You are on page 1of 20

Câu 1: Đk ra đời và sản xuất của hàng hóa

Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, có hai hình thức sản xuất rõ
rêt là: sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa.
Sản xuất tự cấp tự túc là sản xuất ra sản phẩm để thỏa mãn chính nhu cầu của
người sản xuất trong nội bộ đơn vị kinh tế. Sản xuất hàng hóa là hình thức tổ chức
sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi trên thị trường.
Sản xuất hàng hóa ra đời trong hai điều kiện lịch sử:
Thứ nhất là do sự phân công lao động trong xã hội. Sự phân công lao động
trong xã hội là sự phân chia lao động vào các ngành và mỗi người chỉ sản xuất ra
một hoặc một số loại sản phẩm nhất định. Đây là kết quả của sự phát triển lực
lượng sản xuất, biểu hiện ở sự chuyên môn hóa sản xuất. Mỗi người thừa sản phẩm
do mình sản xuất ra nhưng lại thiếu sản phẩm khác. Vì vậy, sự trao đổi hàng hóa là
điều kiện tất yêu và có lợi đối với mỗi người sản xuất. Đây là điều kiện cần cho sự
ra đời của sản xuất hàng hóa.
Điều kiện thứ hai là sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người
sản xuất. Điều này làm cho những người sản xuất độc lập với nhau, họ làm ra sản
phẩm dựa trên tư liệu của chính họ và có quyền chi phối những sản phẩm đó. Sự
tách biệt này xuất hiện là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, làm cho những
người sản xuất độc lập, đối lập với nhau. Tuy nhiên, sự phân công lao động trong
xã hội lại làm họ phụ thuộc vào nhau. Sản xuất hàng hóa ra đời chính là để giải
quyết mâu thuẫn này. Muốn có sản phẩm khác thì những người sản xuất phải mua
bán hàng hóa với nhau. Đây chính là điều kiện đủ cho sự ra đời của sản xuất hàng
hóa.
Ở Việt Nam, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất
là do sự da dạng hóa các hình thức sở hữu, tách quyền sở dụng ra khỏi quyền sở
hữu đối với sản phẩm của nhà nước, thừa nhận sở hữu tư nhân. Theo đó, nhà nước
nắm quyền sở hữu còn trao quyền sử dụng cho doanh nghiệp để doanh nghiệp
được độc lập sản xuất và phân phối hàng hóa, hình thành sự trao đổi hàng hóa theo
nguyên tắc thuận mua vừa bán.
Những hình thức đầu tiên của sản xuất hàng hóa xuất hiện từ thời kì tan rã của
chế độ nguyên thủy, tồn tại và phát triển tiếp tục ở các phương thức sản xuất tiếp
theo. Sản xuất hàng hóa phát triển nhất ở chế độ tư bản chủ nghĩa và tiếp tục tồn
tại, phát triển dưới chủ nghĩa xã hội vì dưới chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều hình
thức sở hữu khác nhau và sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển.
Như vậy, sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi đồng thời có hai điều kiện trên, nếu
thiếu một trong hai thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động không
mang hình thái hàng hóa.
Sx tự cấp tự túc và sxhh => 2 điều kiện=>thứ nhất, kết quả của ptr llsx=>1
nsx thừa sp của mình nhưng thiếu sp khác => trao đổi là tất yếu=> đk cần
Đk2=> nsx độc lập, sx và chi phối sp =>do tư hữu tlsx => vẫn phụ thuộc =>
điều kiện đủ
VN=>đa dạng hóa hình thức sở hữu, tách sd và sở hữu đối với sp nhà nước,
thừa nhân sở hữu tư nhân => doanh nghiệp độc lập => thuận mua vừa bán
Sxhh xh đầu tiên cxnt tan rã => ptr qua các ptsx => ptr nhất ở tbcn => tồn
tại ở cnxh vì có sự đa dạng sở hữu và phân công lđ ptr
Kết luận: phải có 2 điều kiện => thiếu thì không có sxhh, sản phẩm lao động
không mang hình thái hàng hóa
Câu 2: Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa, lượng giá trị hàng hóa và các
nhân tố ảnh hưởng
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán. Từ khái niệm này, ta có thể thấy ba điểm
chính: Hàng hóa nhất thiết phải là sản phẩm do lao động của con người tạo ra, sản
phẩm đó được tạo ra nhưng phải có ích và phải được tiêu dùng, sử dụng thông qua
trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội
khác nhau sẽ có bản chất sản xuất hàng hóa khác nhau, song hàng hóa nào cũng
đều có 2 thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người. Ví dụ, giá trị sử dụng của cơm để ăn, áo để mặc, xe để đi,… Chính công
dụng của vật phẩm làm cho nó có giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quy định,
nên nó là một phạm trù vĩnh viễn. Hàng hóa càng có nhiều thuộc tính khác nhau thì
càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau. Khi khoa học công nghệ phát triển, người
ta ngày càng phát hiện ra nhiều thuộc tính, lợi ích của vật chất để tạo ra càng nhiều
sản phẩm, nhiều giá trị sử dụng. Ví dụ, than đá ngày xưa chỉ được dùng làm chất
đốt nhưng hiện nay được sử dụng trong một số công nghiệp hóa chất.
Giá trị sử dụng chỉ được thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng nó, nó
là nội dung của của cải, không kể hình thức xã hội của của cái đó như thế nào. Đã
là hàng hóa thì phải có giá trị sử dụng. Tuy nhiên, không phải bất cứ vật gì có giá
trị sử dụng cũng là hàng hóa, ví dụ như ánh sáng, không khí,… Một vật muốn trở
thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải được đem ra trao đổi, mua bán,
nghĩa là phải có giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là cái mang
giá trị trao đổi.
Thuộc tính thứ hai của hàng hóa là thuộc tính giá trị. Muốn hiểu được thuộc
tính này, trước hết ta phải hiểu giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số
lượng, là tỉ lệ trao đổi các giá trị sử dụng khác nhau.
Ví dụ: 1m vải = 3 đấu thóc
Khi hàng hóa được đem ra trao đổi, chúng phải có một cơ sở chung với nhau.
Cái chung ấy không phải là giá trị sử dụng vì mỗi hàng hóa có công dụng, giá trị sử
dụng khác nhau. Điểm chung nhất giữa các hàng hóa chính là chúng đều là sản
phẩm của lao động. Thực chất trao đổi hàng hóa cho nhau chính là trao đổi lao
động ẩn giấu trong các hàng hóa đó. Ở ví dụ trên, giả sử một người thợ dệt mất 2
tiếng để tạo ra 1m vải, một người nông dân sản xuất 3 đấu thóc hết 2 giờ. Trao đổi
1m vải lấy 3 đấu thóc chẳng qua là trao đổi 2 giờ lao động sản xuất vải lấy 2 giờ
lao động sản xuất thóc.
Vì thế, cơ sở cho hai hàng hóa khác nhau được đem ra trao đổi chính là hao
phí lao động xã hội sản xuất ra hai hàng hóa đó. Lao động xã hội mà người sản
xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa chính là giá trị hàng hóa. Hay nói cách khác,
giá trị hàng hóa chính là hao phí lao động xã hội cần thiết để tạo ra hàng hóa. Hao
phí lao động xã hội bao gồm hao phí lao động sống của người lao động sản xuất
trực tiếp ra sản phẩm (thể lực, trí lực, thời gian) và hao phí lao động trong quá khứ
để sản xuất ra tư liệu sản xuất.
Giá trị hàng hóa phải phản ánh hao phí lao động trung bình trong ngành. Hao
phí lao động càng nhiều thì giá trị hàng hóa càng cao, giá trị trao đổi càng cao và
ngược lại. Khi khoa học – công nghệ phát triển, ngày càng có nhiều sản phẩm và
giá trị hàng hóa có xu hướng giảm vì hao phí lao động xã hội giảm.
Như vậy, giá trị hàng hóa quyết định giá trị trao đổi, giá trị trao đổi là biểu
hiện của giá trị hàng hóa. Bất cứ hàng hóa nào cũng có hai thuộc tính giá trị sử
dụng và giá trị, Giữa chúng vừa có sự thống nhất, vừa có sự mâu thuẫn với nhau.
Khái niệm hàng hóa => 3 điểm
2 dạng vật thể, phi vật thể => giá trị sử dụng, giá trị
Giá trị sử dụng => do công dụng => thuộc tính quyết định, phạm trù
vĩnh viễn => nhiều thuộc tính => vật chất của của cải => KHCN => không
phải hàng hóa => phải được trao đổi, mua bán => giá trị trao đổi
Giá trị trao đổi => tỉ lệ giữa gtsd => vd => điểm chung giữa hh =>
phân tích ví dụ => giá trị hàng hóa
Giá trị hàng hóa => hpld xh cần thiết => gồm hplđ sống và hplđ quá
khứ => phản ánh hplđ trung bình trong ngành => hplđ cao, gthh cao =>
KHCN phát triển, hplđ giảm
Kết luận : gthh quyết định gttđ, hh nào cũng có 2 thuộc tính vừa thống
nhất vừa mâu thuẫn
Lượng giá trị hàng hóa là lượng hao phí lao động xã hội để tạo ra sản phẩm,
do thời gian lao động quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị
trường do rất nhiều người sản xuất ra, mỗi người sản xuất có điều kiện sản xuất,
trình độ tay nghề là khác nhau nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng
hóa cũng khác nhau. Tuy nhiên, lượng giá trị hàng hóa không do hao phí lao động
cá biệt xác định mà phải phản ánh hao phí lao động xã hội trong ngành nên lượng
giá trị hàng hóa được đo lường bởi thời gian lao động xã hội cần thiết (thời gian
cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm trong điều kiện trình độ, cường độ,..
trung bình của xã hội)
Ví dụ, trong sản xuất công nghiệp có vô số người tham gia sản xuất một sản
phẩn, giả sử có 3 người sản xuất A,B,C ứng với điều kiện sản xuất, hao phí lao
động cá biệt và sản lượng tạo ra như sau:
Người ĐKS HPLĐ Q
sản xuất X cb/dvsp(triệu)
A Tốt 2h 10
0
B Trung 3h 70
bình 0
C Xấu 4h 20
0
Dựa vào bảng trên, hao phí thời gian trung bình xã hội sẽ là :
(200+2100+800)/(100+700+200)~3,1h
Như vậy, lượng giá trị hàng hóa chịu chi phối bởi hao phí lao động cá biệt của
nhóm cung ứng đại bộ phận sản phẩm ra thị trường và do hao phí lao động cá biệt
của nhóm có điều kiện sản xuất trung bình quyết định.
Lượng hplđ tạo ra sp, tính bằng tglđ => do tglđ cá biệt khác nhau => tglđ xh
cần thiết
Ví dụ => chi phối bởi hplđ cb của nhóm cung ứng nhiều sp, hplđ cb của
nhóm đksx trung bình
Các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị hàng hóa: năng suất lao động và mức
độ phức tạp của lao động
Năng suất lao động là năng lực sản xuất ra sản phẩm của người lao động,
được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hay số
lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Khi năng suất lao động càng tăng, thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra
sản phẩm càng giảm, vì thế mà sản lượng càng tăng và giá trị một đơn vị sản phẩm
giảm. Vì vậy mà người sản xuất luôn tìm biện pháp tăng năng suất lao động để hao
phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội nhằm thu càng nhiều lợi
nhuận. Một số biện pháp tăng năng suất lao động như:
 Ứng dụng những tiến bộ của khoa học kĩ thuật vào sản xuất, máy
móc, thiết bị, công nghệ
 Nâng cao trình độ người lao động, đào tạo lao động hoặc trả lương
cao để thuê lao động trình độ cao
 Nâng cao trình độ quản lí, tổ chức, sắp xếp, hợp lí hóa các khâu của
quá trình sản xuất
 Khai thác những thuận lợi của điều kiện tự nhiên
Cùng tạo ra nhiều sản phẩm hơn nhưng cần phân biệt năng suất lao động và
cường độ lao động. Cường độ lao động chỉ mức hao phí lao động trên một dơn vị
thời gian, thể hiện mức độ khẩn trương, nặng nhọn hay căng thẳng của lao động.
Khi tăng cường độ lao động, trong một đơn vị thời gian thì hao phí lao động và sản
phẩm tạo ra tăng tương ứng nhưng hao phí lao động xét trên một đơn vị sản phẩm
là không đổi. Vì việc tăng cường độ lao động không làm thay đổi chất của quá
trình sản xuất, cách thức lao động không đổi, hao phí lao động không đổi mà chỉ là
kéo dài thời gian lao động.
Nhân tố thứ hai ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa là mức độ phức tạp của
lao động. Lao động được chia thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao
động giản đơn là những loại lao động mà người lao động chỉ cần có điều kiện bình
thường, không cần đào tạo mà vẫn có thể làm được. Lao động phức tạp là lao động
mà người lao động phải có trình độ, được đào tạo chuyên môn mới thực hiện được.
Ví dụ, người rửa bát không cần yêu cầu trình độ, độ tuổi, … vẫn có thể làm được
nên là lao động sản đơn còn thợ mộc cần có kĩ năng, trình độ chuyên môn mới có
thể đóng bàn, ghế, điêu khắc,… nên là lao động phức tạp. Vì thế, trong một thời
gian lao động, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Tuy
nhiên, để đảm bảo sự cộng bằng, trong quá trình trao đổi, người ta quy mọi lao
động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Như vậy, lượng giá trị hàng hóa
được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
NSLĐ => tăng làm gthh giảm => lợi nhuận => biện pháp tăng nslđ
Cđlđ => tăng không làm tăng gthh => kéo dài tglđ
Mức độ phức tạp => kn=> vd=> quy đổi
Kết luận: lượng gthh đo bằng tglđ xh cần thiết, giản đơn trung bình.
Câu 3: bản chất của tiền tệ và các chức năng của tiền tệ:

Nguồn gốc của tiền tệ:


-Từ khi nền sản xuất hàng hóa ra đời, nhu cầu buôn bán trao đổi trở nên phổ biến -
> cần có thuộc do và giá trị của các hàng hóa, từ đó tiền tệ ra đời.
- Trải qua chiều dài lịch sử, tiền cô đã trải qua bòn hình thái từ đơn giản đến phức
tạp sau đây: 4 hình thái đo lường giá trị đã có trong lịch sử:

Hìnhthais đơn giản: trao đổi đơn nhất một hàng hóa này lấy một hàng hóa khác.

Nguồn gốc: Hình thái này xuất hiện khi xã hội cộng đồng nguyên thủy tan rã, trao
đổi lúc đầu mang tính chất ngẫu nhiên và trực tiếp.

Đặc điểm.: Dựa trên sự trao đổi trực tiếp hàng - hàng. Việc trao đổi, tỉ lệ trao đổi
là ngẫu nhiên

Hình trái mở rộng của giá trị: trao đổi thường xuyên một loại hàng hóa này lấy
nhiều hàng hóa, phạm vi vật ngang giá được mở rộng

Nguồn gốc: Lực lượng sx và phân công lao động XH phát triển hơn đưa đến kết
quả là NSLĐ tăng lên, sp thặng dư nhiều hơn, do đó, trao đổi trở nên đều đặn và
thường xuyên hơn. Khi đó giá trị có hình thái đầy đủ hay mở rộng

Đặc điểm: Dựa trên trao đổi trực tiếp hàng - hàng. Mỗi hàng hóa có quá nhiều vật
ngang giá

Hình thái chung của giá trị: Chọn một vật ngang giá làm vật ngang giá chung
Nguồn gốc: LLSX và phần công lao động xã hội tiếp tục phát triển cao hơn, trao
đổi hàng hóa trở nên thường xuyên và mở rộng hơn nữa. Trong quá trình trao đổi,
đã xuất hiện một hàng hóa được mọi người thừa nhận là đại biểu cho giá trị có thể
dùng để đối lấy mọi hàng hóa. Hình thái chung của tiền tệ ra đời

Đặc điểm: Trao đổi thông qua vật chung gian: hàng - vật ngang giá chung - hàng,
Mỗi cộng đồng có một vật ngang giá khác nhau.

Hình trái tiền tệ: xã hội chọn một vật ngang gia duy nhất để trao đổi ( tiền tệ )

Nguồn gốc. Khi lực lượng sản xuất và phân cũng lao động xã hội phát triển hơn
nữa, sản xuất và thị trường ngày càng mở rộng thì việc có nhiều vật là vật ngang
giá chung của từng vùng miền làm cho trao đôi khó khăn, do đó cần thiết phải hình
thành vật ngang giá chung thống nhất và cố định, khi vật ngang giá chung được có
định lại ở một hàng hóa đặc lớn và phổ biến thì hình thái tiền tế của giá trị xuất
hiện.

Bản chất của tiền tệ:


-Là một loại hàng hóa đặc biệt
-Được xã hội chọn làm vật ngang giải duy nhất
-Dùng để đo lường giá trị hàng hóa và làm phương tiện trung gian trao đổi.
-Con người thường dùng vàng, bạn làm vật ngang giả trong trao đổi vì chúng có
giới trị cao và có giá trị sử dụng đa dạng

Chức năng của tiền tệ:


Là thước đo giá trị: Con người dùng liền để đo lường giá trị của mọi hàng hóa
khác. Nếu so sánh giá trị tài sản trong dài hạn phải quy đổi tài sản sang vùng.
Là phương tiện cất trữ: là trạng thái đưa tiền tệ ra khỏi lưu thông. (phải dự trữ
vàng, bạc không nên dự trữ tiền, do tiền dễ bị mất giá).
Là phương tiện lưu thông: Con người tung tiền làm phương tiện trung gian trao
đổi. H-T-H
Là phương liệu thanh toán: Dùng tiền để chi trả cho các nghĩa vụ kinh tế, làm gián
đoạn quan hệ trao đổi H-, xuất hiện mua bán trả chậm.

Chức năng tiền tệ thế giới: Dùng tiền để thanh toán thương mại quốc tế

Cho đến thế kỉ XIX, trao đổi buôn bán bằng vàng. Hiện nay, trao đổi bằng tiền tệ
thông qua hệ thống tỉ giá hối đoái.

Câu 4: Nội dung và tác động của quy luật giá trị
Theo nội dung của quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên
hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất hàng hóa, mỗi người sản xuất khác nhau sẽ có hao phí lao
động cá biệt khác nhau, nhưng giá trị hàng hóa không được quyết định bởi hao phí
lao động cá biệt của từng người sản xuất mà phải dựa trên hao phí lao động xã hội
cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp chi phí và có lãi thì người sản
xuất phải điều chỉnh làm sao cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp vớ
mức chi phí xã hội chấp nhận được.
Lưu thông hàng hóa cũng phải dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết,
nghĩa là trao đổi hàng hóa phải dựa trên nguyên tắc ngang giá (giá cả bằng giá trị).
Thị trường trao đổi hàng hóa có vô số người mua, người bán và quá trình trao đổi
chỉ diễn ra khi thuận mua vừa bán (giá cả hàng hóa bằng giá trị hàng hóa). Khi có
sự mất cân đối giữa giá cả và giá trị sẽ dẫn đến trao đổi không ngang giá. Nhưng
đây chỉ là hiện tượng tạm thời vì giá cả luôn có xu hướng quay về giá trị.
Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa.
Vì giá trị là cơ sở của hàng hóa, nên giá cả trước hết phụ thuộc vào giá trị, Hàng
hóa nào có giá trị càng cao thì giá càng cao.
Trong kinh tế hàng hóa, ngoài giá trị thì giá trị còn bị các nhân tố ngoại sinh
như cạnh tranh, cung cầu, giá trị đồng tiền,… chi phối. Sự tác động của những
nhân tố này làm cho giá cả trên thị trường tách rời với giá trị hàng hóa nhưng vận
động lên xuống xung quanh trục giá trị hàng hóa, đây cũng chính là cơ chế hoạt
động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật
giá trị phát huy tác dụng.
Sx và thhh=> sx: không theo hplđ cb, lthh: ngang giá=> quy luật thể hiện
thông qua giá cả hh, giá trị cao => giả cả cao
Nhân tố ah đến giá cả => vđ của giá cả quanh giá trị là cơ chế hoạt động
của quy luật
Trên thị trường, quy luật giá trị có 3 tác động chính:
Thứ nhất là điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa. Đối với sản xuất hàng
hóa, quy luật giá trị giúp phân bổ lại nguồn lực vào các ngành khác nhau một cách
hợp lí để thiết lập một cân đối kinh tế nhất định (cân bằng về giá và cân bằng cung
cầu). Giả sử nền kinh tế đang có sự mất cân đối: một ngành có quá nhiều người sản
xuất làm cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hóa thấp hơn giá trị, từ đó lợi nhuận người
sản xuất thu được thấp. Điều này dẫn đến việc cắt giảm sản xuất, di chuyển nguồn
lực sang ngành có ít nguồn lực hơn. Đối với lưu thông hàng hóa, quy luật giá trị sẽ
dẫn tới sự di chuyển hàng hóa từ nơi giá thấp đến nơi giá cao để cân bằng giá cả
giữa các khu vực và cân bằng cung cầu. Ví dụ, thành phố 1 có cung lớn hơn cầu
nên giá p1 thấp hơn giá trị, thành phố 2 có cung nhỏ hơn cầu nên giá p2 cao hơn
giá trị. Sẽ có người vận chuyển hàng hóa từ thành phố 1 sang thành phố 2 làm giá
p1 tăng, giá p2 giảm đến khi p1 và p2 bằng nhau.
Thứ hai là kích thích lực lượng sản xuất phát triển. Mỗi người sản xuất tự
quyết định mức độ hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị hàng hóa xác
định bới hao phí lao động xã hội cần thiết. Người sản xuất nào có điều kiện sản
xuất tốt hơn sẽ có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần
thiết và có nhiều lợi nhuận hơn. Để thu được nhiều lãi và tránh thua lỗ, người sản
xuất phải liên tục cải tiến kĩ thuật, nâng cao năng suất lao động, hiểu quả sản xuất
để hạ thấp hao phí lao động cá biệt, tối thiểu là bằng hao phí lao động xã hội cần
thiết. Sự cạnh tranh giữa những người sản xuất luôn xảy ra và mang tính xã hội,
làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba là bình chọn tự nhiên những người sản xuất. Quá trình cạnh tranh theo
đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là những người có điều kiện sản xuất tốt hơn,
năng suất lao động cao hơn, hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã
hội cần thiết sẽ giàu lên nhanh chóng. Ngược lại, những người có hao phí lao động
cá biệt cao sẽ thua lỗ, phá sản và nghèo khó. Như vậy, quy luật giá trị sẽ chọn lọc
và giữ lại những người sản xuất có năng suất lao động cao, hao phí lao động cá biệt
thấp và đào thải người sản xuất có năng suất lao động thấp, hao phí lao động cá
biệt cao.
Tác động của quy luật giá trị có ý nghĩa: một mặt là chi phối sự lựa chọn tự
nhiên, loại bỏ các nhân tố yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt
khác là phân hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo, dẫn đến bất bình đẳng trong xã
hội.
3 tác động => điều tiết sx, lt: sx (phân bổ nguồn lực vào các ngành hợp lí,
cân đối kinh tế - cb giá, cung cầu: giả sử mất cân đối), lt (di chuyển hh – cân bằng
giá, cung cầu): ví dụ ) => kích thích llsx (tăng nslđ => tính xã hội) => bình chọn
tự nhiên những nsx (giữ hplđ thấp, loại hplđ cao)
Ý nghĩa => chi phối sự lựa chọn tự nhiên, loại bỏ yếu tố kém, kích thích tích
cực => phân hóa giàu nghèo
Câu 5: Sự chuyển hóa tiền thành tư bản: công thức chung của tư bản và
mâu thuẫn của công thức chung, điều kiện ra đời và hai thuộc tính của hàng
hóa sức lao động.
Tư bản là tiền vận động theo công thức T – H – T’, T’ là tiền thu về lớn hơn
tiền ứng ra T ban đầu.
Có T’ – T = delta T là giá trị thặng dư hay giá trị tăng thêm
Xét trong lưu thông, trao đổi hàng hóa chủ yếu theo nguyên tắc trao đổi ngang
giá, tức T’=T nên không tạo ra delta T. Trao đổi không ngang giá chỉ là tạm thời và
không phổ biến: Trường hợp giá cả lớn hơn giá trị (lợi thuộc về người sản xuất),
người bán giá đắt hơn nhưng vẫn không tạo ra delta T vì người bán cũng là người
mua trong một hoạt động mua bán hàng hóa khác. Tương tự như vậy, khi giá cả
nhỏ hơn giá trị (lợi thuộc về người mua), việc mua rẻ cũng không tạo ra delta T vì
người mua cũng là người bán trong hoạt động mua bán khác. Một trường hợp có
tạo ra delta T là việc mua rẻ, bán đắt. Tuy nhiên việc này chỉ lí giải trên phạm vi
một nhóm người mà không phải phạm vi toàn xã hội vì cái người này được lợi
chính là phần thiệt hại của đối tác. Như vậy, xét trên phạm vi toàn xã hội, tổng giá
trị không đổi và trao đổi không ngang giá cũng không tạo ra delta T. Điều này có
nghĩa là trong lưu thông không tạo ra giá trị thặng dư trên toàn bộ xã hội.
Xét ngoài lưu thông, tiền ngoài lưu thông không thể tự gia tăng giá trị. Hàng
ngoài lưu thông có hàng cất trữ và hàng tiêu dùng. Hàng cất trữ, tồn kho thường có
giá trị bị giảm theo thời gian. Hàng tiêu dùng bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu
sinh hoạt. Trong sản xuất, tư liệu sau khi sản xuất không làm tăng thêm giá trị.
Trong tiêu dùng, tư liệu được sở hữu cá nhân và tiêu dùng cũng không tăng giá trị.
Do đó, ngoài lưu thông hàng hóa cũng không xuất hiện giá trị thặng dư.
Như vậy, giá trị thặng dư delta T không được sinh ra trong lưu thông hay
ngoài lưu thông, nhưng thực tế đa số người đầu tư lại thu được giá trị thặng dư.
Mẫu thuẫn này chứng tỏ tư bản phải được tạo ra hoặc trong lưu thông hoặc ngoài
lưu thông.
Tư bản => CTC=> trong lưu thông: ngang giá, không ngang giá => ngoài
lưu thông: tiền cất trữ, hàng :cất trữ, tiêu dùng => Kết luận
Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực của người lao động được sử dụng để
sản xuất, tạo ra sản phẩm. Hàng hóa sức lao động chỉ được ra đời khi có hai điều
kiện: thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ sức lao động
của mình và có thể bán sức lao động của mình như một loại hàng hóa. Thứ hai,
người lao động phải bị tước đoạt toàn bộ tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, trở
thành vô sản, phải bán sức lao động để tồn tại.
Hàng hóa sức lao động có hai thuộc tính: giá trị của hàng hóa sức lao động và
giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động.
Giá trị hàng hóa sức lao động chính là hao phí lao động xã hội cần thiết để tạo
ra sức lao động, tiêu dùng tư liệu sinh hoạt nhất định để đáp ứng nhu cầu vật chất
và tinh thần. Giá trị hàng hóa sức lao động là giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết cho
người lao động. Giá trị hàng hóa sức lao động được cấu thành bởi: giá trị tư liệu
sinh hoạt cần thiết cho bản thân người lao động, giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết
cho gia đình người lao động và phí tổn đào tạo người lao động. Giá trị hàng hóa
sức lao động mang tính tinh thần và tính lịch sử.
Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động chỉ được thể hiện trong quá trình tiêu
dùng sức lao động. Quá trình đó là quá trình sản xuất ra một loại hàng hóa nào đó,
đồng thời tạo ra giá trị mới (v+m) lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao
động (v). Phần lớn hơn đó (m) chính là giá trị thặng dư bị tư bản chiếm đoạt. Như
vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, là nguồn gốc
sinh ra giá trị thặng dư. Đó là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn công thức chung
của tư bản. Hàng hóa sức lao động là hoàng hóa duy nhất khi tiêu dùng có thể gia
tăng thêm giá trị, là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư.
Kn SLĐ=> 2 điều kiện => 2 giá trị
Giá trị hh SLĐ: hplđ xh cần thiết để sx SLĐ = gtri TLSH cần thiết cho NLĐ
=> cấu thành: TLSH bản thân, gia đình, phí tổn đào tạo NLĐ
Giá trị sử dụng hh SLD => thể hiện trong tiêu dùng => sx hàng hóa, tạo ra
gtri mới lớn hơn gtri bản thân => GTTD=> nguồn gốc sra GTTD.

Câu 6: Quá trình sản xuất giá trị thặng dư, hai phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư, giá trị thặng dư siêu ngạch
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình sản xuất hàng hóa theo quy mô lớn. Đó
là sự kết hợp của 3 quá trình: sản xuất giá trị sử dụng, sản xuất giá trị và sản xuất
giá trị thặng dư (mực đích tuyệt đối hóa của chủ nghĩa tư bản)
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất của nhà tư bản
và sức lao động làm thuê, có các đặc điểm: một là, công nhân làm việc dưới sự
kiểm soát của nhà tư bản, giống như những yếu tố sản xuất khác của nhà tư bản
được sử dụng sao cho hiệu quả nhất; hai là sản phẩm người lao động tạo ra thuộc
sở hữu của nhà tư bản chứ không phải của người làm động.
Giả định nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư là trao đổi ngang giá
và điều kiện sản xuất thuộc mức trung bình trong xã hội.
Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản xuất sợi
của một nhà tư bản làm ví dụ. Giả định để sản xuất ra 10kg sợi cần có 20kg bông
và giá của 20kg là 10$. Để chuyển số bông đó thành sợi, một người công nhân cần
làm việc trong 6 giờ và hao mòn máy móc, thiết bị là 2$; giá trị sức lao động trong
một ngày là 3$. Như vậy mỗi giờ người lao động tạo ra một lượng giá trị là 0,5$.
Nếu công nhân lao động trong 6 giờ thì:
Chi phí sản xuất Giá trị sản phẩm mới
 Tiền mua bông: 10$  Giá trị bông được chuyển vào
 Hao mòn máy móc: sợi: 10$
2$  Giá trị của hao mòn máy móc
 Tiền mua SLĐ trong được chuyển vào sợi: 2$
1 ngày: 3$  Giá trị mới do lao động của
Tổng: 15$ công nhân tạo ra: 3$
Tổng: 15
Nếu nhà tư bản thuê lao động làm trong 6h thì không tạo ra delta T.
Nếu công nhân lao động trong 12 giờ thì:
Chi phí sản xuất Giá trị sản phẩm mới
 Tiền mua bông: 20$  Giá trị bông được chuyển vào
 Hao mòn máy móc: sợi: 20$
4$  Giá trị của hao mòn máy móc
 Tiền mua SLĐ trong được chuyển vào sợi: 4$
1 ngày: 3$  Giá trị mới do lao động của
Tổng: 27$ công nhân tạo ra: 6$
Tổng: 30$
Nếu tư bản thuê lao động làm trong 12h thì tạo ra 1 lượng delta T = 3$, đây
chính là giá trị thặng dư mà tư bản thu được.
Giá trị thặng dư chính là một phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động
do công nhân làm thuê tạo ra nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Qua nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, ta có 3 kết luận:
Thứ nhất, giá trị sản phẩm có hai phần: giá trị cũ (c=24$) là phần giá trị của tư
liệu sản xuất như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,… được bảo tồn chuyển sang
sản phẩm và giá trị mới (v+m=6$) là giá trị cho sức lao động tạo ra. Giá trị sản
phẩm bằng tổng giá trị cũ và giá trị mới.
Thứ hai, ngày lao động của công nhân được chia thành 2 phần: phần thứ nhất
là thời gian lao động người công nhân tạo ra một lượng giá trị đúng bằng giá trị
sức lao động (v) của mình – thời gian lao động cần thiết và lao động trong thời
gian đó được gọi là lao động cần thiếu. Phần thứ hai là thời gian lao động mà
người lao động tạo ra giá trị thặng dư (m) được gọi là thời gian lao động thặng dư,
lao động trong thời gian đó là lao động thặng dư. Vậy, quá trình sản xuất giá trị
thặng dư là quá trình sản xuất được kéo dài quá thời gian lao động cần thiết.
Cuối cùng, sau nghiên cứu quá trình này, ta nhận thấy mâu thuẫn của công
thức chung của tư bản đã được giải quyết. Trong lưu thông, nhà tư bản mua được
một loại hàng hóa đặc biệt là sức lao động. Sau đó nhà tư bản đem hàng hóa đặc
biệt vào sản xuất, tức là ngoài lưu thông, để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư
bản. Do đó mà tiền của nhà tư bản chuyển thành tư bản.
Sx tbcn gồm 3 quá trình, kết hợp 2 yếu tố (2 điều kiện)=> giả định nghiên cứu
2 yếu tố=> ví dụ quá trình sx sợi => kết luận gttd: 1 phần gtri mới dôi ra ngoài
giá trị slđ do nlđ tạo ra nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt
3 kết luận => gttd=gt cũ + gt mới => ngày lao động 2 phần: cần thiết, thặng
dư => mâu thuẫn được giải quyết: ntb mua được hh slđ trong lưu thông -> đem
vào sx, ngoài lưu thông -> gttd
Có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
bằng cách kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao động cần thiết trong khi
năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay
đổi. Do thời gian lao động tăng lên nhưng thời gian lao động tất yếu không đổi nên
thời gian lao động thặng dư tăng lên, tỷ suất giá trị thặng dư (m’=m/v.100%) càng
cao, giá trị thặng dư tuyết đối càng nhiều. Tuy nhiên, trong thực tế, việc kéo dài
thời gian lao động vấp phải những giới hạn nhất định như giới hạn về mặt thể chất
và tinh thần của công nhân. Mặt khác, nó còn bị giới hạn do những phong trào đấu
tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm và ngày lao động tự nhiên chỉ là 24 giờ. Vì vậy,
giai cấp tư sản không thể kéo dài ngày lao động một cách vô hạn. Thay vào đó, nhà
tư bản tăng cường độ lao động, tăng mức độ khẩn trương (ví dụ: thuê người đốc
thúc), thực chất đây cũng là việc kéo dài thời gian lao động.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư được tạo ra do rút ngắn
thời gian lao động tất yếu bằng cách tăng năng suất lao động xã hội, nhờ đó mà
thời gian lao động thặng dư tăng lên trong điều kiện độ dài ngày lao động như cũ.
Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu thì phải giảm giá trị sức lao động, nghĩa
là phải giảm giá trị tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của người lao động.
Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động trong các quá trình
tạo ra tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân hay tăng năng suất
lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra tư liệu sinh
hoạt đó.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối là phương pháp chủ yếu thì đến giai đoạn tiếp theo, cùng với sự phát triển của
khoa học kĩ thuật thì sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trên được các nhà tư bản sử dụng kết
hợp với nhau để nâng cao tình độ bóc lộc công nhân làm thuê. Dưới chủ nghĩa tư
bản, máy móc không phải để làm giảm cường độ lao động của công nhân mà trái
lại để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho cường
độ lao động tăng lên nhưng dưới hình thức căng thẳng của trí lực mà không phải
thể lực.
gttd tuyệt đối – kéo dài ngày lđ quá tglđ cần thiết khi tglđ ct không đổi, nslđ
không đổi => tỉ suất gttd tăng, gttd tăng => hạn chế: thể lực, trí lực nlđ; phong
trào; ngày lđ tự nhiên 24h=>tăng cđlđ:kéo dài tglđ
gttd tương đối – rút ngắn tglđ tất yếu => tăng nslđ, tăng tglđ thặng dư =>
muốn vậy: giảm gt slđ = giảm gt tlsh trong pvi tiêu dùng của nlđ => tăng nslđ
trong sx tlsh hay tăng nslđ xs tlsx để sx ra tlsh
gđ đầu tbcn => tuyệt đối, gđ sau pt khcn => tương đối, khcn= tăng cđlđ =>
2pp dùng để bóc lộ slđ => ngày nay, tự động hóa sx làm cđlđ tăng trí lực thay vì
thể lực
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng
suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị
trường của nó.
Xét từng trường hợp, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời nhưng
xét toàn bộ xã hội thì giá trị siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường xuyên.
Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của mọi nhà tư bản và là động
lực mạnh nhất để kích thích nhà tư bản phát triển khoa học kĩ thuật, nâng cao năng
suất lao động cá biệt . K.Mark gọi đây là biến tướng của giá trị thặng dư tương đối
vì cả hai đều làm tăng năng suất lao động (mặc dù một cái là tăng nắng suất lao
động cá biệt, một cái là tăng năng suất lao động xã hội). Sự khác nhau giữa giá trị
thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn thể hiện ở việc giá trị thặng
dư tương đối do toàn xã hội thu được. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số
nhà tư bản có kĩ thuật tiên tiến thu dược. Giá trị thặng dư siêu ngạch không chỉ thể
hiện mối quan hệ bóc lột giữa tư bản và công nhân làm thuê mà còn thể hiện sự
cạnh tranh giữa các nhà tư bản.
Như vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch vừa có tính tạm thời vừa có tính phổ
biến, là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công
nghệ mới vào sản xuất, … để tăng năng suất lao động, giảm giá trị hàng hóa.
Khái niệm: tăng nslđ cb, giảm gthhcb=> tạm thời, phổ biến=> khát vọng của
toàn bộ ntb=> cải tiến kĩ thuật,… => biến tướng của gttd tương đối: nslđ cá biệt,
chỉ do những ntb có kĩ thuật tiên tiến thu được => phản ánh bản chất tư bản –
công nhân, sự cạnh tranh giữa các ntb => kết luận: tính chất, động lực tăng nslđ

Câu 7: Lợi nhuận, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất: lợi nhuận, tỷ
suất lợi nhuận, cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành
Lợi nhuận là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư nhưng lại biểu hiện ra
bên ngoài như là kết quả của tài kinh doanh của nhà tư bản và vốn đầu tư của nhà
tư bản mang lại.
Lợi nhuận = doanh thu – chi phí sản xuất
Hay: p = (c+v+m) – (c+v)=m
Lợi nhuận là một hình thái thần bí hóa của giá trị thặng dư nhưng nó phản ánh
sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa nhà tư bản và lao động làm thuê, vì nó làm
người ta hiểu lầm rằng lợi nhuận không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra.
Nguyên nhân là vì: thứ nhất, lợi nhuận p được sinh ra bởi bộ phận v nay được
thay thế bằng k=c+v khiến cho p được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
trước. Thứ hai, nhà tư bản chỉ cần bán hàng hóa với giá cao hơn chi phí sản xuất tư
bản chủ nghĩa là có thể thu được lợi nhuận, điều này làm cho lợi nhuận đôi khi
khác với giá trị thặng dư. Nếu nhà tư bản bán giá cả bằng giá trị thì p=m, nếu giá
cả lớn hơn giá trị thì p>m và nếu giá cả nhỏ hơn giá trị thì p<m. Tuy nhiên, xét trên
phạm vi toàn xã hội và trong một thời gian dài thì tổng giá cả bằng tổng giá trị, tức
là tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư. Sự không nhất trí giữa lợi nhuận và
giá trị thặng dư càng che giấu bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Hình thức biểu hiện gttd => bị hiểu do tài năng, vốn kinh doanh=> công
thức=> nguyên nhân: p sinh ra do v nhưng bị thay bằng k=v+c => con đẻ của tư
bản ứng trước
Sự chênh lệch p và m do giá cả # giá trị => che giấu bản chất bóc lột
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ suất tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn
bộ tư bản ứng trước: p=m/(c+v).100% , phản ánh hiệu quả của việc đầu tư tư bản
(mức sinh lời của việc đầu tư)
Tỷ suất lợi nhuận chịu ảnh hưởng của một số nhân tố:
Thứ nhất là tỷ suất giá trị thặng dư: do lợi nhuận p chính là hình thức biểu
hiện của giá trị thặng dư m nên khi tỷ suất giá trị thặng dư m’ càng lớn thì tỷ suất
lợi nhuận p’ càng lớn.
Thứ hai là cấu tạo hữu cơ của tư bản c/v: Trong điều kiện giá trị thặng dư
không đối, nếu câu tạo hữu cơ tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm.
Thứ ba là tốc độ chu chuyển của tư bản: nếu tốc độ chu chuyển của tư bản
càng lớn thì tần suất sản sinh ra giá trị thặng dư trong năm của tư bản ứng trước
càng nhiều, giá trị thặng dư theo đó tăng lên làm tỷ suất lợi nhuận cũng tăng theo.
Thứ tư là tiết kiệm tư bản bất biến: trong điều kiện sản xuất giá trị thặng dư và
tư bản khả biến v không đổi, thì tư bản bất biến c càng nhỏ thì tư tỷ suất lợi nhuận
càng lớn. c giảm dẫn tới c+v giảm, theo đó p’=m/(c+v).100% tăng lên.
Phần trăm giữa gttd và tư bản ứng trước=> hiệu quả việc đầu tư tư bản=>
nhân tố ảnh hưởng: tỷ suất gttd, cấu tạo hữu cơ, tốc độ chu chuyển tb, tiết kiệm tư
bản bất biến.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa những người sản xuất
cùng một loại hàng hóa để giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu
thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Các nhà tư bản thường xuyên cải
tiến kĩ thuật, nâng cao năng suất lao động làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa sản
xuất ra thấp hơn giá trị hàng hóa. Kết quả của quá trình đối với cá nhân nhà sản
xuất là thu được nhiều lợi nhuận hơn, giá trị thặng dư siêu ngạch tăng. Đối với xã
hội, hình thành nên giá trị thị trường (giá trị xã hội) của từng loại hàng hóa: điều
kiện sản xuất trung bình trong ngành tăng do kĩ thuật sản xuất phảt triển, làm giá
trị hàng hóa thị trường giảm.
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa những người sản xuất thuộc
các ngành khác nhau nhằm tìm nơi có đầu tư có lợi nhất (nơi có tỷ suất lợi nhuận
cao nhất). Cùng một lượng tư bản đầu tư nhưng do cấu tạo hữu cơ của tư bản khác
nhau làm tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Các nhà sản xuất di chuyển tư bản (tư liệu
sản xuất, sức lao động) của mình từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp đến ngành có
tỷ suất lợi nhuận cao. Sản phẩm của ngành có tỷ suất lợi nhuận cao trở nên nhiều
hơn, giá cả giảm xuống và tỷ suất lợi nhuận cũng giảm xuống. Sự tự do di chuyển
này làm thay đổi là tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành và chỉ tạm dừng
khi tỷ suất lợi nhuận ở các ngành xấp xỉ bằng nhau. Từ đó tỷ suất lợi nhuận bình
quân xuất hiện.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân p’ là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng giá trị
thặng dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nên sản xuất tư bản
chủ nghĩa (công thức)
Lợi nhuận bình quân p ngang là số lợi nhuận bằng nhau của những tư bản
khác nhau, đầu tư những ngành khác nhau, bất kể cấu tạo hữu cơ của tư bản như
thế nào.
Cạnh tranh nội bộ => đạt thuận lợi sx, tiêu thụ hh thu được lnsn=> biện
pháp: thúc đẩy kh – kt phát triển, tăng nslđ, giản hplđ cb=> tăng gttd sn => cá
nhân: thu được nhiều gttd sn => xh: hình thành giá trị thị trường (giá trị xh):nslđ
xh tăng, giá trị hh giảm
Cạnh tranh giữa các ngành => tìm nơi đầu tư có lợi nhất: p’ lớn hơn=>
ngành khác nhau, tư bản như nhau, cấu tạo hữu cơ khác nhau=> p’ khác nhau=>
biện pháp: di chuyển tư bản từ nơi p’ thấp sang nơi p’ cao => p’ giữa các ngành
xấp xỉ nhau => tỷ suất lợi nhuận bình quân => tỷ lệ % tổng m/tổng k => lợi
nhuận bình quân: số lợi nhuận thu được bằng nhau trong các ngành khác nhau dù
cấu tạo hữu cơ khác nhau
Câu 8: Nguồn gốc, bản chất lợi nhuận thương nghiệp, cho ví dụ minh họa
Tư bản thương nghiệp là tư bản chuyên môn hóa trong lĩnh vực lưu thông
hàng hóa, kiếm lời thông qua hoạt động trao đổi, mua bán. Trong chủ nghĩa tư bản,
tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp được tách rời ra và
phục vụ quá trình lưu thông hàng hóa của tư bản công nghiệp
Ptn= giá bán – giá mua
Trong thời kì phong kiến, lợi nhuận tư bản được coi là do mua rẻ, bán đắt từ
lừa đảo, cân đo đong đếm giả dối, lợi dụng người sản xuất mà có,
Trong thời kì tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận của tư bản thương nghiệp thu được
có nguồn gốc từ một phần của giá trị thặng dư được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất
và do nhà tư bản công nghiệp nhượng lại vì tư bản thương nghiệp đã đảm nhập
khâu bán hàng (khâu mua tư liệu sản xuất) cho tư bản sản xuất.
Tư bản công nghiệp nhượng một phần giá trị thặng dư bằng cách bán hàng
hóa cho tư bản thương nghiệp với giá thấp hơn giá trị hàng hóa, sau đó tư bản
thương nghiệp bán cho người tiêu dùng với giá đúng giá trị của nó.
Như vậy, nguồn tốc lợi nhuận tư bản thương nghiệp thu được là một phần lợi
nhuận do tư bản công nghiệp nhượng lại. Và bản chất của lợi nhuận thương nghiệp
chính là giá trị thặng dư do người lao động tạo ra trong quá trình sản xuất.
Ví dụ minh họa: một tư bản công nghiệp ứng ra 1000 tư bản để sản xuất hàng
hóa, cấu tạo hữu cơ của tư bản là 4/1, tỷ suất giá trị thặng dư m’=125%.
Khi đó, k=800c+200v
Giá trị thặng dư tư bản công nghiệp thu được là m=200.125%=250, tỷ suất lợi
công nghiệp là p=250/1000*100%=25%
Giá trị hàng hóa sẽ là 1000+250=1250.
Giá bán hàng hóa của tư bản công nghiệp là 1250 và thu được lợi nhuận là
250.
Tuy nghiên, khi có tư bản thương nghiệp ứng ra 250 tư bản và tư bản công
nghiệp bán hàng cho tư bản thương nghiệp thì tỷ suất lợi nhuận công nghiệp = tỷ
suất lợi nhuận thương nghiệp = tỷ suất lợi nhuận bình quân =
250/(1000+250).100%=20%.
Lúc này, giá tư bản công nghiệp bán cho tư bản thương nghiệp là
1000+20%.1000=1200 và lợi nhuận công nghiệp là 200
Giá tư bản thương nghiệp bán cho người dùng là giá trị hàng hóa, tức là 1250
và lợi nhuận thương nghiệp là 1250-1200=50.
Tư bản chuyên môn hóa trong lthh, kiếm lời thông qua trao đổi, mua bán.=>
p tn=giá bán – giá mua=> phong kiến: nguồn gốc từ mua rẻ bán đắt, đo đạc giả
dối=> tncb: 1 phần gttd mà tnsx nhượng cho vì tbtn bán hàng(mua tlsx) thay cho
tbsx=>tncn bán hh với giá thấp hơn gthh cho tbtn
Nguồn gốc: 1 phần gttd được tncn nhượng lại
Bản chất: gttd do người lđ tạo ra trong qtsx
Ví dụ: tbcn:1000 tư bản, c/v=4/1, m’=125% => m=250, p=25%, gthh=1250
Tbtn: 250 tư bản => p’=20% => giá tncb bán = 1200, pcn=200, giá tbtn
bán=1250, ptn=50
Câu 9:Nguyên nhân sự chuyển biến từ CNTB cạnh tranh tự do thành CNTB độc
quyền.

Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh và giai đoạn tư bản độc quyền.

Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự báo
rằng: cạnh tranh tự do sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản
xuất phát triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền.

Vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào điều kiện lịch sử mới
của thế giới. V.I.Lênin đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai
đoạn mới là chủ nghĩa tư bản độc quyền, đồng thời V.ILênin xác định bản chất
kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền qua năm đặc điểm kinh tế cơ bản của nó.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX do
những nguyên nhân chủ yếu sau:

Thứ nhất, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học -
kỹ thuật đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp
có quy mô lớn.

Thứ hai, vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học - kỹ thuật
mới xuất hiện như lò luyện kim mới Bétsơme, Máctanh, Tômát, v.v. đã tạo ra sản
lượng lớn gang thép với chất lượng cao; phát hiện ra hóa chất mới như axít
sunphuaric (H2SO4), thuốc nhuộm, V.V.; máy móc mới ra đời: động cơ điêzen,
máy phát điện, máy tiện, máy phay, V.V.; phát triển những phương tiện vận tải
mới: xe hơi, tàu thủy, xe điện, máy bay. v.v. và đặc biệt là đường sắt. Những thành
tựu khoa học - kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi
hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động,
tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.

Thứ ba, trong điều kiện phát triển của khoa học - kỹ thuật, sự tác động của các quy
luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy,
v.v. ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng
tập trung sản xuất quy mô lớn.

Thứ tư, cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật,
tăng quy mô tích lũy để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt
làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm
giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn.

Thứ năm, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ
ntghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trình
tích tụ và tập trung tư bản.

Thứ sáu, sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy
mạnh mẽ thúc đấy tập trung sản xuất, nhất lả việc hình thành các công ty cổ phần,
tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
Từ những nguyên nhân trên, V.I.Lênin khẳng định: "... cạnh tranh tự do đẻ ra tập
trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất
định, lại dẫn tới độc quyền”.

You might also like