Professional Documents
Culture Documents
Ôn Tập Cuối Kì Kinh Tế Chính Trị
Ôn Tập Cuối Kì Kinh Tế Chính Trị
Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, có hai hình thức sản xuất rõ rêt là:
sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa.
Sản xuất tự cấp tự túc là sản xuất ra sản phẩm để thỏa mãn chính nhu cầu của người
sản xuất (tự cung tự cấp). Sản xuất hàng hóa là hình thức tổ chức sản xuất ra sản phẩm để
bán, để trao đổi trên thị trường.
Sản xuất hàng hóa ra đời trong hai điều kiện lịch sử:
Thứ nhất là do sự phân công lao động trong xã hội. Sự phân công lao động trong xã
hội là sự phân chia lao động vào các ngành và mỗi người chỉ sản xuất ra một hoặc một số
loại sản phẩm nhất định. Đây là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, biểu hiện ở
sự chuyên môn hóa sản xuất. Mỗi người thừa sản phẩm do mình sản xuất ra nhưng lại
thiếu sản phẩm khác. Vì vậy, sự trao đổi hàng hóa là điều kiện tất yêu và có lợi đối với
mỗi người sản xuất. Đây là điều kiện cần cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa.
Điều kiện thứ hai là sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
Điều này làm cho những người sản xuất độc lập với nhau, họ làm ra sản phẩm dựa trên tư
liệu của chính họ và có quyền chi phối những sản phẩm đó. Sự tách biệt này xuất hiện là
do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với
nhau. Tuy nhiên, sự phân công lao động trong xã hội lại làm họ phụ thuộc vào nhau. Sản
xuất hàng hóa ra đời chính là để giải quyết mâu thuẫn này. Muốn có sản phẩm khác thì
những người sản xuất phải mua bán hàng hóa với nhau. Đây chính là điều kiện đủ cho sự
ra đời của sản xuất hàng hóa.
Ở Việt Nam, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất là do
sự da dạng hóa các hình thức sở hữu, tách quyền sử dụng ra khỏi quyền sở hữu đối với
sản phẩm của nhà nước, thừa nhận sở hữu tư nhân. Theo đó, nhà nước nắm quyền sở hữu
còn trao quyền sử dụng cho doanh nghiệp để doanh nghiệp được độc lập sản xuất và phân
phối hàng hóa, hình thành sự trao đổi hàng hóa theo nguyên tắc thuận mua vừa bán.
Những hình thức đầu tiên của sản xuất hàng hóa xuất hiện từ thời kì tan rã của chế
độ nguyên thủy, tồn tại và phát triển tiếp tục ở các phương thức sản xuất tiếp theo. Sản
xuất hàng hóa phát triển nhất ở chế độ tư bản chủ nghĩa và tiếp tục tồn tại, phát triển dưới
chủ nghĩa xã hội vì dưới chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau
và sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển.
Như vậy, sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi đồng thời có hai điều kiện trên, nếu thiếu
một trong hai thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động không mang hình
thái hàng hóa.
Sx tự cấp tự túc và sxhh => 2 điều kiện=>thứ nhất, kết quả của ptr llsx=>1 nsx
thừa sp của mình nhưng thiếu sp khác => trao đổi là tất yếu=> đk cần
Đk2=> nsx độc lập, sx và chi phối sp =>do tư hữu tlsx => vẫn phụ thuộc => điều
kiện đủ
VN=>đa dạng hóa hình thức sở hữu, tách sd và sở hữu đối với sp nhà nước, thừa
nhân sở hữu tư nhân => doanh nghiệp độc lập => thuận mua vừa bán
Sxhh xh đầu tiên cxnt tan rã => ptr qua các ptsx => ptr nhất ở tbcn => tồn tại ở
cnxh vì có sự đa dạng sở hữu và phân công lđ ptr
Kết luận: phải có 2 điều kiện => thiếu thì không có sxhh, sản phẩm lao động không
mang hình thái hàng hóa
Câu 2: Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa, lượng giá trị hàng hóa và các
nhân tố ảnh hưởng
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán. Từ khái niệm này, ta có thể thấy ba điểm chính: Hàng hóa
nhất thiết phải là sản phẩm do lao động của con người tạo ra, sản phẩm đó được tạo ra
nhưng phải có ích và phải được tiêu dùng, sử dụng thông qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác
nhau sẽ có bản chất sản xuất hàng hóa khác nhau, song hàng hóa nào cũng đều có 2 thuộc
tính: giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Ví dụ, giá trị sử dụng của cơm để ăn, áo để mặc, xe để đi,… Chính công dụng của vật
phẩm làm cho nó có giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quy định, nên nó
là một phạm trù vĩnh viễn. Hàng hóa càng có nhiều thuộc tính khác nhau thì càng có
nhiều giá trị sử dụng khác nhau. Khi khoa học công nghệ phát triển, người ta ngày càng
phát hiện ra nhiều thuộc tính, lợi ích của vật chất để tạo ra càng nhiều sản phẩm, nhiều
giá trị sử dụng. Ví dụ, than đá ngày xưa chỉ được dùng làm chất đốt nhưng hiện nay được
sử dụng trong một số công nghiệp hóa chất.
Giá trị sử dụng chỉ được thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng nó, nó là nội
dung của của cải, không kể hình thức xã hội của của cái đó như thế nào. Đã là hàng hóa
thì phải có giá trị sử dụng. Tuy nhiên, không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng là
hàng hóa, ví dụ như ánh sáng, không khí,… Một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị
sử dụng của nó phải được đem ra trao đổi, mua bán, nghĩa là phải có giá trị trao đổi.
Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi.
Thuộc tính thứ hai của hàng hóa là thuộc tính giá trị. Muốn hiểu được thuộc tính
này, trước hết ta phải hiểu giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỉ
lệ trao đổi các giá trị sử dụng khác nhau.
Ví dụ: 1m vải = 3 đấu thóc
Khi hàng hóa được đem ra trao đổi, chúng phải có một cơ sở chung với nhau. Cái
chung ấy không phải là giá trị sử dụng vì mỗi hàng hóa có công dụng, giá trị sử dụng
khác nhau. Điểm chung nhất giữa các hàng hóa chính là chúng đều là sản phẩm của lao
động. Thực chất trao đổi hàng hóa cho nhau chính là trao đổi lao động ẩn giấu trong các
hàng hóa đó. Ở ví dụ trên, giả sử một người thợ dệt mất 2 tiếng để tạo ra 1m vải, một
người nông dân sản xuất 3 đấu thóc hết 2 giờ. Trao đổi 1m vải lấy 3 đấu thóc chẳng qua
là trao đổi 2 giờ lao động sản xuất vải lấy 2 giờ lao động sản xuất thóc.
Vì thế, cơ sở cho hai hàng hóa khác nhau được đem ra trao đổi chính là hao phí lao
động xã hội sản xuất ra hai hàng hóa đó. Lao động xã hội mà người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa chính là giá trị hàng hóa. Hay nói cách khác, giá trị hàng hóa chính là
hao phí lao động xã hội cần thiết để tạo ra hàng hóa. Hao phí lao động xã hội bao gồm
hao phí lao động sống của người lao động sản xuất trực tiếp ra sản phẩm (thể lực, trí lực,
thời gian) và hao phí lao động trong quá khứ để sản xuất ra tư liệu sản xuất.
Giá trị hàng hóa phải phản ánh hao phí lao động trung bình trong ngành. Hao phí
lao động càng nhiều thì giá trị hàng hóa càng cao, giá trị trao đổi càng cao và ngược lại.
Khi khoa học – công nghệ phát triển, ngày càng có nhiều sản phẩm và giá trị hàng hóa có
xu hướng giảm vì hao phí lao động xã hội giảm.
Như vậy, giá trị hàng hóa quyết định giá trị trao đổi, giá trị trao đổi là biểu hiện của
giá trị hàng hóa. Bất cứ hàng hóa nào cũng có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị,
Giữa chúng vừa có sự thống nhất, vừa có sự mâu thuẫn với nhau.
Khái niệm hàng hóa => 3 điểm
2 dạng vật thể, phi vật thể => giá trị sử dụng, giá trị
Giá trị sử dụng => do công dụng => thuộc tính quyết định, phạm trù vĩnh
viễn => nhiều thuộc tính => vật chất của của cải => KHCN => không phải hàng
hóa => phải được trao đổi, mua bán => giá trị trao đổi
Giá trị trao đổi => tỉ lệ giữa gtsd => vd => điểm chung giữa hh => phân
tích ví dụ => giá trị hàng hóa
Giá trị hàng hóa => hpld xh cần thiết => gồm hplđ sống và hplđ quá khứ
=> phản ánh hplđ trung bình trong ngành => hplđ cao, gthh cao => KHCN phát
triển, hplđ giảm
Kết luận : gthh quyết định gttđ, hh nào cũng có 2 thuộc tính vừa thống nhất
vừa mâu thuẫn
Lượng giá trị hàng hóa là lượng hao phí lao động xã hội để tạo ra sản phẩm, do thời
gian lao động quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị trường do rất nhiều
người sản xuất ra, mỗi người sản xuất có điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là khác
nhau nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hóa cũng khác nhau. Tuy nhiên,
lượng giá trị hàng hóa không do hao phí lao động cá biệt xác định mà phải phản ánh hao
phí lao động xã hội trong ngành nên lượng giá trị hàng hóa được đo lường bởi thời gian
lao động xã hội cần thiết (thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm trong
điều kiện trình độ, cường độ,.. trung bình của xã hội)
Ví dụ, trong sản xuất công nghiệp có vô số người tham gia sản xuất một sản phẩn,
giả sử có 3 người sản xuất A,B,C ứng với điều kiện sản xuất, hao phí lao động cá biệt và
sản lượng tạo ra như sau:
Người sản ĐKSX HPLĐ cb/dvsp Q (triệu)
xuất
A Tốt 2h 100
B Trung bình 3h 700
C Xấu 4h 200
Dựa vào bảng trên, hao phí thời gian trung bình xã hội sẽ là :
(200+2100+800)/(100+700+200)~3,1h
Như vậy, lượng giá trị hàng hóa chịu chi phối bởi hao phí lao động cá biệt của
nhóm cung ứng đại bộ phận sản phẩm ra thị trường và do hao phí lao động cá biệt của
nhóm có điều kiện sản xuất trung bình quyết định.
Lượng hplđ tạo ra sp, tính bằng tglđ => do tglđ cá biệt khác nhau => tglđ xh cần
thiết
Ví dụ => chi phối bởi hplđ cb của nhóm cung ứng nhiều sp, hplđ cb của nhóm đksx
trung bình
Các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị hàng hóa: năng suất lao động và mức độ
phức tạp của lao động
Năng suất lao động là năng lực sản xuất ra sản phẩm của người lao động, được tính
bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hay số lượng thời gian cần
thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Khi năng suất lao động càng tăng, thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra sản
phẩm càng giảm, vì thế mà sản lượng càng tăng và giá trị một đơn vị sản phẩm giảm. Vì
vậy mà người sản xuất luôn tìm biện pháp tăng năng suất lao động để hao phí lao động cá
biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội nhằm thu càng nhiều lợi nhuận. Một số biện pháp
tăng năng suất lao động như:
- Ứng dụng những tiến bộ của khoa học kĩ thuật vào sản xuất, máy móc, thiết
bị, công nghệ
- Nâng cao trình độ người lao động, đào tạo lao động hoặc trả lương cao để
thuê lao động trình độ cao
- Nâng cao trình độ quản lí, tổ chức, sắp xếp, hợp lí hóa các khâu của quá
trình sản xuất
- Khai thác những thuận lợi của điều kiện tự nhiên
Cùng tạo ra nhiều sản phẩm hơn nhưng cần phân biệt năng suất lao động và cường
độ lao động. Cường độ lao động chỉ mức hao phí lao động trên một dơn vị thời gian, thể
hiện mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động. Khi tăng cường độ lao
động, trong một đơn vị thời gian thì hao phí lao động và sản phẩm tạo ra tăng tương ứng
nhưng hao phí lao động xét trên một đơn vị sản phẩm là không đổi. Vì việc tăng cường
độ lao động không làm thay đổi chất của quá trình sản xuất, cách thức lao động không
đổi, hao phí lao động không đổi mà chỉ là kéo dài thời gian lao động.
Nhân tố thứ hai ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa là mức độ phức tạp của lao
động. Lao động được chia thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản
đơn là những loại lao động mà người lao động chỉ cần có điều kiện bình thường, không
cần đào tạo mà vẫn có thể làm được. Lao động phức tạp là lao động mà người lao động
phải có trình độ, được đào tạo chuyên môn mới thực hiện được. Ví dụ, người rửa bát
không cần yêu cầu trình độ, độ tuổi, … vẫn có thể làm được nên là lao động sản đơn còn
thợ mộc cần có kĩ năng, trình độ chuyên môn mới có thể đóng bàn, ghế, điêu khắc,… nên
là lao động phức tạp. Vì thế, trong một thời gian lao động, lao động phức tạp tạo ra nhiều
giá trị hơn lao động giản đơn. Tuy nhiên, để đảm bảo sự cộng bằng, trong quá trình trao
đổi, người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Như vậy,
lượng giá trị hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung
bình.
NSLĐ => tăng làm gthh giảm => lợi nhuận => biện pháp tăng nslđ
Cđlđ => tăng không làm tăng gthh => kéo dài tglđ
Mức độ phức tạp => kn=> vd=> quy đổi
Kết luận: lượng gthh đo bằng tglđ xh cần thiết, giản đơn trung bình.
Câu 6: Quá trình sản xuất giá trị thặng dư, hai phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư, giá trị thặng dư siêu ngạch
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình sản xuất hàng hóa theo quy mô lớn. Đó là sự
kết hợp của 3 quá trình: sản xuất giá trị sử dụng, sản xuất giá trị và sản xuất giá trị thặng
dư (mực đích tuyệt đối hóa của chủ nghĩa tư bản)
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất của nhà tư bản và sức
lao động làm thuê, có các đặc điểm: một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của
nhà tư bản, giống như những yếu tố sản xuất khác của nhà tư bản được sử dụng sao cho
hiệu quả nhất; hai là sản phẩm người lao động tạo ra thuộc sở hữu của nhà tư bản chứ
không phải của người lao động.
Giả định nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư là trao đổi ngang giá và điều
kiện sản xuất thuộc mức trung bình trong xã hội.
Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản xuất sợi của một
nhà tư bản làm ví dụ. Giả định để sản xuất ra 10kg sợi cần có 20kg bông và giá của 20kg
là 10$. Để chuyển số bông đó thành sợi, một người công nhân cần làm việc trong 6 giờ
và hao mòn máy móc, thiết bị là 2$; giá trị sức lao động trong một ngày là 3$. Như vậy
mỗi giờ người lao động tạo ra một lượng giá trị là 0,5$.
Nếu công nhân lao động trong 6 giờ thì:
Chi phí sản xuất Giá trị sản phẩm mới
- Tiền mua bông: 10$ - Giá trị bông được chuyển vào sợi:
- Hao mòn máy móc: 10$
2$ - Giá trị của hao mòn máy móc được
- Tiền mua SLĐ trong chuyển vào sợi: 2$
1 ngày: 3$ - Giá trị mới do lao động của công
Tổng: 15$ nhân tạo ra: 3$
Tổng: 15
Nếu nhà tư bản thuê lao động làm trong 6h thì không tạo ra delta T.
Nếu công nhân lao động trong 12 giờ thì:
Chi phí sản xuất Giá trị sản phẩm mới
- Tiền mua bông: 20$ - Giá trị bông được chuyển vào sợi:
- Hao mòn máy móc: 20$
4$ - Giá trị của hao mòn máy móc được
- Tiền mua SLĐ trong chuyển vào sợi: 4$
1 ngày: 3$ - Giá trị mới do lao động của công
Tổng: 27$ nhân tạo ra: 6$
Tổng: 30$
Nếu tư bản thuê lao động làm trong 12h thì tạo ra 1 lượng delta T = 3$, đây chính là
giá trị thặng dư mà tư bản thu được.
Giá trị thặng dư chính là một phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê tạo ra nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Qua nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, ta có 3 kết luận:
Thứ nhất, giá trị sản phẩm có hai phần: giá trị cũ (c=24$) là phần giá trị của tư liệu
sản xuất như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,… được bảo tồn chuyển sang sản phẩm
và giá trị mới (v+m=6$) là giá trị cho sức lao động tạo ra. Giá trị sản phẩm bằng tổng giá
trị cũ và giá trị mới.
Thứ hai, ngày lao động của công nhân được chia thành 2 phần: phần thứ nhất là thời
gian lao động người công nhân tạo ra một lượng giá trị đúng bằng giá trị sức lao động (v)
của mình – thời gian lao động cần thiết và lao động trong thời gian đó được gọi là lao
động cần thiếu. Phần thứ hai là thời gian lao động mà người lao động tạo ra giá trị thặng
dư (m) được gọi là thời gian lao động thặng dư, lao động trong thời gian đó là lao động
thặng dư. Vậy, quá trình sản xuất giá trị thặng dư là quá trình sản xuất được kéo dài quá
thời gian lao động cần thiết.
Cuối cùng, sau nghiên cứu quá trình này, ta nhận thấy mâu thuẫn của công thức
chung của tư bản đã được giải quyết. Trong lưu thông, nhà tư bản mua được một loại
hàng hóa đặc biệt là sức lao động. Sau đó nhà tư bản đem hàng hóa đặc biệt vào sản xuất,
tức là ngoài lưu thông, để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó mà tiền của
nhà tư bản chuyển thành tư bản.
Sx tbcn gồm 3 quá trình, kết hợp 2 yếu tố (2 điều kiện)=> giả định nghiên cứu 2
yếu tố=> ví dụ quá trình sx sợi => kết luận gttd: 1 phần gtri mới dôi ra ngoài giá trị slđ
do nlđ tạo ra nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt
3 kết luận => gttd=gt cũ + gt mới => ngày lao động 2 phần: cần thiết, thặng dư
=> mâu thuẫn được giải quyết: ntb mua được hh slđ trong lưu thông -> đem vào sx,
ngoài lưu thông -> gttd
Có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư bằng
cách kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao động cần thiết trong khi năng suất lao
động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Do thời gian lao
động tăng lên nhưng thời gian lao động tất yếu không đổi nên thời gian lao động thặng dư
tăng lên, tỷ suất giá trị thặng dư (m’=m/v.100%) càng cao, giá trị thặng dư tuyết đối càng
nhiều. Tuy nhiên, trong thực tế, việc kéo dài thời gian lao động vấp phải những giới hạn
nhất định như giới hạn về mặt thể chất và tinh thần của công nhân. Mặt khác, nó còn bị
giới hạn do những phong trào đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm và ngày lao động tự
nhiên chỉ là 24 giờ. Vì vậy, giai cấp tư sản không thể kéo dài ngày lao động một cách vô
hạn. Thay vào đó, nhà tư bản tăng cường độ lao động, tăng mức độ khẩn trương (ví dụ:
thuê người đốc thúc), thực chất đây cũng là việc kéo dài thời gian lao động.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư được tạo ra do rút ngắn thời
gian lao động tất yếu bằng cách tăng năng suất lao động xã hội, nhờ đó mà thời gian lao
động thặng dư tăng lên trong điều kiện độ dài ngày lao động như cũ. Muốn rút ngắn thời
gian lao động tất yếu thì phải giảm giá trị sức lao động, nghĩa là phải giảm giá trị tư liệu
sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của người lao động. Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng
cách tăng năng suất lao động trong các quá trình tạo ra tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi
tiêu dùng của công nhân hay tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu
sản xuất để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt đó. ( ptr khoa học công nghệ, trình độ quản lý,cải
thiện trình độ công nhân ..)
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là
phương pháp chủ yếu thì đến giai đoạn tiếp theo, cùng với sự phát triển của khoa học kĩ
thuật thì sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Hai phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao
trình độ bóc lộc công nhân làm thuê. Dưới chủ nghĩa tư bản, máy móc không phải để làm
giảm cường độ lao động của công nhân mà trái lại để tăng cường độ lao động. Ngày nay,
việc tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên nhưng dưới hình thức căng
thẳng của trí lực mà không phải thể lực.
gttd tuyệt đối – kéo dài ngày lđ quá tglđ cần thiết khi tglđ ct không đổi, nslđ không
đổi => tỉ suất gttd tăng, gttd tăng => hạn chế: thể lực, trí lực nlđ; phong trào; ngày lđ
tự nhiên 24h=>tăng cđlđ:kéo dài tglđ
gttd tương đối – rút ngắn tglđ tất yếu => tăng nslđ, tăng tglđ thặng dư => muốn
vậy: giảm gt slđ = giảm gt tlsh trong pvi tiêu dùng của nlđ => tăng nslđ trong sx tlsh hay
tăng nslđ xs tlsx để sx ra tlsh
gđ đầu tbcn => tuyệt đối, gđ sau pt khcn => tương đối, khcn= tăng cđlđ => 2pp
dùng để bóc lộ slđ => ngày nay, tự động hóa sx làm cđlđ tăng trí lực thay vì thể lực
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao
động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Xét từng trường hợp, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời nhưng xét
toàn bộ xã hội thì giá trị siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá
trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của mọi nhà tư bản và là động lực mạnh nhất để kích
thích nhà tư bản phát triển khoa học kĩ thuật, nâng cao năng suất lao động cá biệt.
K.Mark gọi đây là biến tướng của giá trị thặng dư tương đối vì cả hai đều làm tăng năng
suất lao động (mặc dù một cái là tăng nắng suất lao động cá biệt, một cái là tăng năng
suất lao động xã hội). Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư
tương đối còn thể hiện ở việc giá trị thặng dư tương đối do toàn xã hội thu được. Giá trị
thặng dư siêu ngạch chỉ do một số nhà tư bản có kĩ thuật tiên tiến thu dược. Giá trị thặng
dư siêu ngạch không chỉ thể hiện mối quan hệ bóc lột giữa tư bản và công nhân làm thuê
mà còn thể hiện sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản.
Như vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch vừa có tính tạm thời vừa có tính phổ biến, là
động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào
sản xuất, … để tăng năng suất lao động, giảm giá trị hàng hóa.
Khái niệm: tăng nslđ cb, giảm gthhcb=> tạm thời, phổ biến=> khát vọng của toàn
bộ ntb=> cải tiến kĩ thuật,… => biến tướng của gttd tương đối: nslđ cá biệt, chỉ do
những ntb có kĩ thuật tiên tiến thu được => phản ánh bản chất tư bản – công nhân, sự
cạnh tranh giữa các ntb => kết luận: tính chất, động lực tăng nslđ
Câu 7: Lợi nhuận, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất: lợi nhuận, tỷ suất
lợi nhuận, cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành
Lợi nhuận là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư nhưng lại biểu hiện ra bên
ngoài như là kết quả của tài kinh doanh của nhà tư bản và vốn đầu tư của nhà tư bản
mang lại.
Lợi nhuận = doanh thu – chi phí sản xuất
Hay: p = (c+v+m) – (c+v)=m
Lợi nhuận là một hình thái thần bí hóa của giá trị thặng dư nhưng nó phản ánh sai
lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa nhà tư bản và lao động làm thuê, vì nó làm người ta
hiểu lầm rằng lợi nhuận không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra.
Nguyên nhân là vì: thứ nhất, lợi nhuận p được sinh ra bởi bộ phận v nay được thay
thế bằng k=c+v khiến cho p được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước. Thứ
hai, nhà tư bản chỉ cần bán hàng hóa với giá cao hơn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là
có thể thu được lợi nhuận, điều này làm cho lợi nhuận đôi khi khác với giá trị thặng dư.
Nếu nhà tư bản bán giá cả bằng giá trị thì p=m, nếu giá cả lớn hơn giá trị thì p>m và nếu
giá cả nhỏ hơn giá trị thì p<m. Tuy nhiên, xét trên phạm vi toàn xã hội và trong một thời
gian dài thì tổng giá cả bằng tổng giá trị, tức là tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư.
Sự không nhất trí giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư càng che giấu bản chất bóc lột của
chủ nghĩa tư bản.
Hình thức biểu hiện gttd => bị hiểu do tài năng, vốn kinh doanh=> công thức=>
nguyên nhân: p sinh ra do v nhưng bị thay bằng k=v+c => con đẻ của tư bản ứng trước
Sự chênh lệch p và m do giá cả # giá trị => che giấu bản chất bóc lột
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ suất tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư
bản ứng trước: p=m/(c+v).100% , phản ánh hiệu quả của việc đầu tư tư bản (mức sinh lời
của việc đầu tư)
Tỷ suất lợi nhuận chịu ảnh hưởng của một số nhân tố:
Thứ nhất là tỷ suất giá trị thặng dư: do lợi nhuận p chính là hình thức biểu hiện của
giá trị thặng dư m nên khi tỷ suất giá trị thặng dư m’ càng lớn thì tỷ suất lợi nhuận p’
càng lớn.
Thứ hai là cấu tạo hữu cơ của tư bản c/v: Trong điều kiện giá trị thặng dư không
đối, nếu câu tạo hữu cơ tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm.
Thứ ba là tốc độ chu chuyển của tư bản: nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn
thì tần suất sản sinh ra giá trị thặng dư trong năm của tư bản ứng trước càng nhiều, giá trị
thặng dư theo đó tăng lên làm tỷ suất lợi nhuận cũng tăng theo.
Thứ tư là tiết kiệm tư bản bất biến: trong điều kiện sản xuất giá trị thặng dư và tư
bản khả biến v không đổi, thì tư bản bất biến c càng nhỏ thì tư tỷ suất lợi nhuận càng lớn.
c giảm dẫn tới c+v giảm, theo đó p’=m/(c+v).100% tăng lên.
Phần trăm giữa gttd và tư bản ứng trước=> hiệu quả việc đầu tư tư bản=> nhân tố
ảnh hưởng: tỷ suất gttd, cấu tạo hữu cơ, tốc độ chu chuyển tb, tiết kiệm tư bản bất biến.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa những người sản xuất cùng một
loại hàng hóa để giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để
thu được lợi nhuận siêu ngạch. Các nhà tư bản thường xuyên cải tiến kĩ thuật, nâng cao
năng suất lao động làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa sản xuất ra thấp hơn giá trị hàng
hóa. Kết quả của quá trình đối với cá nhân nhà sản xuất là thu được nhiều lợi nhuận hơn,
giá trị thặng dư siêu ngạch tăng. Đối với xã hội, hình thành nên giá trị thị trường (giá trị
xã hội) của từng loại hàng hóa: điều kiện sản xuất trung bình trong ngành tăng do kĩ thuật
sản xuất phảt triển, làm giá trị hàng hóa thị trường giảm.
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa những người sản xuất thuộc các
ngành khác nhau nhằm tìm nơi có đầu tư có lợi nhất (nơi có tỷ suất lợi nhuận cao nhất).
Cùng một lượng tư bản đầu tư nhưng do cấu tạo hữu cơ của tư bản khác nhau làm tỷ suất
lợi nhuận khác nhau. Các nhà sản xuất di chuyển tư bản (tư liệu sản xuất, sức lao động)
của mình từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp đến ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Sản
phẩm của ngành có tỷ suất lợi nhuận cao trở nên nhiều hơn, giá cả giảm xuống và tỷ suất
lợi nhuận cũng giảm xuống. Sự tự do di chuyển này làm thay đổi là tỷ suất lợi nhuận cá
biệt vốn có của các ngành và chỉ tạm dừng khi tỷ suất lợi nhuận ở các ngành xấp xỉ bằng
nhau. Từ đó tỷ suất lợi nhuận bình quân xuất hiện.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân p’ là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng
dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nên sản xuất tư bản chủ nghĩa
(công thức)
Lợi nhuận bình quân p ngang là số lợi nhuận bằng nhau của những tư bản khác
nhau, đầu tư những ngành khác nhau, bất kể cấu tạo hữu cơ của tư bản như thế nào.
Cạnh tranh nội bộ => đạt thuận lợi sx, tiêu thụ hh thu được lnsn=> biện pháp:
thúc đẩy kh – kt phát triển, tăng nslđ, giản hplđ cb=> tăng gttd sn => cá nhân: thu được
nhiều gttd sn => xh: hình thành giá trị thị trường (giá trị xh):nslđ xh tăng, giá trị hh
giảm
Cạnh tranh giữa các ngành => tìm nơi đầu tư có lợi nhất: p’ lớn hơn=> ngành
khác nhau, tư bản như nhau, cấu tạo hữu cơ khác nhau=> p’ khác nhau=> biện pháp: di
chuyển tư bản từ nơi p’ thấp sang nơi p’ cao => p’ giữa các ngành xấp xỉ nhau => tỷ
suất lợi nhuận bình quân => tỷ lệ % tổng m/tổng k => lợi nhuận bình quân: số lợi
nhuận thu được bằng nhau trong các ngành khác nhau dù cấu tạo hữu cơ khác nhau
Câu 8: Nguồn gốc, bản chất lợi nhuận thương nghiệp, cho ví dụ minh họa
Tư bản thương nghiệp là tư bản chuyên môn hóa trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa,
kiếm lời thông qua hoạt động trao đổi, mua bán. Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương
nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp được tách rời ra và phục vụ quá trình lưu
thông hàng hóa của tư bản công nghiệp
Ptn= giá bán – giá mua
Trong thời kì phong kiến, lợi nhuận tư bản được coi là do mua rẻ, bán đắt từ lừa
đảo, cân đo đong đếm giả dối, lợi dụng người sản xuất mà có,
Trong thời kì tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận của tư bản thương nghiệp thu được có
nguồn gốc từ một phần của giá trị thặng dư được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất và do nhà
tư bản công nghiệp nhượng lại vì tư bản thương nghiệp đã đảm nhập khâu bán hàng
(khâu mua tư liệu sản xuất) cho tư bản sản xuất.
Tư bản công nghiệp nhượng một phần giá trị thặng dư bằng cách bán hàng hóa cho
tư bản thương nghiệp với giá thấp hơn giá trị hàng hóa, sau đó tư bản thương nghiệp bán
cho người tiêu dùng với giá đúng giá trị của nó.
Như vậy, nguồn tốc lợi nhuận tư bản thương nghiệp thu được là một phần lợi nhuận
do tư bản công nghiệp nhượng lại. Và bản chất của lợi nhuận thương nghiệp chính là giá
trị thặng dư do người lao động tạo ra trong quá trình sản xuất.
Ví dụ minh họa: một tư bản công nghiệp ứng ra 1000 tư bản để sản xuất hàng hóa,
cấu tạo hữu cơ của tư bản là 4/1, tỷ suất giá trị thặng dư m’=125%.
Khi đó, k=800c+200v
Giá trị thặng dư tư bản công nghiệp thu được là m=200.125%=250, tỷ suất lợi công
nghiệp là p=250/1000*100%=25%
Giá trị hàng hóa sẽ là 1000+250=1250.
Giá bán hàng hóa của tư bản công nghiệp là 1250 và thu được lợi nhuận là 250.
Tuy nghiên, khi có tư bản thương nghiệp ứng ra 250 tư bản và tư bản công nghiệp
bán hàng cho tư bản thương nghiệp thì tỷ suất lợi nhuận công nghiệp = tỷ suất lợi nhuận
thương nghiệp = tỷ suất lợi nhuận bình quân = 250/(1000+250).100%=20%.
Lúc này, giá tư bản công nghiệp bán cho tư bản thương nghiệp là
1000+20%.1000=1200 và lợi nhuận công nghiệp là 200
Giá tư bản thương nghiệp bán cho người dùng là giá trị hàng hóa, tức là 1250 và lợi
nhuận thương nghiệp là 1250-1200=50.
Tư bản chuyên môn hóa trong lthh, kiếm lời thông qua trao đổi, mua bán.=> p
tn=giá bán – giá mua=> phong kiến: nguồn gốc từ mua rẻ bán đắt, đo đạc giả dối=>
tncb: 1 phần gttd mà tnsx nhượng cho vì tbtn bán hàng(mua tlsx) thay cho tbsx=>tncn
bán hh với giá thấp hơn gthh cho tbtn
Nguồn gốc: 1 phần gttd được tncn nhượng lại
Bản chất: gttd do người lđ tạo ra trong qtsx
Ví dụ: tbcn:1000 tư bản, c/v=4/1, m’=125% => m=250, p=25%, gthh=1250
Tbtn: 250 tư bản => p’=20% => giá tncb bán = 1200, pcn=200, giá tbtn
bán=1250, ptn=50
Câu 9: Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản từ cạnh tranh tự do sang chủ
nghĩa tư bản độc quyền
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy nhanh
quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn.
Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò
luyện kim mới Betsơme, Máctanh, Tômát... đã tạo ra sản lượng lớn gang thép với chất lượng
cao; phát hiện ra hoá chất mới như axít sunphuaric (H2SO4), thuốc nhuộm...; máy móc mới ra
đời: động cơ điêzen, máy phát điện, máy tiện, máy phay...; phát triển những phương tiện vận tải
mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay... và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa học kỹ
thuật này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô
lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát
triển sản xuất lớn.
Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy luật kinh tế của
chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy... ngày càng mạnh mẽ, làm biến
đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích
lũy để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và
nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí
nghiệp ngày càng to lớn.
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản
hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tích tụ và tập trung tư bản.
Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy
tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các
tổ chức độc quyền.
Từ những nguyên nhân trên, V.I. Lênin khẳng định: "... cạnh tranh tự do đẻ ra tập trung sản
xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc
quyền”.