như không có các tính toán về các chỉ số an ninh
năng lượng cụ thể.
3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: chỉ số an ninh năng lượng quốc gia giai đoạn 2005-2017
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Đánh giá được tầm quan trọng, vai trò của an ninh năng lượng đối với
quốc gia.
Xác định và đánh giá các chỉ số an ninh năng lượng
Phạm vi nghiên cứu đề tài: Xác định, tính toán các chỉ số an ninh năng lượng
thông qua các số liệu thu thập được trong thời gian thực tập
4. Dữ liệu nghiên cứu
- Các dữ liệu được cũng cấp khi thực tập tại Viện Dầu khí Việt Nam
- Các dữ liệu thu thập được từ các bài báo, bài nghiên cứu khoa học có liên quan
đến đề tài nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp phân tích các chỉ số riêng lẻ và phương pháp phân
tích chỉ số tổng hợp ESI.
6. Kết cấu bài khóa luận
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về an ninh năng lượng và phương pháp phân tích các
chỉ số an ninh năng lượng
Chương 2: Phân tích chỉ số an ninh năng lượng Việt Nam giai đoạn 2005-2017
Chương 3: Đề xuất một số hướng giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng Quốc
gia giai đoạn 2020-2025
Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về an ninh năng lượng và phương pháp
phân tích các chỉ số an ninh năng lượng.
1.1 Cơ sở lý thuyết về an ninh năng lượng.
1.1.1 Khái niệm năng lượng.
Theo nghĩa chung nhất, năng lượng được hiểu là tất cả các tài nguyên thiên
nhiên, nhiên liệu có khả năng chuyển hóa thích hợp để đáp ứng nhu cầu của quá trình
sản xuất, hoạt động sống của con người và sự phát triển của Kinh tế - xã hội. Năng
lượng có rất nhiều loại như than đá, dầu mỏ, khí đốt, gió, sóng, năng lượng mặt trời …
Tuy nhiên, ba loại năng lượng quan trọng và được nhắc tới nhiều nhất là than đá, dầu
mỏ và khí đốt. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, dầu mỏ là loại năng lượng đang
được quan tâm nhất và nó đang chi phối sự phát triển và biến động của nền kinh tế thế
giới.
Hiện nay năng lượng chia làm hai loại chính: năng lượng hóa thạch và năng
lượng tái tạo.
Năng lượng hóa thạch: Nhiên liệu hóa thạch: là các loại nhiên liệu được tạo
thành bởi quá trình phân hủy của các sinh vật chết bị chôn vùi cách đây
hơn 300 triệu năm. Các nguyên liệu này chứa hàm lượng cacbon và
hydrocacbon cao.
Phân loại:
Có 3 loại nhiên liệu hóa thạch chính:
Dầu (Oil): Dầu hay còn gọi là dầu mỏ (petroleum) hay dầu thô (crude oil)
là chất lỏng màu đen chủ yếu là hydro và cacbon.Dầu hình thành từ các vi
sinh vật:động vật phù du và tảo.Áp suất mạnh khiến các chất hữu cơ phức
tạp phân hủy thành dầu.
Khí tự nhiên (Natural Gas):Thành phần chủ yếu là CH4 và 1 lượng nhỏ
hydrocacbon khác.Khí hình thành khi sinh vật biển chết chìm xuống đáy
đại dương và được chôn dưới trầm tích của đá trầm tích .Dưới áp lực của
nhiệt độ cao những sinh vật này đã chuyển đổi thành khí trong hàng triệu
năm.Khí tự nhiên được tìm thấy trong các lớp đá ngầm gọi là hồ chứa.Các
tảng đá đó có những khe nhỏ cho phép giữ nước,khí tự nhiên và dầu.Khí tự
nhiên mắc kẹt trong đá không thấm (caprock).
Than đá(Coal):là 1 loại đá cháy màu đen hoặc nâu đậm từ cacbon ,hình
thành từ hàng triệu năm trước nhờ áp lực nhiệt cao từ cây cối ,dương xỉ
chết rơi xuống đầm lầy ngăn cản sinh vật bị phân hủy hoàn toàn.
Năng lượng tái tạo: hay năng lượng tái sinh là năng lượng từ những nguồn
liên tục mà theo chuẩn mực của con người là vô hạn như năng lượng mặt
trời, gió, mưa, thủy triều, sóng và địa nhiệt. Nguyên tắc cơ bản của việc sử
dụng năng lượng tái sinh là tách một phần năng lượng từ các quy trình diễn
biến liên tục trong môi trường và đưa vào trong các sử dụng kỹ thuật. Các
quy trình này thường được thúc đẩy đặc biệt là từ Mặt Trời. Năng lượng tái
tạo thay thế các nguồn nhiên liệu truyền thống trong 4 lĩnh vực gồm: phát
điện, đun nước nóng, nhiên liệu động cơ, và hệ thống điện độc lập nông
thôn.
NOID = [ ]×[
]
NCID chỉ ra sự phụ thuộc vào nhập khẩu than ròng của từ dữ liệu nhập khẩu và xuất
khẩu than, sau đó điều chỉnh cường độ tiêu thụ than như là một nguồn năng lượng
chính.
NCID = [ ]×[
]
1.4.3 Phương pháp sử dụng chỉ số tổng hợp ESI
- Mô hình IEA về An ninh năng lượng ngắn hạn (MOSES): dựa trên việc áp
dụng 35 chỉ tiêu khác nhau theo định hướng cung ứng và nó xem tính thỏa đáng
và độ tin cậy của năng lượng tài nguyên và cơ sở hạ tầng, chủ quyền (nhạy cảm
với các mối đe dọa từ các tác nhân nước ngoài) và khả năng phục hồi (khả năng
xử lý và đáp ứng với những xáo trộn khác nhau) trong thời gian nhất định:
Sự cạn kiện của nhiên liệu hóa thạch và Sự phụ thuộc năng lượng được
đại diện bởi chỉ số Phụ thuộc năng lượng (ED). Đây là hai yếu tố có sự liên
quan mật thiết bởi sự cạn kiệt năng lượng khiến khu vực phải nhập khẩu
nhiều năng lượng hơn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế
Sự phát triển của các nguồn năng lượng tái tạo được thể hiện qua chỉ số
Tỷ lệ năng lượng tái tạo và nguyên tử
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật được thể hiện bởi chỉ số cường độ
năng lượng
Sự tăng trưởng của ngành năng lượng được thể hiện qua chỉ số tiêu thụ
năng lượng cuối cùng trên đầu người
Các yếu tố nhu cầu năng lượng, dân số, tăng trưởng kinh tế được thể
hiện qua chỉ số Tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người. Sự gia tăng
dân số luôn đi cùng với sự gia tăng nhu cầu năng lượng, cùng với đó là gia
tăng tổng sản phẩm quốc nội
Cuối cùng, một chỉ số về môi trường đó là chỉ số Cường độ carbon. Chỉ
số này phần nào thể hiện sự biến đổi khí hậu. Bởi sự biến đổi khí hậu chủ
yếu chịu ảnh hưởng của các hoạt động công nghiệp phát thải với khí thải
chủ yếu là CO2.
Chương 2: Phân tích các chỉ số an ninh năng lượng Việt Nam giai
đoạn 2005 - 2017
2.1 Tổng quan tình hình năng lượng Việt Nam giai đoạn 2005 - 2017
2.1.1 Tiêu thụ năng lượng Việt Nam giai đoạn 2005 - 2017
Nhu cầu tiêu thụ điện của Việt Nam tăng trung bình khoảng 13%/năm trong giai
đoạn 2006 - 2010 và khoảng 11% trong 5 năm gần đây (2012-2017); dự kiến trong
thời gian tới nhu cầu sẽ tăng trên dưới 10%. Việt Nam phát triển công nghiệp hóa một
cách “cổ điển”, mô hình tăng trưởng dựa quá lâu vào các ngành khai thác tài nguyên,
công nghiệp truyền thống, các ngành công nghệ thấp tiêu tốn năng lượng dẫn đến
không thể cạnh tranh với chi phí năng lượng quá cao do sự lãng phí từ phía sử dụng.
Điều này dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp, tiêu tốn tài nguyên, tiêu tốn năng lượng, ô
nhiễm môi trường… Hiện lãng phí năng lượng trong công nghiệp ngành xi măng ở
mức 50%, gốm sứ 35%, dệt may 30%, thép 20%, nông nghiệp 50%... Nhu cầu tiêu thụ
năng lượng chiếm 80% tổng cung năng lượng. Trong giai đoạn 2005-2017, tiêu thụ
các dạng năng lượng có nhiều biến động. Trong đó tiêu thụ điện của Việt Nam hiện
đang tăng 10-12% mỗi năm và được dự báo sẽ tiếp tục tăng khoảng 7-10% cho đến
năm 2030.
Bảng 1. : Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng TFC Việt Nam giai đoạn 2005 –
2017
(Đơn vị: MTOE)
Nhiên
Dầu và Tổng năng
Khí thiên liệu sinh
sản phẩm Than Điện lượng tiêu
nhiên học và
dầu thụ
chất thải
2005 11,333 0,537 5,272 13,954 4,051 35,147
2006 11,202 0,485 5,416 13,914 4,63 35,647
2007 12,754 0,542 5,927 13,882 5,274 38,378
TPES Tổng
Tổng cung
cung năng Dầu và Năng
Khí thiên Thủy năng
lượng sơ sản phẩm Than lượng tái
nhiên điện lượng sơ
cấp dầu tạo
cấp
(MTOE)
2005 12,018 4,692 8,262 1,457 41,256
2006 11,666 5,122 8,883 1,755 42,275
2007 13,558 5,458 9,518 1,981 45,489
2008 13,305 6,359 11,739 2,234 48,639
2009 15,731 7,101 12,614 2,578 53,068
2010 18,66 8,124 14,651 2,369 0,004 58,917
2011 17,161 7,56 15,615 3,519 0,007 59,063
2012 16,125 8,253 15,763 4,54 0,007 59,84
2013 16,098 8,522 17,226 4,467 0,007 61,709
2014 19,061 9,124 19,915 5,145 0,008 68,73
2015 21,17 9,551 24,954 4,826 0,011 76,166
2016 22,48 9,486 27,643 5,512 0,017 80,995
2017 19,795 7,811 28,199 7,651 0,028 78,183
(Nguồn:Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Quản lý Dầu khí -Viện Dầu khí Việt Nam)
Trong giai đoạn 2005-2017 Tổng cung năng lượng sơ cấp năm 2017 tăng gấp 2
lần năm 2005. Cung năng lượng từng dạng nhiên liêu cũng có nhiều biến động, trong
đó than và dầu là hai dạng nhiên liệu được cung ứng ra thị trường nhiều nhất, tổng
cung tăng gần 2 lần so với năm 2005. Trong đó năng lượng tái tạo bắt đầu đưa vào
khai thác năm 2010, chiếm tỷ trong rất thấp (<1% tổng cung năng lượng sơ cấp).
Trong năm 2014, các nguồn năng lượng tái tạo (bao gồm cả thủy điện) đã đóng góp
với 41% cho nhu cầu điện của Việt Nam, nhưng phần này gần như chỉ chiếm bởi thủy
điện. Thủy điện vẫn có thể mở rộng được nhưng nhìn chung tiềm năng thủy điện ở
Việt Nam gần như đã được khai thác.
Ngược lại, tiềm năng mở rộng gió, mặt trời và sinh khối rất cao và chưa được
khai thác. Các mục tiêu mở rộng cho năng lực sản xuất năng lượng tái tạo được đặt
cho đến năm 2030 như trong hình dưới đây:
Hình 1. : Các mục tiêu mở rộng cho năng lực sản xuất năng lượng tái tạo được
đặt cho đến năm 2030
Dầu và than vẫn là hai dạng năng lượng chiếm tỷ trọng cao nhất (>50% tổng
cung các dạng năng lượng). Tỷ trọng cung cấp năng lượng than và dầu qua các năm
đều tăng, trong giai đoạn 10 năm tỷ trọng tăng trung bình cung nhiên liệu dầu và các
sản phẩm dầu đạt 6%/năm, cung nhiên liệu than đạt 8%/năm. Trữ lượng dầu thô của
Việt Nam khá lớn so với các nước trong khu vực và mặt bằng chung các nước trên thế
giới. Theo số liệu thống kê của British Petroleum (2013), trữ lượng dầu thô của Việt
Nam là khoảng 4,4 tỷ thùng, đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á (sau Malaysia
với trữ lượng 5,2 triệu thùng), đứng thứ 28 trên 52 quốc gia có tài nguyên về dầu khí.
Nhờ đẩy mạnh đầu tư vào hoạt động tìm kiếm và khai thác của PVN, gia tăng trữ dầu
khí của Việt Nam trong các năm gần đây khá ổn định. Sản lượng khai thác từ các mỏ
trong và ngoài nước cũng tăng lên đáng kể, từ 15,01 triệu tấn năm 2010 lên đến 18,75
triệu tấn năm 2015. Đến 2017 trở đi đang có xu hướng giảm dần. Tỷ trọng tham gia
các dạng năng lượng trong tổng năng lượng cơ cấp 2010 là: 10,3% dầu, 23% của than,
13% của khí, còn lại thuộc thủy điện, nhiên liệu sinh học, năng lượng tái tạo. Đến năm
2017 tỷ trọng tham gia của các dạng năng lượng trong tổng cung năng lượng sơ cấp
của một số dạng năng lượng giảm: dầu 11%, than 14,6%, khí 15,3%, còn lại thuộc
thủy điện, nhiên liệu sinh học, điện gió, điện mặt trời, và các dạng năng lượng tái tạo
khác.
Hình 1. : Tổng cung năng lượng sơ cấp Tại Việt Nam giai đoạn 2005-2017
(Nguồn:Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Quản lý Dầu khí-Viện Dầu khí Việt Nam)
2.1.3 Xuất/Nhập khẩu năng lượng Việt Nam giai đoạn 2005-2017
2.1.3.1 Nhập khẩu năng lượng Việt Nam giai đoạn 2005-2017
Với hiện trạng xuất nhập khẩu năng lượng của năm 2017, số liệu cho thấy Việt
Nam tiếp tục là quốc gia nhập khẩu năng lượng kể từ 2015. Lượng tịnh nhập khẩu
năm 2016 là 25,173 MTOE, tương đương 31.08% tổng năng lượng sơ cấp, năm 2017
nhập khẩu 24,36 MTOE.
Mặc dù là nước xuất khẩu tịnh năng lượng trong một thời gian dài, Việt Nam đã
trở thành nước nhập khẩu tịnh năng lượng vào năm 2015, do sự gia tăng gần đây của
nhu cầu trong nước và chính sách hạn chế xuất khẩu than. Tỷ trọng này tiếp tục tăng
nhanh, chủ yếu do tăng nhập khẩu than. Nhu cầu tiêu thụ than ngày càng lớn vào năm
2015, Việt Nam đã chuyển từ một quốc gia xuất khẩu năng lượng ròng sang nhập
khẩu ròng do nhu cầu than trong nước tăng vọt. Với việc duy trì hiệu quả tốc độ tăng
trưởng kinh tế ở mức khá cao (trung bình 6-6,7%/ năm). Tổng khối lượng than nhập
khẩu vào Việt Nam trong 4 năm qua đạt gần 38 triệu tấn và có xu hướng ngày càng
tăng. Đến năm 2016, tổng khối lượng than nhập khẩu của Việt Nam đã tương đương
hơn 1/3 tổng sản lượng khai thác than trong nước. Tổng giá trị than nhập khẩu tăng
4,2 lần trong vòng 4 năm qua. Trong 20 năm tới, nhiệt điện vẫn là nguồn cung năng
lượng trọng yếu của đất nước. Vì vậy, sự lệ thuộc vào nguồn than nhập khẩu (chủ yếu
từ Trung Quốc) và gánh nặng tài chính cho nhập khẩu là rất lớn. Với mức trung bình
10 triệu tấn than phải nhập khẩu mỗi năm, những rủi ro về môi trường, thất thoát
nguồn ngoại tệ và lệ thuộc an ninh năng lượng sẽ nguy hiểm hơn những gì mà những
số liệu thống kê cơ học đang phản ánh.
MTOE
20
15
10
5
0
-5
-10
-15
-20
-25
Hình 1. : Nhập khẩu ròng năng lượng Việt Nam giai đoạn 2005-2017
Bảng 1. : Sản lượng nhập khẩu dầu, than và chỉ số phụ thuộc nhập khẩu giai
đoạn 2005-2017
(Đơn vị: tấn )
Sản lượng % thay đổi Sản lượng % thay đổi Chỉ số phụ
tiêu thụ dầu so với năm nhập khẩu so với năm thuộc NK
và than trước dầu than trước năng lượng
Hình 1. : Chỉ số phụ thuộc nhập khẩu năng lượng than và dầu Tại Việt Nam giai
đoạn 2005-2016
(Nguồn: TT Nghiên cứu kinh tế và Quản lý dầu khí)
2.1.3.2 Xuất khẩu năng lượng Việt Nam
Từ năm 1990 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu năng lượng. Năng lượng xuất khẩu
chủ yếu là than và dầu thô. Đến năm 2015, Việt nam từ nước xuất khẩu ròng chuyển
thành nước nhập khẩu ròng. Nền kinh tế năng lượng Việt Nam đã thay đổi nhanh
chóng trong vài thập kỷ qua với việc chuyển mình từ một nền kinh tế nông nghiệp dựa
trên các loại nhiên liệu sinh khối truyền thống sang một nền kinh tế hỗn hợp hiện đại.
Việt Nam có nhiều loại nguồn năng lượng nội địa như dầu thô, than, khí tự nhiên và
thủy điện, những nguồn năng lượng này đóng một vai trò quan trọng trong phát triển
kinh tế trong hai thập kỷ gần đây. Xuất khẩu dầu thô và than là những nguồn đóng
góp quan trọng cho ngân sách quốc gia.
Dễ dàng nhận thấy xu hướng giảm dần của xuất khẩu năng lượng trong những
năm vừa qua. Năng lượng xuất khẩu của năm 2017 chỉ còn gần 11 ngàn KTOE, nhỏ
hơn 30% so với năm 2007. Trong khi đó lượng năng lượng nhập khẩu, sau một vài
năm giảm sút ở biên độ nhỏ, do nhu cầu trong nước giảm, đã tăng mạnh trở lại kể từ
năm 2014. Nhìn vào chênh lệch giữa xuất và nhập khẩu năng lượng trong chuỗi số
liệu như trên, có thể kết luận rằng, kể từ năm 2015, Việt Nam đã trở thành một quốc
gia nhập khẩu tịnh năng lượng.
Sản lượng dầu thô xuất khẩu đang giảm liên tục và đáng kể so với thời hoàng
kim. So sánh một cách đơn giản, sản lượng xuất khẩu dầu thô của năm 2017 là 7,9
triệu tấn chỉ bằng 60% so với năm 2007 là 13,85 triệu tấn. Tuy vậy, xuất khẩu dầu thô
vẫn đóng vai trò chủ yếu trong cơ cấu xuất khẩu năng lượng, với 73,2% vào năm
2017.
2.2 Phân tích các chỉ số an ninh năng lượng
2.2.1 Phân tích tổng quát ESI – Chỉ số an ninh năng lượng
Tính toán các chỉ số riêng lẻ
Chỉ số phụ thuộc năng lượng (ED)
Cường độ năng lượng (EI)
Tiêu thụ năng lượng cuối cùng /người (FEC)
Tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người (GDP/pc)
Cường độ carbon (CI)
Tỷ lệ năng lượng tái tạo và hạt nhân (SRN)
2.2.1.1 Chỉ số phụ thuộc năng lượng
Trước tiên, Chỉ số phụ thuộc năng lượng là tỷ lệ của Tổng năng lượng nhập khẩu
và Tổng năng lượng tiêu thụ. Qua 2 đồ thị về Chỉ số phụ thuộc năng lượng và nhập
khẩu ròng năng lượng tại Việt Nam, có thể nhận thấy sự phụ thuộc năng lượng có gia
tăng trong giai đoạn 1990-2006. Tuy vậy, khả năng tự cung cấp năng lượng của Việt
Nam đã gia tăng đang kể. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, việc khai thác nhiên liệu
được đẩy mạnh (đặc biệt là than) nhờ đó chúng ta không còn cần phụ thuộc vào nhiên
liệu nhập khẩu. Trong giai đoạn này năng lượng nhập khẩu chủ yếu là các sản phẩm từ
dầu mỏ, nhưng từ khi các nhà máy lọc dầu được đưa vào hoạt động con số này đã
giảm đáng kể. Do đó việc gia tăng của chỉ số này có thể giải thích bởi nhu cầu tiêu thụ
năng lượng của Việt Nam gia tăng quá nhanh so với khả năng khai thác và cung cấp.
Giai đoạn từ 2006 đến 2017 có thể nhận thấy sự biến động của chỉ số phụ thuộc
năng lượng. Đầu tiên là xu hướng giảm nhanh chóng do hậu quả của khủng hoảng
kinh tế, chúng ta sử dụng năng lượng ít đi và nhập khẩu năng lượng cũng giảm sút.
Tuy nhiên ngay sau khủng khoảng thì chỉ số phụ thuộc năng lượng lại gia tăng nhanh
chóng. Khi quan sát đồ thị nhập khẩu ròng năng lượng trong thời kỳ này có thể nhận
thấy Việt Nam đã chuyển dần từ một quốc gia xuất khẩu ròng năng lượng sang nhập
khẩu khẩu ròng năng lượng. Điều này là một nguy cơ đáng báo động với an ninh năng
lượng của Việt Nam. Rõ ràng tài nguyên năng lượng nội tại của Việt Nam đã được
khai thác cạn kiệt, nhưng để phát triển kinh tế chúng ta buộc phải nhập khẩu năng
lượng. Nếu trong tương lai gần sự phụ thuộc năng lượng này còn tiếp tục gia tăng thì
nguy cơ không đảm bảo an ninh năng lượng thực sự đang ở rất gần với Việt Nam.
Hình 1. : Chỉ số phụ thuộc năng lượng của Việt Nam (1990-2017)
Hình 1. : Nhập khẩu ròng năng lượng của Việt Nam (1991-2017)
Nguồn: (Nguồn: www.iea.org)
2.2.1.2. Cường độ năng lượng EI
Cường độ năng lượng tại Việt Nam trong giai đoạn 1990-2017 có xu hướng
giảm dần qua các năm, tuy nhiên tốc độ giảm lại tương đối chậm. Dựa vào chỉ số của
GDP và tổng năng lượng tiêu thụ có thể thấy mức tiêu thụ năng lượng của Việt Nam
tăng lên nhanh chóng cũng như tốc độ gia tăng của GDP. Cùng với đó là sự giảm
thiểu về cường độ năng lượng cho thấy nền kinh tế và công nghệ sử dụng năng lượng
của chúng ta đã phát triển không ngừng trong giai đoạn này.
Hình 1. : Cường độ năng lương EI giai đoạn 2005 – 2017 tại Việt Nam
Cường độ năng lương EI giai đoạn 2005 – 2017 tại Việt Nam có nhiều biến
động. Chỉ số cường độ năng lượng cao nhất năm 2010 là 0,51. Trong đó, năm 2013 và
năm 2017 chỉ số cường độ năng lượng đạt thấp nhất. Cường độ năng lượng phản ánh
mức độ tiêu dùng các dạng năng lượng với tổng sản phẩm quốc nội. Khi GDP tăng,
tiêu thụ năng lượng không đổi thì cường độ năng lượng sẽ giảm xuống, sử dụng hiệu
quả năng lượng sẽ được đảm bảo.
Bảng 1. : Cường độ năng lượng EI giai đoạn 2005-2017
EI- Cường độ năng
lượng
2005 0,48
2006 0,46
EI- Cường độ năng
lượng
2007 0,47
2008 0,47
2009 0,49
2010 0,51
2011 0,48
2012 0,46
2013 0,45
2014 0,47
2015 0,49
2016 0,49
2017 0,446
Vào năm 1990 chỉ số cường độ năng lượng tại Việt Nam là 0,6kTOE/USD và
vào những năm tiếp theo con số này liên tục giảm dù cho lượng năng lượng tiêu thụ
gia tăng một cách nhanh chóng. Đến năm 2017 con số này chỉ còn 0,45kTOE, đây là
một dấu hiệu tích cực cho an ninh năng lượng ở Việt Nam. Tuy vậy cũng có thể thấy
ảnh hưởng của khủng khoảng kinh tế 2008 đến 2012. Cường độ năng lượng gia tăng
trong những năm này bởi GDP bị tụt giảm trong thời kỳ khủng hoảng. Theo thống kê
của Tổng cục thống kê có thì tăng trưởng GDP của giai đoạn này luôn giảm dưới mức
7%, đỉnh điểm là 5,24% vào năm 2012. Cụ thể chỉ số cường độ năng lượng được thể
hiện trong đồ thị dưới đây:
Hình 1. : Cường độ năng lượng của Việt Nam (1990-2016)
(Nguồn: www.iea.org)
Có thể nói, nguồn cung cấp năng lượng sơ cấp rẻ tiền nhất chính là sử dụng năng
lượng hiệu quả và tiết kiệm. Trên cơ sở đó, năm 2010, Quốc hội đã thông qua Luật sử
dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, tạo nền tảng cơ sở pháp lý vững chắc cho việc
thực hiện các hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Tuy nhiên, trong
thời gian qua, mặc dù đã đạt được những thành công nhất định, nhưng kết quả này vẫn
chưa tương xứng với tiềm năng tiết kiệm của hệ thống năng lượng nước ta. Nguyên
nhân chủ yếu của tình trạng này là nhận thức của cộng đồng và các doanh nghiêp còn
hạn chế, chưa sẵn sàng tiếp cận các thông tin về công nghệ, các giải pháp tiết kiệm
năng lượng, nhiều doanh nghiệp thiếu vốn nhưng vẫn gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế
trong việc tiếp cận nguồn vay tín dụng ưu đãi theo cơ chế hỗ trợ đầu tư thay thế dây
chuyền công nghệ lạc hậu bằng dây chuyền công nghệ hiệu suất cao, tiết kiệm năng
lượng.
2.2.1.3. Tiêu thụ năng lượng cuối cùng trên đầu người
Theo thống kê trên đồ thị có thể thấy Tổng tiêu thụ năng lượng bình quân đầu
người của Việt Nam gia tăng một cách nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng ngày càng
cao. Riêng trong các năm 2010 đến 2012 sự tăng trưởng này có xu hướng chững lại do
hậu quả của khủng khoảng kinh tế. Nhưng có thể thấy ngay sau đó chỉ số này lại tăng
lên nhanh chóng, thậm trí là nhanh hơn thời kỳ trước khủng khoảng. Rõ ràng nhu cầu
năng lượng ở Việt Nam ngày càng gia tăng để đáp ứng cho sự phát triển kinh tế.
Chỉ số FEC – Tiêu thụ năng lượng cuối cùng /người
FEC = TFC/dân số
Dân số Việt Nam giai đoạn 2005-2017
Sự gia tăng dân số nhanh chóng cũng sẽ dẫn đến sự gia tăng về mức độ tiêu thụ
sản phẩm năng lượng như: điện, xăng dầu,... Điều đó cho thấy khi dân số tăng thì nhu
cầu năng lượng ngày càng phải lớn để nhằm thỏa mãn nhu cầu của người dân, có thể
nói sự gia tăng về dân số sẽ tỷ lệ thuận với nhu cầu tiêu thụ sản phẩm năng lượng.
Bảng 1. : Dân số Việt Nam giai đoạn 2005-2017
(Đơn vị: Nghìn người)
Dân số (Nghìn
Năm
người)
2005 82392.1
2006 83311.2
2007 84218.5
2008 85118.7
2009 86025
2010 87047.4
2011 88760.4
2012 89009.5
2013 89959.5
2014 90128.9
2015 91709.8
2016 92692.2
2017 95540
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Dân số tăng đồng nghĩa với nhu câu tiêu thụ năng lượng ngày càng tăng cao. Tỷ
lệ tăng bình quân hàng năm trong 10 năm qua là 1,14%. Để đảm bảo nguồn năng
lượng cung cấp, sử dụng hàng ngày, việc sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng
đang ngày càng được chú trọng. Tỷ lệ gia tăng dân số tỷ lệ thuận với tốc độ tăng của
chỉ số FEC tiêu thụ năng lượng cuối cùng trên người. Khi tốc độ gia tăng dân số cao
thì tỷ lệ FEC càng cao. Chính vì vậy, để đảm bảo nguồn cung năng lượng, cũng như
việc sử dụng năng lượng hiệu quả cần cải thiện chế độ an sinh xã hội cũng như tốc độ
gia tăng dân số. Chỉ số FEC của Việt Nam cao hơn các nước cùng khu vực.
Hình 1. : Dân số Việt Nam năm 2005-2017
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Bảng 1. : Tiêu thụ năng lượng cuối cùng trên người tại Việt Nam giai đoạn 2005-
2017
(Đơn vị: Triệu người/MTOE)
FEC
2005 0,43
2006 0,43
2007 0,46
2008 0,48
2009 0,52
2010 0,55
2011 0,55
2012 0,55
2013 0,57
2014 0,57
2015 0,64
2016 0,70
2017 0,67
Tỷ số tiêu thụ năng lượng trên người ngày càng tăng cao giai đoạn 2005-2017.
Năm 2005 chỉ số này chỉ vào khoảng 0,43 thì đến năm 2017 con số này đã tăng lên
1,5 lần lên 0,67 và xu hướng sẽ tiếp tục tăng trong các năm tiếp theo. Chỉ số này cho
biết trong năm 2017 cứ 0,67 triệu dân sẽ tiêu dùng hết 1triệu TOE.
Qua những nhận xét trên ta hoàn toàn có thể khẳng định Tổng tiêu thụ năng lượng
cuối cùng bình quân đầu người có ảnh hưởng rất lớn tới an ninh năng lượng tại Việt
Nam. Không chỉ cho thấy tốc độ tăng trưởng về thị trường năng lượng mà còn có thể
thấy nhu cầu tiêu thụ năng lượng ở Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng đến mức
nào.
Hình 1. : Tiêu thụ năng lượng cuối cùng trên đầu người của Việt Nam (1990-
2017)
(Nguồn: www.iea.org)
2.2.1.4 Tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người (GDP/pc)
Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Tổng sản phẩm quốc nội GDP (viết tắt của Gross Domestic Product) là giá trị thị
trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một
lãnh thổ nhất định (thường là quốc gia) trong một thời kỳ nhất định (thường là một
năm).
Tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2005-2017 đạt 8% 1 năm, trong đó
trong 3 năm 2014, 2015, 2016, 2017 tốc độ tăng trưởng đạt 10-11%/năm. GDP chu kì
10 năm tăng gấp đôi so với năm 2005 (năm 2005 là 85.35 tỷ USD đến năm 2017 đã
tăng lên 175,2 tỷ USD). Tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ năng lượng tỷ lệ thuận với
tổng sản phẩm quốc nội.
Bảng 1. : Tổng sản phẩm quốc nội giai đoạn 2005-2016
(Đơn vị: BUSD)
GDP- tổng sản phẩm quốc nội % thay đổi so với
(BUSD) năm 2005
2005 85,35
2006 91,31 7%
2007 97,82 15%
2008 103,36 21%
2009 108,94 28%
2010 115,93 36%
2011 123,17 44%
2012 129,63 52%
2013 136,66 60%
2014 144,84 70%
2015 154,51 81%
Tăng Tăng
GDP bình quân
GDP Dân số trưởng GDP trưởng GDP
đầu người
hàng năm đầu người
Hình 1. : Biểu đồ xu thế phát thải KNK theo các lĩnh vực tại Việt Nam (1994-
2005)
Nguồn: Tạp chí môi trường
Nhìn vào biểu đồ có thể thầy phát thải từ năng lượng sẽ có xu thế tăng nhanh
trong những năm tới cả về tổng lượng cũng như tỷ trọng trong cơ cấu phát thải. Giống
như ở đa số các quốc gia khác, năng lượng sẽ là lĩnh vực chiếm tỷ trọng phát thải lớn
nhất trong cơ cấu kinh tế quốc gia những năm tới. Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia
được dự báo sẽ bị tác động nghiêm trọng nhất do BĐKH toàn cầu và mực nước biển
dâng. Với vị trí địa lý nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa, nên kinh tế Việt Nam nói chung
và công nghiệp nói riêng phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu và thời tiết như bão,
lũ, lụt và khô hạn hàng năm, gây nhiều thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Tính đến nay,
Việt Nam đã 2 lần công bố Thông báo quốc gia cho Công ước khung của Liên Hiệp
quốc về BĐKH vào các năm 2003 và 2010. Năm 2000, nông nghiệp là nguồn phát
thải khí nhà kính lớn nhất, chiếm tới 43,1%, tiếp đó là năng lượng chiếm 35%, nhưng
đến năm 2010, năng lượng lại trở thành nguồn phát thải lớn nhất, tăng gấp 2 lần. Vì
thế, trong lĩnh vực hướng tới phát triển công nghiệp xanh, Việt Nam phải đặc biệt chú
trọng phát triển năng lượng carbon thấp. Đây là một trong những định hướng quan
trọng của ngành năng lượng trong nhiều năm tới. Nhìn từ góc độ kinh tế, mô hình tăng
trưởng kinh tế Việt Nam hiện vẫn dựa chủ yếu vào khai thác và sử dụng tài nguyên
thiên nhiên, tiêu thụ nhiều năng lượng hóa thạch, gây ô nhiễm và làm cạn kiệt, suy
thoái môi trường. Năng lượng hóa thạch là nguồn năng lượng không tái tạo và có giới
hạn. Nếu con người khai thác, sử dụng lãng phí và không hiệu quả thì chẳng bao lâu,
nguồn năng lượng này sẽ cạn kiệt. Dự báo của Liên Hiệp quốc (World Energy
Assessment Overview: 2004 Update), lượng năng lượng hóa thạch đã xác định chỉ đủ
dùng trong khoảng 41 năm đối với dầu mỏ, 64 năm đối với khí thiên nhiên và 251
năm đối với than. Như vậy, ngay trong thế kỷ này, chúng ta phải tìm nguồn năng
lượng thay thế cho dầu mỏ và khí thiên nhiên.
2.2.1.6 Tỷ lệ năng lượng tái tạo và hạt nhân (SRN)
Hình 1. : Chỉ số chia sẻ năng lượng tái tạo và hạt nhân giai đoạn 2005-2017
Chỉ số chia sẻ năng lượng giai đoạn 2005 - 2017 đang tăng nhanh, thể hiện việc
sử dụng, khai thác các nguồn năng lượng tái tạo tại Việt Nam đang gia tăng từng
bước. Tốc độ gia tăng khai thác các dạng năng lượng tỷ lệ thuận với chỉ số chia sẻ các
dạng năng lượng tái tạo và hạt nhân. Tại Việt Nam, không sử dụng năng lượng hạt
nhân chính vì vật năng lượng tái tạo góp phần vào việc thay đổi tỷ trọng các dạng
năng lượng trong cơ cấu các ngành năng lượng tại Việt Nam. Đứng trước sự cạn kiệt
tài nguyên hóa thạch thì việc khai thác sử dụng hiệu quả năng lượng tái tạo được xem
là con thuyền cứu cánh cho năng lượng nước nhà. Việc đầu tư, khai thác, sử dụng
năng lượng tái tạo: Điện gió, mặt trời, sinh khối,… đang được nhà nước chú trọng đầu
tư.
2.2.1.7 Tính toán chỉ số tổng quát ESI
Chỉ số phụ thuộc năng lượng (ED)
Cường độ năng lượng (EI)
Tiêu thụ năng lượng cuối cùng /người (FEC)
Tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người (GDP/pc)
Cường độ carbon (CI)
Tỷ lệ năng lượng tái tạo và hạt nhân (SRN)
Để tính toán được chỉ số an ninh năng lượng ESI, sử dụng 6 chỉ số nhỏ cấu thành
nên chỉ số ESI. Trong đó các chỉ số đều có trọng số để tính toán. Các trọng số tính
toán được đúc rút từ kinh nghiệm của các chuyên gia qua nhiều năm nghiên cứu, đánh
giá an ninh năng lượng.
Bảng 1. : Tỷ trọng các hệ số tính toán chỉ số ESI
EI - Cường độ năng lượng 20
GDP / pc - Tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người 10
Các yếu tố cường độ năng lượng, tiêu thụ năng lượng cuối cùng trên người, tổng
sản phẩm quốc nội bình quân cũng như chỉ số chia sẻ năng lượng tái tạo và hạt nhân
tỷ lệ thuận với chỉ số an ninh năng lượng ESI. Chỉ số cường độ CO 2 và sự phụ thuộc
các dạng năng lượng tỷ lệ nghịch với chỉ số ESI. Các yếu tố trong nhóm tỷ lệ thuận
tăng với tốc độ nhanh hơn các yếu tố nhóm nghịch, chỉ số ESI tăng theo, cho thấy việc
sử dụng, cung ứng, nhu cầu đang được đảm bảo. Tuy nhiên khi các yếu tố nhóm
nghịch tăng cao hơn các yếu tốc nhóm tỷ lệ thuận, chứng tỏ quốc gia đang phụ thuộc
vào nguồn năng lượng nhập khẩu cũng như việc sử dụng các dạng năng lượng hóa
thạch tăng cao khiến cho hệ số phát thải tăng. Mặc dù các hệ số của nhóm tỷ lệ thuận
chiếm đa số hơn nhóm tỷ lệ nghịch, nhưng khi các nhóm yếu tố nghịch biến tăng lại
làm cho chỉ số ESI thay đổi đáng kể. Do tỷ trọng của chỉ số CI và ED luôn ở mức cao
chiếm đến 50% trong các yếu tố tính toán tính đến chỉ số ESI.
2.2.2 Phân tích chỉ số DPES – Chỉ số đa dạng hóa các dạng năng lượng
Sự đa dạng hóa của năng lượng sơ cấp (DPES)
Chỉ số này được rút ra bằng cách sửa đổi Chỉ số đa dạng sinh học Shannon phản
ánh tầm quan trọng của đa dạng hóa năng lượng liên quan đến sự phong phú và sự phù
hợp của các nguồn năng lượng.
Để tính toán chỉ số trên, lựa chọn 5 nguồn năng lượng chính để đánh giá sự đa
dạng trong sử dụng nguồn năng lượng của Việt nam.
Hệ số đa dạng sinh học ß
ß = – Σ . (Qi.LnQi )
Bảng 1. : Bảng chỉ số đa dạng sinh học giai đoạn 2005 – 2016 tại Việt Nam
ß: Chỉ số đa dạng
Năm ŋ: số nguồn NL
sinh học
2005 1,42 5
2006 1,44 5
2007 1,45 5
2008 1,48 5
2009 1,49 5
2010 1,47 5
2011 1,50 5
2012 1,52 5
2013 1,52 5
2014 1,51 5
2015 1,48 5
2016 1,48 5
2017 1,49 5
Hiện tại trong nước đang sử dụng rất nhiều các dạng năng lượng, để tính toán chỉ
số DPES, sử dụng 5 nguồn năng lượng chính gồm: than, dầu mỏ, khí đốt, thủy điện và
năng lượng tái tạo.
Bảng 1. : Tính toán chỉ số DPES
DPES = ß/Lnŋ
Công thức
vs ß = –Σ (Qi LnQi)
Chỉ số (NEID) mô tả mức tổng cung cấp năng lượng chính được cân bằng cường
độ cung cấp của từng nguồn năng lượng. Các ước tính của NEID cho thấy sự phụ
thuộc nhập khẩu ròng của Việt Nam là trung bình cho thấy nước ta hiện tại chưa phụ
thuộc nhiều vào nguồn cung năng lượng nước ngoài để đáp ứng nhu cầu năng lượng
chính của đất nước. Từ năm 2015, Việt Nam đã nhập khẩu 30% dạng năng lượng
chính để đáp ứng nhu cầu năng lượng quốc gia ngày càng tăng. Với suy luận rằng dầu
hiện là nguồn năng lượng chính ở Việt Nam, việc có đủ nguồn cung cấp dầu tạo thành
mối lo ngại cho việc cung cấp năng lượng của Việt Nam. Cuối cùng, sự phụ thuộc
nhập khẩu dầu ròng (NOID) cùng với sự phụ thuộc nhập khẩu dầu có xu hướng tiết lộ
lỗ hổng dự đoán liên quan đến việc đảm bảo đủ khối lượng tài nguyên năng lượng
quan trọng này. Bằng chứng từ NOID (tính theo tỷ lệ dầu trong TPES) cho thấy sự gia
tăng mạnh mẽ trong sự phụ thuộc dầu ròng của Việt Nam tăng từ khoảng 12% năm
2005 lên hơn 34% vào năm 2017 - tăng khoảng 187% trong khoảng thời gian 12 khi
chỉ ra trong hình 8 dưới đây. Điều này cũng cho thấy sự cần thiết của các nguồn năng
lượng chính đa dạng hơn để đạt được một danh mục năng lượng an toàn và hiệu quả.
Trong hình, 3 năm gần đây 2015-2017, Việt Nam nhập khẩu khoảng 30% dạng
năng lượng chính than và dầu nước ngoài từ các nước trong khi trong giai đoạn 10
năm từ 2005 - 2015, nguồn cung dầu, than đá từ khai thác vẫn chiếm trong khoảng 54
– 63% tổng năng lượng sản xuất. Do đó, kết quả từ NOID cũng cho thấy rằng nhập
khẩu dầu của Việt Nam sẽ tăng mạnh trong tương lai trừ khi các biện pháp thích hợp
được áp dụng để ngăn chặn xu hướng này. Với chiến dịch toàn cầu ngày càng tăng đối
với các nguồn năng lượng chính sạch, như là biện pháp kiềm chế khí thải liên quan
đến năng lượng, CFEP đo lường mức độ đa dạng hóa của đất nước đối với năng lượng
tái tạo và các nguồn năng lượng carbon thấp.
2.3 Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số an ninh năng lượng
Thứ nhất, Việt Nam đang phải đối mặt với một thách thức lớn là nhu cầu năng
lượng ngày càng tăng cao trong khi ràng buộc về môi trường lại ngày càng chặt chẽ
hơn.
Điều này một mặt gây áp lực cho việc đảm bảo an ninh năng lượng cho đất
nước, mặt khác tạo sức ép cho nền kinh tế trong việc huy động đủ nguồn vốn đầu tư
cho ngành năng lượng. Không những vậy, các nguồn tài nguyên hóa thạch vốn đang
chủ yếu được sử dụng, khai thác để cung cấp năng lượng cho quốc gia cũng ngày càng
cạn kiệt.
Trong khi đó, những nguồn năng lượng tái tạo như gió, mặt trời, sinh khối hay
thủy triều của Việt Nam được đánh giá là phong phú nhưng chủ yếu hiện vẫn là tiềm
năng.
Thứ hai, áp lực về nguồn năng lượng từ các nguồn tài nguyên hóa thạch của Việt
Nam ngày càng lớn khi nguồn cung ngày càng cạn kiệt. Nếu giữ nguyên tốc độ khai
thác như hiện nay, trữ lượng dầu mỏ của Việt Nam chỉ đủ khai thác trong khoảng 34
năm; khí thiên nhiên chỉ còn 63 năm còn than đá chỉ còn khai thác được 4 năm trong
khi đây lại đang là những nguồn đầu vào chính cho nền kinh tế Việt Nam. Việc sử
dụng tài nguyên quá mức, cũng như làm cho nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt dẫn
đến nguồn cung năng lượng bị thiếu hụt trầm trọng. Việc thiếu hụt nguồn cung sẽ làm
cho tình hình an ninh năng lượng giảm xuống do cung không đủ dẫn đến tăng nhập
khẩu các dạng năng lượng. Việc cạn kiệt nguồn năng lượng hóa thạch tỷ lệ thuận với
hệ số DPES. Như vậy khi cung thấp hệ số DPES giảm xuống , tình hình an ninh năng
lượng sẽ đặt vào mức báo động đòi hỏi cần có đề xuất để ngăn chặn kịp thời tình hình
này.
Thứ ba, những tác động tiêu cực của BĐKH ngày một lớn, khó lường ở nhiều
lĩnh vực và địa phương sẽ làm gia tăng mức độ cạn kiệt tài nguyên và suy thoái môi
trường. Đây là một trong những nguy cơ làm chậm quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, làm mất đi nhiều thành quả đã đạt được. Bên cạnh những tác động tiêu cực trực
tiếp của BĐKH đe dọa đến an ninh năng lượng và phát triển năng lượng, làm gia tăng
hơn nữa mức độ phụ thuộc năng lượng, dẫn đến những tác động tiêu cực trong phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.4 Đánh giá chung tình hình an ninh năng lượng Quốc gia giai đoạn 2005-2017
Kết quả của việc phân tích các chỉ số an ninh năng lượng của Việt Nam. Trước
hết, chỉ số đa dạng hóa năng lượng của Việt Nam cho thấy mức độ đa dạng hóa nguồn
cung cấp năng lượng chính (DPES) cao, tăng đều trong 10 năm qua - trong những
năm 2005 đến 2017 tăng từ 0,88 lên 0,93
Năm DPES
2005 0,88
2006 0,89
2007 0,9
Năm DPES
2008 0,92
2009 0,93
2010 0,91
2011 0,93
2012 0,94
2013 0,94
2014 0,94
2015 0,92
2016 0,92
2017 0,93
Bảng 2.15 trên biểu thị mức độ đa dạng hóa nguồn năng lượng đáng kể. Tuy
nhiên, tỷ lệ trì trệ cũng như suy giảm chỉ số đa dạng hóa đang ở mức không cao, tuy
nhiên một vài năm trở lại đây chỉ số DPES có xu hướng giảm đòi hỏi cần có sự chú ý
đáng kể. Thông thường, các giá trị DPES dưới 0,5 quốc gia phụ thuộc nhiều vào các
nguồn năng lượng để đáp ứng nhu cầu trong nước của họ trong khi giá trị cao hơn
(trên 0,5) biểu thị mức độ đa dạng hợp lý trong các nguồn năng lượng của quốc gia.
Do đó, DPES Việt Nam cao hơn cho thấy rằng quốc gia ít có nguy cơ rủi ro an ninh
cung cấp năng lượng vì có sẵn.
Nguồn cung cấp năng lượng lớn cho nền kinh tế. Mặc dù thực tế là DPES Việt
Nam dự đoán rủi ro cung cấp năng lượng nhỏ, tác động của sự phụ thuộc nhập khẩu
vào năng lượng của quốc gia đang có xu hướng tăng.
Cấu hình cung cấp được xác nhận trong phụ thuộc nhập khẩu năng lượng thuần
(NEID) như được trình bày trong hình 2.16
Hình 1. : Hệ số nhập khẩu năng lượng giai đoạn 2005-2017
Chỉ số (NEID) mô tả mức tổng cung cấp năng lượng chính được cân bằng cường
độ cung cấp của từng nguồn năng lượng. Các ước tính của NEID cho thấy sự phụ
thuộc nhập khẩu ròng của Việt Nam là trung bình cho thấy nước ta hiện tại chưa phụ
thuộc nhiều vào nguồn cung năng lượng nước ngoài để đáp ứng nhu cầu năng lượng
chính của đất nước. Từ năm 2015, Việt Nam đã nhập khẩu 30% dạng năng lượng
chính để đáp ứng nhu cầu năng lượng quốc gia ngày càng tăng. Với suy luận rằng dầu
hiện là nguồn năng lượng chính ở Việt Nam, việc có đủ nguồn cung cấp dầu tạo thành
mối lo ngại cho việc cung cấp năng lượng của Việt Nam. Cuối cùng, sự phụ thuộc
nhập khẩu dầu ròng (NOID) cùng với sự phụ thuộc nhập khẩu dầu có xu hướng tiết lộ
lỗ hổng dự đoán liên quan đến việc đảm bảo đủ khối lượng tài nguyên năng lượng
quan trọng này. Bằng chứng từ NOID (tính theo tỷ lệ dầu trong TPES) cho thấy sự gia
tăng mạnh mẽ trong sự phụ thuộc dầu ròng của Việt Nam tăng từ khoảng 12% năm
2005 lên hơn 34% vào năm 2017 - tăng khoảng 187% trong khoảng thời gian 12 khi
chỉ ra trong hình 8 dưới đây. Điều này cũng cho thấy sự cần thiết của các nguồn năng
lượng chính đa dạng hơn để đạt được một danh mục năng lượng an toàn và hiệu quả.
Trong hình, 3 năm gần đây 2015-2017, Việt Nam nhập khẩu khoảng 30% dạng
năng lượng chính than và dầu nước ngoài từ các nước trong khi trong giai đoạn 10
năm từ 2005 - 2015, nguồn cung dầu, than đá từ khai thác vẫn chiếm trong khoảng 54
– 63% tổng năng lượng sản xuất. Do đó, kết quả từ NOID cũng cho thấy rằng nhập
khẩu dầu của Việt Nam sẽ tăng mạnh trong tương lai trừ khi các biện pháp thích hợp
được áp dụng để ngăn chặn xu hướng này. Với chiến dịch toàn cầu ngày càng tăng đối
với các nguồn năng lượng chính sạch, như là biện pháp kiềm chế khí thải liên quan
đến năng lượng, CFEP đo lường mức độ đa dạng hóa của đất nước đối với năng lượng
tái tạo và các nguồn năng lượng carbon thấp.
Kết luận
Việc phân tích các chỉ số năng lượng nhằm mục tiêu là kiểm tra ý nghĩa kinh tế
cũng như môi trường của an ninh cung cấp năng lượng ở Việt Nam. Điều tra các tính
năng chính của năng lượng cũng như định hướng sử dụng năng lượng tương lai của
các cấu trúc cung cấp năng lượng chính của Việt Nam đã được thực hiện để xác định
các thách thức vô hình đối với hệ thống năng lượng Việt Nam. Trong con đường an
ninh năng lượng năm 2025, Việt Nam có tham vọng lớn lao là đưa tổng công suất các
nguồn thủy điện từ 17.000 MW hiện nay lên 21.600 MW năm 2020; 24.600 MW năm
2025 (thủy điện tích năng 1.200 MW). Đưa tổng công suất nguồn điện gió từ 140 MW
hiện nay lên 800 MW năm 2020; 2.000 MW năm 2025. Điện năng sản xuất từ nguồn
điện gió chiếm 0,8% năm 2020; 1% năm 2025. Đưa tổng công suất nguồn điện mặt
trời từ mức không đáng kể hiện nay lên 850 MW năm 2020; 4.000 MW năm 2025.
Điện năng sản xuất từ nguồn điện mặt trời chiếm 0,5% năm 2020; 1,6% năm 2025.
Giảm tiêu thụ năng lượng và thúc đẩy sự bền vững môi trường. Để theo đuổi an ninh
năng lượng trong tương lai, cần phải xây dựng các cơ sở dự trữ năng lượng lớn và
chiến lược để bảo vệ chống lại rủi ro gián đoạn cung cấp và bất ổn thị trường năng
lượng. Ngoài ra, cần ưu tiên tối đa cho việc phát triển các công nghệ tái tạo và độc đáo
vì điều này cuối cùng sẽ mang lại lợi ích kinh tế đáng kinh ngạc và giảm suy thoái môi
trường.
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp đảm bảo an nin năng lượng Quốc
gia giai đoạn 2020-2025
Từ việc phân tích các yếu tố, các chỉ số an ninh năng lượng Việt Nam giai đoạn
2005-2017 kể trên. Thông qua tính toán ta nhận thấy rằng, an ninh năng lượng nước ta
đang gặp phải một số vấn đề khó khăn, cũng như chịu ảnh hưởng bởi một số yếu tố từ
nguồn cung và phía cầu đối với các dạng năng lượng
3.1 Dự báo tình hình năng lượng Việt Nam giai đoạn 2020-2025
Trên cơ sở thực tế phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nhu cầu năng
lượng/điện năng gai đoạn 2001- 2018, cùng với Quyết định phê duyệt Quy hoạch điện
VII hiệu chỉnh (PDP VII*) về tăng trưởng bình quân GDP khoảng 7,0%, tăng trưởng
điện năng thương phẩm bình quân khoảng 8,6% trong giai đoạn 2016 - 2025, có thể
tính toán dự báo các chỉ tiêu kinh tế, năng lượng/điện năng như trong Bảng 4, qua đó
cho thấy HSĐHNL và HSĐHĐN đều được cải thiện rõ rệt so với giai đoạn 2005-2017
(HSĐHNL nhỏ hơn 1,0, còn HSĐHĐN chỉ dao động xung quanh 1,0).
Bảng 2. : Tương quan kinh tế năng lượng giai đoạn 2016 - 2030
Danh mục 2016 - 2020 2021 - 2025
Tăng trưởng GDP (%) 6,8 7,2
Tăng trưởng NLCC
5,3 4,9
(%)
HSĐHNL 0,78 0,68
Tăng trưởng ĐNTP
10,40 8,40
(%)
HSĐHĐN 1,53 1,17
Các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng năng lượng (CĐNL), điện năng (CĐĐN) được xem
xét trong Bảng 2.2:
Bảng 2. : CĐNL và CĐĐN giai đoạn 2021 - 2025
Danh mục 2020 2025 Bình quân
GDP (Tỷ US$ giá 2018) 285 403
Tiêu thụ NLCC (MTOE) 70 89
CĐNL (Kgoe/1000US$) 245 221 219
Tiêu thụ điện (TWh) 232 348
CĐĐN (kWh/1000US$) 840 864 863
Số liệu trong Bảng 5 cho thấy, CĐNL của nước ta đã tiệm cận với một số nước
trong khu vực như: Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, nhưng CĐĐN thì vẫn ở mức
cao hơn nhiều. Điều đó nói lên tiềm năng tiết kiệm trong lĩnh vực điện lực của nước ta
còn khá cao.
Nhu cầu điện năng được dự báo trong PDP VII* nhằm đáp ứng mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, với mức tăng trưởng GDP bình quân 7%/năm trong
giai đoạn 2016 - 2030, theo đó nhu cầu điện năng tăng trưởng 10,4% giai đoạn 2016 -
2020; 8,4% giai đoạn 2021 - 2025
Tháng 2/2018, EVN trình Thủ tướng Chính phủ và được phê duyệt về kế hoạch sản
xuất, kinh doanh giai đoạn 2016 - 2025, trong đó, nhu cầu năm 2016, 2017 theo thực
tế, còn năm 2020 dự kiến (điện năng thương phẩm/điện năng sản xuất) là 232/256
TWh. Tăng trưởng các giai đoạn 2020-2025 vẫn không đổi là 8,4 (như trong PDP
VII*).
Như vậy, nhu cầu điện năng trong PDP* cũng có sự thay đổi, theo đó năm 2020
sẽ là 232/256 TWh, năm 2025 là 348/386 TWh.
Trên cơ sở đánh giá tiềm năng tiết kiệm trong khâu sử dụng điện như đã nêu, xin
đề xuất phương án giảm dần nhu cầu điện năng từ 5% vào năm 2025, theo đó nhu cầu
điện năng giai đoạn 2021 - 2025 sẽ là: 232/256 TWh vào năm 2020 (năm 2020 đang
tới gần nên chưa tính đến hiệu quả sử dụng điện); 331/367 TWh năm 2025. Dưới đây
là tổng hợp các phương án nhu cầu điện năng đã trình bày trên:
Bảng 2. : Nhu cầu điện năng giai đoạn 2020-2025
Năm 2020 2025
Nhu cầu điện năng theo PDPVII*
232/256 348/386
có xét đến hiệu chỉnh của EVN (TWh)
Nhu cầu điện năng theo phương án đề
232/256 331/367
xuất
Phát triển nguồn điện đáp ứng nhu cầu theo phương án đề xuất: Mục tiêu phát
triển nguồn điện theo phương án này là sản lượng của các loại nguồn điện: khí, thủy
điện, NLTT và điện nhập khẩu được giữ nguyên như trong PDP VII*, còn toàn bộ sản
lượng điện tiết giảm được quy vào cho sản lượng nhiệt điện than để giảm bớt lượng
than nhập khẩu cho phát điện, giảm ô nhiễm môi trường, giảm phát thải khí nhà kính,
góp phần giảm tác động của biến đổi khí hậu. Mục tiêu này được thể hiện trong Bảng
2.4.
Bảng 2. : Phát triển nguồn nhiệt điện than theo phương án ví dụ (TWh)
Danh mục 2020 2025
Tổng sản lượng điện yêu cầu theo PDPVII* 256 386
Sản lượng nhiệt điện than theo PDPVII* 122 206
Nhu cầu than cho nhiệt điện theo PDP*(triệu tấn) 56 89
Tổng sản lượng điện yêu cầu theo phương án đề xuất 256 367
Sản lượng nhiệt điện than theo phương án đề xuất 122 177
Nhu cầu than cho nhiệt điện theo p/a đề xuất (tr. tấn) 56 75
Khả năng cung cấp than trong nước cho điện (tr.tấn) 35 36
Than nhập khẩu cho điện theo PDPVII*(tr. tấn) 21 53
Than nhập khẩu cho điện theo phương án đề xuất (tr. tấn) 21 39
Than nhập tiết kiệm được theo đề xuất so với PDP* (tr. tấn) - 14
Kết luận
Do nguồn tài nguyên năng lượng trong nước ngày một cạn kiệt, Việt Nam từ một
nước xuất khẩu tịnh năng lượng trong nhiều năm, đã trở thành nước nhập khẩu tịnh từ
năm 2015. Để đảm bảo an ninh năng lượng, hạn chế phụ thuộc quá lớn vào nguồn
than nhập khẩu, xin kiến nghị thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất: Cần khai thác triệt để tiềm năng tiết kiệm trong khâu sử dụng, đặc biệt là sử
dụng điện. Đây là giải pháp đầu tư phát triển rẻ nhất, vì theo ước tính của các chuyên
gia năng lượng thì chi phí để tiết kiệm 1kWh chỉ bằng 1/4 so với chi phí để sản xuất
thêm 1kWh đó.
Thứ hai: Bên cạnh việc khai thác tiềm năng tiết kiệm trong khâu sử dụng năng
lượng (phía cầu), cũng cần tăng cường khai thác tiềm năng trong khâu cung cấp năng
lượng (phía cung) như: sử dụng công nghệ lò hơi siêu tới hạn (supercritical boiler) có
hiệu suất cao hơn thay cho công nghệ dưới tới hạn (subcritical boiler) trong phát triển
các dự án nhiệt điên than mới. Đồng thời tăng cường ứng dụng công nghệ mới trong
quản lý vận hành hệ thống lưới điện truyền tải và phân phối, nhằm giảm thiểu hơn nữa
tổn thất điện năng trên lưới điện.
Thứ ba: Chú trọng phát triển nguồn NLTT sẵn có trong nước, đặc biệt là nguồn
điện mặt trời, gió. Đối với nguồn điện mặt trời, cần tăng phát triển các dự án pin mặt
trời áp mái tại các đô thị trong cả nước, góp phần giảm bớt gánh nặng cho EVN trong
đầu tư xây dựng lưới điện truyền tải và đảm bảo vận hành an toàn, ổn định hệ thống
điện quốc gia.
3.2 Đề xuất một số giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng Quốc gia giai
đoạn 2020-2025
3.2.2 Phát triển đa dạng hóa các nguồn năng lượng
Phát triển các nguồn năng lượng tái tạo tại Việt Nam
Hiện nay tất cả các nước trên thế giới đang đối mặt với cuộc chiến chống biến
đổi khí hậu toàn cầu, với việc thực hiện mục tiêu của Paris COP 21 là đảm bảo sự tăng
nhiệt độ trung bình toàn cầu từ nay đến năm 2100 ở mức dưới 2°C, bằng biện pháp
giảm sản xuất và sử dụng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí), nguyên
nhân phát ra 2/3 lượng khí nhà kính (CO2) mà thay thế bằng các nguồn năng lượng tái
tạo (NLTT) như: gió, mặt trời, sinh khối...
Riêng đối với Việt Nam - đất nước sẽ chịu tác động khá trầm trọng của biến đổi
khí hậu, lại có tiềm năng nguồn NLTT (thủy điện nhỏ, gió, mặt trời, sinh khối, địa
nhiệt) phong phú, trong khi các nguồn năng lượng sơ cấp trong nước như thủy điện
vừa và lớn, than, dầu khí đều ngày càng cạn kiệt, đang biến đổi từ một nước xuất khẩu
năng lượng tịnh thành nước nhập khẩu tịnh thì việc tăng cường phát triển các nguồn
NLTT có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch nhập
khẩu, vừa góp phần giảm phát thải khí nhà kính trong mục tiêu toàn cầu, vừa đảm bảo
an ninh năng lượng, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Mặc dù năng lượng tái tạo (trừ thuỷ điện) là một phần nhỏ của tổng năng lượng
cung cấp trên toàn thế giới và cả ở Việt Nam, nhưng các dự án sản xuất điện từ NLTT
ở Việt Nam vẫn đã tăng hơn gấp đôi từ năm 2000 đến 2010, mặc dù giá mua điện hiện
nay từ các dự án NLTT chưa hấp dẫn các nhà đầu tư. Tính đến hết 2010, NLTT chiếm
khoảng 3,5% tổng công suất lắp đặt của hệ thống điện, tuy nhiên, theo đánh của các
chuyên gia thì rất nhiều các nhà máy thuỷ điện nhỏ và cực nhỏ là không hoạt động,
còn các nhà máy điện sinh khối hoạt động cầm chừng hoặc theo thời vụ. Không kể
thủy điện nhỏ thì năm 2010 công suất lắp đặt của điện NLTT là khoảng 790MW, chủ
yếu là từ sinh khối, gió và mặt trời.Tốc độ tăng trưởng trong ngành điện sinh khối làm
chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu nguồn. Tổng công suất lắp đặt của điện sinh khối là 150
MW, và hiện đã có một số nhà máy bán điện lên lưới và có kế hoạch mở rộng (xem
bảng 3.1).
Bảng 2. : Công suất lắp đặt các nhà máy điện NLTT tính đến hết 2010 (MW)
Tuy nhiên việc phát triển năng lượng tái tạo gặp một số rào cản nhất định. Rào
cản chính cho phát triển NLTT là chi phí sản xuất. Nhiều công nghệ mới của NLTT –
gồm gió, mặt trời và nhiên liệu sinh học đã và sẽ sớm có tính cạnh tranh kinh tế với
các nhiên liệu hóa thạch và có thể đáp ứng một phần nhu cầu năng lượng của Việt
Nam. Các công nghệ có chi phí tương đối cạnh tranh là thủy điện, gió, sinh khối và
địa nhiệt. Mặc dù pin mặt trời có chi phí cao nhưng chi phí này giảm đều đặn do tiến
bộ trong công nghệ. Tại Việt Nam, qua các nghiên cứu trong dự án Tổng sơ đồ phát
triển NLTT của Viện Năng Lượng, chi phí cho sản xuất điện từ NLTT như sau (xem
bảng 2.6)
Bảng 2. : Chi phí cho sản xuất điện từ NLTT
Ngoài yếu tố giá thành sản xuất cao, một số rào cản khác đối với sự phát triển NLTT
có thể kể đến như: thiếu các chính sách và tổ chức hỗ trợ cho phát triển NLTT; thiếu
thông tin và cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quy hoạch và hoạch định chính sách; công
nghệ và dịch vụ phụ trợ cho NLTT chưa phát triển; khó tiếp cận nguồn vốn để phát
triển các dự án NLTT
Tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam
Việt Nam có vị trí địa lý, đường bờ biển dài, đặc thù khí hậu nhiệt đới gió mùa
và nền kinh tế nông nghiệp, có nguồn năng lượng tái tạo dồi dào và đa dạng, cho nên
có thể khai thác cho sản xuất năng lượng như thủy điện, điện gió, điện mặt trời, sinh
khối, địa nhiệt, nhiên liệu sinh học...
Thủy điện nhỏ
Thủy điện nhỏ (TĐN) được đánh giá là dạng năng lượng tái tạo khả thi nhất về
mặt kinh tế - tài chính. Căn cứ vào các báo cáo đánh giá gần đây nhất, thì hiện nay
nước ta có trên 1.000 địa điểm đã được xác định có tiềm năng phát triển TĐN, quy mô
từ 100 kW tới 30 MW (với thế giới chỉ tới 10 MW), với tổng công suất đặt trên 7.000
MW (đứng đầu các nước ASEAN), các vị trí này tập trung chủ yếu ở vùng núi phía
Bắc, Nam Trung bộ và Tây Nguyên.
Hiện nay, có khá nhiều doanh nghiệp tư nhân đã đầu tư và vận hành hiệu quả kinh tế
cao các trạm thủy điện nhỏ tại một số tỉnh như: Hà Giang, Lào Cai, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Gia Lai…
TĐN vẫn được coi là nguồn NLTT, hiện cung cấp 19% sản lượng điện của toàn
cầu. Công nghệ TĐN cũng bao gồm tua bin thủy lực, máy phát điện như thủy điện vừa
và lớn, nhưng thường chỉ sử dụng lưu lượng dòng chảy (run-of-river) trên các nhánh
sông nhỏ, hoặc suối để phát điện không cần đập và hồ chứa.
Năng lượng gió
Nguồn điện gió sử dụng luồng không khí (gió) đập vào cánh tua bin làm quay
máy phát điện. Nguồn điện gió cũng là nguồn điện xoay chiều như thủy điện, nhiệt
điện.
Hình 2. : Phát triển điện gió ven biển (hình minh họa)
Nguồn: Chương trình quốc gia về phát triển năng lượng và hiệu quả
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới chỉ ra rằng, Việt Nam là nước có tiềm năng gió
lớn nhất trong 4 nước khu vực, với hơn 39% tổng diện tích của Việt Nam được ước
tính là có tốc độ gió trung bình hàng năm lớn hơn 6m/s, ở độ cao 65m, tương đương
với tổng công suất 512 GW. Đặc biệt, hơn 8% diện tích Việt Nam được xếp hạng có
tiềm năng gió rất tốt (tốc độ gió ở độ cao 65m 7 - 8 m/giây), có thể tạo ra hơn 110
GW.
Tiềm năng gió của Việt Nam ở độ cao 65m:
Bảng 2. : Tiền năng gió Việt Nam
Tương đối
Tốc độ gió Trung bình Rất cao >
Thấp < 6m/s cao Cao 8-9m/s
trung bình 6-7m/s 9m/s
7-8m/s
Diện tích
197.242 100.367 25.679 2.178 111
(km2)
Tỷ lệ diện tích
60,6 30,8 7,9 0,7 >0
(%)
Tiềm năng
- 401.444 102.716 8.748 482
(MW)
Vùng ven biển phía Nam nước ta có diện tích rộng khoảng 112.000 km2, còn
khu vực có độ sâu từ 30m đến 60m, với diện tích rộng khoảng 142.000 km2 là khu
vực có tiềm năng phát triển điện gió biển rất tốt. Đặc biệt, khu vực biển có độ sâu 0-
30m từ Bình Thuận đến Cà Mau, rộng khoảng 44.000 km2.
Theo số liệu gió tại Phú Quý, Côn Đảo thì vùng này đạt tốc độ gió trung bình ở độ cao
100m, đạt hơn 5-8m/s. Hiện nay, trang trại gió biển đầu tiên với công suất gần 100
MW đã hoạt động và đang nghiên cứu triển khai các giai đoạn tới năm 2025, lên tới
1.000 MW (tức gấp 10 lần).
Cụ thể, các trang trại tua bin gió tại đảo Phú Quý và Bạc Liêu đã hoạt động tốt
và mang lại hiệu quả kinh tế cao, cơ hội thu hồi vốn khoảng hơn 10 năm, so với tuổi
thọ tua bin 20 năm. Trang trại gió biển Khai Long (Cà Mau) xây dựng từ tháng
1/2016, với công suất giai đoạn 1 là 100 MW. Trang trại gió biển hiện đóng góp ngân
sách cho các địa phương với nguồn thu ổn định, như tỉnh Bạc Liêu (với 99 MW) đạt
76 tỷ đồng/năm, khi hoàn thành trang trại gió 400 MW sẽ lên tới gần 300 tỷ mỗi năm.
Tỉnh Cà Mau, với 300 MW cũng sẽ thu được hơn 200 tỷ/năm.
Theo thông tin từ Bộ Công Thương, mới đây, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
(PVN) cùng với các nhà đầu tư từ Singapore, Liên bang Nga đã khởi động dự án gió
Kê Gà, trên biển Bình Thuận, với công suất 3.400 MW.
Về diện tích chiếm đất, một máy phát điện gió công suất 2 MW chiếm diện tích 0,6
ha. Các máy phát điện phải đặt cách xa nhau khoảng 7 lần đường kính cánh quạt của
nó (ví dụ, với cánh quạt đường kính 80 m thì phải đặt cách nhau 560 m).
Năng lượng mặt trời
Nguồn điện mặt trời (ĐMT) là cơ cấu biến năng lượng từ ánh sáng mặt trời
thành dòng điện một chiều, vì vậy, để đấu nối nguồn ĐMT vào hệ thống điện xoay
chiều tần số 50 hz cần phải lắp thêm các bộ nghịch lưu (invertor) để biến dòng điện
một chiều thành xoay chiều.
Việt Nam có tiềm năng về nguồn năng lượng mặt trời, có thể khai thác cho các sử
dụng như: đun nước nóng, phát điện và các ứng dụng khác như sấy, nấu ăn...
Với tổng số giờ nắng cao lên đến trên 2.500 giờ/năm, tổng lượng bức xạ trung bình
hàng năm vào khoảng 230-250 kcal/cm2 theo hướng tăng dần về phía Nam là cơ sở
tốt cho phát triển các công nghệ năng lượng mặt trời.
Theo kết quả nghiên cứu đánh giá sơ bộ của Chương trình Trợ giúp năng lượng
MOIT/GIZ thì tổng tiềm năng kinh tế của các dự án điện mặt trời trên mặt đất, nối
lưới tại Việt Nam khoảng 20 Gigawatt (GW), trên mái nhà (rooftop) từ 2 đến 5 GW.
Theo Quy hoạch điện VII (hiệu chỉnh) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
thì công suất điện mặt trời đến của nước ta sẽ là 800 MW vào năm 2020; 4.000 MW
vào 2025 và 12.000 MW vào năm 2030. Tuy nhiên, trong xu thế chi phí đầu tư và tài
chính cho các dự án điện mặt trời đang ngày càng giảm, theo thông báo từ Bộ Công
Thương, tính đến cuối năm 2018, các nhà đầu tư đã đăng ký tới hơn 11.000 MW điện
mặt trời, chủ yếu tại các tỉnh phía Nam.
Theo nguồn tin của Tạp chí Năng lượng Việt Nam, tỉnh Ninh Thuận đã chấp
thuận chủ trương khảo sát cho 48 dự án điện mặt trời, trong đó có 18 dự án được cấp
quyết định chủ trương đầu tư. Riêng Tập đoàn Thiên Tân, theo báo Nhật Nikkei
(05/02/2018), đã có 5 dự án tại tỉnh Ninh Thuận, từ nay cho đến năm 2020, với tổng
trị giá gần 2 tỷ USD. Còn tập đoàn TTC đề ra kế hoạch xây 20 dự án điện mặt trời,
cho đến năm 2020, tại tỉnh Tây Ninh (324 MW), Bình Thuận (300 MW), Ninh Thuận
(300 MW)…
Nhược điểm lớn của nguồn điện mặt trời là diện tích chiếm dụng đất, với 1,8 đến
2,0 ha cho 1 MW và do sự phụ thuộc nhiều vào thời tiết và vị trí lắp đặt của các tấm
pin mặt trời, cùng với việc phải lắp thêm thiết bị nghịch lưu nên khi dự án được đấu
nối vào hệ thống điện quốc gia, độ tin cậy và chất lượng điện năng của hệ thống sẽ bị
suy giảm. Vì vậy, để đảm bảo độ tin cậy cung cấp điện và chất lượng điện năng, hệ
thống cần được đầu tư tăng cường nguồn công suất dự phòng.
Năng lượng sinh khối
Là một nước nông nghiệp, Việt Nam có tiềm năng rất lớn về nguồn năng lượng
sinh khối (NLSK). Các loại sinh khối chính là: gỗ năng lượng, phế thải - phụ phẩm từ
cây trồng, chất thải chăn nuôi, rác thải ở đô thị và các chất thải hữu cơ khác. Nguồn
NLSK có thể sử dụng bằng cách đốt trực tiếp, hoặc tạo thành viên nhiên liệu sinh
khối.
Khả năng khai thác bền vững nguồn sinh khối cho sản xuất năng lượng ở Việt
Nam đạt khoảng 150 triệu tấn mỗi năm. Một số dạng sinh khối có thể khai thác được
ngay về mặt kỹ thuật cho sản xuất điện, hoặc áp dụng công nghệ đồng phát năng
lượng (sản xuất cả điện và nhiệt) đó là: trấu ở Đồng bằng Sông Cửu Long, bã mía dư
thừa ở các nhà máy đường, rác thải sinh hoạt ở các đô thị lớn, chất thải chăn nuôi từ
các trang trại gia súc, hộ gia đình và chất thải hữu cơ khác từ chế biến nông - lâm - hải
sản. Hiện nay, một số nhà máy đường đã sử dụng bã mía để phát điện, nhưng chỉ bán
được với giá hơn 800 đồng/kWh (4 cent/kWh).
Cuối năm 2013, Bộ Công Thương đã trình Chính phủ xem xét cơ chế hỗ trợ sản
xuất điện từ năng lượng sinh khối. Theo đó, mức giá cao nhất mà ngành điện mua lại
điện được sản xuất từ nguồn nguyên liệu sinh khối lần lượt là 1.200 - 2.100
đồng/kWh. Mức giá như đề xuất trên sẽ góp phần tạo động lực cho việc phát triển
nguồn điện từ nguồn nguyên liệu sinh khối ở nước ta. Việc xây dựng các nhà máy
điện đốt rác thải cũng đang được quan tâm với mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi
trường, đặc biệt tại các thành phố, đô thị lớn. Hiện nay, tại nước ta đã có một số dự án
điện đốt rác đã đi vào hoạt động, hoặc đang được triển khai xây dựng tại thủ đô Hà
Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hà Nam…
Một số dự án
Năng lượng địa nhiệt
Theo các chuyên gia địa chất, công nghệ để khai thác nguồn năng lượng địa
nhiệt không quá phức tạp. Cứ xuống sâu 33m thì nhiệt độ trong lòng đất tăng 1 độ C.
Ở độ sâu 60km, nhiệt độ có thể đạt tới 1.800 độ C. Muốn khai thác địa nhiệt ở vùng
200 độ C, chỉ cần khoan các giếng sâu 3 - 5km, rồi đưa nước xuống, nhiệt độ trong
lòng đất sẽ làm nước sôi lên, hơi nước theo ống dẫn làm quay tua bin và máy phát
điện.
Mặc dù nguồn địa nhiệt chưa được điều tra và tính toán kỹ. Tuy nhiên, với số
liệu điều tra và đánh giá gần đây nhất cho thấy tiềm năng điện địa nhiệt trên đất liền
tại Việt Nam có thể khai thác khoảng 300 MW.
Để khuyến khích phát triển NLTT, năm 2017, Chính phủ đã quy định giá mua
điện từ các dự án NLTT (theo giá feed in tariff -FIT). Dưới đây là bảng tổng hợp về
cơ chế hỗ trợ hiện tại cho các dạng NLTT:
Bảng 2. : Tổng hợp về cơ chế hỗ trợ hiện tại cho các dạng NLTT
Công nghệ Loại biểu giá Giá bán điện
598 – 663VND/kWh (theo
thời gian, vùng, mùa)
Giá chi phí tránh
302 -320 VND/kWh (lượng
Thủy điện nhỏ Sản xuất điện được công bố hàng
điện dư so với hợp đồng)
năm
2158 VND/kW (giá công
suất)
8,5 USc/kWh (on shore) và
Điện gió Sản xuất điện Giá FIT 20 năm
9,8 USc/kWh (off shore)
Điện mặt trời
Sản xuất điện Giá FIT 20 năm 9,35 USc/kWh
nối lưới
5,8 USc/kWh
Đồng phát Giá FIT 20 năm 7,5551USc/kWh (Bắc)
Sinh khối
Sản xuất điện Giá FIT 20 năm 7,3458 USc/kWh (Trung)
7,4846 USc/kWh (Nam)
Đốt trực tiếp
Giá FIT 20 năm 10,5 USc/kWh
Rác thải Chôn lấp sản xuất
Giá FIT 20 năm 7,28 USc/kWh
khí
3.2.3 Cải thiện chỉ số năng lượng không gây ô nhiễm (CFEP)
3.2.3.1 Hệ số phát thải CO2 từ các dạng năng lượng
Đối với ngành năng lượng, vốn được xem là nguồn phát thải khí nhà kính lớn
nhất, giới khoa học ví "dấu chân carbon" ngành này đã in lên bề mă ̣t Trái Đất từ trước
tới nay với dấu chân của người khổng lồ, và hiện thách thức hàng đầu của các công ty
dầu khí trên toàn cầu vẫn là "dấu chân carbon", như khẳng định của Giám đốc điều
hành Tổ chức Năng lượng quốc tế (IEA) Fatih Birol tại hội nghị năng lượng quốc tế
thường niên CERAWeek 2019 bế mạc ngày 15/3 tại thành phố Houston, bang Texas,
Mỹ. Theo báo cáo của mạng chính sách năng lượng tái tạo thế kỷ 21 (REN21), tính
đến hết năm 2018, các nguồn năng lượng tái tạo, chiếm xấp xỉ 24% tổng lượng tiêu
thụ năng lượng toàn cầu, tăng so với mức tăng trung bình 5,4% trong giai đoạn 2005-
2015. Những năm gần đây, công suất năng lượng tái tạo toàn cầu tiếp tục xu hướng
tăng 8-9%/năm. Tính đến năm 2017, tổng công suất năng lượng tái tạo toàn cầu tăng
8,3%, đạt mức 2.179 GW. Tuy nhiên, năng lượng tái tạo vẫn đứng trước sự áp đảo của
nhiên liệu hóa thạch. Dù công suất năng lượng tái tạo tăng nhanh, đặc biệt điện Mặt
trời và điện gió, song nhiên liệu hóa thạch vẫn chiếm phần lớn, với khoảng 81% tổng
lượng tiêu thụ năng lượng toàn cầu tính đến năm 2018. Nếu so với con số 86,7% của
năm 1973, thì sau 45 năm, thế giới chỉ giảm được 5% mức tiêu thụ năng lượng hóa
thạch.
Bảng 2. : Phát thải CO2 từ các nguồn năng lượng giai đoạn 2005 - 2017
CO2 % Crude
Crude Oil &
Emission Coal & % Coal Oil &
Coal Gas & Coal Petroleu % Gas
Petroleum
by Products Products m
Products
Energy Products
2005 21065 7947 10140 2978 38% 48% 14%
2006 23727 10149 10248 3330 43% 43% 14%
2007 25340 10868 10851 3621 43% 43% 14%
2008 28504 13494 10905 4105 47% 38% 14%
2009 31140 14177 12414 4549 46% 40% 15%
2010 34087 16529 12354 5204 48% 36% 15%
2011 34951 17510 12598 4843 50% 36% 14%
2012 34784 17711 11786 5287 51% 34% 15%
2013 36273 19344 11470 5459 53% 32% 15%
2014 39215 22393 11269 5553 57% 29% 14%
2015 47351 27911 14142 5298 59% 30% 11%
2016 51892 31296 15299 5297 60% 29% 10%
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
4,862 4,901 5,401 6,016 6,511 7,141 8,408 9,526 11,008 11,333
0,021 0,02 0,019 0,019 0,018 0,015 0,019 0,019 0,27 0,537
2,692 3,327 3,302 3,166 3,223 3,743 4,017 4,104 4,85 5,272
12,178 12,564 12,948 13,218 13,413 13,612 13,602 14,05 13,919 13,954
1,15 1,316 1,524 1,681 1,926 2,214 2,585 2,995 3,405 4,051
20,903 22,127 23,194 24,099 25,091 26,724 28,632 30,694 33,452 35,147
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
5,298 5,53 6,45 6,977 7,806 8,538 9,651 10,258 11,716 12,018
0,274 0,499 0,829 0,943 1,12 1,121 2,314 2,708 3,645 4,692
3,579 4,544 4,577 4,227 4,372 5,024 5,517 5,824 7,344 8,262
1,033 1,002 0,954 1,184 1,251 1,566 1,565 1,633 1,532 1,457
12,932 13,333 13,734 13,985 14,19 14,399 14,399 14,691 14,734 14,794
0,033
23,115 24,908 26,544 27,317 28,739 30,648 33,445 35,114 38,971 41,256
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
11,20
2 12,754 12,704 14,639 16,638 15,675 15,1 15,43 16,548 18,014 20,498
0,485 0,542 0,666 0,639 0,493 0,849 1,438 1,46 1,646 1,655 1,599
5,416 5,927 8,122 8,935 9,814 10,105 9,657 10,546 11,414 11,754 14,443
13,91
4 13,882 13,857 13,843 13,824 13,971 14,122 14,273 14,427 14,583 14,741
4,63 5,274 5,833 6,613 7,474 8,141 9,061 9,988 11,045 12,338 13,649
35,64
7 38,378 41,182 44,668 48,244 48,741 49,381 51,697 55,08 58,356 64,93
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
11,66
6 13,558 13,305 15,731 18,66 17,161 16,125 16,098 19,061 21,17 22,48
5,122 5,458 6,359 7,101 8,124 7,56 8,253 8,522 9,124 9,551 9,486
8,883 9,518 11,739 12,614 14,651 15,615 15,763 17,226 19,915 24,954 27,643
1,755 1,981 2,234 2,578 2,369 3,519 4,54 4,467 5,145 4,826 5,512
14,76
7 14,748 14,725 14,722 14,71 14,867 15,028 15,188 15,352 15,519 15,686
0,083 0,226 0,277 0,321 0,399 0,333 0,125 0,2 0,124 0,136 0,171
0,004 0,007 0,007 0,007 0,008 0,011 0,017
42,27
5 45,489 48,639 53,068 58,917 59,063 59,84 61,709 68,73 76,166 80,995
(Nguồn: IEA, Statistics)