Professional Documents
Culture Documents
Hà Nội, 03/2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Hà Nội, 03/2021
i
MỤC LỤC
BẢNG 1. 1 MỘT SỐ ỨNG DỤNG CỦA BÊ TÔNG NHẸ CHO CÁC CÔNG TRÌNH
TRÊN THẾ GIỚI 18
Y
Vỏ hộp xốp đựng đồ Hình 1: Hộp xốp trôi nổi trên mặt nước
2. Mục tiêu của đề tài.
Nghiên cứu sử dụng cốt liệu polystyrene tái chế để chế tạo bê tông nhẹ với khối lượng
thể tích từ 1000 – 1600 kg/m3.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: bê tông nhẹ cốt liệu rỗng polystyrene tái chế (BTN CLR) có
khối lượng thể tích từ 1000 kg/m3 đến 1600 kg/m3, cường độ chịu nén từ 5 - 10 MPa
- Phạm vị nghiên cứu:
+ Bê tông nhẹ sử dụng cốt liệu rỗng polystyrene tái chế và phụ gia khoáng
silica fume.
+ Bê tông nhẹ với khối lượng thể tích từ 1000-1600 kg/m3, cường độ nén của bê
tông từ 5-10 MPa;
4. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu lựa chọn nguyên vật liệu và phương pháp sử dụng trong nghiên
cứu.
8
- Nghiên cứu chế tạo bê tông nhẹ sử dụng cốt liệu rỗng polystyrene tái chế.
9
+ Cốt liệu rỗng tự nhiên: có nguồn gốc từ núi lửa ( đá bọt, tuff, núi lửa, xí núi lửa)
hoặc nguồn gốc trầm tích ( đá vôi, đá đolomit rỗng, trepen,...)
Cốt liệu thu được qua gia công cơ học các loại xỉ xốp là những thải phẩm luyện
kim, hóa chất hoặc năng lượng.
Cốt liệu được chế tạo bằng nung đất sét, diệp thạch, thủy tinh núi lửa..
- Loại thứ nhất: sản phẩm của quá trình phun trào núi lửa như: đá bọt, cát, tro núi lửa
hoặc tuýp núi lửa, dung nham núi lửa... Trong đó sỏi đá bọt có kích thước từ 5 đến 30
mm và khối lượng thể tích khoảng 500 kg/m3 với lỗ rỗng chiếm khoảng 80%, do có lỗ
rỗng kín nên sỏi đá bọt có độ hút nước nhỏ, hệ số dẫn nhiệt thấp, cường độ của sỏi từ
10-30 MPa, thích hợp trong chế tạo bê tông nhẹ cách âm, cách nhiệt.
- Loại thứ 2: sản phẩm của quá trình trầm tích hữu cơ như đá vôi sò, là loại đá rỗng có
khối lượng thể tích từ 500-1500 kg/m3, cường độ nén đạt từ 5-100 daN/cm2. Thường
được sử dụng làm vật liệu cách nhiệt hoặc làm cốt liệu cho bê tông nhẹ.
Cốt liệu rỗng nhân tạo được chia thành một số loại như sau:
10
Cốt liệu rỗng nhân tạo thu được từ tái chế công nghiệp như: xỉ lò cao, tro, xỉ
nhiệt điện hoặc các sản phẩm của quá trình chế biến nhiên liệu khác
Cốt liệu rỗng nhân tạo từ công nghệ đặc biệt như keremzit, agloporit, peclit...
- Kemrazit: là cốt liệu rỗng nhân tạo được chế tạo bằng cách nung làm phồng nở
những viên đất sét. Cốt liệu này có cấu trúc rỗng bé gồm chủ yếu là các lỗ rỗng kín,
bề mặt hạt nhẵn do thiêu kết.
- Agloporit: là loại hạt rỗng nhân tạo được tạo nên do thiêu kết và kết tụ trên ghi lò đối
với các loại đất sét dễ chảy, hoặc phế liệu khai thác than, cũng như các loại tro xỉ... Do
chủ yếu là lỗ rỗng hở thông nhau và bề mặt hạt gồ ghề lồi lõm nên agloporit có cấu
trúc kém ổn định, cường độ thấp hơn, độ hút nước cao hơn, lượng vữa và hồ xi măng
trong bê tông lớn hơn dẫn làm tăng đáng kể khối lượng thể tích của bê tông nhẹ.
- Xỉ xốp: Còn được gọi là đá bọt xỉ hoặc termozit được chế tạo bằng cách làm phồng
nở xỉ nóng chảy trong lò sau đó làm nguội, đập nhỏ và sàng phân loại. Loại cốt liệu
này tuy có cường độ cao nhưng cũng có nhược điểm giống như Agloporit.
- Xỉ hạt: là loại dạng hạt sỏi rỗng được tạo nên bằng phương pháp chuyên dụng như: xỉ
nóng chảy ở nhiệt độ ≥1200 °C. Đây là cốt liệu có chất lượng cao hơn so với xỉ xốp nói
trên. Xỉ hạt thường có độ rỗng không lớn, có khối lượng thể tích từ 400 đến 2000
kg/m3 và cường độ nén từ 25 đến 400 daN/cm 2. Xỉ hạt được gia công cơ học theo cỡ
hạt yêu cầu, được sử dụng trong chế tạo bê tông nhẹ hoặc bê tông nặng.
- Peclit là loại cốt liệu nhẹ, với cỡ hạt từ 5-20 mm có khối lượng thể tích từ 250 đến
400 kg/m3. Peclit được sản xuất từ sản phẩm của núi lửa, được sử dụng làm cốt liệu
cho bê tông nhẹ, đặc biệt khi kết hợp với các loại cốt liệu nhẹ khác sẽ chế tạo được
loại bê tông có khối lượng thể tích nhỏ, khả năng cách âm cách nhiệt tốt.
- Cốt liệu polystyrene: cốt liệu polystyrene phồng nở được sử dụng với vai trò là cốt
liệu nhẹ làm giảm khối lượng thể tích trong bê tông . Cốt liệu EPS là sản phẩm thu
được sau quá trình phồng nở các hạt polystyrene nguyên liệu ở nhiệt độ thích hợp. Các
hạt polystyrene nguyên liệu được chế tạo bằng cách polimer hoá nhũ tương styrol
(C6H5-CH=CH2) với sự có mặt của tác nhân gây nở izopentan (C 5H12). Dưới tác động
của nhiệt độ thích hợp, tác nhân gây nở sẽ tăng về thể tích và làm phồng nở hạt
polystyrene nguyên liệu.
11
Quá trình nở các hạt polystyrene nguyên liệu có thể diễn ra liên tục hoặc qua một vài
giai đoạn. Nếu được nở liên tục các hạt polystyrene nguyên liệu sẽ đạt kích thước yêu
cầu sau quá trình phồng nở. Theo công nghệ không liên tục, các hạt nguyên liệu được
nở sơ bộ trong công đoạn đầu, sau đó được chuyển qua các công đoạn sau để tiếp tục
quá trình phồng nở đến khi đạt kích thước yêu cầu.
Cốt liệu EPS sử dụng trong chế tạo bê tông không bảo dưỡng bằng biện pháp chưng
hấp là loại đã được hoàn thành quá trình phồng nở để có kích thước hạt ổn định. Các
hạt cốt liệu này được coi là đã hoàn thành quá trình phồng nở hoặc không còn khả
năng tiếp tục nở.
Cốt liệu EPS làm cốt liệu cho bê tông thường được phồng nở bằng hơi nước có nhiệt
độ cao trong điều kiện không giới hạn về mặt thể tích nên có dạng hình cầu. Kích
thước của các hạt sau khi nở có thể tăng tới 3,5- 5 lần so với kích thước hạt nguyên
liệu ban đầu hay thể tích của chúng có thể tăng từ 42,8 đến 135 lần. Kích thước các hạt
thu được phụ thuộc vào kích thước hạt nguyên liệu và chế độ phồng nở. Kích thước
các hạt thu được dưới cùng một điều kiện phồng nở (phụ thuộc vào công nghệ) là
tương đối đồng đều nhau.
Cốt liệu EPS có cấu trúc xốp, gồm các lỗ rỗng chứa khí và vách ngăn polystyrene.
Đường kính trung bình của lỗ rỗng từ 0,02 mm đến 0,2mm, chiều dày vách lỗ rỗng ừ
0,5 µm 18 µm. Các lỗ rỗng của hạt cấu tạo bởi các lỗ rỗng kín (từ 88,5 % đến 95,8%)
và lỗ rỗng hở ( từ 2,2 đến 2,8%) (pha rắn từ 1,4 % đến 9,3%).
12
Cốt liệu EPS có độ bền hoá cao, không bị phá huỷ trong môi trường kiềm. Đó là yếu tố
thuận lợi để sử dụng cốt liệu EPS trong bê tông. Khác với một số hợp chất hữu cơ
khác, polystyrene có độ bền thời tiết khá cao, ít bị lão hoá, chúng hầu như không bị
biến đổi dưới tác động của tia tử ngoại. Ngoài ra polystyrene bền vững dưới tác dộng
của các tác nhân gây ăn mòn vi sinh. Đồng thời, cốt liệu EPS cũng không tạo ra môi
trường thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn và nấm. Đây là một yếu tố quan trọng
khiến cho việc ứng dụng loại cốt liệu này đảm bảo độ bền cao và một môi trường vệ
sinh cho người sử dụng.
Cốt liệu EPS có khả năng biến dạng đàn hồi cao. Khi bị nén cốt liệu EPS không thể
hiện rõ ràng giới hạn bền nén và không xảy ra sự phá hoại dòn. Do đó giá trị giới hạn
bền nén của cốt liệu EPS thường được xác định bằng giá trị áp lực nén tương ứng với
giá trị biến dạng cho trước. Các nghiên cứu cho thấy cường độ cốt liệu EPS tỷ lệ
thuận với khối lượng thể tích của chúng. Mặt khác, cốt liệu EPS không độc, không thải
ra chlorofluorocarbon (CFC), hydro chlorofluorocarbon (HCFC) và formaldehyde, là
những chất có khả năng gây hại cho môi trường và người sử dụng. Cốt liệu EPS không
tạo ra khí nhà kính, không gây ô nhiễm không khí, nước hoặc hệ sinh thái.
Bên cạnh đó, kiệm tài nguyên thiên nhiên so với các sản phẩm tương tự ví dụ hạt
keramzit hay đá tup phồng nở. Bên cạnh đó, cốt liệu EPS là vật liệu có thể tái chế
được, không gây lãng phí rác thải. Đã có những nghiên cứu sử dụng tái chế
polystyrene định hình để tạo ra cốt liệu EPS tái chế và sử dụng cốt liệu tái chế này
trong bê tông.
Như vậy, với khối lượng thể tích nhỏ, độ bền hóa cao, cốt liệu EPS có thể sử dụng như
một loại cốt liệu nhẹ đầy tiềm năng để chế tạo bê tông nhẹ.
13
Cốt liệu EPS có dạng hình cầu chuẩn có cấu trúc xốp bên trong và bề mặt hạt trơn
nhẵn. Do cấu thành bởi phần lớn các lỗ rỗng kín nên cốt liệu EPS hầu như không thấm
nước. Do cốt liệu EPS hầu như không hút nước nên các tính năng của nó không thay
đổi ngay cả khi nó trực tiếp tiếp xúc với nước. Do đó, khác với các loại cốt liệu nhẹ
khác như keramzit hay aglopolit, vốn là loại cốt liệu nhẹ có đặc điểm hút nước mạnh,
sự có mặt của polystyrene phồng nở trong bê tông không làm thay đổi lượng nước tự
do, cũng như tỷ lệ nước trên xi măng của bê tông nền. Cốt liệu EPS không tương tác
về mặt hoá học với bê tông nền mà chỉ làm giảm khối lượng thể tích của hỗn hợp bê
tông. Tuy nhiên, sự có mặt của polystyrene phồng nở với mô đun đàn hồi thấp cũng có
ảnh hưởng nhất định đến các tính chất vật lý, cơ lý, biến dạng,... của bê tông nền.
Có thể coi bê tông polystyrene là hệ vật liệu composit mà ở đó cốt liệu EPS được phân
bố đều trong pha nền là bê tông nặng thông thường hoặc vữa. Trong đó, cốt liệu EPS
được đưa vào nhằm biến tính pha nền theo hướng làm giảm khối lượng thể tích và qua
đó cũng làm thay đổi các tính chất khác của hỗn hợp bê tông và bê tông.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cốt liệu nhẹ trong chế tạo bê tông
14
Những năm đầu của thế kỷ 20, S.I.huyde đã sử dụng lò quay để làm phồng nở đất sét
tạo thành vật liệu nhẹ và cứng được coi là loại cốt liệu rỗng lớn và có khối lượng thể
tích nhỏ. Cũng thời gian này, Stranb người đầu tiên đã sử dụng xỉ than bi tum để làm
cốt liệu chế tạo khối xây bê tông. Loại sản phẩm này ngày càng phát triển. Ở Mỹ năm
1931 keramzit đã được sản xuất bằng lò quay tại 7 nhà máy , đến năm 1954 lên tới 33
nhà máy và đến năm 1960 đã lên tới 60 nhà máy. Với tốc độ phát triển sản xuất
keramzit như vậy nên năm 1962 sản lượng trung bình của các nhà máy lên tới
65000m3 . Hàng ngày xuất xưởng tới 2003 keramzit. Tới những năm tiếp theo, bằng
các thiết bị hiện đại người ta cho ra lò từ 1000 đén 200m3 mỗi ngày. Năm 1962 với 22
nhà máy luyện kim thải ra hơn 2,3 triệu m3 xỉ lò cao. Loại xỉ này dùng sản xuất cốt
liệu rỗng keramzit được phân bố rộng rãi khắo trong 27 bang của Hoa Kỳ.
Bê tông nhẹ cốt liệu rỗng được sử dụng rộng rãi cho các công trình xây dựng dân
dụng, công nghiệp, giao thông… ở hầu hết các bang trong nước Mỹ. Năm 1937, Mỹ
sử dụng bê tông nhẹ cốt liệu rỗng làm mặt đường của cây cầu San – Francico- Oaklan.
Đây là giải pháp hữu hiệu đảm bảo tính kinh tế cho cây cầu này. Một ví dụ khác đầy
sức thuyết phục là công trình xây dựng khách sạn ở Lost-angiơlet, đã sử dụng tới
38000m3 bê tông keramzit, nhờ đó mà khối lượng kết cấu giảm đi 33500 tấn. Tính ra
chi phí xây dựng giảm được 15% giá trị tínnh bằng tiền.
Tương tự cầu Narron-Tamaco bị sập, được thay bằng cầu treo khác, sử dụng kết cấu bê
tông nhẹ trong thân cầu, với thiết kế hợp nhất các làn đường phụ thêm mà không cần
phảu thay trụ cầu mới. Từ những năm 5 những nhà nghiên cứu về bê tông nhẹ của Mỹ
đã đưa ra yêu cầu kỹ thuật về cốt liệu nhẹ. Đến năm 1960, đã có tiêu chuẩn ASTM-
C330-60, dến năm 1968 có tiêu chuẩn ÁTMC330-64T cho cốt liệu rỗng.
Đối với cốt liệu nhẹ, các nhà nghiên cứu đã đi sâu về thành phần hạt, cường độ hạt cốt
liệu, độ hút nước và các tính chất cơ lý khác nhau của cốt liệu ảnh hưởng tới các tính
chất của hỗn hợp bê tông và bê tông. Nhưng những nghiên cứu này cũng chỉ đề cập tới
những vùng ôn đới hoặc khô nóng riêng rẽ, mà chưa có nghiên cứu nào đề cập đến sự
ảnh hưởng của môi trường nóng ẩm như điều kiện khí hậu nóng ẩm của Việt Nam.
Hiện nay, những quy định về bê tông nhẹ cốt liệu rỗng được thể hiện trong tiêu chuẩn
ASTM C300, ACI 211.2-91.
15
Từ năm 1930 đến năm 1945 bê tông nhẹ cốt liệu rỗng được sử dụng rộng rãi ở các
nước Cộng hoà như Acmênia, Tbilixi thủ đô nước cộng hoà Cruzia, hoặc ở Matscơva
của Liên bang Nga, và nhiều thành phố khác. Năm 1949 – 1950 bê tông nhẹ cốt liệu
rỗng bắt đầu được sử dụng cho các công trình thuỷ lợi. Trong những năm 1950-1973
tại nước cộng hoà Acmênia đã sử dụng tới 2 triệu m3 bê tông nhẹ trong các công trình
thuỷ lợi.
Từ năm 1946, sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, các trung tâm nghiên cứu , các
trường đại học, đặc biệt là viện nghiên cứu bê tông và bê tông cốt liệu thép đã nghiên
cứu , đưa vào sử dụng các tấm tường, tấm sàn, tấm ngăn, tấm sàn mái, từ bê tông xỉ có
khối lượng thể tích 1260kg/m3 với cường độ chịu nén đạt 50daN/cm2 . Trên cơ sở cốt
liệu là xỉ lò cao, xỉ bọt, xỉ nhiệt điện, năm 1957 đã sản xuất hơn 1 triệu m3 blốc lớn và
tấm tường cho các công trình xây dựng. Những năm sau này, khi các ngành công
nghiệp năng lượng, luyện kim phát triển trong toàn Liên bang Xô Viết cũ, việc sản
xuất bê tông nhẹ từ nguồn cốt liệu rỗng càng phát triển mạnh hơn.
Vào những năm của thập kỷ 60 , người ta đã sản xuất cốt liệu rỗng trên cơ sở tro xỉ
nhiệt điện như : sỏi tro vê viên, cốt liệu agloporit. Đặc biệt từ đầu những năm 70, đã
sản xuất được bê tông agloporit. Năm 1973 một ngôi nhà 16 tầng đã được xây dựng,
bằng phương pháp cốt pha trượt với việc sử dụng cốt liệu là agloporit. Trong nhiều
nghiên cứu, các tác giả đã tìm ra mối quan hệ giữa thành phần hạt, cốt liệu bé, mô đun
độ lớn hạt của cát, nhiệt độ môi trường và ảnh hưởng củ chúng tới các tính chất kỹ
thuật của hỗn hợp bê tông và bê tông. Do đặc tính của cốt kiệu agloporit, trên bề mặt
có nhiều lỗ rỗng hở và các lỗ rỗng thường thông nhau, nên lượng xi măn cho 1m3 bê
tông thường lớn hơn, so với bê tông này.
Đối với cốt liệu rỗng polystyrene, các công trình nghiên cứu đã công bố thì những
nghiên cứu đầu tiên về bê tông polystyrene được tiến hành vào giữa thập niên 70 của
thế kỉ XX tại Newzealand tiếp đến là Liên Xô cũ và Pháp. Những nghiên cứu đầu tiên
về bê tông polystyrene ở Liên Xô cũ và Pháp,.. được tiến hành vào cuối các năm 80
đầu 90. Cho đến nay bê tông Polystyrene đã được ứng dụng trong lĩnh vực xây dựng ở
nhiều nước trên thế giới như LB Nga, CH Pháp, CH Séc, CH Italia, LB Đức,..
16
Các nghiên cứu tại LB Nga chủ yếu tạp trung vào bê tông Polystyrene có khối lượng
thể tích trong phạm vi từ 150 kg/m 3 đến 600 kg/m3 với cốt liệu EPS kích thước từ 20
mm và đã ban hành tiêu chuẩn kĩ thuật quốc gia GOST P 51263-99
Các nghiên cứ về bê tông nhẹ trên cơ sở cốt liệu EPS tại Pháp với thương hiệu Polys
Beto được tiến hành từ những năm 80. Điểm đặc biệt của Polys Beto là sử dụng cốt
liệu EPS đã qua công đoạn sử lý bề mặt đặc biệt bao gồm việc bao phủ bề mặt hạt
bằng một lớp ưa nước và làm cho chúng tích điện trái dầu với hạt xi măng. Sau khi sử
lý các hạt cốt liệu này sẽ dễ dàng nhào trộn với xi măng, nước và phụ gia tạo hỗn hợp
bê tông có độ đồng nhất cao.Tại CH Séc vật liệu được xử lý theo công nghệ
Prostyrene. Công nghệ này cho phép các hạt nguyên liệu mới phồng nở hoặc
polystyrene tái chế đã được nghiền nhỏ giúp làm hạ giá thành vật liệu và có ý nghĩa
lớn trong việc xử lý tái chế giúp bảo vệ môi trường.
Ngoài ra bê tông nhẹ trên cơ sở polystyrene cũng được sử dụng rộng rãi ở LB Đức
(Styrobeton) ở Italy (Izotego) và nhiều nước khác. Trong khoảng 20 năm trở lại đây
cùng với sự phát triển của các quốc gia công nghiệp mới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn
Độ, Trung Quốc, Đài Loan… thì các nghiên cứu ứng dụng của các quốc gia này trên
lĩnh vực nghiên cứu về bê tông polystyrene cũng xuất hiện nhiều
Ở Việt Nam việc nghiên cứu và sản xuất cốt liệu keramzit và bê tông kemramzit chưa
được chú ý đúng mức. Nguyên liệu để sản xuất keramzit ở nước ta được một số cơ
quan của Tổng cục Địa chất thuộc Bộ Công nghiệp nghiên cứu điều tra vào các năm
1975 đến năm 1977. Các kết quả khảo sát thăm dò địa chất cho thấy nguyên liệu để
sản xuất keramzit khá dồi dào. Viện Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) đã tiến hành
nghiên cứu công nghệ sản xuất keramzit và bê tông keramzit nhưng kết quả mới dừng
lại ở phạm vi thăm dò thử nghiệm chưa được triển khai áp dụng trong thực tế. Trường
Đại học Xây dựng Hà Nội đã có nghiên cứu về việc chế tạo bê tông keramzit trong
điều kiện khí hậu nóng ẩm Việt Nam nhưng cũng mới dừng lại ở mặt lý thuyết. Công
ty cổ phần thương mại và sản xuất Bemes là cơ sở duy nhất hiện nay đã đầu tư chế tạo
sỏi keramzit nhưng chỉ ở quy mô pilốt. Sản phẩm sỏi keramzit của Công ty Bemes đã
được sử dụng chế tạo bê tông keramzit mác 200 trong một số công trình nhà ở tại Hà
Nội, nhà tiền chế vùng bão lụt Nam Trung Bộ, trường học ở Lai Châu nhưng khối
lượng còn hạn chế.
17
Năm 1985 Nguyễn Đình Nghị và công tác viên đã nghiên cứu công nghệ sản xuất
keramzit từ nguồn đất sét Phú Long và cũng đã có một số nghiên cứu về bê tông sử dụng
sản phẩm đó. Từ những năm 90 của thế kỷ 20, sau khi sản xuất thành công sỏi nhẹ
KRZ, nhiều công trình nghiên cứu về bê tông keramzit đã được thực hiện. Năm 1997,
đã có tiêu chuẩn TCVN 6220-97 quy định các tính chất của sỏi, dăm sỏi và cát
keramzit. Gần đây các tác giả Nguyễn Văn Chánh và Lê Phúc Lâm đã nghiên cứu chế
tạo sỏi keramzit từ một số nguồn sét phía Nam đất nước. Đề tài đã lựa chọn được
nguyên liệu, tính toán được thành phần phối liệu và đề xuất công nghệ nung hợp lý,
tuy nhiên sản phẩm đang ở mức độ thử nghiệm.
Trong 20 năm trở lại đây, bê tông sử dụng cốt liệu polystyrene phồng nở cũng được
nghiên cứu và ứng dụng tại nhiều kết cấu công trình như tấm tường vách ngăn, viên
xây, trong các kết cấu sàn, dầm chịu lực… Hiện nay bê tông này chủ yếu được ứng
dụng trong sản xuất viên xây nhẹ, tấm tường ngăn.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG BÊ TÔNG NHẸ TRÊN THẾ
GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm về bê tông nhẹ
Bê tông nhẹ là vật liệu đá nhân tạo ược làm từ hỗn hợp chất kết dính, thường là xi
măng, cốt liệu, nước, phụ gia khoáng, phụ gia hóa học nếu có, được kết hợp theo một
tỷ lệ nhất định, trải qua quá trình trộn, tạo hình và rắn chắc có khối lượng thể tích <
1800 kg/m3.
Ngoài ưu điểm như bê tông thường bê tông nhẹ còn có tính cách âm, cách nhiệt tốt
hơn và đặc biệt tổng giá thành của công trình nhà cao tầng xây dựng bằng bê tông nhẹ
thường thấp hơn đáng kể.
Tại Việt Nam bê tông nhẹ có thể được phân loại theo [2] như sau:
- Theo khối lượng thể tích và phạm vi sử dụng:
+ Bê tông cách nhiệt còn gọi là bê tông rất nhẹ, có khối lượng thể tích ở trạng thái
khô mvbk ≤ 500kg/m3 và cường độ nén Rnén = 15÷35daN/cm3 được sử dụng với mục
đích cách nhiệt,
+ Bê tông công trình cánh nhiệt cần có cường độ tương đối lớn để chịu tải trọng
cần thiết, đồng thời có hệ thống có hệ số dẫn nhiệt để thoả mãn yêu cầu cánh nhiệt cho
công trình. Loại này cí cường độ nén Rnén = 35÷100daN/cm3 và khối lượng thể tích
mvbk ¿ 600÷1400 kg/m3 .
+ Bê tông công trình cần thoả mãn chủ yếu yêu cầu chịu lực : Rnén = 150÷400
daN/cm3 , mvbk ¿ 1400÷1800 kg/m3.
18
- Theo cấu trúc có:
+ Bê tông nhẹ cấu trúc đặc, còn gọi là bê tông vữa đặc, trong đó phần rỗng giữa csc
hạt cốt liệu rỗng được lấp đầy bằng vữa cát nhẹ hoặc cát thường hoặc phối hợp hai loại
cát đó.
+ Bê tông nhẹ cấu trúc bán đặc , còn gọi là bê tông nhẹ vữa rỗng, trong đó phần
vữa cũng được tạo rỗng theo phương pháp tạo bọt, tạo khí hay ngậm khí có dùng cát
hoặc không dùng cát.
+ Bê tông nhẹ cấu trúc rỗng lớn (phần rỗng giữa các hạt cốt liệu để hổng) được tạo
nên bằng cách liên kết khối các hạt cốt liệu rỗng bằng hồ xi măng thường không dùng
cát nên gọi là bê tông nhẹ cấu trúc rông lớn không cát và để giảm lượng dùng xi măng
có thể dùng các loại phụ gia khoáng nghiền mịn.
- Theo loại cốt liệu rỗng, chia làm hai loại:
+ Bê tông cốt liệu tự nhiên
+ Bê tông cốt liệu nhân tạo
- Ngoài ra có thể phân loại theo chất kết dính được sử dụng: vôi-silic, xi măng,…
Trên thế giới có một số cách phân loại bê tông nhẹ theo ASTM C 330 và ASTM C332.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng bê tông nhẹ trên thế giới và ở Việt Nam
a. Tình hình nghiên cứu và sử dụng bê tông nhẹ trên thế giới
Ở các nước công nghiệp phát triển vật liệu bê tông nhẹ được sử dụng rất phổ biến
trong các lĩnh vực khác nhau với mục đích giảm tải trọng bản thân công trình, cách
âm, cách nhiệt tốt,… Bê tông nhẹ được sử dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong xây
dựng công trình. [10]
- Bê tông nhẹ có khối lượng thể tích thấp với phương pháp đổ tại chỗ:
+ Cách nhiệt cho mái nhà, mái hiên và mái dốc che mưa.
+ Tấm lát sàn nhà nhiều tầng và gắn vật liệu ưa thích trên vòm bê tông nhẹ có thép,
nhịp ngắn và tấm bê tông cốt thép và cốt thép ứng dụng trước.
+ Lớp cách ly của tường có lỗ cho nhà kho lạnh và kết nối không chịu được lực của
nhà ở khác.
+ Tường ngăn lửa - được bơm ở giữa các mô đun nhà đã xây dựng.
+ Lót và lấp đầy các bệ đỡ tường có đường kính lớn và các thùng được chôn, làm
móng và lấp đầy cho thùng nhựa có cốt sợi thủy tinh hoặc thùng thép, ở trên và ở dưới.
+ Lớp cách ly của ống dưới đất dùng cho tuyến nóng và tuyến lạnh.
Bê tông nhẹ có khối lượng thể tích thấp với phương pháp đúc trước:
19
+ Các khối cách ly cho tường bê tông hoặc tường xây dựng.
+ Làm mái và mái.
+ Panel chống cháy và tường ngăn lửa lắp ghép.
Bê tông nhẹ kết cấu với phương pháp đúc tại chỗ:
+ Tấm lát sàn cách âm trong nhà ở.
+ Trên ván khuôn vĩnh cửu bằng thép hoặc ván khuôn bằng gỗ tạm thời trong kết
cấu sàn nhà nhiều tầng.
+ Bảo vệ chống cháy cho thép kết cấu.
+ Tường chịu lực, sàn mái, móng đổ tại chỗ bằng bơm cho nhà giá rẻ, khối xây.
Bê tông hợp nhẹ kết hợp với phương pháp trước:
+ Đúc tường có cốt là lưới thép, mái nhà và panel sàn
Với nhiều đặc tính tốt, sản phẩm bê tông nhẹ đã được khẳng định và đứng vững trên
thị trường thế giới. Chính nhu cầu sử dụng một khối lượng lớn snar phẩm bê tông nhẹ
như vậy nên đã tạo điều kiện thuc đẩy phát triển công nghiệp bê tông nhẹ ở nhiều nước
trên thế giới đặc biệt là các nước Mỹ, Nga , Đức,…
Bảng 1. 1 Một số ứng dụng của bê tông nhẹ cho các công trình trên thế giới
1. Oaklan, CA-xây dựng tại Cypren 76.300 m3 giảm lún của đường và nâng
expressway Dự án – Califonia Dot cao đường
4. Sân bay Egress Ramps Logan Bostom 25.170 m3 các đường vào cầu cho địa
Tunnen Teal Williams dự án CA/T hình chịu tải trọng
20
5. Chỗ đỗ xe cáo cấp và chợ Thay thế cho 12017 m3 đất yếu được dọn
Marthampton, MA Trof Reality Crarnett đi
6. Tunen cho nước chảy sông Missouri 9156 m3 đổ hàng năm cho 4569 m của
Thành phố KanSann, Misouri ống có đường kính tỏng 2,28m
Sở kiểm tra nước và môi trường
Hình 1. 3 Tòa nhà Quốc hội – công trình tiêu biểu sử dụng bê tông nhẹ
Ngoài ra bê tông nhẹ còn được sử dụng để xây hàng trăm công trình khác trên khắp cả
nước. Khi sử dụng bê tông nhẹ, hiệu quả kinh tế kỹ thuật mang lại trong quá trình xây
dựng và sử dụng công trình sau này như tiết kiệm khối lượng bê tông, cốt thép cho
phần gia cố móng và các kết cấu công trình ở những nơi có nền đất yếu, chi phí vận
chuyển , sử dụng máy, xử lý cách âm, cách nhiệt trong giai đoạn khai thác và vận
hành.
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về bê tông nhẹ như đề tài nghiên cứu của GS.TS.
Nguyễn Tiến Đích – Nghiên cứu sử dụng vật liệu nhẹ cho nhà và công trình, PGS.TS
Nguyễn Mạnh Phát – Nghiên cứu chế tạo blcok nhẹ từ bê tông khí dùng trong xây
dựng nhà cao tầng; TS. Nguyễn Văn Đỉnh – Nghiên cứu chế tạo bê tông nhẹ Kezamit
cấu trúc rỗng; Nguyễn Trọng Lâm, Phạm Hữu Hanh – Nghiên cứu nâng cao chất
lượng bê tông khí chưng áp sử dụng cho nhà siêu cao tầng ở Việt Nam. Tuy nhiên việc
nghiên cứu chế tạo bê tông nhẹ sử dụng cốt liệu polystyrene tái chế hiện nay chưa có
và có ý nghĩa thực tiễn cao.
Các nghiên cứu về Bê tông nhẹ cốt liệu rỗng Polystyrene đã được thực hiện tại Việt
Nam, tuy nhiên, cho đến nay loại vật liệu này vẫn chưa được ứng dụng nhiều trong
thực tế. Từ năm 2015, Công ty Cổ phần tường nhẹ Nucewall và công ty An Quý Hưng
25
đã nghiên cứu và sản xuất tấm tường nhẹ sử dụng bê tông cốt liệu rỗng Polystyrene,
sản phẩm bước đầu đã được dùng trong các công trình xây dựng dân dụng và công
nghiệp. Việc sử dụng tấm tường nhẹ này trong các công trình bước đầu mở ra triển
vọng có thể ứng dụng đại trà làm cấu kiện bao che thay thế cho các sản phẩm truyền
thống như: tường gạch đất sét nung, tường dùng xi măng cốt liệu và tường sử dụng bê
tông khí chưng áp.
Giá trị
Tính chất Đơn vị EPS nguyên sinh EPS tái
Loại hạt 1 Loại hạt 2 chế
Cỡ hạt mm 2,5 ÷ 5 1,25 ÷ 2,5 0,315 ÷ 5
Khối lượng thể tích đổ đống kg/m3 0,041 0,139 0,096
Khối lượng thể tích hạt kg/m3 6.9 23.3 20.8
37
2.1.3. Silicafume
Sử dụng Silicafume Elkem 920U có một số tính chất [8] được thể hiện dưới bảng sau:
2.3. NGHIÊN CỨU TÍNH TOÁN THÀNH PHẦN CẤP PHỐI BÊ TÔNG
Khối lượng thể tích của bê tông được quyết định bằng thể tích của Polystyrene sử
dụng. Vì khối lượng thể tích của hạt Polystyrene rất nhỏ nên có thể coi thể tích của
40
phần Polystyrene chiếm chỗ là phần thể tích rỗng của bê tông. Các bước tính toán
thành phần cấp phối bê tông nhẹ cốt liệu rỗng được thực hiện theo tài liệu hướng dẫn
thí nghiệm Vật liệu cách nhiệt như sau:
(1) Tính thể tích Polystyrene chiếm chỗ
vbkho N
rb 1 ( )
Độ rỗng của bê tông có thể tính theo công thức: kc R
Thể tích của phần Polystyrene chiếm chỗ (thể tích rỗng) được tính:
V p Vr rb V
Trong đó: V - là thể tích của hỗn hợp bê tông (thường tính cho 1 m 3 hoặc một mẻ
trộn)
rb - độ rỗng của bê tông
kc – Hệ số tính đến lượng nước liên kết hóa học với tổng thành phần chất
rắn ở trạng thái khô (trong tính toán sơ bộ lấy kc = 1.1)
- thể tích riêng phần của hỗn hợp các thành phần rắn (l/kg); được xác
1
định theo công thức = ρ .
hh
Trong đó: 0 là khối lượng thể tích trong hạt của Polystyrene
hat
V pdd
Trong đó: - thể tích đổ đống của Polystyrene
41
0hat - khối lượng thể tích trong hạt của Polystyrene
p
: khối lượng thể tích polystyrene
DXM : khối lượng thể tích đá xi măng (2200 kg/m3)
Qua thí nghiệm xác định được khối lượng của 3 loại hạt polystyrene là:
Bảng 2. 5 Tính chất của EPS
Loại hạt Hạt nhỏ Hạt to Hạt tái chế
KLTT (kg/m3) 23.3 6.9 20.8
Tính toán cấp phối sơ bộ bê tông nhẹ sử dụng EPS: trong đề tài này, bê tông nhẹ lựa
chọn nghiên cứu với khối lượng thể tích tương ứng: 1200 kg/m 3 và 1000 kg/m3. Tỷ lệ
N/X lựa chọn là 0.3. Để cải thiện tính công tác của hỗn hợp bê tông đề tài sử dụng phụ
gia siêu dẻo (PGSD), các tính chất của PGSD đã được đề cập ở phần trên. Do thể tích
của PGSD không lớn, do vậy đề tài không đưa vào phần tính toán cấp phối, đồng thời
42
lượng phụ gia siêu dẻo lấy theo khối lượng chất kết dính. Hàm lượng bọt khí lựa chọn
là 3%, tính toán cấp phối sơ bộ sử dụng hạt EPS tái chế được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2. 6 Bảng cấp phối sơ bộ ban đầu
KLTT, 3
PGSD, Lượng vật liệu tính cho 1m3
TT Vr, m N/CKD
kg/m3 % XM, kg N, kg PG, kg VEPS, lít
CP1 1000 0.495 0.3 0.4 767 230 3.1 495
CP2 1200 0.394 0.3 0.4 920 256 3.7 394
43
Từ cấp phối sơ bộ thấy được khối lượng thể tích, cường độ và tính công tác của bê
tông có ảnh hưởng bởi sự thay đổi hàm lượng sử dụng EPS.
3.2. ẢNH HƯỞNG CỦA HÀM LƯỢNG CỐT LIỆU RỖNG POLYSTYRENE
ĐẾN MỘT SỐ TÍNH CHẤT CỦA BÊ TÔNG
Thí nghiệm từ những cấp phối sơ bộ nhận thấy khối lượng thể tích có thay đổi so với
tính toán ban đầu tuy nhiên phù hợp với yêu cầu đặt ra. Trên cơ sở các kết quả sơ bộ
đạt được, đề tài tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng cốt liệu rỗng EPS, tỷ
lệ N/CKD và phụ gia khoáng SF đến các tính chất của bê tông nhẹ, đề tài tiến hành
thực nghiệm như sau:
Bảng 3. 2 Cấp phối bê tông sử dụng trong nghiên cứu
Tỷ lệ thành phần vật liệu Lượng vật liệu tính cho 1m3
TT VEPS, PGSD,
N/CKD SF, % XM SF SD N VEPS
m3 %
1 0.30 0.25 0.4 1150 0.0 4.6 345 250
2 0.30 0.30 0.4 1074 0.0 4.3 322 300
3 0.30 0.40 0.4 920 0.0 3.7 276 400
4 0.30 0.50 0.4 767 0.0 3.1 230 500
5 0,25 0.25 0.6 1194 0.0 7.2 299 250
6 0,25 0.30 0.6 1115 0.0 6.7 279 300
44
7 0,25 0.40 0.6 955 0.0 5.7 239 400
8 0,25 0.50 0.6 796 0.0 4.8 199 500
9 0,2 0.25 0.9 1241 0.0 11.2 248 250
10 0,2 0.30 0.9 1158 0.0 10.4 232 300
11 0,2 0.40 0.9 993 0.0 8.9 199 400
12 0,2 0.50 0.9 827 0.0 7.4 165 500
13 0.30 0.25 10 0.4 1035 115.0 4.6 345 250
14 0.30 0.30 10 0.4 966 107.4 4.3 322 300
15 0.30 0.40 10 0.4 828 92.0 3.7 276 400
16 0.30 0.50 10 0.4 690 76.7 3.1 230 500
17 0,25 0.25 10 0.6 1075 119.4 7.2 299 250
18 0,25 0.30 10 0.6 1003 111.5 6.7 279 300
19 0,25 0.40 10 0.6 860 95.5 5.7 239 400
20 0,25 0.50 10 0.6 717 79.6 4.8 199 500
21 0,2 0.25 10 1.0 1116 124.0 12.4 248 250
22 0,2 0.30 10 1.0 1041 115.7 11.6 231 300
23 0,2 0.40 10 1.0 893 99.2 9.9 198 400
24 0,2 0.50 10 1.0 744 82.6 8.3 165 500
3.2.1. Ảnh hưởng của hàm lượng cốt liệu nhẹ đến khối lượng thể tích của hỗn
hợp bê tông.
Bảng 3. 3 Ảnh hưởng của hàm lượng hạt EPS đến tính khối lượng thể tích của hỗn
hợp bê tông
Tỷ lệ Thể tích Tỷ lệ Thể tích
Kí hiệu KLTT Kí hiệu KLTT
N/CKD hạt EPS N/CKD hạt EPS
CP1 0,3 0.25 1491 I1 0,3 0.25 1666
CP2 0,3 0.30 1391 I2 0,3 0.30 757
CP3 0,3 0.40 1238 I3 0,3 0.40 1273
CP4 0,3 0.50 1010 I4 0,3 0.50 1049
CP5 0,25 0.25 1552 I5 0,25 0.25 1592
CP6 0,25 0.30 1474 I6 0,25 0.30 1471
CP7 0,25 0.40 1310 I7 0,25 0.40 1304
CP8 0,25 0.50 1127 I8 0,25 0.50 1097
45
Ảnh hưởng của hàm lượng hạt polystyrene tái chế đến khối lượng thể tích của hỗn hợp
bê tông được thể hiện . Kết quả thí nghiệm cho thấy việc sử dụng hạt EPS với hàm
lượng khác nhau có ảnh hưởng trực tiếp tới khối lượng thể tích của bê tông.Khi tăng
hàm lượng hạt EPS thì thể tích bê tông giảm.
Đối với mẫu không sử dụng phụ gia hoạt tính Silicafume hàm lượng EPS sử dụng đến
70% thì khối lượng thể tích nhỏ nhất của bê tông là 1010 kg/m 3 và lớn nhất là 1184
kg/m3. Khi hàm lượng EPS giảm xuống 60%, 50%, 40% và 30% thì khối lượng thể
tích của bê tông tăng lên.
Bên cạnh đó tỷ lệ N/CKD cũng ảnh hưởng đến khối lượng thể tích của bê tông. Tỷ lệ
N/CKD càng lớn thì khối lượng thể tích càng nhỏ và ngược lại. Qua thí nghiệm cho
thấy tỷ lệ N/CKD quá nhỏ thì hỗn hợp bê tông khó đạt tính công tác.
2000
V(EPS)=0,25% V(EPS)=0,3%
Khối lượng thể tích của bê tông, kg/m3
V(EPS)=0,4% V(EPS)=0,5%
1600
1200
800
400
0
N/CKD=0.3 N/CKD=0.25 N/CKD=0.2
Thể tích hạt xốp EPS
Hình 3. 1 Ảnh hưởng hàm lượng EPS tới khối lượng thể tích của bê tông (SF=0%)
Đối với mẫu không sử dụng phụ gia hoạt tính Silicafume hàm lượng EPS sử dụng đến
70% thì khối lượng thể tích nhỏ nhất của bê tông là 1049 kg/m 3 và lớn nhất là 1125
kg/m3. Khi hàm lượng EPS giảm xuống 60%, 50%, 40% và 30% thì khối lượng thể
tích của bê tông tăng lên.
46
2000
V(EPS)=0,25% V(EPS)=0,3%
1200
800
400
0
N/CKD=0.3 N/CKD=0.25 N/CKD=0.2
Hình 3. 2 Ảnh hưởng hàm lượng EPS tới khối lượng thể tích của bê tông (SF=10%)
Trong nghiên cứu này còn đánh giá tỷ lệ N/CKD cũng ảnh hưởng đến khối lượng thể
tích của bê tông. Tỷ lệ N/CKD càng lớn thì khối lượng thể tích càng nhỏ và ngược lại.
Qua thí nghiệm cho thấy tỷ lệ N/CKD quá nhỏ thì hỗn hợp bê tông khó đạt tính công
tác.
Bên cạnh đó nghiên cứu cũng đưa ra được kết quả sự phân tầng theo khối lượng thể
tích của bê tông.
Để xác định độ phân tầng làm thí nghiệm như sau :
- Chia mẫu có kích thước 100×100×100 mm thành 4 phần bằng nhau theo chiều cao
đổ của mẫu.
- Dùng máy cắt cắt mẫu ra thành 4 phần như đã chia ở trên
- Sau đó sấy khô mẫu đã cắt đến khối lượng không đổi
- Tiến hành cân và đo chiều cao của từng phần đã cắt sau sấy để tính khối lượng thể
tích từng phần để so sánh.
47
Qua kết quả có thể thấy các mẫu có độ chênh lệch khối lượng theo chiều cao của mẫu
không đáng kể thể hiện mức độ phân tầng là không nhiều.
3.2.2. Ảnh hưởng của hàm lượng cốt liệu nhẹ đến cường độ nén của bê tông.
Trong nghiên cứu này sẽ trình bày kết quả ảnh hưởng của hạt EPS, ảnh hưởng của việc
sử dụng phụ gia hoạt tính Silicafume đến cường độ chịu nén của bê tông.
49
Bảng 3. 5 Kết quả nén của bê tông mẫu SF=0% (CP) và mẫu SF=10%(I)
Thể Thể
Tỷ lệ Tỷ lệ
tích Rn KH tích KLTT Rn
KH N/CKD KLTT N/CKD
EPS MPa EPS kg MPa
% %
(%) (%)
CP1 0,3 0.25 1491 15,5 I1 0,3 0.25 1666 19,1
CP2 0,3 0.30 1391 13,4 I2 0,3 0.30 1513 16,0
CP3 0,3 0.40 1238 9,6 I3 0,3 0.40 1273 8,5
CP4 0,3 0.50 1010 6,3 I4 0,3 0.50 1049 5,9
CP5 0,25 0.25 1552 21,0 I5 0,25 0.25 1592 16,0
CP6 0,25 0.30 1474 16,6 I6 0,25 0.30 1471 9,7
CP7 0,25 0.40 1310 10,6 I7 0,25 0.40 1304 8,6
CP8 0,25 0.50 1127 6,6 I8 0,25 0.50 1097 5,3
CP9 0,2 0.25 1737 30,8 I9 0,2 0.25 1678 24,9
CP10 0,2 0.30 1610 19,9 I10 0,2 0.30 1476 14,2
CP11 0,2 0.40 1436 14,6 I11 0,2 0.40 1327 10,6
CP12 0,2 0.50 1185 7,5 I12 0,2 0.50 1125 8,7
Để thấy được sự ảnh hưởng của hàm lượng hạt EPS tới cường độ nén của bê tông
chúng em đã thể hiện kết quả dưới dạng biểu đồ để đánh giá được một cách khách
quan nhất.
350
V(EPS)=0,25% V(EPS)=0,3%
300
V(EPS)=0,4% V(EPS)=0,5%
Cường độ nén, MPa
250
200
150
100
50
0
N/CKD=0.3 N/CKD=0.25 N/CKD=0.2
Thể tích hạt EPS
Hình 3. 4 Ảnh hưởng của hàm lượng hạt EPS đến cường độ nén bê tông (SF=0%)
50
300
V(EPS)=0,25% V(EPS)=0,3%
250 V(EPS)=0,4% V(EPS)=0,5%
150
100
50
0
N/CKD=0.3 N/CKD=0.25 N/CKD=0.2
Thể tíc hạt EPS
Hình 3. 5 Ảnh hưởng của hàm lượng hạt EPS tới cường độ nén bê tông (SF=10%)
Kết quả thí nghiệm cho thấy tùy thuộc vào hàm lượng hạt EPS sử dụng cường độ nén
của bê tông đạt từ 3,6 Mpa đến 30,8 Mpa đối với mẫu không sử dụng Silicafume và
5,3 – 24,9 Mpa đối với mẫu sử dụng Silicafume. Khi giảm hàm lượng hạt EPS thì khối
lượng thể tích của bê tông tăng đồng thời cường độ nén của bê tông tăng. Cường độ
nén lớn nhất đạt 30,8 MPa và 24,9 MPa khi sử dụng 40% hạt EPS.
Tỷ lệ N/CKD cũng ảnh hưởng tới cường độ của bê tông., tỷ lệ N/CKD càng giảm thì
cho cường độ bê tông càng cao. Cường độ nén của bê tông đạt cao nhất ở tỷ lệ N/CKD
bằng 20%. Tuy nhiên với hỗn hợp bê tông có sử dụng Silicafume thì cường độ nén của
bê tông có tỷ lệ N/CKD bằng 30% lại lớn hốn với 25%. Như vậy ta có thể thấy phụ gia
hoạt tính Silicafume cũng có ảnh hưởng tới cướng độ nén của bê tông.
3.2.3. Ảnh hưởng của hàm lượng cốt liệu nhẹ đến độ hút nước của bê tông.
Bảng 3. 6 Kết quả thí nghiệm độ hút nước của mẫu bê tông
KH Tỷ lệ Thể KLTT Độ KH Tỷ lệ Thể KLTT Độ hút
N/CKD tích (kg/m3) hút N/CKD tích (kg/m3) nước
% EPS nước % EPS (%)
(%) (%) (%)
CP1 0,3 0.25 1494 3,56 I1 0,3 0.25 1608 0,71
CP2 0,3 0.30 1353 4,14 I2 0,3 0.30 1487 1,12
CP3 0,3 0.40 1204 4,98 I3 0,3 0.40 1276 1,3
CP4 0,3 0.50 975 5,79 I4 0,3 0.50 1061 1,5
CP5 0,25 0.25 1548 2,58 I5 0,25 0.25 1645 0,55
51
7
V(EPS)=0,25% V(EPS)=0,3%
6
V(EPS)=0,4% V(EPS)=0,5%
Độ hút nước bão hòa, %
0
N/CKD=0.3 N/CKD=0.25 N/CKD=0.2
Thể tích hạt EPS %
Hình 3. 6 Ảnh hưởng của hàm lượng cốt liệu tới độ hút nước của bê tông (SF=0%)
52
1.6
V(EPS)=0,25% V(EPS)=0,3% V(EPS)=0,4%
1.4
V(EPS)=0,5%
1.2
Độ hút nước bão hòa %
1.0
0.8
0.6
0.4
0.2
0.0
N/CKD=0.3 N/CKD=0.25 N/CKD=0.2
Thể tích hạt EPS %
Hình 3. 7 Ảnh hưởng của hàm lượng cốt liệu tới độ hút nước của bê tông (SF=10%)
Trong cùng một tỷ lệ N/CKD thì độ hút nước của bê tông tăng khi tăng hàm lượng hạt
EPS. Đối với tỷ lệ N/CKD khác nhau thì độ hút nước khác nha, cụ thể là khi giảm tỷ lệ
N/CKD thì độ hút nước giảm.
Khi sử dụng phụ gia khoáng Silicafume thì độ hút nước giảm so với mẫu không sử
dụng. Đối với mẫu không sử dụng SF độ hút nước nằm trong khoảng 0,72% đến
5,98%. Mẫu sử dụng SF độ hút nước nằm trong khoảng 0,31% đến 2,19%.
3.2.4. Ảnh hưởng của hàm lượng cốt liệu nhẹ đến độ hút nước mao quản của bê
tông
Bảng 3. 7 Kết quả thí nghiệm độ hút nước mao quản của mẫu bê tông
KH Tỷ lệ Thể KLTT Độ KH Tỷ lệ Thể KLTT Độ hút
N/CKD tích (kg/m3) hút N/CKD tích (kg/m3) nước
% EPS nước % EPS (%)
53
0.01
0
N/CKD=0.3 N/CKD=0.25 N/CKD=0.2
Thể tích hạt EPS %
Hình 3. 8 Ảnh hưởng của hàm lượng hạt EPS tới độ hút nước mao quản của bê tông
( SF=0%)
0
V(EPS)=0,25% V(EPS)=0,3%
0
V(EPS)=0,4% V(EPS)=0,5%
Độ hút nước bão hòa, %
0
N/CKD=0.3 N/CKD=0.25 N/CKD=0.2
Thể tích hạt EPS %
Hình 3. 9 Ảnh hưởng của hàm lượng hạt EPS tới độ hút nước mao quản của bê tông
(SF=10%)
Nghiên cứu đã đưa ra kết luận rằng việc sử dụng nhiều EPS trong vữa bê tông làm
tăng độ hút nước mao quản
3.2.5. Đánh giá hệ số dẫn nhiệt của bê tông nhẹ sử dụng cốt liệu rỗng EPS
55
Kết quả về ảnh hưởng của hàm lượng EPS đến hệ số dẫn nhiệt được tính toán dựa theo
ACI 213R14. Kết quả tính toán được thể hiện ở Bảng 3.8 và Hình 3.11 và Hình 3.12
Kết quả thí nghiệm cho thấy, khi tăng hàm lượng EPS thì hệ số dẫn nhiệt của bê tông
giảm đồng thời, với cùng tỷ lệ N/CKD và hàm lượng EPS thì khi sử dụng SF, hệ số
dẫn nhiệt của bê tông tăng. Cả hai biểu đồ trên đều cho thấy sự giảm mạnh độ dẫn
nhiệt của bê tông với sự gia tăng hàm lượng hạt Polystyrene. Độ dẫn nhiệt của bê tông
EPS giảm đi khi bê tông nhẹ hơn. Do đó hệ số dẫn nhiệt của bê tông EPS được đánh
giá là tỷ lệ thuận với khối lượng thể tích của bê tông.
Bảng 3. 8 Kết quả tính toán hệ số dẫn nhiệt của bê tông bằng công thức thực nghiệm
Kí KLTT Hệ số dẫn nhiệt Kí KLTT Hệ số dẫn nhiệt
hiệu Kg/m3 W/m.°C hiệu Kg/m3 W/m.°C
CP1 1494 0,56 I1 1621 0,65
CP2 1353 0,47 I2 1468 0,55
CP3 1204 0,39 I3 1283 0,43
CP4 975 0,29 I4 1037 0,31
CP5 1563 0,61 I5 1644 0,67
CP6 1445 0,52 I6 1498 0,56
CP7 1302 0,44 I7 1303 0,44
CP8 1103 0,34 I8 1091 0,34
CP9 1683 0,71 I9 1612 0,65
CP10 1589 0,64 I10 1487 0,55
CP11 1452 0,53 I11 1323 0,45
CP12 1090 0,34 I12 1130 0,35
56
0.8
0.7
0.6
0.4
0.3
0.2
0.1
0
975 1090 1103 1204 1302 1353 1445 1452 1494 1563 1603 1690
Khối lượng thể tích kg/m3
Hình 3. 10 Kết quả tính theo công thức thực nghiệm về hệ số truyền nhiệt của bê tông
(SF=0%)
0.80
0.70
0.60
Hệ số dẫn nhiệt, W/m.°C
0.50
0.40
0.30
0.20
0.10
0.00
1037 1091 1130 1283 1303 1323 1486 1487 1498 1612 1621 1644
Khối lượng thể tích kg/m3
Hình 3. 11 Kết quả tính theo công thức thực nghiệm về hệ số truyền nhiệt của bê tông
(SF=10%)
57
[1] N. N. Qúy, Công nghệ bê tông xi măng. Hà Nội: Nhà xuất bản Xây Dựng,
2002.
[2] L. P. Ly;, "Nghiên cứu chế tạo bê tông nhẹ kết cấu sử dụng cốt liệu
polystyrene," Luận án tiến sỹ kỹ thuật, Viện Khoa Khoa Học Công Nghệ Xây
Dựng, Hà Nội, 2019.
[3] TS. H. M. Đức, Th.S. L. P. Ly"Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố đến
tính công tác và độ phân tầng của hỗn hợp bê tông Polystyrene kết cấu," (in v),
Tạp chí KHCN Xây Dựng, vol. 1, 12, pp. 22-47, 1/2018.
[4] N. C. Thắng, H. N. Đức, and H. T. Nghĩa;, "Nghiên cứu thực nghiệm nâng
cao một số tính chất của bê tông nhẹ cốt liệu rỗng," (in v), Tạp chí Khoa học
Công Nghệ Xây Dựng, vol. 2, 12, pp. 105-109, 2018.
[5] TCVN 6017:2015 xi măng - phương pháp xác định thời gian đông kết và độ
ổn định thể tích, Hà Nội, 2015
[6] TCVN 4030 : 2003 xi măng – phương pháp xác định độ mịn, Hà Nội, 2003.
[7] TCVN 6016:2011 xi măng - phương pháp thử - xác định cường độ, Hà Nội,
2011.
[8] TCVN 8827:2011 phụ gia khoáng hoạt tính cao dùng cho bê tông và vữa -
silicafume và tro trấu nghiền mịn, Hà Nội, 2011.
[9] TCVN 7572-4:2006 cốt liệu cho bê tông và vữa - phương pháp thử -phần 4:
Xác định khối lượng riêng, khối lượng thể tích và độ hút nước, Hà Nội, 2006.
[10] N.H.Đăng;, "Nghiên cứu chế tạo bê tông nhẹ sử dụng chất tạo bọt kết hợp
với hạt polystyrene," Luận văn thạc sĩ, Kỹ thuật Vật Liệu, Hà Nội, 2017.
59
60