You are on page 1of 36

Họ và tên: Hoàng Minh Chiến

Lớp: Bảo hiểm 61C

Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin


Câu hỏi ôn tập chương 2:

Câu 1: Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác về
phạm trù vật chất. Ý nghĩa của việc nghiên cứu và rút ra bài học riêng cho
bản thân sinh viên hiện nay.
Phạm trù vật chất xuất hiện ngay từ khi triết học mới ra đời trong thời kỳ cổ
đại, dưới chế độ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên nội dung của phạm trù này không phải
là bất biến mà luôn luôn biến đổi và phát triển.
Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: Bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên
của mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần, còn vật chất chỉ là sản phẩm của bản
nguyên tinh thần ấy.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật:
+ Thời kỳ cổ đại:
. Trung Quốc: Các nhà triết học thời kỳ này cho rằng bản nguyên của thế
giới là các yếu tố ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là những yếu tố đầu tiên của
vũ trụ.
. Ấn Độ: Phái Sàmkhya lại quan niệm vật chất là Pràkriti hay Pradhana.
. Hy Lạp: Các nhà triết học thời kỳ này đồng nhất vật chất với các dạng tồn
tại cụ thể của vật chất như: đất, nước, lủa, không khí, nguyên tử,… xem đó là điểm
khởi đầu của vũ trụ. Đó là những vật thể hữu hình cảm tính tồn tại ở thé giới bên
ngoài từ đó hình thành chủ nghĩa duy vật chất phác và phép biện chứng sơ khai.
+ Thời kỳ cận đại: Các nhà triết học thời kỳ này tiếp tục đi theo khuynh
hướng hiểu về vật chất như các nhà triết học duy vật thời cổ đại, coi nguyên tử là
phân tử nhỏ bé nhất. Một số nhà triết học đã đồng nhất vật chất với khối lượng
- Cuối TK XIX – đầu TK XX: các nhà khoa học đã chứng minh được
nguyên tử là một trong những thành phần cấu tạo nên điện tử và quan điểm đồng
nhất vật chất với nguyên tử sụp đổ trước khoa học.
Quan điểm của Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của con người chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác.”
- Nội dung định nghĩa:
+ Vật chất là một phạm trù triết học: dùng để chỉ vật chất nói chung, vô
cùng, vô tận, không sinh ra và cũng không mất đi mà chỉ chuyển hoá từ dạng này
sang dạng khác. Đây chính là cơ sở để phân biệt với khái niệm vật chất sử dụng
trong các khoa học tự nhiên có giới hạn, sinh ra và mất đi.
+ Dùng để chỉ thực tại khách quan: thuộc tính tồn tại khách quan, tồn tại
ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người.
+ Được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác con người
chép lại, chụp lại, phản ánh…: Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi
gián tiếp hoặc trực tiếp gây tác động lên giác quan con người; cảm giác, tư duy, ý
thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.

Câu 2: Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ
XX và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất. Ý nghĩa
của việc nghiên cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.

Tối ngày 8 tháng 11 năm 1895, Wilhelm Röntgen đang kiểm tra xem liệu tia
cathode (tia âm cực) có thể đi xuyên qua kính hay không thì bất ngờ nhận thấy một
ánh sáng phát ra từ một tấm được phủ hóa chất gần đó. Ông gọi những tia tạo ra
ánh sáng này là tia X, vì bản chất chưa rõ của chúng.[12]
Với đầu óc nhạy bén, đầy kinh nghiệm của một nhà vật lý học, việc này đã
lôi cuốn ông và 49 ngày sau ông liên tục ở lỳ trong phòng thí nghiệm, mỗi ngày
ông chỉ ngừng công việc nghiên cứu ít phút để ăn uống, vệ sinh và chợp mắt nghỉ
ngơi vài giờ. Nhờ thế, ông đã tìm ra tính chất của thứ tia bí mật mà ông tạm đặt tên
là tia X và mang lại cho ông giải Nobel về vật lý đầu tiên vào năm 1901.
Sự kiện phát minh ra tia X là mở đầu cho một loạt các phát minh khác trong
lĩnh vực vật lí học lượng tử, phá vỡ những quan điểm trước kia về vật chất, tạo nên
một cuộc khủng hoảng thế giới quan chưa từng có trong lịch sử.
Tia X là một tia có bước sóng cực ngắn vào khoảng 10-8 cm và có tần số
giao động trên giây rất lớn tức là xét về bản chất, nó là một bức xạ phát ra từ bên
trong một nguyên tử và có thể xuyên qua mọi vật cản, điều này đã gợi ý rằng còn
một cái gì đó tồn tại nhỏ hơn nguyên tử, vốn lúc đó được cho là đơn vị nhỏ nhất
xây dựng lên vạn vật. Hàng loạt các nghiên cứu khoa học công phu được thực hiện
để chứng minh điều này.
Sau sự kiện tia X được phát hiện, nhiều phát minh liên quan tới phóng xạ
cũng được đưa ra, về bản chất chúng là hiện tượng một số hạt nhân không bền tự
biến đổi và phát ra các tia bức xạ hạt nhân hay tia phóng xạ. Hiện tượng phóng xạ
và phân rã hạt nhân này chứng tỏ nguyên tử có thể biến đổi, điều này mâu thuẫn
với quan niệm nguyên tử của các nguyên tố hóa học là bất biến và tồn tại vĩnh
viễn, chứng tỏ chúng có liên hệ với nhau, có thể chuyển hóa cho nhau hay chính là
chúng có tính không bền vững.
Năm 1897, những nghi ngờ về sự tồn tại của một thế giới vi mô siêu nhỏ bé,
phong phú và đa dạng đã được chứng minh một cách chắc chắn bằng phá hiện của
nhà vật lí học người Anh là Tôm-xơn khi ông phát hiện ra điện tử và chứng minh
chúng có góp phần cấu tạo nên nguyên tử, điều này đã hoàn toàn xác nhận nguyên
tử không phải là một khối mà là một cấu trúc được tạo thành từ những thành phần
nhỏ bé hơn hay cũng có nghĩa nguyên tử không còn là đơn vị nhỏ bé nhất cấu tạo
nên thế giới nữa. Năm 1907, lại chứng minh được mối tương quan giữa khối lượng
và năng lượng của điện tử, tức là khối lượng của điện tử sẽ thay đổi theo mức năng
lượng của chúng. Điều này lại mâu thuẫn với quan điểm khối lượng là bất biến và
độc lập với năng lượng. Tất cả những mâu thuẫn này khi đó đã gây ra hiện tượng
hoài nghi, khủng hoảng trong tư tưởng của các nhà khoa học lúc bấy giờ khi mà
những nguyên lí cơ bản trong thế giới quan của họ lúc đó không còn có thể áp
dụng và giải thích hiệu quả những phát kiến khoa học mới nữa.

Câu 3: Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất,. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.

Định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin được diễn đạt như sau: “Vật chất là
phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”.
Nội dung định nghĩa vật chất nêu trên gồm những khía cạnh cơ bản
sau:
-Vật chất là một phạm trù triết học.
“Vật chất” ở đây không thể hiểu theo nghĩa hẹp như là vật chất trong lĩnh
vực vật lý, hóa học, sinh học (nhôm, đồng, H2O, máu, nhiệt lượng, từ trường…)
hay ngành khoa học thông thường khác… Cũng không thể hiểu như vật chất trong
cuộc sống hàng ngày (tiền bạc, cơm ăn áo mặc, ô tô, xe máy…).
“Vật chất” trong định nghĩa của Lênin là một phạm trù triết học, tức là phạm
trù rộng nhất, khái quát nhất, rộng đến cùng cực, không thể có gì khác rộng hơn.
Đến nay, nhận thức luận (tức lý luận về nhận thức của con người) vẫn chưa
hình dung được cái gì rộng hơn phạm trù vật chất. Ta không thể “nhét” vật chất
này trong một khoảng không gian nhất định, vì không có gì rộng hơn nó.
-Vật chất là thực tại khách quan. Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực,
nằm bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại
khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là
vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Dù con người đã nhận thức được hay chưa, dù con người có mong muốn hay
không thì vật chất luôn tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ.
-Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác.
Vật chất, tức là thực tại khách quan, là cái có trước cảm giác (nói rộng ra là
ý thức). Như thế, vật chất “sinh ra trước”, là tính thứ nhất. Cảm giác (ý thức) “sinh
ra sau”, là tính thứ hai.
Do tính trước – sau như vậy, vật chất không lệ thuộc vào ý thức, nhưng ý
thức lệ thuộc vào vật chất.
Trước khi loài người xuất hiện trên trái đất, vật chất đã tồn tại nhưng chưa
có ý thức vì chưa có con người. Đây  ví dụ cho thấy vật chất tồn tại khách quan,
không lệ thuộc vào ý thức.
Có ý thức của con người trước hết là do có vật chất tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp lên giác quan (mắt, mũi, tai, lưỡi…) của con người. Đây là ví dụ cho thấy
ý thức lệ thuộc vào vật chất. Như thế, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
-Vật chất được giác quan của con người chép lại, chụp lại, phản ánh.
Vật chất là một phạm trù triết học, tuy rộng đến cùng cực nhưng được biểu
hiện qua các dạng cụ thể (sắt, nhôm, ánh sáng mặt trời, khí lạnh, cái bàn, quả
táo…) mà các giác quan của con người (tai, mắt, mũi…) có thể cảm nhận được.
Giác quan của con người, với những năng lực vốn có, có thể chép lại, chụp
lại, phản ánh sự tồn tại của vật chất, tức là nhận thức được vật chất. Sự chép lại,
chụp lại, phản ánh của giác quan đối với vật chất càng rõ ràng, sắc nét thì nhận
thức của con người về vật chất càng sâu sắc, toàn diện.
Nói rộng ra, tư duy, ý thức, tư tưởng, tình cảm… của con người chẳng qua
chỉ là sự phản ánh, là hình ảnh của vật chất trong bộ óc con người.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
- Bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về vật chất.
Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác, Lênin đã thừa nhận: Trong thế giới
hiện thực, vật chất có trước cảm giác (ý thức), vật chất là tính thứ nhất, là nguồn
gốc khách quan của cảm giác (ý thức).
Luận điểm này bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm cho rằng vật
chất chỉ là phức hợp của những cảm giác (Platon,…), hoặc vật chất là sự tha hóa
của “ý niệm tuyệt đối” (Heghen,…).
Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của
triết học: Vật chất có trước hay ý thức có trước? Lênin khẳng định vật chất có
trước.
- Phủ nhận thuyết không thể biết về vật chất.
Thuyết không thể biết cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới
khách quan, những tri thức mà con người biết được về thế giới khách quan chỉ là
hư ảo, giả dối, không có thật.
Khi khẳng định vật chất là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh…, Lênin đã nhấn mạnh: Bằng những phương pháp nhận thức khác nhau,
con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như thế, luận điểm này đã phủ
nhận thuyết không thể biết.
Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết
học: Con người có nhận thức được thế giới khách quan hay không? Lênin khẳng
định là có.
Với niềm tin có thể nhận thức được thế giới, con người sẽ có thêm sức
mạnh, ý chí, nghị lực để chinh phục tự nhiên, sáng tạo nên những giá trị phục vụ
cuộc sống của con người và thúc đẩy xã hội phát triển. Con người sẽ không rơi vào
thế bị động, bỏ mặc số phận mình cho một thế lực siêu nhiên nào đó.
- Khắc phục những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máy móc
về vật chất.
Với định nghĩa vật chất của Lênin, chúng ta hiểu rằng không có một dạng cụ
thể cảm tính nào của vật chất, hay một tập hợp nào đó các thuộc tính của vật chất,
lại có thể đồng nhất hoàn toàn với bản thân vật chất.
Vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý
thức, bất kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức được hay chưa, đã biết về
nó hay chưa.
Với những luận điểm rút ra này, định nghĩa của Lênin đã khắc phục những
quan điểm phiến diện, siêu hình, máy móc về vật chất như: Vật chất là các dạng cụ
thể như cái bàn, cái ghế, ánh sáng mặt trời, quả táo, nước, lửa, không khí…; đồng
nhất vật chất với khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận
động cơ học.
- Định hướng các khoa học cụ thể trong việc tìm kiến các dạng hoặc hình
thức mới của vật thể.
Khẳng thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, không bao giờ biến
mất, luôn luôn vận động, định nghĩa đã cổ vũ các nhà khoa học (nhà vật lý học,
nhà hóa học, nhà sinh học…) kiên trì, đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất để tìm ra
những kết cấu mới, những dạng thứcthuộc tính, quy luật vận động mới của vật
chất, từ đó làm phong phú, sâu sắc hơn kho tàng tri thức của nhân loại.
Ví dụ tiêu biểu là vào tháng 9/1995, tại Trung tâm Nghiên cứu hạt nhân châu
Âu (CERN), theo lý thuyết về phản hạt, các nhà khoa học đã tiến hành thực
nghiệm tạo ra được 9 phản nguyên tử, tức là 9 phản vật thể đầu tiên.
- Cho phép xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội.
Trong việc nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật
chất của Lênin đã giúp chúng ta xác định được cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã
hội. Đây là điều mà các nhà duy vật trước Mác chưa đạt tới.
Ta có thể tìm thấy vật chất trong lĩnh vực xã hội ở ở các hoạt động thực tiễn
của con người, tiêu biểu là hoạt động sản xuất vật chất để nuôi sống con người và
phát triển xã hội.
Định nghĩa của Lênin giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích
những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về
sự vận động của phương thức sản xuất, trên cơ sở đó, con người có thể tìm ra các
phương tán tối ưu để thúc đẩy xã hội phát triển.
Câu 4: Vận động và các hình thức tồn tại của vận động. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay
Theo quan điểm biện chứng, vận động là thuộc tính của vật chất; mọi sự vật
trong thế giới vật chất đều luôn luôn vận động; thay đổi về vị trí trong không gian
là hình thức cơ bản nhất của vận động; để xác định một sự vật có thay đổi về vị trí
hay không thì phải xem xét nó trong quan hệ với một sự vật khác; phương thức của
vận động là chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại; khuynh hướng của vận động là phủ định của phủ định; nguyên
nhân của vận động là thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Quan điểm biện
chứng về vận động là cơ sở lý luận đúng đắn cho việc nhận thức các vấn đề khoa
học cụ thể.
Dấu hiệu nhận biết vận động
- Vận động với tính cách một khái niệm của triết học là “tất cả mọi sự thay
đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến
tư duy”, “là sự biến đổi nói chung, là mọi sự tác động qua lại giữa các khách thể
vật chất”. Theo nghĩa này, khái niệm vận động đồng nghĩa với các khái niệm thay
đổi, biến đổi; trái nghĩa với các khái niệm đứng im, không thay đổi, không biến
đổi. Để xác định một sự vật (hoặc vật) nào đó có vận động hay không, ta cần phải
so sánh sự vật ấy ở hai thời điểm khác nhau. Nếu một sự vật vào thời điểm trước
và vào thời điểm sau là giống nhau, thì sự vật đó không vận động. Ngược lại, nếu
một sự vật vào thời điểm trước và vào thời điểm sau là khác nhau, thì sự vật đó có
vận động. Nói cách khác, một sự vật có vận động nếu vào thời điểm trước nó có
(hoặc không có) một thuộc tính nào đó, còn vào thời điểm sau không có (hoặc có)
thuộc tính đó. Một sự vật không vận động nếu vào thời điểm trước nó có (hoặc
không có) một thuộc tính nào đó, còn vào thời điểm sau cũng có (hoặc không có)
thuộc tính đó. Căn cứ vào dấu hiệu nhận biết vận động như trên, từ kết quả quan
sát (bằng mắt hoặc bằng các dụng cụ đo), mọi người đều dễ dàng xác định được
một sự vật bất kỳ ở thời điểm sau có vận động hay không vận động so với thời
điểm trước.
Các hình thức của vận động
- Vận động có nhiều hình thức khác nhau tùy theo cách phân loại. Trong các
sách giáo khoa triết học, vận động được phân loại thành 5 hình thức gồm vận động
cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học, vận động   xã hội.
Cách phân loại này căn cứ theo cách phân loại khoa học thành cơ học, vật lý học,
hóa học, sinh học, khoa học xã hội; đồng thời dựa trên quan  niệm cho rằng mỗi
khoa học nghiên cứu một loại vận động. Trong 5 hình thức vận động này, vận động
cơ học là hình thức cơ bản nhất; bởi vì, bất kỳ sự vật nào dù to và nhỏ đến đâu
cũng đều thay đổi về  vị trí trong không gian. Ngoài cách trên, còn có một số cách
phân loại đáng chú ý như sau.
+Thứ nhất, vận động được phân loại thành 3 hình thức gồm vận động theo
chiều hướng đi lên, vận động theo chiều hướng đi xuống, vận động theo chiều
hướng không đi lên và không đi xuống (trong đó, vận động theo chiều hướng đi lên
được gọi là phát triển; còn vận động theo chiều hướng đi xuống được gọi là thoái
hóa). Cách phân loại này  căn  cứ vào mức độ tiến bộ và không tiến bộ của sự vật ở
thời điểm sau so với thời điểm trước. Sự vật ở thời điểm sau so với thời điểm trước
có thể là tiến bộ nhiều hơn, tiến bộ ít hơn, tiến bộ không nhiều hơn   và không ít
hơn. Tương tự, vận  động  cũng gồm có 3 hình thức tương ứng (phát triển, thoái
hóa, không phát triển và  không thoái hóa). Ví dụ, sự thay đổi của một người cụ thể
từ trạng thái yếu sang trạng thái khỏe là phát triển, từ trạng thái khỏe sang trạng
thái yếu là thoái hóa;  thay đổi của một quốc gia cụ thể  từ  nghèo sang giàu là phát
triển, từ  giàu  sang nghèo là thoái hóa. Thay  đổi  thời tiết ở một vùng cụ thể từ
mưa sang nắng, hoặc từ nắng sang mưa là không phát  triển và không thoái hóa.
Lịch sử của thế giới sinh vật và xã hội loài người tuy có lúc là thoái hóa, nhưng
nhìn chung  là  phát triển. Còn lịch sử của thế giới tự nhiên vô sinh nhìn chung là
không phát triển và không thoái hóa.
+Thứ hai, vận động được phân loại thành 2 hình thức gồm thay đổi về chất
và thay đổi về lượng. Cách phân loại này căn cứ vào thuộc tính chất hay thuộc tính
lượng của sự vật. Theo đó, sự vật chỉ có thuộc tính chất và thuộc tính lượng; thay
đổi của sự vật cũng gồm có thay đổi về chất và thay đổi về lượng. Ví dụ, thay đổi
từ nóng sang lạnh hoặc từ lạnh sang nóng là thay đổi về chất; thay đổi từ nóng 50
độ C đến nóng 60 độ C là thay đổi về lượng; thay đổi từ nghèo sang giàu hoặc từ
giàu sang nghèo là thay đổi về chất; thay đổi từ nghèo ở mức độ thu nhập bình
quân 100 USD/người/năm sang nghèo ở mức độ thu nhập bình quân 200
USD/người/năm là thay đổi về lượng.
+Thứ ba, vận động được phân loại thành 3 hình thức gồm vận động của tự
nhiên, vận động của xã hội, vận động của tư duy (trong đó, vận động của tự nhiên
gồm vận động của tự nhiên vô sinh, vận động của tự nhiên hữu sinh). Cách phân
loại này căn cứ vào các lĩnh vực của thế giới. Theo đó, thế giới có 3 lĩnh vực gồm
tự nhiên, xã hội, tư duy; vận động cũng gồm có vận động của tự nhiên, vận động
của xã hội, vận động của tư duy. Ví dụ, sự chuyển động của các vì sao là vận động
của tự nhiên vô sinh; sự mất đi của một cá thể sinh vật là vận động của tự nhiên
hữu sinh; sự thay đổi chế độ chính trị của một quốc gia là vận động của xã hội; sự
tăng trưởng tri thức của con người là vận động của tư duy.
+Thứ tư, vận động được phân loại thành nhiều hình thức gồm thay đổi về  vị
trí, thay đổi về khối lượng, thay đổi  về hình dáng, thay đổi về màu sắc, thay đổi
về  điện, thay đổi về nhiệt, thay đổi về tư duy, v.v.. Cách phân loại này căn  cứ vào
các thuộc tính có trong thế giới. Theo đó, nếu thế giới có bao nhiêu thuộc tính, thì
vận động cũng có bấy nhiêu loại tương ứng.

Câu 5:Tính thống nhất vật chất của thế giới , Ý nghĩa của việc nghiên cứu và
rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.

Theo quan điểm duy vật biện chứng, bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Quan điểm đó bao hàm những nội dung cơ
bản sau đây:
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là
cái có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra
và không bị mất đi.
Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống
nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là
những kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự
chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế
giới vật chất không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và
chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận được rút
ra từ việc khái quát những thành tựu của khoa học, được khoa học và cuộc sống
hiện thực của con người kiểm nghiệm. Nó không chỉ định hướng cho con người
giải thích vể tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng cho con người tiếp tục
nhận thức về tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp quy luật.
Câu 6: Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức, Ý nghĩa của việc nghiên
cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.
Trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn gốc, bản chất, kết cấu và vai trò của ý
thức luôn là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trên cơ sở những thành tựu của triết học duy vật,
của khoa học, của thực tiễn xã hội, triết học Mác – Lênin góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề trên.
Có thể khái quát ý thức có hai nguồn gốc: Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc
xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức sinh ra
vật chất, chi phối sự tồn tại và vận động của thế giới vật chất. Học thuyết triết học
duy tâm khách quan và triết học duy tâm chủ quan có quan niệm khác nhau nhất
định về ý thức, song về thực chất họ giống nhau ở chỗ tách ý thức ra khỏi vật chất,
lấy ý thức làm điểm xuất phát để suy ra giới tự nhiên.
Các nhà duy vật trước Mác đã đấu tranh phê phán lại quan điểm trên của chủ
nghĩa duy tâm, không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, đã chỉ ra mối
liên hệ khăng khít giữa vật chất và ý thức, thừa nhận vật chất có trước ý thức, ý
thức phụ thuộc vào vật chất. Do khoa học chưa phát triển, do ảnh hưởng của quan
điểm siêu hình – máy móc nên họ đã không giải thích đúng nguồn gốc và bản chất
của ý thức.
Dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học
thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, ý thức không phải có nguồn gốc
siêu tự nhiên, không phải ý thức sản sinh ra vật chất như các nhà thần học và duy
tâm khách quan đã khẳng định mà ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng
không phải là của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có
tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. ý thức
là chức năng của bộ óc con người. ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người, do
đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động của ý thức sẽ không bình thường. Vì vậy,
không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc. ý thức không thể diễn ra,
tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.
Khoa học đã xác định, con người là sản phẩm cao nhất của quá trình phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của vật chất vận động, đồng thời đã
xác định bộ óc của con người là một tổ chức sống đặc biệt có cấu trúc tinh vi và
phức tạp bao gồm khoảng 14 -15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này có liên hệ với
nhau và với các giác quan, tạo thành vô số những mối liên hệ thu nhận, điều khiển
hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài qua các phản xạ không
điều kiện và có điều kiện. Quá trình ý thức và quá trình sinh lý trong bộ óc không
đồng nhất, không tách rời, không song song mà là hai mặt của một quá trình sinh
lý thần kinh mang nội dung ý thức.
Nhưng tại sao bộ óc con người – một tổ chức vật chất cao – lại có thể sinh ra
được ý thức?. Để trả lời câu hỏi này chúng ta phải nghiên cứu mối liên hệ vật chất
giữa bộ óc với thế giới khách quan. Chính mối liên hệ vật chất ấy hình thành nên
quá trình phản ánh thế giới vật chất vào óc con người.
Phản ánh là thuộc tính phổ biến trong mọi dạng vật chất. Phản ánh là sự tái tạo
những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá
trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật
(vật tác động và vật nhận tác động). Trong quá trình ấy, vật nhận tác động bao giờ
cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều quan trọng để làm sáng tỏ
nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Trong quá trình tiến hóa của thế giới vật chất. Các vật thể càng ở bậc thang
cao bao nhiêu thì hình thức phản ánh của nó càng phức tạp bấy nhiêu. Hình thức
phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh là những phản ánh vật
lý, hóa học. Những hình thức phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có định
hướng sự lựa chọn. Hình thức phản ánh sinh học đặc trưng cho giới tự nhiên sống
là bước phát triển mới về chất trong sự tiến hóa của các hình thức phản ánh. Hình
thức phản ánh của các cơ thể sống đơn giản nhất là biểu hiện ở tính kích thích, tức
là phản ứng trả lời tác động của môi trường ở bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình trao đổi chất của chúng. Hình thức phản ánh tiếp theo của các động vật
chưa có hệ thần kinh là tính cảm ứng, tính nhạy cảm đối với sự thay đổi của môi
trường. Hình thức phản ánh của các động vật có hệ thống thần kinh là các phản
xạ. Hình thức phản ánh ở động vật bậc cao khi có hệ thần kinh trung ương xuất
hiện là tâm lý. Tâm lý động vật chưa phải là ý thức, nó mới là sự phản ánh có tính
chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi
phối. Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực. ý thức chỉ
nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với sự xuất hiện con
người. Ý thức là ý thức con người, nằm trong con người, không thể tách rời con
người.
Như vậy, ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản
ánh – phát triển thành. ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính
phản ánh của vật chất. Nội dung của ý thức là thông tin về thế giới bên ngoài, về
vật được phản ánh. ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người.
Bộ óc người là cơ quan phản ánh, song chỉ có bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức.
Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc
thì hoạt động ý thức không thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc người (cơ quan phản ánh về thế giới vật chất xung
quanh) cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc – đó là nguồn gốc tự nhiên
của ý thức.
Những điều đã trình bày về nguồn gốc tự nhiên của ý thức cho thấy “sự đối
lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức
hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là
thừa nhận cái gì là cái có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không
còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối”. Ý thức chính là đặc tính của
một dạng vật chất sống có tổ chức cao mà thôi.
Nguồn gốc xã hội
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng,
không thể thiếu được, song chưa đủ; điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức
là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ
óc con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra
những sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của mình, là một quá trình trong đó bản
thân con người đóng góp vai trò môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật
chất giữa người và tự nhiên. Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con
người tồn tại. Lao động cung cấp cho con người những phương tiện cần thiết để
sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả bản thân con người. Nhờ có lao động, con
người tách ra khỏi giới động vật. Một trong những sự khác nhau căn bản giữa con
người với động vật là ở chỗ động vật sử dụng các sản phẩm có sẵn trong giới tự
nhiên, còn con người thì nhờ lao động mà bắt giới tự nhiên phục vụ mục đích của
mình, thay đổi nó, bắt nó phục tùng những nhu cầu của mình. Chính thông qua
hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể
phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế giới đó.
Sự hình thành ý thức không phải là quá trình thu nhận thụ động, mà đó là kết
quả hoạt động chủ động của con người. Nhờ có lao động, con người tác động vào
thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết
cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định, và các
hiện tượng ấy tác động vào bộ óc người, hình thành dần những tri thức về tự nhiên
và xã hội. Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới
khách quan của con người, làm biến đổi thế giới đó. ý thức với tư cách là hoạt
động phản ánh sáng tạo không thể có được ở bên ngoài quá trình con người lao
động làm biến đổi thế giới xung quanh. Vì thế có thể nói khái quát rằng lao động
tạo ra ý thức tư tưởng, hoặc nguồn gốc cơ bản của ý thức tư tưởng là sự phản ánh
thế giới khách quan vào đầu óc con người trong quá trình lao động của con người.
Lao động không xuất hiện ở trạng thái đơn nhất, ngay từ đầu nó đã mang tính tập
thể xã hội. Vì vậy, nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và nhu cầu trao đổi tư tưởng cho
nhau xuất hiện. Chính nhu cầu đó đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngôn
ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý
thức không thể tồn tại và thể hiện được.
Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, đồng thời là công cụ
của tư duy nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực. Nhờ ngôn ngữ mà con
người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, trao đổi tri thức từ thế hệ này
sang thế hệ khác. ý thức không phải thuần túy là hiện tượng cá nhân mà là một
hiện tượng xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì
ý thức không thể hình thành và phát triển được.
Vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển
của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. ý thức phản ánh hiện thực khách quan
vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. ý thức là
sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
Bản chất của ý thức
Trong lịch sử triết học, triết học duy tâm quan niệm ý thức là một thực thể
độc lập, là thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức
coi ý thức sinh ra vật chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất. Còn các nhà
triết học duy vật đều thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự phản ánh
sự vật đó. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bởi quan niệm siêu hình – máy móc nên họ đã
coi ý thức là sự phản ánh sự vật một cách thụ động, giản đơn, máy móc, mà không
thấy được tính năng động sáng tạo của ý thức, tính biện chứng của quá trình phản
ánh.
Khác với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lý
luận phản ánh: về bản chất, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan.
Để hiểu bản chất của ý thức, trước hết, chúng ta thừa nhận cả vật chất và ý
thức nhưng giữa chúng có sự khác nhau mang tính đối lập. ý thức là sự phản ánh,
là cái phản ánh; còn vật chất là cái được phản ánh. Cái được phản ánh – tức là vật
chất – tồn tại khách quan, ở ngoài và độc lập với cái phản ánh tức là ý thức. Cái
phản ánh – tức ý thức là hiện thực chủ quan, là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, lấy cái khách quan làm tiền đề, bị cái khách quan quy định, nó không
có tính vật chất. Vì vậy không thể đồng nhất, hoặc tách rời cái được phản ánh – tức
vật chất, với cái phản ánh – tức ý thức. Nếu coi cái phản ánh – tức ý thức – là hiện
tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa cái được phản ánh và cái phản ánh – tức lẫn lộn
giữa vật chất và ý thức, làm mất ý nghĩa của đối lập giữa vật chất và ý thức, từ đó
dẫn đến làm mất đi sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Thứ hai, khi nói cái phản ánh – tức ý thức – là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan, thì đó không phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật
về sự vật. ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động
sáng tạo. ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho
nên ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu
thực tiễn xã hội. Theo C.Mác, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển
vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”

Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã
có trước, ý thức có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái
không có trong thực tế, có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có thể tạo ra những ảo
tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng
và khái quát cao. Những khả năng ấy càng nói lên tính chất phức tạp và phong phú
của đời sống tâm lý – ý thức ở con người mà khoa học còn phải tiếp tục đi sâu
nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng ấy.
ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên quá
trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động sáng
tạo thống nhất ba mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi
này mang tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thực chất, đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hóa
các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện
thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực
tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện
thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện,
công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
Tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật của sự
phản ánh mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và phản
ánh là hai mặt thuộc bản chất ý thức. ý thức là sự phản ánh và chính thực tiễn xã
hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc.
Ý thức là một hiện tượng xã hội. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với
hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ các quy luật sinh học mà chủ yếu là
của quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện
thực của con người quy định. ý thức mang bản chất xã hội.

Kết cấu ý thức:

- Cấu trúc theo chiều ngang: gồm có tri thức và tình cảm.

+ Tri thức là kết quả nhận thức của con người về thế giới, được diễn đạt
dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu. Được tách ra làm hai loại tri
thức. Tri thức thông thường, là những nhận thức thu nhận được từ hoạt động hàng
ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính trực tiếp, bề ngoài rời rạc chưa
được hệ thống hoá. Tri thức khoa học là những nhận thức đã được đúc kết từ thực
tiễn thành lý luận, kinh nghiệm. Ngày nay, tri thức đang là yếu tố giữ vai trị quyết
định đối với sự phát triển kinh tế, vì vậy, đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then
chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn bền vững.

+ Tình cảm là sự rung động của con người với xung quanh gây cho con
người có cảm giác vui buồn, yêu thương, căm giận… Vì vậy, một khi tri thức được
gắn với tình cảm thì hoạt động của con người sẽ được tăng thêm gấp bội lần.

-. Cấu trúc theo chiều dọc:

+ Tự ý thức, ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới.

+ Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đó gần
như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sau của ý thức chủ thể, là ý
thức dưới dạng tiềm tàng.

+ Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, sự suy nghĩ, hành vi, thái
độ ứng xử của con người xảy ra mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự
kiểm tra, tính toán của lý trí được biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau và
chỉ là mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.

Câu 7: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, Ý nghĩa của việc nghiên cứu và rút
ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay
-Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến:
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự
tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các
yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ
biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của
thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện
tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ
tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của
phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng
định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, v.v.. Như vậy,
giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa
tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định. Đồng thời, cũng tồn
tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự thể
hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những
mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và
ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong giới tự hiên,
xã hội và tư duy.
-Tính chất của các mối liên hệ: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa
dạng, phong phú là những tính chất cơ bản của các mối liên hệ.
+Tính khách quan của các mối liên hệ:
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định, tác
động và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân
chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con
người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt
động thực tiễn của mình.
+ Tính phổ biến của các mối liên hệ:
Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá
trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác.
Đồng thời, cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc
hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó,
tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại
trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
+Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ Quan điểm biện chứng của chù
nghĩa Mác - Lênin không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của các
mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ. Tính
đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng
hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai
trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên
hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau,
ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. Như vậy, không thể đồng
nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự
vật, hiện tượng nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là các mối liên hệ
bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mối liên hệ chủ yếu và
thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, v.v. của mọi sự vật, hiện tượng trong thế
giới.
Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm
quan niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các
mối liên hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong
những điều kiện không gian và thời gian cụ thể.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Từ tính khách quan và phổ biển của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực
tiễn cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự
tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác. Chỉ
trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng và xử lý có hiệu quả
các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan
điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.
V.I.Lênin cho rằng: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát
và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự
vật đó"1. - Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn, khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời
cũng cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình
huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối
tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác
định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống
cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý
các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải
tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình mà còn phải tránh và khắc
phục quan điểm chiết trung, ngụy biện. 

Câu 8: Nguyên lý về sự phát triển. Ý nghĩa của việc nghiên cứu và rút ra bài
học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.
Khái niệm phát triển:
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng,
giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; đồng
thời, nó cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những
bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển
dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên:
từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy,
khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm "vận động" (biến đổi) nói
chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay
sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng
ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.
  Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố
tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình
thái của sự vật, hiện tượng mới.
Tính chất của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa
dạng, phong phú.
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận
động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá
trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc
tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
  - Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển
diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện
tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi
quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù
họp với quy luật khách quan.
  - Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển
là khuynh hướng chung của mọi sự vật. hiện tượng, song rnỗi sự vật, mỗi hiện
tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống
nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau sự vật, hiện tượng phát
triển sẽ khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự vật, hiện
tượng còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác,
của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi
chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng, thậm chí có thể làm cho sự vật, hiện
tượng thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở mặt
khác... Đó đều là những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của các quá trình
phát triển.

   Ý nghĩa của việc nghiên cứu:


Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc
nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và
thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Theo V.I.Lênin, "... Lôgích biện chứng
đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong "sự tự vận động"..., trong sự biển
đổi của nó". Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
định kiến, đối lập với sự phát triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong
thực tiễn, một mặt, cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của
nó; mặt khác, con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm
tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy, đòi hòi phải nhận thức được tính quanh
co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó, tức là cần
phải có quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề của
thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.
Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển,
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan
trọng trong nhận thức và thực tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy
vật, Ph.Ăngghen viết: "... Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó
xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên
hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự
tiêu vong của chúng!' . V.I.Lênin cũng cho rằng: "Phép biện chứng đòi hòi nguời ta
phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của
những mối quan hệ đó".

Câu 9: Nội dung và yêu cầu của quy luật lượng chất,. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.

Nội dung của quy luật:

Quy luật lượng – chất là một trong ba quy luật cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Diễn đạt một cách đầy đủ, đó là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi
về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại.

Quy luật lượng – chất có nội dung như sau:”Bất kỳ sự vật nào cũng là sự
thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của
độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra
đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.”
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại giúp chúng ta nhận thức được phương thức vận động và phát
triển của sự vật. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn.
+Để có tri thức đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất
của nó.
Những nhận thức ban đầu về chất của các sự vật chỉ trở nên đúng đắn và sâu
sắc hơn khi đạt tới tri thức về sự thống nhất giữa chất và lượng của sự vật đó.
Để nhận thức được sự vật, ta phải nhận thức trong mối quan hệ tác động qua
lại giữa sự vật đó với những sự vật khác, cũng như giữa các mặt, thuộc tính của sự
vật đó. Vì chỉ khi đó, mặt lượng và mặt chất của sự vật mới bộc lộ ra.
+Ta phải tổ chức hoạt động thực tiễn dựa trên sự hiểu biết đúng đắn vị trí,
vai trò và ý nghĩa của sự thay đổi về lượng cũng như sự thay đổi về chất trong sự
phát triển xã hội.
Ta phải biết kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
Để xây dựng chiến lược và sách lược cách mạng, ta phải xem xét tiến hóa và
cách mạng trong mối quan hệ biện chứng của chúng. Hiểu đúng đắn mối quan hệ
này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn nghiêm khắc với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa
xét lại và chủ nghĩa tả khuynh.
+ Ta phải kiên trì đổi mới trên từng lĩnh vực để tiến tới đổi mới toàn diện
đời sống xã hội.
Nắm được quy luật lượng – chất sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan, toàn
diện và xác định đúng phương pháp, lộ trình thực hiện công cuộc đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay.
Theo tính chất, ý nghĩa và phạm vi bao quát của nó, đổi mới là một quá trình
mang tính cách mạng. Ta cần phải thực hiện đổi mới thành công trên từng lĩnh vực
của đời sống xã hội để tạo ra bước nhảy về chất ở đó. Với sự thành công trên nhiều
lĩnh vực, ta có cơ sở thực tế để đổi mới thành công toàn diện đất nước Việt Nam.
Đó là khi ta tạo được bước nhảy về chất của toàn bộ xã hội nói chung.
Những bước nhảy trong quá trình đổi mới hiện nay chỉ có thể là kết quả của
qúa trình thay đổi về lượng thích hợp. Do đó, bất kỳ sự nôn nóng, chủ quan, ảo
tưởng nào đều có thể gây ra những tổn thất lớn cho đất nước.

Câu 10: Nội dung và yêu cầu của quy luật mâu thuẫn. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.
Nội dung của quy luật:
a) Mâu thuẫn: Là hiện tượng khách quan và phổ biến. Mâu thuẫn là mối liên
hệ tác động qua lại  giữa các mặt đối lập trong cùng một sự vật.
Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính  có xu hứơng phát triển ngược chiều 
nhau, tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng tác động biện chứng với nhau làm
cho sự  vật phát triển.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến
Mâu thuẫn là khách quan có nghĩa là mâu thuẫn là cái vốn có  ở mọi sự vật
hiện tượng. Mâu thuẫn hình thành phát triển là do cấu trúc tự thân bên trong của sự
vật quy định nó không phụ thuộc vào bất kỳ một lực lượng siêu tự nhiên nào và
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
Mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến có nghĩa là mâu thuẫn tồn tại trong tất cả
các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện
cho đến khi kết thúc. Mâu thuẫn tồn tại ở mọi không gian, thời gian, mọi giai đoạn
phát triển. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành. Trong mỗi sự
vật không phải chỉ có một mâu thuẫn mà có thể có nhiều mâu thuẫn vì sự trong
cùng một lúc có thể có nhiều mặt đối lập.
Trong những điều kiện cụ thể khác nhau, mâu thuẫn thể hiện ra dưới nhiều
hình thức đa dạng và phong phú khác nhau:
+ Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
+ Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
+ Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ  yếu
+ Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.
Cần chú ý: Trong tư duy thông thường khi nói đến hai mặt đối lập là nói lên
mâu thuẫn. Còn trong tư duy biện chứng, không phải hai mặt đối lập nào cũng tạo
nên mâu thuẫn mà chỉ những mặt đối lập  tác động biện chưngs với nhau tạo nên
sự vật hiện tượng và tạo lên sự phát triển mới được gọi là mâu thuẫn- mâu thuẫn
biện chứng.
b)Các mặt đối lập của mâu thuẫn vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là  sự nương tựa, ràng buộc quy định lẫn
nhau làm tiền đề tồn tại cho nhau của các mặt đối lập. Không có sự thống nhất của
các mặt đói lập thì không tạo ra sự vật.
Theo nghĩa hẹp sự thống nhất là sự đồng nhất, phù hợp ngang nhau của hai
mặt đối lập đó là trạng thái cân bằng của mâu thuẫn..
Sự thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời tương đối, nghĩa là nó chỉ tồn tại
trong một thời gian nhất định, đó chính là trạng thái đứng im, ổn định tương đối
của sự vật, tính tương đối của sự thống nhất của các mặt đối lập làm cho thế giới
vật chất phân hoá thành cacs bộ phận các sự vật đa dạng phực tạp, gián đoạn.
Sự đấu tranh  của các mặt đối lập  là sự bài trừ gạt bỏ phủ định biện chứng
lẫn nhau của các mặt đối lập (Sự đấu tranh hiểu theo nghĩa tác động ảnh hưởng lẫn
nhau của các mặt đối lập chứ không phải theo nghĩa đen)
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối vĩnh viễn. Nó diễn ra liên tục trong
suốt quá trình tồn tại của sự vật kể cả trong trang thái sự vật ổn đinhj cũng như khi
chuyển hoá nhảy vọt về chất. Sự đấu tranh của các mặt đối lập tạo lên tính chất tự
thân, liên tục của sự vận động phát triển của sự vật. Cũng vì vậy muốn thay đổi sự
vật tì phải tăng cường sự đấu tranh.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp diễn ra từ thấp
đến cao, gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng.
+Giai đoạn đầu: Mâu thuẫn biểu hiện ra ở sự khác nhau của hai mặt đối lập
song không phải sự khác nhau nào cũng là mâu thuẫn mà chỉ hai mặt khác nhau
nào liên hệ hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể có khuynh hướng phát triển trái
ngược nhau mới tạo thành giai đoạn đầu của maau thuẫn, trong giai đoạn này sự
đấu tranh chưa rõ và chưa gay gắt.
+Giai đoạn sau: Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, sự khác nhau biến
thành đối lập, khi đó hai mặt đối lập càng rõ, càng sâu sắc  thì sự đấu tranh giữa
chúng ngày càng gay gắt và quyết liệt, nếu có điều kiện chín muồi thì hai mặt
chuyển hoá lẫn nhau và mâu thuẫn được giải quyết.
c)Sự đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực
của sự phát triển.
Đấu tranh của các mặt đối lập gây ra những biến đổi  của các mặt đối lập khi cuộc
đấu tranh của các mặt đối lập trỏ lên quyết liệt và có điều kiện chín muồi thì sự
thống nhất của hai cũ bị phá huỷ, các mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển
hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ bị mất đi,
sự vật mới xuất hiện. Các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau với ba hình thức.
-Các mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau mặt đối lập này thành mặt đối lập kia
và ngược lại nhưng ở trình độ cao hơn về phương diện vật chất của sự vật. Ví dụ,
Mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản biểu hiện thành cuộc cách mạng vô sản lật độ giai
cấp tư sản
-Cả hai mặt đối lập đều mất đi và chuyển hoá thành mặt đối lập mới. Ví dụ
Giải quyết mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ  (chế độ phong kiến) xã hội lại xuất
hiện  mâu thuẫn mới là mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản (Chế độ TBCN).
-Các mặt đối lập thâm nhập vào nhau, cải biến lẫn nhau.
Trong sự vật mới lại có mâu thuẫn mới, các mặt đối lập trong mâu thuẫn mới lại
đấu tranh với nhau, làm cho sự vật ấy lại chuyển hoá thành sự vật khác tiến bộ hơn,
cứ như vậy mà các sự vật hiện tượng thường xuyên biến đổi và phát triển không
ngừng, vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc động lực của mọi quá trình vận động phát
triển của sự vật hiện tượng.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Vì mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến, nên trong nhận thận thức và
thực tiễn phải tôn trọng mâu thuẫn, tức là không được lẩn tránh mâu thuẫn cũng
như không được tạo ra mâu thuẫn.
Vì mâu thuẫn là động lực của sự phát triển nên muốn thúc đẩy sự phát triển
phải nhận thức được mâu thuẫn và tìm cách giải quyết mâu thuẫn, phải tạo ra điều
kiện thúc đẩy sự đấu tranh của các mặt đối lập theo chiều hướng phát triển.
Vì mọi mâu thuẫn đều có quá trình phát sinh, phát triển và biến hoá. Vì sự
vật khác nhau thì mâu thuẫn khác nhau, mỗi mâu thuẫn lại có những  đặc điểm
riêng của nó. Do đó phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và tìm cách
giải quyết mâu thuẫn.

Câu 11: Nội dung và yêu cầu của quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa của
việc nghiên cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay

Khái niệm phủ định của phủ định

Phủ định: thế giới vật chất vận động và phát triển không ngừng; một dạng
vật chất nào đó sinh ra; tồn tại, mất đi được thay thế bằng 1 dạng vật chất khác,triết
học gọi sự thay thế đó là phủ định, là 1 yếu tố phải có trong quá trình vận động và
phát triển của vật chất.

Phép biện chứng duy vật không đề cập đến sự phủ định chung, mà chỉ nói
đến sự phủ định làm tiền đề,tạo điều kiện cho sự phát triển, cho cái mới ra đời thay
thế cái cũ, đó là sự phủ định biện chứng.

Phủ định biện chứng có những đặc điểm sau:

-Tính khách quan: những nhà triết học theo quan điểm siêu hình cho rằng phủ định
là nguyên nhân bên ngoài đưa lại, xem sự vật hiện tượng là cái bị cô lập, tách rời
nhau,phép biện chứng duy vật khẳng định nguyên nhân của phủ định để cái mới ra
đời thay thế cái cũ chính là kết quả giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật, vì
vậy phủ định có tính khách quan, là yếu tố tất yếu của sự phát triển (ví dụ: CNXH
phủ định chủ nghĩa tư bản chính là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản,
vốn có, khách quan trong lòng xã hội tư bản, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất).

-Tính kế thừa: những nhà triết học theo quan điểm siêu hình, coi phủ định là
xóa bỏ hoàn toàn cái cũ, chấm dứt sự liên hệ,sự vận động và sự phát triển của bản
thân sự vật; còn quan điểm của những nhà triết học biện chứng duy vật thì phủ
định biện chứng là kết quả của sự tự thân phát triển để tạo cái mới, ko thể là 1 sự
phủ định tuyệt đối, PĐ sạch trơn mà là sự PĐ có kế thừa, cái mới ra đời trên cơ sở
chọn lọc giữ lại và cải tạo những mặt còn thích hợp của cái cũ, nó chỉ gạt bỏ đi
những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu, gây cản trở cho sự phất triển( ví dụ: sự duy
truyền của sinh vật; các hình thái kinh tế xã hội, trong xã hội loài người trong tư
duy nhận thức của con người)

Nội dung quy luật phủ định của phủ định

Thế giới vận động ko ngwngf thông qua quá trình phủ định của phủ định;
tức là sự vật mới ra đồi như là kết quả của sự phủ định biện chứng cái cũ, rồi đến
lược nó bị cái mới hơn phủ định, cứ thế tạo ra khuynh hướng vận động và phát
triển của sự vật từ thấp đến cao 1 cách vô tận theo hình xoắn ốc; sau mỗi chu kỳ
của sự phát triển, sự vật lại trở lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở mới, cao hơn.

Sự phát triển theo khuynh hướng phủ định của phủ đinh đã từng được các
nhà biện chứng tự phát nêu ra, song do chưa nhận thức sâu sắc tính biện chứng của
quá trình phát triển nên đã tuyệt đối hóa tính ;lặp lại sau 1 chu kỳ phát triển, coi đó
như là 1 quá trình diễn ra theo vòng tròn khép kín.

Những nhà triết học duy vật biện chứng thì cho rằng sự vận động diễn ra
theo nhiều xu hướng, tính vô cùng vô tận của thế giới vật chất cũng được biểu hiện
trong tính vô cùng vô tận của các khuynh hướng vận động; theo đó sự vận động
theo vòng tròn khép kín chỉ là 1 trong những khuynh hướng có thể, đó ko phải là
khuynh hướng duy nhất.

Sự phát triển biện chứng thông qua nhiều lần phủ định biện chứng, chính là
sự thống nhất loại bỏ, kế thừa và phát triển; mỗi lần phủ định biện chứng sẽ
mang ;lại những nhân tố tích cực mới; do đó sự phát triển thông qua những lần phủ
định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên ko ngừng; sự phát triển tiến lên ko
ngừng đó, ko phái diển ra theo đường thẳng mà theo đường xoắn ốc, mỗi vòn xoáy
biểu hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển.

Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển do mâu thuẩn; mỗi
lần phủ định là kết quả đấu tranh chuyển hóa các mặt đối lập trong bản thân sự vật,
sự phủ định lần thứ nhất được thực hiện một cách căn bản sẽ làm cho sự vật cũ trở
thành cái đối lập của mình; lần phủ định tiêp theo dẫn đến sự ra đời của sự vật mới
mang nhiều đặc trưng đối lập với cái trung gian, như vậy về hình thức sẽ trở lại cái
xuất phát nhưng về thực chất ko phải giống nguyên cái cũ, mà dường như lặp lại
cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.

Số lượng các lần phủ định trong 1 chu kỳ phát triển cụ thể, trong thực tế có
thể nhiều hơn hay tùy theo tính chất của 1 quá trình phát triển cụ thể. (ví dụ: hạt
lúa: 2, tơ tằm: 4)
Ý nghĩa của việc nghiên cứu

Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết 1 cách đúng đắn về xu
hướng của sự phát triển và được diển ra trong quá trình quanh co, phức tạp, đặc
biệt là trong lĩnh vực đời sống xã hội.

Quy luật phủ định của phủ định giúp ta có cái nhìn về xu thế của thời đại mà
ta đang sống, mặc dù hệ thống XHCN đã tan rã, qua đó xây dựng niềm tin tất thắng
của CNXH đối với CNTB.

Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết đầy đủ hơn về cái mới, cái
mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật, nó luôn biểu hiện là
giai đoạn cao về chất trong sự phát triển, trong lĩnh vực tự nhiên cái mới ra đời
mang tính tự phát, trong lĩnh vực xã hội cái mới xuất hiện gắn liền với sự nhận
thức và hoạt động có ý thức của con người, qua đó xây dựng thái độ ủng hộ cái
mới, đấu tranh loại trừ cái cũ trong đời sống xã hội.

Câu 12: Mối quan hệ giữa cái cung và cái riêng. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.

Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng


Phép biện chứng duy vật cho rằng, cái riêng và cái chung đều tồn tại khách
quan và giữa chúng có sự thống nhất biện chứng. Cụ thể:
1. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có
nghĩa là không có cái chung thuần tuý, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái riêng.
Ví dụ: Thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động. Vận động lại tồn tại dưới các
hình thức riêng biệt như vận động vậy lý, vận động hoá học, vận động xã hội v.v..
2. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Điều đó có nghĩa là
không có cái riêng độc lập thuần tuý không có cái chung với những cái riêng khác.
Ví dụ: Các chế độ kinh tế – chính trị riêng biệt đều bị chi phối với các quy luật
chung của xã hội như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất.
3. Cái chung là bộ phận của cái riêng. Cái riêng không gia nhập hết vào cái
chung.
Cái riêng phong phú hơn cái chung, vì ngoài những đặc điểm gia nhập vào
cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có.
Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng bởi vì nó phản ánh những mặt, những thuộc
tính, nhưng mỗi liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến tồn tại trong cái
riêng cùng loại. Cái chung gắn liên hệ với cái bản chất, quy định sự tồn tại và phát
triển của sự vật.
4. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau; có thể coi đây là
sự chuyển hoá giữa hai mặt đối lập. Sự chuyển hoá giữa cái đơn nhất và cái chung
diễn ra theo hai hướng: cái đơn nhất biến thành cái chung, làm sự vật phát triển và
ngược lại, cái chung biến thành cái đơn nhất làm cho sự vật dần dần mất đi.
Mối quan hệ này được cái chung, cái riêng và cái đơn nhất thể hiện: Cái
riêng = cái chung + cái đơn nhất
Ý nghĩa của việc nghiên cứu
- Cái chung tồn tại thông qua cái riêng. Chỉ có thể tìm cái chung trong cái
riêng chứ không thể tìm thấy ở ngoài cái riêng.
- Bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần
được cá biệt hoá. Nếu đem áp dụng nguyên xi cái chung, tuyệt đối hoá cái chung
dễ dẫn đến sai lầm tả khuynh giáo điều.
- Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái
đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái
đơn nhất. Trong hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất
chuyển thành cái chung nếu cái đơn nhất có lợi cho con người. Và ngược lại biến
cái chung thành cái đơn nhất nếu cái chung tồn tại bất lợi cho con người.

Câu 13: Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.

Khái niệm:

Bản chất và hiện tượng là cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác-Lenin và là một trong những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng giữa cái Bản chất là phạm trù chỉ sự
tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên
trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật với Hiện tượng là phạm
trù chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.

Mối quan hệ:

-Sự thống nhất:

Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này
mà người ta có thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện tượng
bên ngoài. Biểu hiện là:

Bản chất luôn luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng
là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại
thuần túy ngoài hiện tượng; đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn
không biểu hiện bản chất. Nhấn mạnh sự thống nhất này

Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc
lộ ra ở những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất
khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện
tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu
hiện nó cũng mất theo.

-Tính mâu thuẫn

Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của
hai mặt đối lập. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn
mà luôn bao hàm cả sự mâu thuẫn nhau[

Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ:

Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển
của sự vật trong khi hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt.

Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan, còn hiện
tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản chất không được biểu lộ
hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau.

Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện một khía
cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi, nhiều
khi xuyên tạc bản chất hoặc phản ánh không đúng bản chất (ví dụ: Hiện
tượng khúc xạ, ảo ảnh).

Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tùy
theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn bản
chất, còn bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn định, ít
biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu

Muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những sự vật,
hiện tượng, quá trình thực tế vì lẽ rằng bản chất không tồn tại thuần túy mà tồn tại
trong sự vật và biểu hiện qua hiện tượng. Bản chất của sự vật không được biểu
hiện đầy đủ trong một hiện tượng nhất định nào và cũng biến đổi trong quá trình
phát triển của sự vật. Do vậy phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện
tượng, nhất là những hiện tượng điển hình mới hiểu rõ được bản chất của sự vật.
Nhận thức bản chất của sự vật là một quá trình phức tạp đi từ hiện tượng đến bản
chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.

Trong nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận
thức được bản chất của sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản
chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa
vào hiện tượng vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật,
quy định sự vận động phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định,
không quyết định sự vận động phát triển của sự vật.

Vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định
sự vận động phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, không
quyết định sự vận động phát triển của sự vật. Do vậy nhận thức không chỉ dừng lại
ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được bản chất của sự vật. Còn trong hoạt
động thực tiễn, phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt
động cải tạo sự vật không được dựa vào hiện tượng hay xuyên tạc bản chất.

Câu 14: Thực tiễn và vai trò của thực tiến đối với nhận thức. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay

  Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn

Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã
hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

Khác với các hoạt động khác, hoạt động thực tiễn là loại hoạt động mà con
người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất nhất
định làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Đó là những hoạt động đặc trưng
và bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và
không ngừng phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy, hoạt
độne thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất mang tính chất sáng tạo và có
tính mục đích, tính lịch sử - xã hội.

Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú.
Trong có ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị -
xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.

Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực
tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác
động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy
trì sự tồn tại và phát triển của mình.

Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ
chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội để
thúc đẩy xã hội phát triển.

Thực nghiệm khoa học lả một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn.
Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần
giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác đinh
những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này
có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại.

Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng
khác nhau, không thể thay thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là loại
hoạt động có vai trò quan trọng nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động
thực tiễn khác. Bởi vì, nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách
quan, thường xuyên nhất trong đời sống của con người và nó tạo ra những điều
kiện, của cải thiết yếu nhất, có tính quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của
con người. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức
thực tiễn khác. Các hình thức thực tiễn khác, suy đến cùng cũng xuất phát từ thực
tiễn sản xuất vật chất và nhằm phục vụ thực tiễn sản xuất vật chất.

Nhận thức và các trình độ nhận thức

Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới
khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri
thức về thế giới khách quan. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về nhận thức.
Quan điểm này xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản sau đây:

Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của
con người.

Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách
quan; coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con
người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì là
không thể nhận thức được mà chỉ có những cái con người chưa nhận thức được.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng. tích cực, tự
giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết,
từ biết ít đến nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện sâu sắc, toàn diện hơn,..

Bốn là, coi thực tiễn là cơ sỡ chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là
động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là một quá trình. Đó là quá
trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận; từ trình
độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học, V.V..

Nhận thức kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực
tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hoặc qua các thí nghiệm
khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Tri
thức này có hai loại là tri thức kinh nghiệm thông thường và những tri thức kinh
nghiệm khoa học. Hai loại tri thức đó có thể bổ sung cho nhau, làm phong phú lẫn
nhau.

Nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trìu tượng, có tính hệ
thống trong việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng.

Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác
nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức
kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận; nó cung cấp cho nhận thức lý luận
những tư liệu phong phú, cụ thể; nó trực tiếp gắn chặt với hoạt động thực tiễn, tạo
thành cơ sở hiện thực đề kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết,
khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm còn hạn chế ở chỗ
chỉ dừng lại ở sự mô tả, phân loại các sự kiện, các dữ kiện thu được từ sự quan sát
và thí nghiệm trực tiếp. Do đó, nó chỉ dem lại những hiểu biết về các mặt riêng rẽ,
bề ngoài, rời rạc, chưa phản ánh được cái bản chất, những mối liên hệ mang tính
quy luật của các sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nhận thức kinh nghiệm tự nó không
bao giờ có thế chứng minh được đầy đủ tính tất yếu. Ngược lại, mặc dù được hình
thành từ sự tổng kết những kinh nghiệm, nhưng nhận thức lý luận không hình
thành một cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó,
lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những
tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho
hoạt động thực tiễn, góp phần làm biến đổi đời sống của con nsười, thông qua đó
mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất thành
cái khái quát, có tính phổ biến.
Nhận thức thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát,
trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện
tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau
của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú,
nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế, nó có
vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội.

Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách từ giác và
gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng
nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng lôgích. Đó là cái khái
niệm, phạm trù và các quy luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có tính khách
quan, trừu tượng, khái quát, lạ vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân
thực. Nó vận dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn
ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật
của đối tượng trong nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to
lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ hiện
đại.

Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau
về chất của quá trình nhận thức, nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường
có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các
khoa học. Mặc dù đã chứa đựng những mầm mống của những tri thức khoa học,
song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề ngoài,
ngẫu nhiên, không bản chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận
thức khoa học. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua quá
trình tổng kết, trừu tượng, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi
đạt tới trình độ nhận thức khoa học, nó lại có tác động trở lại nhận thức thông
thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường, làm cho nhận thức thông thường
phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế
giới.

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu
chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức.

Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức; nó đề ra
nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức, khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức.
Chính con người có nhu cầu tất yếu khách quan là phải giải thích thế giới và cải
tạo thế giới nên con người tất yếu phải tác động vào các sự vật, hiện tuợng bằng
hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật, hiện tuợng bộc lộ
những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại
những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy
luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành nên các lý thuyết
khoa học. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con người cần phải đo đạc
diện tích và đong lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và
sự chế tạo cơ khí mà toán học đã ra đời và phát triển. Hoặc sự xuất hiện học thuyết
mácxít ở những năm 40 của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt động thực tiễn của
các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy
giờ. Ngay cả những thành tựu khoa học mới đây, nhất là khám phá và giải mã bản
đồ gien người cũng ra đời từ chính hoạt động thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải
chữa trị những căn bệnh nan y và từ nhu cầu tìm hiểu, khai thác những tiềm năng
bí ẩn của con người... Có thể nói, suy cho cùng không có một lĩnh vực tri thức nào
mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực
tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời
cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của minh. Cùng vĩ
thế, chủ thể nhận thức không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế
giới nếu nó xa rời thực tiễn.

Thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt
động thực tiễn mà các giác quan của con nguời ngày càng được hoàn thiện; năng
lực tư duy lôgích không ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện nhận
thức ngày càng hiện đại, có tác dụng "nối dài" các giác quan của con người trong
việc nhận thức thế giới.

Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà còn
đóng vai trò là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận
thức. Điều này có nghĩa thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được
trong nhận thức. Đồng thời, thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sữa chữa,
phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã từng khẳng định: "Vấn đề tìm hiểu
xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn
không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn
mà con người phải chứng minh chân lý".

Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố
đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là
nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình.
Nhấn mạnh vai trò đó của thực tiễn, V.I.Lênin đã cho rằng "Quan điểm về đời
sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức".
Ý nghĩa của việc nghiên cứu

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ
thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác
tổng kểt thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với
hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo
điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại,nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn
sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa. Như vậy, nguyên tắc
thống nhất giữa thực tiễn và lý luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực
tiễn và hoạt động lý luận; lý luận mà không có thực tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để
xác định tính chân lý của nó thì chỉ là lý luận suông. Ngược lại, thực tiễn mà không
có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ biến thành thực tiễn mù
quáng.

Câu 15:  Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay

Nhận thức là gì?

Theo quan điểm triết học Mac-Lenin, nhận thức được định nghĩa là quá trình
phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính
tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.

Trong tâm lý học nhận thức và kỹ thuật nhận thức, nhận thức thông thường
được coi là quá trình xử lý thông tin của tâm trí người tham gia hay người điều
hành hoặc của bộ não.

Theo đó nhận thức được cho là quá trình phản ánh năng động và sáng tạo
hiện thực khách quan vào bộ não con người. Nhờ hoạt động nhận thức, không chỉ
cái bên ngoài mà cả bản chất nên trong, các mối quan hệ mang tính quy luật chi
phối sự vận động, sự phát triển các sự vật hiện tượng, không chỉ phản ánh cái hiện
tại mà cả cái đã qua và cái sẽ tới. Hoạt động này bao gồm nhiều quá trình khác
nhau thể hiện nhiều mức độ phản ánh hiện thực khách quan và mang lại những sản
phẩm khác nhau về hiện thức khách quan.

Sự nhận thức của con người vừa ý thức, vừa vô thức, vừa cụ thể, vừa trừu
tượng và mang tính trực giác. Quá trình nhận thức sử dụng tri thức có sẵn và tạo ra
tri thức mới.
Các qui trình được phân tích theo các góc nhìn khác nhau ở tùy các lĩnh vực
khác nhau như ngôn ngữ học, thần kinh học, tâm thần học, tâm lý học, giáo
dục, triết học, nhân loại học, sinh học, logic và khoa học máy tính. Trong tâm lý
hoc và triết học khái niệm về nhận thức liên quan chặt chẽ đến các khái niệm trừu
tượng như trí óc và tri tuệ, bao gồm các chức năng tâm thần, các quy trình tâm thần
và các trạng thái của các thực thể thông minh (cá nhân, nhóm, tổ chức, trí tuệ nhân
tạo..).

Cách sử dụng khái niệm nhận thức khác nhau trong từng ngành học. Trong
tâm lý học và trong khoa học nhận thức cho rằng nhận thức thường đề cập đến các
chức năng tâm lý của một cá nhân xử lý thông tin. Khái niệm nhận thức còn được
sử dụng trong một nhánh của tâm lý học xã hội – ý thức xã hội để giải thích về
những thái độ, sự phân loại và động lực nhóm.

Các giai đoạn của quá trình nhận thức

Theo quan điểm tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người đi từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
Con đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức
tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên ngoài đến bản chất
bên trong.

Căn cứ vào tính chất phản ánh có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức
thành 2 giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính.

Giai đoạn 1: Nhận thức cảm tính

Nhận thức cảm tính hay còn được biết tới là trực quan sinh động (phản ánh thuộc
tính bên ngoài thông qua cảm giác và tri giác) là giai đoạn đầu tiên của quá trình
nhận thức. Đây là một trong các giai đoạn của quá trình nhận thức mà con người sử
dụng các giác quan để tác động vào sự vạt, sự việc nhằm nắm bắt sự vật, sự việc
ấy. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau:

Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ
của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con
người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá
những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý thức.

Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật
khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự
tổng hợp các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ
hơn, phong phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và
không đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải
phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính không đặc trưng và
phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó không còn trực tiếp tác động lên cơ quan cảm
giác con người. Do vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.

Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh
sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp
vào các giác quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng
yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau
của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho nên
biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự vật.

Đặc điểm của nhận thức cảm tính là phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các
giác quan của chủ thể nhận thức. Phản ánh bề ngoài, cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên,
cả cái bản chất và không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật.

Hạn chế của nhận thức cảm tính là chưa khẳng định được những mặt, những
mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải
vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.

Giai đoạn 2: Nhận thức lý tính

Nhận thức lý tính hay còn gọi là tư duy trừu tượng (phản ánh thực chất bên trong,
bản chất của sự việc) là  giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật,
được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận. Các hình thức
của nhận thức lý tính bao gồm:

Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc
tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng
hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật.

Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối
quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Khái
niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các
phán đoán và tư duy khoa học.

Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau
để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Thí dụ:
“Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng” là một phán đoán vì có sự liên kết
khái niệm “dân tộc Việt Nam” với khái niệm “anh hùng”.
Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là
phán đoán đơn nhất (ví dụ: đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù (ví dụ: đồng là kim
loại) và phán đoán phổ biến (ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện). Ở đây phán đoán
phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát rộng lớn nhất về đối tượng.

Nếu chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ
giữa cái đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong phán
đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối quan hệ giữa
cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến.

Chẳng hạn qua các phán đoán thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngoài đặc tính
dẫn điện giống nhau thì giữa đồng với các kim loại khác còn có các thuộc tính
giống nhau nào khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải vươn
lên hình thức nhận thức suy luận.

Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau
để rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí dụ, nếu liên
kết phán đoán “đồng dẫn điện” với phán đoán “đồng là kim loại” ta rút ra được tri
thức mới “mọi kim loại đều dẫn điện”. Tùy theo sự kết hợp phán đoán theo trật tự
nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà người ta có được hình thức
suy luận quy nạp hay diễn dịch. Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức
năng phát hiện ra tri thức mới một cách nhanh chóng và đúng đắn.

Đặc điểm của nhận thức lý tính là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự
vật, hiện tượng đồng thời cũng là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện
tượng.

Về cơ bản nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận
thức lý tính. Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự
của sự vật.

Theo đó, nhận thức cảm tính là cơ sở, là nơi cung cấp nguyên liệu cho nhận
thức lý tính. Trong khi đó, nhận thức lý tính phải dựa vào nhận thức cảm tính, gắn
chặt với nhận thức cảm tính. Dù nhận thức lý tính có trừu tượng và khái quát đến
đâu thì nội dung của nó cũng chứa đựng các thành phẩm của nhận thức cảm tính.

Ngược lại nhận thức lý tính chi phối nhận thức cảm tính, làm cho nhận thức
cảm tính tinh vi hơn, nhạy bén hơn và chính xác hơn, có lựa chọn và ý nghĩa hơn.

Giai đoạn 3: Nhận thức trở về thực tiễn


Nhận thức trở về thực tiễn được hiểu là tri thức được kiểm nghiệm là đúng
hay sai. Nói một cách dễ hiểu thì thực tiễn là một trong các giai đoạn của quá trình
nhận thức có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được. Vì vậy, thực tiễn là
tiêu chuẩn của chân lý, cơ sở động lực, muc đích của nhận thức. Mục đích cuối
cùng của nhận thức không chỉ để giải thích và cải tạo thế giới mà còn có chức năng
định hướng thực tiễn.

You might also like