Professional Documents
Culture Documents
Hiện nay, trên thế giới và ở Việt Nam, polyme blend chủ yếu được
chế tạo bằng các phương pháp sau [1-5]:
- Chế tạo polyme blend từ dung dịch polyme.
- Chế tạo polyme blend ở trạng thái nóng chảy.
- Phương pháp lưu hoá động.
- Trùng hợp monome trong một polyme khác.
- Tạo các mạng lưới đan xen của các polyme.
- Ngoài ra, còn có một số phương pháp khác để chế tạo polyme
blend.
Trong đó, các phương pháp chế tạo polyme blend trong dung
dịch, ở trạng thái nóng chảy trên các thiết bị gia công chất dẻo, lưu
hoá động và tạo các mạng lưới đan xen của các polyme được sử
dụng phổ biến hơn cả.
một dung môi hoà tan tốt, sau đó dung dịch polyme này được trộn
với polyme thứ hai không có dung môi. Cuối cùng, dung dịch 2
polyme được đổ khuôn, sau đó loại bỏ dung môi để thu được màng
có kích thước pha phân tán micromet [6]. Quy trình này đã được
ứng dụng công nghiệp trong một thời gian dài để sản xuất các màng
thẩm thấu từ polyolefin, PA và polyme chứa flo.
Để chế tạo polyme blend hoà trộn, tương hợp hoàn toàn hoặc
một phần, một đòi hỏi rất quan trọng là các polyme phải cùng tan
tốt trong một dung môi hoặc tan tốt trong các dung môi có khả năng
trộn lẫn tốt với nhau. Dưới đây là một số polyme blend được chế tạo
từ các dung môi chung: EPDM-g-MMA/SAN trong dung môi
cloroform [7], PS/PMMA trong dung môi cloroform [8], PB/PP
trong dung môi xylen [9], poly(4-hydroxystyren)/poly(etylen oxit)
trong các dung môi axeton, cloroform, izopropyl axetat, n-butanol
và xyclohexanon [10]. Đầu tiên, tiến hành hoà tan từng polyme
thành phần trong dung môi chung để thu được các dung dịch
polyme đồng nhất. Sau đó, trộn các dung dịch polyme theo tỷ lệ đã
tính toán sẵn. Để các polyme trong dung dịch phân tán tốt vào nhau,
cần phải khuấy chúng ở tốc độ khuấy cao trong một thời gian khá
dài. Trong nhiều trường hợp, người ta thường hoà tan và trộn lẫn
các polyme có gia nhiệt, khi đó chúng sẽ trộn lẫn với nhau tốt hơn.
Phương pháp này khá thích hợp để chế tạo polyme blend dùng làm
sơn, lớp phủ, keo dán… Tuy nhiên, cần lưu ý là loại dung môi, giới
hạn nồng độ của từng polyme trong polyme blend, nhiệt độ trộn…
là các yếu tố ảnh hưởng mạnh tới khả năng trộn hợp và tính chất
của polyme blend.
Sau khi tạo màng từ dung dịch polyme blend bằng phương
pháp phun, quét… cần phải đuổi hết dung môi bằng phương pháp
sấy. Để màng polyme blend đồng nhất, không bị rạn nứt bề mặt,
không bị phân huỷ nhiệt hay phân huỷ oxy hoá nhiệt, nên sấy màng
trong thiết bị sấy dưới áp suất thấp và nhiệt độ thấp.
Y. Agari và cộng sự đã chế tạo polyme blend PVC/PMMA có
cấu trúc chọn lọc bằng phương pháp hoà tan - khuếch tán. Đầu tiên,
PVC được hoà tan trong 2-butanol, sau đó tạo màng từ dung dịch
PVC. PMMA được hoà tan trong tetrahydrofuran và dung dịch
PMMA được rót lên màng PVC ở nhiệt độ phòng. Khối lượng PVC
tương đương với khối lượng PMMA. PVC bị hoà tan và khuếch tán
vào dung dịch PMMA và được giữ cho tới khi toàn bộ dung môi
Chương III. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO VẬT LIỆU POLYME BLEND 125
bốc hơi. Màng polyme blend PVC/PMMA thu được có một số dạng
cấu trúc gradient theo thành phần của 2 polyme [11].
Như trên đã đề cập, phương pháp chế tạo polyme blend từ dung
dịch các polyme có nhược điểm là phải sử dụng dung môi nên
không kinh tế, dễ gây ô nhiễm môi trường, hạn chế khả năng ứng
dụng thực tiễn.
huỳnh, chất xúc tiến - mecaptobenzatiazol và chất hoạt hoá lưu hoá
- oxit kẽm) được điều chỉnh sao cho thể tích hỗn hợp nóng chảy
chiếm 70% thể tích buồng trộn [13].
Sử dụng máy đùn trục vít xoắn để blend hoá các polyme ở
trạng thái nóng chảy có các ưu điểm sau:
- Quá trình chế tạo liên tục với các polyme, các chất phản ứng ở
dạng rắn, dạng bột và đôi khi ở dạng lỏng.
- Trộn phân bố và trộn phân tán rất tốt cho các chất có độ nhớt
cao.
- Dễ dàng điều khiển nhiệt độ, áp suất và thời gian lưu của
polyme.
- Không yêu cầu sử dụng dung môi do các quá trình xảy ra ở
pha rắn và pha nóng chảy nên rất kinh tế và thân thiện với môi
trường.
- Không có đòi hỏi đặc biệt trước khi gia công như các phản
ứng ghép để tạo các nhóm chức trong polyme ban đầu.
- Có thể loại bỏ các monome còn lại (monome không tham gia
phản ứng) và các sản phẩm phụ khỏi các polyme.
- Có thể thực hiện quá trình tự làm sạch khi sử dụng máy đùn 2
trục vít xoắn (trục vít kép) khớp hoàn toàn và máy đùn trục vít đơn
chuyển động qua lại (reciprocating single screw extruder).
- Các quá trình liên tiếp nhau từ các phản ứng hoá học, trộn,
thoát hơi đến cắt hạt và tạo hình.
- Có thể chế tạo các loại polyme blend khác nhau trên một dây
chuyền đơn giản.
Máy đùn trục vít xoắn gồm 2 loại: một trục vít xoắn (trục vít
đơn) và máy đùn 2 trục vít xoắn. Máy đùn một trục vít xoắn được
sử dụng chủ yếu trong công nghệ gia công nhựa nhiệt dẻo như công
nghệ đúc, công nghệ thổi màng, công nghệ đùn ống và công nghệ
đúc phun. Máy đùn 2 trục vít xoắn chủ yếu dùng để trộn hợp các
polyme, điều khiển hình thái cấu trúc của polyme blend hay vi hợp
hoá các polyme (polymer alloy) cũng như tiến hành các phản ứng
trùng hợp như các phản ứng ghép monome lên mạch polyme [4].
Căn cứ vào mức độ ăn khớp và chiều quay của 2 trục vít xoắn, máy
Chương III. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO VẬT LIỆU POLYME BLEND 127
đùn 2 trục vít xoắn được chia thành 6 loại khác nhau (hình III.1).
Đó là loại 2 trục vít xoắn quay cùng chiều (co-rotating), loại 2 trục
vít xoắn quay ngược chiều (counter-rotating), mỗi loại trên có loại 2
trục vít xoắn không khớp (non-intermeshing), khớp một phần
(partly-intermeshing) và khớp hoàn toàn (closely-intermeshing) (từ
trên xuống dưới ở hình III.1) .
Hình III.1. Một số máy đùn máy đùn 2 trục vít xoắn [4].
Hình III.2 là một số phần tử trộn và đẩy cấu tạo nên các trục vít
xoắn có vai trò khác nhau.
Thái Hoàng
128
Hình III.2. Một số phần tử trộn và đẩy của các loại trục vít xoắn [4].
Bảng III.1 so sánh tính năng của các loại máy đùn 2 trục vít
xoắn. Phụ thuộc vào mục đích, công nghệ chế tạo và yêu cầu sản
phẩm để lựa chọn máy đùn 2 trục vít xoắn thích hợp.
Bảng III.1. So sánh tính năng của các loại máy đùn
2 trục vít xoắn [4].
Vận chuyển + * ++ + -
Tự làm sạch + ++ + * -
Tốc độ trục vít - ++ * + ++
Bề rộng RTD + * ++ + *
Tăng áp + * ++ + -
Tách trục vít - + * * +
Công suất nạp + * ++ ++ +
liệu
(RTD: hàm phân bố thời gian lưu, ++ rất tốt, * vừa phải, - kém)
Các máy đùn 2 trục vít xoắn quay cùng chiều khớp nhau
(intermeshed co-rotating twin screw extruders) được sử dụng phổ
biến trong công nghiệp chất dẻo do khả năng trộn có thể thay đổi
trên dải rộng cũng như hiệu ứng tự làm sạch và khả năng vận hành
dễ dàng. Ở quy mô phòng thí nghiệm, đường kính trục vít xoắn nhỏ,
thường vào khoảng 25-30mm. Ở quy mô bán sản xuất và chế thử,
đường kính trục vít xoắn vào khoảng 45-65mm. Trong khi đường
kính trục vít xoắn vào khoảng 65-150mm hoặc thậm chí lớn hơn
150mm (lớn nhất 400mm) được sử dụng trong công nghiệp.
Polyme blend trên cơ sở PP (polyme trơ về mặt hoá học) và các
polyme có nhóm phản ứng như PA, PBT... có mặt các vinyl
monome chứa các nhóm chức như MA, AA, GMA cũng như
comonome styren (có tác dụng tăng hiệu suất ghép vinyl monome,
giảm quá trình khâu mạch polyme) và peoxit đã được chế tạo trên
máy đùn một trục vít xoắn và 2 trục vít xoắn ở trạng thái nóng chảy
[14-16]. H. X. Huang và cộng sự đã chế tạo polyme blend PP/PA6
có mặt chất tương hợp PP-g-MA (tỷ lệ thành phần 80/12/3) trên
máy đùn một trục vít xoắn có đường kính 45mm và tỷ lệ chiều
dài/đường kính (L/D) 30/1. Xy lanh của máy đùn có 5 vùng, tính từ
phễu nạp liệu, các vùng có chiều dài lần lượt là: vùng từ phễu nạp
liệu đến vị trí 1# (13,5D), vùng vị trí 1# đến vị trí 2# (3,8D), vùng vị
trí 2# đến vị trí 3# (4,5D), vùng vị trí 3# đến vị trí 4# (4D) và vùng vị
trí 4# đến vị trí 5# (4,2 D) (hình III.3).
Thái Hoàng
130
Hình III.3. Ảnh hiển vi điện tử quét điển hình của các mẫu
polyme blend PP/PA6/PP-g-MA tại 5 vị trí trên máy đùn một
trục vít xoắn [17].
vít xoắn 5#, hình thái cấu trúc của polyme blend PP/PA6/PP-g-MA
là đẹp nhất [17].
Polyme blend PA6,6/polyme tinh thể lỏng (có tên thương mại
là Vectra) với các tỷ lệ thành phần khác nhau đã được chế tạo trên
máy đùn một trục vít xoắn (L/D = 22) có trang bị một chuỗi 12 phần
tử trộn. Nhiệt độ các vùng của máy đùn 290oC, nhiệt độ vùng trộn
305oC và nhiệt độ ra khỏi đầu đùn 300oC. Tốc độ trục vít 50
vòng/phút. Nhiệt độ trộn polyme blend PA6,6/Vectra cao cho phép
thúc đẩy các phản ứng giữa các nhóm chức của PA6,6 và Vectra.
Đó là phản ứng ngưng tụ giữa nhóm amin cuối mạch của PA6,6 với
nhóm cacboxyl cuối mạch của Vectra; các phản ứng chuyển vị este-
amit; các phản ứng axit phân giữa nhóm cacboxyl và este hoặc
nhóm cacboxyl và amit... Nhờ các phản ứng ngưng tụ và chuyển vị
giữa các nhóm chức của PA6,6 và Vectra tạo thành copolyme
PA6,6-NHCO-Vectra tại chỗ mà các polyme PA6,6 và Vectra tương
hợp một phần với nhau [18].
PA6,6:
-[-NH- CH2 - CH2 - CH2 - CH2 - CH2 - CH2 - NHCO- CH2 - CH2 -
CH2 - CH2 – CO-]-
Công nghệ chế tạo polyme blend sử dụng máy đùn 2 trục vít
xoắn đã được ứng dụng một cách hiệu quả cho các polyme blend 2
thành phần như PMMA/PS, PMMA/PU, PC/PS, PS/PE, PS/PP,
PC/PP, PA/EVA [20-23] và polyme blend 3 thành phần như
PA/PS/PP [24]. Trên hình III.4 mô tả sơ đồ trộn nóng chảy 2
polyme dọc theo máy đùn 2 trục vít xoắn. Các quá trình xảy ra trong
máy đùn 2 trục vít xoắn tương tự như trong máy đùn một trục vít
xoắn, chỉ khác là hiệu quả trộn và phân tán 2 polyme trên máy đùn
2 trục vít xoắn tốt hơn trên máy đùn một trục vít xoắn. Trong giai
đoạn đầu tiên, sau khi nạp liệu vào máy đùn 2 trục vít xoắn, 2
polyme ở trạng thái rắn. Trong giai đoạn tiếp theo, hỗn hợp 2
polyme nóng chảy ở dạng huyền phù. Cuối cùng, trước khi ra khỏi
đầu đùn, hỗn hợp 2 polyme nóng chảy ở trạng thái lỏng.
Trên hình III.5 là hệ thống máy đùn 2 trục vít xoắn gắn với máy
tạo hạt sử dụng để chế tạo polyme blend.
Chương III. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO VẬT LIỆU POLYME BLEND 133
Hình III.5. Hệ thống máy đùn 2 trục vít xoắn gắn với máy tạo hạt.
Quá trình trộn hợp/blend hoá 2 polyme PP/PA6 khá đơn giản
và có các quá trình đùn phản ứng hai bước (two-step reactive
extrusion) và đùn phản ứng một bước (one-step reactive extrusion).
Trong quá trình đùn phản ứng hai bước các polyme PP/PA6 có MA,
styren và peoxit trên máy đùn 2 trục vít xoắn, đầu tiên chức hoá PP
với MA bằng phản ứng ghép gốc tự do của MA vào mạch polyme,
sau đó xảy ra tương hợp một phần PP và PA6 nhờ có mặt PP-g-MA
tạo thành. Quá trình ghép gốc tự do của MA vào mạch PP xảy ra rất
mạnh mẽ ở vùng nóng chảy trong máy đùn 2 trục vít. Các máy đùn
trục vít xoắn thường có trục vít khá dài để ghép gốc tự do của vinyl
monome vào mạch polyme hoặc trộn hợp các polyme, trong khi
vùng nóng chảy chỉ cần chiều dài ngắn. Như vậy, có thể sử dụng
máy đùn 2 trục vít xoắn tiến hành đồng thời cả chức hoá lẫn tương
Thái Hoàng
134
hợp phản ứng polyme blend PP/PA6. Việc điều chỉnh hình thái cấu
trúc của polyme blend theo ý muốn liên quan tới khả năng hoạt
động hoá học của PA6, MA, styren, peoxit và thời gian lưu trong
máy đùn [4]. Có nhiều phương án tiến hành trộn hợp phản ứng một
bước nhưng phải chú ý giảm tới mức thấp nhất homopolyme tạo
thành và monome không tham gia phản ứng vì chúng sẽ phản ứng
với polyme có nhóm chức (như các nhóm amin cuối mạch của PA6,
PA66... hay các nhóm cacboxyl cuối mạch của PA66...). Các phản
ứng này sẽ giảm nồng độ nhóm chức của polyme có nhóm chức,
không thuận lợi cho phản ứng giữa polyme có nhóm chức với
polyme vừa chức hoá.
Hiện nay người ta có thể sử dụng 3 phương án tiến hành trộn
hợp phản ứng một bước sau:
a, Phương án thứ nhất: tất cả các nguyên liệu (PP, PA6, MA,
styren và peoxit) được đưa vào máy đùn đồng thời qua phễu cấp
liệu chính. Nhiệt độ xi lanh máy đùn (nòng máy đùn) được duy
trì ở 240oC. Lỗ hút gió đặt ở gần đầu đùn để loại bỏ các chất dễ
bay hơi như các monome không tham gia phản ứng còn lại.
Trong phương án này, quá trình chức hoá PP bởi phản ứng ghép
gốc tự do của MA vào mạch của nó dễ bị nhiễu bởi sự có mặt của
PA. PA dễ dàng phản ứng với polyme của MA và MA không
tham gia phản ứng ghép.
b, Phương án thứ hai: PP, MA, styren và peoxit được đưa vào
máy đùn qua phễu cấp liệu chính và PA6 được đưa vào máy đùn
qua phễu cấp liệu khác ở phía gần đầu đùn. Nhiệt độ xi lanh máy
đùn giữa 2 phễu cấp liệu là 200oC và nhiệt độ phần còn lại của xi
lanh máy đùn là 240oC. Lỗ hút gió đặt ở trước phễu cấp liệu thứ hai
và gần đầu đùn. Trong phương án này, có 2 quá trình độc lập nối
tiếp nhau xảy ra theo chiều dài máy đùn. Quá trình chức hoá PP bởi
phản ứng ghép gốc tự do của MA vào mạch của nó không bị ảnh
hưởng bởi PA, khả năng phản ứng của PA6 với polyme của MA và
MA còn lại giảm đi nhiều.
c, Phương án thứ ba chỉ khác phương án thứ hai ở chỗ tiến hành
hút khí trước khi đưa PA6 vào máy đùn. Điều này cho phép loại bỏ
monome MA không tham gia phản ứng còn lại khỏi PP đã chức hoá
trước khi trộn hợp với PA6 (xem hình III.6). Trong phương án này,
phản ứng giữa PA6 với MA còn lại giảm hơn nữa khi đưa PA6 vào,
Chương III. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO VẬT LIỆU POLYME BLEND 135
Hình III.6. Đùn phản ứng hai bước các polyme PP/PA6 có mặt
MA, styren và peoxit trên máy đùn 2 trục vít xoắn có hút khí
trước phễu đưa PA6 vào [4].
Một công nghệ khá phổ biến để chế tạo polyme blend là đồng
đùn các polyme (coextrusion). Sản phẩm của quá trình này là
polyme blend nhiều lớp/đa lớp. Công nghệ này thích hợp cho các
polyme có tỷ lệ độ nhớt lên tới 40/1 và chênh lệch nhiệt độ nóng
chảy của các polyme lên tới 80oC mà không gây phân huỷ nhiệt
các polyme thành phần. Các polyme nhiệt dẻo được sử dụng phổ
biến trong công nghệ đồng đùn là PE, PP, PA, PS, PVC, ABS,
polyeste... [26]. Nguyên tắc chung của công nghệ này là các
polyme được nóng chảy riêng rẽ trong các máy đùn trục vít, sau đó
chúng được chảy đồng thời vào một đầu đùn để tạo hình sản phẩm
cuối cùng. Hình III.7 là sơ đồ nguyên tắc chế tạo polyme blend có 8
lớp từ 2 polyme nóng chảy A, B bằng phương pháp đồng đùn (2 lần
kết hợp qua đầu tạo hình theo chiều thẳng đứng và chiều ngang).
Sau 11 lần kết hợp, có tổng số 4096 lớp trong polyme blend A/B (số
lớp 2n+1 với n là lần kết hợp qua đầu tạo hình) [27].
lớp mặt PVDF rất mỏng (vài micromet) nên vật liệu polyme blend
thu được có cấu trúc bất đối xứng [28].
Hình III.9. Hệ thống máy cán 2 trục cho chất dẻo và cao su
dùng để chế tạo polyme blend.
su nhiệt dẻo được làm nguội xuống nhiệt độ phòng và cắt thành hạt
với kích thước mong muốn [33].
Kết hợp nhiều quá trình công nghệ tác động đến các polyme
trong một hỗn hợp là giải pháp có hiệu quả để thu được sản phẩm
polyme blend có chất lượng, ngăn ngừa các hiện tượng không mong
muốn như phân huỷ nhiệt và phân huỷ oxy hoá nhiệt các polyme.
Kết hợp quá trình đùn, ép phun hoặc đúc phun các polyme có những
ưu điểm sau:
- Giảm tới mức thấp nhất hiện tượng phân huỷ nhiệt và phân huỷ
oxy hoá nhiệt các polyme nhờ ép/đúc và tạo hình trực tiếp.
- Dễ điều chỉnh hình thái cấu trúc của polyme blend trong quá
trình trộn hợp trên máy đùn 2 trục vít xoắn.
- Có thể ứng dụng để chế tạo nhiều loại sản phẩm khác nhau.
- Góp phần giảm giá thành sản phẩm.
Trên hình III.10 mô tả quá trình đùn và ép phun/đúc phun các
polyme có monome và các chất phụ gia hỗ trợ ghép monome vào
polyme.
Hình III.10. Hệ thống liên hợp máy đùn trục vít xoắn - ép
phun/đúc phun các polyme.
(a: polyme A; b: polyme B; c: monome; d: các chất phụ gia hỗ trợ ghép
monome vào polyme A; e: máy đùn trục vít xoắn; f: khuôn; g: khoang tích
trữ nhựa nóng chảy; h: máy ép).
Thái Hoàng
140
Sơ đồ nguyên tắc làm việc của hệ thống máy đùn trục vít xoắn -
ép phun/đúc phun chất dẻo, polyme hoặc polyme blend được thể
hiện trên hình III.11 [34-36]. Nhựa được nóng chảy nhờ tác động xé
của trục vít và nhiệt cung cấp cho xy lanh máy đùn. Khi trục vít
xoắn đồng thời là pit tông dừng chuyển động về phía sau và nhựa
nóng chảy được vận chuyển đầy tới buồng phun, pit tông nhanh
chóng chuyển động về phía trước và phun nhựa nóng chảy qua đầu
phun vào khuôn tạo hình sản phẩm.
Hình III.11. Sơ đồ nguyên tắc làm việc của hệ thống máy đùn
trục vít xoắn - ép phun/đúc phun chất dẻo [34.
A: phễu nạp liệu, B: thớt gắn khuôn ép, C: buồng phun, D: các
cuộn/bộ phận gia nhiệt, E: xy lanh máy đùn gia nhiệt, F: trục vít xoắn pit
tông chuyển động qua lại. Hình trên: pit tông chuyển động về sau, trước
khi phun chất dẻo. Hình dưới: pit tông chuyển động về phía trước và phun
chất dẻo.
D. Jarus và cộng sự đã chế tạo polyme blend PP/PA66 có nhiều
lớp bằng cách đồng đùn - đúc phun PP, PP-g-MA (chứa 0,5% MA)
và PA66 trên 3 máy đùn - đúc phun ở các nhiệt độ tương ứng là
180oC, nhiệt độ ở giữa nhiệt độ nóng chảy của PP và PA66 (220oC)
và nhiệt độ cao hơn nhiệt độ nóng chảy của PA66. Sau đó, polyme
Chương III. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO VẬT LIỆU POLYME BLEND 141
trộn hợp polyme blend HDPE/PP trong máy đùn 2 trục vít xoắn với
nhiệt độ xi lanh máy đùn 160-190oC. Sau khi cắt hạt và sấy khô,
tiến hành đúc phun polyme blend HDPE/PP vào khuôn bằng máy
đúc phun với nhiệt độ xi lanh 190oC và áp lực phun 900kg/cm2. Sau
đó, sử dụng công nghệ đúc phun động học đóng gói như đã nêu ở
trên. Các kết quả nghiên cứu sự định hướng của các polyme trong
polyme blend HDPE/PP bằng đo siêu âm và ảnh hiển vi điện tử quét
cho thấy khi HDPE là pha liên tục, các mạch HDPE định hướng dọc
theo hướng chảy. Tương tự, khi PP là pha liên tục, các mạch PP
trong trong các phiến ban đầu (parent lamella) định hướng dọc theo
hướng chảy.
(tỷ lệ 80/20) chế tạo bằng phương pháp DPIM có các tính chất cơ
lớn hơn so với đúc phun truyền thống. Mô đun đàn hồi của polyme
blend PA6/EPDM-g-MA chế tạo bằng phương pháp DPIM và đúc
phun truyền thống lần lượt là 1,056 và 0,953 GPa; độ bền kéo đứt
của polyme blend PA6/EPDM-g-MA chế tạo bằng phương pháp
DPIM và đúc phun truyền thống lần lượt là 31,62 và 28,84 MPa.
Bảng III.2. Các thông số công nghệ sử dụng trong phương pháp
DPIM [38].
Để chế tạo polyme blend có các tính chất mong muốn, người ta
phải tối ưu hoá các thông số công nghệ (ví dụ, ở máy đùn - phun ép,
các thông số này là thời gian sấy, nhiệt độ các vùng trên xi lanh của
máy đùn, áp suất phun, áp suất duy trì, thời gian nạp liệu...) và tỷ lệ
các polyme thành phần cũng như hàm lượng các chất phụ gia. Khi
đó, hình thái cấu trúc pha phân tán trong pha liên tục và các tính
chất cơ, lý, nhiệt của polyme blend có thể đáp ứng yêu cầu sử dụng.
loại cao su. Trong trường hợp sau, các hạt cao su được phân tán và
phân bố vào nền polyme nhiệt dẻo. Sự phân tán và phân bố của
cao su vào nền polyme nhiệt dẻo cũng như sự khâu mạch chọn lọc
của cao su là các quá trình xảy ra đồng thời trong quá trình trộn
nóng chảy polyme nhiệt dẻo và cao su. Chất đàn hồi nhiệt dẻo chế
tạo theo phương pháp này được xem như một loại polyme blend
đặc biệt.
Trong polyme blend cao su/nhựa nhiệt dẻo, khi cao su bị khâu
mạch hoàn toàn, tính chất của nhựa nhiệt dẻo không được bảo toàn,
người ta không thể gia công polyme blend này được nữa. Để khắc
phục các nhược điểm trên, người ta thường lưu hoá cao su một cách
có chọn lọc (lưu hoá cao su không hoàn toàn) trong hỗn hợp với
polyme nhiệt dẻo dưới tác động của nhiệt độ cao và trộn cơ học trên
các máy cán, máy trộn nội, máy đùn, máy ép, máy ép phun... Như
vậy, bản chất của lưu hoá động là khâu mạch có chọn lọc pha phân
tán là cao su, ngăn ngừa nó khỏi kết tụ lại với nhau, kết dính các hạt
cao su khâu mạch bằng polyme nhiệt dẻo. Lưu hoá động đòi hỏi các
hạt cao su có kích thước micromet và các hạt cao su phải được khâu
mạch ở một mức độ xác định trong pha polyme nhiệt dẻo có tỷ lệ
nhỏ hơn. Lưu hoá động thường được ứng dụng cho các polyme
blend từ cao su (thường dùng với tỷ lệ lớn hơn) với một polyme bán
kết tinh như PE, PP hoặc polyme vô định hình như PVC. Sau khi
lưu hoá động, các hạt cao su khâu mạch được trộn và phân tán trong
polyme nhiệt dẻo. Pha cao su trở thành pha phân tán trong pha liên
tục là nhựa nhiệt dẻo.
Có thể tiến hành lưu hoá động có chọn lọc cao su trong quá
trình trộn nóng chảy với polyme nhiệt dẻo hoặc lưu hoá động một
phần cao su trước khi trộn nóng chảy với polyme nhiệt dẻo [5]. Khi
đưa vào polyme blend một hoặc một số chất khâu mạch, độ nhớt
của pha cao su tăng. Khi mức độ khâu mạch pha cao su lớn sẽ hạn
chế sự tạo thành kích thước các hạt nhỏ hơn, giảm diện tích bề mặt
do tạo thành các khối lớn và sự kết tụ các hạt cao su phân tán với
nhau. Vì thế, sự phân tán các pha trong polyme blend cao su/nhựa
nhiệt dẻo lưu hoá động không đồng đều. Polyme blend cao su/nhựa
nhiệt dẻo lưu hoá động kết hợp được các tính chất của cả nhựa nhiệt
dẻo và cao su, thường tốt hơn cao su khâu mạch bằng lưu hoá tĩnh.
Đặc biệt, nó được gia công trên các thiết bị gia công nhựa nhiệt dẻo
Chương III. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO VẬT LIỆU POLYME BLEND 145
như máy cán, máy đùn trục vít xoắn, máy ép phun... và có thể tái
sinh được.
Lưu hoá động polyme blend trên cơ sở CSTN với PP và PE
đang được sự quan tâm của nhiều chuyên gia trên thế giới [40-43].
Với tác nhân khâu mạch lưu huỳnh, nó có thể phân ly trong cao su
chưa lưu hoá ở nhiệt độ phòng và khả năng phân ly của nó tăng khi
tăng nhiệt độ. Theo M. Hernandez và cộng sự, trong quá trình lưu
hoá động polyme blend CSTN/PP, sự khâu mạch pha CSTN tăng độ
nhớt của polyme blend CSTN/PP. Quá trình lưu hoá cao su thường
được tiến hành ở nhiệt độ cao hơn 75oC và ở nhiệt độ 135-150oC,
khoảng 8% lưu huỳnh (so với khối lượng cao su) tham gia phản ứng
lưu hoá cao su. Nói chung, quá trình lưu hoá CSTN xảy ra rất phức
tạp và thu được các sản phẩm lưu hoá khác nhau. Cầu polysunfit nối
giữa các mạch CSTN có thể thay đổi (phổ biến từ S2 đến S6) tuỳ
thuộc vào điều kiện phản ứng. Dưới đây là sơ đồ phản ứng lưu hoá
4 mạch phân tử CSTN bằng lưu huỳnh [44]:
CH3 H
135 - 150 oC
4 C=C + S8
...- CH2 CH2 - CH2 -...
CH3
CH3
H - C - CH = CH - CH2 -...
...- CH2 S (4-6) C - CH2 - CH2 -...
...-CH2 - CH CH2-...
+ ...- CH2 S (4-6)
CH2-...
C=C ...-C - C = CH
H CH2 H CH3
ROOR 2 RO.
CH3 CH3
. H-C=C
H-C=C
+ RO + ROH
...-CH2 CH2-... ...-C . CH2-...
H
CH3
CH3 H-C=C
H-C=C ...-CH CH2-...
2
...-C . CH2-... ...-CH CH2-...
H H-C=C
CH3
Dưới đây là phản ứng khâu mạch cao su EPM bằng các peoxit:
Chất đàn hồi nhiệt dẻo tiêu biểu đã được thương mại hoá là
polyme blend PP/EPDM lưu hoá động. Hệ chất khâu mạch cao su
lưu hoá tĩnh gồm lưu huỳnh, chất xúc tiến (tetrametyl tiuram
disulfit, mecaptobenzatiazol) và chất hoạt hoá lưu hoá (oxit kẽm) đã
được áp dụng cho lưu hoá động polyme blend PP/EPDM [5, 45].
Trịnh An Huy và cộng sự đã tiến hành lưu hoá động polyme blend
PP và EPDM với hệ chất lưu hoá gồm lưu huỳnh, tetrametyl tiuram
disulfit (TMTD), mecaptobenzatiazol trên máy trộn nội Haake ở
nhiệt độ 180-230oC [46, 47]. Hình III.14 mô tả tóm tắt quy trình sản
Chương III. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO VẬT LIỆU POLYME BLEND 147
xuất polyme blend PP/EPDM lưu hoá động sử dụng hệ khâu mạch
gồm lưu huỳnh, chất xúc tiến (tetrametyl tiuram disulfit,
mecaptobenzatiazol) trong máy trộn nội. Trong quá trình trộn hợp,
do ảnh hưởng của lực ma sát, nhiệt độ thực trong máy trộn nội sẽ
tăng nhanh và có thể dẫn đến sự phân huỷ nhiệt của polyme blend
PP/EPDM. Do đó, người ta thường đặt nhiệt độ ban đầu trong
buồng trộn ở 180oC, tốc độ quay rô to 50 vòng/phút. Nhờ đó, đến
cuối qui trình sản xuất, nhiệt độ của khối nhựa nhớt (stock
temperature) không vượt quá 230oC.
Cơ chế khâu mạch EPDM bằng lưu huỳnh, chất xúc tiến
(tetrametyl tiuram disulfit, mecaptobenzatiazol) tương tự như khâu
mạch CSTN. Sử dụng alkylphenol để khâu mạch EPDM sẽ hiệu quả
hơn rất nhiều nếu sử dụng chất xúc tiến clorua thiếc ngậm nước
(SnCl2.2H2O). Các phản ứng xảy ra trong quá trình khâu mạch
EPDM như sau:
Thái Hoàng
148
Các phản ứng xảy ra trong quá trình lưu hoá EPDM bằng
alkylphenol /SnCl2.2H2O [46]
đồng thời PP và EPDM ở trạng thái nóng chảy trên máy trộn nội
[49].
Trong bảng III.3 là một số đặc trưng công nghệ đùn - lưu hoá
động polyme blend PP/EPDM (64/36) khi nhiệt độ xy lanh máy đùn
là 193 và 232oC, các chất khâu mạch là dimetyloctylphenol và lưu
huỳnh. Khi đùn - lưu hoá động polyme blend PP/EPDM ở nhiệt độ
193oC, năng suất đùn polyme blend PP/EPDM sử dụng chất khâu
mạch họ phenol nhỏ hơn so với chất khâu mạch lưu huỳnh. Ngược
lại, khi đùn - lưu hoá động polyme blend PP/EPDM ở nhiệt độ lớn
hơn (232oC), năng suất đùn polyme blend PP/EPDM sử dụng chất
khâu mạch họ phenol lớn hơn so với chất khâu mạch lưu huỳnh.
Điểm nổi bật của polyme blend PP/EPDM khâu mạch bằng
dimetyloctylphenol là cao su nhiệt dẻo thu được rất mềm mại (độ
cứng khoảng 35 SoA) và duy trì khả năng gia công dễ dàng như
nhựa nhiệt dẻo [3].
Bảng III.3. Một số đặc trưng công nghệ đùn - lưu hoá động
polyme blend PP/EPDM [3].
dài/đường kính trục vít (L/D) khác nhau đều có hình thái cấu
trúc pha đồng liên tục điển hình. Đặc trưng chung về hình thái
cấu trúc pha của polyme blend PP/EPR không phản ứng hầu như
không thay đổi, kể cả sau khi trộn hỗn hợp PP/EPR với cường
độ tương đối cao. Pha cao su EPR không khâu mạch có thể bị
biến dạng do lực xé (bởi tác động của 2 trục vít xoắn) nhưng
hình thái cấu trúc pha đồng liên tục của polyme blend PP/EPR
vẫn được giữ nguyên. Khi đưa vào hệ hợp chất peoxit đóng vai
trò của một tác nhân lưu hoá chọn lọc pha cao su EPR, quá trình
lưu hoá động đã gây ra sự biến đổi hình thái cấu trúc pha của
polyme blend PP/EPR theo chiều dài của máy đùn. Rõ ràng là ở
tỷ lệ L/D bằng 10, polyme blend PP/EPR có hình thái cấu trúc
pha đồng liên tục, ở các tỷ lệ L/D bằng 16 và 22, hình thái cấu
trúc pha của polyme blend PP/EPR đã biến đổi, không còn đồng
liên tục. Trong giai đoạn cuối của quá trình chế tạo, ở tỷ lệ L/D
bằng 40, các hạt cao su EPR được phân tán khá đồng đều trong
pha PP có độ nhớt chảy tương đối nhỏ hơn và chiếm tỷ lệ nhỏ
hơn. Thời gian lưu cho quá trình lưu hoá động liên tục polyme
blend PP/EPR chỉ cần khoảng 30 giây là đủ để xảy ra phản ứng
khâu mạch cao su EPR và biến đổi hình thái cấu trúc pha trong
polyme blend PP/EPR.
H. Ismail, Supri và cộng sự đã tiến hành lưu hoá động
polyme blend trên cơ sở PVC với NBR và PVC tái sinh (PVCr)
với NBR có các hợp chất thấp phân tử như glyxidyl metacrylat
(GMA) hoặc axit acrylic (AA) và chất khơi mào DCP [51-53].
Trong thành phần của các tổ hợp PVC và PVCr có 20% chất hóa
dẻo dioctylphatalat (DOP) (so với nhựa), 3% chất ổn định
stearat catmi/stearat bari (tỷ lệ 1/1) (so với nhựa). Hệ chất khâu
mạch cho polyme blend NBR/ PVCr bao gồm lưu huỳnh (0,6%
so với cao su NBR), các chất xúc tiến TMTD (0,2% so với cao
su NBR), dibenzothiazyl disulfit (0,6% so với cao su NBR), các
chất hoạt hoá lưu hoá là oxit kẽm (3% so với cao su NBR) và
axit stearic (1,5% so với cao su NBR). Với polyme blend
NBR/PVC chỉ dùng chất khâu mạch là DCP (0,2% so với nhựa
PVC). Trên bảng III.4 là thành phần của polyme blend
PVCr/NBR/GMA lưu hoá động.
Chương III. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO VẬT LIỆU POLYME BLEND 151
trong 4 phút. Trong quá trình lưu hoá động NBR/PVCr có mặt
GMA và các chất khâu mạch có các phản ứng xảy ra như sau:
- Phản ứng giữa GMA với PVCr có mặt chất khơi mào DCP
(0,2% so với PVCr) tạo thành GMA - PVCr:
- GMA - PVCr phản ứng với NBR tạo thành copolyme khối
PVCr - GMA - NBR:
- Phản ứng khâu mạch NBR trong copolyme khối PVCr - GMA
- NBR bằng lưu huỳnh tạo thành copolyme khối PVCr - GMA -
NBR khâu mạch:
Thái Hoàng
154
Các copolyme khối PVCr - GMA - NBR tạo thành trong quá
trình lưu hoá động đóng vai trò của chất nhũ hoá ở bề mặt ranh giới
các polyme NBR và PVCr, do đó, chúng giảm ứng suất bề mặt,
giảm kích thước pha NBR và tăng khả năng phân tán đồng đều
NBR trong PVCr.
S. R. Chowdhury và cộng sự đã chế tạo polyme blend từ cao su
polyetylen clorosunfonat hoá (CSPE) và EVA trong thiết bị nhựa
hoá Brabender. Hệ chất khâu mạch cho cao su CSPE bao gồm các
chất xúc tiến TMTD, dibenzothiazyl disulfit, các chất hoạt hoá lưu
hoá oxit magie và Pb3O4. Đầu tiên, nhựa EVA được nóng chảy ở
100oC, sau đó đưa cao su CSPE và hệ chất khâu mạch cao su vào
nhựa EVA nóng chảy, tiếp tục trộn hỗn hợp trên trong 8 phút và tạo
tấm polyme blend EVA/CSPE trên máy cán 2 trục. Cuối cùng, tấm
polyme blend được ép lưu hoá trên khuôn ép ở 150oC từ 10 đến 60
phút. Trong quá trình này nhựa EVA nóng chảy đóng vai trò kết
dính các hạt cao su CSPE khâu mạch. Độ co ngót và độ bền nhiệt
của polyme blend tăng theo hàm lượng cao su CSPE [54].
Người ta thường dùng EPDM-g-MA trong quá trình lưu hoá
động PA/EPDM. Rezol không thể dùng cho polyme blend
PA/EPDM vì không chỉ pha EPDM mà cả pha PA cũng bị khâu
mạch lưu hoá động trong polyme blend PA/EPDM. Peoxit thích
hợp cho lưu hoá động polyme blend này vì khi sử dụng DCP trong
quá trình lưu hoá động polyme blend HDPE/EVA, cả mô đun tích
Chương III. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO VẬT LIỆU POLYME BLEND 155
luỹ dẻo (storage moduli) và mô đun tổn hao (loss moduli) của
polyme blend PA/NBR đều tăng [55]. Khi lưu hoá động polyme
blend PA/NBR có chất tương hợp CPE, độ nhớt chảy tương đối
tăng, kích thước pha phân tán giảm khi tăng hàm lượng CPE tới
hàm lượng tới hạn, ở đó bề mặt ranh giới pha bão hoà CPE [56].
Với polyme blend PP/NBR lưu hoá động bằng rezol, có thể
thu được cao su nhiệt dẻo chịu dầu. Phản ứng giữa PP biến tính
rezol với NBR có nhóm thế (như NBR chứa nhóm amin cuối
mạch) tạo thành polyme blend khâu mạch. G. Naderi và cộng sự
đã lưu hoá động polyme blend PP biến tính/NBR trên thiết bị trộn
nội ở trạng thái nóng chảy (185oC). Đầu tiên, đưa PP vào buồng
trộn và trộn nhựa PP trong 3 phút. Sau đó, đưa NBR vào nhựa PP
nóng chảy và trộn tiếp 3 phút. Đưa chất xúc tác clorua thiếc vào
buồng trộn và thực hiện lưu hoá động polyme blend PP biến
tính/NBR trong 3 phút. Mô men xoắn của polyme blend PP biến
tính/NBR tăng theo hàm lượng nhựa phenol (do phản ứng giữa
liên kết đôi của NBR với nhóm metylen gắn với vòng croman) và
chất xúc tác clorua thiếc [57].
Ngoài khâu mạch polyme blend bằng hệ lưu hoá, alkyl phenol,
nhựa rezol hay các peoxit, người ta còn khâu mạch các polyme bằng
bức xạ, ví dụ bức xạ gamma. Nhờ quá trình này mà các tính chất cơ
lý, tính chất nhiệt, độ bền hoá chất và dung môi của polyme blend
tăng lên.
sau: đầu tiên 20 giờ ở 60oC trong thiết bị chứa nước, sau đó 1,5 giờ
ở 80oC, 2 giờ ở 100oC và 2 giờ ở 120oC trong lò sấy. Cuối cùng, các
ngăn trùng hợp được làm nguội xuống nhiệt độ phòng. Hoà tan sản
phẩm trong THF, sau đó sử dụng dung môi axeton để hoà tan MMA
không tham gia phản ứng trùng hợp và kết tủa polyme blend thu
được. Để thu phần kết tủa, tiến hành ly tâm trên máy ly tâm với tốc
độ 20.000 vòng/phút, sau đó sấy trong lò sấy đến khối lượng không
đổi [58].
Polyme blend PE/polyvinyl axetat (PVAc) đã được chế tạo theo
phương pháp tại chỗ (in situ) trong bình phản ứng làm bằng thép
không gỉ. PE nền được xếp lơ lửng trong bình phản ứng như các
mắt lưới. Đưa vào bình phản ứng dung dịch monome VAc và chất
khơi mào phản ứng là 2,2’- azobiisobutyronitril (AIBN) (1% so với
khối lượng monome). Không khí trong bình được thay thế bằng khí
CO2. Sau khi hệ thống đạt tới cân bằng nhiệt (ở 35oC), bình phản
ứng được nạp áp suất 6 MPa CO2 bằng bơm CO2, gia nhiệt phản
ứng tới 80oC trong khoảng 0,5 giờ. Sau khi phản ứng xảy ra hoàn
toàn, hạ nhiệt độ bình phản ứng xuống 10oC (bằng nước đá ở bên
ngoài). Xả áp bình phản ứng về áp suất thường. Các tấm polyme
blend PE/PVAc được sấy chân không ở nhiệt độ phòng sau khi trích
ly bằng axeton để loại bỏ các cấu tử không tham gia phản ứng và
PVAc tạo thành trên bề mặt polyme blend PE/PVAc [59].
M. J. M.Abadie và cộng sự đã trùng hợp MMA trong cao su PB
với hệ khơi mào oxy hoá - khử metyl etyl keton peoxit - coban
octoat trên thiết bị phản ứng TROMBOMAT có thiết bị ghi liên tục
sự thay đổi độ nhớt của hỗn hợp phản ứng, thời gian và nhiệt độ
trùng hợp. Đầu tiên, cao su PB được hoà tan trong dung môi MMA.
Sau đó, hỗn hợp cao su PB trong MMA được đưa vào thiết bị phản
ứng. Vừa khuấy hỗn hợp phản ứng vừa thêm vào hệ khơi mào oxy
hoá - khử metyl etyl keton peoxit - coban octoat. Phản ứng trùng
hợp MMA trong cao su PB xảy ra cho đến khi không còn sự thay
đổi độ nhớt dung dịch phản ứng [60].
Hiện nay, trùng hợp MMA trong copolyme EVA để thu được
polyme blend PMMA/EVA có 2 pha đồng liên tục đang được quan
tâm nhiều vì khả năng ứng dụng thương mại của nó [50].
Polyme blend dẫn điện trên cơ sở poly (vinyliden florua)
(PVDF) và polyanilin (PANI) đã được tổng hợp bằng cách trùng
Chương III. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO VẬT LIỆU POLYME BLEND 157
hợp hóa học anilin trong hỗn hợp của PVDF và dimetylformamit
với ammonipersulfat và axit p-toluensulfonic là các chất pha tạp
(dopant).
III.5. Phương pháp tạo các mạng lưới polyme đan xen
Một phương pháp chế tạo polyme blend khá phổ biến hiện nay là
tạo mạng lưới các polyme đan xen, móc vào nhau (interprenetrating
polymer networks, IPN). Các IPN được xem như polyme blend,
Thái Hoàng
158
CH2-O-CO-(CH2)7-CH=CH-CH2-CH(OH)-(CH2)5-CH3
CH2-O-CO-(CH2)7-CH=CH-CH2-CH(OH)-(CH2)5-CH3
NCO
45 oC
H3C NCO (ISOPHORONDIISOXYANAT)
KhuÊy
CH3 CH3
CH2-O-CO-(CH2)7-CH=CH-CH2-CH(O)-(CH2)5-CH3
CO
CH-... O-CO-C(CH3)=CH2 (PU)
NH
CH2-...
H3C NCO
R
(CARDANYL METACRYLAT, CM)
CH3 CH3
BPO
ETYLENGLYCOL DIMETACRYLAT
75 oC
CH2-O-CO-(CH2)7-CH - CH-CH2-CH(O)-(CH2)5-CH3
CH2-...
R: -(CH2)7-CH=CH-CH2-CH=CH-CH2-CH=CH2
hợp phản ứng ban đầu, môi trường phản ứng vẫn luôn đồng nhất và
trong suốt. Các IPN của PU/PMMA đã được chế tạo bằng các quy
trình tại chỗ như quy trình liên tiếp tại chỗ và đồng thời tại chỗ (in-
situ simultaneous). Trong quy trình liên tiếp tại chỗ, hỗn hợp gồm
Desmodur L75 (adduct của 1,1,1-trimetylol propan/toluen
diisoxyanat), POPG (polypropylen glycol), metylmetacrylat, TRIM
(trimetylol propan trimetacrylat với 100ppm chất ức chế
metyletylhydroquinon) và AIBN được trộn đều, sau đó đưa vào 1%
chất ổn định octoat thiếc. Hỗn hợp trên được rót vào khuôn thuỷ
tinh và giữ ở nhiệt độ phòng không có ánh sáng để tạo gel của PU.
Sau đó chuyển khuôn thuỷ tinh có PU đã được tạo gel sang lò (đã
gia nhiệt đến 60oC). Trong quy trình đồng thời tại chỗ (in-situ
simultaneous), hỗn hợp được gia nhiệt ở 60oC ngay sau khi rót vào
khuôn. Cả 2 loại IPN của PU/PMMA tạo thành theo quy trình liên
tiếp tại chỗ và đồng thời tại chỗ đều được ủ một đêm ở 75oC và 3
giờ trong tủ sấy chân không ở 120oC [70]. Tương tự, các bán IPN
của poly(dimetyl siloxan)/poly(N-isopropyl acrylamit) cũng đã
được chế tạo bằng các quy trình liên tiếp tại chỗ và đồng thời tại
chỗ, trong đó poly(dimetyl siloxan) mạch thẳng được tạo thành theo
cơ chế trùng hợp gốc tự do có mặt chất khơi mào AIBN [71].
C. U. Jr. Pittman và cộng sự đã chế tạo các bán IPN từ PVC và
5-15% di-(4,4’- diisoxyanato phenyl) metan bằng cách trộn trực tiếp
di-(4,4’- diisoxyanato phenyl) metan ở dạng lỏng với các hạt PVC
không hoá dẻo (có 30% lỗ xốp) trên máy trộn rắn tốc độ cao (1000
vòng/phút) ở 21-24oC trong 1- 2 phút, sau đó tiếp tục trộn trên máy
cán 2 trục ở 50oC cho đến khi 2 thành phần trộn đều hoàn toàn. Sau
đó, tiến hành ép và khâu mạch hỗn hợp trên khuôn nhôm ở 145oC
trong 45 phút dưới áp lực (máy ép thuỷ lực) 320-450atm. Trong quá
trình gia nhiệt ở 145oC, di-(4,4’- diisoxyanato phenyl) metan tiếp
tục chuyển động vào bên trong khối PVC, đồng thời phản ứng khâu
mạch di-(4,4’- diisoxyanato phenyl) metan cũng xảy ra. Tính chất
cơ của các bán IPN PVC/di-(4,4’- diisoxyanato phenyl) metan lớn
hơn nhiều so với PVC ban đầu [72].
Các hydrogel là các IPN và bán IPN có các liên kết hydro giữa
các đại phân tử của các polyme thành phần [73-80]. Phùng Hà và
cộng sự đã chế tạo các IPN trên cơ sở PU khâu mạch với
polydimetylaminetylmetacrylat hoặc poly axit metacrylic (PMA)
[73, 74]. PU khâu mạch được điều chế từ 4,4’-dicyclohexylmetan
Chương III. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO VẬT LIỆU POLYME BLEND 163
Phương pháp phổ hồng ngoại biến đổi Fourier và phương pháp
nhiệt lượng quét vi sai đã chứng minh sự tồn tại của liên kết hydro
giữa nhóm cacbonyl trong mạng poly(N-vinylpyrolidon) và nhóm
cacboxyl trong mạch poly axit acrylic [75].
Thái Hoàng
164
nhau. Đối với phương pháp này, cần chú ý là các latex polyme tồn
tại ổn định trong môi trường nước nhờ các chất hoạt động bề
mặt/chất nhũ hoá, chất ổn định, chất điều chỉnh pH và các chất đệm.
Nồng độ của các hợp chất trên, nhiệt độ khuấy trộn, tốc độ khuấy
trộn… là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng tương
hợp, mức độ phân tán của các latex polyme vào nhau và tính chất
của polyme blend [2, 3, 5].
Nhược điểm cơ bản của phương pháp này là khó có thể tách
hết chất nhũ hoá, các phụ gia khác cũng như nước khỏi polyme
blend, do đó các tính chất cơ-lý, hoá, nhiệt, điện của polyme blend
bị giảm đi.
Phương pháp đúc chuyển nhựa
Polyme blend trên cơ sở nhựa nhiệt dẻo và nhựa nhiệt rắn (nhựa
phản ứng) được chế tạo bằng công nghệ đúc chuyển nhựa (resin
transfer moulding - RTM) [81]. Nhựa nhiệt dẻo được sử dụng là
polyete imit và nhựa phản ứng được sử dụng là nhựa epoxy
(DGEBA). Các chất đóng rắn nhựa epoxy là các diamin vòng béo
(IPD, 3DCM, MNDA), diamin vòng thơm (DEDTA 80). Nguyên
tắc chế tạo polyme blend như sau: đưa nhựa nhiệt dẻo vào khuôn
cùng với chất phụ gia, chất gia cường. Sau đó, hoà tan và khuếch
tán nhựa nhiệt dẻo bằng tiền chất (precusor) của nhựa phản ứng
(đưa vào nhờ bơm chất lỏng). Trong khuôn xảy ra phản ứng đóng
rắn nhựa nhờ các chất đóng rắn diamin vòng. Độ nhớt của hỗn hợp
phản ứng tăng theo thời gian trùng hợp. Nhiệt độ đóng rắn nhựa
DGEBA bằng DEDTA 80 thích hợp trong khoảng 100-150oC. Kết
thúc quá trình chế tạo polyme blend nhựa nhiệt dẻo/nhựa nhiệt rắn
sau khi tháo khuôn. Bản chất của quá trình chế tạo polyme blend là
khâu mạch phản ứng nhựa epoxy bằng hợp chất diamin vòng trong
hỗn hợp với nhựa polyete imit.
Thái Hoàng
166
Để chế tạo polyme blend có chất lượng tốt và kết hợp được các ưu
điểm của polyme thành phần, các polyme trong hệ phải có khả năng
hòa trộn, tương hợp hoàn toàn hoặc tương hợp một phần với nhau.
Hiện nay, người ta giải quyết vấn đề tương hợp của các polyme
không có hoặc ít có khả năng tương hợp như sau [1-5]:
a, Tương hợp không phản ứng: biến tính một trong 2 polyme để
tăng khả năng trộn lẫn, phân tán và tương tác 2 polyme; thêm vào
các polyme, copolyme khối, copolyme nhánh và copolyme ghép
hoặc các chất phụ gia không tham gia phản ứng nhưng có khả năng
trộn lẫn và tương tác với các polyme.
b, Tương hợp nhờ các tương tác đặc biệt (còn gọi là tương tác
riêng): gắn vào mạch của một hoặc cả 2 polyme các nhóm có khả
năng tương tác đặc biệt (tương tác riêng) và không tạo thành liên
kết cộng hoá trị giữa 2 polyme.
c, Tương hợp phản ứng: các polyme có khả năng phản ứng, đặc
biệt là phản ứng giữa các nhóm chức hoạt động hoá của các polyme,
phản ứng chuyển vị tạo thành copolyme tại chỗ (in-situ) trong quá
trình trộn/blend hóa các polyme. Copolyme tạo thành tại chỗ đóng
vai trò của chất tương hợp cho các polyme ban đầu nhờ tăng cường
tương tác, trộn lẫn và phân tán các polyme vào nhau.
Xu hướng phổ biến hiện nay là biến tính polyme bằng cách gắn
vào đại phân tử polyme các nhóm có khả năng phản ứng, sử dụng
các copolyme có khả năng phản ứng với một hoặc cả 2 polyme để
tạo thành copolyme tại chỗ trong quá trình trộn hoặc sử dụng các
hợp chất thấp phân tử có khả năng phản ứng. Dưới đây là các biện
pháp cụ thể nhằm tăng cường tương hợp các polyme.
Thái Hoàng
176
nhánh hoặc khối kia phải có khả năng tương hợp tốt với polyme còn
lại. Các copolyme thường có 2 khối tạo thành từ các mắt xích
monome của mỗi polyme thành phần. Như vậy, khối có cùng
monome với polyme thành phần sẽ có cùng bản chất và cấu tạo hoá
học tương tự, vì vậy chúng có khả năng trộn lẫn, phân tán tốt với
nhau. Copolyme khối có các khối tạo thành từ các monome giống
với 2 polyme ban đầu đóng vai trò như một chất hoạt động bề mặt
và chất kết dính 2 polyme. Nó góp phần giảm ứng suất ở bề mặt
ranh giới 2 pha polyme. Từ đó sẽ có một giá trị tới hạn mới của hệ
được thiết lập, tương ứng với nó là một giá trị cực tiểu của đường
kính pha phân tán và tồn tại hàm lượng tối ưu (hàm lượng tới hạn)
chất tương hợp đủ để bão hoà bề mặt ranh giới 2 pha polyme. Nếu
lượng chất tương hợp đưa vào lớn hơn giá trị này, độ lớn của pha
phân tán sẽ không thay đổi đáng kể nữa. Hàm lượng chất tương hợp
tối ưu để bão hoà bề mặt ranh giới 2 pha giảm tuyến tính theo sự
giảm khối lượng phân tử của các polyme thành phần [5].
Thành phần, khối lượng phân tử của các chất tương hợp
(copolyme khối, copolyme nhánh và copolyme ghép) và tính chất,
cấu trúc của polyme blend có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hiệu
quả tương hợp của các copolyme khối có thể được so sánh theo tỷ lệ
khối lượng phân tử của polyme thành phần và copolyme. Nếu α là
tỷ lệ khối lượng phân tử của polyme A và khối A trong copolyme, β
là tỷ lệ khối lượng phân tử của polyme B và khối B trong copolyme,
copolyme là chất tương hợp kém hiệu quả khi α > 1 và β > 1.
Copolyme có hiệu quả tương hợp tối ưu khi α < 1 và β < 1 và lý
tưởng nhất khi α = β < 1. Có thể thấy α và β giảm khi khối lượng
phân tử của polyme giảm và khuynh hướng để copolyme phân bố
tại bề mặt ranh giới 2 pha lớn hơn, do đó hiệu quả tương hợp cũng
tăng lên. Có thể giảm hàm lượng copolyme sử dụng khi khối lượng
phân tử các polyme thành phần giảm.
Trường hợp phổ biến nhất để tăng cường tương hợp polyme
blend A/B là sử dụng chất tương hợp copolyme A-B và tạo thành hệ
A/B/A-B, trong đó copolyme khối A-b-B hoặc copolyme ghép A-g-
B đóng vai trò của chất kết dính 2 pha A và B và copolyme A-B
được gọi là “copolyme entropy”. Khối lượng phân tử trung bình của
copolyme A-B phải được điều chỉnh cho từng loại polyme blend để
vật liệu có các tính chất mong muốn, trong đó độ dài của từng khối
càng lớn, hiệu ứng tương hợp càng cao. Bản thân chất tương hợp
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 179
phải có độ dài đủ lớn để giảm sức căng bề mặt ranh giới 2 pha và
tạo thành sự rối cuộn cũng như đan móc với các polyme A và B.
Tuy nhiên, độ dài đó không được quá lớn để tránh kết tụ tạo thành
pha thứ ba cũng như tạo thành các mixen [5]. Với chất tương hợp là
copolyme A-C, khi khối C trộn lẫn tốt với polyme B, copolyme này
đóng vai trò của một “copolyme entalpy”. Với copolyme D-E bất kỳ
có các thành phần D và E khác hẳn với thành phần các polyme A và
polyme B vẫn có thể đóng vai trò của chất tương hợp cho các
polyme A và polyme B nếu D không tương hợp với polyme A
nhưng tương hợp hơn với polyme B [5]. Một số chất tương hợp
copolyme khối và copolyme ghép được trình bày ở bảng IV.2.
Bảng IV.2. Các chất tương hợp copolyme cho polyme blend [5].
Dạng blend Polyme thứ Polyme thứ hai Chất tương hợp
nhất
PS-b-PET
PMMA-b-PS
PVF PS PS-b-PMMA
PS PC PS-b-PCl
PS PE HPB-b-PS
Thái Hoàng
180
PB-b-PMMA
ABS PE HPB-b-PMMA
PS-b-PBT
PE PS SBS, SEBS
PBT PS PBT-g-PS
PE PS PE-g-PS
PE PA PE-g-PA
(Tên đầy đủ của các polyme và copolyme ở trang các từ viết tắt)
Khi sử dụng các copolyme làm chất tương hợp cho polyme
blend, các copolyme khối có hiệu quả cao hơn copolyme ghép vì
các copolyme ghép có nhánh khó thâm nhập vào lớp tiếp xúc 2 pha
polyme. Hình IV.1 mô tả vị trí của các copolyme 2 khối, 3 khối,
nhiều nhánh ghép và 1 nhánh ghép ở bề mặt ranh giới 2 pha trong
polyme blend không đồng nhất.
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 181
dính 2 pha kém. Khi thêm vào 5% HPB-b-PS, kích thước hạt PS
phân tán giảm rõ rệt và độ bám dính bề mặt tăng lên [5]. Minh hoạ
cho ví dụ này trên hình IV.2.
Đưa copolyme EVA vào polyme blend LDPE/PA, các tính
chất cơ của polyme blend LDPE/PA được tăng cường, đặc biệt là
độ bền va đập. Điều này được giải thích bởi khả năng bám dính
tốt giữa PE và EVA cũng như các tương tác vật lý giữa 2 polyme
EVA và PA (liên kết hydro và tương tác lưỡng cực giữa nhóm
axetat của EVA với nhóm amit của PA) [9]. EVA nâng cao khả
năng tương hợp của LDPE và PA. H. Zhao và cộng sự đã đưa
poly(etylen-co-axit metacrylic) (EMAA) vào polyme blend
LLDPE/copolyme của metyl metacrylat và 4-vinyl pyridin
[poly(MMA-co-4VP)] với tỷ lệ 2:1. Khi hàm lượng EMAA trong
polyme blend là 12 và 18%, kích thước trung bình của pha phân
tán giảm xuống còn 1 và 0,15μm [10]. Trong polyme blend
LLDPE/poly(MMA-co-4VP)/EMAA tồn tại các tương tác giữa
MAA trong EMAA với 4VP trong poly(MMA-co-4VP). Mạch
LLDPE dễ dàng trộn lẫn với phần PE trong EMAA ở vùng vô
định hình. Vì vậy, khả năng tương hợp của LLDPE và
poly(MMA-co-4VP) được tăng cường [5]. Nghiên cứu độ bền
kéo đứt và độ bền va đập của polyme blend HDPE/PET có
HDPE-g-MA (hàm lượng MA ghép 0,19%), R. N. Brandalise và
cộng sự nhận thấy các tính chất trên của polyme blend
HDPE/PET (70/30) tăng rõ rệt khi có 5 và 10% HDPE-g-MA. Độ
bền kéo đứt của các polyme blend HDPE/PET, HDPE/PET/10%
HDPE-g-MA lần lượt là 16,8 và 17,3 MPa; độ bền va đập của các
polyme blend HDPE/PET không có, có 5 và 10% HDPE-g-MA
lần lượt là 10,76; 43,9 và 19,8 MPa. Khả năng tương hợp của
polyme blend HDPE/PET tăng lên nhờ phần HDPE trong HDPE-
g-MA dễ trộn lẫn với pha HDPE, nhóm MA trong HDPE-g-MA
tương tác lưỡng cực với nhóm cacbonyl trong PET [11]. Tương
tự, PE-g-MA tăng cường tương hợp cho HDPE và cao su thiên
nhiên epoxy hoá do PE-g-MA tương tác với cao su thiên nhiên
epoxy hoá và trộn lẫn tốt với HDPE. PE-g-MA tăng độ bền kéo
đứt, độ dãn dài khi đứt và độ bền va đập của polyme blend
HDPE/cao su thiên nhiên epoxy hoá (70/30) nhờ tăng khả năng
bám dính 2 pha HDPE và cao su thiên nhiên epoxy hoá. Nó cũng
góp phần tăng mức độ đồng thể của polyme blend HDPE/cao su
thiên nhiên epoxy hoá [12].
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 183
LDPE
HIPS
PS Cao su
+ Copolyme
LDPE
PS
Copolyme
Cao su
đập và độ dãn dài khi đứt của polyme blend PP/PE. EVA cải thiện
độ bền va đập cho PP tốt hơn EPDM. Hiệu quả tương hợp polyme
blend PP/PE của EPDM, EVA có 28% VA (EVA-28) và EVA có
33% VA (EVA-33) tăng theo thứ tự sau: với độ bền va đập, EVA-
33 < EVA-28 < EPDM; với độ bền kéo đứt, EPDM < EVA-28
<EVA-33 [18]. Để tăng khả năng tương hợp của polyme blend
PP/EPDM, B. C. Kim và cộng sự đã sử dụng copolyme 3 khối (PP-
g-MA)-co-[PA6,6]-co-[EPDM-g-MA]. Copolyme này tăng cường
bám dính bề mặt của PP và EPDM nhờ thúc đẩy đan móc vật lý
(physical interlocking) giữa 2 pha PP và EPDM cũng như tăng mức
độ phân bố đồng đều của pha EPDM trong pha PP [16]. Mô đun dẻo
của polyme blend PP/EPDM lớn nhất khi có 0,5% copolyme (PP-g-
MA)-co-[PA6,6]-co-[EPDM-g-MA].
Khi đưa PE-g-MA vào polyme blend LDPE/tinh bột nhiệt dẻo,
tính chất cơ của polyme blend LDPE/tinh bột nhiệt dẻo tăng lên.
Điều này được giải thích bởi PE-g-MA trộn lẫn tốt với LDPE, nhóm
MA của PE-g-MA tương tác với nhóm hydroxyl của tinh bột nhiệt
dẻo. Kết quả là ứng suất bề mặt ranh giới 2 pha, kích thước pha
phân tán giảm và khả năng tương hợp LDPE và tinh bột nhiệt dẻo
được cải thiện [17].
T. J. A. Melo và cộng sự đã nghiên cứu tính chất cơ của
polyme blend PP/PS bền va đập (HIPS). Các tác giả nhận thấy độ
bền kéo đứt, độ dãn dài khi đứt, mô đun đàn hồi và độ bền va đập
của polyme blend PP/HIPS (70/30) có copolyme 3 khối styren-b-
etylen-co-butylen-b-styren (SEBS) lớn hơn so với polyme blend
PP/HIPS không sử dụng SEBS. Các tính chất cơ của polyme blend
PP/HIPS lớn nhất khi hàm lượng SEBS là 5% [18]. SEBS tăng khả
năng trộn lẫn và tương tác PP và HIPS, góp phần làm cho PP và
HIPS tương hợp một phần với nhau. Vai trò của HIPS tăng cường
tương hợp polyme blend PP/SEBS cũng đã được xác nhận trong
công trình [19].
J. Z. Diao và cộng sự đã sử dụng poly(amit-este) siêu nhánh
(HBP) và PP ghép poly(amit este) siêu nhánh (PP-HBP) để tăng độ
bền kéo đứt và độ bền va đập của polyme blend PP/PVC [20, 21].
Độ bền kéo đứt và độ bền va đập của polyme blend PP/PVC (80/20)
có HBP (hàm lượng từ 0,5 tới 4%) đều lớn hơn so với polyme blend
PP/PVC (không tương hợp). Sự có mặt của HBP làm cho PP và
PVC tương hợp một phần với nhau. Khi đưa HBP vào polyme blend
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 185
PP/PVC, độ nhớt của PVC giảm đáng kể. Ngoài ra, nguyên tử
hydro metenyl của PVC tương tác với nhóm cacbonyl ete và nhóm
amit của HBP tạo thành liên kết hydro. Do đó, khả năng gia công và
trộn lẫn PP và PVC dễ dàng hơn [20]. Tương tự, khi đưa PP-HBP
(hàm lượng từ 2,5 tới 20%) vào polyme blend PP/PVC (80/20), độ
bền kéo đứt của polyme blend PP/PVC/PP-HBP lớn hơn so với
polyme blend PP/PVC. PP-HBP đã cải thiện khả năng tương hợp,
bám dính pha của PP và PVC, giảm ứng suất bề mặt ranh giới giữa
2 pha PP và PVC [21].
Năng lượng nứt bề mặt của polyme blend PS/PMMA tăng hơn
6 lần khi sử dụng copolyme của MMA với oligosilsequioxan đa
diện (MMA-POSS). Copolyme MMA-POSS tăng khả năng tương
tác giữa PS và PMMA, giảm ứng suất bề mặt giữa 2 pha polyme, do
đó, PS và PMMA tương hợp một phần [22]. Các copolyme PC-b-
PMMA và PC-b- SAN giảm kích thước của pha phân tán và ứng
suất bề mặt ranh giới giữa 2 pha trong polyme blend PC/SAN
(hàm lượng AN 24%) do khả năng trộn lẫn và tương tác tốt của
PC-b-PMMA và PC-b- SAN với cả PC và SAN [23]. Kích thước
trung bình của pha phân tán tỷ lệ thuận với ứng suất bề mặt ranh
giới giữa 2 pha trong polyme blend PC/SAN có PC-b-PMMA và
PC-b-SAN. Hiệu quả tương hợp polyme blend PC/SAN của PC-
b-PMMA lớn hơn PC-b- SAN. Khi sử dụng SAN (hàm lượng AN
là 17 và 25%) cho polyme blend poly(ε-caprolacton)/poly(benzyl
metacrylat) (PCL/PBzMA), polyme blend 3 thành phần
PCL/PBzMA/SAN chỉ có một nhiệt độ thuỷ tinh hoá và polyme
blend tạo thành một hệ đồng thể ở tất cả các tỷ lệ thành phần
(căn cứ vào giản đồ pha). Nhờ có SAN, polyme blend
PCL/PBzMA hoà trộn/tương hợp hoàn toàn [24].
Do sự khác nhau về cấu tạo, cấu trúc, khối lượng phân tử, độ
phân cực... nên cao su thiên nhiên (CSTN) và PU nhiệt dẻo không
tương hợp với nhau. Khi sử dụng copolyme ABS (với hàm lượng từ
0,5 tới 2,5%) cho polyme blend CSTN/PU (10/90), độ bền kéo đứt
của polyme blend tăng lên đáng kể. ABS đã tăng cường tương tác,
phân tán và bám dính CSTN và PU, do đó CSTN và PU trở nên
tương hợp một phần [25]. Độ nhớt thực của dung dịch polyme blend
EPDM/CSTN ở các tỷ lệ khác nhau có 10% EPDM-anhydrit maleic
(EPDM-MA) trong dung môi toluen luôn cao hơn so với dung dịch
polyme blend EPDM/CSTN không có EPDM-MA. Như vậy,
Thái Hoàng
186
EPDM-MA có tác dụng làm cho EPDM và CSTN tương hợp một
phần [26]. Cao su NBR vừa có khả năng trộn lẫn với CSTN vừa có
khả năng tương tác với PVC, do đó kích thước của các pha PVC và
CSTN trong polyme blend PVC/CSTN/NBR đồng đều hơn và nhỏ
hơn so với kích thước của các pha này trong polyme blend
PVC/CSTN [27]. Cao su NBR tăng cường khả năng tương hợp và
cải thiện khả năng phân tán của PVC và CSTN vào nhau do nằm ở
bề mặt ranh giới 2 pha PVC và CSTN (hình IV.3) [27, 28].
Độ dãn dài khi đứt và độ bền va đập của polyme blend ở nhiệt độ
phòng và nhiệt độ thấp tăng khi đưa CPE vào polyme blend
PVC/EPDM (bảng IV.3).
hoặc B. Tuỳ thuộc vào vị trí nhóm chức (nhóm cuối mạch hay
dọc theo mạch) của polyme C và polyme A hoặc polyme B, trong
quá trình blend hoá bằng phương pháp nóng chảy, các copolyme
khối hay nhánh được tạo thành tại bề mặt ranh giới 2 pha polyme
A và B. Các copolyme tạo thành đóng vai trò của chất tương hợp,
tăng khả năng bám dính giữa các pha và nâng cao tính chất cơ lý
của polyme blend. Để đạt được hiệu quả tương hợp tốt, một đòi
hỏi quan trọng với các polyme có khả năng phản ứng là các nhóm
chức của chúng phải có đủ hoạt tính để tham gia các phản ứng
hoá học trong điều kiện chế tạo polyme blend. Mặt khác, các liên
kết tạo thành phải đủ bền nhiệt ở nhiệt độ gia công.
Kỹ thuật chế tạo copolyme khối hoặc copolyme ghép theo
phương pháp tại chỗ (in-situ) có nhiều ưu điểm hơn so với đưa
vào polyme blend các copolyme khối hoặc copolyme ghép đã
được chế tạo trước (tiền copolyme) vì độ nhớt chảy của polyme
có khả năng phản ứng nhỏ hơn tiền copolyme khi chúng có khối
lượng phân tử tương tự. Thông thường các polyme có khả năng
phản ứng được tạo thành bằng phản ứng đồng trùng hợp gốc hoặc
ghép các nhóm chức có khả năng hoạt động hoá vào mạch
polyme trơ về mặt hoá học ở trạng thái nóng chảy. Điều quan
trọng là các polyme có khả năng phản ứng chỉ tạo ra các
copolyme khối hoặc copolyme ghép ở bề mặt ranh giới 2 pha
polyme không có khả năng tương hợp, do đó 2 polyme có khả
năng tương hợp hoặc tương hợp một phần với nhau. Khi đó,
tương hợp giữa 2 polyme do phản ứng tạo thành copolyme có vai
trò của một chất tương hợp được gọi là tương hợp phản ứng
(reactive compatibilization).
Trên hình IV.4 trình bày các tiền copolyme khối và
copolyme ghép có thể đưa vào polyme blend không tương hợp:
polyme A, polyme B và hình dạng của copolyme được tạo thành.
Các polyme phản ứng có thể là polyme A được chức hoá (X-A)
hoặc polyme C được chức hoá (X-C). Nhờ các polyme đã chức
hoá, 2 polyme A và C có thể phân tán, trộn lẫn tốt với nhau.
Polyme B phải có nhóm phản ứng ở cuối mạch hoặc nhóm “treo”
vào mạch chính (ví dụ, các nhóm amin và nhóm axit cacboxylic
nếu B là PA, hoặc anhydrit sucxilic nếu B là copolyme styren-
anhydrit maleic) [5].
Thái Hoàng
190
Chất p/ư cho pha A Polyme p/ư của pha B Copolyme tạo thành (in-situ)
(A*) (B)
X Y X’-Y
(A)-b-(B)
X
Y Y’
X’
(B)-g-(A)
Y
X’ Y’
(A)-g-(B)
X’
X Y Y’
(A)-nhánh-(B)
Cấu tạo của copolyme ảnh hưởng rõ rệt tới khả năng phản ứng
của nó với polyme khác có khả năng phản ứng (hình IV.5).
Copolyme ngẫu nhiên polyetylen-r-axit acrylic (PE-r-AA) giảm
kích thước pha phân tán trong polyme blend PS/PS-g-GMA tốt hơn
copolyme ghép PE-g-AA khi tăng hàm lượng PS-g-GMA trong pha
nền PS. Khả năng phản ứng của AA với nhóm epoxy trong PS-g-
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 191
GMA bị hạn chế. Ngược lại, sự phân bố AA dọc theo mạch PE trong
copolyme ngẫu nhiên PE-r-AA sẽ thuận lợi hơn cho phản ứng của
AA với nhóm epoxy ở bề mặt ranh giới 2 pha PS và PS-g-GMA [6].
Hình IV.5. Sự phân bố của axit acrylic (AA) trong PE-r-AA (a)
và PE-g-AA (b) [4].
Như trên đã trình bày, phản ứng giữa các nhóm có khả năng
phản ứng ở bề mặt ranh giới 2 pha polyme đóng vai trò quan trọng
cho tương hợp phản ứng của các polyme.
Thái Hoàng
192
Hình IV.6. Mô tả vai trò của PE-g-PA polyme blend PE/PA [35].
Thái Hoàng
194
Trên ảnh hiển vi điện tử quét của polyme blend PA/PE (80/20)
có 10% copolyme PE-g-AA, kích thước pha phân tán PE giảm (pha
PE được trích ly bởi xylen). Copolyme PE-g-AA giúp cho pha PE
phân bố đồng đều hơn trong pha liên tục PA (hình IV.7).
Hình IV.7. Ảnh hiển vi điện tử quét của polyme blend PA/PE
không có (ảnh trái) và có 10% PE-g-AA (ảnh phải) [34].
Bảng IV.5. Ảnh hưởng của chất tương hợp tới đường kính của
pha phân tán và tính chất cơ của polyme blend PA/PE [36].
Polyme blend Đường kính pha Độ bền kéo đứt Độ dãn dài
phân tán (μm) (N/mm2) khi đứt (%)
PA/PE 21 9,1 7
Các nhóm chức có khả năng hoạt động hoá học như MA hay
nhóm isoxyanat ghép vào PE đã thay đổi hình thái cấu trúc và tăng
cường tính chất của polyme blend PA/PE một cách rõ rệt [37-40].
R. Gadekar và cộng sự đã nghiên cứu tính chất cơ của polyme blend
PA/PE có mặt của copolyme 3 khối là etylen, este acrylic và MA
(tên thương mại là Lotader). Khi sử dụng 9% Lotader, độ bền kéo
đứt của polyme blend PA/PE (70/30) tăng từ 28 lên 40 MPa, độ
dãn dài khi đứt tăng từ 185 lên 264%. Copolyme 3 khối tăng
cường tính chất cơ của polyme blend PA/PE là do tương hợp
phản ứng với sự tham gia của MA trong Lotader và nhóm amin
cuối mạch của PA [37-39]. Nhờ phản ứng giữa nhóm isoxyanat
ghép vào PE với nhóm amin cuối mạch của PA tạo thành
copolyme khối PA-b-PE tại chỗ mà PA và PE phân tán vào nhau
tốt hơn (kích thước pha phân tán giảm so với polyme blend
PA/PE, ranh giới phân pha không rõ rệt). Polyme blend PA/PE
trở thành tương hợp một phần nhờ PE-g-MA [40].
Hình IV.8 trình bày ảnh hưởng của hàm lượng chất tương hợp
PP-g-MA tới hàm lượng PA được trích ly bằng axit formic khỏi
polyme blend PP/PA ở các tỷ lệ khác nhau.
Thái Hoàng
196
Hình IV.8. Ảnh hưởng của hàm lượng PP-g-MA tới hàm
lượng PA được trích ly khỏi polyme blend PP/PA
Lượng PA được trích ly (%) ở các tỷ lệ khác nhau.
hỗn hợp 2 polyme được trộn cơ học thuần tuý ở nhiệt độ cao, không
có các tương tác vật lý hay hoá học nào.
CH2
O
- CH2- C CH C HN -......[NHCO]......-...
CH3 CH2 C OH
O
- OH2
CH2
O
- CH2- C CH C
N -......[NHCO]......-...
CH3 CH2 C
O
PP-g-PF với nhóm amit trong PA. Đặc biệt là phản ứng giữa nhóm
amin bậc nhất cuối mạch của PA với nhóm hydroxyl của PF tạo
thành PP-b-PA [53]. Nhóm epoxy ghép vào mạch PP có khả năng
phản ứng cao với nhóm amin bậc nhất cuối mạch của PA, góp phần
tăng cường tương hợp PP và PA. Khi sử dụng PP-g-glyxidyl
metacrylat (PP-g-GMA) cho polyme blend PP/PA ở trạng thái nóng
chảy, PP-g-GMA tăng năng lượng bám dính 2 pha PP và PA [54].
EVA được chức hoá bằng cách ghép vào nhóm mecapto là chất
tương hợp phản ứng có hiệu quả cho các polyme blend NBR/EVA
và SBR/EVA. Nó có tác dụng giảm kích thước pha phân tán và làm
cho pha này phân tán đồng đều hơn trong pha liên tục. Nhóm
mecapto trong EVA phản ứng với liên kết đôi trong NBR và SBR
tạo thành các copolyme EVA-b-NBR và EVA-b-SBR. Điều này
được xác nhận bởi các số liệu phân tích phổ hồng ngoại và cơ học
động. Nhờ tương hợp phản ứng, tính chất cơ của polyme blend
NBR/EVA tăng lên rõ rệt và sự tăng độ bền kéo đứt lớn nhất tương
ứng với hình thái cấu trúc pha đồng liên tục [55-57]. Các chất tương
hợp như NBR ghép nhóm oxazolin và EVA thuỷ phân một phần đã
tăng cường tương hợp phản ứng cho polyme blend NBR/EVA rất rõ
rệt. Phần không tan của polyme blend NBR/EVA tăng lên đã xác
nhận phản ứng giữa các nhóm đồng phản ứng (oxazolin và
hydroxyl) trong quá trình blend hoá NBR và EVA [57]. Khi đưa
SAN-NH2 và EPR-g-MA vào polyme blend SAN/EPR (50/50),
kích thước hạt trung bình số giảm từ 5mm xuống còn 15μm. Nhờ
phản ứng giữa nhóm amin bậc nhất cuối mạch của SAN-NH2 với
phần MA trong EPR-g-MA tạo thành copolyme SAN- EPR mà
SAN và EPR có khả năng tương hợp phản ứng [58].
S. N. Cassu và cộng sự đã nghiên cứu mô men xoắn của
polyme blend PS/PU có poly(styren-co-anhydrit maleic) (SMA)
chứa 7% MA. Nhóm MA trong SMA đã phản ứng với các nhóm
hoạt động của PU tạo thành copolyme ghép ở bề mặt ranh giới pha
trong quá trình trộn nóng chảy các polyme. Mô men xoắn của
polyme blend 3 thành phần PS/PU/SMA tăng lên ở tất cả các tỷ lệ
PS/PU đã xác nhận sự tồn tại phản ứng trên [59]. SMA là chất
tương hợp phản ứng có hiệu quả cho polyme blend PS/PU.
Trong quá trình blend hoá PA 6 và ABS ở trạng thái nóng chảy,
nhóm MA của copolyme styren-acrylonitril-MA phản ứng với
nhóm amin bậc nhất cuối mạch của PA 6 tạo thành copolyme ghép
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 199
SAN-g-PA 6 ở bề mặt ranh giới 2 pha polyme. Liên kết giữa SAN
và PA là liên kết imit bền. Nhờ copolyme ghép SAN-g-PA mà PA 6
và ABS tương hợp với nhau (tương hợp phản ứng) [5]. Mô men
xoắn của polyme blend PA/cao su etylen-propylen-dien ghép
copolyme styren-acrylonitril (PA/AES) tăng theo hàm lượng của
copolyme MMA-g-MA. Điều này liên quan tới sự hình thành
copolyme khối hoặc copolyme ghép PA-MMA do phản ứng giữa
nhóm amin cuối mạch của PA với nhóm MA trong MMA-g-MA
khi trộn nóng chảy ở 220oC trên thiết bị đùn một trục vít xoắn.
Copolyme PA-MMA tạo thành tại chỗ đã tăng khả năng tương hợp,
bám dính giữa PA và AES, ổn định hình thái pha, chống lại sự kết
tụ của pha phân tán [60].
Như vậy, sử dụng các polyme và copolyme có khả năng phản
ứng là phương pháp rất quan trọng để nâng cao khả năng tương hợp
của các polyme, mở ra khả năng ứng dụng thực tế lớn của polyme
blend trong các lĩnh vực của kỹ thuật và đời sống.
Các hợp chất thấp phân tử và dạng copolyme tạo thành trong
quá trình phản ứng
Dưới đây là một số hợp chất thấp phân tử tiêu biểu nhất:
Các peoxit
Trong quá trình trộn polyme blend PE/PP với peoxit ở trạng
thái nóng chảy, gốc tự do của peoxit sẽ hoạt hoá cả PE và PP bằng
cách tác dụng với nguyên tử hydro gắn với nguyên tử cacbon bậc 3
hoặc bậc 2 của PE và PP. Bước tiếp theo, các gốc lớn của PE và PP
kết hợp với nhau tạo thành copolyme PE-PP. Copolyme này đóng
vai trò như một chất tương hợp polyme blend PE/PP. Peoxit ở bề
mặt ranh giới 2 pha là điều kiện tốt để thu được copolyme PE-PP
với hiệu suất cao nhất và có các tính chất tốt. Mặt khác, sự khâu
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 201
Bảng IV.6. Các số liệu phân tích nhiệt khối lượng của PE, EVA,
polyme blend PE/EVA có và không có DCP [62].
Bảng IV.7. Trình bày sự phụ thuộc tính chất cơ lý của polyme
blend PVC/EVA (10/90) vào hàm lượng DCP (tính theo tổng lượng
2 polyme). DCP có tác dụng tăng cường độ bền kéo đứt của polyme
blend PVC/EVA. Với hàm lượng DCP 1%, độ bền kéo đứt của
polyme blend PVC/EVA đạt giá trị lớn nhất (tăng 37% so với mẫu
không có DCP). Copolyme ghép PVC-g-EVA có tác dụng tăng khả
Thái Hoàng
202
năng trộn lẫn và bám dính 2 pha PVC và EVA, do đó, cải thiện độ
bền kéo đứt của polyme blend PVC/EVA.
một chất tương hợp copolyme khối. Anhydrit maleic (MA) là hợp
chất 2 chức tăng cường tương hợp polyme blend PPO/PA. MA phản
ứng với nhóm phenol cuối mạch của PPO (tạo thành este do phản
ứng của nhóm hydroxyl với MA) và MA phản ứng với nhóm amin
cuối mạch của PA (tạo thành imit). Copolyme khối PPO-b-PA được
hình thành ở bề mặt ranh giới 2 pha polyme PPO và PA và đóng vai
trò của chất tương hợp polyme blend PPO/PA. Tiến hành đùn
polyme blend PPO/PA (50/50) có 0,5 pkl MA ở 290oC, độ bền va
đập (thả rơi) của polyme blend PPO/PA tăng từ 25 J (ban đầu) lên
45-61 J [5]. Khi thay thế MA bằng axit xitric, trong quá trình đùn
polyme blend PPO/PA ở 300oC xảy ra phản ứng hydrat hoá các
nhóm OH hoạt động ở vị trí β của axit xitric, sau đó các phần α, β -
axit dicacboxylic bị chuyển hoá thành vòng anhydrit. Đưa 0,25 pkl
axit xitric vào polyme blend PPO/PA6.6/SEBS (49/41/10), độ dãn
dài khi đứt của polyme blend PPO/PA6.6/SEBS tăng từ 8% lên 33%
và độ bền va đập (khía) tăng từ 4kJ/m2 lên 13kJ/m2 [5].
Phản ứng hydrat hoá các nhóm OH hoạt động ở vị trí β của
axit xitric và sự tạo thành vòng anhydrit [5]
Khi sử dụng 2% copolyme etylen-axit acrylic (EAA) và một
lượng nhỏ 2,2’-(1,3-phenylene)-bis-(2-oxazolin) (PBO) cho polyme
blend PA/LDPE (80/20), mô men xoắn của polyme blend PA/LDPE
Thái Hoàng
204
ở 240oC tăng lên rõ rệt. Điều này có thể giải thích bởi phản ứng của
vòng oxazolin thứ nhất trong PBO với nhóm amin cuối mạch của
PA và phản ứng của vòng oxazolin thứ hai trong PBO với nhóm
cacboxyl của EAA ở nhiệt độ cao tạo thành copolyme PA-b-EAA ở
bề mặt ranh giới 2 pha polyme. Các polyme PA và LDPE tương hợp
và bám dính tốt hơn nhờ tương hợp phản ứng do tạo thành
copolyme PA-b-EAA [66].
Bảng IV.8. Một số phản ứng chuyển vị giữa các polyme [5].
PEs + PEs
Rượu phân
P1-O-CO-P2 + HO-P3 ↔ P1-OH + P3-O-CO-P2
Axit phân
P1-O-CO-P2 + HOOC-P3 ↔ P1-O-CO-P3 + HOOC-P2
Chuyển vị este hoá
P1-O-CO-P2 + P3-CO-O-P4 ↔ P1-O-CO-P3 + P3-CO-O-P4
PA + PA
Amin hoá
P1-NH-CO-P2 + H2N-P3 ↔ P1-NH2 + P3-NH-CO-P2
Thái Hoàng
206
Axit phân
P1-NH-CO-P2 + HOOC-P3 ↔ P1-NH-CO-P3 + HOOC-P2
Chuyển vị amit hoá
P1-NH-CO-P2 + P3-CO-NH-P4 ↔ P1-NH-CO-P3 + P2-CO-NH-P4
PEs + PA
Amin hoá
P1-O-CO-P2 + H2N-P3 ↔ P1-OH + P3-NH-CO-P2
Axit phân
P1-O-CO-P2 + HOOC-P3 ↔ P1-O-CO-P3 + HOOC-P2
Rượu phân
P1-NH-CO-P2 + HO-P3 ↔ P1- NH2 + P3-O-CO-P2
Axit phân
P1-NH-CO-P2 + HOOC-P3 ↔ P1-NH-CO-P3 + HOOC-P2
Chuyển vị este-amit
P1-NH-CO-P2 + P3-CO-O-P4 ↔ P1-NH-CO-P3 + P2-CO-O-P4
Khi trộn nóng chảy PC và EVA ở nhiệt độ cao có mặt xúc tác
dibutyl oxit thiếc, phản ứng chuyển vị este hoá tạo thành copolyme
PC-EVA tại chỗ đã tăng cường khả năng tương hợp và bám dính 2
polyme. Kết quả là mô men xoắn “cân bằng” (equilibrium torque)
của polyme blend PC/EVA có xúc tác dibutyl oxit thiếc lớn hơn so
với polyme blend PC/EVA không có xúc tác dibutyl oxit thiếc [68].
stannoxan. Trên phổ hồng ngoại của polyme blend c-PBT/PVB với
c-PBT chiếm tỷ lệ lớn hơn, pic hấp thụ đặc trưng cho dao động hoá
trị nhóm OH (ở 3610cm-1) của PVB giảm khi tăng tỷ lệ c-PBT trong
quá trình blend hoá 2 polyme này. Sự giảm pic hấp thụ đặc trưng
cho dao động hoá trị nhóm OH của PVB có thể do phản ứng ghép c-
PBT vào PVB qua nhóm OH (chuyển vị este) tạo thành copolyme
c-PBT-g-PVB [69]. Nhờ có copolyme c-PBT-g- PVB tạo thành tại
chỗ mà các polyme c-PBT và PVB tương hợp một phần.
IV.5. Đưa vào hệ các chất khâu mạch chọn lọc và lưu
hoá động
Sự tương hợp các polyme do đưa vào các chất thấp phân tử như đã
trình bày ở phần trên đòi hỏi cả 2 polyme thành phần tham gia vào
các phản ứng hoá học. Các copolyme nhánh; copolyme khối và
copolyme ghép được tạo thành ảnh hưởng tới hình thái cấu trúc của
polyme blend, giảm kích thước pha phân tán nhờ giảm ứng suất bề
mặt ranh giới giữa 2 pha. Khác với tương hợp polyme blend do đưa
vào các hợp chất thấp phân tử, trong quá trình tương hợp polyme
blend do khâu mạch, chỉ có một polyme thành phần tham gia phản
ứng. Trong polyme blend cao su/nhựa nhiệt dẻo, khi cao su bị khâu
mạch hoàn toàn, tính chất của nhựa nhiệt dẻo không được bảo toàn,
người ta không thể gia công polyme blend này được nữa. Để khắc
phục các nhược điểm trên, người ta thường lưu hoá cao su một cách
có chọn lọc (lưu hoá cao su không hoàn toàn) trong hỗn hợp với
nhựa nhiệt dẻo dưới tác động của nhiệt độ cao và trộn cơ học (trên
các máy cán, máy đùn, máy ép...) và quá trình này được gọi là lưu
hoá động [5]. Như vậy, lưu hoá động là khâu mạch có chọn lọc pha
phân tán, ngăn ngừa nó khỏi kết tụ lại với nhau. Lưu hoá động
thường được ứng dụng cho các polyme blend từ cao su (thường
dùng với tỷ lệ lớn hơn) với một nhựa nhiệt dẻo bán kết tinh như PE,
PP... Trước khi lưu hoá động, do sử dụng dư cao su trộn với nhựa
nhiệt dẻo nên trong polyme blend có sự phân tán của nhựa nhiệt dẻo
trong pha cao su liên tục. Sau khi lưu hoá động một phần cao su,
các hạt cao su khâu mạch được trộn và phân tán trong nhựa nhiệt
dẻo nóng chảy. Các lớp nhựa nhiệt dẻo mỏng giữa các phần cao su
khâu mạch có tác dụng như chất kết dính cao su lại với nhau. Pha
cao su trở thành pha phân tán trong pha liên tục là nhựa nhiệt dẻo.
Đó là kết quả của quá trình lưu hoá động ngược pha (hình IV.9).
Thái Hoàng
210
là
Hình IV.9. Mô tả cấu trúc của polyme blend cao su/nhựa nhiệt
dẻo trước và sau lưu hoá động [5].
Quá trình lưu hoá động ảnh hưởng tới động học phát triển hình
thái học của polyme blend. Có thể tiến hành lưu hoá động có chọn
lọc cao su trong quá trình trộn nóng chảy với nhựa nhiệt dẻo hoặc
lưu hoá động một phần cao su trước khi trộn nóng chảy với nhựa
nhiệt dẻo [3, 5, 71]. Nói chung, lưu hoá động các polyme không
tương hợp, hình thái pha của polyme blend rất thô.
Đưa vào polyme blend một hoặc một số chất khâu mạch, độ
nhớt của pha cao su tăng. Khi mức độ khâu mạch pha cao su lớn sẽ
hạn chế sự tạo thành kích thước các hạt nhỏ hơn, giảm diện tích bề
mặt do tạo thành các khối lớn và sự kết tụ các hạt cao su phân tán
với nhau. Vì thế, sự phân tán các pha trong polyme blend nhựa nhiệt
dẻo/cao su lưu hoá động không đồng đều. Khi khâu mạch có chọn
lọc pha cao su trong cao su nhựa nhiệt dẻo, yêu cầu kích thước hạt
pha cao su phải nhỏ, khoảng 1 - 2μm [5].
Polyme blend nhựa nhiệt dẻo/cao su lưu hoá động kết hợp được
các tính chất của cả nhựa nhiệt dẻo và cao su, thường tốt hơn cao su
khâu mạch bằng lưu hoá tĩnh. Đặc biệt, nó được gia công trên các
thiết bị gia công nhựa nhiệt dẻo như máy cán, máy đùn trục vít
xoắn, máy ép phun... Polyme blend như vậy được gọi là cao su nhiệt
dẻo (thermoplastic vulcanizate, TPV) hay chất đàn hồi nhiệt dẻo
(thermoplastic elastomer, TPE), giống như kết hợp copolyme khối
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 211
Bảng IV.10. Ảnh hưởng của các chất khâu mạch tới tính chất cơ
của polyme blend PP/EPDM lưu hoá động [3].
Theo M. Hernandez và cộng sự, trong quá trình lưu hoá động
polyme blend CSTN/PP, sự khâu mạch pha CSTN làm tăng độ nhớt
của polyme blend CSTN/PP. Lưu hoá động đã tăng cường các tính
chất của polyme blend CSTN/PE so với polyme blend CSTN/PP
không lưu hoá [74]. Nhờ lưu hoá động, khả năng tương hợp và bám
dính giữa CSTN và PP được cải thiện đáng kể.
So sánh lưu hoá động các polyme blend CSTN/HDPE và
polyme blend CSTN/HDPE biến tính bằng nhựa phenolic với các
chất khâu mạch là lưu huỳnh, peoxit có và không có chất tương
hợp trên cơ sở HDPE biến tính, có thể thấy polyme blend
CSTN/HDPE biến tính có chất tương hợp có độ bền kéo đứt và độ
dãn dài khi đứt lớn hơn polyme blend CSTN/HDPE không biến
tính và không có chất tương hợp. Polyme blend CSTN/HDPE biến
tính bằng nhựa phenolic có chất tương hợp có độ bền xé và độ bền
kéo đứt lớn nhất, sau đó đến các polyme blend khâu mạch bằng
peoxit và lưu huỳnh [75]. Halimatuddahliana và cộng sự đã khảo
sát ảnh hưởng của lưu hoá động bởi DCP và N,N-m-phenylen
bismaleimit (HVA-2) tới cấu trúc và tính chất của polyme blend
PP/EPDM/CSTN. Lưu hoá động bởi DCP tăng độ bền kéo đứt và
mô đun đàn hồi (ứng suất kéo khi dãn tới 100%) của polyme blend
PP/EPDM/CSTN so với mẫu không lưu hoá động. Phối hợp DCP
và HVA-2 trong một hệ chất chất khâu mạch cho lưu hoá động
polyme blend PP/EPDM/CSTN, vật liệu thu được có độ bền kéo
đứt và độ dãn dài khi đứt lớn lớn hơn hẳn so với lưu hoá động chỉ
sử dụng DCP. DCP và HVA-2 có vai trò tăng cường hiệu quả
tương hợp các polyme khi lưu hoá động do tạo thành các
copolyme khối và copolyme ghép [76, 77].
Trong quá trình lưu hoá động các polyme blend PVC/NBR và
PVC tái sinh/NBR, các hợp chất thấp phân tử như axit acrylic
(AA) và glyxidyl metacrylat (GMA) đã ảnh hưởng tới các tính
chất của các polyme blend. Trong thành phần của PVC có 20%
chất hóa dẻo dioctylphatalat (DOP), 3% chất ổn định stearat
catmi/bari (1/1). Hệ chất khâu mạch cho cao su NBR bao gồm các
chất xúc tiến TMTD, dibenzothiazyl disulfit, các chất hoạt hoá lưu
hoá là oxit kẽm và axit stearic. AA hoặc GMA tăng mô men xoắn
ổn định, ứng suất kéo ở 100%, độ bền dung môi và độ bền nhiệt
của polyme blend. Bảng IV.11 trình bày một số đặc trưng nhiệt
khối lượng của polyme blend PVC tái sinh/NBR/AA trước và sau
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 213
khi lưu hoá động. Sự phân tán tốt của cao su NBR khâu mạch vào
pha liên tục PVC và sự tương hợp một phần giữa PVC tái sinh với
NBR là nguyên nhân cải thiện tính chất của polyme blend lưu hoá
động từ PVC tái sinh với NBR có mặt AA [78-80].
Bảng IV.11. Nhiệt độ bắt đầu phân huỷ (Tb), nhiệt độ kết thúc
phân huỷ (Tk) và tổn hao khối lượng tổng của polyme blend
PVC tái sinh/NBR/AA trước và sau khi lưu hoá động [79].
blend HDPE/EVA, cả mô đun tích luỹ dẻo và mô đun tổn hao của
polyme blend PA/NBR đều tăng. Điều này cho thấy sự tương tác,
bám dính và trộn lẫn tốt giữa 2 pha PA và NBR do lưu hoá động
[81]. Khi lưu hoá động polyme blend PA/NBR có CPE ở các tỷ lệ
khác nhau, độ nhớt chảy tương đối của polyme blend PA/NBR tăng,
kích thước pha phân tán giảm khi tăng hàm lượng CPE tới một giá
trị tới hạn, ở đó bề mặt ranh giới pha bão hoà CPE [82].
Với polyme blend PP/NBR lưu hoá động bằng rezol, có thể thu
được cao su nhiệt dẻo chịu dầu. G. Naderi và cộng sự đã biến tính
PP bằng nhựa dimetylol-phenolic sau đó lưu hoá động polyme
blend PP biến tính nhựa phenol/NBR trên thiết bị trộn nội ở trạng
thái nóng chảy. Mô men xoắn của polyme blend PP biến tính nhựa
phenol/NBR tăng theo hàm lượng nhựa phenol (do phản ứng giữa
liên kết đôi của NBR với nhóm metylen gắn với vòng cromanình
lưu hoá động. Copolyme ghép PP-g-NBR tạo thành tại chỗ giảm
ứng suất bề mặt và tăng độ bám dính 2 pha polyme. Độ dãn dài khi
đứt của polyme blend PP/NBR tăng theo hàm lượng NBR. Độ bền
dung môi và độ bền dầu của polyme blend PP biến tính nhựa
phenol/NBR lớn hơn so với polyme blend PP/NBR không lưu hoá
động [83].
C. Martin và cộng sự đã tiến hành lưu hoá động các polyme
blend PBT/copolyme etylen-metyl acrylat và PBT/cao su có nhóm
epoxy như etylen-metyl acrylat-glyxidyl metacrylat. Quá trình khâu
mạch pha cao su khi lưu hoá động đóng vai trò quan trọng trong
việc chuyển hoá thành phần các pha polyme. Trong polyme blend
có hàm lượng PBT nhỏ, có tới 60% cao su phân bố đồng thể trong
pha nền PBT. Phản ứng giữa các mạch PBT và nhóm epoxy của
terpolyme etylen-metyl acrylat-glyxidyl metacrylat tạo thành chất
tương hợp là copolyme PBT-g-etylen-metyl acrylat-glyxidyl
metacrylat và lưu hoá động pha cao su có mặt đồng thời các nhóm
OH và epoxy trên các mạch cao su etylen-metyl acrylat-glyxidyl
metacrylat làm cho PBT và cao su etylen-metyl acrylat-glyxidyl
metacrylat tương hợp một phần [84].
Ngoài khâu mạch các polyme và cao su trong polyme blend
bằng hệ lưu hoá, các peoxit hay alkyl phenol, có thể khâu mạch các
polyme và cao su bằng bức xạ, ví dụ bức xạ gamma. Nhờ quá trình
này mà khả năng tương hợp, các tính chất cơ lý, tính chất nhiệt, độ
bền hoá chất và dung môi của polyme blend tăng lên.
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 215
IV.6.1. Ảnh hưởng của tương tác đặc biệt tới sự tương hợp
của các polyme
Các tương tác đặc biệt (tương tác riêng) được đưa vào polyme blend
bằng cách biến tính hoá học các polyme thành phần với các chất có
nhóm chức thích hợp. Các tương tác đặc biệt giữa các polyme sẽ
thay đổi entanpy trộn lẫn 2 polyme, giảm ứng suất bề mặt và tăng
diện tích bề mặt tương tác pha. Khi năng lượng tương tác pha quá
lớn, ứng suất bề mặt có thể giảm tới điểm ở đó sự trộn lẫn ở mức độ
phân tử có thể quan sát được. Năng lượng tương tác giữa các mắt
xích polyme tăng theo thứ tự sau: tương tác Van der Waals < tương
tác lưỡng cực (dipol - dipol) < sự hình thành hỗn hợp cho - nhận
điện tử ≈ liên kết hydro ≈ tương tác ion - dipol < tương tác ion - ion
[5]. Hiệu quả của các dạng tương tác đặc biệt (không tạo thành liên
kết mới) đối với polyme blend sẽ được trình bày cụ thể như một số
trường hợp dưới đây:
nguyên tử hydro của copolyme với bất kỳ nhóm nào mang điện tích
dương của polyme thứ hai ở trên [5]:
- [ - CH2 - CH - ] [ - CH2 - CH - ]-
n m
F3C-C-CF3
OH
PS biến tính trộn lẫn và tương hợp hoàn toàn với polyme có
hàm lượng hydroxyl cao (do polyme blend chỉ có 1 Tg và màng
polyme blend trong suốt). PS biến tính có thể trộn lẫn hoặc tương
hợp một phần với polyme có hàm lượng hydroxyl thấp hơn.
Trong polyme blend PE/PA sử dụng chất tương hợp PE-g-AA,
bên cạnh phản ứng giữa nhóm cacboxyl của AA với nhóm amin
cuối mạch của PA, còn có liên kết hydro giữa nhóm cacboxyl của
AA trong PE-g-AA và nhóm amit của PA [32-35]. Do đó PA và PE
tương hợp một phần:
PE
PA
O ....... H - N
C
C
OH ......O
PA
PE
Đưa polyetylen-g-acrylamit (PE-g-AAm) vào polyme blend
PE/PA (30/70), hàm lượng PE trích ly khỏi polyme blend PE/PA
bằng dung môi xylen giảm rõ rệt và giá trị này lớn nhất khi hàm
lượng PE-g-AAm là 11%. Hàm lượng PE trích ly khỏi polyme
blend PE/PA không có và có 11% PE-g-AAm lần lượt là 25 và
10,8%. Một trong những nguyên nhân tăng khả năng tương hợp và
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 217
bám dính PE với PA là liên kết hydro giữa nhóm amit của PA và
phần AAm trong PE-g-AAm [85].
PE
PA
O ....... H - N
C
......O C
HNH PA
PE
Khi nghiên cứu sự tương hợp của polyme blend PE/PA có
copolyme PE-g-PEO, A. Hallden và cộng sự nhận thấy các nguyên
tử oxy ete của PEO ghép vào PE đóng vai trò của chất nhận liên kết
hydro và tương tác với nguyên tử hydro N-H của nhóm amit trong
PA [36]:
R
PEO R C=O
C = O .... H- N
O .......H - N R
R
O
PEO
Ngoài các copolyme, người ta có thể sử dụng các polyme hoặc
các hợp chất cao phân tử có khả năng tạo liên kết hydro với một
hoặc cả 2 polyme để cải thiện khả năng tương hợp giữa các polyme.
S. W. Kuo và cộng sự đã đưa bisphenol A vào polyme blend
poly(caprolacton)/poly(L- axit lactic) (PLLA). Phổ hồng ngoại biến
đổi Fourier cho thấy liên kết hydro hình thành giữa nhóm hydroxyl
của bisphenol A và nhóm cacbonyl của poly(caprolacton) và PLLA.
Nhờ sử dụng hàm lượng bisphenol A (20-80%), polyme blend
poly(caprolacton)/PLLA từ không tương hợp (có 2 Tg) trở thành
polyme blend tương hợp hoàn toàn (chỉ có một Tg duy nhất) [86].
Mặc dù tồn tại liên kết hydro giữa poly(vinylphenol) (PVPh) và
poly(p-axetoxystyren) (PAS) nhưng PVPh và PAS vẫn không tương
Thái Hoàng
218
hợp (do có 2 Tg, xác định bằng DSC). Nguyên nhân chính là do liên
kết hydro giữa các đại phân tử PVPh quá mạnh, lớn hơn nhiều so
với liên kết hydro giữa PVPh và PAS. Khi đưa phần pha loãng
trơ như styren vào mạch PVPh tạo thành poly(styren-co-
vinylphenol), copolyme này có khả năng tương hợp với PAS.
Poly(styren-co-vinylphenol) chứa từ 16 đến 51% vinylphenol
tương hợp hoàn toàn với PAS. Copolyme đã giảm liên kết hydro
giữa các đại phân tử PVPh và tăng cường liên kết hydro giữa
PVPh và các đoạn PAS [87].
và 90/10) đạt giá trị lớn nhất khi hàm lượng LLDPE-g-MA là 1,5 và
2% [91, 92]. Có thể do tương tác dipol - dipol giữa nguyên tử oxy
ete trong PMMA và nhóm cacbonyl C=O của MA trong LLDPE-g-
MA cũng như giữa nhóm cacbonyl C=O trong PMMA với nguyên
tử oxy ete của MA trong LLDPE-g-MA mà PE tương hợp một phần
với PMMA. Tương tác này được xác nhận bởi sự chuyển dịch pic
hấp thụ đặc trưng nhóm cacbonyl C=O trong phổ hồng ngoại
(khoảng 8 - 9 cm-1 so với pic hấp thụ đặc trưng nhóm cacbonylC=O
ở PMMA và LLDPE-g-MA ban đầu (hình IV.10). Vì vậy, polyme
blend PE/PMMA trở thành tương hợp một phần khi đưa vào
LLDPE-g-MA [92].
Hình IV.10. Pic hấp thụ đặc trưng nhóm cacbonyl C=O của
polyme blend LLDPE-g-MA/PMMA xung quanh số sóng
1740cm-1 trong phổ hồng ngoại [92].
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 221
Hiện nay, có nhiều cặp polyme có cực có tương tác đặc biệt với
nhau. Trong bảng IV.12 là một số cặp polyme tương hợp nhờ có
tương tác đặc biệt [1].
Bảng IV.12. Một số cặp polyme có tương tác đặc biệt [1].
Ngoài các loại tương tác đặc biệt ở trên, còn có một các loại
tương tác đặc biệt khác giúp cho 2 polyme như PS và poly(2,6-
dimetyl-1,4-phenylen ete) tương hợp với nhau. Tương tác giữa vòng
phenyl của PS và vòng phenylen của poly(2,6-dimetyl-1,4-phenylen
ete) làm thay đổi cấu hình của poly(2,6-dimetyl-1,4-phenylen ete),
do đó 2 polyme có khả năng tương hợp với nhau [95].
CH3
C O
2+
O -(Zn )
1/2
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 223
Ionome này có khả năng trộn lẫn với PE và tương tác với các
nhóm phân cực của PA làm cho PE và PA dễ dàng tương hợp với
nhau. Ionome trên cơ sở PPO như PPO-SO3(Zn2+)1/2 đã được sử
dụng cho polyme blend 3 thành phần PS/PPO/EPDM-SO3(Zn2+)1/2.
Triphenyl photphat và stearat kẽm là các chất hoá dẻo và chất bôi
trơn cho polyme blend này. Với thành phần polyme blend bao gồm
52 phần khối lượng (pkl) PPO; 13pkl PPO-SO3 (Zn2+)1/2; 23,3pkl
PS; 11,7pkl EPDM-SO3 (Zn2+)1/2; 11,7 pkl stearat kẽm và 18,2pkl
triphenyl photphat, độ bền va đập của polyme blend 4 thành phần
là 50kJ/m2. Với mẫu không có PPO-SO3(Zn2+)1/2 và chứa 55pkl
PPO; 36,7pkl PS; 8,3pkl EPDM-SO3 (Zn2+)1/2 , độ bền va đập của
polyme blend 3 thành phần rất thấp, chỉ đạt 1kJ/m2, nhỏ hơn 50
lần so với polyme blend có ionome PPO-SO3(Zn2+)1/2. Có thể giải
thích khả năng tương hợp tốt của polyme blend 4 thành phần bởi
các lý do: PS dễ dàng trộn lẫn với PPO và PPO-SO3(Zn2+)1/2 có
tác dụng phân tán pha EPDM đồng đều và với kích thước nhỏ
hơn (0,2-1,5μm) [5].
Nghiên cứu hình thái cấu trúc và tính chất cơ của polyme blend
PS/polyme tinh thể lỏng hoàn toàn chứa vòng thơm (ALCP) có mặt
muối kẽm của ionome PS sulfonat hoá (4,5% mol), Y. Son và cộng
sự nhận thấy muối kẽm của ionome PS sulfonat hoá giảm kích
thước pha phân tán ALCP, tăng độ bền kéo đứt, độ dãn dài khi đứt
và độ bền uốn của polyme blend PS/ALCP (tỷ lệ 3/1). Nhờ muối
kẽm của ionome PS sulfonat hoá có khả năng trộn lẫn với PS và
tương tác tốt với ALCP mà khả năng tương hợp giữa PS và ALCP
được tăng cường [96].
A. R. Bhattacharyya và cộng sự đưa vào polyme blend
PA6/EVA một ionome trên cơ sở copolyme etylen-co-axit
metacrylic có một phần axit metacrylic được trung hoà bởi muối
natri (ionome-Na). Ionome này tăng độ bền cơ của polyme blend
PA6/EVA (bảng IV.13), đặc biệt là độ bền va đập của polyme blend
PA6/EVA/ionome-Na tăng gấp 3 lần so với polyme blend
PA6/EVA. Tính chất cơ của polyme blend PA6/EVA tăng lên là do
khả năng bám dính tốt của PA6 và EVA cũng như khả năng truyền
ứng suất từ pha này sang pha kia dễ dàng hơn khi có ionome-Na
[97]. Như vậy, ionome-Na là chất tương hợp có hiệu quả cho
polyme blend PA6/EVA.
Thái Hoàng
224
- H, - OH (hayNa)
...-CH2-CH2-CH2-C-C-[-NH-(CH2) - C -]-...
x n-1
Nãng ch¶y H3CO O
Ngoài ra, còn có tương tác mạnh giữa PET và ion Na [98]. M. J.
Abad và cộng sự đã nghiên cứu mô men xoắn của polyme blend
EVOH/ionome-Na. Ở tất cả các tỷ lệ polyme thành phần, logarit mô
men xoắn của polyme blend đều lệch dương so với giá trị mô men
xoắn tính theo lý thuyết. Như vậy EVOH và ionome-Na có khả năng
tương hợp một phần. Vì vậy, có thể sử dụng ionome-Na cho polyme
blend EVOH/PP. Ionome-Na dễ trộn lẫn với PP và tương tác tốt với
EVOH do tạo thành copolyme tại chỗ nhờ phản ứng este hoá giữa
nhóm cacboxyl trong ionome-Na với nhóm hydroxyl trong EVOH
(tương hợp phản ứng) [99].
C. S. Ha và cộng sự đã xác định độ bền nứt bề mặt (biểu hiện
bằng năng lượng nứt - fracture energy) của polyme blend PP/EPDM
(50/50) có và không có ionome-Na với 50% nhóm axit metacrylic
được trung hoà bởi muối natri [100]. Bảng IV.14 trình bày năng
lượng nứt bề mặt (Jc) của polyme blend PP/EPDM với hàm lượng
ionome-Na khác nhau. Năng lượng nứt bề mặt của polyme blend
PP/EPDM/ionome-Na lớn hơn polyme blend PP/EPDM. Rõ ràng là
ionome-Na tăng khả năng tương hợp của PP và EPDM, do đó tăng
độ dai của PP và polyme blend PP/EPDM [100].
Bảng IV.14. Năng lượng nứt bề mặt của PP, các polyme blend
PP/EPDM và PP/EPDM/ ionome-Na [100].
CH2-O-CO-(CH2)7-CH=CH-CH2-CH(OH)-(CH2)5-CH3
CH2-O-CO-(CH2)7-CH=CH-CH2-CH(OH)-(CH2)5-CH3
NCO
45 oC
H3C NCO (ISOPHORONDIISOXYANAT)
KhuÊy
CH3 CH3
CH2-O-CO-(CH2)7-CH=CH-CH2-CH(O)-(CH2)5-CH3
CO
CH-... O-CO-C(CH3)=CH2 (PU)
NH
CH2-...
H3C NCO
R
(CARDANYL METACRYLAT, CM)
CH3 CH3
BPO
ETYLENGLYCOL DIMETACRYLAT
75 oC
CH2-O-CO-(CH2)7-CH - CH-CH2-CH(O)-(CH2)5-CH3
CH2-...
R: -(CH2)7-CH=CH-CH2-CH=CH-CH2-CH=CH2
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 227
xen nhau để tạo ra một hệ bền vững. Các IPN được định nghĩa là
các polyme blend trong đó có ít nhất một trong các thành phần được
trùng hợp và khâu mạch trong sự có mặt của một polyme khác.
Trong trường hợp, chỉ một trong 2 polyme thành phần của hệ được
khâu mạch sẽ thu được bán IPN (semi-IPN). Cấu trúc hình thái học
của polyme blend chế tạo bằng phương pháp IPN phụ thuộc vào tỷ
lệ các polyme thành phần, độ nhớt của các pha polyme và tốc độ
khâu mạch polyme [101-103].
T. K. Das và cộng sự đã tổng hợp các IPN và bán IPN bằng
cách ngưng tụ PU của dầu tùng (dầu castor) và isophoron
diisoxyanat với cacdanyl acrylat/cacdanyl metacrylat khi sử dụng
etylenglycol dimetacrylat làm chất khâu mạch và benzoyl peoxit
làm chất khơi mào [102, 103]. Hàm lượng monome trong hỗn
hợp ảnh hưởng tới cấu trúc hình thái và hàm lượng kết tinh trong
các IPN.
IPN của PU (dầu tùng + isophoron diisoxyanat) với cacdanyl
metacrylat có etylenglycol dimetacrylat làm chất khâu mạch
Nói chung, các IPN và bán IPN có độ bền nhiệt khá cao. Các
bán IPN từ PU trên cơ sở diphenylmetan diisoxyanat có độ bền
nhiệt lớn hơn so với các bán IPN từ PU trên cơ sở hexametylen
diisoxyanat. Các bán IPN từ cacdanol axetylat hoá và cacdanol
photphorylat hoá có độ bền nhiệt tương đương [102, 103].
Phùng Hà và cộng sự đã khảo sát các IPN là các chất trương nở
trên cơ sở polyuretan (PU) khâu mạch bằng
polydimetylaminetylmetacrylat (PDMAEMA) hoặc poly axit
metacrylic (PMAA) [104-106]. Tương tự, Hoàng Dương Thanh và
cộng sự cũng đã nghiên cứu động học và tính chất trương nở của
copolyme hydroxyl etyl metylmetacrylamit và acrylamit [107].
Kết quả xác định Tg của hỗn hợp PU/PDMAEMA cho thấy, Tg
của 2 polyme có xu hướng xích lại gần nhau khi tăng hàm lượng
PDMAEMA. Điều này có thể giải thích bởi liên kết hydro giữa
nhóm NH uretan trong PU và các nhóm nhận proton trong
PDMAEMA như uretan cacbonyl, ete cacbonyl, amin bậc ba. Rõ
ràng 2 polyme có sự đan xen không hoàn toàn, nghĩa là chỉ hoà trộn
và tương hợp một phần do không phải tất cả các liên kết hydro đều
được tạo thành trong IPN (do một phần nhóm C=O trong 2 polyme
Thái Hoàng
228
không tham gia liên kết). Ngược lại, hỗn hợp các polyme PU và
PMAA chỉ có 1 Tg duy nhất. Điều này cho phép khẳng định PU và
PMAA tương hợp hoàn toàn và 2 polyme hoà trộn tốt với nhau.
Bằng phương pháp phổ hồng ngoại, J. Zhang và cộng sự đã
nghiên cứu sự hình thành liên kết hydro trong các IPN trên cơ sở
PMAA và poly(N-izopropyl acrylamit (PNIPAAm). Sự chuyển dịch
pic hấp thụ đặc trưng của các nhóm cacboxyl trong PMAA và amit
trong PNIPAAm cho thấy liên kết hydro giữa PMAA và PNIPAAm
làm cho 2 polyme tương hợp tốt với nhau [108].
Trong các bán IPN từ CSTN và PS, pha CSTN được khâu
mạch trong khi pha PS không được khâu mạch. Các chất khơi mào
trùng hợp PS là dicumyl peoxit, benzoyl peoxit và
azobisizobutyronitril. Các ảnh hiển vi điện tử quét cho thấy sự phân
tán đồng thể của 2 pha polyme. Với kỹ thuật chế tạo bán IPN này, 2
polyme trộn lẫn và tương hợp với nhau [109].
Khi trộn hợp 2 polyme mạch thẳng bằng kỹ thuật tạo các mạng
lưới polyme đan xen và móc vào nhau, người ta có thể thu được
polyme blend không có sự tách pha rõ rệt, sự trộn hợp và tương hợp
polyme tốt hơn so với trộn hợp cưỡng bức 2 polyme bằng phương
pháp cơ học thông thường. Các polyme được sử dụng nhiều trong
phương pháp này là PU, PS, PEA, PMMA.
Một trong những sản phẩm IPN thương mại được ứng dụng để
chế tạo các chi tiết ô tô là hỗn hợp polyme chứa PP và EPDM. Khi
các đoạn etylen của EPDM đủ dài để kết tinh, cả PP lẫn EPDM
được đan móc đồng thời bằng các vùng kết tinh của cả hai polyme
(crystalline domains) mà không cần phải khâu mạch chúng. Phương
pháp IPN được sử dụng ngày một rộng rãi để chế tạo polyme blend
có những tính chất đặc biệt. Nhược điểm của phương pháp này là
vật liệu thu được rất khó tái sinh [5].
IV.9. Các phương pháp khác tăng cường tương hợp các
polyme
lực xé, sự phân huỷ cơ học polyme có thể xảy ra. Nghĩa là, có sự
đứt mạch đại phân tử polyme tạo thành các gốc tự do ở cuối mạch
polyme. Các gốc polyme khác nhau có thể tái hợp hoặc cộng vào
các nối đôi của mạch polyme khác. Phân huỷ cơ học polyme có lợi
cho một vài polyme blend đặc biệt vì nó giúp cho các polyme tương
hợp được với nhau mà không cần đưa vào hệ bất kỳ một polyme
hoặc một hợp chất nào khác. Các gốc lớn của 2 polyme không trộn
lẫn có thể tái hợp - khâu mạch ở bề mặt ranh giới pha tạo thành các
copolyme khối hoặc copolyme ghép. Nhìn chung, sự tạo thành chất
tương hợp do phân huỷ cơ hoá polyme tương tự như thêm vào
polyme blend hợp chất peoxit.
Các chất đàn hồi (elastomer) như CNTN và một số cao su tổng
hợp rất dễ bị phân huỷ cơ hoá (đứt mạch, dẻo hoá). Vì thế, quá trình
này có thể tăng cường sự tương hợp cao su/cao su; cao su/nhựa
nhiệt dẻo, như CSTN hoặc PB với PS, NBR hoặc SBR với CSTN
hoặc PVC. Sự tương hợp tốt sẽ tăng độ dai cho polyme blend từ cao
su và nhựa nhiệt dẻo.
IV.9.2. Đưa vào các chất độn hoạt tính như là các chất
tương hợp
Trong phương pháp này, chất độn hoạt tính đóng vai trò của chất
tương hợp (cấu tử thứ ba) giữa 2 polyme. Điều kiện tiên quyết đối
với chất độn hoạt tính là nó phải nằm ở bề mặt phân ranh giới 2 pha
polyme. Sự định xứ của chất độn phụ thuộc vào cân bằng tương tác
giữa chất độn với mỗi polyme thành phần. Nghiên cứu vai trò của
cao lanh tới sự tương hợp của polyme blend PBMA/PMMA, người
ta thấy khi hàm lượng cao lanh đủ lớn (40%), polyme blend chứa
hơn 60% PMMA sẽ tương hợp tốt với PBMA [5]. Trong gia công
các sản phẩm cao su, than hoạt tính được sử dụng nhiều vì ngoài vai
trò của chất gia cường, tăng khả năng chịu mài mòn, hấp thụ tia tử
ngoại… nó còn đóng vai trò của chất tương hợp giữa cao su tổng
hợp (ví dụ cao su SBR, NBR…) với CSTN và giữa các loại cao su
tổng hợp [5].
Thái Hoàng
230
tạo các polyme blend có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu sử dụng
trong các lĩnh vực khác nhau của kỹ thuật và đời sống.
28. Nguyễn Phi Trung, Thái Hoàng, Vũ Minh Đức, Trần Thanh
Sơn, Chế tạo và nghiên cứu tính chất của vật liệu blend trên cơ
sở cao su thiên nhiên, polyvinyl clorua và butadiene-
acrylonitrile copolyme, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, No 5,
34-37 (1997).
29. N. A. Darwish, A. B. Shehata, A. A. El-Megeed, S. F. Halim,
A. Mounir, Compatibilization of SBR/NBR blends using
polyacrylonitril as compatibilizer, Polym.-Plast. Technol.
Eng., Vol. 44, 1297-1306 (2005).
30. Ngô Kế Thế, Đỗ Quang Kháng, Trần Vĩnh Diệu, Vai trò trợ
tương hợp của TH1 có khối lượng phân tử phù hợp với một số
hệ blend trên cơ sở cao su thiên nhiên, Tạp chí Hoá học, T. 45,
số 2, 207-212 (2007).
31. C. W. Macosko, H. K. Jeon, T. R. Hoye, Reactions at
polymer- polymer interfaces for blend compatibilization, Prog.
Polym. Sci., Vol.30, 939-947 (2005).
32. W. Qiu, K. Mai, K. Fang, Z. Li, H. Zeng, Morphology and
thermal behavior of PA1010/LLDPE blends using PE-g-AA as
a compatibilizer, Journal of Applied Polymer Science, Vol. 71,
847-853 (1999).
33. B. Jurkowski, K. Kelar, D.Ciesielska, Influence of chemical
and mechanical compatibilization on structure and properties
of polyethylene/polyamide blends, Journal of Applied Polymer
Science, Vol.69, 719-727 (1998).
34. Thái Hoàng, Đỗ Quang Thẩm, Nghiên cứu quá trình lưu biến,
tính chất cơ lý và cấu trúc của vật liệu polyme blend PE/PA có
mặt PE-g-axit acrylic, Tuyển tập báo cáo toàn văn Hội nghị
toàn quốc lần thứ bảy các đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản
trong lĩnh vực Hoá lý và Hoá lý thuyết, Hà Nội, ngày 8 tháng
2, 238-242 (2003).
35. J. Sheng, H. Ma, X. B. Yuan, X. Y. Yuan, N. X. Shen, D. C.
Bian, Relation of chain constitution with phase structure in
blend: Compatibility of two phases in blends of polyamide
with low-density polyethylene and its ionomers, Journal of
Applied Polymer Science, Vol.76, 488-494 (2000).
Thái Hoàng
236
63. Thái Hoàng, Đỗ Văn Công, Hoàng Văn Thắng, Nghiên cứu
khả năng chảy nhớt, độ bền oxy hoá nhiệt và cấu trúc của vật
liệu polyme blend PE/EVA, Tạp chí Hoá học, T. 44 (1), 25-29
(2006).
64. Thái Hoàng, Đỗ Quang Thẩm, Nghiên cứu khả năng chảy
nhớt, tính chất cơ lý và cấu trúc của vật liệu polyme blend
PVC/EVA, Tạp chí Hoá học, T. 44, No 3, 295-299 (2006).
65. X. M. Xie, Y. Y. Liu, B. H. Guo, J. Feng, T. Ishikawa, T.
Morinaga, Preparation of polypropylene/acrylonitrile-styrene
copolymer alloys by one-step reactive blending, Journal of
Applied Polymer Science, Vol.82, 1284-1290 (2001).
66. M. Avella, M. E. Errico, Preparation of PHBV/starch blends
by reactive blending and their characterization, Journal of
Applied Polymer Science, Vol.77, 232-236 (2000).
67. R. Scaffaro, F. P. L. Mantia, L.Canfora, G. Polacco, S. Pilippi,
P. Magagnini, Reactive compatibilization of PA6/LDPE
blends with an ethylene-acrylic acid copolymer and a low
molar mass bis-oxazoline, Polymer, Vol. 44, 6951-6957
(2003).
68. L. P. Tan, C. Y. Yue, K. C. Tam, Y. C. Lam, X. Hu, Effect of
compatibilization in injection-molded polycarbonate and liquid
crystalline polymer blend, Journal of Applied Polymer
Science, Vol.84, 568-575 (2002).
69. Y. Zhao, B. Yin, M. B. Yang, J. M. Feng, Rheological
properties of PC/EVA blend compatibilized with the
transesterification, Polym.-Plast. Technol. Eng., Vol. 46, 175-
182 (2007).
70. A. R. Tripathy, W. Chen, S. N. Kukureka, W. J. MacKnight,
Novel poly(butylene terephtalate)/poly(vinyl butyral) blends
parepared by in situ polymerization of cyclic poly(butylene
terephtalate) oligomers, Polymer, Vol. 44, 1835-1842 (2005).
71. T. T. Hsieh, C. Tiu, K. H. Hsieh, G. P. Simon, Blends
containing two thermotropic liquid crystalline polymers:
Effect of transesterification on miscibility and rheology,
Thái Hoàng
240
86. Thái Hoàng, Đỗ Quang Thẩm, Nghiên cứu tính chất và cấu
trúc của vật liệu polyme blend polyetylen/polyamit/polyetylen-
g-acrylamit, Tạp chí Hoá học, T. 43, No 4, 419-423 (2005).
87. S. W. Kuo, C. F. Huang, Y. C. Tung, F. C. Chang, Effect of
bisphenol A on the miscibility, phase morphology, and
specific interaction in immiscible biodegradable
poly(caprolactone)/poly(L-lactide) blends, Journal of Applied
Polymer Science, Vol.100, 1146-1161 (2006).
88. S. W. Kuo, F. C. Chang, Effect of inert diluent on the
miscibility behavior of poly(vinylphenol) with poly(p-
acetoxystyrene) blends, Journal of Applied Polymer Science,
Vol.40, 1661-1672 (2002).
89. R. Tannenbaum, M. Rajagopalan, A. Eisenberg, Fourier
transform infrared studies of ionic interaction in perfluorinated
acid polymer blends, Journal of Polymer Science: Part B:
Polymer Physic, Vol. 41 (15), 1814-1823 (2003).
90. H. A. Al-Salah, Polymer compatibility enhancement via ion-
ion and ion-dipole interactions: Ternary blends of
polyurethane, poly(vinylchloride) and poly(styrene-co-maleic
anhydride), Polymer Bulletin, Vol.40, 1436-2249 (2004).
91. C. S. Ha, M. G. Ko, W. J. Cho, Miscibility of nylon 46 and
ethylene-vinyl alcohol copolymer blends, Polymer, Vol.38 (5),
1243-1246 (1997).
92. Thái Hoàng, Nguyễn Vũ Giang, Vật liệu polyme blend
LLDPE-PMMA: tính chất chảy nhớt, khả năng gia công và
tính chất cơ lý, Tạp chí Hoá học, T. 39, số 4B, 53-58 (2001).
93. T. Hoang, N. V. Giang, Physico-mechanical properties,
thermo-oxidation resistance, specific interaction, and
morphology of the polymer blend based on polyethylene and
poly(methyl methacrylate) with and without polyethylene-g-
maleic anhydride, Polym.-Plast. Technol. Eng., Vol. 43 (1),
121-134 (2004).
94. N. Chanunpanich, A. Wongsuppaluk, Properties of polymer
blend between poly(methyl methacrylate) and terminated
amino low density polyethylene powder, http://
www.library.kmitnb.ac.th/projects/sci/IC/ic0165.html.
Chương IV. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TƯƠNG HỢP POLYME BLEND 243
95. Thai Hoang, Chang-Sik Ha, and Won-Jei Cho, Miscibility and
Properties of Blends of EPDM – Based Polymers, Vietnam-
Korea Symposium on Chemistry and Nanostructure Materials,
Halong, Vietnam, October 18-19, 32 (2003).
96. T. Nishioka, Y. Ren, N. Tsubahara, K.Nakashima, I. Noda, Y.
Ozaki, Two-dimensional infrared correlation spectroscopic
studies of polymer blends: conformational changes and
specific interactions in blends of atactic polystyrene (PS) and
poly(2,6-dimethyl-1,4-phenylene ether) (PPE), Analytical
Science, Vol. 17, i689-i692 (2001).
97. Y. Son, R. A. Weiss, Compatibilization of syndiotactic
polystyrene and a thermotropic liquid-crystalline polymer
blend with a zinc salt of a sulfonated polystyrene ionomer,
Journal of Applied Polymer Science, Vol.87, 564-568 (2002).
98. A. R. Bhattacharyya, A. K. Ghosh, A. Misra, Ionomer
compatibilised PA6/EVA blends: mechanical properties and
morphological characterisation, Polymer, Vol. 44, 1725-1732
(2003).
99. O. Hiroshi, Phase morphology and compatibilization
mechanism in ternary polymer blend systems of polyethylene
terephthalate, polyolefin rubber, and ionomer, Journal of
Applied Polymer Science, Vol.93, 1567-1576 (2004).
100. M. J. Abad, A. Ares, Use of a sodium ionomer as a
compatibilizer in polypropylene/high-barrier ethylene – vinyl
alcohol copolymer blends: the processability of the blends and
their physical properties, Journal of Applied Polymer Science,
Vol. 94, 1763-1770 (2004).
101. C. S. Ha, Y. Kim, W. J. Cho, Fracture mechanics investigation
on the PP/EPDM/ionomer ternary blends using J-integral by
locus method, Journal of Applied Polymer Science, Vol.51,
1381-1388 (1994).
102. R. R. Nayak, G. Ray, B. Guru, S. Lenka, Comparative studies
of interpenetrating polymer networks derived from soybean
oil-based polyurethane and cardanol m-amnophenol dye,
Polym.-Plast. Technol. Eng., Vol. 43 (1), 261-272 (2004).
Thái Hoàng
244
nghệ Hóa học Hữu cơ toàn quốc lần thứ tư, Hà Nội, 10-2007,
672 - 675 (2007).
111. J. Zhang, N. A. Peppas, Molecular interactions in
poly(methacrylic acid)/ poly(N-isopropyl acrylamide)
interprenetrating polymer networks, Journal of Applied
Polymer Science, Vol.82, 1077-1082 (2000).
112. A. P. Mathew, S. Packirisamy, S. Thomas, Morphology,
mechanical properties, and failure topography of semi-
interprenetrating polymer networks based on natural rubber
and polystyrene, Journal of Applied Polymer Science, Vol.78,
2327-2334 (2000).
113. T. Lian, P. Liu, H. Ren, Effect of electron beam irradiation on
compatibility of HDPE/PA6 blend, Polym.-Plast. Technol.
Eng., Vol. 43 (1), 31-40 (2004).
114. S. L. Abd-El-Messich, D. E. El-Nashar, M. G. Khafagi,
Compatibility investigation of microwave irradiated
acrylonitrile butadiene/ethylene propylene diene rubber blends,
Polym.-Plast. Technol. Eng., Vol. 43 (1), 135-158 (2004).
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG NGHỆ
Nhà A16, 18 đường Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại: Phòng Phát hành: 04.22149040;
Phòng Biên tập: 04.37917148;
Phòng Quản lý Tổng hợp: 04.22149041;
Fax: 04.37910147, Email:nxb@vap.ac.vn; www.vap.ac.vn
In 300 cuốn khổ 16 × 24cm tại: Nhà in Khoa học và Công nghệ. Số đăng
ký KHXB: 1030 - 2011/CXB/001 - 11/KHTN&CN cấp ngày 18 tháng 9 năm
2011. In xong và nộp lưu chiểu quý IV năm 2011.